TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM NĂM 2005 VỀ MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Sinh viên thực hiện : Ngô Thúy Hoài Lớp : Anh 15 - K45E - KTĐN Khóa : 45 Giáo viên hƣớng dẫn : GS.TS.NGND. Nguyễn Thị Mơ Hà Nội, tháng 5 năm 2010
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài:
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
NĂM 2005 VỀ MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Sinh viên thực hiện : Ngô Thúy Hoài
Lớp : Anh 15 - K45E - KTĐN
Khóa : 45
Giáo viên hƣớng dẫn : GS.TS.NGND. Nguyễn Thị Mơ
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
i
Mục lục
Lời mở đầu ............................................................................................................. 1
Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương mại và pháp
luật về hoạt động môi giới thương mại ................................................................. 4
1.1 Hoạt động môi giới thương mại ................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm về hoạt động môi giới thương mại ........................................... 4
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động MGTM .............................................................. 6
1.1.3 Phân biệt hoạt động MGTM và một số hoạt động trung gian thương mại
khác .................................................................................................................. 9
1.1.4 Vai trò của hoạt động môi giới thương mại ............................................ 13
1.2 Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại .............................................. 16
1.2.1 Sự cần thiết phải có pháp luật điểu chỉnh hoạt động môi giới thương mại
Tôi xin chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Nguyễn
Thị Mơ đã dành nhiều thời gian và công sức hướng dẫn tôi tỉ mỉ, tận tình
trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học
Ngoại thương đã tận tâm dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi học tập
tại đây.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè, những người đã luôn
ủng hộ và khích lệ, động viên tôi.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2010
Sinh viên
Ngô Thúy Hoài
1
Lời mở đầu
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hoạt động thương mại ở nước
ta ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Các giao dịch thương mại do
đó cũng được mở rộng, trở nên phức tạp; một giao dịch thương mại có thể
liên quan đến rất nhiều lĩnh vực. Khi đó, người mua, người bán muốn tiết
kiệm thời gian và công sức tìm kiếm đối tác giao dịch thường nhờ đến người
môi giới thương mại. Chính vì vậy, người môi giới thương mại có vai trò thúc
đẩy hoạt động thương mại diễn ra nhanh chóng.
Nhận thức được vai trò của người môi giới đối với sự phát triển của
thương mại, Luật thương mại năm 2005 đã đưa hoạt động môi giới vào đối
tượng điều chỉnh của Luật. Các luật chuyên ngành khác như Luật chứng
khoán năm 2006, Luật kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật hàng hải năm
2005… cũng quy định về hoạt động môi giới trong các lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên, các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại hiện nay vẫn
chưa có sự hiểu biết đầy đủ về những quy định của pháp luật đối với hoạt
động môi giới thương mại. Thêm vào đó, từ khi Luật thương mại 2005 ra đời
đến nay, hoạt động môi giới thương mại đã phát triển ngày càng đa dạng,
phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mới cần có sự xem xét để điều chỉnh. Vậy
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định như thế nào về môi giới
thương mại? Thực tiễn áp dụng Luật này trong bốn năm qua đã nảy sinh
những vấn đề gì? Những vấn đề gì cần được sửa đổi, bổ sung để các quy định
về môi giới thương mại sát với thực tiễn hơn, giúp hoạt động này ngày càng
phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước?
Xuất phát từ nhu cầu thiết yếu đó, tôi chọn vấn đề “Những quy định
của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về môi giới thương mại. Thực
tiễn áp dụng và những vấn đề đặt ra.” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm
2005 về môi giới thương mại, đồng thời phân tích việc áp dụng Luật trong
thực tế và chỉ ra những bất cập trong các quy định đó cũng như những vấn đề
phát sinh trong thực tiễn áp dụng; đề tài đề xuất giải pháp và kiến nghị về việc
sửa đổi, bổ sung để các quy định về môi giới thương mại của Luật này hoàn
thiện hơn, mang tính khả thi cao hơn, phù hợp với thực trạng hoạt động
thương mại hiện nay ở Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu trên, khóa luận này thực hiện các nhiệm vụ
sau:
Làm rõ những vấn đề cơ bản về môi giới thương mại như khái niệm,
đặc điểm, vai trò… của môi giới thương mại trong hoạt động thương mại;
Phân tích những quy định của Luật thương mại năm 2005 về môi giới
thương mại, tập trung chỉ ra những bất cập trong các quy định này của Luật;
Chỉ ra thực trạng áp dụng những quy định về môi giới thương mại của
Luật thương mại 2005 trong hoạt động môi giới chứng khoán và môi giới bất
động sản;
Làm rõ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi những quy định
về môi giới thương mại của Luật thương mại năm 2005;
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định về môi giới
thương mại trong Luật thương mại năm 2005 và giải pháp gỡ bỏ những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của Luật thương mại
Việt Nam 2005 về môi giới thương mại và những văn bản dưới luật có liên
quan. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này cũng bao gồm các vấn đề về môi
3
giới thương mại trong Luật thương mại năm 1997, Luật chứng khoán năm
2006 và Luật kinh doanh bất động sản năm 2006.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, khóa luận nghiên cứu những quy định của Luật thương
mại năm 2005 về môi giới thương mại. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu
những quy định có liên quan đến môi giới thương mại của Luật thương mại
1997.
Về mặt thời gian, khóa luận tập trung phân tích những vấn đề liên quan
đến hoạt động môi giới thương mại kể từ khi Luật thương mại năm 2005 ra
đời và dự báo về sự phát triển của hoạt động môi giới thương mại trong thời
gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, người viết đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa và phương pháp so sánh luật học.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung khóa luận bao gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương mại và
pháp luật về môi giới thương mại.
Chương 2. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về môi giới
thương mại, tình hình thực thi các quy định về hoạt động môi giới thương mại
và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động môi giới thương mại
nhằm phát triển hoạt động môi giới thương mại trong thời gian tới.
4
Chương 1. Những vấn đề chung về hoạt động môi giới thương
mại và pháp luật về hoạt động môi giới thương mại
1.1 Hoạt động môi giới thương mại
1.1.1 Khái niệm về hoạt động môi giới thương mại
“Môi giới” là “chủ thể (một cá nhân, một nhóm, một tổ chức, một
hãng…) làm trung gian cho hai hoặc nhiều chủ thể khác để những chủ thể này
có thể tạo được quan hệ trong giao tiếp, trong hoạt động kinh doanh”1. Cũng
có thể hiểu, “môi giới là người làm trung gian giúp hai bên tiếp xúc, trao đổi
việc gì đó”2.
Như vậy, có thể hiểu hoạt động môi giới là hoạt động kết nối người mua
và người bán, giúp người mua và người bán gặp nhau để họ tiến hành các
giao dịch nhằm thực hiện mục đích của mình.
Từ đó suy ra, môi giới thương mại (MGTM) là hoạt động trung gian
giúp các bên tiếp xúc với nhau nhằm thực hiện các hoạt động thương mại.
Theo Điều 45, Luật thương mại Việt Nam năm 1997, hoạt động MGTM
là một trong mười bốn hành vi thương mại (xem phụ lục 1). Hành vi thương
mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với
các bên có liên quan (khoản 1, Điều 5, Luật thương mại Việt Nam năm 1997).
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại
của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương
mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội (khoản 2, Điều 5, Luật thương
mại Việt Nam năm 1997).
1 Từ điển Tiếng Việt, truy cập ngày 08/03/2010, http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn . 2 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, tr1134, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
phẩm, dịch vụ của khách hàng ngày càng cao, kích thích các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau nhằm đổi mới, phát triển sản phẩm, dịch vụ của mình để
thu hút khách hàng.
Thứ ba, hoạt động môi giới thương mại góp phần cải thiện môi trường
kinh doanh, ổn định an ninh, trật tự xã hội.
Các loại hình hoạt động thương mại phát triển dẫn đến thị trường ngày
càng phức tạp, có sự tham gia của nhiều chủ thể; hàng hóa được mua bán,
cũng vô cùng phong phú, đa dạng. Thị trường lại chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố, bao gồm điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán, pháp
luật… Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn mới phát triển, thông tin và
các yếu tố cấu thành thị trường đều chưa hoàn hảo. Vì những lí do trên, các
thương nhân tham gia mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thường gặp khó
khăn trong việc tìm hiểu các thông tin như nguồn gốc, chất lượng, tình trạng
pháp lý… của hàng hóa, dịch vụ.
Thông qua các cá nhân và tổ chức môi giới chuyên nghiệp, các chủ thể
tham gia vào thị trường có cơ hội được cung cấp đầy đủ, chính xác các thông
tin về hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp ổn định đời sống xã hội, thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, hoạt động môi giới thương mại góp phần đẩy mạnh sự đổi mới
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của hoạt động môi giới thương mại hỗ trợ
đắc lực cho nhu cầu giao dịch ngày càng đa dạng và phức tạp của các chủ thể
trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu về quản lý hoạt động môi
giới. Thêm vào đó, thông qua các giao dịch môi giới trên thị trường, những
điểm không phù hợp với thực tế của các quy định pháp luật sẽ bộc lộ. Đây là
cơ sở để Nhà nước sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp thị
trường hoạt động hiệu quả và ổn định.
1.2 Pháp luật về hoạt động môi giới thương mại
17
1.2.1 Sự cần thiết phải có pháp luật điểu chỉnh hoạt động môi giới
thương mại
Thứ nhất, pháp luật về hoạt động MGTM ra đời sẽ hợp pháp hóa nghề
môi giới, giúp người dân có cái nhìn tích cực về hoạt động này.
Trên thế giới, người môi giới thương mại xuất hiện từ rất sớm. Trong
thời kỳ phong kiến, người môi giới đã xuất hiện trong mối quan hệ giữa vua
chúa và thương gia9. Bước sang thời kỳ xã hội tư bản, hoạt động môi giới
thương mại đã phát triển đạt đến trình độ cao. Họ thành lập nên các tổ chức
với những quy định chặt chẽ mà điển hình là các Sở giao dịch hàng hóa. Họ
xuất hiện trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, từ bất động sản, chứng khoán cho
đến bảo hiểm, logistics; thậm chí ở cả lĩnh vực hôn nhân, giáo dục và việc
làm… Theo thống kê của Liên minh quốc tế của những người đại lý và môi
giới thương mại (IUCAB), mỗi năm, các thành viên của tổ chức này (bao gồm
20 hiệp hội đại diện cho các đại lý thương mại độc lập và các nhà môi giới) đã
đóng góp cho nền kinh tế các nước Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ một khoản thu
nhập xấp xỉ 2,4 tỉ đô la Mỹ (tương đương 2,1 tỉ euro)10
.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ bao cấp, nghề môi giới bị coi là “phe phẩy”,
là bất hợp pháp và không được pháp luật thừa nhận. Cho đến năm 1997, với
sự ra đời của Luật thương mại năm 1997, hoạt động MGTM mới chính thức
được thừa nhận.
