Top Banner
Sài Gòn ca tôi Ngày: 30-09-2006 ðề tài: Văn hóa - Nghthut Thinh Không Sài Gòn! Ôi! Cái tên nghe sao mà nhthương. Gi ñến biết bao nhiêu là knim êm ñềm ca thi trai tr. Cái thi ñẹp nht ca mt ñời người. Chc ít có người Vit tnn nào mà li không mt ln nghe ñến bài hát “Sài Gòn, nim nhkhông tên”(1). Tôi thì biết ñến cái “nim nhkhông tên” (hay có rt nhiu tên?) này ttrước năm 75, lúc còn chưa phi sng xa cách hàng ngàn dm như bây gi. ðó là nhng năm 1974–75. Sau khi tt nghip ñại hc, tôi ñược trưng tp vào quân ñội. Khong gn gia năm 1974, tôi ri Trường Quân Y Sài Gòn ra ñơn v, vphc vti mt Bnh xá Dân Quân Y, thuc tnh Vĩnh Long. Vĩnh Long thì cũng không xa Sài Gòn là my. Tôi li ñược anh Bác sĩ trưởng Bnh xá tht tt bng, ưu ái, và thông cm la tui chưa biết lo (!), nên rt ddãi trong chuyn ñi phép ca tôi (ñúng ra anh chngó lơ, chchng cp chhuy nào cho “phép” kiu này). Mi thBa, tôi mi tSài Gòn mò xung Bnh xá mà ri sáng thSáu, tôi ñã nôn nao (“Nếu chiu không hò hn, ñâu thy lòng nôn nao!?”(2), thay vào bqun áo dân s, nhy lên xe ñò vli Sài Gòn. y thế mà tôi cnhSài Gòn. Nhda diết, nhkhoc khoi, nhcung ñiên khi phi xung li Bnh xá. Thân tôi Vĩnh Long mà hn thì vương vt ñâu ñó quán La Pagode, rp mini Rex, rp Eden, chè Hin Khánh, cafeteria Rex, cơm tm Trn Quý Cáp, bò kho Thanh Bch, hay trước các xe bt xào, bò viên, htiếu mì, ngã Sáu, ngã By (ngã Năm tôi không dám ñến!). Tôi nhmong Sài Gòn vì tôi cb“réo gi” bi bao bn bè trai, gái. Bi muôn vàn knim vi các con ñường, góc ph, hàng cây, tim kem, quán cóc. Nơi ñó, còn có người yêu “bé bng” ca ðường phSài Gòn (1967) Ngun/nh: DCVOnline/Philip Pelino Jr.
13

Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

Oct 19, 2020

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

Sài Gòn của tôi Ngày: 30-09-2006

ðề tài: Văn hóa - Nghệ thuật

Thinh Không Sài Gòn! Ôi! Cái tên nghe sao mà nhớ thương. Gợi ñến biết bao nhiêu là kỷ niệm êm ñềm của thời trai trẻ. Cái thời ñẹp nhất của một ñời người. Chắc ít có người Vi ệt tị nạn nào mà lại không một lần nghe ñến bài hát “Sài Gòn, niềm nhớ không tên”(1). Tôi thì biết ñến cái “niềm nhớ không tên” (hay có rất nhiều tên?) này từ trước năm 75, lúc còn chưa phải sống xa cách hàng ngàn dặm như bây giờ. ðó là những năm 1974–75. Sau khi tốt nghiệp ñại học, tôi ñược trưng tập vào quân ñội. Khoảng gần giữa năm 1974, tôi rời Trường Quân Y ở Sài Gòn ra ñơn vị, về phục vụ tại một Bệnh xá Dân Quân Y, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Vĩnh Long thì cũng không xa Sài Gòn là mấy. Tôi lại ñược anh Bác sĩ trưởng Bệnh xá thật tốt bụng, ưu ái, và thông cảm lứa tuổi chưa biết lo (!), nên rất dễ dãi trong chuyện ñi phép của tôi (ñúng ra anh chỉ ngó lơ, chứ chẳng cấp chỉ huy nào cho “phép” kiểu này). Mỗi thứ Ba, tôi mới từ Sài Gòn mò xuống Bệnh xá mà rồi sáng thứ Sáu, tôi ñã nôn nao (“N ếu chiều không hò hẹn, ñâu thấy lòng nôn nao!?”(2), thay vào bộ quần áo dân sự, nhảy lên xe ñò về lại Sài Gòn.

Ấy thế mà tôi cứ nhớ Sài Gòn. Nhớ da diết, nhớ khoắc khoải, nhớ cuồng ñiên khi phải xuống lại Bệnh xá. Thân tôi ở Vĩnh Long mà hồn thì vương vất ñâu ñó ở quán La Pagode, rạp mini Rex, rạp Eden, chè Hiển Khánh, cafeteria Rex, cơm tấm Trần Quý Cáp, bò kho Thanh Bạch, hay trước các xe bột xào, bò viên, hủ tiếu mì, ở ngã Sáu, ngã Bảy (ngã Năm tôi không dám ñến!). Tôi nhớ mong Sài Gòn vì tôi cứ bị “réo gọi” bởi bao bạn bè trai, gái. Bởi muôn vàn kỷ niệm với các con ñường, góc

phố, hàng cây, tiệm kem, quán cóc. Nơi ñó, còn có người yêu “bé bỏng” của

ðường phố Sài Gòn (1967) Nguồn/Ảnh: DCVOnline/Philip Pelino Jr.

