1 TỔ CHỨC VÀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6 LÀM THÍ NGHIỆM THEO NHÓM Ở MÔN VẬT LÝ A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Theo Luật giáo dục thì mục tiêu của giáo dục THCS là: “Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Để phục vụ mục tiêu trên, chương trình THCS cũng cần được thiết kế theo hướng giảm tính lý thuyết, tăng tính thực tiễn, tăng thời gian tự học và hoạt động ngoại khoá. Vật lý là môn học chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học ở nhà trường phổ thông. Vì nó có nhiều nhiệm vụ: - Cung cấp kiến thức vật lý phổ thông cơ bản có hệ thống và tương đối toàn diện. - Rèn luyện những kỹ năng cơ bản có tính chất kỹ thuật tổng hợp. - Góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới. Năm học 2002-2003 Bộ giáo dục đưa môn vật lý vào giảng dạy ở chương trình lớp 6 và theo đó là sự đổi mới về phương pháp dạy học mang tính cải tiến, với phương châm là: dạy học tạo điều kiện để học sinh “ suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn” Chương trình vật lý 6 có 35 tiết trong đó số tiết bài có thí nghiệm là 28 và trong 28 tiết có thí nghiệm thì có 23 tiết là thí nghiệm thực tập, học sinh phải làm theo nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, (chiếm tỉ lệ 82%). Từ những số liệu trên ta thấy số tiết học sinh làm thí nghiệm thực hành là rất nhiều. Tuy nhiên, học sinh lớp 6 mới làm quen với môn vật lý, rất lúng túng khi tiến hành thí nghiệm nên gây nhiều khó khăn cho giáo viên trong việc tổ chức và hướng dẫn. Mặc khác, còn rất nhiều trường chưa có phòng học bộ môn vật lý hoặc chỉ có một phòng bộ môn vật lý nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm thực tập tại phòng học (vì trùng tiết) điều này hết sức khó khăn và mất thời gian. Hơn nữa, chương trình dạy học rất cứng với quy định chặt chẽ về thời lượng trong từng bài học; sĩ số trong một lớp học khá đông gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động nhóm. Sau đây, tôi xin nêu ra một số kinh nghiệm của bản thân về việc tổ chức và hướng dẫn học sinh khối 6 làm thí nghiệm theo nhóm tại phòng học.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
TỔ CHỨC VÀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6 LÀM THÍ NGHIỆM THEO
NHÓM Ở MÔN VẬT LÝ
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Theo Luật giáo dục thì mục tiêu của giáo dục THCS là: “Giáo dục trung học cơ sở
nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình
độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để
tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.
Để phục vụ mục tiêu trên, chương trình THCS cũng cần được thiết kế theo hướng
giảm tính lý thuyết, tăng tính thực tiễn, tăng thời gian tự học và hoạt động ngoại khoá.
Vật lý là môn học chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học ở nhà
trường phổ thông. Vì nó có nhiều nhiệm vụ:
- Cung cấp kiến thức vật lý phổ thông cơ bản có hệ thống và tương đối toàn
diện.
- Rèn luyện những kỹ năng cơ bản có tính chất kỹ thuật tổng hợp.
- Góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, rèn luyện những phẩm chất của
người lao động mới.
Năm học 2002-2003 Bộ giáo dục đưa môn vật lý vào giảng dạy ở chương trình
lớp 6 và theo đó là sự đổi mới về phương pháp dạy học mang tính cải tiến, với phương
châm là: dạy học tạo điều kiện để học sinh “ suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn,
thảo luận nhiều hơn”
Chương trình vật lý 6 có 35 tiết trong đó số tiết bài có thí nghiệm là 28 và trong 28
tiết có thí nghiệm thì có 23 tiết là thí nghiệm thực tập, học sinh phải làm theo nhóm dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, (chiếm tỉ lệ 82%). Từ những số liệu trên ta thấy số tiết học
sinh làm thí nghiệm thực hành là rất nhiều. Tuy nhiên, học sinh lớp 6 mới làm quen với
môn vật lý, rất lúng túng khi tiến hành thí nghiệm nên gây nhiều khó khăn cho giáo viên
trong việc tổ chức và hướng dẫn.
Mặc khác, còn rất nhiều trường chưa có phòng học bộ môn vật lý hoặc chỉ có một
phòng bộ môn vật lý nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm thực tập tại
phòng học (vì trùng tiết) điều này hết sức khó khăn và mất thời gian.