Thứ hai, pháp luật về hoạt động MGTM góp phần hạn chế những mặt
phi tích cực của hoạt động này.
Bất chấp những lợi ích to lớn mà hoạt động môi giới thương mại mang
lại cho nền kinh tế, phương thức kinh doanh qua người môi giới thương mại
cũng có những nhược điểm. Nhược điểm lớn nhất của phương thức này là bên
9 Phạm Duy Liên (2005), Sử dụng trung gian thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam – thực
trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr 3, Đại học Ngoại thương Hà Nội. 10 470,000 commercial agents in Europe, North and South America. Who are they?, truy cập ngày
17/03/2010, http://www.iucab.nl/nl/page3.asp (website của IUCAB).
Quyết định số 126/2008/QĐ-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của
“Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán” ban hành kèm theo
Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC.
Tuy nhiên, không có văn bản dưới luật nào được ban hành riêng để quy
định về hoạt động MGCK. Những quy định về MGTM trong lĩnh vực chứng
khoán xuất hiện lẻ tẻ trong các văn bản nêu trên.
2.2.2.2 Khái niệm về MGCK được quy định rõ ràng trong Luật đã tạo
điều kiện cho hoạt động MGCK phát triển
Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực
hiện việc mua, bán chứng khoán cho khách hàng (khoản 20, Điều 6, Luật
chứng khoán năm 2006). Như vậy, công ty chứng khoán (CTCK) là đối tượng
duy nhất được phép tiến hành hoạt động môi giới chứng khoán.
Luật chứng khoán năm 2006 và các văn bản dưới luật cũng đưa ra những
quy định về điều kiện để CTCK được kinh doanh nghiệp vụ MGCK (xem
Điều 59 và Điều 62 của Luật này). Đáng chú ý nhất là hai điểm sau:
Vốn pháp định đối với nghiệp vụ kinh doanh môi giới chứng khoán là
25 tỷ đồng Việt Nam (điểm a, khoản 1, Điều 18, Nghị định số 14/2007/NĐ-
CP);
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh MGCK phải có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán (điểm c, khoản
1, Điều 62, Luật chứng khoán năm 2006).
Chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán được cấp cho cá nhân đáp
ứng được 5 điều kiện sau đây (Điều 79, Luật chứng khoán năm 2006 và Điều
4, Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC):
Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc
trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Toà án cấm hành nghề
kinh doanh;
30
Chưa từng bị Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt theo pháp luật
chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc đã chấp hành xong quyết định
xử phạt sau 01 năm, trong trường hợp bị xử phạt;
Có trình độ đại học trở lên;
Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề chứng
khoán, phù hợp với loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán đề nghị cấp;
Có các chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán, bao gồm: Chứng chỉ
Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và Thị trường chứng khoán, Chứng chỉ
Pháp luật về chứng khoán và Thị trường chứng khoán, Chứng chỉ Phân tích
và Đầu tư chứng khoán, Chứng chỉ Môi giới chứng khoán và Tư vấn đầu tư
chứng khoán.
Người được cấp Chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán được hành
nghề môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán (khoản 1, Điều 17,
Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC).
Theo khoản 1, Điều 81 Luật chứng khoán năm 2006, người môi giới
chứng khoán không được:
Đồng thời làm việc cho tổ chức khác có quan hệ sở hữu với công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ nơi mình đang làm việc;
Đồng thời làm việc cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
khác;
Đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của một tổ chức chào
bán chứng khoán ra công chúng hoặc tổ chức niêm yết.
Luật cũng quy định rõ các hành vi bị cấm khác đối với người người hành
nghề MGCK (Điều 9, Luật chứng khoán năm 2006).
Trên đây là những quy định chung nhất của pháp luật đối với hoạt động
MGCK. Ngoài ra còn rất nhiều quy định chi tiết khác, bởi pháp luật về chứng
khoán khá phức tạp.
31
2.2.2.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động MGCK ngày càng được
chú trọng
Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán được quy định chi tiết
tại khoản 1, Điều 3, Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ban hành quy chế tổ
chức và hoạt động CTCK. Theo đó, CTCK cần có trụ sở thỏa mãn 4 điều kiện
sau để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán:
Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích
làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2;
Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm:
sàn giao dịch phục vụ khách hàng; thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng
các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin
điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo
quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng
từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán,
tự doanh chứng khoán;
Hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật;
Có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc.
Về cơ bản, cơ sở vật chất kỹ thuật của các công ty chứng khoán bao
gồm: sàn giao dịch, hệ thống mạng lưới hoạt động, hệ thống máy tính, hệ
thống thông tin. Cơ sở vật chất này cũng được sử dụng để phục vụ hoạt động
MGCK.
Cơ sở vật chất kỹ thuật càng được chú trọng đặc biệt kể từ khi các
CTCK tham gia vào cuộc đua cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán trực
tuyến. Theo yêu cầu của UBCKNN, để được triển khai phương thức giao dịch
trực tuyến, hệ thống máy tính của CTCK phải kết nối trực tiếp với hệ thống
của HNX hoặc HOSE và ngân hàng theo thời gian thực (điểm 5.2.5, Thông tư
số 50/2009/TT-BTC hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng
khoán). Để đáp ứng yêu cầu trên, các CTCK không còn cách nào khác ngoài
32
đầu tư cho hạ tầng CNTT, tìm kiếm các giải pháp quản lý và cung cấp dịch vụ
hiện đại nhằm nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ hoạt động MGCK.
2.2.2.4 Nguồn nhân lực cho hoạt động MGCK ngày càng được cải thiện
Tại thời điểm năm 2007, nhân lực môi giới chứng khoán bị đánh giá là
“đã thiếu lại còn yếu” (theo ông Bùi Nguyên Hoàn, Vụ trưởng – Trưởng đại
diện UBCKNN tại Tp. HCM)14
. Qua ba năm, chất lượng nguồn nhân lực môi
giới trong lĩnh vực chứng khoán ít nhiều đã được nâng cao, nhưng vẫn còn
nhiều điểm yếu.
Thứ nhất, nhân sự trong bộ phận môi giới chứng khoán thường xuyên
biến động, đòi hỏi các CTCK liên tục đăng tin tuyển dụng.
Theo ông Nguyễn Miên Tuấn, tổng giám đốc CTCK Rồng Việt, bộ phận
môi giới và dịch vụ chiếm đến 40% nhân sự công ty chứng khoán, cũng là bộ
phận dễ biến động nhất15
. Điều này được lí giải bởi hai nguyên nhân. Thứ
nhất, có nhiều lời mời hấp dẫn từ các CTCK khác nhau nên nhân viên môi
giới thường “nhảy việc” nhằm tìm kiếm chế độ đãi ngộ tốt hơn. Thứ hai, khi
thị trường sôi động, các CTCK có nhu cầu tuyển dụng số lượng nhân viên
lớn. Tuy nhiên, khi thị trường khủng hoảng, các CTCK thường thực hiện
chính sách giảm lương hoặc cắt giảm nhân sự rất mạnh mẽ16
.
Thứ hai, chất lượng của nguồn nhân lực môi giới trong lĩnh vực chứng
khoán chưa cao, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các CTCK.
Nhân viên môi giới chứng khoán được đào tạo theo chương trình của
UBCKNN. Cá nhân muốn làm việc trong lĩnh vực MGCK phải có chứng chỉ
hành nghề môi giới chứng khoán (khoản 1, Điều 4, Quyết định số
15/2008/QĐ-BTC). Để được cấp chứng chỉ trên, cá nhân cần có các chứng
chỉ chuyên môn, bao gồm:
14 Nhân lực chứng khoán: hiếm từ đầu vào (2007), 02/03/2007, truy cập ngày 22/03/2010, http://vietnamnet.vn/giaoduc/chuyengiangduong/2007/03/668762/ . 15
Vẫn khát nhân lực chứng khoán (2010), 05/02/2010, truy cập ngày 22/03/2010,
http://vneconomy.vn/2010020503383539P0C5/van-khat-nhan-luc-chung-khoan.htm. 16 Nhân lực chứng khoán: hiếm từ đầu vào (2007), 02/03/2007, cập ngày 23/03/2010,
Chứng chỉ những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng
khoán;
Chứng chỉ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
Chứng chỉ phân tích và đầu tư chứng khoán;
Chứng chỉ môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Các chứng chỉ nói trên thể hiện các nhân viên MGCK được đào tạo bài
bản. Tuy nhiên, kĩ năng môi giới từ lý thuyết đến thực tế vẫn còn là một
khoảng cách lớn. Nhân viên môi giới tại các CTCK thường là những người tốt
nghiệp các trường đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính – tài chính ngân
hàng, chứng khoán, luật. Chứng khoán là một ngành học còn mới mẻ, do
nhiều nguyên nhân nên chất lượng đào tạo chưa cao, khiến cho các CTCK
gặp khó khăn trong việc tuyển nhân sự phù hợp với yêu cầu17
.
Như đã nói ở trên, nhân viên có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng
khoán được phép tiến hành nghiệp vụ môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Theo ông Huỳnh Anh Tuấn, Trưởng phòng môi giới CTCK ACB (ACBS),
phần lớn nhân viên môi giới ở Việt Nam vẫn là “người môi giới thụ động”18
.
Nghĩa là, người môi giới thường chỉ đơn thuần thực hiện công việc nhận và
nhập lệnh, chưa tư vấn được cho nhà đầu tư về việc nên mua, bán loại chứng
khoán nào, vào thời điểm nào.
Bất chấp những hạn chế nêu trên, vai trò và năng lực của người môi giới
chứng khoán đang ngày càng được xã hội thừa nhận. Điều này được thể hiện
ở sự gia tăng liên tục của số lượng tài khoản giao dịch trên thị trường chứng
khoán Việt Nam (xem Phụ lục 2), quy mô giao dịch chứng khoán ngày càng
lớn (xem Phụ lục 3), và thể hiện ở thu nhập của người MGCK.