Page 2: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

tôi ñang sống (thật ra nàng ñang học ñại học, chẳng bé bỏng mấy ñâu). Ngày ñó, tôi nghĩ không bao giờ tôi có thể sống xa Sài Gòn lâu hơn 1 tuần. “N ước chảy xuôi con cá buôi lội ngược Nước chảy ngược con cá vượt lội xuôi Anh với em xa cách ngậm ngùi Mong cho gặp mặt, xác vùi cũng ưng” Thế mà, chẳng bao lâu sau ñó, hoàn cảnh ñau thương của miền Nam ñã khiến tôi phải sống xa Sài Gòn. Trước, xa vài năm. ðêm ñêm, từ trại cải tạo bên bìa rừng, trông về hướng thành phố xa xa, còn thấy một vầng sáng ñèn ở chân trời. Sau, xa ñến cả chục năm, cách biệt mịt mùng hàng chục ngàn cây số. Nhưng rồi ñến một lúc, sau khi ñã ổn ñịnh cuộc sống, sau khi cũng ñã hết lòng hết sức vì các ước vọng chung của người tị nạn, giống như nhiều người Việt hải ngoại, tôi nghĩ, Sài Gòn, Việt Nam nào phải của riêng ai. Dù ai ñó có ñang cai trị ñất nước này, có làm tôi bất bình nhiều chuyện, ñã làm tôi phải lìa xa nơi ñó một thời, thì nơi ñó cũng mãi vẫn là thành phố, là quê hương của tôi. Thế nên sau hơn 16 năm xa xứ, tôi lại trở về. Tôi ra ñi khỏi Sài Gòn vào ñầu thập niên 1980, lúc thành phố ở vào thời kỳ thê thảm, tệ hại nhất về mọi mặt. Tôi cũng ñã từng sống vài năm gian khổ tại ñây sau năm 75 (vài năm kia phải “ñẵn cây” trên rừng). Dù thế, tôi vẫn còn nhớ tâm trạng mình lần ñầu về lại Sài Gòn, cuối năm 1997. Tôi ñã sửng sờ nhìn thấy một Sài Gòn tiều tụy, nghèo nàn, nhớp nhúa, bụi bặm và hoang vắng … dù thật ñông ñúc. Trước mắt tôi, ñôi lần, chỉ thấp thoáng bóng của những con người, bơ phờ, hốc hác, tất tả ngược xuôi, xa lạ, vô hồn. Tôi ngỡ ngàng, thẫn thờ. Tôi ñã mong ước ñược nhìn thấy lại những tà áo trắng mượt mà Gia Long, Trưng Vương, Nguyễn Bá Tòng. Ước thấy lại những chiếc váy ñầm nữ sinh xinh xắn Nhà Trắng Saint Paul, Régina Pacis, Marie Curie của một thời. Muốn bắt gặp lại những ánh mắt ñẹp kiêu sa, kênh kiệu, hớp hồn cả ñám học trò chúng tôi, từ trong những chiếc xe hơi nhà buổi sáng ñưa em ñi học. Nhưng ñã không còn. Trong tâm trí tôi lúc ñó, hình ảnh còn tồn tại sau thời gian dài biến ñộng của ñất nước và bản thân, là những hình ảnh của Sài Gòn và người Sài Gòn xinh tươi trước năm 75. Những hình ảnh ñẹp ñẽ của thời hoa mộng ñã, một cách vô thức, ngự trị, khống chế tâm tưởng tôi, xua dạt ñi những gì ñau buồn, tệ hại của một thời không ñáng nhớ. Sau lần về ñầu tiên ñầy thất vọng và tiếc nuối ñó, lạ thay, tôi lại nhớ mong