Hơn nữa, chương trình dạy học rất cứng với quy định chặt chẽ về thời lượng trong
từng bài học; sĩ số trong một lớp học khá đông gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động
nhóm.
Sau đây, tôi xin nêu ra một số kinh nghiệm của bản thân về việc tổ chức và hướng
dẫn học sinh khối 6 làm thí nghiệm theo nhóm tại phòng học.
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Sơ lược về mục tiêu môn vật lý 6 và trang thiết bị thí nghiệm :
Vật lý 6 gồm có hai chương (chương 1: cơ học và chương 2: nhiệt học )
1.1. Chương 1: Cơ học
a. Mục tiêu:
- Biết sử dụng các dụng cụ: thước, bình chia độ, cân đòn, lực kế để đo các đại lượng
tương ứng: độ dài, thể tích, khối lượng, trọng lượng.
- Nhận dạng tác dụng của lực như là đẩy hoặc kéo của vật; mô tả kết quả tác dụng
của lực, chỉ ra được hai lực cân bằng khi chúng cùng tác dụng vào một vật đang đứng
yên; Nhận biết biểu hiện của lực đàn hồi.
- Phân biệt và biết biểu thức liên hệ giữa khối lượng và trọng lượng; biết cách xác
định khối lượng riêng và trọng lượng riêng.
- Biết sử dụng ròng rọc, đòn bẩy, mặt phẳng nghiêng để đổi hướng của lực hoặc để
dùng lực nhỏ thắng được lực lớn.
b. Thiết bị thí nghiệm:
- Các dụng cụ đo đạc như các loại thước cuộn, các loại bình chia độ…, cân
Rôbécvan, các loại lực kế.
- Ròng rọc, mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy, giá đỡ…
- Lò xo xoắn, lò xo lá tròn, quả gia trọng (qủa nặng), xe lăn, khối gỗ…
- Các vật dễ kiếm như: thước dây 1,5m, thước nhựa dẹp 30cm, cuộn chỉ, dây thun,
viên bi, tấm ván, tuốc-nơ-vít nhỏ…
1.2. Chương 2: nhiệt học
a. Mục tiêu:
- Rút ra kết luận về sự co dãn vì nhiệt của các chất rắn, lỏng, khí.
- Giải thích một số hiện tượng ứng dụng sự nở vì nhiệt trong tự nhiên, đời sống và
kĩ thuật.
- Mô tả cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của các loại nhiệt kế thường dùng, biết
dùng nhiệt kế y tế để đo nhiệt độ cơ thể.
- Mô tả và vẽ đường biểu diễn sự phụ thuộc của nhiệt độ vào thời gian trong quá
trình làm nóng chảy băng phiến (hoặc chất rắn kết tinh); rút ra kết luận về đặc điểm của
nhiệt độ trong thời gian vật (băng phiến) nóng chảy.
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự bay hơi; phác hoạ thí nghiệm kiểm tra
giải thuyết chất lỏng lạnh đi khi bay hơi và các chất lỏng khác nhau bay hơi nhanh, chậm
khác nhau, cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự bay hơi nhanh, chậm của chất
lỏng.
- Mô tả thí nghiệm chứng tỏ hơi nước ngưng tụ khi gặp lạnh và nêu một số hiện
tượng ngưng tụ trong đời sống tự nhiên.
3
- Trình bày cách tiến hành thí nghiệm và vẽ đường biểu diễn sự phụ thuộc của nhiệt
độ vào thời gian đun trong quá trình đun sôi nước.
- Phân biệt sự sôi và sự bay hơi của nước; biết các chất lỏng khác nhau sôi ở nhiệt
độ khác nhau.
b. Thiết bị thí nghiệm :
- Ống nghiệm, giá đỡ ống nghiệm, ống thuỷ tinh có thể xuyên qua nút cao su của
ống nghiệm, vòng kim loại và quả bóng bằng kim loại lọt vừa khít vòng, thanh thép.
- Nguồn nhiệt, kẹp để cầm ống nghiệm, các loại nhiệt kế thông dụng, giá đỡ thí
nghiệm.
- Các vật dễ kiếm như: mảnh giấy bạc gói thuốc lá, dây cao su, diêm, nước, dầu
hoả, dầu ăn, băng phiến, nước đá, túi pôliêtilen, lọ, cốc nhựa hoặc thuỷ tinh.…
2. Dạy học theo phương pháp hoạt động nhóm:
Muốn dạy học theo phương pháp hoạt động nhóm, giáo viên cần chia nhóm, phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm, chuẩn bị các nội dung thí nghiệm, phiếu học tập, bài
tập … từ bước dặn dò của tiết trước. Đây là khâu quan trọng giúp học sinh tìm hiểu nội
dung bài học mới, nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng tiết dạy sẽ không thành công.