17
Nhân lực chứng khoán: hiếm từ đầu vào (2007), 02/03/2007, truy cập ngày 10/03/2010,
http://www1.vietnamnet.vn/giaoduc/chuyengiangduong/2007/03/668762/. 18 Môi giới chứng khoán: Nghề không trải hoa hồng (2007), 17/05/2007, truy cập ngày 22/03/2010
dụng trong năm 2008 – một năm khó khăn của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Bảng 5: Phí môi giới chứng khoán đã niêm yết của một số CTCK
(thời điểm tháng 03/2010)
Tên CTCK Tổng giá trị giao dịch trong ngày (đơn vị:
VNĐ) Mức phí
1. CTCK NH TMCP Ngoại thương (VCBS)
Cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
Dưới 50 triệu 0,4%
Từ 50 triệu đến dưới 150 triệu 0,35%
Từ 150 triệu đến dưới 300 triệu 0,3%
Từ 300 triệu đến dưới 500 triệu 0,25%
Từ 500 triệu trở lên 0,2%
Trái phiếu Tối đa 0,25%
2. CTCP chứng khoán Tp. HCM (HSC)
Cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
Dưới 100 triệu 0,35%
Từ 100 triệu đến dưới 300 triệu 0,3%
Từ 300 triệu đến dưới 500 triệu 0,25%
Từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ 0,2%
Từ 1 tỷ trở lên 0,15%
Trái phiếu 0,15%
3. CTCP chứng khoán Kim Eng Việt Nam
(KEVS)
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
Dưới 500 triệu 0,3%
Từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ 0,2%
Từ 1 tỷ trở lên 0,15%
Trái phiếu 0,1%
36
4. CTCP chứng khoán Sài Gòn (SSI)
Cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
Dưới 50 triệu 0,4%
Từ 50 triệu đến dưới 100 triệu 0,35%
Từ 100 triệu đến dưới 500 triệu 0,3%
Từ 500 triệu trở lên 0,25%
Trái phiếu 0,05% -
0,15%
5. CTCP chứng khoán An Bình (ABS)
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
Dưới 100 triệu 0,4%
Từ 100 triệu đến dưới 400 triệu 0,35%
Từ 400 triệu đến dưới 700 triệu 0,3%
Từ 700 triệu đến dưới 1 tỷ 0,25%
Từ 1 tỷ đến dưới 3 tỷ 0,2%
Từ 3 tỷ trở lên 0,15%
Trái phiếu
Dưới 100 tỷ 0,03%
Từ 100 tỷ trở lên 0,025%
Nguồn: Tổng hợp từ website của các CTCK nói trên.
2.2.2.6 Những yếu kém trong hoạt động MGCK ở Việt Nam
Trong hoạt động MGCK trên thị trường tập trung ở Việt Nam, chúng ta
thường gặp những sai phạm như sau:
Thứ nhất, các công ty chứng khoán không công bố thông tin kịp thời,
đầy đủ cho khách hàng.
Thứ hai, các CTCK “làm giá” cổ phiếu. Trong những phiên ảm đạm của
thị trường, các nhà đầu tư có vốn lớn dùng nhiều tài khoản tại nhiều công ty
chứng khoán để gom cổ phiếu của các công ty nhỏ, vốn ít, tính thanh khoản
37
thấp. Trong những phiên hồi phục của thị trường, CTCK đưa các lệnh mua
giả vào hệ thống với lệnh mua giá trần, ATO và ATC; tạo nên lượng dư mua
rất cao và dư bán rất thấp, thậm chí bằng 0. Ngay khi thị trường có dấu hiệu
đảo chiều, các cổ phiếu này lập tức được bán ồ ạt. Theo ông Trịnh Minh
Hoàng, chuyên viên môi giới đầu tư chứng khoán Công ty chứng khoán Bảo
Minh, thời gian qua, có rất nhiều cổ phiếu nhỏ bỗng dưng tăng giảm đột biến
về giá khiến nhiều nhà đầu tư nhỏ “lao” theo mua bán, dù những công ty phát
hành cổ phiếu này không hề có thông tin kinh doanh gì mới21
. Các CTCK
hưởng lợi từ doanh thu môi giới chứng khoán, đồng thời được các nhà đầu tư
vốn lớn nói trên “cảm ơn” khi các đợt “làm giá” thành công. Vì vậy, không ít
CTCK đã tiếp tay cho sai phạm.
Thứ ba, nhân viên môi giới lợi dụng danh nghĩa nhà đầu tư, sử dụng tiền
hoặc chứng khoán trong tài khoản của nhà đầu tư.
Thứ tư, nhân viên môi giới đặt lệnh sai so với lệnh gốc của khách hàng,
gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Bà Ngô Viết Hoàng Giao, kế toán trưởng của Sở
giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh cho biết, việc sửa lỗi giao dịch cho
các CTCK diễn ra rất thường xuyên, tốn nhiều thời gian và công sức. Bà
Nguyễn Thị Liên Hoa, Phó chủ tịch UBCKNN cũng cho rằng, các lỗi thường
xảy ra là lỗi từ việc đặt lệnh của CTCK22
. Nếu lỗi giao dịch xảy ra là do sai
phạm của Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm lưu ký chứng khoán, các
tổ chức này sẽ bồi thường cho các CTCK. Điều nhà đầu tư nên quan tâm là,
nếu lỗi giao dịch thuộc về nhân viên môi giới của CTCK, nhà đầu tư sẽ được
bồi thường như thế nào.
Thứ năm, CTCK vi phạm quy định ưu tiên thực hiện lện của khách hàng
trước lệnh của công ty (theo khoản 4, Điều 71, Luật chứng khoán năm 2006).
21 Tổ chức lớn đang “làm giá” chứng khoán? (2009), 05/08/2009, truy cập ngày 23/03/2010,
http://www.baodatviet.vn/Home/kinhte/To-chuc-lon-dang-lam-gia-chung-khoan/20098/52619.datviet. 22 Phí và lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán: góp phần đảm bảo chất lượng và tính công bằng trên thị trường
(2007), 21/11/2007, truy cập ngày 01/04/2010, http://www.saga.vn/view.aspx?id=8480.
văn bản dưới luật đáng chú ý nhất, liên quan đến hoạt động MGBĐS bao
gồm:
Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006;
Quyết định số 29/2007/QĐ-BXD về việc ban hành Chương trình khung
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về môi giới bất động sản, định giá bất động sản
và quản lý, điều hành sàn giao dịch bất động sản;
Thông tư số 13/2008/TT-BXD hướng dẫn thực hiện một số nội dung
của Nghị định số 153/2007/NĐ-CP;
Nghị định số 23/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh
vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kĩ thuật; quản lí phát triển nhà
và công sở.
Hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm kinh doanh bất động sản và
kinh doanh dịch vụ bất động sản (khoản 1, Điều 4, Luật kinh doanh BĐS năm
2006). Môi giới bất động sản là một loại hình kinh doanh dịch vụ bất động
sản (bên cạnh 6 loại hình khác được quy định tại khoản 3, Điều 4, Luật kinh
doanh BĐS năm 2006).
Luật kinh doanh bất động sản không định nghĩa thế nào là hoạt động môi
giới bất động sản. Tuy nhiên, Luật có hẳn một mục riêng quy định về hoạt
động này (Mục 1 – Môi giới bất động sản, Chương IV – Kinh doanh dịch vụ
bất động sản, Luật kinh doanh bất động sản năm 2006). Theo Điều 45 của
Luật này, hoạt động MGBĐS bao gồm các nội dung sau đây:
Tìm kiếm đối tác đáp ứng điều kiện của khách hàng để tham gia đàm
phán, ký kết hợp đồng;
Đại diện theo ủy quyền để thực hiện các công việc liên quan đến hoạt
động kinh doanh bất động sản;
40
Cung cấp thông tin, hỗ trợ cho các bên trong việc đàm phán, ký kết hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản.
Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản phải thành lập
doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, ngoại trừ trường hợp cá nhân kinh doanh dịch
vụ môi giới bất động sản độc lập (khoản 2, Điều 8, Luật kinh doanh BĐS năm
2006). Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng
ký kinh doanh và có chứng chỉ môi giới bất động sản. Tổ chức, cá nhân khi
kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất một người có chứng
chỉ môi giới bất động sản (khoản 3, Điều 8, Luật kinh doanh bất động sản
năm 2006).
Cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề MGBĐS khi đáp ứng đủ các
điều kiện sau đây (khoản 1, Điều 14, Nghị định số 153/2007/NĐ-CP):
Không phải là cán bộ, công chức nhà nước;
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không bị cấm hành nghề theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền; không đang trong tình trạng bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, chấp hành án phạt tù;
Có giấy chứng nhận đã hoàn thành khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
về môi giới bất động sản;
Có hồ sơ xin cấp chứng chỉ môi giới bất động sản.
Khác với hoạt động MGCK, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ
MGBĐS không phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định.
Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 quy định rõ nguyên tắc của hoạt
động MGBĐS. Theo Điều 44 của Luật, hoạt động MGBĐS phải công khai,
trung thực và tuân thủ pháp luật. Người MGBĐS không được đồng thời là
một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh BĐS. Về điểm
này, Luật kinh doanh BĐS năm 2006 đã thống nhất chặt chẽ với khoản 4,
Điều 151, Luật thương mại Việt Nam năm 2005.
41
Người MGBĐS có quyền hưởng hoa hồng, thù lao môi giới theo thỏa
thuận trong hợp đồng với khách hàng (khoản 3, Điều 48, Luật kinh doanh
BĐS năm 2006). Thù lao MGBĐS không phụ thuộc vào kết quả giao dịch
giữa khách hàng và người thứ ba, cũng không phụ thuộc vào giá của giao dịch
được môi giới (khoản 1, 2, Điều 46). Rõ ràng, quy định này đã bảo vệ một
cách chặt chẽ quyền lợi của người môi giới BĐS.
Người MGBĐS chỉ được hưởng hoa hồng môi giới khi bên thuê dịch vụ
môi giới ký hợp đồng mua bán, chuyển nhượng... BĐS với bên thứ ba. Mức
hoa hồng này do các bên thỏa thuận, và có thể là một trong ba mức sau
(khoản 2, Điều 47):
Một tỷ lệ phần trăm nào đó của giá trị hợp đồng giữa bên được môi giới
và bên thứ ba;
Một tỷ lệ phần trăm nào đó của giá trị chênh lệch giữa giá bán bất động
sản và giá của người được môi giới đưa ra;
Một số tiền cụ thể.
Luật kinh doanh BĐS năm 2006 quy định rõ về những quyền và nghĩa
vụ khác của người MGBĐS. Người MGBĐS có quyền yêu cầu khách hàng
cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu liên quan đến BĐS; được thuê người môi
giới khác thực hiện công việc MGBĐS trong phạm vi hợp đồng môi giới đã
giao kết với khách hàng, nhưng phải chịu trách nhiệm trước khách hàng về
kết quả môi giới (Điều 48). Người MGBĐS có nghĩa vụ cung cấp thông tin về
BĐS đưa vào kinh doanh và chịu trách nhiệm về thông tin đó; phải bồi
thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra (khoản 2, khoản 5, Điều 49).
2.2.3.2 Thực trạng nguồn nhân lực trong hoạt động MGBĐS
Hiện nay, chủ thể tiến hành hoạt động MGBĐS chủ yếu là cá nhân kinh
doanh dịch vụ MGBĐS độc lập, trung tâm giao dịch bất động sản và doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản, sàn giao dịch bất động sản.
42
Điều kiện quan trọng nhất để các tổ chức, cá nhân được phép kinh doanh
dịch vụ MGBĐS là phải có chứng chỉ hành nghề MGBĐS. Trong vòng một
năm kể từ khi Thông tư số 13/2008/TT-BXD được ban hành (05/2008), Bộ
Xây dựng đã cấp 17.000 chứng chỉ môi giới, định giá BĐS và quản lý hoạt
động môi giới, định giá bất động sản24
.
