Page 1
Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070
Email: [email protected] ; Website: www.ria1.org
Hoạt động phong trào của Đoàn Thanh niên Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
Tác động môi trường từ hoạt động nuôi tôm ven biển ở miền Bắc Việt Nam
Ảnh hưởng của hàm lượng hormone 17α - Methyltetosterone (MT) và phương pháp
xử lý đến tỷ lệ tạo cá giả đực ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss)
Thăm quan học tập công nghệ nuôi thủy sản ở Israel
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
ISSN 1859-4174
Số 7
Quý III - 2012
Page 2
2 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Page 3
Ban Biên tập
Trưởng ban
Phan Thị Vân
Phó Trưởng ban
Nguyễn Hữu Ninh
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa
Vũ Thị Ngọc Liên
Trần Thị Kim Chi
Nguyễn Thị Thu Hiền
Nguyễn Thị Diệu Phương
Hoàng Nhật Sơn
Mai Văn Tài
Chu Chí Thiết
Trần Anh Tuấn
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Buổi lao động dọn mương
của Đoàn Thanh niên Viện I
Ảnh: Phạm Hồng Nhật
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Tác động môi trường từ hoạt động nuôi tôm ven biển ở miền Bắc Việt Nam 8
Ảnh hưởng của các hệ thống xử lý nước lên cộng đồng vi khuẩn đường ruột ở ấu trùng cá tuyết Đại Tây Dương Gadus morhua 9
Ảnh hưởng của hàm lượng hormone 17α - Methyltetosterone (MT) và phương pháp xử lý đến tỷ lệ tạo cá giả đực ở cá hồi vân Oncorhynchus mykiss 10
Đánh giá biến dị di truyền các tổ hợp lai cá rô phi Oreochromis niloticus bằng chỉ thị phân tử microsatellite 11
Nghiên cứu quá trình phát triển noãn sào của cá Rầm xanh Sinilabeo lemassoni (Pellegrin & Chevey, 1936) nuôi trong điều kiện nhân tạo 13
Tổ chức Nghiên cứu công nghiệp và khoa học khối thịnh vượng chung của Úc đến thăm và làm việc tại Viện I 15
Lãnh đạo Viện I tiếp Đại sứ Việt Nam tại Uzbekistan 15
Viện I tiếp đoàn công tác thuộc Dự án của Ngân hàng Thế giới 16
Hội thảo tổng kết Dự án “Hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản Cuba giai đoạn 2009 - 2011” 17
Viện I triển khai chương trình tập huấn khuyến nông tại Thanh Hóa 18
Đoàn công tác thuộc Văn phòng Nông nghiệp Đại sứ quán Mỹ đến thăm và làm việc tại Viện I 19
Chuyến thăm và làm việc của Viện Nghiên cứu NTTS và Thủy lợi Hungary tại Viện I 20
Thăm quan học tập công nghệ nuôi thủy sản ở Israel 21
Page 4
4 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Đã hết quý 3 của năm
2012, các hoạt động của
Viện được triển khai kịp
tiến độ hứa hẹn một năm
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Để có được những kết
quả như vậy, toàn thể cán bộ, nhân viên của
Viện đã rất nỗ lực thực hiện các công việc được
giao. Một thông tin nhân sự quan trọng của Viện
I là từ ngày 1 tháng 10, Tiến sỹ Trần Đình Luân,
Phó Viện trưởng được Bộ NN&PNNT điều
chuyển sang công tác ở Cục Thú Y với vai trò
Phó Cục trưởng. Thay mặt toàn thể cán bộ của
Viện I, tôi trân trọng cảm ơn Tiến sỹ Trần Đình
Luân về sự đóng góp cho Viện I, chúc Tiến sỹ
sức khoẻ và hoàn thành tốt công việc trong vai
trò mới.
Thời gian còn lại của năm không còn nhiều,
nhưng vẫn còn rất nhiều việc hết sức khó khăn
mà chúng ta cần phải hoàn thành để cho năm
2012 kết thúc một cách tốt nhất. Tuy nhiên, tôi
tin rằng với sự đoàn kết, sáng tạo và chăm chỉ vì
sự phát triển chung của Viện nói riêng và của
ngành nuôi trồng thuỷ sản nói chung, chúng ta
sẽ thành công.
Trân trọng,
Phan Thị Vân
Trưởng Ban biên tập
Page 5
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 5
Tin tức
Viện I kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sỹ
Hoàng Thủy
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh - Liệt
sỹ (27/7/1947 - 27/7/2012), sáng ngày 26/7, đoàn đại
biểu đại diện Đảng ủy, Lãnh đạo, Công đoàn, Đoàn
Thanh niên Viện NC NTTS I, các Phòng ban và
Trung tâm tại Viện đã đến UBND Phường Đình
Bảng- Từ Sơn - Bắc Ninh thăm hỏi và gửi quà tặng
cho thương binh và những người có công với cách
mang trên địa bàn Phường. Tiếp đó đoàn đã dâng
hương tại Nghĩa trang Liệt sỹ của Phường.
Tại Nghĩa trang, đoàn đã thành kính dâng lên hương
hồn các anh hùng liệt sĩ những nén hương thơm và
vòng hoa tươi thắm mang dòng chữ “Đời đời nhớ ơn
các Liệt sỹ” để tưởng nhớ những người con ưu tú
của địa phương đã không tiếc máu xương, chiến
đấu anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân. Thay mặt
toàn thể cán bộ Viện, đoàn đại biểu đã bày tỏ niềm
tiếc thương vô hạn và cầu chúc cho hương hồn các
anh được siêu thoát chốn vĩnh hằng, luôn phù hộ
cho Nước nhà bình an và tên tuổi, sự hy sinh cao cả
của các anh mãi mãi trường tồn cùng non sông, đất
nước.
Cũng nhân dịp ngày lễ này, ngày 27/7, Lãnh đạo
Viện đã thăm và tặng quà cho những lao động đang
làm việc tại Viện là thương binh và con của những
liệt sỹ đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc trong các thời
kỳ.
Hoạt động phong trào của Đoàn Thanh
niên Viện I
Phạm Hồng Nhật và Nguyễn Tiến Dũng
Trong tháng 9/2012, được sự chỉ đạo của Ban Lãnh
đạo Viện về công tác “Giữ gìn vệ sinh cảnh quan môi
trường trong cơ quan”, Đoàn Thanh niên Viện đã
tiến hành dọn vệ sinh toàn bộ hệ thống mương trong
cơ quan, bao gồm 6 mương với tổng diện tích trên
30.000 m2. Ban chấp hành Đoàn đã huy động tất cả
đoàn viên của các Chi đoàn tham gia lao động vào
các ngày thứ 7 và Chủ nhật hàng tuần. Với tinh thần
và sức lực tuổi trẻ, các đoàn viên đã hăng hái tham
gia với quyết tâm cao hoàn thành tốt nhiệm vụ mà
Ban Lãnh đạo Viện đã giao.
Ban Chấp hành Đoàn biểu dương tinh thần làm việc
của các đoàn viên thanh niên trong Viện và trân
trọng cám ơn sự ủng hộ của tập thể Lãnh đạo các
Phòng ban và Trung tâm để Đoàn thanh niên hoàn
thành được nhiệm vụ theo đúng tiến độ.
Buổi lao động của Đoàn Thanh niên. Ảnh: Phạm Hồng
Nhật
Dâng hương tại đài tưởng niệm. Ảnh: Hoàng Thủy
Page 6
6 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Tin tức
Cũng trong tháng này, hòa chung trong không khí
Trung thu rộn ràng của thiếu nhi trên khắp mọi miền
đất nước, ngày 28/9/2012 BCH Đoàn Thanh niên đã
phối hợp với Công đoàn, Ban Nữ công Viện I tổ
chức “Đêm hội trăng rằm” cùng chung vui với toàn
thể các cháu thiếu nhi là con em CBNV của Viện.
Các cháu thiếu nhi đã háo hức cùng bố mẹ tới tham
dự Đêm hội Trăng rằm 2012 từ sớm, đã làm đêm hội
thêm sôi động. Với sự xuất hiện của các nhân vật cổ
tích là Chị Hằng Nga, Chú Cuội, Thằng Bờm…
chương trình đã khiến các bé vô cùng thích thú, đan
xen vào đó là các trò chơi vui nhộn, những màn múa
lân, những đồ chơi nhiều màu sắc… cũng rất cuốn
hút các cháu.
Đêm hội Trăng rằm đã khép lại nhưng vẫn để lại cho
các cháu thiếu nhi và CBNV không khí vui tươi, phấn
khởi, giúp các em hiểu thêm về nét đẹp văn hóa
truyền thống Việt Nam.
Hội nghị đảng bộ Viện Nghiên cứu nuôi
trồng thủy sản I
Nguyễn Tiến Dũng
Chiều ngày 11 tháng 9 năm 2012, Đảng ủy Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I đã tổ chức Hội
nghị Đảng bộ với nội dung “Học tập, quán triệt Nghị
quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ V” tới
toàn thể cán bộ chủ chốt và Đảng viên trong Viện.
Hội nghị đã được đồng chí Nguyễn Văn Toán, Ủy
viên thường vụ - Trưởng ban Tuyên giáo Thị xã Từ
Sơn trình bày 5 chuyên đề: Kết luận về việc tổng kết
việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội
dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992; kết luận tổng kết việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 khóa IX về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; kết luận về
tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 3 khóa X
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng chống tham nhũng; kết luận về một số vấn
đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương
đến năm 2020; một số vấn đề về chính sách xã hội
giai đoạn 2012-2020.
Hội nghị đã giúp cán bộ, đảng viên của Viện nắm
vững nội dung cơ bản của các kết luận, nghị quyết
của BCH Trung ương Đảng, tạo sự thống nhất về ý
chí và hành động trong đội ngũ CBCNVC. Đồng thời,
giúp các cán bộ, đảng viên vận dụng một cách sáng
tạo các đường lối, chủ trương của Đảng vào quá
trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Viện I tham gia Chợ Công nghệ và Thiết
bị Quốc tế Việt Nam - 2012
Nguyễn Thị Diệu Phương
Từ ngày 20-23/9/2012, Bộ Khoa học và Công nghệ,
Ủy ban Khoa học và Công nghệ của ASEAN
(ASEAN COST), UBND Tp. Hà Nội và Tp. Hồ Chí
Minh cùng phối hợp tổ chức Chợ Công nghệ và
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Nguyễn Tiến Dũng
Page 7
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 7
Tin tức
Thiết bị Quốc tế Việt Nam 2012 (International
Techmart Vietnam 2012) tại Trung tâm Triển lãm
Quốc tế Hà Nội.
Tại Hội chợ năm nay Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
thủy sản I có đại diện là Dự án Bảo tồn và phát triển
nguồn lợi thủy sản vùng cao (Highland Aquatic
Resources Conservation and Sustainable
Development- HighARCS) - là dự án hợp tác quốc tế
nằm trong khuôn khổ Chương trình khung lần thứ 7
(FP7) của Liên minh châu Âu (EU) đã đóng góp một
số kết quả nghiên cứu là: mẫu vật đa dạng các loài
cá, một số loài cá mới đang được phát hiện tại địa
điểm nghiên cứu của Dự án thuộc khu hệ cá sông
Đakrông - Quảng Trị, poster, tờ rơi và các Bản tin
của Viện I vào gian trưng bày KH&CN ASEAN-EU
YoSTI 2012 của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
Trong thời gian tham gia triển lãm, các cán bộ của
Dự án HighARCS đã có dịp giới thiệu với các khách
hàng tới thăm quan gian hàng về Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản I, những thành tựu về khoa học -
công nghệ của Viện đã đạt được, giới thiệu các Bản
tin và chia sẻ một số kết quả nghiên cứu của Dự án
HighARCS. Các mẫu vật đa dạng các loài cá và một
số loài cá mới đang được phát hiện đã thu hút được
sự chú ý của công chúng góp phần tăng cường nhận
thức về bảo tồn đa dạng nguồn lợi thủy sản.
Lãnh đạo Cục Thông tin KH&CN Quốc gia đã đánh
giá cao về sự tham gia trưng bày kết quả nghiên cứu
của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I và có ý
tưởng trong phối hợp tổ chức các sự kiện quốc tế,
xây dựng hợp tác với Viện trong thời gian tới.
Techmart Vietnam 2012 thực sự có ý nghĩa, là môi
trường kết nối các nhà khoa học góp phần thúc đẩy
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi
mới sáng tạo, kết nối cộng đồng nghiên cứu và phát
triển với khu vực doanh nghiệp, xúc tiến thương mại
hóa kết quả nghiên cứu KH&CN; đồng thời tăng
cường trao đổi hợp tác nghiên cứu, chuyển giao
công nghệ với các nước trong khu vực và thế giới.
Ông Lê Xuân Định - Phó cục trưởng Cục thông tin KH&CN
quốc gia và cán bộ Viện I tại gian trưng bày KH&CN
ASEAN-EU YoSTI 2012. Ảnh: Nguyễn Thị Diệu Phương
cung cấp
Page 8
8 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Khoa học và Công nghệ
Tác động môi trường từ hoạt động nuôi
tôm ven biển ở miền Bắc Việt Nam
Bùi Đắc Thuyết
Nuôi tôm ven biển đã và đang đóng góp một phần
không nhỏ trong việc phát triển kinh tế xã hội của
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tác
động tới môi trường sinh thái vùng ven bờ như việc
phá rừng ngập mặn hay việc xả thải các chất dinh
dưỡng từ các ao nuôi gây hiện tượng phú dưỡng
trong các thủy vực xung quanh vùng nuôi. Việc phát
triển ồ ạt hoạt động nuôi tôm ven biển ở Quảng
Ninh, Việt Nam trong thời gian qua có thể dẫn đến
những tác động xấu tới môi trường vùng ven bờ. Vì
vậy, mục tiêu của đề tài là nghiên cứu đánh giá các
vấn đề quản lý môi trường vùng ven bờ bao gồm
việc thay đổi diện tích rừng ngập mặn và diện tích
nuôi tôm ven biển, những tác động từ việc xả thải
nước trong các ao nuôi tôm tới chất lượng nước và
bùn đáy trong các thủy vực xung quanh.
Các ảnh vệ tinh được sử dụng để xác định sự thay
đổi hiện trạng sử dụng đất và lớp phủ tại hai điểm
nghiên cứu ở vùng Hạ Long và Móng Cái trong thời
gian từ năm 1999/2001 đến 2008. Kết quả nghiên
cứu cho thấy diện tích rừng ngập mặn tại các vùng
nghiên cứu tại đã giảm khoảng 927,5ha ở Hạ Long
và 1.144,4ha ở Móng Cái trong khi diện tích vùng
nuôi tôm đã tăng tương ứng khoảng 1.195,9ha và
1.702,5ha trong cùng khoảng thời gian nghiên cứu.
