48 PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN NAY THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KHUYẾN NGHỊ NCS. Huỳnh Tâm Sáng – Hoàng Văn Tuấn TÓM TẮT Nông nghi ệp t ừ lâu đã đóng vai trò quan trọng giúp phát tri ể n kinh t ế đồng b ằng sông Cử u Long. Tuy nhiên, phát tri ể n nông nghi ệp đồng b ằng sông Cửu Long vẫ n còn nhi ều hạ n chế và thách th ức. Vì vậ y, nhìn nh ậ n l ạ i các chính sách phát tri ể n nông nghi ệp đồng b ằng sông Cửu Long cùng nh ững thành t ựu và hạ n chế là cầ n thi ết và có ý nghĩa thời sự. Bài vi ết điể m l ại những chính sách tiêu bi ể u c ủa Đảng và Nhà nước t ừ đầu th ế k ỷ XXI đến nay. Qua đó, bà i vi ế t trình bày nh ững thành t ựu tiêu bi ểu và làm rõ nh ững hạ n chế để trên cơ sở đó đề ra những khuyến nghị góp phầ n phát tri ể n nông nghi ệp đồng bằ ng sông Cửu Long trong th ời gian t ới. Từ khóa: nông nghi ệp, đồng b ằng sông Cửu Long, thành t ựu, h ạn ch ế, thách thức. 1. Chính sách c ủa Đảng và Nhà nước đối với phát tri ể n nông nghi ệp đồng bằng sông Cửu Long Đồng b ằng sông Cửu Long là phầ n lãnh th ổ nằ m ở cực Nam c ủa Tổ quốc và nằ m ở hạ lưu sông Mekong, phía Đông Bắc giáp Thành ph ố Hồ Chí Minh, Đông và Nam giáp Biển Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp Bi ển Đông và vịnh Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng đồng bằ ng r ộng l ớn và phì nhiêu nh ấ t của Đông Nam Á với di ệ n tích t ự nhiên g ần 4 tri ệ u ha và dân s ố trên 17 tri ệu người 1 , bao g ồm “các dân tộc Vi ệt, Hoa, Chăm, Khmer cùng c ộng cư trên vùng đất này đã tạ o nên một ngu ồn l ực to l ớn trong Trường Đại họ c Thủ Dầ u Một. Trường Đạ i học Thủ Dầ u Một. 1 Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và Trung tâm thông tin Sài Gòn (2005), Tây Nam Bộ ti ến vào thế kỷ XXI, NXB Chính tr ị Quốc gia, Hà Nộ i, tr. 17.
20
Embed
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIÓP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ …
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
48
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN NAY
THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KHUYẾN NGHỊ
NCS. Huỳnh Tâm Sáng – Hoàng Văn Tuấn
TÓM TẮT
Nông nghiệp từ lâu đã đóng vai trò quan trọng giúp phát triển kinh tế
đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp đồng bằng sông
Cửu Long vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức. Vì vậy, nhìn nhận lại các chính
sách phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long cùng những thành tựu
và hạn chế là cần thiết và có ý nghĩa thời sự. Bài viết điểm lại những chính
sách tiêu biểu của Đảng và Nhà nước từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Qua đó, bài
viết trình bày những thành tựu tiêu biểu và làm rõ những hạn chế để trên cơ sở
đó đề ra những khuyến nghị góp phần phát triển nông nghiệp đồng bằng sông
Cửu Long trong thời gian tới.
Từ khóa: nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long, thành tựu, hạn chế,
thách thức.
1. Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp
đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là phần lãnh thổ nằm ở cực Nam của Tổ quốc
và nằm ở hạ lưu sông Mekong, phía Đông Bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh,
Đông và Nam giáp Biển Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp Biển Đông và
vịnh Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng đồng bằng
rộng lớn và phì nhiêu nhất của Đông Nam Á với diện tích tự nhiên gần 4 triệu
ha và dân số trên 17 triệu người1, bao gồm “các dân tộc Việt, Hoa, Chăm,
Khmer cùng cộng cư trên vùng đất này đã tạo nên một nguồn lực to lớn trong
Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Trường Đại học Thủ Dầu Một.
1 Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và Trung tâm thông tin Sài Gòn (2005), Tây Nam Bộ tiến vào thế
kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 17.