Tổ chức lớp học:
-Lớp học được chia thành các nhóm nhỏ: Số lượng nhóm không quá nhiều vì sẽ
không đủ dụng cụ thiết bị cho các nhóm nhưng cũng không quá ít vì số lượng học sinh
trong một nhóm quá đông sẽ không thuận tiện trong việc thảo luận của học sinh. Nếu số
học sinh trong lớp từ 36 đến 48 thì nên chia thành 6 nhóm nhỏ (Có khoảng từ 6 đến 8
học sinh trong một nhóm.): mỗi nhóm là 2 bàn khi có thí nghiệm thì học sinh ở bàn trên
sẽ quay xuống, để các học sinh trong nhóm ngồi đối mặt nhau. (xem sơ đồ 1)
Tuỳ mục đích yêu cầu của đề tài học tập, sinh hoạt nhóm trong vài phần của tiết
học hoặc ổn định suốt tiết, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác
nhau. Theo tôi sinh hoạt nhóm chỉ nên diễn ra tối đa là hai lần.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng hoặc thư ký để ghi lại kết quả làm chung (giáo viên có
thể chỉ định giúp nếu học sinh chưa quen, thường nhóm trưởng là học sinh nam còn thư
ký là học sinh nữ cả hai phải năng nổ và lanh lợi), Vị trí của nhóm trưởng và thư ký như
trong sơ đồ ở trên, Nhóm trưởng thường chịu trách nhiệm nhận và trả dụng cụ nếu có
dụng cụ nào bị hỏng hoặc mất mát sau khi làm thí nghiệm thì phải báo ngay cho giáo
viên; thư kí chịu trách nhiệm ghi tổng hợp ý kiến thảo luận của nhóm vào phiếu học tập.
Nhóm có thể phân công mỗi thành viên hoàn thành một phần việc, mỗi người đều phải
hoạt động tích cực không ỉ lại vào những người hiểu biết và năng động hơn, phải tôn
trọng ý kiến của các thành viên trong nhóm, cần giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ trong
không khí thi đua với các nhóm khác.
4
BẢNG
Nhóm 1
Nhóm 3
Nhóm 2
Nhóm 4
Nhóm 6
Nhóm 5
Sơ đồ 1: Tổ chức nhóm
Cấu tạo của một tiết, một giai đoạn làm việc theo nhóm như sau:
a. Làm việc chung cả lớp:
- Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ chung.
- Giáo viên tổ chức nhóm, giao nhiệm vụ nhóm.
- Giáo viên hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
b. Làm nhiệm vụ:
- Trao đổi ý kiến, thảo luận…
- Thư ký ghi tổng hợp việc làm của nhóm vào phiếu học tập.
- Cử đại diện (thư ký hoặc nhóm trưởng) trình bày kết quả của nhóm.
c. Tổng kết thảo luận chung lớp:
- Mỗi nhóm lần lượt báo kết quả.
- Giáo viên hướng dẫn lớp tham gia thảo luận đi đến kết quả đúng.
- Giáo viên ghi nhận kết quả (nội dung bài học).
3. Thí nghiệm vật lý ở cấp THCS:
3.1. Chức năng của thí nghiệm vật lý:
Theo quan điểm của lí luận nhận thức :Thí nghiệm là phương tiện của việc thu
nhận tri thức, là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức đã thu được, là
phương tiện của việc vận dụng tri thức đã thu được vào thực tiễn, là một bộ phận của các
phương pháp nhận thức vật lý.
Theo quan điểm của lý luận dạy học: Thí nghiệm có thể sử dụng ở tất cả các
giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề cần nghiên cứu, hình thành
kiến thức kỹ năng mới, củng cố kiến thức, kỹ năng đã thu được và kiểm tra, đánh giá kiến
thức kỹ năng của học sinh.
5
3.2. Phân loại thí nghiệm trong nhà trường:
Có hai loại thí nghiệm được sử dụng trong dạy học vật lý ở trường trung học cơ
sở: thí nghiệm biểu diễn (thí nghiệm do giáo viên tiến hành là chính, tuy có thể có hỗ trợ
của học sinh) và thí nghiệm thực tập (thí nghiệm do học sinh tự tiến hành dưới sự hướng
dẫn của giáo viên).