Phần lớn diện tích nuôi tôm tại Móng Cái (49,4%)
được xây dựng trên các vùng đất của rừng ngập
mặn trong khi các trại nuôi tôm ở vùng Hạ Long
được xây dựng trên nền đất trống và chỉ 23,9% diện
tích nuôi tôm ở đây xây dựng trên đất rừng ngập
mặn trước đây.
Các mẫu đất và bùn đáy trong các kênh, lạch vùng
cửa sông nhận nước thải từ các trại nuôi tôm cũng
được thu và phân tích để đánh giá sự biến động môi
trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thông số
liên quan đến chất dinh dưỡng như ammonia, nitrite,
nitrate, phosphor tổng số, nhu cầu ôxy sinh hóa,
chlorophyll-a trong nước; và nitơ tổng số, phosphor
tổng số, tổng các bon hữu cơ trong bùn đáy thường
cao ở những điểm gần nguồn xả thải từ các trại nuôi
tôm và hàm lượng các thông số này giảm đi tại các
điểm cách vùng nuôi khoảng 2-3km. Chất lượng
nước tại các điểm nghiên cứu thường có sự thay đổi
theo mùa vụ nuôi, các thông số dinh dưỡng thường
cao hơn sau mỗi vụ nuôi, đặc biệt là tại các điểm thu
mẫu gần trại nuôi tôm.
Đề tài cũng đã áp dụng phân tích thống kê đa nhân
tố để đánh giá chất lượng nước và bùn đáy tại các
điểm nghiên cứu. Phương pháp phân tích thành
phần chính (Principal Component Analysis) đã mô tả
được khá rõ sự biến động chất lượng nước tại các
Khu vực nghiên cứu tại Hạ Long, Quảng Ninh. Nguồn:
ALOS image, chụp tháng 10/2008
Page 9
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 9
Khoa học và Công nghệ
điểm thu mẫu theo không gian và thời gian. Chỉ số
dinh dưỡng trong bùn đáy cũng được thiết lập nhờ
phân tích đa thông số rút gọn (Factor Analysis) và có
thể áp dụng trong quan trắc, đánh giá chất lượng
bùn đáy trong các kênh, lạch vùng ven bờ nhận
nước thải từ các trại nuôi tôm ở Quảng Ninh, Việt
Nam.
Từ những kết quả thu được, đề tài cũng đã thảo luận
một số giải pháp, khuyến cáo nhằm cải thiện thể chế
quản lý hiện tại và tiến tới phát triển bền vững nghề
nuôi tôm ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái vùng
ven bờ. Hướng dẫn TS. Stefan Maier, GS.TS.
Chris Austin, TS. Jim Luong Van
Ảnh hưởng của các hệ thống xử lý nước
lên cộng đồng vi khuẩn đường ruột ở ấu
trùng cá tuyết Đại Tây Dương Gadus
morhua
Trương Thị Mỹ Hạnh
Những tương tác giữa vi khuẩn và cá có ảnh hưởng
đến sức khỏe và sự sống sót, đặc biệt trong suốt giai
đoạn đầu phát triển của cá. Việc thiết lập hệ vi sinh
vật trong ruột cá được tin là đã chịu ảnh hưởng bởi
thành phần vi sinh vật trong nước ương nuôi.
Mục đích của nghiên cứu là kiểm tra các hệ thống xử
lý nước có thể được sử dụng như công cụ để kiểm
soát vi khuẩn trong ương nuôi ấu trùng cá tuyết. Cụ
thể là điều tra ảnh hưởng của các hệ thống xử lý
nước lên vi khuẩn trong nước ương nuôi và trong ấu
trùng cá tuyết. Nghiên cứu được kiểm tra bằng cách
so sánh cấu trúc cộng đồng vi khuẩn trong nuồn
nước vào, nước trong bể ương nuôi và trong ấu
trùng cá từ 3 hệ thống xử lý nước: hệ thống dòng
chảy (FTS), hệ thống lọc sinh học (MMS) và hệ
thống tuần hoàn (RAS).
Phương pháp PCR-DGGE (polymerase chain
reaction-denaturing gradient gel electrophoresis) đã
được áp dụng để mô tả cộng đồng vi khuẩn trong
nghiên cứu này. Tổng DNA của các mẫu nước, thức
ăn, ấu trùng cá đã được tách chiết, sử dụng như
mẫu trong PCR để khuyếch đại đoạn gen của vi
khuẩn tại vùng bảo thủ của 16S rRNA. So sánh cộng
đồng vi khuẩn trên hình ảnh DGGE được phân tích
bằng thống kê đa biến ngẫu nhiên.
Các kết quả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt ý nghĩa
giữa cộng đồng vi khuẩn (MC) trong nước cũng như
trong ấu trùng cá từ 3 hệ thống xử lý nước khác
nhau. MC trong bể nuôi của hệ thống RAS đã chịu
ảnh hưởng chính bởi MC của nguồn nước vào, trong
khi đó MC trong bể nuôi của hệ thống MMS và FTS
có nhiều tương đồng với MC của nguồn nước vào và
của thức ăn. Hơn thế nữa, MC trong bể nuôi và
trong ấu trùng cá của hệ thống RAS và MMS có tính
ổn định theo thời gian so với hệ thống FTS. MC
trong ấu trùng cá đã xác định chính bởi MC của
nước trong bể nuôi. Vì vậy, các hệ thống xử lý nước
có thể kiểm soát được MC trong nước nuôi, đồng
Khu vực nghiên cứu tại Móng Cái, Quảng Ninh. Nguồn:
ALOS image, chụp tháng 12/2008
Page 10
10 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Khoa học và Công nghệ
thời có ảnh hưởng đến cộng đồng vi khuẩn trong ấu
trùng cá tuyết. Hướng dẫn GS. Olav Vadstein và
TS. Ingrid Bakke
Ảnh hưởng của hàm lượng hormone 17α
- Methyltetosterone (MT) và phương pháp
xử lý đến tỷ lệ tạo cá giả đực ở cá hồi vân
Oncorhynchus mykiss
Nguyễn Thị Hoa
Cá cái giả đực mang nhiễm sắc thể XX cho lai với cá
cái thường (XX) sẽ cho quần đàn cá hồi vân toàn cái
ở thế hệ con. Do vậy, quy trình công nghệ tạo cá hồi
vân toàn cái phụ thuộc hoàn toàn vào kỹ thuật tạo ra
cá hồi vân cái giả đực. Hunter và Donaldson (1985)
cho thấy có thể sử dụng hormone 17α -
Methyltetosterone hàm lượng 3 mg/kg thức ăn (TĂ)
công nghiệp cho cá ăn trong vòng 30 ngày (tương
đương 700 - 750 độ ngày). Nghiên cứu của Solar và
Donaldson (1985) sử dụng hàm lượng 3 mg/kg TĂ
thì thời gian xử lý kéo dài từ 90 đến 120 ngày. Kết
quả của các nghiên cứu trên đều cho tỷ lệ đực trong
quần đàn con là 100%. Tuy nhiên ở nước ta nhiệt độ
biến động rất lớn trong ngày và trong cùng một thời
điểm nên thời gian để đạt tổng nhiệt độ 700 hoặc
750 độ ngày cũng thay đổi. Do vậy nghiên cứu để
đưa ra hàm lượng hormone và thời gian tạo cá hồi
vân giả đực nhằm hoàn thiện công nghệ tạo cá hồi
vân toàn cái phù hợp với thực tế là rất cần thiết.
Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng hormone,
thời gian xử lý và phương pháp tạo cá hồi vân giả
đực được thực hiện với ba thí nghiệm. Thí nghiệm 1
xác định liều lượng hormone thực hiện bằng biện
pháp trộn hormone vào thức ăn của cá với 5 hàm
lượng: 2, 3, 5, 7 và 9mg/kg TĂ công nghiệp trong
thời gian 30 ngày, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Thí
nghiệm 2 xác định thời gian xử lý cá giả đực được
bố trí với hàm lượng hormone là 3, 5 và 7mg/kg TĂ
ở các khoảng thời gian: 25, 30 và 35 ngày. Thí
nghiệm 3 tạo cá giả đực bằng biện pháp ngâm thực
hiện với hàm lượng hormone là 400 µg/l nước, với
tần suất 3 lần/tuần, thời gian thí nghiệm kéo dài 4
tuần. Thức ăn sử dụng trong các thí nghiệm được
nhập khẩu từ Phần Lan có kích cỡ viên từ 0,5 -
0,7mm với hàm lượng protein là 55% và lipit là 18%.
Vật liệu thí nghiệm là trứng cá hồi vân toàn cái có
điểm mắt nhập từ Phần Lan. Thí nghiệm 1 và 2
được tiến hành khi cá nở hết bắt đầu ăn thức ăn
ngoài, thí nghiệm 3 tiến hành khi cá nở được 50%.
Kiểm tra tỷ lệ cá giả đực sau 5 tháng nuôi, phương
pháp kiểm tra dựa trên các bước tiến hành kiểm tra
tỷ lệ giới tính của cá rô phi.Thời gian thí nghiệm
được tiến hành từ tháng 3 - 8/2011 tại Trung tâm
nghiên cứu thủy sản nước lạnh Sapa. Các yếu tố
môi trường như: nhiệt độ, ôxy, pH được theo dõi
hàng ngày.
Tỷ lệ chuyển đổi cá giả đực giảm dần khi tăng liều
lượng hormone 2, 3, 5, 7 và 9mg/kgTĂ trong thời
gian 30 ngày. Qua Hình 1 cho thấy, sử dụng liều
Kiểm tra tỷ lệ cá giả đực. Ảnh: Nguyễn Thị Hoa
Page 11
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 11
Khoa học và Công nghệ
lượng hormone 2 và 3 mg/kg TĂ cho tỷ lệ cá giả đực
cao nhất (100%) ở hàm lượng 9mg/kg TĂ cho tỷ lệ
cá giả đực thấp nhất (70%), hàm lượng hormone 5
và 7mg/kg TĂ cho tỷ lệ cá giả đực tương đương
nhau 90 và 93%. Kết quả này cũng phù hợp với các
thảo luận và gợi ý trao đổi trực tiếp với chuyên gia
Phần Lan.
Nhiệt độ nước trong thời gian thí nghiệm (từ 1 -
30/3/2011) biến động trung bình trong ngày từ 9,50C
- 13.00C. Đây là khoảng nhiệt độ phù hợp cho sinh
sản, ấp nở trứng và ương nuôi cá hồi vân.
Kết quả thí nghiệm 2 về thời gian xử lý cá giả đực
được thể hiện ở Hình 2. Qua hình 2 cho thấy tỷ lệ cá
giả đực ở hàm lượng hormone 3mg/kgTA cao nhất
dao động từ 96,7- 100,0% ở cả 3 khoảng thời gian
khác nhau: 25, 30 và 35 ngày. Hàm lượng hormone
5 và 7mg/kg TĂ cho tỷ lệ cá giả đực không có sự sai
khác ở các thời gian xử lý khác nhau, tỷ lệ cá giả
đực dao động từ 80,0 - 90,0%. Tuy nhiên ở thí
nghiệm này, tỷ lệ cá lưỡng tính ở hàm lượng
hormone 5 và 7mg/kg thức ăn cao nhất dao động từ
7 - 10%. Biến động nhiệt độ nước trong thời gian thí
nghiệm (5/5 - 16/6/2011) dao động từ 15 - 170C.
Nhiệt độ nước thời gian này khá cao, tuy nhiên vẫn
nằm trong khoảng nhiệt độ phù hợp với sinh trưởng
và phát triển của cá hồi vân.
Đối với thí nghiệm 3 được tiến hành từ 26/2 -
26/3/2011, tỷ lệ cá giả đực trung bình giữa các lần
lặp đạt 98%. Qua kết quả này cho thấy có thể áp
dụng biện pháp tạo cá hồi vân giả đực bằng phương
pháp ngâm với liều lượng 400μg/l nước trong 4 tuần
trong điều kiện nhiệt độ nước dao động từ 11 - 150C.
Qua các thí nghiệm cho thấy có thể sử dụng
hormone trộn vào thức ăn với liều lượng 2 - 3 mg/kg
TĂ, thời gian xử lý là khoảng 30 ngày hoặc tương
đương 700 độ ngày cho tỷ lệ cá giả đực đạt 100%.
Với điều kiện nhiệt độ ổn định từ 8 - 150C, sử dụng
biện pháp tạo cá hồi vân giả đực là ngâm hormone
tiết kiệm chi phí hơn, thao tác kỹ thuật đơn giản hơn
nhưng vẫn cho tỷ lệ cá giả đực cao tương đương
biện pháp cho ăn. Phản biện TS. Lê Văn Khôi
Đánh giá biến dị di truyền các tổ hợp lai
cá rô phi Oreochromis niloticus bằng chỉ
thị phân tử microsatellite
Trần Thị Thúy Hà, Vũ Thị Trang, Nguyễn Thị Hoa
và Nguyễn Hữu Ninh
Ở Việt Nam, phân tích biến dị di truyền trên cá rô phi
sử dụng chỉ thị microsatellite đã được báo cáo, với
mức dao động từ 3 - 5 alen. Trong nghiên cứu này,
chỉ thị microsatellite Prl1 và GM139 được sử dụng
Hình 1:Tỷ lệ cá giả đực thí nghiệm 30 ngày
Hình 2: Tỷ lệ cá giả đực thí nghiệm 25, 30 và 35 ngày
Page 12
12 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Khoa học và Công nghệ
để đánh giá biến dị di truyền của 16 tổ hợp lai giữa
04 dòng cá rô phi vằn Oreochromis niloticus có
nguồn gốc khác nhau, gồm dòng Thái Lan, Đài Loan,
Israel và dòng chọn giống NOVIT 4 của Viện I. Mục
đích chính của nghiên cứu nhằm định hướng hình
thành quần đàn ban đầu phục vụ chương trình chọn
giống nâng cao tốc độ sinh trưởng.
Tổng số 480 mẫu vây hoặc mô cơ (30 mẫu x 16 tổ
hợp lai) được thu và bảo quản trong ethanol 100%.
Những mẫu này là kết quả của các tổ hợp lai giữa
04 dòng cá rô phi vằn nói trên. ADN tổng số của các
mẫu được tách chiết theo phương pháp kết tủa muối
và bảo quản trong điều kiện 40C. Phản ứng PCR
được thực hiện thông qua hai cặp mồi Prl1 (F:
CATTTTCCACCTTCACGCCTCAC;
R: CTTGCCTCCATTTT CATTTTATAGTTCCTT) và
GM139 (F: GTGGGA TCTACCAAGAAGAG;
R: TTTGAGTAACCACCCTAACAC) để nhân đoạn
gen đặc hiệu với mồi xuôi được đánh dấu huỳnh
quang. Sản phẩm ADN tách chiết và sản phẩm ADN
khuyếch đại được kiểm tra trên gel agarose 0,8% và
1,5%. Các sản phẩm PCR phù hợp được phân tích
trên máy CEQ 8000 (Beckman Coulter, Fullerton,
CA) cùng với dấu chuẩn với độ dài 400bp. Số liệu
được ghi lại và mã hóa thành dữ liệu sử dụng trên
phần mềm phân tích Genepop 4.0 và Arlequin 3.0.