49
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
việc khai khẩn và phát triển đồng bằng sông Cửu Long”1. Xét về mặt địa giới
hành chính, đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh thành trên tổng số 63 tỉnh
thành của cả nước: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và
Thành phố Cần Thơ. Trong 13 tỉnh thành, đồng bằng sông Cửu Long có 6 tỉnh
thành không có biển (An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Long An) và
7 tỉnh có biển (Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên
Giang, Cà Mau). Là vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước và sở hữu nhiều
nguồn lực và tiềm năng phát triển, đồng bằng sông Cửu Long giữ vị trí trọng
yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tây Nam Bộ nói riêng và cả
nước nói chung2.
Tuy là một vùng “đất mới” (cả theo nghĩa địa chất và nghĩa lịch sử)
nhưng đồng bằng sông Cửu Long sở hữu nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, từ điều kiện tự nhiên đến điều kiện kinh tế - xã hội. Về điều kiện
tự nhiên, trước hết phải kể đến khí hậu. Đồng bằng sông Cửu Long có nền
nhiệt cao và ổn định trong toàn vùng nên có thể phát triển một nền nông nghiệp
nhiệt đới với nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi, tạo nên sự đa dạng trong sản
xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Thứ hai là đất đai,
được lũ bồi đắp phù sa hàng năm nên đất đai của vùng rất màu mỡ. Thêm nữa,
đồng bằng sông Cửu Long còn có khá nhiều loại đất đai khác nhau phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp, bao gồm: 1,2 triệu ha đất phù sa tốt (chiếm 29,7%), 1,6
triệu ha đất phèn (chiếm 40%), 744 ngàn ha đất mặn (chiếm tỷ lệ 16,7%), 134
ngàn ha đất xám (chiếm 3,4%). Thứ ba là nguồn nước, sở hữu khoảng 2.500km
sông rạch tự nhiên, 3.000km kênh nhân tạo và 1 triệu ha bề mặt ngập nước theo
mùa nên đồng bằng sông Cửu Long có nguồn nước mặt rất lớn phục vụ cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, các con
sông rạch tự nhiên, các kênh đào và khoảng 1 triệu ha bề mặt ngập nước theo
mùa còn là nơi sinh trưởng và cư trú của nhiều hệ động, thực vật thích nghi với
1 Trần Phỏng Diểu, “Sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp
chí Văn hóa – Lịch sử An Giang, số 97, 4-2013, tr. 14.
2 Phát biểu khai mạc của Thường trực Ban Chỉ đạo Diễn đàn MDEC - Sóc Trăng 2014. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ - Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng,
Kỷ yếu Hội thảo “Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn xây dựng nông thôn mới thích ứng với biến
đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long, 2014, tr. 3.
50
cả môi trường nước ngọt và mặn, trong đó nhiều loài cho hiệu quả kinh tế cao1.
Bên cạnh những thuận lợi về mặt tự nhiên thì ưu điểm về điều kiện kinh
tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu Long như nguồn lao động dồi dào, lao
động dần chuyển biến và bước đầu có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp,
thị trường tiêu thụ rộng lớn và ngày càng được mở rộng… cũng là những ưu thế
nổi bật, góp phần phát triển nông nghiệp trong suốt thời gian qua2. Bên cạnh
đó, đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng đồng bằng duy nhất mà
ở đó có bốn tộc người cư trú khác biệt nhau về mọi phương diện. Mặc dù các
tộc người cư trú có mặt vào các thời điểm khác nhau và giữa các tộc người có
sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, tổ chức xã hội, tôn giáo… nhưng trải
qua một khoảng thời gian dài cộng cư trên cùng một lãnh thổ thì các tộc người
đã có quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa3. Những giá trị chung giữa các tộc
người là điều kiện căn bản mang đến sự ổn định cho phát triển nông nghiệp.
Với những lợi thế từ điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, đặc biệt là
thuận lợi về mặt khí hậu, đất đai và nguồn nước, đồng bằng sông Cửu Long đã
sớm trở thành vùng trọng điểm về sản xuất lương thực và thực phẩm của cả
nước. Hàng năm, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản của vùng chiếm khoảng
40%, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản chiếm trên 42% tổng nông -
lâm - thủy sản của cả nước. Sản lượng lúa của vùng chiếm trên 50% tổng sản
lượng lúa; hàng năm đóng góp trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu và trên 94%
giá trị xuất khẩu gạo của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng nuôi
trồng thủy sản lớn nhất nước: diện tích nuôi chiếm 71%, sản lượng nuôi chiếm
72% của cả nước và giá trị xuất khẩu thủy sản chiếm đến 75% của cả nước.
