PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG Tác giả: Nguyễn Hữu Nhân LỜI NÓI ĐẦU Phát triển cộng đồng là một lĩnh vực khoa học lý luận và thực tiễn, tuy đã có từ những năm 1940 ở trên thế giới nhưng ở Việt Nam vẫn còn là điều mới mẻ. Đã có một số tài liệu lý thuyết về Phát triển cộng đồng được phổ biến trong giới nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Một số tài liệu được các chuyên gia trong nước biên soạn dưới dạng sách tham khảo cho sinh viên ở một số trường đại học và phục vụ cho việc xây dựng, thực hiện các dự án. Các tài liệu này đều có điểm chung là được viết vì mục đích thực hiện dự án hơn là các tổng kết lý luận về cộng đồng và phát triển cộng đồng. Giáo trình "Phát triển cộng đồng” nhằm cung cấp cho sinh viên chuyên ngành Nhân học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội có được những kiến thức cơ bản về cộng đồng và phát triển cộng đồng cùng với những thực tế về phát triển cộng đồng ở Việt Nam trong những năm qua; Hướng cho sinh viên có kiến thức về dự án phát triển cộng đồng và thực hành xây dựng dự án phát triển một lĩnh vực cụ thể của cộng đồng. Giáo trình gồm 2 đơn vị học trình (ĐVHT) được chia thành 5 chương và phần phụ lục. Chương 1: Bàn về cộng đồng và những vấn đề về phát triển cộng đồng, gồm một số khái niệm và lý luận về phát triển cộng đồng. Chương 2: Phát triển cộng đồng trong bối cảnh hiện nay.
205
Embed
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/115.PhatTrienCongDong.docx · Web viewCong dong con yeu kemCong dong tinh thucCong dong duoc tang ... huy nội
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNGPHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
Tác giả: Nguyễn Hữu Nhân
LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển cộng đồng là một lĩnh vực khoa học lý luận và thực tiễn, tuy
đã có từ những năm 1940 ở trên thế giới nhưng ở Việt Nam vẫn còn là điều
mới mẻ. Đã có một số tài liệu lý thuyết về Phát triển cộng đồng được phổ biến
trong giới nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Một số tài liệu được các chuyên
gia trong nước biên soạn dưới dạng sách tham khảo cho sinh viên ở một số
trường đại học và phục vụ cho việc xây dựng, thực hiện các dự án. Các tài
liệu này đều có điểm chung là được viết vì mục đích thực hiện dự án hơn là
các tổng kết lý luận về cộng đồng và phát triển cộng đồng. Giáo trình "Phát
triển cộng đồng” nhằm cung cấp cho sinh viên chuyên ngành Nhân học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội có được những
kiến thức cơ bản về cộng đồng và phát triển cộng đồng cùng với những thực
tế về phát triển cộng đồng ở Việt Nam trong những năm qua; Hướng cho sinh
viên có kiến thức về dự án phát triển cộng đồng và thực hành xây dựng dự án
phát triển một lĩnh vực cụ thể của cộng đồng.
Giáo trình gồm 2 đơn vị học trình (ĐVHT) được chia thành 5 chương và
phần phụ lục.
Chương 1: Bàn về cộng đồng và những vấn đề về phát triển cộng
đồng, gồm một số khái niệm và lý luận về phát triển cộng đồng.
Chương 2: Phát triển cộng đồng trong bối cảnh hiện nay.
Đây là phần định hướng quan trọng để giải quyết những vấn đề cơ bản
trong phát triển cộng đồng trong bối cảnh xây dựng đất nước tiến lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa v.v...
Chương 3: Sự hòa nhập xã hội, việc hòa nhập của phụ nữ, người dân
tộc thiểu số và các đối tượng dễ bị tổn thương khác vào sự phát triển cộng
đồng. Sự tham gia và hòa nhập của các đối tượng này là quan trọng và cần
thiết, và bên cạnh việc huy động thêm sức mạnh của cộng đồng còn tạo điều
kiện để họ được hưởng mọi quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước.
Chương 4: Dự án phát triển cộng đồng. Nội dung của chương này
cung cấp cho người học những vấn đề cơ bản mà các dự án phát triển cộng
đồng cần tuân theo để đạt được hiệu quả cao, đồng thời, giới thiệu cho người
học làm quen với cách xây dựng dự án phát triển cộng đồng.
Chương 5: Bàn về bộ công cụ thực hiện trong các dự án phát triển
cộng đồng - PRA - lập kế hoạch có sự tham gia của người dân.
Phần phụ lục: Giới thiệu tóm tắt kết quả một số dự án phát triển cộng
đồng đã và đang thực hiện ở nước ta, qua đó người học có thể thấy được các
hoạt động thực tiễn về phát triển cộng đồng ở một số lĩnh vực như tổ chức
cộng đồng, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo v.v...
Giáo trình Phát triển cộng đồng cũng là tài liệu học tập và tham khảo
quí cho sinh viên các ngành có liên quan như xã hội học, nông nghiệp và phát
triển nông thôn cũng như người làm công tác phát triển cộng đồng.
Giáo trình được biên soạn dựa trên cơ sở những kiến thức và kinh
nghiệm đã được tích lũy trong nhiều năm học tập, nghiên cứu và qua thực tế
thực hiện đánh giá các dự án, cũng như làm việc trong các dự án phát triển
cộng đồng. Tuy vậy, những thiếu sót là không thể tránh khỏi, tác giả xin cảm
tạ và ghi nhận những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và các độc giả.
Tác giả
Chương 1. CỘNG ĐỒNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
1.1. Cộng đồng1.1.1. Lịch sử của vấn đề cộng đồng
Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng (Commumty) có nhiều
tuyến nghĩa khác nhau, đồng thời cộng đồng cũng là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học như: Xã hội học, Dân tộc học, Y học v.v... Khái
niệm cộng đồng thường dùng để chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm
tương đối khác nhau về qui mô và đặc tính xã hội. Ý nghĩa rộng nhất của
cộng đồng là tập hợp người với các liên minh rộng lớn như toàn thế giới
(cộng đồng thế giới), một châu lục (cộng đồng châu Á, cộng đồng châu Âu
v.v...), một khu vực (cộng đồng ASEAN). Cộng đồng còn được áp dụng để chỉ
một kiểu xã hội, căn cứ vào những đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc
hay tôn giáo (cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người da đen tại Hoa Kỳ
v.v...) Nhỏ hơn nữa, cộng đồng được dùng khi gọi tên các đơn vị như làng,
bản, xã, huyện v.v..., những người chung về lý tưởng xã hội, lứa tuổi, giới
tính, thân phận xã hội v.v...
Khái niệm cộng đồng bao gồm từ các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt, là nhóm xã hội có lúc khá
phân tán, chỉ được liên kết với nhau bằng lợi ích chung trong một không gian
tạm thời và thời gian nhất định chẳng hạn như: phong trào quần chúng, công
chúng và đám đông. Như vậy, có thể phân thành hai dạng cộng đồng dựa
trên cấu trúc xã hội và tính chất liên kết xã hội:
- Dạng cộng đồng thể hiện mối quan hệ xã hội trong đó có những đặc
trưng được xác định như: tình cảm, ý thức và chuẩn mực xã hội. Dạng cộng
đồng này được gọi là cộng đồng tính.
- Dạng cộng đồng mà được xác định là nhóm người cụ thể, những
nhóm xã hội có liên kết với nhau ở nhiều qui mô khác nhau, kể từ đơn vị nhỏ
nhất như gia đình cho đến các quốc gia và toàn thế giới. Dạng cộng đồng này
gọi là cộng đồng thể.
Năm 1887, F. Tonnies - nhà xã hội học người Đức đã phân chia xã hội
thành hai dạng có liên quan đến sự phát triển nghề nghiệp như: Dạng xã hội
thứ nhất gần như cộng đồng tính bao gồm các cộng đồng truyền thống tiền
công nghiệp và thuộc các xã hội nông nghiệp; Dạng thứ hai có tính hiệp hội,
giống các cộng đồng thể thuộc xã hội công nghiệp và đô thị.
Về mặt tổ chức xã hội, người ta cho rằng có 3 tổ chức gắn kết với nhau
để tạo thành cộng đồng là: 1) dòng họ hay dòng tộc; 2) đẳng cấp hay tầng lớp
xã hội và 3) câu lạc bộ. Như vậy, tổ chức 1) và 2) gần với dạng cộng đồng
tính còn dạng câu lạc bộ gần với hiệp hội như cách chia của F. Tonies.
Từ những quan điểm trên, có thể rút ra những nhận xét về đặc trưng
của cộng đồng tính là:
- Quan hệ mang tính chất thân tình, thân thiện, mang độ cố kết có ý
nghĩa tự nhiên và thể hiện tính cộng đồng cao.
- Tính cộng đồng là bền vững, được khẳng định theo thời gian và chính
thời gian là yếu tố kết dính các thành viên trong cộng đồng.
- Khi xét về vị thế xã hội của các thành viên trong cộng đồng tính thì ở
đó vị thế xã hội được gán sẵn hơn là sự phấn đấu của các thành viên mà có.
Chẳng hạn, con cái của người ở đẳng cấp cao trong xã hội khi sinh ra đương
nhiên họ được xếp vào đẳng cấp này.
- Dòng họ là quan hệ cơ bản, vừa là huyết thống và vừa là khuôn mẫu
văn hóa của sinh hoạt cộng đồng.
- Trong khi đó, các hiệp hội, câu lạc bộ không có các đặc tính trên đây
của cộng đồng tính được thể hiện là:
- Có tính cá nhân rất cao.
- Có tính nhạy cảm trong quan hệ xã hội.
- Quan hệ xã hội theo nội qui, sự thỏa thuận giữa các thành viên trong
hiệp hội/ câu lạc bộ về quyền lợi và nghĩa vụ.
- Có tính hợp lý và tính toán thiệt hơn, hơn là tình cảm trong các quan
hệ xã hội.
- Các vị thế trong hiệp hội là vị thế do phấn đấu để đạt được chứ không
phải gán sẵn.
Như vậy, cộng đồng tính có nhiều đặc tính thiên về mặt truyền thống
trong quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, còn các hiệp hội/ câu lạc
bộ thiên về hiện đại.
1.1.2. Một số đặc tính của cộng đồng
Cộng đồng thể hiện một số đặc tính là: sự đoàn kết xã hội, sự tương
quan xã hội và cơ cấu xã hội.
1.1.2.1. Đoàn kết xã hội
Theo quan niệm Mác-xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các
thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp
thành cộng đồng đó. Quan niệm bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và
các hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa các cá nhân về tư tưởng, tín
ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về
các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Ở Việt Nam, làng, xã đã có từ lâu đời, có giá trị tốt đẹp của cộng đồng
tính. Sự phát triển của xã hội cùng với sự xuất hiện của đô thị hóa ngày càng
tăng và cơ chế thị trường ngày càng ảnh hưởng rộng lớn, nên các giá trị của
cộng đồng tính trong các làng, xã cũng ngày một giảm.
Bên cạnh khái niệm cộng đồng tính là khái niệm cộng đồng thể. Cộng
đồng thể có 2 nghĩa:
1. Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một địa vực nhất định, có
cùng các giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.
2. Là một nhóm dân cư có cùng mối quan tâm có bản.
Như vậy, từ những phân tích trên đây cho thấy cộng đồng được hiểu
theo nhiều nghĩa, tùy theo phạm vi cấu trúc và đặc tính. Trong phạm vi giáo
trình này, cộng đồng được nhắc tới và được hiểu là một nhóm cư dân sinh
sống trong một thực thể xã hội, trong một địa vực nhất định, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ và có cùng một giá trị cơ bản. Do đó, cộng đồng có thể là một
làng, một xã hay huyện v.v...
Đoàn kết xã hội luôn được các nhà nghiên cứu cộng đồng coi là đặc
tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Đây là ý chí và tình cảm của những người
cùng sống trong một địa vực có những mối liên hệ về mặt huyết thống hay
quan hệ láng giềng. Quá trình tổ chức đời sống xã hội bởi các thiết chế xã hội
lại càng thống nhất ý chí, tình cảm của cộng đồng qua một số giá trị, chuẩn
mực và biểu tượng riêng. Đây cũng là mục tiêu mà các cộng đồng đều mong
muốn tập hợp và duy trì.
Các lệch chuẩn xã hội xuất hiện trong cộng đồng là do mất ý thức đoàn
kết xã hội, đi kèm theo đó là sự mất ý thức và nhân cách cá nhân. Ngược lại,
khi các cá nhân đồng nhất với cộng đồng, hòa mình trong cộng đồng đã làm
tăng tính đoàn kết xã hội đồng thời cũng làm tăng ý thức và nhân cách của cá
nhân.