Kết quả kiểm tra hàm lượng ADN trên gel agarose
0,8% và sản phẩm PCR trên gel agarose 1,5% cho
thấy các vạch băng sáng, rõ nét chứng tỏ ADN tách
chiết và đoạn gen được nhân đều đảm bảo chất
lượng và nằm trong khoảng phù hợp.
Kết quả phân tích thể hiện mức độ sai khác tần số
alen và sự đa hình của các vị trí microsatellite. Điều
này chứng tỏ sự sai khác trong cấu trúc di truyền
của các quần đàn. Hai microsatellite đã tạo ra tổng
số 21 alen, trong đó quan sát được ở GM139 là 11
và ở Prl 1 là 10 alen.
Bốn trong 16 tổ hợp lai với số alen xuất hiện nhiều
và tần số alen cao: tổ hợp ĐV14a1, TV10a1, VĐ4a1
và VI2a1. Chẳng hạn đối với tổ hợp lai ĐV14a1, vị trí
alen 1 ở locus Prl 1, tần số alen đạt cao nhất (0,481)
và vị trí alen 4 ở locus GM139, tần số alen đạt cao
nhất là 0,339, thể hiện đàn cá đực và cái của Viện I
và Đài Loan, cá đực Thái Lan và cá cái Israel có tính
biến dị di truyền cao hơn các cá bố mẹ khác. Thêm
vào đó, các tổ hợp ĐV14a1, TV10a1, VĐ4a1, VI2a1
đều có chỉ số sai khác di truyền FST cao hơn so với
các tổ hợp khác. Điều này càng làm sáng tỏ tính ưu
việt của đàn cá đực và cái của Viện I và Đài Loan, cá
đực Thái Lan và cá cái Israel trong các tổ hợp lai.
Kết hợp với các thí nghiệm ngoài ao nuôi về sinh
trưởng, tỷ lệ sống và kết quả đánh giá biến dị di
truyền của các tổ hợp lai giữa 4 dòng cá rô phi này
giúp lựa chọn tổ hợp lai tốt nhất làm vật liệu ban đầu
cho chương trình chọn giống. Phản biện TS.
Nguyễn Quang Huy
Hình ảnh khuếch đại gen bởi cặp mồi GM139 trên máy
CEQ 8000
Page 13
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 13
Khoa học và Công nghệ
Nghiên cứu quá trình phát triển noãn sào
của cá Rầm xanh Sinilabeo lemassoni
(Pellegrin & Chevey, 1936) nuôi trong
điều kiện nhân tạo
Lưu Quố Tr ng
Cá Rầm xanh Sinilabeo lemassoni (Pellegrin &
Chevey, 1936) phân bố chủ yếu ở trung và thượng
lưu các hệ thống sông suối khu vực miền núi phía
Bắc và được xếp vào dạng cá quý hiếm cùng với cá
Lăng Hemibagrus guttatus (Lacepède, 1803), cá
Chiên Bagarius yarelli (Hamilton, 1822), cá Bỗng
Spinibarbus denticulatus ( shima, 1926) và cá Anh
vũ Semilabeo obscorus (Lin, 1981).
Trong những năm gần đây, nguồn lợi cá Rầm xanh
đã suy giảm nghiêm trọng do việc sử dụng các
phương pháp khai thác mang tính hủy diệt như dùng
kích điện, thuốc nổ. Thêm vào đó, các bãi đẻ, khu hệ
sinh thái tự nhiên của đối tượng này cũng bị mất
hoặc thay đổi do việc xây dựng các hồ chứa, thủy
điện. Do vậy, cá Rầm xanh được xếp ở mức nguy
hiểm, đang có nguy cơ tuyệt chủng (mức V) trong
sách đỏ Việt Nam. Trước tình hình đó, nhiệm vụ cấp
nhà nước mã số NVQG - 2010/06 đã được Bộ Khoa
học Công nghệ giao cho Viện NCNT Thủy Sản I thực
hiện với mục tiêu là nghiên cứu sinh sản nhân tạo
thành công nhằm tái tạo, bảo tồn và phát triển bền
vững đối tượng có giá trị này. Nghiên cứu quá trình
phát triển noãn sào của cá Rầm xanh trong điều kiện
nuôi nhân tạo là một nội dung quan trọng và mang
tính quyết định đến sự thành công của nhiệm vụ. Cá
Rầm xanh thu thập từ tự nhiện được nuôi vỗ trong
điều kiện nước tĩnh có giàn phun nước và bổ sung
thêm sục khí; Đánh giá quá trình phát triển tuyến
sinh dục thông qua các chỉ tiêu sinh học sinh sản
như tuổi và kích cỡ thành thục, các giai đoạn phát
triển tuyến sinh dục, hệ số thành thục, mùa vụ sinh
sản. Các chỉ tiêu trên được đánh giá hàng tháng
theo phương pháp của Xakun và Buskaia (1982).
Mẫu tuyến sinh dục được thu thập, xử lý và phân
tích theo David (1990).
Quá trình nghiên cứu đã xác định được tuổi thành
thục và bắt đầu tham gia sinh sản của cá trong điều
kiện nuôi nhân tạo là 2+, với khối lượng cá cái
>500g/con và cá đực là >300g/con. Hệ số thành thục
của cá thấp nhất vào tháng 8 và tăng dần đạt cao
nhất vào tháng 3 năm sau. Từ tháng 4 trở đi hệ số
thành thục của cá giảm dần.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cá cái thành thục
tập trung nhiều nhất vào đầu tháng 2 đến cuối tháng
3. Vào đầu tháng 4 trứng của một số cá thể thu
được đã có dấu hiệu thoái hóa và chuyển sang màu
sẫm, một số trứng đã bị nát.
Hệ số thành thục của cá Rầm xanh các tháng trong năm
Cá Rầm xanh Sinilabeo lemassoni
Page 14
14 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Khoa học và Công nghệ
Kết quả cắt mô tế bào trứng cá Rầm xanh cho thấy
tế bào trứng có kích thước tương đối lớn. Đường
kính trứng ở giai đoạn IV đạt kích cỡ hơn 2 mm,
đường kính nhân đạt xấp xỉ 0,15 mm.
Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở vững chắc cho việc
triển khai các nghiên cứu tiếp theo trong sinh sản
nhân tạo thành công nhằm phục hồi tái tạo và phát
triển nguồn gen loài cá quý hiếm này. Phản biện TS.
Lê Văn Khôi
ảng ch thước nhân của tế bào sinh dục cái của cá
Rầm xanh
Giai đoạn
Đường kính tế bào
sinh dục (mm)
Đường kính nhân (mm)
Đường kính nhân/ đường kính tế bào
sinh dục (%)
Tháng theo d i
I 0,0410,014 0,0210,005 51,22 5; 6; 7
II 0,1270,026 0,0380,009 29,92 8; 9; 10
III 0,8600,210 0,0710,011 8,26 11; 12; 01
IV 2,0500,196 0,1480,012 7,22 02; 3; 4
ác giai đoạn phát triển tu ến inh ục của cá Rầm anh
giai đoạn -a giai đoạn - giai đoạn -c giai đoạn V-d)
a
d
d c
b
Page 15
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 15
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Tổ chức Nghiên cứu công nghiệp và
khoa học khối thịnh vượng chung của Úc
đến thăm và làm việc tại Viện I
Hoàng Thủy
Ngày 10/7, Viện I đã đón tiếp đoàn đại biểu gồm
thành viên các nhóm Khoa học đời sống, Y tế, Thực
phẩm và Phát triển Hợp tác quốc tế thuộc tổ chức
Nghiên cứu khoa học công nghiệp và khối thịnh
vượng chung của Úc (CSIRO), nhằm thảo luận tìm
kiếm cơ hội hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực nông
nghiệp, thực phẩm và khoa học đời sống.
