1 Pháp luật quốc tế về chống khủng bố và việc hoàn thiện bộ luật hình sự Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 60 / Vũ Ngọc Dương ; Nghd. : TS. Trần Văn Thắng MỤC LỤC Trang më ®Çu Chương I KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ 1.1. Khái niệm khủng bố 1.1.1. 1.1.2. Các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới Xây dựng định nghĩa chung về khủng bố 1.2. Sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố và pháp luật quốc tế về chống khủng bố 1.2.1. 1.2.2. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa khủng bố Sự phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố Ch-¬ng II NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ 2.1 Các nguyên tắc cơ bản 2.1.1. 2.1.2. Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không được xâm phạm chủ quyền quốc gia khác Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không được vi phạm các quyền con người cơ bản
25
Embed
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố và việc hoàn thiện bộ ...repositories.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/39182/1/TT_00050000103.pdf · Nghĩa vụ của
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố và việc
hoàn thiện bộ luật hình sự Việt Nam : Luận văn
ThS. Luật: 60 38 60 / Vũ Ngọc Dương ; Nghd. :
TS. Trần Văn Thắng
MỤC LỤC
Trang
më ®Çu
Chương I
KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.1. Khái niệm khủng bố
1.1.1.
1.1.2.
Các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới
Xây dựng định nghĩa chung về khủng bố
1.2. Sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố và pháp luật quốc tế về
chống khủng bố
1.2.1.
1.2.2.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa khủng bố
Sự phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng
bố
Ch-¬ng II
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
2.1 Các nguyên tắc cơ bản
2.1.1.
2.1.2.
Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố
không được xâm phạm chủ quyền quốc gia khác
Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố
không được vi phạm các quyền con người cơ bản
2
2.1.3.
Mọi hành vi khủng bố đều phải bị ngăn chặn và trừng trị,
không được viện dẫn lý do chính trị để từ chối hợp tác chống
khủng bố
2.2. Phạm vi áp dụng của các công ước
2.3. Xác định quyền tài phán quốc gia theo quy định tại các công
ước
2.4.
2.4.1.
2.4.2.
Nghĩa vụ của các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội
khủng bố theo quy định tại các công ước
Nghĩa vụ lập pháp
Nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia
2.5. Những hạn chế và việc hoàn thiện pháp luật quốc tế về chống khủng bố
Chương III
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
3.1. Khái quát chung về việc thực hiện pháp luật quốc tế về chống khủng bố tại Việt Nam
3.2. Tội khủng bố và các tội phạm liên quan đến khủng bố theo quy định tại Bộ luật hình sự Việt Nam
3.2.1.
3.2.2.
Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999
Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung)
3.3. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về tội khủng bố và các tội phạm liên quan
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
4
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Trong quá trình
toàn cầu hoá, bên cạnh những mặt tích cực còn xuất hiện những mặt trái
của nó mà mỗi quốc gia không thể tự giải quyết được. Một trong những
vấn đề thuộc mặt trái của toàn cầu hoá đó là khủng bố quốc tế.