Ngoài ra, đồng bằng sông Cửu Long còn sở hữu tiềm năng phát triển chăn nuôi
để cung cấp thịt, trứng cho nội vùng, cho cả nước và xuất khẩu. Hàng năm có
đến 50% sản lượng các sản phẩm vật nuôi chính (thịt, trứng các loại) được đưa
ra khỏi vùng để cung ứng cho các vùng lân cận và tham gia xuất khẩu4. Với
1 Nguyễn Thế Bình, “Nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng, cơ hội và
thách thức trong bối cảnh hội nhập”, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Hà Nội, 2015, tr.
225-226.
2 Nguyễn Minh Tuệ - Lê Thông (đồng chủ biên) (2013), Địa lí nông – lâm – thủy sản Việt
Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 271.
3 Ngô Văn Lệ, “Hoạt động “thương hồ” của người Việt Nam Bộ”, Tạp chí Đại học Thủ Dầu
Một, Số 3 (22) -2015, tr. 18.
4 Nguyễn Thế Bình, “Nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng, cơ hội và
thách thức trong bối cảnh hội nhập”, Tlđd, tr. 224..
51
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
những tiềm năng kể trên, đồng bằng sông Cửu Long đang tiếp tục đóng góp vào
đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp ở phía
Nam nói riêng và cả nước nói chung.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách chiến lược nhằm chỉ đạo sản
xuất nông nghiệp của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiêu
biểu có thể kể đến Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về phương hướng, nhiệm vụ,
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng đồng
bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001 - 2010” của Bộ Chính trị ban hành ngày 20-
1-2003. Đây là Nghị quyết nhằm định hướng phát triển toàn diện cho đồng
bằng sông Cửu Long. Trong đó, vấn đề nông nghiệp đã được Nghị quyết chỉ rõ:
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cả trong GDP và cơ cấu lao
động… đối với nông - lâm - ngư nghiệp phải áp dụng các tiến bộ khoa học -
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất để chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế, tăng năng xuất, chất lượng sản phẩm và giá trị sản xuất trên một
hécta đất canh tác. Ổn định sản lượng và nâng cao chất lượng gạo, đảm bảo an
ninh lương thực cho đất nước và góp phần xuất khẩu…1. Nghị quyết số 21-
NQ/TW của Bộ Chính trị cung cấp định hướng thống nhất, tổng thể, bền vững
và có tính lâu dài cho sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Nói
cách khác, Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị đã mở ra một bước đột
phá mới cho việc phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long trong
những năm đầu thế kỷ XXI.
Quán triệt Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ, chính
quyền các cấp và nhân dân các tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long đã nỗ lực
phấn đấu, thực hiện sáng tạo các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và Nhà
nước. Tính đến cuối năm 2010, ngành nông - lâm - ngư nghiệp đã có bước phát
triển toàn diện, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh,
phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực lúa gạo, thủy sản, trái cây. Giá trị sản xuất
toàn ngành tăng từ 56.292 tỉ đồng (năm 2001) lên 101.000 tỉ đồng (năm 2010),
tăng trưởng bình quân trong giai đoạn là 2001-2010 đạt 6,9%/năm; thu nhập
trên mỗi ha đất sản xuất nông nghiệp trong vùng tăng từ 20,2 triệu đồng/ha
1 Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001 - 2010” của Bộ
Chính trị ban hành ngày 20-1-2003.
52
(năm 2001) lên gần 38 triệu đồng/ha (năm 2010); sản xuất trái cây đạt 3,5 triệu
tấn, chiếm 70% cả nước; thủy sản đạt 1,9 triệu tấn, chiếm 58% cả nước. Sản
xuất lúa, trái cây, nuôi trồng thủy sản cũng gặt hái được nhiều tiến bộ rõ nét khi
đã hình thành được một số mô hình tập trung chuyên canh lúa, cây ăn trái và
thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tăng lợi thế
cạnh tranh trên thương trường trong nước và quốc tế1. Những thành tựu đạt
được có ý nghĩa quan trọng giúp thúc đẩy công cuộc đổi mới cho cả vùng.