Cộng đồng tồn tại được là do từng thành viên trong các nhóm thành
viên của cộng đồng có tiếng nói thống nhất trong các hành động tập thể, khi
không còn tâm thức chung thì cộng đồng đó bắt đầu lụi tàn. Chẳng hạn, trong
các làng, xã hiện đang tồn tại các nhóm thành viên (tổ chức xã hội) như: Hội
Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh v.v..., một khi
các thành viên của nhóm có cùng tiếng nói và ý chí thì sức mạnh của nhóm
sẽ tăng lên, các nhóm thành viên đều hướng theo sự lãnh đạo của Đảng,
chính quyền ở địa phương thì sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng được củng
cố và trở thành làng/ xã mạnh.
1.1.2.2. Sự liên kết xã hội
Đây là sự tương quan giữa người với người, có tính kết hợp hay những
phản ứng tương hỗ, theo đó con người được gần nhau và phối hợp chặt chẽ
với nhau hơn. Sự tương quan và kết hợp giữa các thành viên trong cộng
đồng được biểu hiện qua các hoạt động thực tiễn hàng ngày và củng cố thêm
sự đoàn kết trong cộng đồng.
Các cộng đồng ở nông thôn, do sự phân tán về nghề nghiệp không cao
nên các thành viên trong cộng đồng thường xuyên quan hệ với nhau trong
công việc hơn ở các cộng đồng đô thị, nơi có sự phân tán nghề nghiệp khá
cao. Chính vì thế, sự đoàn kết trong cộng đồng ở nông thôn thường cao hơn
cộng đồng ở đô thị.
Kiểu liên kết cao nhất trong cộng đồng chính là các quan hệ mang tính
hội nhập, ở đó có mức độ hợp tác tích cực giữa các cá nhân trong các đoàn
thể hay hội mà các cá nhân đó tham gia. Như vậy, ở góc độ cá nhân, khi một
người tham gia nhiều các hội, đoàn thể thì người đó có mối quan hệ rộng.
1.1.2.3. Các cơ cấu xã hội
Như đã phân tích ở phần 1.1.2.1 trên đây, một khi không có giá trị
chung, không có sự định hướng để qui tụ nhau hay không có những qui tắc
ứng xử của các thành viên trong cộng đồng thì không có cơ sở xã hội để tạo
thành cộng đồng. Những định hướng, những qui tắc này được nằm trong tổ
chức đoàn thể của cộng đồng, chẳng hạn các hương ước, nội qui, qui chế là
do làng, xã đặt ra. Quá trình thể chế hóa các giá trị chuẩn mực trong các tổ
chức xã hội tương đương là bước quan trọng để các liên kết xã hội trong
cộng đồng được bền vững và có giá trị đối với tất cả mọi người, tạo nên sức
mạnh của cộng đồng.
1.1.3. Các yếu tố tạo thành cộng đồng
Các yếu tố này bao gồm: địa vực cư trú, kinh tế và văn hóa - là những
yếu tố được hình thành trong quá trình lịch sử.
1.1 3.1. Yêu tố địa vực
Nói đến cộng đồng là nói đến một tập hợp người định cư trên một vùng
đất đai nhất định, đó là yếu tố địa vực. Đây cũng là yếu tố có giá trị tinh thần
và tạo nên sự gắn kết tập thể. Địa vực là yếu tố được xác định trong quá trình
lịch sử, là cơ sở để ta phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Đường
phân chia ranh giới thường lấy một số mốc của tự nhiên như sông, núi,
đường sá v.v... Đôi khi cũng chỉ là đường phân ranh vô hình được các cộng
đồng thỏa thuận và chấp nhận. Ý thức về địa vực là một trong những ý thức
sâu sắc và lâu bền của con người trong lịch sử, là một hạt nhân tạo nên tâm
thức chung của cộng đồng. Chẳng hạn, tình cảm “đồng hương” của những
người đã từng cùng sinh ra và chung sống trong một địa vực nhất định
thường rất sâu nặng, dù họ có còn ở nơi đó hay sau này di dời đến một nơi ở
mới nhưng họ vẫn rất dễ gần gũi với nhau trong quan hệ.
Xuất phát từ sự khác biệt trong sự đa dạng nghề nghiệp giữa các cộng
đồng nông thôn và cộng đồng đô thị, nên ý nghĩa của yếu tố địa vực của hai
dạng cộng đồng là khác nhau. Ở nông thôn, do cuộc sống gắn liền với thiên
nhiên, ruộng, đồng, sông, núi v.v... nên ý thức về địa vực là rất sâu sắc, trong
khi đó, các hoạt động phi nông nghiệp ở các cộng đồng thành thị không tạo
nên sự gắn kết chặt chẽ của các thành viên trong cộng đồng với địa vực cư
trú.
1.1.3.2. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế ở đây chủ yếu nói về các hoạt động kinh tế hay nghề
nghiệp, nó không chỉ tạo ra cho cộng đồng một sự bảo đảm về vật chất để họ
cùng nhau tồn tại mà còn có các ý nghĩa sau:
- Việc có cùng một nghề hay vài nghề chính trong cộng đồng sẽ liên
quan đến sự tương đồng về yếu tố địa vị kinh tế, sở hữu, cách thức làm ăn,
cùng một thị trường nguyên vật liệu và sản phẩm tiêu thụ chung. Cho đến
việc cùng thờ chung một ông tổ làng nghề đã đưa đến cho cộng đồng một lớp
vỏ liên kết về tinh thần. Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong xã hội nông
thôn, các phường hội trong các đô thị cổ là những kiểu liên kết cộng đồng
dựa trên cơ sở kinh tế.
- Khi có chung nghề nghiệp thì lợi ích kinh tế được gắn chặt trong hệ
thống sản xuất, vốn, sức lao động, tư liệu sản xuất và đặc biệt là kinh nghiệm
sản xuất, vì thế, đã góp phần gắn kết chặt chẽ các thành viên trong cộng
đồng. Yếu tố nghề nghiệp ở nông thôn đã biểu hiện sự gắn kết cộng đồng rõ
rệt hơn ở thành thị. Ở thành thị sự gắn kết theo nghề nghiệp là không chặt vì
nghề nghiệp đa dạng, sự chuyển nghề cũng dễ dàng, do đó sự liên kết hầu
như chỉ xảy ra ở các nhóm có cùng công việc.
1.1.3.3. Yếu tố văn hóa của cộng đồng
Yếu tố văn hóa của cộng đồng gồm ba yếu tố chính: tộc người, tôn giáo
- tín ngưỡng và hệ giá trị chuẩn mực.
Tộc người: gồm tộc người chủ thể trong một quốc gia và các tộc người
thiểu số. Nhóm tộc người chủ thể không chỉ đóng vai trò liên kết trong tộc
người đó mà còn phải thể hiện vai trò liên kết các tộc người thiểu số khác với
nhau và với chính họ. Chẳng hạn ở Việt Nam, người Kinh (Việt) chiếm đa số,
ngoài việc tạo mối liên kết trong nhóm người Kinh thì việc tạo mối liên kết
giữa người Kinh và người thuộc các dân tộc thiểu số khác và mối liên kết
giữa các dân tộc thiểu số với nhau luôn được chú trọng và tạo ra mối liên kết
cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
Trong bình diện quốc gia, hệ tư tưởng, các giá trị chuẩn mực và các
nghi lễ là văn hóa của tộc người chủ thể. Các dân tộc thiểu số khác một mặt
họ có ý thức theo nghi lễ chung, nhưng mặt khác họ vẫn giữ các nghi lễ của
riêng họ, đó là bản sắc văn hóa riêng.
Quá trình di dân trong lịch sử đã chia thành nhiều tộc người sinh sống
trên các khu vụtc địa lý khác nhau, mỗi tộc người có các điều kiện sinh thái,
kinh tế, xã hội khác nhau cho dù họ có cùng xuất thân từ một nguồn gốc
chủng tộc hay nguồn gốc văn hóa. Đặc trưng văn hóa thực sự là những yếu
tố liên kết cộng đồng được biểu hiện qua ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghi
lễ mà các thành viên trong cộng đồng tuân thủ và tạo nên một ý thức văn hóa
tộc người. Trong môi trường xã hội ít có sự biến đổi, thì các yếu tố trên lại
càng có vị trí quan trọng và góp phần vào quá trình củng cố đoàn kết xã hội
trong cộng đồng.
Tuy nhiên, khi xét đến sự phát triển thì một số nét trong bản sắc văn
hóa có thể không đảm bảo cho chúng còn mang ý nghĩa tích cực cho sự phát
triển và khi đó chúng dần dần bị mai một. Những yếu tố vẫn giữ được bản sắc
của dân tộc nhưng không cản trở sự phát triển thì sẽ được duy trì, kế thừa -
đây cũng là một trong những mục tiêu của UNESCO trong thập kỷ văn hóa
(1987 - 1997), phát động các quốc gia thành viên coi trọng yếu tố văn hóa
truyền thống (tộc người) trong sự phát triển.
Tôn giáo, tín ngưỡng: đây là yếu tố củng cố sự liên kết cộng đồng
trên cơ sở niềm tin. Thực tế lịch sử cho thấy, đây là một yếu tố có tính chất
bền vững cho sự tồn tại của các cộng đồng dân cư, bởi vì, khi cùng có chung
một niềm tin và tín ngưỡng thì con người dễ chia sẻ được những ước nguyện
về mặt tinh thần với nhau.
Các tổ chức tôn giáo cũng là các tổ chức tham gia tích cực vào các
hoạt động xã hội, các hoạt động xây dựng đạo lý hướng thiện, tu thân của
nhiều tôn giáo và đã góp phần vào nhiều hoạt động xã hội của cộng đồng
bằng các thái độ tự nguyện, dấn thân và không vụ lợi. Các hoạt động xã hội
của các tổ chức tôn giáo được thiết lập trên cơ sở tín ngưỡng, góp phần củng
cố sự liên kết và đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ giá trị chuẩn mực: mỗi cộng đồng xác định cho mình một hệ giá trị
chuẩn mực riêng với tính chất là các định chế xã hội qui định các nhận thức
và hành vi của các thành viên trong cộng đồng (luật bất thành văn). Cụ thể,
qui định các thành viên trong cộng đồng phải làm gì? Làm như thế nào? Các
qui chế khen thưởng, xử phạt ra sao?
Khi các thành viên tuân theo các giá trị chuẩn mực của cộng đồng thì
sẽ bảo đảm sự thống nhất và đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ giá trị chuẩn mực của cộng đồng được xây dựng dựa trên cơ sở
nhận thức, quan niệm và tập quán của từng cộng đồng, vì vậy có những quan
niệm cộng đồng này coi là hay và tuân theo nhưng ở cộng đồng khác lại thấy
không chấp nhận được.
1.2. Những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng1.2.1. Những vấn đề chung
1.2.1.1. Lịch sử phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng (Community Development) xuất hiện vào những
năm 40 của thế kỷ XX ở các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, một người
Anh tốt bụng đã nảy sinh ý nghĩ giúp người dân tự cải thiện đời sống bằng sự
nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương. Một bên góp của và một
bên góp công sức để xây dựng các công trình ở địa phương như: trạm xá,
trường học, đường sá v.v... Ông thấy rằng, khi những người dân được huy
động, họ đã rất tích cực tham gia đóng góp công sức, thậm chí cả tiền của
vào việc xây dựng các công trình có mục đích cải thiện đời sống cho chính
họ. Cũng từ những việc làm đầu tiên này, người ta đã nhận thấy sự phát triển
phải đồng bộ ở mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, sức khỏe, văn hóa v.v...
nếu chỉ tập trung vào một lĩnh vực nào đó thì không thể phá vỡ được vòng
luẩn quẩn của sự đói nghèo, dốt nát và bệnh tật. Những thành công ban đầu
đã được Liên hợp quốc nhận thấy là sự phát triển cơ sở hạ tầng ở các cộng
đồng nghèo đã làm thay đổi bộ mặt của các cộng đồng này. Tuy nhiên, vấn
đề nảy sinh sau khi hoàn thành một số cơ sở hạ tầng là các cơ sở hạ tầng
này chỉ còn lại “một cái xác không hồn”, nghĩa là trạm xá chỉ là một cái nhà
mà nó không hoạt động, hoặc có nhân viên y tế nhưng không có người dân
đến khám và chữa bệnh. Mặt khác, các công trình khi xây dựng xong, người
dân tuy có sử dụng nhưng họ chưa xem đó như là của chính mình, nên công
tác bảo quản và ý thức giữ gìn hầu như không có. Như vậy, ở đây mới chỉ có
sự thay đổi về hình thức mà chưa có sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và
hành vi của người dân để tiếp nhận những thành quả vừa được tạo ra.
Ở Việt Nam, khái niệm phát triển cộng đồng cũng đã được đưa vào từ
giữa thập kỷ 50, thông qua các hoạt động phát triển giáo dục ở các tỉnh phía
Nam. Sang thập kỷ 60 - 70 thì hoạt động phát triển cộng đồng chuyển sang
lĩnh vực xã hội. Từ thập kỷ 80 đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến
một cách rộng rãi hơn qua các chương trình viện trợ phát triển của nước
ngoài. Ở giai đoạn này, một sự đổi mới trong cách tiếp cận đó là những người
làm công tác phát triển cộng đồng đã tập trung chú ý đến sự tham gia của
người dân và coi đây là nhân tố quyết định sự thành công và có hiệu quả bền
vững. Môn học Phát triển cộng đồng và Tổ chức cộng đồng đã được đưa vào
giảng dạy ở một số trường đại học ở phía Nam gồm nhiều lĩnh vực như: phát
Định nghĩa trên cho ta thấy PRA có thể coi như là một quá trình nghiên
cứu linh hoạt, có hiệu quả từ cộng đồng, do cộng đồng tiến hành, trên cơ sở
các điều kiện của cộng đồng để tìm ra các giải pháp có lợi cho mình chính
bằng sự nỗ lực của cộng đồng. Các "kế hoạch phát triển thôn bản" được lập
ra bằng phương pháp PRA sẽ là kế hoạch của chính người dân trong cộng
đồng với sự hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức khác sẽ là một kế hoạch có
tính khả thi cao.
5.3. Mục đích của PRANhư phần định nghĩa PRA đã đề cập, PRA được xây dựng dựa trên
kiến thức và năng lực vốn có của người dân để xác định vấn đề, ra quyết
định, huy động các nguồn lực, tổ chức thực hiện v.v... Để cùng phát triển
cộng đồng một cách bền vững thông qua sự nỗ lực của chính cộng đồng
bằng các kỹ thuật thu hút sự tham gia của người dân và kỹ năng thúc đẩy tạo
điều kiện của các cán bộ phát triển đã tạo cho người dân địa phương có thể
tham gia tự nguyện, sáng tạo vào mọi quá trình triển khai thực hiện cũng như
giám sát, đánh giá các kết quả phát triển, trên cơ sở đó mà nâng cao sự hiểu
biết và trách nhiệm của người dân.
Đối với lãnh đạo và các cấp có thẩm quyền, hoạt động của PRA giúp
cho việc nắm bắt tình hình sát thực tế, có kế hoạch hỗ trợ phù hợp đối với
từng cộng đồng nói chung và từng lĩnh vực nói riêng trong quá trình phát
triển.
Trong công cuộc nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển, PRA giúp cho
chúng ta nắm bắt được những thông tin cụ thể về những ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực của địa phương hoặc chương trình, của dự án đối với nữ giới và
nam giới. Những thuận lợi, khó khăn của phụ nữ khi tham gia vào quá trình
phát triển. Từ kết quả phân tích giới có thể đưa ra những biện pháp điều
chỉnh và bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của dự án thông
qua việc bảo đảm lợi ích của cả hai giới. Đặc biệt đảm bảo cho phụ nữ, các
nhóm người nghèo, yếu thế và nhóm dân tộc thiểu số bị thiệt thòi.
Thực tế cho thấy những dự án, chương trình bỏ qua vai trò, lợi ích của
giới đặc biệt của phụ nữ thường không thu được hiệu quả mong muốn. Ví dụ,
phụ nữ làm phần lớn công việc nhà nông nhưng các dự án chương trình
khuyến nông lại đào tạo nhiều nam giới hơn là phụ nữ. Kết quả PRA trong
chương trình Khuyến nông - Khuyến lâm tại 7 tỉnh Việt Nam cho thấy: "Về cơ
bản, phụ nữ thường đảm nhận 100% công việc trong chăn nuôi, đặc biệt là
heo nái nhưng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các lớp học, hội thảo chăn nuôi cũng
chỉ chiếm tới 50%. Các dạng tập huấn, hội thảo khác, nữ giới nói chung chỉ
chiếm 10%. Chẳng hạn như xã Cẩm Sơn (Cai Lậy) là nơi có phong trào phụ
nữ hoạt động khá tốt, thì số nữ tham gia các lớp IPM cũng chỉ chiếm khoảng
30% (còn lại là nam). Nhưng sang đến xã Tân Phú trong cùng huyện, có kinh
tế phát triển kém hơn thì chỉ có 2 nữ tham gia trong một lớp IPM do câu lạc
bộ khuyến nông của xã mở, còn một lớp IPM khác cũng đọ câu lạc bộ khuyến
nông ở thì không có phụ nữ tham gia. Sang đến một lớp IPM cộng đồng khác
nữa do Hội nông dân xã Tân Phú tổ chức thì cũng toàn là nam giới". (Báo cáo
kết quả đề tài Giới trong công tác Khuyên nông và khuyên lâm ở Việt Nam,
5/1999. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Trong chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển, thông qua PRA
cho thấy người phụ nữ ở vùng cao, đường sá đi lại khó khăn, đặc biệt phụ nữ
Mông có trình độ văn hóa thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, họ không
muốn người ngoài trừ mẹ và em gái thăm khám cơ thể khi sinh, cho nên phần
đông phụ nữ vẫn còn đẻ tại nhà. Do vậy, chương trình đã cung cấp túi đẻ
sạch, tổ chức quản lý và thăm khám thai thông qua mạng lưới y tế cơ sở, đã
làm giảm tỉ lệ tử vong và tai biến thai sản khi sinh đẻ (Báo cáo đánh giá các
hoạt động về giới trong chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển).
Việc xem xét vai trò giới, những nhu cầu và lợi ích của giới trong các
cộng đồng một cách sát thực bằng phương pháp PRA sẽ giúp cho việc tạo cơ
hội, điều kiện nhằm đáp ứng biến đổi thực tế về phân công lao động theo
hướng tiến bộ, cơ hội khả năng đào tạo, khả năng tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực và ra quyết định v.v... góp phần làm biến đổi quan hệ giới, nâng
cao sự bình đẳng nam nữ trong công cuộc nghiên cứu phụ nữ.
5.4. Thời điểm cần thực hiện PRAXuất phát từ nhu cầu và mục đích đã nêu, PRA có thể áp dụng cho
những đánh giá xã hội học, những nghiên cứu về phụ nữ, phân tích về giới,
cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến phát triển cộng đồng, cho nhiều lĩnh vực
có cùng điểm xuất phát từ người dân, lấy dân làm gốc, lấy cộng đồng thôn
bản làm cơ sở. PRA thường được thực hiện khi:
- Cần xác định các chủ đề, vấn đề nghiên cứu các đề tài nghiên cứu
phụ nữ - giới và phát triển có sự tham gia của người dân.
- Lập kế hoạch phát triển thôn bản dựa vào cộng đồng, phát huy nội lực
và có người dân tham gia.
- Người dân trong cộng đồng, cần có những giải pháp thực tiễn để phát
triển cộng đồng của họ.
- Xem xét lại các nội dung, nhiệm vụ hoạt động của các cộng đồng cần
phát triển và mức độ phù hợp của nó (qua giám sát đánh giá) để điều chỉnh
hướng đi.
- Cần xác định các biện pháp để khắc phục những khó khăn đã và sẽ
xảy ra hoặc kế hoạch của các hoạt động tiếp theo trong từng công việc, từng
lĩnh vực phát triển.
5.5. Bộ công cụ PRACông cụ PRA là cách làm, hay kỹ năng sử dụng các phương pháp khác
nhau nhằm thu hút người dân vào quá trình đánh giá tình hình, phân tích và
lập kế hoạch phát triển cộng đồng. Có nhiều công cụ khác nhau, mỗi công cụ
lại thường bao gồm một hay nhiều phương pháp, đòi hỏi người sử dụng phải
có kinh nghiệm và kỹ năng sử dụng công cụ PRA. Thông thường, người ta
thường phân chia các công cụ như sau:
- Các công cụ phân tích về không gian: vẽ sơ đồ thôn bản, xây dựng sa
bàn, điều tra tuyến đi, lát cắt, khảo sát hiện trường.
- Các công cụ phân tích theo thời gian: lập bảng lược sử thôn bản, theo
hướng thời gian, biểu đồ v.v...
- Các công cụ phân tích nội dung, cơ cấu v.v...
- Các công cụ phân tích những ảnh hưởng và quan hệ: lịch mùa vụ,
phân loại hộ gia đình, sơ đồ VENN (quan hệ của các tổ chức và phân tích tổ
chức) v.v...
- Thảo luận nhóm (làm việc nhóm sở thích, nhóm lãnh đạo thảo luận
nhóm nam/nữ để tìm hiểu nhu cầu sở thích của hai giới v.v...).
- Họp dân: đây là công cụ có tính quyết định trong việc phân tích bên-
cạnh phương pháp phỏng vấn linh hoạt v.v... Họp dân thể hiện sự tham gia,
đóng góp đầy đủ nhất của người dân trong quá trình thực hiện các đợt đánh
giá PRA. Trong PRA, nhiều cuộc họp dân được tổ chức (có thể từ 3 - 5 lần)
khám:
Kiểm tra lại và bổ sung thông tin.
Bổ sung và thống nhất các giải pháp cho thôn bản.
Thống nhất chương trình hành động và cam kết thực hiện
Thông thường có thể tổ chức ba cuộc họp: Cuộc họp lần thứ nhất
nhằm mục đích giới thiệu chung về đợt đánh giá tại thôn bản, lý do, mục
đích , kế hoạch làm việc, phương pháp và kêu gọi sự tham gia, thông báo kế
hoạch làm việc ngày thứ hai. Cuộc họp thứ hai trình bày và thảo luận kết quả
làm việc hàng ngày, thống nhất định hướng cho kế hoạch hành động. Cuộc
họp dân lần ba tổ chức vào ngày cuối của đợt PRA nhằm mục đích trình bày
dự thảo kết quả, đóng góp bổ sung và thảo luận, thống nhất kết quả hành
động.
Hoặc trong dự án quản lý bền vững tài nguyên vùng hạ lưu sông
Mêkông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (10/2000), tài liệu hướng dẫn PRA đã yêu
cầu có bốn cuộc họp dân trong nội dung trình tự và các bước thực hiện như
sau:
- Bước 1: Chuẩn bị (tổ chức, lập kế hoạch thực hiện chi tiết, thu thập
thông tin, đào tạo tập huấn, họp dân lần 1, xác định địa điểm giao đất lâm
nghiệp).
- Bước 2: Khảo sát thực địa (điều tra lập bản đồ thực trạng sử dụng đất
lâm nghiệp, họp dân lần 2, điều tra đánh giá tình hình kinh tế xã hội, thông
báo kết quả cho dân ở cuộc họp lần 3).
- Bước 3: Xây dựng phương án (họp dân lần thứ 4 viết báo cáo phương
án).
- Bước 4: Thẩm định và phê duyệt.
- Bước 5, 6, 7: Lập thủ tục thu hồi đất (nếu có), phân chia đất và lập hồ
sơ pháp lý, bàn giao rừng và đất rừng.
Để các cuộc họp trên có kết quả tốt, tài liệu cũng đã đưa ra những yêu
cầu sau:
- Đảm bảo sự có mặt đại diện tất cả các hộ dân của thôn tham gia trong
đó tỉ lệ nữ tối thiểu chiếm 30%.
- Đại bộ phận người dân tham gia đều hiểu rõ nội dung cuộc họp và có
nhiều ý kiến phản hồi từ phía các đối tượng khác nhau (già làng, lãnh đạo
thôn, phụ nữ, thanh niên).
Để đạt được các yêu cầu nói trên cần thiết phải thực hiện các bước
sau:
- Bàn bạc thỏa thuận trước với lãnh đạo thôn về địa điểm thời gian, nội
dung và người chủ trì cuộc họp.
- Nội dung cuộc họp nên trình bày trên giấy khổ lớn (Ao) một cách ngắn
gọn, dễ hiểu hoặc có thể mô hình hóa dưới dạng sơ đồ, bảng, biểu, hình ảnh
để người dân tham gia, tham khảo trước hay trong khi họp.
- Trong nhiều trường hợp nội dung cuộc họp nên được dịch sang tiếng
địa phương để tiện cho việc trao đổi thông tin.
- Tất cả các sản phẩm của cuộc họp cần được lưu lại ở thôn, tạo cơ hội
cho những người vì lý do nào đó không thể đi họp hay những người chưa
hiểu rõ nội dung cuộc họp có thể tìm hiểu thêm.
- Đa sống người dân, nhất là phụ nữ vốn rụt rè. Do vậy, cần phải động
viên họ tích cực tham gia thảo luận, phát biểu ý kiến.
- Kết quả cuộc họp cần được ghi nhận cẩn thận, đầy đủ và trung thực,
đọc lại cho mọi người cùng nghe v.v...
Có thể nói, đối với các loại dự án thuộc loại này, các công cụ PRA và
RRA: như lập bản đồ, đắp sa bàn, lịch sử thôn bản, sơ đồ Venn, phân loại
kinh tế hộ, phân loại cây trồng nông nghiệp, ma trận đánh giá tiềm năng lâm
sản ngoài gỗ, phân loại rừng, đánh giá tiềm năng đất đai v.v. . . thường xuyên
được sử dụng.
Tùy theo nội dung vấn đề thu thập để sử dụng các công cụ PRA một
cách linh hoạt và sáng tạo trên cơ sở nguyên tắc:
- Tạo ra quá trình học hỏi, chia sẻ từ hai phía, tìm hiểu những điểm
hợp lý, không hợp lý, người ủng hộ, không ủng hộ ở mọi tình huống.
- Sử dụng tối ưu các phương pháp, công cụ kiểm tra chéo thông tin,
nhất là các thông tin có liên quan đến phụ nữ và người nghèo.
- Để người dân tự làm, không làm thay, không thành kiến, v.v...
Để thực hiện tốt hoạt động PRA thì việc tạo lập mối quan hệ nhằm đạt
được sự tin tưởng, sự liên kết tốt trong quá trình làm việc là rất cần thiết. Bên
cạnh đó, kỹ năng giao tiếp như sự chú ý, quan sát, lắng nghe, giải thích rõ,
tạo đề xuất mở để hướng dự thảo luận (không phải là thông qua và phê
chuẩn), đặt câu hỏi, phản ánh, trao đổi và thu thập thông tin là rất quan trọng
khi làm việc với người dân địa phương.
5.6. Thực tế áp dụng PRA ở Việt NamTrong những năm qua, đặc biệt vào những năm 90, PRA được các
chương trình của chính phủ, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ
nước ngoài ở Việt Nam, áp dụng trong các chương trình, các dự án liên quan
đến phát triển nông thôn, đặc biệt trong việc phân tích giới và lập kế hoạch
phát triển thôn bản, đã mang lại những thành công nhất định trong việc khai
thác, phát huy những nguồn lực của cộng đồng vào phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội ở nông thôn. Đặc biệt ở nông thôn miền núi, những nơi áp dụng
PRA có hiệu quả đã tạo ra một sự đột phá trong nếp nghĩ, tư duy và hành
động của người dân đã có tác động trở lại không nhỏ tới phương thức quan
lý, lãnh đạo trong vùng.
Có thể nói, ở Việt Nam, lần đầu tiên PRA được áp dụng một cách có hệ
thống trong chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam - Thụy Điển, do SIDA
tài trợ trên một địa bàn rộng và trong một thời gian dài từ 1991 - 1994 tại 5
tỉnh Vĩnh Phú, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái và Hà Giang, với việc lập kế
hoạch phát triển cho 70 thôn bản.
Từ cuối năm 1994 tới nay trong chương trình phát triển nông thôn miền
núi của 5 tỉnh phía Bắc do SIDA tài trợ cũng tiếp tục sử dụng phương pháp
này cho việc lập kế hoạch thực hiện, giám sát, đánh giá các dự án thôn bản
cho khoảng 200 cộng đồng (Phương pháp đánh giá nông thôn có người tham
gia trong hoạt động khuyến nông - khuyến lâm. NXB Nông nghiệp 1998 –
tr.12). Đặc biệt trong lĩnh vực hỗ trợ vùng khó khăn thuộc Chương trình hợp
tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc với sự giúp đỡ kỹ
thuật của các chuyên gia Viện Quốc tế Tái thiết Nông thôn (IIRR) Philipin, bộ
môn Vệ sinh Môi trường - Dịch tễ Đại học Y khoa Hà Nội, hàng loạt các khóa
đào tạo nhóm PRA nòng cốt ở các tỉnh, huyện, xã và thôn bản được mở ra.
Kết quả là đến tháng 11 năm 1997, chương trình đã đào tạo cho mỗi tỉnh 4
cán bộ nòng cốt và lớp cán bộ trong 13 huyện, nắm được phương pháp PRA,
có khả năng đào tạo lại cho các xã và thôn bản. Đã tiến hành điều tra PRA ở
202 thôn bản và đang từng bước tiếp tục mở rộng (Bộ Y tế - Báo cáo phân
tích chương trình Y tế hợp tác Việt Nam - Thụy Điển, 1994 - 1997).
Một trong những dự án áp dụng nhiều PRA trong các giai đoạn của dự
án và được duy trì thường xuyên phải kể tới Chương trình Dự án Lâm nghiệp
Xã hội Sông Đà (SFDP) giữa Chính phủ Đức và Việt Nam (1993 - 2004) do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Công ty Hợp tác Kỹ
thuật Đức (GTZ) thực hiện, chương trình An toàn lương thực ở Quảng Bình
do GTZ thực hiện (năm 1994), dự án quản lý rừng đầu nguồn có sự tham gia
của người dân Hoành Bồ - Quảng Ninh (FAO/Belgium), lập kế hoạch sử dụng
đất và giao đất lâm nghiệp tại Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế
(FAO.020/Italia). Dự án hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ năm 1999 quản lý bền
vững tài nguyên vùng hạ lựu sông Mêkông trên địa bàn Đắk Lắk (2000), v.v...
và hàng loạt các dự án của các tổ chức phi Chính phủ như: Quĩ Nhi đồng
Anh, các tổ chức OXFAM, CIDSE, v.v... mà chúng tôi có dịp biết đến trong
quá trình tham gia khảo sát xã hội học, xây đựng dự án và đánh giá dự án
trong những năm qua.
PRA thực sự trở thành một công cụ lập kế hoạch phát triển có sự tham
gia của người dân ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với điều kiện nông
thôn Việt Nam.
Quá trình thực hiện PRA ở Việt Nam đã gặp phải không ít những khó
khăn, trở ngại về mặt tư tưởng, thói quen tập quán. PRA là một cách làm đảo
ngược với cách nghĩ, cách làm đã bám rễ rất sâu. Đó là mệnh lệnh từ trên,
người dưới phải tuân phục người trên, sáng kiến không được xuất phát từ
dưới, trong giáo dục thì chỉ có một cách làm là "nhồi sọ" hay "sự tiếp nhận
một chiều". Thêm vào đó với thời gian khá dài theo chế độ quản lý tập trung
bao cấp, sự áp đặt từ trên xuống lại càng nặng nề. Những sáng kiến, hay sự
sáng tạo thường ít được chấp nhận, trong một thời gian tính e dè, phòng thủ,
thu mình lại càng ảnh hưởng tới việc áp dụng PRA.
PRA trong phát triển cộng đồng đã khuyến khích sáng kiến từ dưới lên
đã khó nhưng sự tự kết hợp của chính người dân để giải quyết vấn đề của
mình lại càng khó hơn. Sự tin tưởng tuyệt đối, vô điều kiện vào khả năng
vươn lên của người nghèo, hay những thành phần xã hội thấp kém nhất là
một giá trị nhân bản còn xa lạ. Khó khăn và đáng lo ngại hơn là các cán bộ
làm công tác phát triển cộng đồng bấy lâu nay là sản phẩm của cách giáo
dục, quản lý cũ nên họ khó sửa đổi được do quen bao cấp, áp đặt, làm thay
thế cho dân trong khi thực hiện PRA ở một số khâu. Trong khi PRA trong phát
triển cộng đồng đòi hỏi một sự nỗ lực thực sự của người dân, chia sẻ những
suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm trong việc nâng cao nhận biết và khả năng
tự giải quyết vấn đề xuất phát từ nhu cầu khả năng cụ thể của cộng đồng và
điều này không phải là không đụng chạm đến "quyền ra quyết định" theo lối
chủ quan của lãnh đạo.
Bên cạnh đó cũng còn có những khó khăn khác khi tổ chức thực hiện
PRA như:
- Thời gian thực hiện PRA tại cơ sở trong khoảng 5 - 7 ngày tùy thuộc
vào mục đích của từng đợt đánh giá, nhưng để làm tốt 5 - 7 ngày đó thì phải
có một thời gian tương đối dài để chuẩn bị đào tạo, tập huấn phương pháp
cho cán bộ nòng cất thực hiện ở các tuyến (từ tỉnh huyện, xã tới thôn, bản) để
họ có khả năng tự triển khai, thực hiện, thu thập thông tin, phân tích và cuối
cùng là viết báo cáo và tổng hợp. Trên thực tế, giai đoạn đào tạo thường ít
được thực hiện đầy đủ nên trong một số trường hợp cán bộ dự án, những
cán bộ ở cấp trên đôi khi làm thay thế người dân. Người dân thường chỉ được
nghe nói qua về phương pháp, được mời tới tham dự họp mà ít biết được đầy
đủ các bước và nội dung của phương pháp!
- Khi thực hiện PRA tại thôn bản, đòi hỏi cần có nhiều nông dân tham
gia, có thể làm ảnh hưởng đến sản xuất nếu việc làm PRA được tổ chức vào
đúng mùa vụ gieo trồng hay thu hoạch của người dân.
- Tổ cán bộ PRA gồm nhiều người cho nên có lúc gặp khó khăn trong
việc tổ chức thực hiện ở thôn, bản.
- Ngoài ra cũng phải kể tới một số phong tục tập quán của nhiều địa
phương, những ứng xử đối với người phụ nữ và điều kiện kinh tế, xã hội khác
có ảnh hưởng tới việc thực hiện PRA tại thôn bản.
- Trong quá trình thẩm định phương án đòi hỏi phải đảm bảo đầy đủ đại
diện các bên có liên quan tham gia (các nhà ra quyết định, đại diện cơ quan
chức năng, đơn vị thực hiện, đại diện người hưởng lợi, nữ giới và nam giới),
nhằm xem xét tính phù hợp tính công bằng, tính khả thi (khả năng đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của hai giới, khả năng đáp ứng nhu cầu kỹ thuật), tính
hiệu quả, trên cơ sở đó có biện pháp điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung. Tuy
nhiên, trên thực tế thì nhóm dân tộc thiểu số và một số bộ phận dân cư kém
phát triển, những phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt thường có ít khả năng tham
gia đầy đủ vào quá trình thực hiện dự án và hưởng lợi, nếu không có một cơ
chế "dân chủ thực sự".
Mặc dầu vậy, PRA cũng có nhiều thuận lợi bởi triết lý của phương pháp
này hoàn toàn phù hợp với qui chế dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở "lấy dân làm
gốc", "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Bởi thế, khi người dân nhận thấy tiếng nói của mình được lắng nghe,
ghi nhận thì càng thúc đẩy sự đóng góp của họ, chỉ cần một sự định hướng,
một sự tập huấn cơ bản ở giai đoạn đầu áp dụng trong một lĩnh vực cụ thể thì
họ có thể áp đụng cho giai đoạn sau hoặc ở lĩnh vực khác mà không mấy khó
khăn!.
Hơn nữa, cơ cấu tổ chức xã hội, đặc biệt là các đoàn thể quần chúng
như: hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Cựu chiến binh với mạng
lưới chân rết rộng khắp và xuống tận cơ sở là một điều kiện thuận lợi cho
công cuộc phát triển, thoát dần khỏi sự xơ cứng của những năm trước. Các
đoàn thể đã ngày càng đa dạng hóa các hoạt động để hướng về phúc lợi xã
hội, kinh tế gia đình, chăm sóc sức khỏe, tín dụng, xóa đói giảm nghèo, xúc
tiến việc làm v.v... không những gần gũi với phát triển cộng đồng mà bản thân
những tổ chức này cũng nhận thấy rằng cần phải có phương pháp trong hoạt
động phát triển cộng đồng để tăng hiệu quả áp dụng. Do vậy PRA được sự
hưởng ứng tích cực của đông đảo các tổ chức ở cơ sở, bên cạnh sự tham gia
hưởng ứng tích cực của quần chúng và đồng thời cũng là hội viên của họ.
Thực tế cho thấy, cách tuyên truyền ồ ạt, áp đặt từ trên xuống trong
một số chương trình, dự án phát triển nông thôn đã ít nhiều bị thất bại. Trước
tiên phải kể đến là Chương trình Dân số - Sức khỏe, Kế hoạch hóa gia đình.
Chúng ta đã đưa vào kế hoạch giai đoạn từ 1981 - 1985 là giảm tỉ lệ tăng dân
số xuống 1,7%. Tiếp theo mục tiêu đó lại được khẳng định trong nghị quyết
Đại hội VI về kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 nhưng thực tế, đó chỉ là ý muốn
chủ quan, sự áp đặt từ trên, nên chúng ta đã không đạt được chỉ tiêu này
trong giai đoạn kể trên. Thật vậy, sự thay đổi hành vi phải tự nguyện, thói
quen tập quán và những giá trị văn hóa lạc hậu chỉ có thể khắc phục bằng nỗ
lực của toàn cộng đồng. Năng động và sáng tạo trên cơ sở nắm vững qui luật
vận động của dân số để không nôn nóng và chủ quan trong việc thực hiện
mục tiêu dân số, quyết tâm cao trong chỉ đạo thực hiện, song không thể thay
thế tính tự nguyện, tự giác của chủ thể bằng mệnh lệnh cưỡng ép và áp đặt.