Page 3: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

Sài Gòn chỉ sau một thời gian ngắn về lại Úc. Và rồi cứ mỗi khi muốn ñi nghỉ hè, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng tôi cũng lại về Sài Gòn. Từ cái lần ñầu chín năm trước ñó, tôi ñã về lại Sài Gòn nhiều lần. Lần này dù sẽ ñi nhiều nước Âu Mỹ, tôi cũng ráng ghé qua Sài Gòn. Tôi về ñến Tân Sơn Nhất vào gần giữa trưa. Cảnh vật dọc phi ñạo vẫn như bị ñóng chết trong khung thời gian, của hơn ba mươi năm trước. Vẫn những chòi canh han rỉ thời chiến tranh. Vẫn những hangar máy bay thấp bé, với mái vòm cong, rong rêu, ñen ñúa. Bên trong một số hangar có những chiếc máy bay trực thăng của Liên Xô, nhỏ thó, cũ kỹ. Nhìn các trực thăng tôi liên tưởng ñến những chiếc xe ñò nhỏ, lẽ ra phải phế thải, ọc ạch chạy trên những con ñường ñến các quận lỵ xa xôi trước năm 75. Tại quầy duyệt xét nhập cảnh, người sắp hàng lần này không ñông như những lần trước. Các ông công an cửa khẩu, vẫn bộ mặt nghiêm nghị, trong quân phục màu xanh quân ñội, với cầu vai lon lá ñầy ñủ. Mũ kết xếp thành một hàng dài ngay ngắn trên quày, cả ở ô không có người ngồi kiểm tra. Tất cả những hình ảnh ñó vô tình (hay hữu ý?) tạo một ấn tượng khá mạnh mẽ rằng mọi người sắp ñi vào một nước quân phiệt Nam Mỹ nào ñó của thập niên 1960–70, như trong các phim xi nê tôi ñã xem. Tôi nghĩ, phải chi họ mặc những ñồng phục màu sắc nhẹ nhàng hơn. Gương mặt, cử chỉ, thái ñộ tươi cười, chào ñón hơn có phải hay và ñẹp không!? Những ñiều ñó ñâu có khó huấn luyện, hay làm giảm giá trị vai trò, hoặc ảnh hưởng ñến nghiệp vụ, của họ ñâu. ðối với một số không ít du khách ngoại quốc, ñây là những người Vi ệt Nam ñầu tiên ñược gặp. ðây là những người ñại diện cho cả nước, cả dân tộc Việt Nam ñược tiếng là thân thiện, hiếu khách, chào ñón du khách ñến thăm quốc gia mình. Sao lại làm người khách phương xa ngỡ ngàng, hụt hẫng, thất vọng!? Không biết các ông có trách nhiệm có nghĩ như tôi không? Dù sao lần này cũng có những tiến bộ ñáng kể. Một số không ít nhân viên là nữ. Ánh mắt nhân viên không còn lạnh lùng hay có thái ñộ quan liêu, hách dịch, thiếu nhã nhặn (với cả khách ngoại quốc) như tôi bắt gặp ở những lần trước. Chuyện xem xét giấy tờ nhanh hơn (dù vẫn rất từ từ). Nhưng, vẫn chưa có tiếng chào, tiếng cám ơn, và nụ cười. Cứ nhìn thấy cảnh này là tôi buồn giận. Vì khổ thay, cái xấu hổ là xấu hổ chung. Thủ tục qua hải quan thì lần này trơn tru và nhanh nhẹn hơn trước rất nhiều. Một tiến bộ ñáng khen. Mà sao là “hải quan” nhỉ? “Hải” ở ñây nghĩa là gì? ðâu có chút xíu “biển” nào tại phi trường Tân Sơn Nhất ñâu? Hay là “hãi quan” cho “cửa ngõ hãi hùng”?

Page 4: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

ðã ñầu tháng Sáu. Vào buổi chiều, Sài Gòn hay có những cơn mưa. Có khi mưa như trút nước, không dứt. Ở Úc, ít khi tôi thấy có những cơn mưa tầm tã, mịt mù, “giăng kín ñường về”(3) này. Thành phố nơi tôi ở, khô hạn kéo dài gần một năm qua làm các hồ chứa nước ñều gần cạn. Ở Sài gòn, sau cơn mưa lớn, ñường phố một số nơi lại biến thành hồ cạn. Tuy nhiên, sau cơn mưa, trời mát dịu lại nhiều, khá dễ chịu. Cho nên, nếu lỡ “trời không mưa, tôi cũng lạy trời mưa”(4). Chuyện lưu thông trong thành phố Sài Gòn thì chắc nhiều người ñã biết hay nghe nói. ðông ñúc, chen lấn, luồn lách, hỗn ñộn, không trật tự hay tôn trọng luật lệ gì cả. Kỷ luật giao thông thật kém. Tình trạng nay có khá hơn những năm trước, nhưng cũng còn rối rắm, nhất là tại các “bùng binh”. Có khá nhiều xe buýt, sau nhiền năm vắng bóng, nay vận hành trong thành phố. Giá nghe nói tương ñối rẻ, chạy thường xuyên trên nhiều tuyến, và ñến tận ngoại ô. Một chủ trương thức thời. Nhưng xe gắn máy vẫn tràn ngập các con ñường, từ sáng sớm cho ñến 9–10 giờ ñêm. Mỗi năm, trên cả nước có hơn 12 ngàn người chết vì tai nạn giao thông thì thật là quá mức (thống kê mới nhất của 6 tháng ñầu năm 2006 cho thấy số tai nạn có giảm nhưng số người chết vẫn không giảm). Mỗi tháng có hơn 1 ngàn người tử nạn. Khủng khiếp! Sài Gòn cũng góp vào thống kê trên một con số không nhỏ. Không chỉ riêng kỷ luật giao thông, mà nói chung, ý thức kỷ luật công dân tại Sài Gòn bây giờ tệ hại hơn trước 75 rất nhiều, vì kỷ cương xã hội hầu như sụp ñổ. Và hệ thống giáo dục, trong rất nhiều năm, ñã không chú trọng gì ñến ñiều này. Chẳng “giáo dục công dân”, mà chỉ quan tâm nhồi nhét vào ñầu học sinh ba ñiều chủ thuyết lỗi thời, hoang tưởng. Chủ tâm và ưu tiên có lẽ nhắm vào việc ñào tạo những kẻ trung thành hơn là những công dân tốt. Ở Sài Gòn ñông ñúc này việc di chuyển, ñi lại rất bất tiện, mất thời giờ. Sau vài lần về, tôi cũng bắt ñầu chạy chiếc xe gắn máy của ñứa em cho mượn. Tôi ít ñi taxi vì nó tốn kém mà lại chậm chạp trên ñường phố lúc nào cũng ñông nghẹt xe. Dù sao thì tôi cũng từng là thổ ñịa nơi ñây, khá rành rẽ ñường lối. Có ñiều tôi không thể nào nhớ nổi các tên ñường mới ñược thay

“Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt, Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa …” Nguồn: i6.photobucket.com

Page 5: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

sau này. Nhiều tên lạ hoắc, không biết là ai (tôi cũng chẳng tò mò tìm hiểu là ai). Rồi lại những con số, ngày tháng lấy làm tên ñường, nghe không quen, không nhớ, lẫn lộn, rối mù. Khi về trong nước tôi hay ñọc các tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh Niên (tôi cũng thường xem trên mạng lúc ở nước ngoài). Hai tờ báo trên là những tờ báo, theo tôi, nay có sự thông tin tương ñối khá nhanh nhạy, ít gạn lọc (so với ngày trước). Có tư tưởng khá ñộc lập trong cách ñưa tin và ñặt vấn ñề. Có một sự cởi mở khá rõ nét và mạnh dạn, kể cả các vấn ñề “nhạy cảm”. Nhiều tờ báo khác thường né tránh các ñề tài này, hay có ñề cập ñến thì chỉ nói một chiều, chỉ ca tụng ñến phát nản. Hay chỉ có những lập luận xưa cũ, không thuyết phục. Hai báo trên cũng khá mạnh dạn trong việc ñăng tải các bài ñóng góp ý kiến cho các diễn ñàn (hay các ý kiến phản hồi), từ các ñộc giả thuộc nhiều giới, nhiều khuynh hướng, từ cả trong lẫn ngoài nước. Thí dụ trong ngày 28/5/06, tờ Thanh Niên ñã ñăng trong mục diễn ñàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” một bài góp ý tựa là “Phải vượt qua nỗi sợ hãi.” Bài viết: “…Nỗi sợ hãi chính là trở ngại lớn mà chúng ta cần phải vượt qua nó. Chừng nào nỗi sợ hãi bé ñi thì chúng ta mới lớn lên ñược.” Bài viết dù không nói cụ thể ñến sự việc gì, nhưng ở ñây theo tôi, chi tiết ñó không quan trọng. Lời khuyên “Phải vượt qua ñược nỗi sợ hãi” là ñiểm cốt lõi, là tinh thần của bài góp ý. Trong thời gian gần ñây, có rất nhiều người trong nước ñã mạnh dạn, dũng cảm, minh danh cùng ký tên vào các tuyên ngôn ñòi hỏi những ước vọng chân chính cho mình, cho ñồng bào. Họ chẳng phải là “nhà ñấu tranh” kiên cường, dày dạn hay nổi tiếng gì cả, mà chỉ là những công dân bình thường. Cứ ñặt mình ở vào vị trí họ trong hoàn cảnh hiện tại trong nước sẽ thấy cái dũng khí to lớn như thế nào. Họ ñã vượt qua ñược nỗi sợ hãi. Trong niềm kính phục sâu xa, với tôi, họ là những sĩ phu, hào kiệt của ñất nước thời nay. ðúng như Nguyễn Trãi ñã viết: “V ận nước có lúc cường, lúc nhược Nhưng anh hùng, hào kiệt thời nào cũng có” Cũng trong mục ấy, có một bài góp ý khác của một người ký tên Nhất Chi Mai. Tác giả viết: “Ta vẫn thường nhắc tới l ịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng, nhắc tới

Page 6: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

tinh thần ñoàn kết dân tộc nhưng sau những chiến thắng oai hùng ñó ta lại tự mình làm bé mình… Về mặt ñịa lý, dân số và lịch sử, Việt Nam là một nước không nhỏ, nhưng là một nước ñang ngủ quên trên những chiến tích… Cần lắm một cơ chế ràng buộc trách nhiệm và cần lắm sự cương quyết của những nhà lãnh ñạo, với sự sáng suốt và quyết ñoán” (tôi ghi chữ nghiêng ñoạn cần nhấn mạnh). Nếu ở hải ngoại thì nội dung những lời ñóng góp ý kiến trên cũng bình thường. Nhưng trên một tờ báo trong nước, có thể xem là những ñóng góp rất thẳng thắn, mạnh dạn. ðăng tải nó là một thay ñổi tư duy ñáng ñể ý của Ban biên tập. Không chỉ còn là những bài ca tụng sáo rỗng thường thấy trên báo như trước. Tôi khá tâm ñắc với những ý kiến này. Nhưng từ lâu tôi không thích từ “cơ chế” thường ñược dùng. Nó mơ hồ, thấp bé và giới hạn. Ai cũng biết là quyền lực làm tha hóa con người, cho dù con người ñó trước khi nắm quyền lực, là một con người toàn thiện, có chủ tâm vì người khác mà phục vụ. Cũng ñừng nói chi ñến quyền lực to lớn tột cùng của cai trị quốc gia ở Việt Nam, thường với quyền sinh sát trong tay cùng bao cám dỗ lợi lộc to lớn. Ngay cả với những tập thể nhỏ như một Hội ðoàn, một Cộng ðồng Người Vi ệt ở hải ngoại, qui luật ñó cũng thường ñược thể hiện và minh chứng khá rõ ràng. Do ñó, trước khi cần ñến sự cương quyết, sáng suốt và quyết ñoán của lãnh ñạo nào ñó, như trong bài viết nói trên, Việt Nam cần có một hệ thống chính quyền pháp trị có thể hổ trợ, bảo vệ và thực thi ñược những ñức tính này. Và cần có một hệ thống chính trị có thể giám sát, ràng buộc trách nhiệm cùng xiển dương các hoạt ñộng ñiều hành ñất nước. Cụ thể hơn thì ñó phải là một thể chế dân chủ. Thiếu ñiều kiện này, tôi nghĩ, quyền lực rồi sẽ làm tha hóa hầu như bất cứ ai. Về Sài Gòn tôi hay ñi nghe nhạc. Tôi ñã ñến hầu hết những phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn như Tiếng Tơ ðồng (ñã ñóng cửa), M&Tôi, Yesterday, ðồng Dao (ñã ñóng cửa), Ánh Tuyết, 2B, và nhiều nơi nữa. Ngoài chuyện giải trí, thưởng thức văn nghệ, vì thích nghe nhạc, tôi cũng muốn xem bài nhạc của nhạc sĩ nào ở miền Nam trước năm 75 ñược cho phép trình diễn. ðể qua ñó ño lường (phần nào ñó, tôi nghĩ) mức ñộ cởi mở chính trị ở Việt Nam. Tôi thấy thật là ñiều khắt khe vô lý của chủ trương kiểm duyệt văn hóa này, mà tự thân chủ trương lại … kém văn hóa. Mang tính trừng phạt và tưởng thưởng vì quan ñiểm và thái ñộ chính trị của tác giả hơn là vì nội dung bài hát. Thời gian gần ñây, mỗi lần tôi về, lại thấy có một số bài hát, của những nhạc sĩ miền Nam cũ, ñược cho phép hát lại. Khá nhiều! Những tình khúc của các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Phạm