Tiếp đến, trên cơ sở xem xét Báo cáo kết quả tổng kết của Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ và ý kiến của các cơ quan liên quan sau 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 21-NQ/TW, ngày 14-8-2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận
số 28-KL/TW “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội và bảo đảm an ninh quốc phòng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011-
2020” với mục tiêu và phương hướng phát triển đồng bằng sông Cửu Long
thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại,
phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp với tốc
độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển, xây dựng ngành
thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có quy mô lớn, hiện
đại, sức cạnh tranh cao… Tập trung hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát
triển công nghiệp năng lượng, sinh hóa, công nghiệp chế tác trực tiếp phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Hình thành cơ cấu hệ thống đê điều, cống đập ngăn mặn,
ứng phó với nước biển dâng và tác động của thượng nguồn sông Mekong...
Để cụ thể hóa những mục tiêu và phương hướng của Kết luận số 28-
KL/TW, Bộ Chính trị đã đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp thực hiện cơ bản
đến năm 2020, trong đó chú trọng: (i) điều chỉnh quy hoạch theo hướng khai
thác tối đa tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, phát huy sức mạnh tổng thể
của vùng, hình thành vùng kinh tế công nghiệp chế biến phục vụ sản xuất nông
nghiệp, thuỷ sản; (ii) xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô vừa và
lớn theo hướng liên doanh, liên kết chặt chẽ, phát triển bền vững. Thực hiện tốt
việc giữ 1,7 triệu ha đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020;
đồng thời đảm bảo yêu cầu dự trữ 4 triệu tấn lúa cho quốc gia. Triển khai
nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng giá trị sản xuất trên diện tích nuôi trồng thuỷ sản và canh tác nông
1 Nguyễn Văn Cường, “Giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu ngân sách vùng Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020”, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, Số 11 (21) - 2013, tr. 85.
53
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
nghiệp lên gấp 1,2 đến 1,5 lần so với năm 2010; (iii) Đầu tư, nâng cấp mở rộng,
chỉnh trang các trung tâm thương mại, chợ nông sản, thuỷ sản theo hướng văn
minh, hiện đại. Khai thông liên vận, thông quan các khu kinh tế cửa khẩu, các
chợ biên giới. Xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hoá sản phẩm chủ lực của
vùng…1.
Nhìn chung, những chủ trương phát triển nông nghiệp cho đồng bằng
sông Cửu Long mà Bộ Chính trị đề ra trong Kết luận số 28-KL/TW là cụ thể và
toàn diện hơn so với những chủ trương trong Nghị quyết số 21-NQ/TW. Trong
đó, chủ trương tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa của
Kết luận số 28-KL/TW có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp
của vùng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước chuyển nền sản
xuất nông nghiệp truyền thống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sang nền sản
xuất nông nghiệp với công nghệ cao, góp phần đưa kinh tế phát triển, tạo công
ăn việc làm, làm tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo tiền đề để giải quyết
hàng loạt các vấn đề chính trị - xã hội của vùng, đưa nông thôn vùng đồng bằng
sông Cửu Long tiến lên văn minh hiện đại2. Bên cạnh đó, sự phát triển từ các
chủ trương cho thấy Đảng ta đang đi đúng hướng với những gì đã khẳng định
trong Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn là: “công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”3.
Bên cạnh đó, để cụ thể hóa những mục tiêu và phương hướng của Kết
luận số 28-KL/TW, ngày 21-11-2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 2270/QĐ-TTg về “Kế hoạch triển khai thực hiện kết luận số 28-KL/TW
ngày 14 tháng 8 năm 2012 của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020” với một số nhiệm vụ cơ bản là: (i) hoàn
1 Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Ban Chấp hành Trung ương “Về phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng
bằng Sông Cửu Long, thời kỳ 2011 – 2020”, Cổng thông tin Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tại địa chỉ:
http://hatinh.dcs.vn/vanban/view/index/id/494, truy cập ngày 2/12/2016.
2 Phạm Ngọc Hòa, “Một số vấn đề đặt ra từ thực tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công
nghệ, tập 18, số X1-2015, tr. 15.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng