Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều, Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô. Thây không lấp mà để phơi khô, Không nước mà uống Nam Mô đạo nào. Gặp trận gió niệm Phật ào ào, Chừng tan giông gió Phật nào thấy đâu. Khá chí tâm mài sắt dò sâu, Nên kim mới giỏi Phật đâu tức thời. Tu nhứt kiếp ngộ Phật nhứt thời… (Kim Cổ Kỳ Quan 4: 7, Ông Ba Nguyễn Văn Thới viết năm 1915) Từ đây thức dậy canh thâu, Ba Năm khắc khổ não sầu bi ai. Phật pháp đấng chuyển lay vô giá, Sắp hành trình tan rã vô biên. Lọc xong các bậc tôi hiền, Dâng lên cúng Phật tại triền bảo châu. Phạt ma quỷ canh thâu chìm đắm, Đừng có mê áo gấm thêu hoa. Mê quan mê chức mê nhà, Từ đây phải chịu biển hà vùi chôn! (Quay Về Nguồn Cội tr. 277, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ngày 18-7 Tân Mùi 1991 tại Giồng Riềng, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997) Cậu đờn bá tánh không no, Ba Năm khắc khổ hỏng giò than van. Ba Năm biến thể thành than, Ba Năm Cậu thấy xóm làng khổ đau. Ba Năm cô bác đồng bào, Giết đâm chết loạn biết đâu mà tường. Ôi thôi nhiều nỗi đoạn trường, Ba Năm khắc khổ biết đường nào đi. Ba Năm chi xiết ai bi, Ngọ Mùi Thân Dậu vậy thì bày khai. BA NĂM khổ sở lá lay, Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn. BA NĂM mất của mất vàng, Mất quan mất chức họ hàng mất luôn. BA NĂM mất triệu mất muôn, Nói đây rồi lại thêm buồn thô sơ. Ngồi buồn lật bản đồ thơ, Thấy trong thế sự hiện giờ còn nguy. Đờn kêu nhiều sự lâm li, Đờn kêu cậu nói việc gì ngộ ghê. Đờn kêu xiết đả Con Dê, Con Dê rơi rụng thành mê ráo rồi! (Sấm Giảng Thất Sơn tr. 34-35, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết tại Tân Châu vào thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2003) Từ đây náo nhiệt nước kiệt nhà tan, Trời Phật còn than Niết Bàn không ổn. Thì là nguy khốn dân chúng nổi trôi, Cậu nói rồi coi bẩn tồi tan nát. Ráng về giải thoát một lát rồi xem, Thi thơ Cậu đem bên rèm Cậu tặng. Nơi miền Cậu nhắn biển vắng xa xôi, Nói chẳng thảnh thơi Ba Năm loạn lạc.* Về đi giải thoát tận diệt gần kề, Mùa Hè năm Dê Cậu phê bút chỉ. Đó rồi niên kỷ tất cả trắng tay, Nghiệp quả có vay bị đày ráng chịu. Anh em lo liệu lên kiệu mà về, Sóng bủa tràn trề bến mê rũ chí. Gần ngày trường thí Thầy mở đại khoa, Đạo ở miền xa cùng TA trở bước. Ở đâu đói trước Cậu chỉ cho tường, Lạc quốc nhà Vương từ đây gần lập. Thì là gió tắp bão tới liền liền, Thay đổi Đài Tiên ai miền thế giả. Từ đây phải rã lập quốc dân ơi, Muốn thấy ngôi Trời trung quân mới rõ. Kỳ này cây cỏ Cậu thấy cũng tiêu, ………………………………………….. Miền Nam diệu vợi Thánh Chúa lập Đời, Phải chịu dân ơi, Ba Năm khắc khổ. Năm Thân lệ đổ không biết dường nào, Lớp bịnh lớp đau lớp gào lớp thét.
10
Embed
T Ba Năm - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn. BA NĂM mất của mất vàng, Mất quan mất chức họ hàng mất luôn. BA NĂM
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều,
Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.
Thây không lấp mà để phơi khô,
Không nước mà uống Nam Mô đạo nào.
Gặp trận gió niệm Phật ào ào,
Chừng tan giông gió Phật nào thấy đâu.
Khá chí tâm mài sắt dò sâu,
Nên kim mới giỏi Phật đâu tức thời.
Tu nhứt kiếp ngộ Phật nhứt thời… (Kim Cổ Kỳ Quan 4: 7, Ông Ba Nguyễn Văn Thới viết năm
1915)
Từ đây thức dậy canh thâu,
Ba Năm khắc khổ não sầu bi ai.
Phật pháp đấng chuyển lay vô giá,
Sắp hành trình tan rã vô biên.
Lọc xong các bậc tôi hiền,
Dâng lên cúng Phật tại triền bảo châu.
Phạt ma quỷ canh thâu chìm đắm,
Đừng có mê áo gấm thêu hoa.
Mê quan mê chức mê nhà,
Từ đây phải chịu biển hà vùi chôn! (Quay Về Nguồn Cội tr. 277, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng
khẩu thuyết ngày 18-7 Tân Mùi 1991 tại Giồng Riềng, Thiền
Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)
Cậu đờn bá tánh không no,
Ba Năm khắc khổ hỏng giò than van.
Ba Năm biến thể thành than,
Ba Năm Cậu thấy xóm làng khổ đau.
Ba Năm cô bác đồng bào,
Giết đâm chết loạn biết đâu mà tường.
Ôi thôi nhiều nỗi đoạn trường,
Ba Năm khắc khổ biết đường nào đi.
Ba Năm chi xiết ai bi,
Ngọ Mùi Thân Dậu vậy thì bày khai.
BA NĂM khổ sở lá lay,
Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn.
BA NĂM mất của mất vàng,
Mất quan mất chức họ hàng mất luôn.
BA NĂM mất triệu mất muôn,
Nói đây rồi lại thêm buồn thô sơ.
Ngồi buồn lật bản đồ thơ,
Thấy trong thế sự hiện giờ còn nguy.
Đờn kêu nhiều sự lâm li,
Đờn kêu cậu nói việc gì ngộ ghê.
Đờn kêu xiết đả Con Dê,
Con Dê rơi rụng thành mê ráo rồi! (Sấm Giảng Thất Sơn tr. 34-35, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh
ứng khẩu thuyết tại Tân Châu vào thập niên 80, Thiền
Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2003)
Từ đây náo nhiệt nước kiệt nhà tan,
Trời Phật còn than Niết Bàn không ổn.
Thì là nguy khốn dân chúng nổi trôi,
Cậu nói rồi coi bẩn tồi tan nát.
Ráng về giải thoát một lát rồi xem,
Thi thơ Cậu đem bên rèm Cậu tặng.
Nơi miền Cậu nhắn biển vắng xa xôi,
Nói chẳng thảnh thơi Ba Năm loạn lạc.*
Về đi giải thoát tận diệt gần kề,
Mùa Hè năm Dê Cậu phê bút chỉ.
Đó rồi niên kỷ tất cả trắng tay,
Nghiệp quả có vay bị đày ráng chịu.
Anh em lo liệu lên kiệu mà về,
Sóng bủa tràn trề bến mê rũ chí.
Gần ngày trường thí Thầy mở đại khoa,
Đạo ở miền xa cùng TA trở bước.
Ở đâu đói trước Cậu chỉ cho tường,
Lạc quốc nhà Vương từ đây gần lập.
Thì là gió tắp bão tới liền liền,
Thay đổi Đài Tiên ai miền thế giả.
Từ đây phải rã lập quốc dân ơi,
Muốn thấy ngôi Trời trung quân mới rõ.
Kỳ này cây cỏ Cậu thấy cũng tiêu, …………………………………………..
Miền Nam diệu vợi Thánh Chúa lập Đời,
Phải chịu dân ơi, Ba Năm khắc khổ.
Năm Thân lệ đổ không biết dường nào,
Lớp bịnh lớp đau lớp gào lớp thét.
Dân ơi mê chức tài cao,
Từ đây sắp đến tiêu hao mấy phần.
Ngọ Mùi mới rõ nghe dân,
Thân Dậu khắc khổ toàn thân rụng rời.
Ba Năm tàn khốc dân ôi,
Đổi đời lập đạo cơ trời gần ra.
Biến thiên biến thể kia mà,
Biến người thành thú thú mà thành nhơn.
Biến rồi bá tánh đừng hơn,
Biến thiên biến địa Thất Sơn hóa lầu.
Biến cho các nước châu Âu,
Rụng rời khổ sở về chầu Nam bang.