Khủng bố ban đầu xuất hiện là những tội phạm quốc gia, cùng với quá
trình toàn cầu hoá, tội phạm này hiện nay là mối đe doạ hoà bình và an
ninh quốc tế, điển hình là vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, vụ
khủng bố Trường trung học Beslan của Nga, vụ khủng bố các toa xe lửa ở
Mardrit, Tây Ban Nha…
Trước sự phát triển của khủng bố quốc tế, cộng đồng quốc tế đã có
nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn tội phạm này, trong đó có việc xây dựng các
văn bản pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Việc xây dựng văn bản pháp
luật quốc tế về chống khủng bố được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ
XX nhưng tới năm 1963 mới cho ra đời điều ước quốc tế về chống khủng
bố đầu tiên. Hiện nay, pháp luật quốc tế về chống khủng bố bao gồm 12
điều ước đa phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc, 8 điều ước khu vực
và rất nhiều điều ước quốc tế song phương… Tuy nhiên, pháp luật quốc tế
về chống khủng bố hiện chưa hoàn chỉnh, chưa có điều ước nào đưa ra
được định nghĩa về khủng bố vì thế hiện tại chưa thể phân biệt một cách rõ
ràng hành vi khủng bố và các hành vi khác theo quy định tại các điều ước
này. Đề tài luận văn được thực hiện nhằm đưa ra khái niệm ban đầu về
khủng bố, giúp phân biệt khủng bố và các tội phạm khác có cấu thành gần
giống trên cơ sơ nghiên cứu các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế
giới. Đây là vấn đề có tính cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
chống khủng bố quốc tế, đồng thời hạn chế hành xử tuỳ tiện của các quốc
5
gia trong cuộc chiến chống khủng bố.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên 8 điều ước quốc tế về chống
khủng bố, tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay mà đặc biệt là Bộ luật
hình sự - công cụ đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm nói
chung và tội khủng bố nói riêng chưa tương thích với pháp luật quốc tế.
Chính vì thế, việc nghiên cứu, sửa đổi các quy định tại Bộ luật hình sự là
việc làm cần thiết hiện nay để nâng cao hiệu hợp tác đấu tranh chống loại
tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống
khủng bố không nhiều. Ở cấp độ luận văn chỉ có một đề tài của tác giả
Nguyễn Long tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên: “Pháp luật
quốc tế về chống khủng bố - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Ngoài ra,
còn một số sách tham khảo giới thiệu các công ước quốc tế về chống
khủng bố và các bài viết hội thảo về vấn đề này.
Trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học
giả về khủng bố quốc tế như Schmid Alex, Bruce Hoffman… tuy nhiên các
nghiên cứu tập trung phân tích nguyên nhân làm phát sinh khủng bố và các
mặt chính trị - xã hội xung quanh nó mà ít đề c đến vấn đề pháp lý.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đề cập vấn đề khá thời sự hiện nay trên thế giới: Khủng bố quốc
tế. Câu hỏi: Thế nào là khủng bố cũng là vấn đề gây tranh luận gay gắt
giữa các quốc gia cũng như các nhà nghiên cứu và là trở lực lớn cho việc
thông qua Công ước chung về chống khủng bố. Chính vì thế, đề tài đi vào
kiến giải câu hỏi này dựa trên những biểu hiện khách quan của hành vi
khủng bố cũng như các quan điểm hiện nay trên thế giới về khủng bố. Qua
đó, đề tài cũng góp phần vào việc nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn
6
thiện pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này góp phần nâng cao hiệu
quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực cũng như trên thế giới.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý xung quanh một vấn đề
thời sự hiện nay: Khủng bố quốc tế với nguồn chủ yếu là các điều ước
quốc tế về chống khủng bố và quy định pháp luật quốc gia về vấn đề này,
trong đó đặc biệt là Việt Nam.
Đề tài không đi sâu về các nguyên nhân làm phát sinh khủng bố cũng
như các vấn đề chính trị - xã hội xung quanh nó mà chủ yếu xem xét khủng
bố dưới góc độ pháp lý - một tội phạm nguy hiểm cần phải bị loại trừ ra
khỏi đời sống nhân loại.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu là phân tích, so sánh, liệt
kê… với nền tảng là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
pháp biện chứng duy vật.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu vấn đề còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam: Khủng bố
quốc tế. Việc nghiên cứu đề tài vì vậy sẽ mở ra những nghiên cứu tiếp theo
sâu sắc hơn.
Không những thế, những nghiên cứu của đề tài sẽ trả lời câu hỏi: Thế
nào là khủng bố - một vấn đề gây tranh luận gay gắt hiện nay giữa các
quốc gia và các nhà nghiên cứu và là nguyên nhân chính cản trở việc thong
qua Công ước quốc tế chung về chống khủng bố. Đây mới chỉ là nghiên
cứu bước đầu với kết quả còn khiêm tốn nhưng cách lý giải về khủng bố
trên cơ sở pháp lý tại luận văn hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu tiếp theo.