Đại diện phía Viện I, PVT Nguyễn Hữu Ninh đã giới
thiệu sơ lược về Viện, các kết quả hoạt động nghiên
cứu của Viện trong thời gian gần đây. Phía CSIRO
đã đánh giá cao những thành công trong nghiên cứu
mà phía Viện đã đạt được, đồng thời tìm hiểu thêm
về khả năng phát triển nuôi cá rô phi để tìm hướng
đầu tư. Ngoài ra phía đoàn cũng quan tâm tới diễn
biến dịch bệnh tôm đang diễn ra tại Việt Nam và
hướng nghiên cứu khắc phục. Đoàn CSIRO cũng đã
đề xuất những hướng ưu tiên cho việc phát triển
nuôi tôm đảm bảo vệ sinh ATTP và bền vững.
Kết thúc buổi gặp mặt, PVT Nguyễn Hữu Ninh đã
cảm ơn chuyến đến thăm và làm việc của đoàn,
mong muốn mối quan hệ hợp tác giữa CSIRO và
Viện I sẽ được thúc đẩy, đặc biệt trong lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển NTTS thủy sản.
Lãnh đạo Viện I tiếp Đại sứ Việt Nam tại
Uzbekistan
Vũ Thị Ng c Liên, Trần Minh Hậu
Nhằm mục tiêu hướng đến sự hợp tác trong lĩnh vực
nuôi trồng thủy sản giữa hai nước Việt Nam và
Uzbekistan, ngày 20 tháng 7 năm 2012 ngài Đại sứ
Việt Nam tại Uzbekistan, ông Lê Mạnh Luân, đã đến
thăm và làm việc với Viện I.
Tham gia đón tiếp ngài Đại sứ có TS. Phan Thị Vân -
Phó Viện trưởng phụ trách Viện, TS. Nguyễn Hữu
Ninh - Phó Viện trưởng, ThS. Nguyễn Hữu Nghĩa -
Trưởng phòng và ThS. Vũ Thị Ngọc Liên - Phó
phòng TT - HTQT - ĐT, TS. Đặng Thị Lụa - PGĐ TT
NC Quan trắc, Cảnh báo môi trường và Phòng ngừa
dịch bệnh thủy sản khu vực phía Bắc, TS. Lê Văn
Khôi - Phòng Sinh học thực nghiệm, bà Trần Thị Nga
- Thư ký PVT phụ trách Viện.
Lãnh đạo Viện I tiếp đoàn S RO. Ảnh Hoàng Thủy
Page 16
16 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Tại buổi gặp mặt, Ông Lê Mạnh Luân đã bày tỏ
mong muốn Viện I sẽ hỗ trợ Uzbekistan phát triển
nuôi trồng thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên
của Uzbekistan. Với điều kiện tự nhiên của
Uzbekistan như khí hậu lục địa, lượng mưa hàng
năm khoảng 100 - 200 milimét, nhiệt độ vào mùa
đông dưới 230C, Viện I đã đề xuất hai đối tượng nuôi
phù hợp là cá tầm và cá hồi vân. Ngoài ra
Uzbekistan cũng có thể phát triển các đối tượng nuôi
khác là cá chép, cá mè và đặc biệt nên tập trung vào
phát triển các đối tượng cá bản địa. Viện I sẵn sàng
cử chuyên gia sang khảo sát, thảo luận trực tiếp với
các chuyên gia thủy sản của Uzbekistan, từ đó xây
dựng đề án phát triển nuôi trồng thủy sản cho nước
bạn. Viện I cũng sẽ chuyển giao công nghệ và đào
tạo nguồn nhân lực nuôi trồng thủy sản cho
Uzbekistan khi có yêu cầu.
Ông Lê Mạnh Luân đã cảm ơn Lãnh đạo và các cán
bộ của Viện I dành cho ông sự tiếp đón long trọng,
thân tình, nồng hậu và khẳng định ông sẽ cố gắng
nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước
theo chủ trương đã được thống nhất giữa hai Thủ
tướng Việt Nam và Uzbekistan.
Buổi gặp mặt giữa ngài Đại sứ Việt Nam tại
Uzbekistan và Lãnh đạo Viện I sẽ là tiền đề cho sự
hợp tác sâu, rộng về lĩnh vực thủy sản giữa hai
nước trong thời gian tới, góp phần đẩy mạnh hơn
nữa hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước và
củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai
dân tộc.
Viện I tiếp đoàn công tác thuộc Dự án của
Ngân hàng Thế giới
Bùi Đắc Thuyết
Ngày 27/7, Viện I đã tiếp đón đoàn cán bộ thuộc Dự
án của Ngân hàng thế giới mang tên “Bài học chia
sẻ trong việc quản lý bệnh trong Nuôi trồng thủy sản”
để tìm hiểu mức độ nghiêm trọng của tình hình tôm
chết sớm liên quan đến hội chứng gan tụy cấp
(EMS) đang diễn ra trên diện rộng ở Việt Nam. Tại
buổi đón tiếp, đoàn đã được nghe TS. Bùi Đắc
Thuyết - Trung tâm Nghiên cứu Quan trắc, Cảnh báo
Môi trường và Phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu
vực miền bắc thay mặt nhóm nghiên cứu trình bày
Chụp ảnh lưu niệm cùng ngài Đại sứ Việt Nam tại
Uzbekistan. Ảnh Hoàng Thủy
Page 17
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 17
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
tình hình thực hiện và những kết quả ban đầu nhiệm
vụ khẩn cấp “Kiểm tra giám át môi trường và bệnh
tôm nuôi nước lợ khu vực Bắc và Bắc Trung bộ” .
Đoàn công tác đã đánh giá cao kết quả đạt được
của nhiệm vụ trong việc nghiên cứu giám sát môi
trường và bệnh tôm nuôi nước lợ liên quan đến EMS
cũng như các thí nghiệm gây cảm nhiễm nhân tạo
đang triển khai tại Viện I.
Trong thời gian ở tại Việt Nam, đoàn cũng làm việc
với các Viện II, III và Giáo sư Donald Lightner đã
giúp các cán bộ nghiên cứu của các Viện kiểm tra lại
các tiêu bản mô bệnh học gan tụy của tôm trong các
ao nuôi bị chết liên quan đến EMS. Đoàn cũng tiến
hành khảo sát và thu thập thêm thông tin tình hình
bệnh tôm chết sớm (EMS) ở các tỉnh Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà
Vinh và khảo sát hệ thống nuôi tôm tại Việt Nam từ
đó đưa ra những khuyến cáo nhằm hạn chế thiệt hại.