Trong lĩnh vực này, ở Việt Nam trong vài năm qua đã có nhiều chuyển biến
nhờ thay đổi phương pháp, cách nghĩ, cách làm "Không chỉ y tế hóa cuộc vận
động thực hiện sức khỏe - dân số - kế hoạch hóa gia đình mà phải xã hội hóa
cuộc vận động" (Tương Lai - Sđd tr.4). Chương trình quản lý tài nguyên thiên
nhiên rừng ở Việt Nam trong những năm qua cũng cho thấy một điều rằng
"không có một đội ngũ kiểm lâm nào đủ lớn, không có một chiếc khóa nào đủ
rộng để bảo vệ và canh giữ được cửa rừng nếu không tạo ra được sự tham
gia hưởng ứng của người dân và hiệu quả cụ thể của phương pháp bảo vệ
rừng cộng đồng bằng những qui định, qui ước bảo vệ rừng do chính người
dân xây dựng nên trong kế hoạch phát triển thôn bản ở một số địa phương
như huyện Ngọc Lặc - Thanh Hóa (Dự án Quản lý và Bảo vệ bền vững tài
nguyên thiền nhiên của CARE), ở 2 huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La và Tủa
Chùa, tỉnh Lai Châu (Dự án Phát triển Lâm nghiệp xã hội Sông Đà - của GTZ)
đã chứng minh tính đúng đắn của phương pháp".
Ở Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, lịch sử
đã chứng minh sự nghiệp của đất nước gắn chặt với sự nghiệp nhân dân.
Các triều đại hưng thịnh thời phong kiến đều biết lấy dân làm gốc. Đảng ta đã
xác định Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch
Hồ chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Việt Nam luôn nhắc nhở cán bộ:
"Muốn phục vụ người dân tốt phải 3 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với
dân". Bằng cách giúp cho người dân tự phân tích tình hình thôn bản, giác ngộ
về hoàn cảnh của mình, giúp họ có kỹ năng tổ chức để tự quản và đi lên bằng
chính sức của mình. PRA trong nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển cộng
đồng đã đáp ứng một phần của yêu cầu này. Đồng thời PRA cũng góp phần
tạo ra sự công bằng dân chủ trong việc tham gia phát triển cộng đồng ở nông
thôn. Sự bình đẳng trong các cơ hội việc làm, đào tạo, hưởng thụ, quyền ra
quyết định của nam giới và nữ giới. Bởi vậy, việc sử dụng PRA là một nhu
cầu thiết yếu. Quá trình trao đổi, học hỏi để có kinh nghiệm khi sử dụng PRA
vào các công việc nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển cộng đồng ở Việt
Nam là một công việc cần thiết để hoàn thiện một phương pháp, nhất là khi
nó được triển khai ở diện rộng.
Tóm tắt chương 5
PRA là biện pháp hỗ trợ cho việc lập kế hoạch có người dân tham gia
để thực hiện "dân chủ ở cơ sở" và thực hiện "phân cấp" theo chủ trương của
Đảng ta.
PRA là quá trình dựa trên thực địa, tập trung và tương hỗ bằng cách sử
dụng hàng loạt các kỹ thuật để làm việc với dân. Điều đó tạo điều kiện cho
người dân tìm hiểu về tình hình địa phương để xác định, chọn vấn đề ưu tiên
và lập kế hoạch về các nguồn lực nhằm giải quyết những vấn đề đó một cách
tốt nhất.
PRA được xây dựng dựa trên kiến thức và năng lực vốn có của người
dân từ đó xác định vấn đề, ra quyết định, huy động các nguồn lực, tổ chức
thực hiện v.v... để cùng phát triển cộng đồng một cách bền vững thông qua
sự nỗ lực của chính cộng đồng. Bằng các kỹ thuật thu hút sự tham gia của
người dân và kỹ năng thúc đẩy, tạo điều kiện của các cán bộ phát triển đã tạo
cho người dân địa phương có thể tham gia tự nguyện, sáng tạo vào mọi quá
trình triển khai thực hiện cũng như giám sát, đánh giá các kết quả phát triển,
trên cơ sở đó nâng cao sự hiểu biết và trách nhiệm của người dân.
Để thực hiện tốt hoạt động PRA thì việc tạo lập mối quan hệ nhằm đạt
được sự tin tưởng, sự liên kết tốt trong quá trình làm việc là cần thiết, đẩy
mạnh kỹ năng giao tiếp sự chú ý quan sát, lắng nghe, giải thích rõ, tạo đề
xuất mở để hướng sự thảo luận, đặt câu hỏi, phản ánh, trao đổi và thu thập
thông tin là rất quan trọng khi làm việc với người dân địa phương.
Việc thực hiện PRA ở Việt Nam còn khá mới mẻ nên hiện tại còn gặp
nhiều khi khăn. Tuy vậy, các dự án phát triển cộng đồng hiện nay hầu hết
được xây dựng và tìm hiểu cộng đồng bằng phương pháp này. PRA là một
biện pháp đảo ngược với cách nghĩ, cách làm đã bám rễ rất sâu. Đó là mệnh
lệnh từ trên xuống, người dưới phải tuân phục người trên, sáng kiến không
được xuất phát từ dưới.
Phụ lục. TÓM TẮT MỘT SỐ DỰ ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
A. Dự án phát triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam
Cơ quan chủ trì: Trung tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (NEDCEN).
Cơ quan tài trợ: NOVIB (Hà Lan).
Trung tâm NEDCEN đã triển khai một số dự án phát triển sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam với mục tiêu chung là hỗ trợ
để tạo điều kiện cho người nông dân nghèo và phụ nữ có thêm việc làm, tăng
thu nhập và tăng cường năng lực cho cộng đồng thông qua phát triển sản
phẩm hữu cơ/ sinh thái. Trung tâm đã và đang triển khai dự án nuôi ong sinh
thái ở xã Nậm Lành, Văn Chấn - Yên Bái và xã Hòa Bình, Thị xã Hòa Bình.
Dự án trồng lúa sinh thái tại xã Biên Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và
trồng nấm sinh thái tại xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Sau đây là tóm tắt về dự án trồng lúa sinh thái tại cộng đồng xã Biên Sơn.
1. Dự án trồng lúa hữu cơ/ sinh thái
Dự án chính thức được triển khai từ đầu năm 2000 và kết thúc năm
2002, nhưng việc nghiên cứu tại hiện trường và khâu chuẩn bị thì đã tiến
hành trước đó hơn một năm. Mục tiêu chung của dự án trồng lúa hữu cơ/
sinh thái nằm trong mục tiêu chung của dự án sản xuất sản phẩm hữu cơ/
sinh thái. Dự án trồng lúa có mục tiêu cụ thể như sau:
- Giúp nông dân nghèo sản xuất lúa với số lượng lớn, chất lượng cao
làm công cụ để xóa đói giảm nghèo.
- Giúp phụ nữ tham gia một cách tích cực vào các hoạt động của dự
án, nâng cao bình đẳng giới trong cộng đồng.
- Xây dựng và nâng cao năng lực cho người dân khi tham gia dự án để
phát triển sản xuất các sản phẩm hữu cơ.
- Giúp người dân phát triển thị trường cho các sản phẩm hữu cơ.
- Xây dựng mạng lưới giúp đỡ người nghèo phát triển các sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái.
2. Địa điểm thực hiện dự án
Thôn Cãi, xã Biên Sơn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Sở dĩ chọn địa
phương này vì Biên Sơn là một xã nghèo trong 30 xã, thị trấn của huyện Lục
Ngạn, là một xã miền núi nằm cách trung tâm thị trấn Cho hơn 15km với diện
tích tự nhiên là 4.209 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa chỉ chiếm 203,67 ha
(48%), diện tích đất trồng cây ăn quả 540 ha (10,7%) còn lại là đất đồi trọc và
đất lâm nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2001 trong toàn xã chiếm 34,9% - là mức
cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc (11% - năm 2000 ). Dân số của Biên
Sơn tính đến tháng 1 năm 2002 là 6.503 người, trong đó, có 50,4% là nữ. Số
nhân khẩu bình quân trong một hộ là 5,12 người. Biên Sơn có 4 dân tộc cùng
sinh sống là dân tộc Kinh, Tày, Nùng và Hoa, nhưng chủ yếu là người Nùng
chiếm 55%, người Kinh chiếm khoảng 30%, người Tày chiếm 10% và còn lại
là người Hoa chỉ chiếm 5%.
Khu vực triển khai trồng lúa sinh thái nằm trên cánh đồng thuộc thôn
Cãi, là một trong 18 thộn của xã Biên Sơn, với diện tích trồng lúa hơn 10 ha.
Thôn Cãi có 140 hộ với 619 người, bình quân 4,9 người/hộ (tính đến hết
tháng 1 năm 2002), tỷ lệ nữ trong thôn chiếm 50,5%. Cũng như tình hình
chung ở xã Biên Sơn, tuy chỉ là một thôn nhưng thành phần dân tộc của thôn
Cãi cũng khá đa dạng, gồm 4 dân tộc cùng sinh sống, trong đó, dân tộc Nùng
gồm có 400 người (chiếm 57,9%), dân tộc Kinh 249 người (chiếm 36%), dân
tộc Tày 32 người (chiếm 4,6%) còn lại là 10 người Hoa từ nơi khác lấy chồng
ở tại thôn Cãi. Các dân tộc ở Biên Sơn cũng như ở thôn Cãi sống xen kẽ
nhau từ hàng trăm năm nay nên ít nhiều đã ảnh hưởng lẫn nhau về tập quán
sống và lao động, tất cả đều nói được và dùng tiếng phổ thông trong giao
tiếp, hầu như những nét đặc biệt về lối sống cũng như các phong tục tập
quán của từng dân tộc thiểu số không còn thể hiện rõ như các vùng dân tộc
sống cách biệt khác.
Cơ sở hạ tầng của xã Biên Sơn nói chung và thôn Cãi nói riêng còn khá
nghèo nàn. Gần đây, do có sự hỗ trợ của đơn vị quân đội nên đã có đường
nhựa chạy tới xã, còn lại các đường khác trong thôn vẫn là đường đất, rất
khó khăn trong việc đi lại về mùa mưa. Tuy xã đã được cung cấp điện hàng
chục năm nay nhưng cũng chỉ có 70% số hộ có điện, số hộ còn lại do ở quá
xa đường dây nên vẫn chưa có điện sinh hoạt.
3. Các hoạt động của dự án
- Sau khi đã khảo sát tìm được địa bàn để triển khai dự án, việc đầu
tiên của ban quản lý dự án là thương thuyết với lãnh đạo xã Biên Sơn thông
qua Liên hiệp các hợp tác xã của tỉnh Bắc Giang để được sự nhất trí triển
khai dự án.
- Họp bàn với toàn thể các hộ gia đình của thôn Cãi để tuyên truyền về
ý nghĩa của dự án và lấy ý kiến dân chủ của người dân về sự hưởng ứng
tham gia dự án.
- Thành lập ban chỉ đạo, quản lý dự án cấp tỉnh, xã (thôn) cụ thể là
thành lập câu lạc bộ lúa sinh thái xã Biên Sơn gồm ban chủ nhiệm và 10 tổ
trưởng ở các xóm của thôn Cãi, tiến hành cam kết giữa các hộ gịa đình và
Ban quản lý dự án về sự nhất trí tham gia dự án.
- Tiến hành tập huấn kỹ thuật (làm đất, gieo trồng và chăm bón lúa theo
kỹ thuật mới).
- Cung cấp các nguồn đầu vào cần thiết khác.
- Tập huấn và tư vấn về giới cho người dân vùng dự án.
- Quảng cáo, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm lúa, gạo chất
lượng cao.
- Đánh giá, rút kinh nghiệm theo định kỳ.
4. Kết quả đã đạt được
* Về nhận thức
- Người dân vùng dự án đã hiểu được khái niệm sản xuất sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái nghĩa là áp dụng biện pháp sản xuất mới không dùng các
chế phẩm hóa học như phân bón, thuốc trừ sâu mà thay vào đó là phân hữu
cơ ủ mục, các chế phẩm vi sinh để làm ra sản phẩm không bị ô nhiễm hóa
chất, đất canh tác không bị bạc màu, ô nhiễm và được cải tạo liên tục qua các
vụ, tạo ra môi trường trong lành cho người và các sinh vật khác.