Do tác dụng trên nhiều mặt của thí nghiệm thực tập nên việc tăng cường các thí
nghiệm thực tập là một trong những nội dung của việc đổi mới chương trình, nội dung và
phương pháp dạy học vật lý ở trường trung học cơ sở hiện nay. Phần lớn các thí nghiệm
vật lý được qui định trong chương trình trung học cơ sở mới là thí nghiệm thực tập. Ví
dụ: ở lớp 6 trong tổng số 28 tiết bài học đề tài thì có đến 23 tiết có thí nghiệm thực tập.
Chỉ khi không có điều kiện tổ chức cho học sinh đồng thời làm thí nghiệm trong quá trình
nhận thức như không đủ dụng cụ, thí nghiệm quá phức tạp, mất nhiều thời gian, khó đảm
bảo an toàn trong quá trình học sinh làm thí nghiệm... mới phải sử dụng thí nghiệm biểu
diễn.
3.2.1. Thí nghiệm biểu diễn:
Thí nghiệm biểu diễn được giáo viên tiến hành ở trên lớp, trong các giờ học
nghiên cứu kiến thức mới và có thể ở các giờ học củng cố kiến thức của học sinh. Thí
nghiệm biểu diễn gồm những loại sau:
1. Thí nghiệm mở đầu là thí nghiệm nhằm giới thiệu cho học sinh biết sơ qua về
hiện tượng sắp nghiên cứu, để tạo tình huống có vấn đề, tạo nhu cầu hứng thú học tập của
học sinh, lôi cuốn học sinh vào hoạt động nhận thức. Ví dụ: thí nghiệm nhúng quả bóng
bàn vào nước ấm, trong bài “sự nở vì nhiệt của chất khí”, thí nghiệm sự ngưng tụ của hơi
nước lên thành cốc nước đá, trong bài “sự bay hơi – sự ngưng tụ (tiếp theo).
2. Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng là thí nghiệm nhằm xây dựng hoặc kiểm
chứng lại kiến thức mới, được sử dụng trong giai đoạn nghiên cứu kiến thức mới. Thí
nghiệm nghiên cứu hiện tượng bao gồm: Thí nghiệm nghiên cứu khảo sát, thí nghiệm
minh hoạ. Ví dụ: Thí nghiệm về sự nở vì nhiệt của chất rắn ở bài 18 “sự nở vì nhiệt của
chất rắn”, Thí nghiệm về sự nóng chảy và đông đặc của băng phiến ở hai bài 24 và 25 “
sự nóng chảy và sự đông đặc” và “ sự nóng chảy và sự đông đặc (tiếp theo)”.
3. Thí nghiệm củng cố là thí nghiệm nêu lên những biểu hiện của kiến thức đã
học trong tự nhiên, đề cập các ứng dụng của kiến thức này trong sản xuất và đời sống, đòi
hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức đã học để dự đoán hoặc giải thích hiện tượng hay cơ
chế hoạt động của các thiết bị, dung cụ kỹ thuật, thông qua đó giáo viên cũng có thể kiểm
tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
3.2.2. Thí nghiệm thực tập
Là thí nghiệm do học sinh tự tiến hành trên lớp, trong phòng học bộ môn, ngoài
lớp, ngoài nhà trường hoặc ở nhà với các mức độ tự lực khác nhau. Gồm có ba loại:
1. Thí nghiệm trực diện:Cũng như thí nghiệm biểu diễn, tùy theo mục đích sử
dụng thí nghiệm trực diện có thể là thí nghiệm mở đầu, thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng
được tiến hành dưới dạng nghiên cứu khảo sát hay nghiên cứu minh hoạ và cũng có thể là
thí nghiệm củng cố.Thí nghiệm trực diện có thể được tổ chức dưới hình thức thí nghiệm
đồng loạt (giáo viên chia học sinh thành các nhóm, tất cả các nhóm học sinh cùng lúc làm
các thí nghiệm như nhau với dụng cụ giống nhau để giải quyết cùng một nhiệm vụ)
nhưng cũng có thể dưới hình thức thí nghiệm cá thể (các nhóm học sinh cùng một lúc tiến
6
hành các thí nghiệm khác nhau thường cùng một dụng cụ nhằm giải quyết các nhiệm vụ
bộ phận, để đi tới giải quyết được một nhiệm vụ tổng quát).
