SO SÁNH CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA Ở CÁC BỆNH NHÂN LÓC TÁCH ĐỘNG MẠCH CHỦ TYPE B KHÔNG BIẾN CHỨNG Nguồn: ACC Khoa HSTC biên dịch Giới thiệu: Can thiệp sửa chữa nội mạch động mạch chủ (TEVAR) đã được áp dụng cho các bệnh nhân lóc tách động mạch chủ cấp type B (LTĐMC type B) để giả m tỷ lệ tàn phế và tử vong sau đó. Kết quả so sánh can thiệp sửa chữa động mạch chủ qua da và điều trị nội khoa tối ưu (ĐTNKTƯ) trên các bệnh nhân LTĐMC type B không biến chứng đã được báo cáo. Mục tiêu: nghiên cứu này tìm cách làm sáng tỏ hơn nữa các kêt cục sớm và dài hạn (11 năm) của TEVAR trên các bệnh nhân LTĐMC type B không triệu chứng so sánh với điều trị nội khoa tối ưu. Phương pháp: từ tháng 2 năm 2003 đến tháng 8 năm 2014, 388 bệnh nhân có LTĐMC type B được hồi cứu từ 3 trung tâm viện trường. Các thông tin về đặc điể m chính của đối tượng nghiên cứu được thu thập từ bệnh án. Thông tin chẩ n đoán hình ảnh được thu thập từ hệ thống lưu trữ. Tình trạng huyết khối trong lòng giả và mức độ lóc tách được đánh giá bằng chụp mạch cắt lớp vi tính. Các kết cục sớm và dài hạn của bệnh nhân được ghi lại và phân tích. Kết quả: TEVAR được thực hiện ở 184 bệnh nhân (nhóm TEVAR) và điều tr ị nội khoa tối ưu được thực hiện trên 154 bệnh nhân (ĐTNKTƯ). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về các biến cố sớm và tỷ lệ tử vong trong 30 ngày giữa các nhóm bệnh nhân. Bệnh nhân được ĐTNKTƯ có các biến cố bất lợi liên quan đến động mạch chủ cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TEVAR (p=0.025). Tử vong
2
Embed
SO SÁNH CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ ĐIỀU TRỊ …benhvientimhanoi.vn/upload/10195/fck/files/So sanh can thiep noi mach... · chứng so sánh với điều
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
SO SÁNH CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA Ở CÁC BỆNH NHÂN LÓC TÁCH
ĐỘNG MẠCH CHỦ TYPE B KHÔNG BIẾN CHỨNG
Nguồn: ACC
Khoa HSTC biên dịch
Giới thiệu: Can thiệp sửa chữa nội mạch động mạch chủ (TEVAR) đã được áp
dụng cho các bệnh nhân lóc tách động mạch chủ cấp type B (LTĐMC type B) để
giảm tỷ lệ tàn phế và tử vong sau đó. Kết quả so sánh can thiệp sửa chữa động
mạch chủ qua da và điều trị nội khoa tối ưu (ĐTNKTƯ) trên các bệnh nhân
LTĐMC type B không biến chứng đã được báo cáo.
Mục tiêu: nghiên cứu này tìm cách làm sáng tỏ hơn nữa các kêt cục sớm và
dài hạn (11 năm) của TEVAR trên các bệnh nhân LTĐMC type B không triệu
chứng so sánh với điều trị nội khoa tối ưu.
Phương pháp: từ tháng 2 năm 2003 đến tháng 8 năm 2014, 388 bệnh nhân có
LTĐMC type B được hồi cứu từ 3 trung tâm viện trường. Các thông tin về đặc
điểm chính của đối tượng nghiên cứu được thu thập từ bệnh án. Thông tin chẩn
đoán hình ảnh được thu thập từ hệ thống lưu trữ. Tình trạng huyết khối trong lòng
giả và mức độ lóc tách được đánh giá bằng chụp mạch cắt lớp vi tính. Các kết cục
sớm và dài hạn của bệnh nhân được ghi lại và phân tích.
Kết quả: TEVAR được thực hiện ở 184 bệnh nhân (nhóm TEVAR) và điều trị
nội khoa tối ưu được thực hiện trên 154 bệnh nhân (ĐTNKTƯ). Không có sự khác
biệt có ý nghĩa về các biến cố sớm và tỷ lệ tử vong trong 30 ngày giữa các nhóm
bệnh nhân. Bệnh nhân được ĐTNKTƯ có các biến cố bất lợi liên quan đến động
mạch chủ cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TEVAR (p=0.025). Tử vong
do mọi nguyên nhân ở nhóm TEVAR thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
ĐTNKTƯ (p=0.01).
Kết luận: nghiên cứu khẳng định tính khả thi của TEVAR trên các bệnh nhân
lóc tách ĐMC type B cấp tính không biến chứng, TEVAR làm giảm các biến cố
bất lợi liên quan đến động mạch chủ và giảm tỷ lệ tử vong so với điều trị nội khoa
tối ưu.
Bình luận:
Cần có các nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh kết cục dài hạn của các bệnh nhân
TEVAR với điều trị nội khoa LTĐMC type B không biến chứng.
“Các bệnh nhân LTĐMC type B không biến chứng được điều trị TEVAR có tỷ
lệ sống ở giai đoạn sớm cao hơn so với các bệnh nhân được phẫu thuật mở. Tuy
nhiên, rất nhiều bệnh nhân LTĐMC type B không biến chứng được điều trị nội bảo
tồn, không can thiệp mạch. TEVAR còn được sử dụng cho bệnh nhân LTĐMC
type B không biến chứng dựa trên quan điểm cho rằng bệnh nhân có huyết khối ở
lòng giả sẽ có tiên lượng tốt hơn. Các nghiên cứu được công bố trước đây đã
không nhất quán khi chứng mình TEVAR có thể cải thiện tiên lượng cho các bệnh
nhân LTĐMC type B không biến chứng. Nghiên cứu hồi cứu này đã đưa thêm
bằng chứng chứng minh TEVAR tốt hơn điều trị nội bảo tồn. Tuy nhiên, ở nghiên
cứu này, xu hướng tạo ra sự khác biệt giữa 2 nhóm điều trị là do hồi cứu tất cả các
biến cố xảy ra, với độ lệch chuẩn lớn xung quanh giá trị trung bình nên có sự nghi
ngờ về sự tin cậy của phương pháp thống kê thực hiện trong nghiên cứu.”