- Thông qua tập huấn, tư vấn về giới, mọi người dân vùng dự án đã
hiểu thêm về sự bất bình đẳng giới đã tồn tại lâu đời ở ngay chính địa
phương họ, qua các hoạt động tư vấn và phân tích giới, lập kế hoạch hành
động về giới. Những người hưởng lợi không những đã nâng cao nhận thức
về giới mà họ còn thay đổi trong hành động hàng ngày để nâng cao bình
đẳng giới như phân công lao động hợp lý hơn trong hộ gia đình, nam giới đã
chia sẻ gánh nặng công việc hàng ngày với nữ giới, người phụ nữ tự tin hơn
khi tham gia và làm chủ nhiều hơn trong các hoạt động của dự án.
* Về hiệu quả kinh tế
Đã qua 4 vụ lúa, năng suất ngày càng tăng do đất tốt dần, do người
dân ngày càng thuần thục với kỹ thuật canh tác mới, người dân đã tăng được
thu nhập do lúa làm ra có giá trị hơn từ 500 - 700đ/kg so với lúa thường trước
đây.
* Về năng lực quản lý cộng đồng
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ đã thể hiện được năng lực quản lý ngày
càng tăng qua các hoạt động của dự án. Các tổ trưởng đã tích cực trong các
khâu giám sát, động viên các hộ thành viên của tổ thực hiện tốt các hoạt động
của dự án. Qua các hoạt động này, tính cộng đồng ngày càng được bền chặt
vì họ thường xuyên quan hệ học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất cho nhau.
* Về sản xuất lương thực
Từ nền sản xuất chủ yếu là tự cấp, tự túc, người dân đã tiếp cận được
với thị trường trong việc trao đổi sản phẩm lúa gạo chất lượng cao.
Một điều đặc biệt trong dự án này là ngay từ khâu thiết kế dự án, Chủ
nhiệm dự án đã đưa vấn đề giới là một hoạt động để đạt được mục tiêu tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động của dự án, nâng cao bình
đẳng giới trong cộng đồng. Chính vì vậy, việc đào tạo nâng cao nhận thức về
giới, việc tư vấn và lập kế hoạch hành động về giới được tiến hành song song
cùng các hoạt động khác và dẫn đến kết quả thu được khá rõ nét. Trong khi
đó, nhiều dự án khác cho đến nay nếu có quan tâm cũng mới chỉ lồng ghép
khía cạnh giới vào các hoạt động của dự án và khi đánh giá thì các chuyên
gia về giới cố tìm kiếm những thành công về khía cạnh giới trong kết quả mà
dự án đã đặt được.
* Tính bền vững của dự án
Mặc dù thời gian của dự án đã kết thúc nhưng tính bền vững của dự án
rất cao và thể hiện rõ. Người dân đã thay đổi được nhận thức và thấy điều đó
hoàn toàn là có lợi trong cuộc sống trong lao động hàng ngày của họ thì họ sẽ
duy trì và ngày càng được cải thiện, cụ thể là nhận thức về giới cũng như tầm
quan trọng của việc sản xuất các sản phẩm hữu cơ/ sinh thái. Phần đầu vào
quan trọng của dự án là giống và kỹ thuật thì người dân đã nắm vững và tự
thực hiện được. Duy chỉ có khâu thị trường cho việc sản xuất lớn là còn cần
sự hỗ trợ của NEDCEN hoặc do chính ban chủ nhiệm câu lạc bộ sẽ đứng ra
lo liệu giúp người dân. (Trích theo báo cáo tư vấn về giới cho dự án phát triển
sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam, NEDCEN, 2002).
B. Dự án "Nâng cao thu nhập, bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả năng ra quyết định của hộ nông dân Đồng bằng Sông Hồng, thông qua việc áp dụng ICM trên khoai tây"
Dự án do qui Neys Van Hoogstraten - Hà Lan tài trợ và Viện Kinh tế
Nông nghiệp, Trường Đại học Nông Nghiệp I, Hà Nội và Trung tâm Cây có
củ, Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam thực hiện tại 4 xã: Hào Kiệt (huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định), Nguyên Xá (huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình),
Đông Xuân (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) và Hà Hồi (huyện Thường
Tín, tỉnh Hà Tây), trong thời gian 3 năm nhằm đạt các mục tiêu tổng thể sau:
1. Giúp những nông dân tham gia dự án sẽ nắm vững lý thuyết và thực
hành tốt IPM/ICM trên cây khoai tây nhằm nâng cao năng suất cũng như thu
nhập góp phần đảm bảo an toàn lương thực cho hộ gia đình.
2. Giúp nông dân hiểu biết được nội dung của an ninh lương thực, mối
liên hệ giữa thu nhập với an toàn lương thực, giữa sản xuất khoai tây với tăng
thu nhập và giữa thực hiện ICM cây trồng với bảo vệ môi trường và sức khỏe
người trực tiếp lao động.
3. Giúp nông dân có những nhận thức đúng mức về vai trò của người
phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ và trong công việc gia đình. Từ đó, có các
đề xuất để phát huy tốt vai trò của họ trong gia đình và với cộng đồng.
4. Giúp cho nông dân có đủ kiến thức về kinh tế xã hội và kỹ thuật
nhằm tăng cường khả năng ra quyết định đúng đắn các hoạt động sản xuất
kinh doanh của hộ đạt hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện không ngừng
đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình họ.
5. Thông qua phương pháp nông dân tập huấn cho nông dân, mô hình
phát triển sản xuất được mở rộng, giảm chi phí và bảo đảm tính bền vững
trong cộng đồng.
Để thực hiện các mục tiêu trên, trong việc triển khai của dự án đã áp
dụng các phương pháp rất cơ bản, đã được nhiều cơ quan nghiên cứu phát
triển kinh tế xã hội, các tổ chức trong nước và quốc tế áp dụng rộng rãi như:
phương pháp đánh giá có sự tham gia người hưởng lợi (PRA), tổ chức hội
thảo để thu nhận thông tin đa chiều, phương pháp nông dân tham gia nghiên
cứu trên đồng ruộng, nông dân tập huấn cho nông dân, phương pháp tự tìm
ra quyết định thông qua thảo luận trên đồng ruộng, phương pháp tập huấn
cho người lớn tuổi, phương pháp tham gia của người dân và cộng đồng.
Ngoài ra, dự án có kế hoạch tốt cụ thể trong việc thu thập số liệu và áp
dụng các phương pháp phân tích kinh tế để định lượng hóa hiệu quả kinh tế,
xã hội của từng nội dung triển khai như: sổ ghi chép tổng hợp sản xuất, điều
tra sự thay đổi của học viên trước và sau khi tham gia lớp học, đánh giá hiệu
quả kinh tế, xã hội của việc áp dụng ICM/IPM trên cây khoai tây v.v... Đây là
vấn đề rất cần thiết mà nện nay ở Việt Nam chưa có nhiều dự án quan tâm để
áp dụng.
Việc quản lý các hoạt động của dự án do đội ngữ gồm 14 cán bộ có
năng lực chuyên môn trong nhiều chuyên ngành liên quan đến các hoạt động
dự án (kinh tế nông nghiệp, bảo vệ thực vật, nông học, tuyển chọn giống
khoai tây v.v...) và có trách nhiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện. Sau khi
thảo luận với cộng đồng hưởng lợi, tư vấn của cơ quan tài trợ, cố vấn dự án
và các chuyên gia khoa học thì các quyết định đã được triển khai nhanh
chóng và đồng bộ tới địa phương. Do dự án đã thiết lập được mạng lưới công
tác từ cơ quan thực hiện dự án tới các địa phương. Ban quản lý dự án địa
phương có đại diện lãnh đạo chính quyần, hợp tác xã, làng (thôn) v.v... nên
các hoạt động của dự án được triển khai đồng bộ và thuận lợi. Đó là điều kiện
tốt để xây dựng và thực hiện các dự án tiếp theo ở cộng đồng địa phương
trong tương lai. Tại mỗi xã có hai huấn luyện viên là nông dân (một nam, một
nữ) và một ban chỉ đạo dự án từ 4 - 5 người ở các vị trí lãnh đạo cộng đồng.
Điều cơ bản là dự án đã xây dựng được nội dung hoạt động rất cụ thể,
do đó, sau 3 năm triển khai đã đạt được như sau:
1.1. Nông dân tham gia dự án đã nắm được lý thuyết cũng như thực
hành IPM/ICM trên cây khoai tây nhằm nâng cao năng suất và thu nhập gia
đình, thể hiện trên các mặt:
- Việc lựa chọn giống khoai và chất lượng giống để sản xuất.
- Kỹ thuật bón phân, sử dụng phân chuồng và phân Ka li.
- Kỹ thuật gieo trồng.
- Kỹ thuật thu hoạch và lựa chọn khoai làm giống cho vụ sau.
- Khả năng nhận biết về các sâu hại và thiên địch trên khoai tây.
Qua đó cho thấy, phương pháp áp dụng ICM/IPM cho cây khoai tây có
thể mở rộng cho các cây khác để nâng cao hiệu quả sản xuất ở Đồng bằng
Sông Hồng.
1.2. Nhờ tăng năng suất và thu nhập từ sản xuất khoai tây đã góp phần
đảm bảo an ninh lương thực, nhất là đối với các hộ nông dân nghèo khi bị mất
mùa hoặc thời kỳ thiếu lương thực (thời kỳ giáp hạt).
1.3. Vấn đề giới đã được quan tâm ngay khi thiết kế dự án thể hiện ở cơ
cấu giới trong lựa chọn học viên (58% là nữ).
Kết quả học tập tại các lớp huấn luyện, bố trí thực nghiệm trên đồng
ruộng và thảo luận nhóm cho thấy vai trò, khả năng của phụ nữ được khẳng
định trong gia đình và cộng đồng. Đáng chú ý là qua hoạt động ghi sổ chi tiêu
gia đình càng thể hiện rõ hơn vai trò phụ nữ trong việc ra quyết định của gia
đình. Tác động này của dự án là cơ sở cho sự phát triển và bình đẳng về giới.
1.4. Học viên tham gia dự án đã có được một số kiến thức cơ bản về
phân tích kinh tế đã góp phần nâng cao khả năng lựa chọn phương án sản
xuất và phân bổ nguồn lực của gia đình.
Mặc dù vậy, trong các lớp tập huấn, số học viên thường được lựa chọn
là những người có năng lực sản xuất nên đôi khi số người có trình độ hạn chế
về khả năng ghi chép, số đối tượng là người nghèo, người yếu thế trong cộng
đồng tham gia dự án còn ít. Tuy vậy, đây vẫn là một dự án đáp ứng được
mong muốn và nguyện vọng của người dân, với phương pháp nông dân tập
huấn cho nông dân, những kiến thức hữu ích đó đã được lan rộng nhanh
chóng trong cộng đồng.
Một điều hết sức quan trọng là dự án đã thu hút được người hưởng lợi
vào các công việc thiết kế, kiểm tra, đánh giá các công việc của dự án như từ
các cuộc thảo luận với người được hưởng lợi để tổng kết các khó khăn mà họ
gặp phải, từ đó xây dựng kế hoạch, nhu cầu trợ giúp, những đề xuất nhằm
xây dựng chính xác các hoạt động cần thực hiện (nội dung tập huấn, thử
nghiệm) trong thời gian sau. Các điều khoản giao việc của mỗi bên qua việc
thực hiện dự án ở các làng từ việc ghi chép, theo dõi hoạt động sản xuất,
giảng giải các khoản mục chi phí, các bài tập thực hành về tính giá thành, thu
nhập bố trí, các công thức luân canh cây trồng, phân tích các hoạt động kinh
tế hộ giải đáp được các thắc mắc rút kinh nghiệm cho từng mục, từng bài
khiến cho bài học được hiểu thấu đáo, đồng thời huấn luyện viên được củng
cố kiến thức và nâng cao kỹ năng tập huấn, góp phần nâng cao địa vị của
người dân tham gia trong việc giám sát, quản lý dự án. Nếu trước khi tham
gia vào các lớp tập huấn, học viên (người dân) thiếu kiến thức trong việc
trồng và chăm sóc cây khoai tây (không phân biệt được thiên địch có lợi cho
cây trồng, khoảng cách thời gian bón phân, cách bảo quản sản phẩm -
thường cho vào gầm thường gây thối, nấm mốc gây ô nhiễm môi trường và
gây bệnh cho người v.v...), thì ngày nay họ đã biết hợp tác để cùng nhau sản
xuất, bảo quản sản phẩm theo phương pháp mới, tiếp cận thị trường một
cách tốt nhất. (Trích theo Báo cáo đánh giá cuối kỳ dự án nâng cao thu nhập,
bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả năng ra quyết định của hộ nông dân
Đồng bằng sông Hồng, thông qua việc áp dụng ICM trên khoai tây v.v..., Viện
Kinh tế Nông nghiệp, 2001).
* Ghi chú:
IPM - Integrated Pests Management: Tăng cường quản lý dịch
hại
ICM - Integrated Crops Management: Tăng cường quản lý mùa
vụ
C. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà Đây là dự án hợp tác kỹ thuật giữa chính phủ Đức và Việt Nam do Cục
phát triển lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực thi.