Luận văn cũng phân tích và nêu ra thực trạng và các giải pháp góp phần
7
hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế của Việt Nam trong đấu tranh chống tọi phạm này.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I trình bày những vấn đề cơ bản nhất về khủng bố và pháp luật
quốc tế về chống khủng bố, trong đó có nêu ra các quan điểm hiện nay trên
thế giới về khủng bố, định nghĩa khủng bố cũng như các đặc điểm phân
biệt khủng bó và các tội phạm khác.
Chương II trình bày nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về chống
khủng bố, trong đó có các nguyên tắc cơ bản trong đấu tranh chống khủng
bố, các hành vi khủng bố nêu tại các điều ước quốc tế, nghĩa vụ hợp tác
của các quốc gia…
Chương III trình bày thực trạng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam và một số giải pháp hoàn thiện các quy định này nhằm nâng cao hiệu
quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố của nước ta.
8
CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.1. KHÁI NIỆM KHỦNG BỐ
Trong mục “Khái niệm về khủng bố” luận văn đưa ra các quan điểm hiện
nay trên thế giới về khủng bố, đó là các quan điểm của những nhà nghiên
cứu, quan điểm lập pháp một số nước và định nghĩa khủng bố tại các công
ước quốc tế hiện nay.
1.1.1. Các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới
1.1.1.1. Quan điểm của các nhà nghiên cứu
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khủng bố được các nhà nghiên cứu đưa
ra, trong đó có những định nghĩa trái ngược nhau và chưa định nghĩa nào
được hoàn toàn chấp nhận. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu cũng có sự thống
nhất ở một số nội dung. Thứ nhất, đều cho rằng khủng bố là nguy cơ đe doạ
hoà bình và an ninh toàn cầu, dù nguyên nhân của hiện tượng này là gì thì
đều không thể biện minh; thứ hai, đấu tranh với khủng bố bằng pháp luật,
bằng cảnh sát chứ không phải bằng chiến tranh.
1.1.1.2. Về quan điểm lập pháp một số nước
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận tội khủng bố trong pháp luật
hình sự. Một số quốc gia thậm chí còn có đạo luật chống khủng bố riêng
nhưng quan điểm của các quốc gia về vấn đề này cũng không thống nhất. Tuy
vậy, qua nghiên cứu pháp luật của các quốc gia cho thấy cũng có một số điểm
chung như sau: Thứ nhất, đều định nghĩa khủng bố từ dấu hiệu hành vi bên
cạnh các dấu hiệu khác có liên quan. Đây là điều dễ hiểu xuất phát từ quan
điểm chung coi khủng bố là một tội phạm nguy hiểm cần loại bỏ ra khỏi đời
sống xã hội – mà việc định nghĩa một tội phạm bao giờ cũng phải lấy dấu
9
hiệu hành vi làm trung tâm. Hành vi khủng bố theo quy định của pháp luật
hầu hết các nước trên thế giới là hành vi bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực. Thứ
hai, về đối tượng tác động của các loại hành vi này có thể là con người hoặc
tài sản. Thứ ba, các hành vi khủng bố bao giờ cũng gắn liền với mục đích
chính trị, tôn giáo... được thực hiện nhằm gây hoảng sợ cho người chứng kiến
từ đó ép buộc Chính phủ hoặc bộ phận dân chúng phải hành động hoặc không
hành động theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi.
1.1.1.3. Định nghĩa khủng bố theo quy định tại các điều ước quốc tế
về đấu tranh chống khủng bố
Các công ước quốc tế hiện nay chưa công ước nào đưa ra định nghĩa
chung về khủng bố một cách hoàn chỉnh. Công ước New York năm 1997
về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố là công ước đưa ra được định nghĩa
chung về khủng bố toàn diện nhất, các công ước còn lại chỉ đưa ra định
nghĩa về từng hành vi khủng bố cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của công
ước. Các công ước quốc tế khu vực hầu hết trong phạm vi điều chỉnh đều
dẫn lại những hành vi quy định tại các công ước quốc tế đa phương thuộc
khuôn khổ Liên hợp quốc về chống khủng bố.
1.1.2. Xây dựng định nghĩa chung về khủng bố
Việc xây dựng định nghĩa chung về khủng bố là vấn đề cấp thiết hiện nay
để nâng cao hiệu quả đấu tranh chống khủng bố. Định nghĩa về khủng bố đã
có nhiều học giả đưa ra, thậm chí đã được đưa ra trong Dự thảo Công ước
chung về chống khủng bố, tuy nhiên vẫn chưa có được nhiều ý kiến đồng
thuận. Để xây dựng được định nghĩa về khủng bố cần xuất phát từ những vấn
đề mang tính lý luận từ lâu được thừa nhận trong công pháp quốc tế, đó là
xem xét khủng bố dưới giác độ tội phạm hình sự có tính quốc tế.
1.1.2.1. Về hành vi
Trên thực tiễn cũng như qua nghiên cứu cho thấy hành vi khủng bố rất đa
10
dạng, bao gồm các loại hành vi như xâm hại tính mạng, thân thể con người,
tài sản hay tổng hợp các loại hành vi đó (như vụ khủng bố 11/9 tại Hoa Kỳ
năm 2001). Phần lớn hành vi khủng bố là các hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe
doạ sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, hiện nay với sự phát triển của khoa học công
nghệ hành vi khủng bố đã lan sang cả các hình thức không mang tính vũ lực
như chống phá bằng công nghệ thông tin (tin tặc); làm ô nhiễm nguồn nước,
phát tán mầm bệnh... Tội khủng bố, xét về biểu hiện của hành vi rất giống với
các tội phạm thông thường khác như tội giết người, tội huỷ hoại tài sản, bắt
cóc đòi tiền chuộc nhưng khác nhau ở các dấu hiệu như mục đích, đối tượng
tác động...
Hiện nay, theo quy định của các công ước quốc tế về chống khủng bố,
hành vi khủng bố bao gồm: các hành vi chống lại an toàn hàng không dân
dụng, chống lại an toàn hành trình hàng hải và những công trình cố định trên
thềm lục địa, tài trợ khủng bố, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người, tài
sản bằng các thiết bị gây nổ; chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc
tế bao gồm viên chức ngoại giao, bắt cóc con tin, xâm phạm an toàn sức
khoẻ, tính mạng, tài sản con người bằng thiết bị hạt nhân.
1.2.2.2. Về mục đích
Lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội khủng bố là cơ sở để có
thể khẳng định rằng, mục đích là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội khủng bố vì
nếu không có dấu hiệu mục đích thì tội khủng bố sẽ có cấu thành giống các
tội phạm khác như tội giết người, cướp biển hay huỷ hoại tài sản... Không thể
đánh đồng việc sát hại quan chức ngoại giao nhằm cướp tài sản với việc sát
hại nhằm mục đích chính trị, cũng không thể đồng nhất việc bắt cóc vì động
cơ vụ lợi (đòi tiền chuộc) với bắt cóc nhằm gây sức ép với chính phủ phải có
hành động hoặc không được có hành động nào đó.
11
1.2.2.3. Về chủ thế
Dưới góc độ pháp luật quốc tế cần phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế của chủ thể Luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là tội
phạm có tính chất quốc tế. Tội phạm có tính chất quốc tế là tội phạm hình sự
do các cá nhân thực hiện xâm phạm tới trật tự pháp lý quốc tế hoặc quốc gia và
có tính nguy hiểm trên phạm vi quốc tế mà tội khủng bố nằm trong nhóm này.
Các hành vi xâm phạm pháp luật quốc tế của quốc gia sẽ được giải quyết theo
chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm hai loại là tội ác quốc tế và các
vi phạm pháp lý thông thường khác. Chính vì lẽ đó mà chủ thể của tội phạm
khủng bố chỉ có thể là cá nhân và các tổ chức tội phạm (các băng, nhóm phạm
tội).