Đội ngũ những cá nhân hành nghề MGBĐS độc lập rất đa dạng, trình độ
học vấn không đồng đều. Họ có thể là người nông dân, người xe ôm, người
bán trà đá, cán bộ viên chức nhà nước đã nghỉ hưu… cho đến sinh viên, luật
sư, nhà môi giới bất động sản chuyên nghiệp…25
Có những người xem
MGBĐS là nghề chính, cũng có những người xem đây là “nghề phụ” để tăng
thu nhập. Theo thống kê của Sở xây dựng thành phố Hải Phòng, tính đến
tháng 11/2009, thành phố này có khoảng 500 người được cấp chứng chỉ hành
nghề MGBĐS, trong đó chỉ có khoảng 200 người thường xuyên tiến hành
hoạt động MGBĐS, những người còn lại chỉ hành nghề với mục đích tìm
kiếm “thu nhập phụ”26
.
Đa số những người MGBĐS độc lập nói trên đều không được đào tạo
một cách bài bản, không có kỹ năng môi giới chuyên nghiệp, hành nghề dựa
theo kinh nghiệm cá nhân. Họ thường chỉ hoàn thành công việc đưa người
bán và người mua gặp gỡ nhau, nhận tiền thù lao và hoa hồng môi giới.
Không nhiều người MGBĐS độc lập có thể tư vấn cho khách hàng về thông
tin quy hoạch hạ tầng của chính quyền, về phong thủy hay các chính sách thuế
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân… Cũng rất khó để
xác định những người MGBĐS độc lập này có chứng chỉ hành nghề hay
24 Sàn giao dịch bất động sản: Yếu về lượng, buồn lòng về chất (2009), 22/10/2009, truy cập ngày 03/04/2010, http://thegioibatdongsan.com.vn/Tin-Tuc/115.San-giao-dich-bat-dong-san-Yen-long-ve-luong-
buon-long-ve-chat.html. 25 Môi giới nhà đất phần đa là xe ôm, trà đá (2009), 06/11/2009, truy cập ngày 03/04/2010,
http://www.landtoday.net/vn/tintuc/chinhsach/13607/index.aspx. 26 Môi giới nhà đất phần đa là xe ôm, trà đá (2009), 06/11/2009, truy cập ngày 03/04/2010,
không. Với đội ngũ những người MGBĐS độc lập như vậy, chất lượng dịch
vụ MGBĐS do họ cung cấp rất khó làm vừa lòng khách hàng.
Nhân viên môi giới ở các sàn giao dịch BĐS hay doanh nghiệp kinh
doanh MGBĐS thường được cho là có trình độ chuyên môn và kĩ năng tốt
hơn những người MGBĐS độc lập. Tính đến ngày 08/04/2010, ở Việt Nam có
383 sàn giao dịch BĐS đã đăng ký hoạt động với Bộ Xây dựng27
. Hầu hết các
sàn giao dịch BĐS tập trung ở Hà Nội (167 sàn) và Tp. HCM (180 sàn).
Mạng các sàn giao dịch bất động sản Việt Nam (VIETREALnet,
www.sanbatdongsan.net.vn và www.vietreal.net.vn, được bảo trợ bởi Bộ Xây
dựng và Hiệp hội Bất động sản nhà đất Việt Nam) có 154 thành viên chính
thức, các thành viên này đều kinh doanh BĐS và dịch vụ BĐS28
. Ngoài ra,
còn có các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ MGBĐS chưa đủ điều kiện để
làm thành viên của VIETREALnet. Như vậy, số lượng nhân viên môi giới
làm việc cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ BĐS là không nhỏ.
Mặc dù vậy, nhân lực môi giới trong lĩnh vực BĐS, kể cả nhân viên môi
giới ở các sàn giao dịch BĐS, rất thiếu chuyên nghiệp (theo ông Phạm Trung
Hà – Tổng giám đốc CTCP BĐS Hòa Phát)29
. Lí do là bởi, phần lớn họ là
những người “tay ngang” (những người trước đây làm nghề khác, sau đó
chuyển sang kinh doanh MGBĐS, không được đào tạo chuyên môn về kinh
doanh MGBĐS), chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo bài bản. Cũng theo
ông Hà, chủ đầu tư của các dự án lớn thường sử dụng dịch vụ môi giới của
các tập đoàn nước ngoài (như Savills, Colliers…) vì đội ngũ nhân viên môi
giới của các tập đoàn này đã được đào tạo một cách bài bản, chuyên nghiệp.
Tóm lại, những người hành nghề MGBĐS ở Việt Nam, dù là cá nhân
độc lập hay nhân viên môi giới của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
27 Thống kê tại website của Bộ Xây dựng, truy cập ngày 03/04/2010, http://www.moc.gov.vn/site/moc. 28 Thống kê tại website Mạng các sàn giao dịch bất động sản Việt Nam, truy cập ngày 08/04/2010,
http://www.sanbatdongsan.net.vn/Desktop.aspx/Gioithieu/Gioithieu/Gioi_thieu_Vrnet/. 29 Phương Thảo (2009), Trình độ môi giới bất động sản đang ở mức phổ cập, 21/09/2009, truy cập ngày
BĐS, đều chưa có kỹ năng môi giới chuyên nghiệp, trình độ học vấn không
đồng đều (pháp luật Việt Nam hiện nay không quy định về trình độ học vấn
của người có nhu cầu được cấp chứng chỉ hành nghề MGBĐS). Tuy nhiên, so
với nhân viên môi giới của các tập đoàn nước ngoài, nhân lực môi giới BĐS
Việt Nam có lợi thế về sự am hiểu địa phương và kinh nghiệm thực tế. Điểm
yếu của nhân lực MGBĐS chính là sự thiếu chuyên nghiệp do chất lượng đào
tạo chưa tốt. Người MGBĐS cần có thời gian, ý thức học hỏi, phấn đấu
hướng tới sự chuyên nghiệp và phát triển những “kĩ năng mềm” (hiểu biết về
quy hoạch đô thị, cách xem phong thủy, am hiểu thủ tục hành chính…) để
giúp nhân lực MGBĐS Việt Nam rút ngắn được khoảng cách với đội ngũ
những người MGBĐS của các tập đoàn nước ngoài (trích lời ông Phạm Trung
Hà, Tổng giám đốc Công ty cổ phần BĐS Hòa Phát)30
.
2.2.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Chủ thể kinh doanh dịch vụ MGBĐS ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao
gồm cá nhân MGBĐS độc lập, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ MGBĐS,
sàn giao dịch BĐS. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của các đối tượng trên cũng khác nhau.
Đối với cá nhân kinh doanh MGBĐS độc lập, họ chỉ cần một chiếc điện
thoại di động cùng với máy tính có nối mạng là đã có thể hành nghề. Nếu
người MGBĐS độc lập thành lập văn phòng môi giới, họ cần một căn phòng
có diện tích 10m2 đến 12m
2, một vài tấm bản đồ quy hoạch đô thị, một chiếc
điện thoại bàn, như vậy là đủ để tiến hành kinh doanh31
. Thậm chí, ở ngoại
thành phía bắc Tp. HCM (quận 12, Hóc Môn, Củ Chi…), biển hiệu “Văn
phòng môi giới nhà đất” còn được treo trước những cửa hàng tạp hóa, đại lý
gạo, quán cà phê…32
30 Phương Thảo (2009), Trình độ môi giới bất động sản đang ở mức phổ cập, 21/09/2009, truy cập ngày
08/04/2010, http://www.landtoday.net/vn/doanhnghiep/19504/index.aspx. 31 Môi giới bất động sản, đôi điều cần suy nghĩ (2008), 09/01/2008, truy cập ngày 25/03/2010,
http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/ttbds/9285.saga. 32 M.T.P (2008), Đẳng cấp của cò nhà đất, 31/03/2008, truy cập ngày 25/03/2010,
bình như sinh viên, người mới đi làm… để cung cấp dịch vụ môi giới các
BĐS có chất lượng trung bình mà hầu hết là môi giới thuê nhà ở hay cửa
hàng, văn phòng. Cá nhân môi giới bất động sản tự do là người có đối tượng
khách hàng phong phú nhất. Những cá nhân này chủ yếu tiến hành môi giới
mua, bán đất; căn hộ của các dự án nhà chung cư hoặc nhà, đất của người dân.
Các sàn giao dịch bất động sản thành viên của Mạng các sàn giao dịch
động sản Việt Nam đều có website riêng của mình. Tuy nhiên, trên những
website này không công bố biểu phí môi giới của các sàn giao dịch. Người
viết khóa luận đã liên hệ trực tiếp với một số sàn giao dịch bất động sản và
thu được thông tin về mức phí môi giới (xem bảng 6).
Bảng 6: Phí môi giới bất động sản tại một số sàn giao dịch bất động sản (thời điểm tháng
04/2010)
STT Tên sàn giao dịch BĐS Phí môi giới mua,
bán BĐS Phí môi giới thuê BĐS
1. Công ty CP quỹ đầu tư bất động
sản Ngân hàng thương mại cổ
phần các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh Việt Nam
1% tổng giá trị
giao dịch
Thuê căn hộ, văn phòng trọn gói:
1 tháng tiền thuê nhà đối với hợp
đồng thuê có thời hạn tối thiểu 1 năm;
Tính theo tỉ lệ đối với hợp đồng
thuê nhà có thời hạn dưới 1 năm: thời hạn
hợp đồng (tính bằng tháng)÷12×tiền thuê
nhà 1 tháng.
Thuê căn hộ, văn phòng bình
thường:
1 tháng tiền thuê nhà đối với hợp
đồng thuê nhà có thời hạn tối thiểu 2 năm;
Tính theo tỉ lệ đối với hợp đồng
thuê nhà có thời hạn dưới 2 năm: thời hạn
hợp đồng (tính bằng tháng)÷24×tiền thuê
nhà 1 tháng.
2. Công ty Cổ phần Vạn Phát
Hưng
Trị giá giao dịch ≤
3 tỷ VNĐ: 1%
Trị giá giao dịch
>3 tỷ: 0,5%
1 tháng tiền thuê nhà, không phụ thuộc thời
hạn hợp đồng thuê nhà.
3. Công ty TNHH Tư vấn –
Thương mại – Dịch vụ Địa Ốc
Thù lao môi giới:
400.000
Không kinh doanh dịch vụ môi giới thuê
nhà.
47
Hoàng Quân VNĐ/tháng
Hoa hồng môi giới:
1%-1,5% giá trị
giao dịch
4. CTCP Đầu Tư Bất Động Sản
Phúc Đức
1,5% giá trị giao
dịch
1 tháng tiền thuê nhà đối với hợp
đồng thuê nhà có thời hạn ≥ 1 năm.
½ giá trị tiền thuê nhà một tháng
đối với hợp đồng thuê nhà có thời hạn < 1
năm.
5. Công ty cổ phần Xây dựng và
Phát triển đầu tư Hải Phòng
1% giá trị giao
dịch
1 tháng tiền thuê nhà, không phụ thuộc thời
hạn hợp đồng thuê nhà.
6. Công ty TNHH Xây Dựng -
Kinh Doanh Nhà Gia Hoà
1% tổng giá trị
giao dịch
Không kinh doanh dịch vụ môi giới thuê
nhà.
Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, thực hiện ngày 20/04/2010.
Có thể thấy, mức phí môi giới mua, bán nhà đất phổ biến là 1% giá trị
giao dịch giữa khách hàng và bên thứ ba. Tất cả các sàn giao dịch được hỏi
đều cho biết mức phí này có thể thương lượng được. Mức phí môi giới thuê
nhà, văn phòng chủ yếu là 1 tháng tiền thuê nhà. Điều đáng chú ý là hầu hết
các sàn giao dịch được đề cập trong bảng (ngoại trừ Công ty TNHH Tư vấn –
Thương mại – Dịch vụ Địa Ốc Hoàng Quân) đều cho biết, trừ khi giao dịch
giữa khách hàng và bên thứ ba thành công, họ sẽ không thu phí của khách
hàng. Nghĩa là các sàn giao dịch không thu khoản “thù lao môi giới” (theo
như cách gọi của Luật kinh doanh BĐS năm 2006) mà hầu hết chỉ thu “hoa
hồng môi giới” từ khách hàng.
Điều này có thể lí giải bởi 2 nguyên nhân.
Thứ nhất, MGBĐS chỉ là một trong nhiều nghiệp vụ của các sàn giao
dịch BĐS. Các sàn giao dịch bất động sản thu được lợi nhuận lớn từ các dịch
vụ khác như: định giá tài sản, tư vấn hồ sơ bất động sản, quảng cáo bất động
sản, đấu giá bất động sản, tư vấn thiết kế - xây dựng, quản lý bất động sản…
Thứ hai, các sàn giao dịch BĐS đều muốn tìm cách khuyến khích khách
hàng sử dụng dịch vụ môi giới của mình. Sản phẩm tại các sàn giao dịch chủ
yếu là bất động sản của các công ty kinh doanh BĐS; người dân ít tham gia
48
sàn giao dịch vì e ngại bất động sản ở sàn có giá cao hơn bất động sản thông
thường35
. Ngoài ra, người dân biết rất ít thông tin về các dự án quy hoạch đô
thị, xây dựng nhà để tìm đến mua, thuê BĐS ở các sàn giao dịch36
. Do đó, tỷ
lệ giao dịch BĐS thông qua dịch vụ môi giới của sàn giao dịch BĐS vẫn còn
rất thấp.
Các văn phòng môi giới nhà đất kinh doanh nhỏ lẻ chủ yếu thu của
khách hàng 2 loại phí. Thứ nhất, phí dẫn khách hàng đi xem nhà, khoản này
khoảng 50.000 đồng đến 100.000 đồng (không phụ thuộc vào việc khách có
thuê nhà hay không). Thứ hai, hoa hồng môi giới, khoản này thường được
tính bằng 50%-100% trị giá tiền thuê nhà 1 tháng (theo thỏa thuận giữa chủ
nhà và khách hàng)37
.
Đối với người môi giới bất động sản độc lập, rất khó xác định họ có thu
thù lao môi giới từ khách hàng hay không, nhưng hoa hồng môi giới vẫn ở
mức phổ biến trên thị trường, từ 0,5% đến 1% trị giá giao dịch gữa khách
hàng và bên thứ ba38
.
2.2.3.5 Một số bất cập trong hoạt động môi giới bất động sản
2.2.3.5.1 Người môi giới bất động sản cung cấp thông tin không chính
xác cho khách hàng, vi phạm nguyên tắc hoạt động MGBĐS phải trung thực
(khoản 2, Điều 44, Luật kinh doanh BĐS năm 2006)
Thứ nhất, người môi giới đưa ra thông tin sai về bất động sản, hoặc đưa
ra thông tin về bất động sản không có thật để tìm kiếm, thu thập thông tin về
nhu cầu mua, bán, thuê, cho thuê BĐS của khách hàng. Người cần mua BĐS
35 “Ngập ngừng” sàn giao dịch bất động sản (2006), 19/10/2006, truy cập ngày 21/04/2010,
http://vietbao.vn/Kinh-te/Ngap-ngung-san-giao-dich-bat-dong-san/65070770/87/. 36 “Bát nháo” sàn giao dịch bất động sản (2010), 03/02/2010, truy cập ngày 21/04/2010,
http://dantri.com.vn/c76/s76-377181/bat-nhao-san-giao-dich-bat-dong-san.htm. 37Quái chiêu của môi giới nhà đất (2009), 13/04/2009, truy cập ngày 21/04/2010,
http://www.landtoday.net/vn/tintuc/16807/index.aspx. 38 An Trung (2009), Đông như “cò” nhà đất, 10/09/2009, truy cập ngày 21/04/2010,
hợp đồng trong giao dịch kinh doanh BĐS. Tuy nhiên, Luật không cấm các
doanh nghiệp đầu tư dự án BĐS mở sàn giao dịch BĐS để bán sản phẩm của
mình; đồng thời, vẫn được tiến hành kinh doanh dịch vụ MGBĐS. Lợi dụng
kẽ hở này, các sàn giao dịch BĐS giới thiệu cho khách hàng những sản phẩm
của chính doanh nghiệp nhưng vẫn thu phí môi giới46
.
2.2.3.5.3 Người môi giới nâng giá bất động sản lên rất cao để hưởng
chênh lệch giữa giá mà chủ sở hữu BĐS đưa ra với giá mà người môi giới
thương lượng được với bên thứ ba
Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho giá bất động sản ở
Việt Nam liên tục tăng cao (nhất là trong những năm 2006, 2007). Khi một
căn hộ bán được với giá cao, giá ấy lập tức được áp dụng cho các căn hộ khác
trong cùng khu chung cư hoặc thậm chí trong cùng khu vực47
. Người môi giới
cũng có thể tập hợp lại thành nhóm, dẫn nhiều khách hàng đến xem cùng một
bất động sản, mỗi lần lại đưa ra một giá bán khác nhau (trong nhóm đã có sự
thống nhất về các mức giá mà mỗi người môi giới “đảm nhiệm”). Khi khách
hàng đồng ý mua BĐS, hoa hồng môi giới sẽ được chia cho các thành viên
trong nhóm.
2.2.3.5.4 Người môi giới BĐS nhận ủy quyền của khách hàng để thực
hiện các công việc trái pháp luật
Để làm được việc này, người MGBĐS cần có mối quan hệ với các cán
bộ của chính quyền địa phương. Người môi giới giới thiệu cho khách hàng
những mảnh đất chưa được cấp phép xây dựng, sau đó nhờ vào mối quan hệ
của mình, lo liệu để khách hàng xây được nhà. Nhờ sự thu xếp giữa người
môi giới và cán bộ địa phương, khách hàng có một thời gian nhất định
(thường là 10 đến 14 ngày) để xây nhà. Thủ thuật mà người môi giới hướng
46 Bát nháo sàn giao dịch bất động sản (2010), 03/02/2010, truy cập ngày 19/04/2010,
http://dantri.com.vn/c76/s76-377181/bat-nhao-san-giao-dich-bat-dong-san.htm. 47 Nhà đất đồng loạt tụt giá (2008), 17/03/2008, truy cập ngày 19/04/2010,
Như vậy, hiện nay đang thiếu một nghị định độc lập hướng dẫn thi hành
hoạt động MGTM. Những quy định về hoạt động môi giới thương mại mang
tính tản mạn, thiếu hệ thống, gây khó khăn cho việc áp dụng luật.
2.3.1.2 Các quy định về điều kiện chủ thể tham gia hoạt động MGTM
chưa rõ ràng
Khoản 11, Điều 3, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: trong
quan hệ môi giới thương mại, bên môi giới và bên được môi giới đều phải là
thương nhân.
Quy định trên đang thể hiện những điểm bất hợp lý. Thứ nhất, bên được
môi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới chứ không cung ứng
dịch vụ này, do đó không bắt buộc phải là thương nhân50
. Thứ hai, trong quy
định riêng về hoạt động môi giới thương mại, Luật cũng không yêu cầu bên
được môi giới phải là thương nhân (Điều 150, Luật thương mại Việt Nam
năm 2005). Thứ ba, trong thực tiễn hoạt động môi giới, ở các lĩnh vực bất
động sản, chứng khoán, hàng hải, bảo hiểm…, bên được môi giới trong rất
nhiều trường hợp không phải là thương nhân.
Ngoài ra, quy định bên môi giới phải là thương nhân của Luật thương
mại cũng không thống nhất với các luật chuyên ngành. Luật kinh doanh BĐS
năm 2006, Bộ luật hàng hải năm 2000 không đề cập đến việc bên môi giới
BĐS, môi giới hàng hải phải là thương nhân. Trên thực tế, trong hoạt động
môi giới chứng khoán, có rất nhiều cá nhân không phải là thương nhân nhưng
vẫn hành nghề MGCK.
Ngay trong những văn bản hướng dẫn thi hành Luật thương mại năm
2005 cũng có những điểm chưa chặt chẽ về tư cách của chủ thể tham gia hoạt
động MGTM. Khoản 1, Điều 17, Nghị định số 158/2006/NĐ-CP (quy định
chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
50 Nguyễn Thanh Thủy (2009), Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động trung
gian thương mại, thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh, tr43, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
54
hàng hóa) nêu rõ: thành viên của Sở giao dịch hàng hóa chỉ bao gồm thương
nhân môi giới (gọi là thành viên môi giới) và thương nhân kinh doanh (gọi là
thành viên kinh doanh). Các thành viên này đều phải là doanh nghiệp (theo
quy định của Điều 19 và Điều 21 Nghị định này). Tuy nhiên, Điều 9 của Nghị
định này (quy định về Hồ sơ đề nghị thành lập sở giao dịch hàng hóa) lại nhắc
đến khái niệm “thành viên là cá nhân”; theo đó yêu cầu thành viên là cá nhân
phải nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân hoặc chứng thực cá nhân hợp
pháp khác.
Sửa đổi quy định về tư cách pháp lý của bên môi giới và bên được môi
giới là vấn đề phức tạp, cần sự quan tâm nghiên cứu của các nhà làm luật; bởi
một khi đã thừa nhận bên môi giới có thể không phải là thương nhân sẽ kéo
theo rất nhiều vấn đề cần xem xét.
2.3.1.3 Quy định về thù lao môi giới và chi phí môi giới chưa hợp lý
Theo khoản 1, Điều 153, Luật thương mại Việt Nam năm 2005, quyền
hưởng thù lao của bên môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã
ký hợp đồng với nhau (trừ khi có thỏa thuận khác). Kể cả khi bên được môi giới
và bên thứ ba không ký hợp đồng với nhau, bên được môi giới vẫn phải thanh
toán các chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến việc môi giới (Điều 154).
“Chi phí phát sinh hợp lý” là một khái niệm không rõ ràng, và cũng
không dễ để xác định rõ ràng. Để tiến hành công việc môi giới, người môi
giới đương nhiên phải chịu một số chi phí nhất định. Trên thực tế, rất khó xác
định những chi phí nào đã được bên môi giới bỏ ra để phục vụ một khách
hàng cụ thể. Đặc biệt, khi việc môi giới không mang lại kết quả, bên được
môi giới không có lợi thế như bên môi giới trong việc xác định “chi phí hợp
lý”, bởi bên môi giới mới là người tiến hành các công việc tạo ra chi phí đó.
Quy định bên được môi giới phải thanh toán chi phí phát sinh hợp lí cho
bên môi giới dù việc môi giới có thành công hay không dễ tạo kẽ hở cho bên
môi giới hành động thiếu trách nhiệm.
55
Quy định về thù lao môi giới của Luật thương mại và các luật chuyên
ngành có điểm không thống nhất. Luật thương mại chỉ nhắc đến quyền hưởng
thù lao của người môi giới, quyền này phát sinh kể từ thời điểm các bên được
môi giới đã ký hợp đồng với nhau (khoản 1, Điều 153). Luật kinh doanh BĐS
năm 2006 nêu ra hai khái niệm: thù lao môi giới và hoa hồng môi giới. Theo
đó, quyền hưởng thù lao môi giới BĐS không phụ thuộc vào kết quả giao dịch
giữa các bên được môi giới (khoản 1, Điều 46, Luật kinh doanh BĐS năm
2006). Điều này mâu thuẫn với Luật thương mại năm 2005. Ngoài thù lao môi
giới, người môi giới BĐS được hưởng hoa hồng môi giới khi bên được môi
giới ký hợp đồng với người thứ ba (khoản 1, Điều 47, Luật kinh doanh BĐS
năm 2006).
Luật chứng khoán năm 2006 hoàn toàn không đề cập đến quyền hưởng
thù lao và hoa hồng môi giới của người môi giới chứng khoán, Bộ luật hàng
hải năm 2005 chỉ nhắc đến quyền hưởng hoa hồng môi giới khi khách hàng
ký hợp đồng với người thứ ba.
Luật thương mại năm 2005 chưa quy định các trường hợp loại trừ quyền
hưởng thù lao của bên môi giới thương mại51
. Trong trường hợp việc môi giới
thành công, nhưng các bên được môi giới phát hiện người môi giới làm việc
không trung thực, gây thiệt hại cho lợi ích của khách hàng, bên môi giới có
được nhận thù lao môi giới hay không? Trên thực tế, thông thường bên môi
giới vẫn được hưởng thù lao vì đã hoàn thành công việc môi giới (theo Điều
153); đồng thời bên môi giới phải đền bù những thiệt hại mà mình đã gây ra
trên cơ sở hợp đồng môi giới. Trừ khi trong hợp đồng môi giới có quy định rõ
về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên môi giới; quy định của Luật thương
mại vẫn tạo cho bên môi giới có lợi thế hơn so với bên được môi giới.
Hơn nữa, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định về quyền
hưởng thù lao của bên môi giới, nhưng lại không nhắc đến quyền của bên
51
Nguyễn Thanh Thủy (2009), Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động trung
gian thương mại, thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh, tr44, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
56
được môi giới. Trong khi đó, nếu việc môi giới thành công thì bên được môi
giới phải trả thù lao môi giới và các chi phí phát sinh hợp lý; nếu việc môi
giới không thành công thì bên được môi giới vẫn phải trả các chi phí phát sinh
hợp lý. Cách quy định như thế tạo ra sự không tương xứng giữa quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ môi giới thương mại.
2.3.1.4 Quy định về hình thức của hợp đồng môi giới chưa rõ ràng
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không yêu cầu hợp đồng môi giới
thương mại phải được lập bằng văn bản hay các hình thức khác có giá trị pháp
lý tương đương. Nghĩa là, hợp đồng môi giới thương mại có thể được thể hiện
bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể.
Điều này dễ đẩy các bên vào rủi ro khi hợp đồng môi giới được lập bằng
hình thức phi văn bản. Hợp đồng là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp.
Nếu hợp đồng được thể hiện dưới hình thức phi văn bản, khi xảy ra tranh
chấp, rất khó tìm được cơ sở vững chắc để giải quyết. Tình huống sẽ càng
phức tạp hơn nếu một bên trong quan hệ môi giới thương mại không phải là
thương nhân.
Quy định như trên của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 mâu thuẫn
với các luật chuyên ngành như Luật chứng khoán năm 2006 (khoản 3, Điều
71), Luật kinh doanh BĐS năm 2006 (khoản 3, Điều 67) vì các Luật này đều
yêu cầu hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản.
2.3.1.5 Chưa có những quy định cụ thể để xác định quyền và nghĩa vụ
của bên thuê môi giới, bên môi giới với bên thứ ba
Quan hệ môi giới thương mại phức tạp hơn nhiều so với các quan hệ
mua bán hàng hóa, dịch vụ thông thường. Trong hoạt động mua bán hàng hóa,
dịch vụ thông thường, quan hệ kinh doanh chỉ bao gồm 2 bên tham gia (người
mua, người bán). Trong hoạt động môi giới thương mại, có tới ba bên tham
gia vào mối quan hệ kinh doanh; các bên này có quyền và lợi ích liên quan,
ràng buộc lẫn nhau.
Luật thương mại Việt Nam năm 2005, cũng như các luật chuyên ngành
(Luật chứng khoán năm 2006, Luật kinh doanh BĐS năm 2006…) chưa có
57
những quy định cụ thể nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của bên môi giới,
bên thuê môi giới với bên thứ ba.
Quan hệ môi giới thương mại có thể trở nên rất phức tạp khi có tới bốn
bên tham gia: bên mua, bên bán, bên môi giới mua và bên môi giới bán.
Trong trường hợp này, rất dễ phát sinh tranh chấp giữa bên môi giới mua và
bên môi giới bán trong việc hưởng thù lao và hoa hồng môi giới. Thông
thường, thù lao và hoa hồng môi giới của bên môi giới mua do người mua trả;
của bên môi giới bán do người bán trả. Tuy nhiên, khi bên mua và bên bán
chuẩn bị ký hợp đồng, rất hay xảy ra tình trạng bên môi giới mua và bên môi
giới bán muốn đẩy người kia ra khỏi giao dịch để hưởng toàn bộ hoa hồng
môi giới do bên mua và bên bán trả52
.
Việc thiếu những quy định về quyền và nghĩa vụ của bên môi giới, bên
thuê môi giới với bên thứ ba gây nhiều khó khăn cho các chủ thể khi tham gia
kinh doanh, nhất là khi phát sinh những tranh chấp như đã nói ở trên.
2.3.1.6 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 chưa có quy định về quyền
và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp hợp đồng môi giới thương mại
chấm dứt53
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không quy định khi nào thì trách
nhiệm của bên môi giới chấm dứt. Trên thực tế, các bên trong quan hệ môi
giới thường giao kết hợp đồng với điều khoản: hợp đồng môi giới chấm dứt
hiệu lực khi bên được môi giới giao kết hợp đồng với bên thứ ba (khoản 5,
Điều 167, Bộ luật hàng hải năm 2005 cũng nêu rõ: trách nhiệm của bên môi
giới hàng hải chấm dứt khi hợp đồng giữa các bên được giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác).
Tuy nhiên, khi hợp đồng môi giới chấm dứt, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra,
trong đó quan trọng nhất là quyền và nghĩa vụ của các bên được đáp ứng như
52 Diễm Quỳnh (2009), Độc chiêu kiếm tiền của cò nhà đất, 25/11/2009, truy cập ngày 20/04/2010,
http://www.vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Kinh-doanh/2009/11/3BA16025/. 53 Nguyễn Thanh Thủy (2009), Những quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động trung
gian thương mại, thực tiễn áp dụng và những vấn đề phát sinh, tr45, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
thế nào. Cho dù việc môi giới đã thành công, các bên được môi giới phát hiện
ra bên môi giới mắc sai phạm gây thiệt hại đến quyền lợi của mình; khi đó
cần phải giải quyết như thế nào để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên
liên quan?
2.3.2 Các thương nhân môi giới hoạt động chưa chuyên nghiệp
Như đã phân tích ở phần Thực trạng hoạt động môi giới thương mại
trong lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, điểm yếu nổi bật trong hoạt động
môi giới thương mại ở Việt Nam hiện nay là sự thiếu chuyên nghiệp của
những người môi giới. Sự thiếu chuyên nghiệp này thể hiện trên các phương
diện sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động môi giới thương mại
còn nghèo nàn. Dưới áp lực của việc ứng dụng các sản phẩm công nghệ thông
tin hiện đại trong kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật lại càng là vấn đề cần
chú trọng của nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới.
Thứ hai, kỹ năng môi giới thiếu tính chuyên nghiệp, chưa cung cấp được
cho khách hàng những dịch vụ có chất lượng cao.
Thứ ba, đạo đức nghề nghiệp của người môi giới chưa cao, gây ra nhiều
sai phạm, làm thiệt hại quyền lợi của khách hàng.
59
Chương 3. Giải pháp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy
định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về hoạt động
môi giới thương mại nhằm phát triển hoạt động môi giới thương
mại trong thời gian tới
3.1 Dự báo sự gia tăng của hoạt động môi giới thương mại ở Việt
Nam trong thời gian tới
3.1.1 Cơ sở dự báo
Sự phát triển của thương mại đã thúc đẩy sự chuyên môn hóa cao độ
trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, tạo nên tính đa dạng và phức
tạp của các hoạt động thương mại. Nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí, các
chủ thể tham gia quan hệ thương mại cần đến dịch vụ môi giới để tìm kiếm
đối tác giao dịch phù hợp, đáng tin cậy, đặc biệt là trong các lĩnh vực ngoài
chuyên môn của chủ thể.
Ngoài ra, sự đa dạng của các hoạt động thương mại đã tạo nên một loạt
các loại hình môi giới thương mại rất phong phú, như: môi giới bất động sản,
môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới chứng khoán… Cùng với sự
phát triển của thương mại, các loại hình môi giới thương mại trong tương lai
sẽ mang tính chuyên nghiệp cao, đòi hỏi các chủ thể phải có những kiến thức
và kỹ năng đặc thù mới có thể tiến hành kinh doanh dịch vụ này.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng mang tính toàn cầu hóa, nhất là từ khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam gặp gỡ, đàm phán, giao kết hợp đồng thương
mại với các đối tác nước ngoài và mở rộng thị trường kinh doanh. Tính toàn
cầu hóa của nền kinh tế thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,
kéo theo sự phát triển của hoạt động môi giới thương mại nói riêng và hoạt
động trung gian thương mại nói chung. Ngược lại, hoạt động môi giới thương
60
mại phát triển tạo điều kiện cho các chủ thể gặp gỡ, thu thập thông tin, nắm
bắt nhu cầu của đối tác một cách nhanh chóng, hiệu quả; hỗ trợ đắc lực cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hội nhập với nền kinh tế thế giới không chỉ mở ra cơ hội phát triển mà
còn mang lại không ít thách thức cho các thương nhân Việt Nam. Để tham gia
vào thương mại quốc tế, các thương nhân Việt Nam cần vượt qua rào cản
ngôn ngữ, sự khác biệt của thị hiếu khách hàng, hệ thống pháp luật và phong
tục tập quán. Những khó khăn đó sẽ được giảm bớt với sự tham gia của người
môi giới trong các giao dịch thương mại. Sự cần thiết vượt qua những rào cản
nói trên để Việt Nam giao lưu thương mại với các nước khác chính là động
lực thúc đẩy hoạt động môi giới thương mại ngày càng phát triển.
3.1.2 Số liệu dự báo
Trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây, các sàn giao dịch liên tiếp ra
đời. Sôi động nhất chính là Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) với hơn 200 công ty
chứng khoán thành viên.
Vào ngày 20/11/2008, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 108/2008-
QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán
công ty đại chúng chưa niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Đây là
cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai thị trường UPCoM – Thị trường
giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết. Thị trường UPCoM
đã phần nào khắc phục được điểm yếu lớn nhất của thị trường OTC, đó là sự
thiếu quản lý của pháp luật. Sự ra đời của thị trường UPCoM càng thúc đẩy
hoạt động môi giới chứng khoán chưa niêm yết phát triển sôi động hơn.
Trong các lĩnh vực khác ngoài chứng khoán, các sàn giao dịch hàng hóa
cũng ồ ạt ra đời. Sàn giao dịch cà phê đầu tiên của Việt Nam đã được khai
trương ngày 11/12/2008 tại Buôn Ma Thuột. Ngày 05/11/2009, tập đoàn
Sacombank chính thức ra mắt Sàn giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín
(Sacom-STE) với sản phẩm giao dịch chủ yếu là thép xây dựng và thép công
61
nghiệp. Hạt điều cũng được đưa lên sàn giao dịch với sự ra đời của Sàn giao
dịch điều tại tỉnh Bình Phước ngày 20/03/2010. Tiếp theo, ngày 06/04/2010,
Công ty cổ phần giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín khai trương Sàn
giao dịch đường. Các sàn giao dịch được thành lập liên tiếp chính là cơ sở tin
cậy cho sự phát triển của hoạt động môi giới trong thời gian tới.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới thương mại ngày càng
đông đảo và không ngừng gia tăng.
Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tính đến tháng 06/2009, ở Việt Nam
có 164 doanh nghiệp được cấp phép đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và
kinh doanh dịch vụ môi giới xuất khẩu lao động (theo báo cáo đánh giá sơ bộ
về xuất khẩu lao động của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội); số doanh
nghiệp nộp đơn xin được cấp phép vẫn tăng liên tục54
.
Tính đến tháng 01/2008, Việt Nam có 155 tổ chức kinh doanh dịch vụ
môi giới bất động sản (có đăng ký hành nghề), trên 1600 tổ chức có chức
năng kinh doanh bất động sản và dịch vụ bất động sản (có đăng ký hành
nghề), còn số lượng tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS mà không đăng ký
hành nghề thì chưa thể thống kê được55
. Trong vòng chưa đầy 2 năm kể từ khi
Bộ xây dựng ban hành Thông tư số 13/2008/TT-BXD hướng dẫn thực hiện
Nghị định 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
kinh doanh bất động sản, cả nước đã có 383 sàn giao dịch bất động sản được
thành lập; Bộ Xây dựng đã cấp 17.000 chứng chỉ môi giới, định giá BĐS và
quản lý hoạt động môi giới, định giá bất động sản56
.
Thực tế, hoạt động môi giới thương mại đã sớm phát triển ở Việt Nam
chứ không phải mới nở rộ trong những năm gần đây.Theo báo cáo tổng hợp
54 Quỳnh Lam (2009), Xuất khẩu lao động – chưa có tiêu chí đánh giá doanh nghiệp mạnh?, 10/08/2009,
truy cập ngày 18/04/2010, http://vneconomy.vn/20090808034751245P5C11/xuat-khau-lao-dong-chua-co-
tieu-chi-danh-gia-doanh-nghiep-manh.htm. 55 Môi giới bất động sản, đôi điều cần suy nghĩ (2008), 09/01/2008, (trích Đề án tư vấn giá đất của Cục quản
lý giá Bộ Tài chính), truy cập ngày 19/04/2010,
http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/ttbds/9285.saga. 56 Sàn giao dịch bất động sản: Yên lòng về lượng, buồn lòng về chất (2009), 22/10/2009, truy cập ngày
dự án “Điều tra đánh giá thực trạng dịch vụ thương mại trên thị trường nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ” (1997-2003) của Viện
nghiên cứu thương mại – Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), trong số
300 doanh nghiệp được điều tra, có đến 47% tham gia hợp đồng môi giới
thương mại (trong khi đó, chỉ có 15,7% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ đại lý;
7,7% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ ủy thác mua bán hàng hóa và 3,3% doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ đại diện cho thương nhân)57
.
Công ty TNHH Nhật Thắng chuyên sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ; được Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) bình chọn là một trong 31
doanh nghiệp xuất khẩu uy tín năm 2006. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006
của Công ty là 2.120.987 đô la Mỹ (USD). Kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ đạt
530.246 USD (chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu); trong đó, kim ngạch xuất
khẩu qua môi giới thương mại là 110.126 USD (chiếm 20,77% kim ngạch xuất
khẩu vào Hoa Kỳ)58
. Xem Bảng 7 để hình dung rõ hơn thực trạng sử dụng dịch vụ
môi giới xuất khẩu của Công ty TNHH Nhật Thắng.
Bảng 7: Tình hình sử dụng các phương thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ
ở Công ty TNHH Nhật Thắng
Phương
thức xuất
khẩu
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 9 tháng đầu năm
2007
Kim ngạch
(đơn vị:
1.000 USD)
Tỉ
trọng
(%)
Kim ngạch
(đơn vị:
1.000 USD)
Tỉ
trọng
(%)
Kim ngạch
(đơn vị:
1.000 USD)
Tỉ
trọng
(%)
Kim ngạch
(đơn vị:
1.000 USD)
Tỉ
trọng
(%)
Xuất khẩu
trực tiếp 160,35 79,93 180,65 75,57 420,12 79,23 515,46 75,17
Xuất khẩu
qua môi
giới
40,27 20,07 58,40 24,43 110,12 20,77 170,31 24,83
Tổng kim
ngạch xuất
khẩu
200,62 239,05 530,24 685,77
Nguồn: Nguyễn Thị Luyện (2007), Trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ vào Hoa Kỳ, Khóa luận tốt nghiệp, tr53, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
57 Nguyễn Thị Vân Anh (2007), Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học, tr46-89-90, Đại học Luật Hà Nội. 58 Nguyễn Thị Luyện (2007), Trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào
Hoa Kỳ, tr53, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
63
Thực tế cho thấy, hoạt động môi giới thương mại đã và đang phát triển
mạnh mẽ, cung và cầu đối với hoạt động này không ngừng gia tăng; mang
đến những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Trong tương lai, hoạt động môi giới
thương mại ở Việt Nam sẽ ngày càng phong phú, phức tạp và mang tính
chuyên nghiệp hơn; đồng thời cũng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mới cần sự quan
tâm của pháp luật.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động môi
giới thương mại
3.2.1 Cần ban hành văn bản dưới luật về hoạt động môi giới thương mại
Luật thương mại năm 2005 đã có những quy định riêng về hoạt động
môi giới thương mại, nhưng chưa có văn bản dưới Luật độc lập nào hướng
dẫn thi hành những quy định đó. Do vậy, việc ban hành một Nghị định riêng
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thương mại năm 2005 về hoạt
động môi giới thương mại là cần thiết. Hoặc cũng có thể ban hành một Nghị
định hướng dẫn thi hành Luật thương mại năm 2005 về hoạt động trung gian
thương mại, trong đó có một phần riêng về hoạt động môi giới thương mại.
Nghị định này sẽ diễn giải các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm
2005 một cách đầy đủ, chi tiết, tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào
quan hệ môi giới thương mại nói riêng và trung gian thương mại nói chung
trong việc hiểu và áp dụng Luật.
3.2.2 Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động môi giới
thương mại trong Luật thương mại Việt Nam năm 2005
3.2.2.1 Sửa đổi khái niệm về hoạt động môi giới thương mại
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 có đưa ra khái niệm về hoạt động
trung gian thương mại, đồng thời cũng nêu lên khái niệm về mỗi loại hình
trung gian thương mại cụ thể.
Về nguyên tắc, khái niệm hoạt động trung gian thương mại mang tính
khái quát, cho thấy bản chất của hoạt động trung gian thương mại; khái niệm
64
riêng về mỗi loại hình trung gian thương mại sẽ mang tính cụ thể nhưng vẫn
thống nhất với khái niệm chung. Tuy nhiên, trong Luật thương mại Việt Nam
năm 2005, khái niệm về các loại hình trung gian thương mại cụ thể đã có
điểm mâu thuẫn với khái niệm chung về hoạt động trung gian thương mại.
Khoản 11, Điều 3 của Luật này quy định bên thuê dịch vụ và bên trung
gian đều phải là thương nhân. Nhưng Điều 150 nêu lên khái niệm về hoạt
động môi giới thương mại lại hoàn toàn không đề cập đến việc bên được môi
giới phải là thương nhân. Trong thực tế cũng có rất nhiều trường hợp bên
được môi giới không phải là thương nhân, ví dụ: người dân cần bán nhà nên
thuê người môi giới bất động sản tìm người mua… Như vậy, quy định bên
được môi giới phải là thương nhân không phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra, bên môi giới cũng không nhất thiết phải là thương nhân. Bộ
xây dựng đã cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản cho những người
không phải là thương nhân. Thị trường OTC trước đây và thị trường UPCoM
hiện nay có rất nhiều người không phải là thương nhân nhưng vẫn tiến hành
hoạt động môi giới chứng khoán. Bộ luật hàng hải năm 2005 cũng không yêu
cầu người môi giới hàng hải phải là thương nhân.
Việc có thừa nhận bên môi giới không bắt buộc là thương nhân hay
không là một vấn đề cần được các nhà làm luật nghiêm túc xem xét. Thừa
nhận điều này sẽ kéo theo rất nhiều vấn đề cần được pháp luật quan tâm điều
chỉnh. Bên cạnh các quy định dành cho người môi giới là thương nhân, liệu
có cần ban hành những quy định dành cho người môi giới không phải là
thương nhân? Quyền và nghĩa vụ của hai loại chủ thể này khác nhau thế nào?