Vùng dự án là khu vực đầu nguồn Sông Đà ở vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi có
nhiều người Thái sinh sống (huyện Yên Châu, Sơn La) và người Mông
(huyện Tủa Chùa, Lai Châu).
Mục tiêu của dự án là: Cải thiện đời sống của nhân dân ở vùng Sông
Đà cùng với sự ổn định về sinh thái.
Cơ sở phương pháp luận của dự án là xem xét và giải quyết những
nguyên nhân chính gây nên nạn phá rừng như nghèo đói và thiếu lương thực.
Do đó, dự án áp dụng phương pháp hai chiều, vừa tăng sản lượng lương
thực và thu nhập một cách bền vững hơn, vừa tăng tỷ lệ che phủ rừng thông
qua tái sinh tự nhiên, trồng rừng và các hoạt động quản lý rừng.
Các hoạt động chính của dự án là:
- Trợ giúp xây dựng, cải tiến và áp đụng phương pháp luận về qui
hoạch sử dụng đất và giao đất giao rừng có người dân tham gia.
- Tăng cường năng lực của các cộng đồng địa phương ở xã và đặc biệt
trong các làng để quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hữu hiệu và
hiệu quả về chi phí nhằm tăng sản xuất nông lâm kết hợp, nâng cao chất
lượng bảo vệ, quản lý các nguồn tài nguyên (rừng). Những phương pháp có
tầm quan trọng đặc biệt là sự tham gia của các cộng đồng vào phân tích
những vấn đề tồn tại, xây dựng giải pháp dài hạn cho các vấn đề và mâu
thuẫn về sử dụng đất. Lập kế hoạch thực hiện theo dõi và đánh giá kế hoạch
là các công cụ hỗ trợ cộng đồng và chính quyền địa phương trong công tác
khuyến nông - lâm v.v...
- Xây dựng các giải pháp kỹ thuật và tổ chức cải tiến cho việc quản lý
các tài nguyên thiên nhiên bền vững phù hợp với môi trường miền núi.
- Xây dựng dịch vụ khuyến nông - lâm theo định hướng nhu cầu để đưa
ra các giải pháp kỹ thuật v.v...
- Tăng cường năng lực cho các cơ quan chức năng địa phương tại cấp
huyện và tỉnh, nhằm nâng cao tính hiệu quả của dịch vụ cung cấp cho người
dân địa phương.
- Quản lý có hiệu quả dự án nhằm thực hiện các hoạt động đã nêu ở
trên.
Tổng thời gian dự án là 12 năm, từ 1993 - 2004 gồm 4 pha:
- Pha 1: Định hướng 1993 - 1995.
- Pha 2: Thực thi 1 từ 4/1995 - 12/1998.
- Pha 3: Thực thi 2 từ 1/1999 - 12/2001.
- Pha 4: Chuyển giao cuối cùng từ 2002 - 2004.
Để hoàn thành các hoạt động chính trên đây, nhiều hoạt động cụ thể
được đặt ra. Đơn cử như trong các giải pháp công nghệ và tổ chức cải tiến
trong việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững thì vấn đề
quản lý lâm nghiệp cộng đồng được chú trọng. Đây là một dự án mà vấn đề
cộng đồng được đặt ra hết sức rõ nét. Điều quan trọng là nhận thức lâm
nghiệp cộng đồng không chỉ cần thiết như một giải pháp cho quản lý rừng mà
còn có tiềm năng quản lý tài nguyên rừng bền vững ở những vùng xa xôi như
đầu nguồn sông Đà. Những cộng đồng trong vùng này sống qua nhiều thế hệ
nhưng vẫn duy trì thể chế và kiến thức cũ, các chương trình của Nhà nước
trong việc quản lý rừng còn yếu. Dự án đã chú trọng vào việc phát triển và thử
nghiệm hai phương pháp luận đó là xây dựng qui chế quản lý, bảo vệ rừng và
soạn thảo kế hoạch quản lý lâm nghiệp cộng đồng ở cấp thôn bản. Dự án đã
thiết lập theo dõi ô thử nghiệm và trình diễn đồng thời khởi xướng, hỗ trợ một
mạng lưới lâm nghiệp cộng đồng ở Sơn La và Lai Châu để kết nối với nhóm
lâm nghiệp cộng đồng ở cấp quốc gia. Những kinh nghiệm rút ra từ quản lý
lâm nghiệp cộng đồng được dự án đúc kết và khuyến nghị cho chiến lược
phát triển rừng ở cấp quốc gia cũng như cấp tỉnh:
* Làm rõ và đảm bảo về quyền lợi của cộng đồng địa phương được
hưởng từ nguồn rừng nhưng là một điều kiện tiên quyết cho quản lý lâm
nghiệp cộng đồng. Sự quản lý rừng của địa phương đã được cải thiện rất
nhiều thông qua qui hoạch sử dụng đất và giao đất, giao rừng cũng như xác
định biên giới vùng giữa các thôn bản và các xã.
* Quản lý lâm nghiệp cộng đồng dựa trên những qui chế pháp lý về bảo
vệ rừng. Sau nhiều thập kỷ, tài nguyên rừng không được quản lý chặt chẽ,
các trách nhiệm về quản lý rừng chỉ có thể chuyển giao cho cộng đồng một
cách thích hợp thông qua các qui chế bảo vệ rừng hiệu quả.
* Quản lý lâm nghiệp cộng đồng đang chứng minh được đây là một
cách quản lý hiệu quả về chi phí xã hội cũng như về môi trường, phù hợp với
phương án quản lý rừng. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý
và bảo vệ rừng sẽ ổn định, ngăn chặn sự suy thoái hệ thống sinh thái rừng
cũng như thúc đẩy tái sinh tự nhiên. Mục tiêu của việc bảo vệ rừng đầu nguồn
có thể hòa hợp với sử dụng rừng theo nhu cầu của người dân địa phương.
* Tạo cơ hội và khuyến khích người dân địa phương để họ có thể quản
lý nguồn rừng và phân bổ công việc cũng như hưởng lợi một cách hợp lý.
Chương trình quản lý lâm nghiệp cộng đồng phải phản ánh được các kỹ năng
hiện có cũng như khả năng quản lý của cộng đồng địa phương. Kiến thức sẵn
có của địa phương có thể hỗ trợ việc triển khai một cách có hiệu quả.
* Việc sử dụng lâm sản cho nhu cầu thiết yếu là điều vô cùng quan
trọng đối với người dân địa phương. Tuy nhiên, thu nhập từ các hoạt động
lâm nghiệp chỉ bổ sung cho thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Điều mà cộng
đồng địa phương quan tâm nhất hiện nay vẫn là an toàn lương thực, do vậy,
việc quản lý lâm nghiệp chỉ thực sự thành công khi có thể cung cấp được cho
người nông dân những giải pháp sử dụng đất nông nghiệp một cách hợp lý.
* Cuối cùng, môi trường chính sách hỗ trợ của Nhà nước, cũng như
của tỉnh là hết sức cần thiết để mở rộng việc áp dụng phương pháp quản lý
lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp của Nhà nước ta đang mở ra
những khả năng mới cho lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, việc mở rộng
phương pháp này cũng đòi hỏi những sửa đổi các qui chế chính sách cấp nhà
nước, tỉnh dựa trên các thử nghiệm thành công (Trích theo báo cáo dự án
phát triển lâm nghiệp sông Đà, Chương trình Hợp tác kỹ thuật Việt Nam -
Đức, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2000).
D. Một ví dụ về dự án tăng thu nhập ở Việt Nam Hương Phong là một xã nghèo ở Huế, số dân ở xã vào khoảng 9.000
người, gồm 1500 hộ, trong đó, có khoảng 110 hộ làm nghề nuôi tôm, các
nghề chính của dân trong xã là nghề đánh cá, nuôi tôm và trồng trọt. Xã nằm
ở ven biển và chỉ có thể đến được bằng thuyền hoặc xe 2 bánh. Do ở ven
biển nên xã thường bị ảnh hưởng thiên tai như sóng thủy triều và gió mùa
mạnh.
Một chuyên gia người Anh đã đến thăm xã vào năm 1991 - 1992 và đã
đưa ra một số biện pháp về công tác phát triển do Tổ chức Tầm nhìn Thế giới
thực hiện trong vùng. Từ năm 1992, Tổ chức Tầm nhìn thế giới bắt đầu tập
trung vào công tác phát triển cộng đồng và phát triển kinh tế cho xã. Tổ chức
này đã tài trợ để cải tạo một trạm y tế duy nhất trong xã, cung cấp cho trạm
một chiếc xích lô; lát lại một con đường thường dùng trong xã để đi đến thị
trấn gần đó dễ dàng hơn; sửa lại trường học và xây thêm 4 phòng học; các
con đê cũng được củng cố và đắp thêm để nông dân có thể trồng thêm vụ và
tạo ra nhiều hồ nuôi tôm cho họ.
Một chương trình tín dụng vốn quay vòng được bắt đầu từ năm 1992
dành cho những người nuôi tôm. Giai đoạn đầu với số vốn 6000 USD cho
toàn xã. Mỗi hộ nuôi tôm được vay 600 USD và sẽ trả dần trong 5 năm, mỗi
năm 120 USD. Số tiền vay sẽ dùng để sửa sang, củng cố hồ nuôi tôm, mua
giống và thức ăn. Người vay phải trả lãi 1% tháng cùng với gốc. Ngay sau khi
số tiền trả của mỗi hộ đạt đến một khoản tương đối lớn (khoảng 300 - 500
USD), số tiền này được chuyển cho người khác vay để đảm bảo không có
tiền nhàn rỗi.
Ban quản lý gồm các thành viên của ủy ban Nhân dân huyện và xã.
Chức năng của ban quản lý chủ yếu là chọn lọc đối tượng được vay, thu nợ
và tiếp tục cho vay. Các thành viên của ban quản lý không được vay từ quỹ
này trong thời gian hai năm đầu. Họ làm việc này không có lương, không có
tiền bồi dưỡng. Trong vùng không có ngân hàng nông nghiệp cho nên tư
nhân cho vay với lãi xuất từ 3 – 5%/ tháng.
Vào tháng 3/1993, chuyên gia trên trở lại thăm xã và cấp thêm cho xã
đợt 2 là 3000 USD. Theo ý kiến của chuyên gia, xã đã giảm mức vay cho mỗi
hộ gia đình từ 600 USD xuống 200 - 400 USD. Tổng số đã có 20 hộ được vay
vốn.
Tỷ lệ trả nợ trong giai đoạn một là 100%, nhưng trong giai đoạn 2 vào
thoảng 85% với 3 trường hợp không trả được nợ.
Theo báo cáo của cán bộ dự án, số hộ không trả được nợ là do mất
mùa, gặp thiên tai và năng suất kém, họ đã hứa sẽ trả trong thời gian sớm
nhất.
Vào tháng 5/1994, một đoàn cán bộ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới đã
thăm xã và đánh giá kết quả dự án cũng như rút kinh nghiệm. Đoàn cán bộ đã
thăm vùng dự án và phỏng vấn một số đối tượng được vay vốn cùng những
người khác trong xã.
Dưới đây là một số phát hiện:
- Khi được yêu cầu xếp thứ tự về mặt hiệu quả các phần của dự án,
người dân trong xã cho rằng việc xây dựng đê và trường học là các đầu tư có
lợi nhất cho xã, sau đó mới là việc giúp trạm y tế và cho vay vốn.
- Đê đã giúp nông dân mỗi năm thu hoạch thêm một vụ.
- Trường học đã giúp học sinh chỉ phải học hai ca.
- Trạm y tế cũng đã giúp cho việc sinh đẻ tốt hơn.
- Tu sửa đường sá làm cho việc đi đến thị trấn để mua bán thuận tiện
hơn.
- Đối tượng được vay rộng rãi hơn so với chương trình EC (chỉ cho
người hồi hương vay).
- Người vay vốn được ban quản lý chọn. Có hiện tượng thiên vị do thân
quen dẫn đến có sự căng thẳng giữa người vay và ban quản lý.
- Một số người không rõ là tiền được vay hay là cho không, dường như
mọi người thiếu hiểu biết về dự án cho vay và các quy định cho vay.
Những thiếu sót đã nêu có thể là do:
1. Ban quản lý chưa mang tính chất đại diện.
2. Việc lựa chọn đối tượng hưởng lợi không được xác định theo một
tiêu chuẩn rõ ràng.
3. Không có hướng dẫn bằng văn bản rõ ràng về việc sử dụng quỹ, tỷ
lệ lãi và việc trả nợ.
4. Thiếu giám sát và kiểm tra thường xuyên của cán bộ dự án.
5. Thời gian trả nợ là quá dài (5 năm), ảnh hưởng đến việc quay vòng
vốn.
6. Thiếu các cán bộ nghiệp vụ kế toán, tài chính.
7. Không có sự đánh giá dự án giữa kỳ, nếu có thì chương trình có thể
đi đúng hướng hơn.
8. Không có những hợp đồng cụ thể khi cho vay.
9. Không có các phân tích tính khả thi và chi phí của việc nuôi tôm.
10. Trong điều kiện nông thôn, đôi khi việc tạo ra các nhóm đoàn kết
sản xuất để cho vay sẽ tốt hơn là cho từng cá nhân vay.
11. Mục tiêu của dự án không rõ ràng.
12. Cơ cấu quản lý dự án còn mang tính mệnh lệnh.
13. Không có phụ nữ trong số người được vay.
(Trích theo Henry Waller trong Tổ chức và hoạt động phi chính phủ
nước ngoài ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995)
E. Từ xích lô... đến dự án Maryknoll là một tổ chức nhân đạo phi chính phủ của Mỹ hiện đang hợp
tác với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam trong việc triển khai
và thực hiện một số dự án nhân đạo giúp đỡ người nghèo tại một số tỉnh và
thành phố ở Việt Nam: Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Lạng Sơn. Tổ chức này đã
giúp đồng bào nghèo ở khu kinh tế mới Đồng Mô, thị xã Sơn Tây vay vốn để
xóa đói giảm nghèo và phát triển sản xuất, trợ giúp cho các cháu nhỏ có hoàn
cảnh khó khăn tại huyện Thanh Trì có điều kiện để tiếp tục đi học v.v...
Nhưng có một dự án mà cách đặt vấn đề để lựa chọn chủ đề lại khá bất
ngờ và thú vị. Đó là dự án "Dạy nghề cho thanh niên và giúp phát triển hệ
thông V.A.C. của các hộ gia đình nông dân tại xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân
Thủy, tỉnh Nam Hà".
Khi mới sang làm việc tại Việt Nam, do chưa có ô tô, xe máy hoặc bất
kỳ phương tiện riêng nào để đi lại trong thành phố Hà Nội, nên phương tiện
thông dụng nhất của các "ông Tây" là đi xích lô hoặc quốc bộ. Lâu lâu họ
nhận ra một điều là những người làm nghề đạp xích lô dường như đều từ các
tỉnh khác đến Hà Nội. Mà sao lắm xích lô thế! Cái đi ngang, cái đi dọc, nhiều
lúc hai ba cái song song nhau mà đi choán hết cả đường. Rồi thì xe nọ đụng
xe kia, nhiều khi ngồi trên xe mà hết cả hồn. Những người đạp xe trông thật
lam lũ. Công việc thì nặng nhọc, nhất là vào những ngày hè oi ả, dưới nắng
gắt trông họ còn vất vả hơn nhiều. Tìm hiểu thêm thì được biết rằng hầu hết
người đạp xích lô đến Hà Nội hành nghề là người của các tỉnh Hải Hưng,
Thái Bình, Thanh Hóa, Nam Hà v.v... Điều đặc biệt là phần lớn trong số họ đã
tới từ một xã của tỉnh Nam Hà, xã nông nghiệp độc canh cây lúa. Một nghề
mang tính truyền thống lâu đời của cánh đàn ông là lên Ha Nội đạp xích lô và
làm cửu vạn trong những ngày nông nhàn hoặc giáp hạt.
Maryknoll muốn giúp họ, nhưng bằng cách nào? Chẳng lẽ lại mở một
"Cyclo Project" - một dự án xích lô - tại Hà Nội? Không được! Như vậy, sẽ
không giải quyết triệt để được vấn đề. Từ đó Maryknoll nảy sinh ý tưởng: nên
chăng hãy đến tận nơi mà từ đó những người đạp xích lô ra đi để tìm kiếm
công ăn việc làm để tiến hành một dự án khả thi giúp họ có việc làm và tạo ra
thu nhập ngay trên quê hương họ, ngay trên mảnh đất của gia đình họ thay vì
phải xa gia đình, lang thang kiếm ăn và tạo nên sự quá tải ở các thành phố và
những trung tâm lớn. Đó là chưa kể việc họ bị tiêm nhiễm những điều xấu và
mang theo chúng về những miền quê vốn êm ả và trong sạch của họ. Hoặc
khác nữa, một dự án dạy nghề có thể cũng là một ý tưởng hay, vì một khi
trong số đàn ông đó vẫn còn người mơ đến những thành phố lớn, những
"miền đất hứa" thì ít nhất khi ra đi họ đã có một hành trang bảo đảm cho công
việc của họ đỡ vất vả hơn. Tiền kiếm được sẽ khá hơn, đó là tay nghề.
Vậy là sau khi trao đổi với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, sau
những cuộc viếng thăm, sau những cuộc khảo sát kỹ lưỡng, một dự án theo
những ý tưởng trên đã được mở ra và đi vào hoạt động.
Từ đó đến nay đã hơn một năm, giờ đây tại xã Thọ Nghiệp, quê hương
của những người đạp xích lô đã có một trung tâm dạy nghề cho thanh niên
với điều kiện cơ sở vật chất và trang bị hiện đại. Tại trung tâm này đã có hai
mươi mốt thợ may và mười bốn thợ mộc được đào tạo tốt và đã thành nghề.
Nhiều người trong số họ đã có cửa hàng riêng và bắt đầu có thu nhập. Một
xưởng may nhỏ với sự trợ giúp ban đầu của Maryknoll đã được thành lập và
hoạt động tốt, chuyên cắt may và bán quần áo trẻ em. Khoảng 50 hộ nông
dân được chọn và được tập huấn về kỹ thuật V.A.C. để họ có khả năng cải
tạo và phát triển vườn, ao, chuồng của gia đình họ. Đây sẽ là 50 mô hình
V.A.C. để rồi sẽ được nhân rộng ra toàn xã. Dọc các bờ kênh, mương, những
hàng vải thiều chạy dài và viền xanh những dải đất trơ trụi trước đây tạo ra
một cảnh quan đẹp mắt cho toàn xã. Vào vụ thu hoạch, vải thiều cũng đem lại
nguồn thu khá cho phúc lợi chung của nhân dân ở đây.
Do vậy, từ hình ảnh những chiếc xích lô hàng ngày cọt kẹt chạy trên
đường phố Hà Nội đã dẫn dắt chúng ta đến một ý tưởng hay cho một dự án
thiết thực. Việc phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, giải tỏa gánh nặng
cho những thành phố vốn đã đông đúc và khó kiếm công ăn việc làm đã góp
phần giải quyết những vấn đề xã hội phức tạp mà các thành phố lớn đang
phải hàng ngày đối mặt. Dự án tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì không nhỏ (Trích
theo Nguyễn Duy Phương - Cán bộ dự án của Maryknoll).
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt
1. Trần Thị vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ giới và phát triển,
Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.
2. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1996), Xóa đói giảm nghèo với
tăng trưởng kinh tế, Nhà xuất bản Lao động, Hà nội.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1998), Phương pháp đánh
giá nông thôn có người tham gia trong hoạt động khuyến nông, khuyến lâm,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (1998), Báo cáo phân tích chương trình hợp tác y tế Việt
Nam - Thụy Điển, 1994 - 1997, Hà Nội.
5. Chương trình hợp tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển (1996), Tài liệu
hướng dẫn PRA, Vĩnh Phú.
6. Chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển, (1998), Tài liệu
hướng dẫn PRA, Lào Cai.
7. Công ty ADUKI (1996), Vấn đề nghèo ở Việt Nam (tài liệu dịch), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (Chủ biên) (1997), Về chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Dự án quản lý bền vững tài nguyên vùng hạ lưu sông Mêkông trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk (2000), Kỹ thuật giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của
người dân áp dụng trên địa bàn xã, tỉnh Đắk Lắk.
10. Dự án Phát triển Lâm nghiệp Xã hội Sông Đà (2000), Báo cáo đánh
giá 1994 - 2000.
11. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà (1995), Tài liệu đào tạo
thực hành phương pháp PRA.
12. Emily A.Schultz, Robert H. Lavenda (2001), Nhân học - một quan
điểm về tình trạng nhân sinh (Phan Ngọc Chiến và Hồ Liên Biện dịch), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2002), Nghiên cứu con
người - đối tượng và những hướng chủ yếu, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
14. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1996), Sổ tay huấn luyện viên về kỹ
năng quản lý và phát triển cộng đồng, Tài liệu do Đại sứ quán Thụy Điển tại
Việt Nam tài trợ.
15. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng - Lý
thuyết và vận dụng, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
16. Tương Lai (1998), Một số vấn đề dân số từ hướng tiếp cận xã hội
học, Nhà xuất bản Khoa học, Xã hội.
17. Hà Quế tâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà nội.
18. Phạm Xuân Nam (2001), Quản lý sự Phát triển xã hội trên nguyên
tắc tiến bộ và công bằng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) (1998), Chính sách của ngân
hàng về dân tộc bản địa.
20. Nguyễn Hữu Nhân (2002), Báo cáo tư vấn về giới cho dự án phát
triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam, NEDCEN.
21, Nguyễn Thị Oanh (1995), Phát triển cộng đồng, Đại học Mở - Bán
công thành phố Hồ Chí Minh.
22. Quĩ nhi đồng Anh (1997), Dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên, Hà
Nội.
23. Nguyễn Văn Thanh (Chủ biên) (1995), Tổ chức và hoạt động phi
chính phủ nước ngoài ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
24. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,
Nhà xuất bản phụ nữ, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (2000), Kết quả điều tra dân số ngày 1/4/1999 .
26. Hà Thị Phương Tiến, Nguyên Hữu Nhân (1999), Báo cáo đánh giá
các hoạt động về giới trong chương trình hợp tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển
giai đoạn 1994 - 1999, Bộ Y tế.
27. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo
phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới sự nghiệp phát triển con người,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia
Hà Nội (dịch) (2000), Các phương pháp tham gia trong quản lý tài nguyên ven
biển dựa vào cộng đồng, Tập 1, 2 và 3, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
Tiếng Anh
29. Foundation for Rural Education and Development (FRED) (1999),
Community Development: A Guidebook for Rural Leaders, London.
30. Henry Sanoff (2000), Community Participation Methods in Design
and Planning, John & Sons, 1st edition.
31. Michael Crowder, Paul Richards (1984), Rural Development,
Hutchingson Group publishing House.
32. Paula J. Dubeck; Karthyn Borman (1996), Women and Work,
Library of Congress Cataloging in - Publication Data.
33. UNDP (2000), Human Development Report, Hà Nội.
34. Vietnam Union for Scient and Technology Association - Center for
Human Resouces Development (2001), Participatory Monitoring and
Evaluation, Hanoi.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương 1. Cộng đồng và những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng
1.1. Cộng đồng
1.2. Những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng
Chương 2. Phát triển cộng đồng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
2.2. Nguyên tắc phát triển tiến bộ và công bằng
2.3. Những chỉ tiêu, chỉ số chủ yếu trong quản lý sự phát triển xã hội
2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm trong
phát triển cộng đồng
2.5. Xóa đói giảm nghèo trong phát triển cộng đồng
Chương 3. Sự hòa nhập xã hội
3.1. Vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ trong sự hòa nhập vào các
dự án phát triển
3.2. Hòa nhập xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trong các
hoạt động phát triển
3.3. Sự hòa nhập xã hội đối với những nhóm người dễ bị tổn thương
khác
Chương 4. Dự án phát triển cộng đồng
4.1. Khái niệm dự án. Dự án phát triển cộng đồng
4.2. Sự cần thiết của những dự án phát triển cộng đồng trong giai đoạn
phát triển hiện nay
4.3. Chu trình dự án phát triển cộng đồng
Chương 5. Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia trong phát
triển cộng đồng
5.1. Giới thiệu chung
5.2. Định nghĩa PRA
5.3. Mục đích của PRA
5.4. Thời điểm thực hiện
5.5. Bộ công cụ PRA
5.6. Thực tế áp dụng PRA ở Việt Nam
Phụ lục. Tóm tắt một số dự án điển hình về Phát triển cộng đồng
A. Dự án phát triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở
Việt Nam
B. Dự án "Nâng cao thu nhập, bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả
năng ra quyết định của hộ nông dân Đồng bằng Sông Hồng, thông qua
việc áp dụng ICM trên khoai tây"
C. Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà
D. Một số ví dụ về dự án tăng thu nhập ở Việt Nam.
E. Từ xích lô đến dự án
Tài liệu tham khảo
Mục lục bảng và sơ đồ
Bảng 2.1. Chỉ số phát triển con người của một số nước khu vực Đông
Nam Á
Bảng 2.2. Số hộ và tỷ lệ hộ đói nghèo theo vùng
Bảng 2.3. Tỷ trọng đói nghèo phân theo 7 vùng sinh thái - kinh tế
Bảng 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế (%)