Biến thôi mất triệu mất vàng,
Biến thiên lập địa sảy sàng khổ đau.
Biến rồi dân chúng chắc hao,
Để chi cái thứ mâm cao cỗ đầy.
Quên ân bội Chúa phản Thầy,
Cơ Trời sắp đặt giờ này gần ra. (Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 12, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng
khẩu thuyết ở Phương Lâm thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn
Sydney ấn tống năm 2002)
Ở tận nơi đất khách,
Khéo khai mở đạo mầu.
Ba Năm chẳng dài lâu,
Đáo về quê Nam Việt,
Kiến Phật tại Bích lầu. (Pháp Kệ Bí Truyền, tr. 38, Liên Hoa Tịnh Huệ kết tập lời
Bạch Y Đạo Sĩ, ấn tống tại Mỹ năm 1999)
Và trong những bài cầu cơ của Hội Trà Hoa
từ những năm trước và sau 1975, Vị Lớn {Phật
Thầy Tây An} về cơ cũng cho biết cuộc Tận Thế
Hội Long Hoa là Ba Năm.
Vậy cụm từ Ba Năm trong những đoạn sấm
giảng vừa nêu trên có nghĩa lí gì? Ba Năm phải
chăng là thuật ngữ thiên cơ ám chỉ tháng? Đặc
biệt Đức Cậu Bần Sĩ dùng cụm từ Ba Năm đi
kèm với cụm từ Ngọ Mùi Thân Dậu.
Nếu Ngọ Mùi Thân Dậu{Ngựa, Dê, Khỉ
Gà}, ám chỉ các tháng 5 âl tức tháng Mậu Ngọ,
6 âl {tháng Kỷ Mùi}, 7 âl {tháng Canh Thân}, 8
âl {tháng Tân Dậu}, thì Ba Năm ám chỉ cái gì?
Cụm từ Ba Năm là bài toán đố mẹo: 3 + 5 = 8,
ám chỉ tháng 8 âl tức tháng Tân Dậu năm Mậu
Tuất 2018 thế giới chịu cảnh chết chóc khủng
khiếp vì vũ khí nguyên tử. Tháng 8 âl có sự cố
quan trọng, nên cụm từ Ba Năm được chư vị Bồ
Tát lặp lại nhiều lần: 3 + 5 = 8 = tháng 8 âl. Vì
vậy từ năm 1915, Ông Ba Nguyễn văn Thới đã
cảnh báo:
Lớp thì ai vẹt vẹt ngút mù sa,
Năm Thân kia cà cửa nhà tan nát.
Vì ai ca hát giải thoát như vầy,
Vắng Cậu, vắng Thầy, Rồng Mây gần mở.
DẬU kia ráng nhớ Gà gáy canh thu,*
Thương đạo, khuyên tu mặc dù là khổ.
Long Hoa gần trổ cực khổ một giờ,
Vén ngút mây mờ về đi ấn dấu.
Hẹn trò Năm DẬU sẽ biết bí thơ,*
Cậu đợi Thầy chờ bên bờ sông bãi.
Nghe rồi đừng cãi ỷ lại không nên,
Lô tô dựng nền báo ân buổi trước.
Trò nghe rồi được hiểu được rất mầu,
Mình phải tìm sâu ở nơi huyệt đạo.*
Đừng nên xốc xảo tu giả bên ngoài,
Cốt nhục muôn loài rồi ta sẽ bỏ.
Nghe đi cho rõ rồi tỏ chớ gì,
Về hằng mau đi đạo tâm tia sáng.
Mặc ai nhạo báng trò ráng bồi công,
Kỳ này Biển Đông chập chồng nhuốm máu.
Thương thay TA bảo người đạo phải nghe,
Đúng năm Dê hè sợ e nguy hiểm.
Giữ thân hạnh kiểm cho vẹn đạo mầu,
Bốn biển năm châu thấy trong rùng rợn.
Nó chưa có tởn ham tỉ ham tiền,
Bị Phật Thánh Tiên buộc xiềng hết trọi.
Nó làm tôi mọi lịnh rọi Thiên Đình,
Đây phải thúi sình Hà Sa biết mấy.
Người đâu có thấy lừng lẫy chông gai,
Phạt ở nước ngoài bằng hai Nam Việt. Thôi rồi cách biệt từ giã đạo tâm,