Từ đó sẽ dẫn đến yêu cầu sửa đổi không chỉ Luật thương mại Việt Nam năm
2005 mà cả các luật chuyên ngành.
65
3.2.2.2 Bổ sung các quy định và quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và
bên được môi giới với bên thứ ba
Quan hệ môi giới thương mại đặc biệt ở chỗ nó liên quan đến ba bên:
bên môi giới, bên được môi giới và bên thứ ba. Hợp đồng mà bên được môi
giới giao kết với bên thứ ba xuất phát từ hợp đồng giữa bên môi giới và bên
được môi giới. Do đó, giữa bên được môi giới, bên thứ ba và bên môi giới có
mối liên hệ rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nghĩa vụ của mỗi bên như thế
nào, nếu việc vi phạm nghĩa vụ của một bên ảnh hưởng đến quyền lợi của hai
bên còn lại thì các bên cần giải quyết ra sao…, những điều này cần được quy
định rõ trong Luật.
Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ môi giới
thương mại đối với bên thứ ba góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi bên
trong giao dịch thương mại, đồng thời tránh được việc hai bên câu kết với
nhau gây thiệt hại cho bên còn lại.
3.2.2.3 Sửa đổi quy định về hình thức của hợp đồng môi giới
Ngoại trừ hoạt động môi giới thương mại, các chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ trung gian thương mại khác (Đại diện cho thương nhân, Ủy thác
mua bán hàng hóa, Đại lý thương mại) đều phải giao kết hợp đồng dưới hình
thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Như vậy, hợp đồng giữa bên môi giới và bên được môi giới có thể được
giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Quy định này có điểm
tương đồng với Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế (Điều 11 của Công ước này ghi rõ: Hợp đồng mua bán
không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ
một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được
chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng.).
Tuy nhiên, Điều 96 của Công ước Viên cho phép các thành viên tham
gia có quyền bảo lưu, không tuân theo Điều 11 nếu luật của nước thành viên
66
quy định hợp đồng mua bán phải được kí kết hay xác nhận bằng văn bản.
Điều này cho thấy, ở nhiều nước, luật pháp không khuyến khích việc giao kết
hợp đồng dưới các hình thức phi văn bản. Nguyên do có thể là bởi: rất khó
dựa vào các hợp đồng được lập dưới hình thức phi văn bản để giải quyết tranh
chấp.
Ở Việt Nam, hoạt động môi giới thương mại còn thiếu chuyên nghiệp,
đang tồn tại nhiều bất cập; thông tin bất cân xứng, thiếu minh bạch. Vậy, nên
chăng, pháp luật cần quy định hợp đồng môi giới thương mại phải được tạo
lập dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương để tạo cơ sở vững chắc cho việc giải quyết các tranh chấp, đảm bảo
quyền lợi của các bên tham gia?
3.2.2.4 Quy định rõ về thù lao và chi phí môi giới
Thứ nhất, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 cần làm rõ thế nào là chi
phí phát sinh hợp lý cũng như cách xác định chi phí phát sinh hợp lý.
Thứ hai, Luật nên xem xét lại quy định người môi giới được quyền nhận
cả thù lao môi giới và chi phí môi giới khi việc môi giới thành công (khoản 1,
Điều 153 và Điều 154). Cần nói thêm rằng, khi thương lượng với bên được
môi giới về thù lao, bên môi giới đã có sự suy tính sao cho thù lao môi giới
tối thiểu cũng đủ bù đắp những chi phí để thực hiện việc môi giới. Do đó, sẽ
hợp lý hơn, nếu bên môi giới chỉ nhận được một trong hai khoản: thù lao hoặc
chi phí môi giới (trừ khi giữa các bên có thỏa thuận khác).
Thứ ba, Luật nên bổ sung những quy định về trường hợp loại trừ quyền
hưởng thù lao của bên môi giới.
3.2.2.5 Bổ sung những quy định về quyền và nghĩa vụ của bên môi giới
và bên được môi giới khi hợp đồng môi giới thương mại chấm dứt
Như đã phân tích trong phần Một số bất cập trong hoạt động MGBĐS, có
nhiều trường hợp, khi hợp đồng môi giới đã chấm dứt, các bên được môi giới
mới phát hiện ra bên môi giới mắc sai phạm, gây thiệt hại đến quyền lợi của họ.
67
Bổ sung những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng môi
giới thương mại chấm dứt là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên liên
quan, tránh việc hai bên thông đồng với nhau để lừa gạt bên còn lại.
3.2.3 Sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán năm 2006, Luật kinh doanh
BĐS năm 2006
3.2.3.1 Bổ sung những quy định về quyền hưởng thù lao, hoa hồng môi
giới của người môi giới chứng khoán
Luật chứng khoán năm 2006 quy định về hoạt động môi giới thương mại
khá sơ sài. Luật này không đề cập đến quyền của người môi giới chứng khoán
– cũng chính là công ty chứng khoán. Luật nên bổ sung những quy định về
quyền của người môi giới chứng khoán, đặc biệt là quyền hưởng thù lao và
hoa hồng môi giới. Những quy định này nên thống nhất với quy định của Luật
thương mại năm 2005, tránh gây ra mâu thuẫn như những quy định của về thù
lao và hoa hồng môi giới của Luật kinh doanh BĐS năm 2006.
3.2.3.2 Bổ sung quy định về trách nhiệm của người môi giới chứng
khoán đối với khách hàng khi người môi giới mắc lỗi, gây thiệt hại cho khách
hàng
Luật kinh doanh BĐS năm 2006 thiếu những quy định cụ thể về trách
nhiệm của nhân viên môi giới khi họ mắc lỗi, gây thiệt hại đến quyền lợi của
khách hàng. Chương IX (Thanh tra và xử lý vi phạm) của Luật này có những
quy định về xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Tuy
vậy, các quy định còn mang tính chung chung dưới hình thức “phạt tiền, xử lý
kỷ luật theo quy định của pháp luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật” mà không chỉ rõ mức độ sai phạm nào thì tương ứng
với mỗi hình thức xử phạt trên.
Hiện nay, các vi phạm trong quan hệ môi giới chứng khoán chủ yếu
được xử lý theo Nghị định số 36/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và Thông tư số
68
27/2010/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng phí
hoạt động chứng khoán áp dụng tại các Sở giao dịch chứng khoán và Trung
tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên, khoản tiền phạt mà công ty chứng khoán phải chịu theo quy
định của các văn bản trên sẽ được nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà đầu tư chịu thiệt hại do lỗi của nhân viên môi giới được đền bù thế nào
tùy thuộc vào thỏa thuận giữa nhà đầu tư và công ty chứng khoán. Luật chứng
khoán năm 2006 và các văn bản liên quan đều chưa có quy định về vấn đề
này.
Khi các công ty chứng khoán triển khai giao dịch trực tuyến, các rủi ro
đối với khách hàng cũng tăng lên. Do tính phức tạp của giao dịch trực tuyến,
điểm 5.1.6 của Thông tư số 50/2009/TT-BTC (Thông tư hướng dẫn về giao
dịch điện tử trên thị trường chứng khoán) quy định, công ty chứng khoán phải
ký một hợp đồng bằng văn bản với khách hàng quy định rõ các trách nhiệm
pháp lý của cả hai bên bao gồm trách nhiệm bồi thường khi xảy ra rủi ro;
công ty chứng khoán cũng phải nêu rõ các rủi ro liên quan đối với nhà đầu tư
dưới hình thức một “Bản công bố rủi ro” đính kèm hợp đồng.
Kể từ khi hoạt động giao dịch trực tuyến được chính thức triển khai trên
thị trường chứng khoán Việt Nam đến nay chưa đầy 2 năm, do đó các quy
định của pháp luật về giao dịch trực tuyến chưa thể hoàn thiện đủ để đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư, tương lai sẽ còn phát sinh nhiều vấn đề cần xem xét.
Người viết khóa luận cho rằng, vấn đề quan trọng nhất trong phương
thức giao dịch chứng khoán trực tuyến chính là xác định được thiệt hại nào do
lỗi khách quan, thiệt hại nào do lỗi chủ quan của công ty chứng khoán; với
những thiệt hại do lỗi chủ quan, pháp luật nên quy định bồi thường như thế
nào? Hiện nay, các vi phạm trong giao dịch điện tử được xử lý theo Nghị định
số 27/2007/NĐ-CP (Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính),
nhưng các quy định của Nghị định này vẫn khá sơ sài.
69
Nên chăng, Ủy ban chứng khoán Nhà nước hoặc một cơ quan pháp luật
nào đó ban hành một mẫu hợp đồng chuẩn về cung cấp dịch vụ giao dịch điện
tử trong lĩnh vực chứng khoán, trong đó nêu rõ các rủi ro có thể xảy ra, quyền
và nghĩa vụ của các bên liên quan. Nếu làm được như vậy, hoạt động giao
dịch điện tử trên thị trường chứng khoán sẽ đi theo khuôn phép, các tranh
chấp trong quan hệ môi giới chứng khoán mới có cơ sở giải quyết minh bạch.
3.2.3.3 Sửa đổi văn bản dưới luật về điều kiện để công ty chứng khoán
được phép tiến hành phương thức giao dịch trực tuyến
Công ty chứng khoán muốn cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán
trực tuyến phải đăng ký với UBCKNN (theo điểm 5.3.1 và 5.3.2 của Thông tư
số 50/2009/TT-BTC về hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng
khoán). Hồ sơ đăng kí bao gồm 10 loại giấy tờ, trong đó có báo cáo phân tích
tóm tắt và báo cáo thiết kế hệ thống liên quan đến hệ thống dịch vụ giao dịch
chứng khoán trực tuyến.
Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng (Phó tổng giám đốc Sở giao dịch chứng
khoán Tp. HCM), quy định này không hợp lý, vì các thông tin đó là bí mật
của các công ty. Ông Hùng cho rằng, Luật chứng khoán năm 2006 cho phép
CTCK kinh doanh nghiệp vụ môi giới chứng khoán, giao dịch điện tử là một
phương thức của nghiệp vụ này, nên việc Thông tư yêu cầu các CTCK phải
xin phép lại một lần nữa là không cần thiết. Theo ông Hùng, những quy định
nói trên của Thông tư đã can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp59
.
3.2.3.4 Ban hành nghị định mới nâng khung hình phạt đối với các vi
phạm của công ty chứng khoán
Việc xử phạt vi phạm hình chính trong lĩnh vực chứng khoán hiện nay
tuân theo Nghị định số 36/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
59 Xuân Tòa (2007), Dự thảo giao dịch chứng khoán trực tuyến: cần thêm quy định bồi thường khi gặp rủi
ro, 20/12/2007, truy cập ngày 18/04/2010, http://vietbao.vn/Kinh-te/Du-thao-giao-dich-chung-khoan-truc-