Hội thảo tổng kết Dự án “Hỗ trợ phát
triển nuôi trồng thủy sản Cuba giai đoạn
2009 - 2011”
Phạm Thùy Dương
Chiều ngày 23 tháng 8, tại Viện I đã diễn ra Hội thảo
tổng kết Dự án “Hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản
Cuba giai đoạn 2009 - 2011”. Tham dự Hội thảo,
Viện I có bà Phan Thị Vân - Phó viện trưởng phụ
trách Viện, ông Nguyễn Hữu Ninh - Phó Viện trưởng,
ông Nguyễn Hữu Nghĩa - Trưởng phòng Thông tin -
Hợp tác quốc tế - Đào tạo, ông Chu Chí Thiết - Phân
Viện trưởng Phân viện NCNTTS Bắc Trung bộ và
các chuyên gia tham gia vào dự án. Các đơn vị chủ
quản và đối tác có ông Tô Việt Châu - Vụ Hợp tác
Quốc tế (Bộ NN&PTNT), ông Lê Công Tiến - Vụ
Châu Mỹ (Bộ Ngoại giao), bà Loida Rivera Fabré -
Tham tán Kinh tế (Đại sứ quán Cuba) , ông Bùi Hồng
Phúc - Thương vụ Đại sứ quán Cuba.
Buổi làm việc của đoàn công tác tại Viện I. Ảnh Hoàng
Thủy
Quang cảnh buổi họp. Ảnh Phạm Thù Dương
Page 18
18 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Đại diện cho Dự án, bà Phan Thị Vân, Giám đốc dự
án đã trình bày mục tiêu, hoạt động cũng như các
kết quả mà dự án đã đạt được thông qua ba gói
công việc: khảo sát tình hình nuôi trồng thủy sản tại
Cuba và đề xuất hỗ trợ; hỗ trợ kỹ thuật nuôi tôm
hùm; hỗ trợ kỹ thuật sản xuất cá rô phi đơn tính.
Trong đó, hai nội dung chính là hỗ trợ Cuba về kỹ
thuật nuôi tôm hùm và sản xuất cá giống rô phi đơn
tính đã được hoàn thành xuất sắc.
Đại diện cho phía Cuba, bà Loida Rivera Fabré đã
thể hiện sự biết ơn tới các cơ quan quản lý, thực
hiện dự án, đặc biệt là các chuyên gia NTTS tới từ
Viện I đã thực hiện chuyển giao, hỗ trợ công nghệ
nuôi tôm hùm và cá rô phi đơn tính cho Cuba. Từ đó,
ngành thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm hùm và cá rô
phi đơn tính, hy vọng sẽ phát triển mạnh mẽ, góp
phần bảo đảm an ninh lương thực cho đất nước
Cuba. Đồng thời, bà Loida Rivera Fabré đánh giá
rằng đây là một trong những hợp tác kỹ thuật mang
tính lâu dài giữa Việt Nam - Cuba và sẽ đưa đề nghị
xây dựng Pha 2 của Dự án vào nội dung hợp tác
chương trình hợp tác giữa Cuba và Việt Nam.
Dự án “Hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản Cuba
giai đoạn 2009 - 2011” do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn quản lý, Viện Nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản I là đơn vị thực hiện chính, Viện Nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản III là đơn vị phối hợp thực
hiện.
Viện I triển khai chương trình tập huấn
khuyến nông tại Thanh Hóa
Hoàng Thủy
Từ ngày 20 - 24/8/2012, Viện I đã triển khai tổ chức
các lớp tập huấn về nghiệp vụ và kỹ thuật chuyên
ngành NTTS theo kế hoạch của Trung tâm Khuyến
nông Quốc gia tại Thanh Hóa với 2 lớp tập huấn là
“Quản lý môi trường và bệnh trong nuôi cá nước
ngọt truyền thống” và “Kỹ thuật nuôi tôm thẻ và tôm
sú theo VietGAP”. Trên 50 học viên là cán bộ khuyến
ngư, cộng tác viên khuyến ngư và đại diện người
nuôi thủy sản đến từ các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng,
Nam Định, Thanh Hóa và Nghệ An đã về tham dự.
Các giảng viên của Viện đã giới thiệu khái quát về
Thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (GAP) và Quy
Học viên thảo luận nhóm tại lớp tập huấn. Ảnh Hoàng
Thủy
Page 19
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 19
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
trình kỹ thuật nuôi tôm thẻ và tôm sú theo VietGAP;
sơ lược một số mối nguy trong môi trường nuôi cá
nước ngọt, cập nhật phương pháp quản lý môi
trường khu nuôi trồng thủy sản và quản lý sức khỏe
động vật thủy sản.
Tại các buổi tập huấn trên lớp và đi thực tế, giảng
viên và học viên đã tích cực thảo luận, trao đổi kinh
nghiệm, đề xuất, kiến nghị về một số vấn đề liên
quan đến chính sách và kỹ thuật. Kết quả thu được
từ phiếu đánh giá của 2 lớp tập huấn đã đáp ứng
được yêu cầu của học viên.
Đoàn công tác thuộc Văn phòng Nông
nghiệp Đại sứ quán Mỹ đến thăm và làm
việc tại Viện I
Đàm Thị Mỹ Chinh
Sáng ngày 28 tháng 8 năm 2012 , đoàn công tác của
văn phòng Nông nghiệp Đại sứ quán Mỹ gồm bà
Jeanne Bailey, Tham tán nông nghiệp, Trưởng đoàn;
ông Michatel Ward, tùy viên chuyên trách Nông
nghiệp và bà Phan Thị Thu Hường, Thư ký Văn
phòng đã đến thăm và làm việc tại Viện I theo lời
mời của Dự án “Nâng cao năng lực và chuyển giao
công nghệ của Viện nghiên cứu NTTS I cho Huyện
Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh”. Phó Viện trưởng Trần
Đình Luân cùng đại diện lãnh đạo các phòng Sinh
học thực nghiệm, Di truyền - Chọn giống, TT - HTQT
- ĐT, Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản nội địa,
Văn phòng Viện và các thành viên của Dự án đã đón
tiếp đoàn.
Thay mặt lãnh đạo Viện, PVT. Trần Đình Luân đã
giới thiệu sơ lược về Viện I, những kết quả nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ nổi bật trong thời gian
gần đây. Tiếp đó, TS. Nguyễn Văn Tiến, Trưởng
phòng Sinh học Thực nghiệm đã trình bày những kết
quả của Dự án. Bà Jeanne Bailey đã đánh giá cao
những thành tựu mà Viện I đã đạt được nói chung
Đại diện Lãnh đạo Viện và Dự án đón tiếp đoàn VP Nông
nghiệp ĐSQ Mỹ tại Việt Nam. Ảnh Hoàng Thủy
Học viên đi thực địa tại cơ ở nuôi tôm. Ảnh Hoàng Thủy
Page 20
20 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
và của Dự án nói riêng. Bà mong muốn trong thời
gian tới Đại sứ quán Mỹ và Viện I sẽ có những hợp
tác chặt chẽ hơn nữa trong lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm, biến đổi khí hậu. Đoàn cũng đã đi thăm
quan phòng thí nghiệm thuộc Phòng Di truyền và TT
Nghiên cứu Quan trắc, Cảnh báo Môi trường và
Phòng ngừa dịch bệnh thủy sản.
Kết thúc buổi gặp mặt, ông Trần Đình Luân đã thay
mặt Viện cảm ơn chuyến đến thăm và làm việc của
đoàn và mong muốn sẽ thúc đẩy mối quan hệ hợp
tác với Phòng Nông nghiệp Đại sứ quán Mỹ nhằm
phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam nói
chung và Viện I nói riêng.