Page 7: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

ðình Chương, rất ñược ca sĩ lẫn người nghe ưa chuộng. Lần này, lần ñầu tiên, tôi nghe một bài hát của nhạc sĩ Lam Phương tại một phòng trà (tên tác giả không ñược giới thiệu). Tôi yêu mến dòng nhạc tình cảm, rất thiết tha và cũng rất nhân hậu của ông. Nhạc của ông bị cấm lâu có lẽ, tôi ñoán mò, vì người ta “giận” ông nhiều. Nhất là vì cái câu: “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?…” trong một bài hát(5) có ca từ rất chua chát về Tây ðô Cần Thơ (như: “Ngày xưa ta quen từng viên ñá nơi sân trường. Nay sao nghe khác từng tên ñường”). Ai từng ở ñảo Bidong chắc ñều có một lần nghe bài hát của ông (“ðường Về Quê Hương”) với các câu “Bi ết bao giờ trở về Việt Nam, thăm ñồng lúa vàng, thăm con ñò chiều xưa? Biết bao giờ ta lại gặp ta …?” ñược ban ñiều hành trại tị nạn phát lên hệ thống loa của trại mỗi khi có nhóm người tị nạn rời ñảo ñi ñịnh cư. Nghe não nuột, tuyệt vọng, buồn thúi ruột lúc chia tay, trong hoàn cảnh tha hương không mong có ngày về lúc ñó. Có vài bài báo ở trong nước, tôi nghĩ là ñã không thành thật, khi gần ñây gọp các tình khúc của các nhạc sĩ trên (và của nhiều người nữa) và gọi chung là nhạc tiền chiến. ðâu có “tiền”! Tôi nghĩ “nhạc tiền chiến” ñược hiểu là trước thời chiến tranh Việt Pháp 1946–1954. Hay ít ra cũng trong thời gian ñó. Hầu như toàn bộ tình khúc của các nhạc sĩ miền Nam trên lại ñược sáng tác “trong” thời chiến 1954–75 kia mà. Tình yêu lứa ñôi, cùng với tình yêu quê hương, ñất nước, tại miền Nam, vẫn tràn ñầy. Vẫn ñược nhắc nhở, ca tụng, dù trong thời chiến tranh máu lữa, khốc liệt. Tôi nhớ cách ñây 4–5 năm, tại phòng trà Tiếng Tơ ðồng vào mùa Giáng Sinh, tôi ñã nghe Thanh Lam hát “Bài Thánh Ca Buồn”(6) (“Bài thánh ca ñó còn nhớ không em? Noel năm nào chúng mình có ñôi …”) ñầy kỷ niệm. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại bài hát này, qua một giọng ca thật ñiêu luyện và truyền cảm. Trong khoảnh khắc, cả một trời kỷ niệm ùa về. Tôi chợt như ñược sống lại những mùa Noel Sài Gòn háo hức, nhộn nhịp, rộn ràng, hồi hộp, tuyệt vời của những năm nào ở tuổi ñôi mươi. Khi nghe lại một bài hát gợi nhiều kỷ niệm, lòng mình xao xuyến vô cùng. Dù ñôi khi sự gợi nhớ dĩ vảng cũng làm lòng mình chùng xuống.