So với thí nghiệm trực diện, ngoài các tác dụng về mặt rèn luyện kỹ năng thí
nghiệm, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu, giáo dục thái độ, tác phong và phương pháp
làm việc tập thể, thí nghiệm trực diện còn có ưu điểm hơn ở chổ: các kết luận được rút ra
trên cơ sở một số lượng nhiều hơn các cứ liệu thí nghiệm, các cứ liệu thí nghiệm này đã
được các nhóm học sinh so sánh, bổ sung; qua đó, học sinh thấy được tính chất khách
quan của các quy luật đang nghiên cứu.
Trong chương trình trung học cơ sở mới nói chung và chương trình vật lý lớp 6
nói riêng , hầu hết các thí nghiệm cần tiến hành đều là thí nghiệm trực diện đồng loạt. Ví
dụ: Thí nghiệm tìm hiểu kết quả tác dụng của lực ở bài 7 “Tìm hiểu kết quả tác dụng của
lực”, thí nghiệm về sự đàn hồi của lò xo ở bài 9 “lực đàn hồi”…
2. Thí nghiệm thực hành: Được tiến hành khi học sinh đã học xong một chương
một phần của chương trình. Thí nghiệm do học sinh thực hiện trên lớp (trong phòng học
bộ môn) mà sự tự lực làm việc cao hơn so với ở thí nghiệm trực diện. Học sinh dựa vào
tài liệu hướng dẫn đã in sẵn (có thể có sự giúp đỡ của giáo viên) mà tiến hành thí nghiệm,
rồi viết báo cáo thí nghiệm.
Ví dụ: Ở chương trình vật lý lớp 6 có hai bài: “Bài 12. Thực hành: xác định
khối lượng riêng của sỏi” và “Bài 23. Thực hành: đo nhiệt độ”
3. Thí nghiệm và quan sát vật lý ở nhà: Là loại bài mà giáo viên giao cho từng
học sinh hoặc các nhóm học sinh thực hiện ở nhà.
Khác với các loại thí nghiệm khác, học sinh tiến hành thí nghiệm và quan sát
vật lý trong điều kiện không có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên. Vì vậy. Loại
thí nghiệm này đòi hỏi cao tính tự giác, tự lực của học sinh trong học tập; chỉ đòi hỏi học
sinh sử dụng các dụng cụ thông dụng trong đời sống, các đồ chơi có bán trên thị trường,
những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ đơn giản do học sinh tự chế tạo. Chính
đặc điểm này tạo nhiều cơ hội để phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong việc
thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ nhằm hoàn thiện nhiệm vụ được giao.
Nội dung của loại bài làm ở nhà này rất phong phú, có thể ra dưới nhiều dạng
khác nhau: mô tả một phương án thí nghiệm, yêu cầu học sinh tiến hành thí nghiệm, tiên
đoán hoặc giải thích kết quả thí nghiệm : Cho trước dụng cụ, yêu cầu học sinh thiết kế
phương án thí nghiệm để đạt được một mục đích nhất định (quan sát một hiện tượng, xác
định được một đại lượn vật lý); yêu cầu học sinh chế tạo một dụng cụ thí nghiệm đơn
giản (có thể cho trước các vật dụng cần thiết) rồi tiến hành thí nghiệm với dụng cụ này
nhằm đạt được mục đích cho trước … Nội dung của các thí nghiệm ở nhà có thể mang
tính chất định tính hoặc định lượng.
Ví dụ: Sau khi học sinh lớp 6 học xong bài 2: “Đo độ dài (tt)” giáo viên yêu cầu
học sinh về nhà dùng thước đo và kiểm tra thử xem đường chéo màn hình ti vi của mình
là bao nhiêu inch có đúng như số inch mà người bán hàng đã nói không, xác định giới
hạn đo và độ chia nhỏ nhất của các dụng cụ đo độ dài mà ở nhà em có hoặc sau khi học
xong bài 3 : “Đo thể tích chất lỏng” thì yêu cầu học sinh về nhà làm một bình chia độ với
các dụng cụ gồm băng giấy trắng, chai nhựa (hoặc chai nước ngọt…), bơm tiêm hoặc sau
khi học xong bài10: “lực kế- phép đo lực- trọng lượng và khối lượng”, yêu cầu học sinh
về nhà tự làm một cái lực kế hoặc một số bài tập trong sách bài tập có yêu cầu học sinh
7
làm thí nghiệm ở nhà như : bài 4.3, 4.4, 4.5, 4.6 trang 8; bài 6.5 trang 11; bài 15.4 trang