Chuyến thăm và làm việc của Viện
Nghiên cứu NTTS và Thủy lợi Hungary tại
Viện I
Nguyễn Tiến Dũng
Từ ngày 24 - 29/9/2012 đoàn cán bộ của Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản và thủy lợi Hungary
(HAKI) đã tới Việt Nam và bắt đầu chương trình làm
việc kéo dài 5 ngày tại Viện I. Đúng theo kế hoạch,
chiều ngày 25/9, Đoàn đã có buổi gặp mặt và làm
việc với các Trưởng, phó phòng, Trung tâm, Phân
viện thuộc Viện. Đại diện hai bên đã giới thiệu sơ
lược lịch sử hình thành và thành tựu nghiên cứu
khoa học mà hai Viện đã đạt được. Tại buổi làm việc
với PVT. Nguyễn Hữu Ninh, đại diện phía HAKI
mong muốn được đi thăm quan, học hỏi và trao đổi
kinh nghiệm về lĩnh vực di truyền trong NTTS, tiến
hành ký kết thực hiện các dự án giữa hai Viện, bên
cạnh đó duy trì việc chia sẻ thông tin trong hoạt động
nghiên cứu khoa học trong thời gian tới.
Trong chuyến công tác, Đoàn đã đi thăm quan các
phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất tại các Phòng
chuyên môn như Di truyền - Chọn giống, Sinh học -
Thực nghiệm, P. Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi thủy
sản, Trung tâm Quan trắc và tới TTQG giống thủy
sản nước ngọt tại Phú Tảo - Hải Dương.
Chuyến thăm lần này của đoàn cán bộ Viện HAKI có
ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố và thúc đẩy
quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học giữa hai Viện,
là tiền đề cho những dự án nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản mà Hungary sẽ quyết định đầu tư trong
tương lai.
Đoàn công tác thăm khu vực thí nghiệm của Viện I. Ảnh
Nguyễn Tiến Dũng
Page 21
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012) 21
Hoạt động bốn phương
Thăm quan học tập công nghệ nuôi thủy
sản ở Israel
Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Thị Diệu Phương
Nhằm tăng cường quan hệ, hợp tác trong lĩnh vực
thuỷ sản giữa Israel và Việt Nam, Cơ quan phát triển
hợp tác quốc tế (MASHAV) thuộc Bộ Ngoại giao
Israel đã hỗ trợ cho đoàn cán bộ Việt Nam khóa
thăm quan học tập về công nghệ nuôi trồng thủy sản
ở Israel từ ngày 28/8 đến 11/9/2012. Đoàn thăm
quan gồm 24 người, là lãnh đạo các sở, lãnh đạo
tỉnh và cán bộ chuyên ngành các tỉnh Bắc Giang,
Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Nghệ An, giảng viên Trường
Đại học Nha Trang, các cán bộ Khu công nghệ cao
TP. Hồ Chí Minh, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi
trường (Bộ Nông nghiệp và PTNT) và các nhà
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản 1 - TS. Nguyễn Quang Huy và ThS. Nguyễn Thị
Diệu Phương làm trưởng đoàn kiêm phiên dịch.
Mục đích của chuyến đi là giới thiệu cho học viên về
ngành thuỷ sản Israel, những thành tựu trong nghiên
cứu và phát triển công nghệ, các mô hình sản xuất,
qua đó gợi mở các cơ hội có thể hợp tác giữa hai
bên về lĩnh vực thuỷ sản. Buổi khai mạc lớp học đã
diễn ra long trọng với sự có mặt của đại sứ Việt Nam
ở Israel và đại sứ Bộ ngoại giao Israel. Qua hai tuần
học tập, đoàn đã được học, gặp gỡ các chuyên gia
giàu kinh nghiệm của Israel trong nhiều chuyên
ngành, được đi thăm quan nhiều mô hình nuôi trên
đất nước bạn. Mặc dù sản lượng nuôi thuỷ sản của
Israel còn khiêm tốn, khoảng 18.000 tấn/năm, nhưng
điều nổi bật là ở mỗi vùng sinh thái, từ vùng núi cao
có khí hậu ôn đới ở miền Bắc đến vùng sa mạc nóng
và cằn khô ở miền Nam, Israel đều có công nghệ
nuôi, loài nuôi phù hợp, sử dụng công nghệ cao (ví
dụ công nghệ tuần hoàn hoàn nước, tự động hoá…)
trong sản xuất giống cũng như nuôi cá thương
phẩm, để đạt năng suất nuôi và hiệu quả sử dụng
nguồn lực cao. Tuỳ theo hệ thống nuôi bán thâm
canh hay thâm canh mà năng suất nuôi có thể đạt từ
35 kg - 100 kg cá/m3 bể cho các loài cá như cá hồng
Mỹ, cá tráp. Bên cạnh đó Israel cũng phát triển công
nghệ lồng một neo cho nuôi lồng biển mở rất thành
công ở quy mô thương mại, Hệ thống lồng có thể
chịu được độ cao sóng tối đa 15 m, năng suất nuôi
đạt 25-35 kg/m3 cho loài cá tráp. Đặc biệt nghề sản
Ngài đại sứ Việt Nam tại rael, Ông Đinh Xuân Lưu tại
buổi Lễ khai mạc khóa tập huấn. Ảnh Nguyễn Quang Huy
cung cấp
Page 22
22 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 7 (Quý III năm 2012)
Hoạt động bốn phương
xuất giống và nuôi cá cảnh Israel phát triển mạnh, đã
xuất khẩu cá cảnh đến nhiều nước trên thị trường
Châu Âu, Bắc Mỹ. Chỉ riêng trang trại Maagan
Michael hàng năm sản xuất được 25 triệu cá giống
và nuôi được 1 triệu cá Koi thương phẩm, doanh thu
tới 15 triệu USD/năm. Những thành công trong lĩnh
vực thuỷ sản nói riêng và ngành nông nghiệp nói
chung phần lớn là nhờ Israel làm tốt công tác nghiên
cứu và phát triển (R&D), và khuyến ngư để hỗ trợ
cho người dân, doanh nghiệp. Kết thúc khoá học,
đoàn đã có buổi thảo luận với các giảng viên, các
nhà khoa học Israel và đơn vị tổ chức lớp học là
CINADCO về triển vọng việc vận dụng kinh nghiệm,
công nghệ thuỷ sản của Israel trong điều kiện thực
tiễn ở Việt Nam, cơ hội hợp tác giữa hai bên trong
lĩnh vực thuỷ sản và các góp ý để chương trình tập
huấn ngày càng hoàn thiện hơn.
Những thành tựu vượt bậc về kinh tế, khoa học công
nghệ nói chung và lĩnh vực thuỷ sản nói riêng của
người Israel trên đất nước có lịch sử còn trẻ, diện
tích nhỏ (22.000 km2) với gần 2/3 đất là sa mạc và
hầu như không có tài nguyên khoáng sản gì, thật
đáng khâm phục. Ngoài thời gian học và đi thực địa,
đoàn cũng được đi thăm quan những địa danh lịch
sử, các điểm du lịch, qua đó hiểu hơn về văn hoá,
tôn giáo và cuộc sống của người Israel. Thời điểm
đoàn kết thúc chuyến học tập cũng là lúc một năm
mới truyền thống đang đến rất gần trên đất nước
bạn. Chúc hoà bình mãi ngự trị trên vùng đất thánh;
Chúc tình hữu nghị, mối quan hệ giữa Việt Nam và
Israel ngày càng bền chặt và phát triển.
Thảo luận bàn tròn cuối khoá học. Ảnh Nguyễn Quang
Huy cung cấp
Hệ thống nuôi cá biển gần bờ. Ảnh Nguyễn Quang Huy
cung cấp