Page 8: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

Tôi còn nhớ lúc tôi học năm thứ nhất ñại học, tôi có cô bạn gái học lớp 10 Marie Curie. ðêm Noel tôi chở em trên xe gắn máy ra nhà thờ ðức Bà, như rất nhiều thanh niên trai gái Sài Gòn thời ñó. Em sung sướng, hãnh diện với tôi và các bạn, vì lần ñầu tiên ñược mặc chiếc áo dài truyền thống thướt tha. Thế mà tôi lạng quạng làm sao lại làm em té xuống ñất, trên ñường Lê Lợi, áo quần lấm lem. Không biết có phải vì thế mà vài tháng sau (1969) em bỏ tôi lại, theo gia ñình sang Mỹ (Ba của em là viên chức cao cấp của Tòa ðại Sứ Việt Nam tại Mỹ). Rồi từ

ñó tôi không hề gặp lại em.

Trên ñường từ nhà em tôi, nơi tôi trú ngụ, ra trung tâm Sài Gòn, tôi thường chạy ngang trường Trung học Petrus Ký cũ của mình. Ngôi trường tôi có rất nhiều kỷ niệm với lũ bạn xôn xao những mối tình ñầu. Lần nào ñi qua tôi cũng nhìn vào cổng trường xem sao. Nhìn hai hàng cây sao cao to bên hông trường, nơi ngày xưa là bãi ñậu xe của học sinh, tôi lại nhớ ñến Thầy Tổng giám thị Chương. Thầy hay ñứng sau gốc các cây sao trên, ñể chụp bắt phạt học trò nào không mặc ñồng phục, ñang dắt xe vào trường. Trường tôi có tiếng rất nghiêm về kỷ luật là nhờ các thầy giám thị. Tôi có lần cũng bị Thầy Chương chụp bắt lên văn phòng, không phải vì chuyện ñồng phục, mà vì tội ñể tóc dài. Tôi né trốn thầy hoài mà rồi cũng không thoát. Trường tôi nay ñã ñổi tên là Lê Hồng Phong. Bây giờ có cả nữ sinh. Tôi không phản ñối chủ trương trường hỗn hợp nam nữ. Cũng có cái hay của nó. Nhưng ñể phá vỡ cái truyền thống của biết bao năm không vì một lý do thiết yếu thì tôi không ñồng tình. Trường Nữ Trung học Gia Long cổ xưa, truyền thống cũng thế. Nay có cả nam sinh và cũng ñã bị ñổi tên. Về Sài Gòn lần nào tôi cũng ñi vào các tiệm sách, xem sách, mua sách. Bây giờ thì có khá nhiều nhà sách, thường rất lớn. Nhà sách Khai Trí ở ñường Lê Lợi ñã mở cửa lại nhưng mang tên Sài Gòn. Có nhiều tiệm sách nhỏ của tư

Trường trung học Petrus Ký: “Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt–Tây Âu khoa học yếu minh tâm” Nguồn: DCVOnline

Thầy Chương trong lớp dậy Pháp văn Nguồn: petruskylhp.org

Page 9: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

nhân, dọc hai bên ñường Hồng Thập Tự cũ, ñoạn gần ñường Nguyễn Thiện Thuật. Nơi ñây có bán sách cũ, mới và giảm 20–30% trên giá bán, không như ở các tiệm lớn. Có khá nhiều tựa sách, bao gồm nhiều lãnh vực. Nay có rất nhiều tác giả trong nước tôi không quen tên. Sách của các nhà văn nhóm Tự Lự Văn ðoàn, hay các nhà văn, nhà thơ vào thời ñó, cũng ñã ñược in lại từ nhiều năm trước. Mỗi lần về lại thấy có ấn bản mới, to hơn, ñẹp hơn. Có lẽ nhà văn, học giả Nguyễn Hiến Lê có nhiều sách in lại nhất (ngoài ông và nhà văn Sơn Nam, còn mấy sách nào của các tác giả miền Nam ñược phép in lại?!?). Giá sách nói chung thì rất rẻ so với mức thu nhập ở nước ngoài (vào khoảng 3–4 Úc kim/quyển). Nhưng như thế cũng tốn ñến một, hai ngày lương công nhân trong nước. Một số sách của, hay về, các nhà văn, thơ của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần… cũng có ñược in lại. Nhưng vẫn ñuợc lọc lựa bởi cái sàng chính trị. Nội dung các sách này, mà tôi ñược ñọc, thì không gì hay, phiến diện và không giống như tôi ñã ñọc về các ông trước năm 75 hay ở hải ngoại. Tôi nghĩ người ta ñã sai lầm khi cố tình chỉ lọc lựa ñưa ra, theo ý mình, một vài quan ñiểm thuận lợi nào ñó từ các ông, ở giai ñoạn thích hợp nào ñó của cuộc ñời các ông. Vắng ñi hay lướt vội qua các dằn vật chuyễn ñổi về tư tưởng, cùng cuộc sống bất hạnh, ñầy nhọc nhằn, cay ñắng mà các ông và người thân ñã trải qua hay gánh chịu. Thời ñại này khó có thể giấu diếm ñược ñiều gì. Mà mập mờ nói có phân nửa thì chỉ phản tác dụng. Quyển “Nhật ký ðặng Thùy Trâm” ñược bày bán nhiều. Tôi cảm phục và kính trọng lòng hy sinh của cô mà cũng thương cho cô. Một lý tưởng không tròn. Có sách mới của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (“Vi ết cho bè bạn”). Nhưng không có quyển “Chuyện kể năm 2000” của ông mà tôi rất thích. Nội dung quyển sách mới thì bình thường, thậm chí nhạt nhẽo. Toàn bộ tinh túy và tâm huyết của ông ñã dồn hết vào quyển kia rồi. Có thấy tập truyện ngắn “Bóng ðè” gây nhiều tranh luận của nhà văn nữ trẻ ðỗ Hoàng Diệu.

Có nhiều quyển sách mới tái bản của nhà văn nữ trẻ Nguyễn Ngọc Tư, nổi tiếng với chuyện “Cánh ðồng Bất Tận”, ñược bày bán. Mới ñây thôi, cô bị Sở Thông Tin “ Văn Hóa Cà Mau, nơi cô sống và công tác, phê bình, kiểm ñiểm, khiển trách, qui chụp, ñòi khai trừ, cách chức, ñuổi ñi khỏi tỉnh gì ñó (tôi kể dám còn thiếu). Nhưng không ngờ, cô ñược ñộc giả phản ứng với hàng trăm ý kiến bênh vực mạnh mẽ trên các báo. Thêm nữa, báo Tuổi Trẻ và vài nhà xuất bản khác, còn

Nguyễn Ngọc Tư Nguồn: Nguyễn Ngọc Tư

Page 10: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

ra mặt ủng hộ, tái bản ào ạt (có sách ghi chú tái bản lần thứ năm) các sách bị phê phán của cô. ðáng chú ý là các “ông quan văn hóa” (chữ trên báo trong nước) Cà Mau bị ñộc giả khắp nơi chỉ trích kịch liệt về các quyết ñịnh này, thậm chí còn chê bai, dè bỉu khả năng, trình ñộ của các ông. Cái bóng con ñường ñen tối của Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, v.v… những tưởng …, ñã không lập lại. Sự thông tin rộng rãi, thông suốt, nhanh nhạy của thời ñại internet, thời toàn cầu hoá, ñã không cho phép ñiều ñó lập lại. Nguyễn Ngọc Tư tự nhận ñịnh văn chương của cô (và cả bản thân) như trái xoài riêng. “Có người thích, có người chê”. Nhưng cô “chẳng bẻ mình bẻ mẩy ñể lấy lòng người” (mấy câu này có in trên bìa sau sách rõ ràng). Các nhà văn, nhà thơ ñều khí khái giống nhau: “Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu”(7) Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng ñã mở rộng vòng tay, ưu ái ñón chào lưu dân tứ xứ, từ nhiều trăm năm trước. Tôi thấy ngày nay Sài Gòn vẫn còn cái truyền thống ñó. Tôi ñã gặp rất nhiều người bán hàng rong, lao ñộng, tài xế, bán hàng, v.v… trên khắp ñường phố Sài Gòn, ñến từ nhiều miền xa xôi ngoài Bắc. Mấy ngày trước, trên một xe taxi, nghe anh tài xế nói giọng “miền Bắc 75” (cái giọng cao, nhanh và chua ñặc trưng không lẫn ñược; không êm ái, ngọt ngào, thanh lịch như ña số người “mi ền Bắc 54”), tôi ñã tò mò hỏi thăm anh quê ở nơi nào ngoài Bắc, vào ñây lâu chưa. Anh nói từ Hà Tây. Cả gia ñình bốn người vào ñây sống ñã tám năm rồi. Tôi hỏi anh thấy cuộc sống nơi này, dân tình thế nào thì anh phán câu “ñất lành chim ñậu” làm tôi mát cả ruột. Tôi còn trao ñổi với anh ñôi ñiều và anh cũng ñồng ý với tôi. Tôi cũng ñã nhiều lần nói chuyện với nhiều người có hoàn cảnh như anh. Họ cũng ñồng ý, hay rồi cuối cùng cũng ñồng ý, giống như anh. Vùng ñất miền Nam trù phú, hiền hòa, trong ñó có Sài Gòn, ñã sản sinh tư tưởng, giáo dục nếp sống, dịu hiền, ñôn hậu, trọn tình, trọn nghĩa như trong các câu ca dao:

Page 11: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

“ðèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn ñỏ ðèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em ñợi, mười thu em chờ” Tổ tiên tôi, nghe người lớn kể, cũng là người ñàng ngoài, vào Nam lập nghiệp từ hàng trăm năm trước. Nhưng cũng rất nhiều năm sau những nhóm di thần nhà Minh từ nước Trung hoa xa xôi do Mạc Cửu, Trần Tiễn Thành, Dương Ngạn ðịch, Trần ðại Xuyên cầm ñầu chạy sang trú ngụ. Và từ những ñợt di dân, tị nạn sau nhiều cơn biến loạn ở Trung Hoa sau ñó. Rồi thời năm 54 (mới ñây mà ñã hơn 50 năm rồi!), cả triệu ñồng bào miền Bắc cũng di cư vào Nam lập nghiệp. Tất cả, cùng với dân Khờ me tại ñịa phương, ñã tạo thành một tập hợp với nhiều ưu tính của từng sắc dân. May mắn ñược sống trong một vùng ñất trù phú, họ ñã hình thành một tập thể “người miền Nam” hiền hòa, nghĩa khí. Và Sài Gòn, ñã và sẽ mãi vẫn là cái nôi văn hóa, là thủ phủ của miền Nam nhân bản này. Có lẽ tôi có thể kể những cái dở, cái xấu, cái nghịch lý, bất công hiện nay ở Sài Gòn cả ngày không hết. Tuy nhiên, cũng phải công bằng mà nói, ñã có những tiến bộ trong mấy năm qua. ðã có lại những con ñường sạch sẽ với hàng cây xanh, luống hoa ñược chăm chút. Những cửa hàng quần áo sáng sủa, chưng bày thật mỹ thuật, ñẹp mắt như trên ñường Võ Tánh cũ (nay là Nguyễn Trãi nối dài), con ñường quen thuộc của tôi. Những nhà hàng, quán cà phê thiết trí trang nhã với nhân viên trong các bộ ñồng phục thẳng thóm, ñúng cách, phục vụ chu ñáo, lễ ñộ. Những khuôn mặt ñâu ñó trên ñường phố tươi vui, xinh xắn, trong các bộ áo quần tươm tất, lịch sự, hợp thời. Có những câu chào, những nụ cười. Không nhiều, không ñồng bộ, nhưng ñã có. Nhưng, cho dù Sài Gòn ngày nay không ñược như trước năm 75. ðã làm tôi tức mình, buồn bực, tiếc nuối hình ảnh quá khứ, vẫn gắn chặt với lòng tôi (chắc cũng giống như Hà Nội vẫn sống trong lòng người dân, nhà văn, nhà thơ miền Bắc di cư vào Nam thời năm 54). Cho dù quán La Pagode không còn, rạp mini Rex ñã dẹp, tiệm kem Hoàng Gia trên ñường Tự Do biến mất, tôi vẫn như còn thấy cái hồn Sài Gòn ngày xưa của tôi còn vương vất trên các con ñường, góc phố. Cho dù người ta ñã thay ñổi hầu hết tên những con

“ ðèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn ñỏ ðèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu,…” Nguồn: i6.photobucket.com

Page 12: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

ñường (ñọc hoài không nhớ), tôi vẫn gọi bằng tên cũ. Vẫn Hiền Vương, Gia Long, Duy Tân, Thống Nhất, Hồng Thập Tự, Công Lý, Tự Do. Tôi vẫn muốn thủy chung với Sài Gòn của tôi. Tôi có quá nhiều kỷ niệm ở nơi này ñể mà tôi có thể quay lưng, xóa ñi quá khứ, giận dỗi không ñoái hoài. Tôi vẫn cứ muốn về thăm lại Sài Gòn. Vẫn muốn thấy nhiều người Sài Gòn xa xứ trở về thăm lại thành phố này. Vì tôi tin rằng, một ngày không xa, Sài Gòn ngày xưa của tôi sẽ trở lại. Chính sự về thăm lại Sài Gòn của những cựu dân nơi này sẽ có ảnh hưởng, không nhiều thì ít, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình, làm sống lại nhanh hơn cái hồn, cái chất, cái cung cách, lối sống của Sài Gòn năm xưa. Tôi nghĩ và tin như thế, dù biết có người không ñồng ý. Tôi tin tính nhân bản cuối cùng sẽ thắng. Người Sài Gòn có truyền thống yêu chuộng Tự Do, Dân Chủ, luôn ñề cao cùng sống theo những giá trị này. Nếu sự khôi phục không thể kịp cho tôi thì cho thế hệ kế tiếp, cũng tốt thôi. Tương lai của hàng triệu người Sài Gòn trẻ tuổi, thực tế, sẽ không ở nơi ñâu khác hơn là tại Sài Gòn, tại Vi ệt Nam. ðể cho họ ñược sống trong một Sài Gòn như tôi ñã từng sống. Một Sài Gòn tươi ñẹp, sung túc, thanh lịch và văn minh. ðể họ có ñược cái may mắn như hàng bao lớp thanh niên chúng tôi, ñã thương yêu Sài Gòn như người yêu và ñược Sài Gòn ñền ñáp lại bằng những ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt ngào, cách cư xử chân tình của bao nam thanh nữ tú. Cũng như ñã ñem ñến cho chúng tôi những nơi chốn gặp gỡ, hẹn hò thơ mộng, mà hình ảnh, kỷ niệm, khắc sâu trong tim, mãi không rời. Viết tại Sài Gòn, ñầu tháng Sáu, 2006. Hiệu ñính ñầu tháng Tám, 2006, Úc. Copyright © 2006 DCVOnline

(1): Nhạc sĩ Nguyễn ðình Toàn (2): “Nếu biển không có sóng, biển ñâu còn dào dạt. Nếu chiều không hò hẹn, ñâu thấy lòng nôn nao. Nếu ñời không tình yêu, biển sẽ không có sóng. Nếu chiều không gió lộng thì tóc em ñâu có bồng bềnh...” Nếu biển không có sóng, nhạc Từ Huy (3): “Anh muốn cùng mây giăng kín ñường về,

Page 13: Sài Gòn c ủa tôi - taberd75.comtaberd75.com/linh tinh/saigoncuatoi.pdf · Anh v ới em xa cách ng ậm ngùi Mong cho g ặp m ặt, xác vùi c ũng ưng” Th ế mà, ch

Gọi tên em, gọi tên em cho nát bờ môi ấy ...” Tình khúc tháng 6, nhạc Ngô Thụy Miên (4): “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt, Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa …” Tháng Sáu Trời Mưa, thơ Nguyên Sa (5): Bài “Chiều Tây ðô” (6): Nhạc sĩ Nguyễn Vũ (7) Thơ, “Lời Mẹ Dặn” của Phùng Quán Thinh Không