1.1.2.4. Về khách thể
Tội khủng bố xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội do vậy khách thể của tội
phạm này rất đa dạng bao gồm: quyền, tự do cơ bản của con người, trật tự an
toàn công cộng, hoà bình và an ninh quốc tế, mối quan hệ tốt đẹp giữa các
quốc gia vv... Tuy xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội nhưng khách thể trực
tiếp, thể hiện đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khủng
bố quốc tế chính là hoà bình và an ninh quốc tế. Để xâm hại quan hệ xã hội
này thì hành vi khủng bố phải thông qua những đối tượng tác động nhất định.
đối tượng tác động của hành vi cấu thành tội khủng bố là các mục tiêu dân sự,
cộng đồng dân cư hoặc những người không trực tiếp tham gia chiến sự,
những người được hưởng bảo hộ quốc tế. Trong thực tế có trường hợp sự tấn
công nhằm vào mục tiêu hỗn hợp, có cả quân sự và dân sự, ví dụ toà nhà có
cả cơ quan quân sự và các tổ chức thương mại hoặc tàu bay có cả các nhân
viên quân sự và dân thường thì việc cố ý mở cuộc tấn công mặc dù biết rằng
cuộc tấn công đó có khả năng gây thương vong cho thường dân hoặc gây hư
hại cho các mục tiêu dân sự là hành vi khủng bố.
12
Từ sự phân tích ở trên đây, có thể đưa ra định nghĩa: Khủng bố là hành vi
gây thiệt hại (hoặc đe doạ gây thiệt hại) nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khoẻ, tài sản của người dân và các mục tiêu dân sự khác gây hoảng loạn
trong cộng đồng dân cư nhằm đạt được mục đích chính trị (ép buộc Chính
phủ, tổ chức, cá nhân hành động hoặc không được thực hiện hành động nào
đó; vì lý do tôn giáo; tư tưởng…) do các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, trái
với pháp luật hình sự quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ VÀ PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.2.1. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa khủng bố
Khủng bố xuất hiện từ rất sớm. Những kẻ khủng bố xa xưa nhất là những
chiến binh giết dân thường trong các cuộc thánh chiến.
Chủ nghĩa khủng bố hiện đại được các nhà khoa học cho rằng bắt đầu từ
đầu thế kỷ XIX với những tổ chức như Narodnaya Volya chống lại Sa hoàng
tại Nga. Từ thế kỷ XIX đến nay, khủng bố ngày càng phát triển với đỉnh điểm
là cuộc tấn công ngày 11/9/2001 vào Hoa Kỳ.
Như vậy, từ một tội phạm quốc gia, khủng bố hiện nay là tội phạm có tính
chất quốc tế - nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế.
1.2.2. Sự phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố
1.2.2.1. Khái niệm pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố là một bộ phận của Luật hình sự
quốc tế, bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý điều chỉnh các
vấn đề phát sinh trong hoạt động hợp tác đấu tranh chống khủng bố của các
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay mới chỉ là tập hợp các
nguyên tắc, quy phạm rất đa dạng, nhiều cấp bậc điều chỉnh các vấn đề
phát sinh trong hoạt động hợp tác đấu tranh chống khủng bố của các
13
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế và đang trong quá trình
hoàn thiện.
1.2.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế về đấu
tranh chống khủng bố
Lịch sử phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố hình
thành và phát triển gắn liền với tiến trình phát triển của khủng bố trên phạm
vi toàn thế giới. Bắt đầu từ những tập quán về dẫn độ tội phạm hình thành
trong quan hệ giữa các quốc gia về tương trợ tư pháp, dần dần những nỗ lực
nhằm pháp điển hóa pháp luật quốc tế về chống khủng bố đã được tiến hành
trên quy mô đa phương và toàn cầu với 13 điều ước quốc tế đa phương thuộc
khuôn khổ Liên hợp quốc, 8 điều ước quốc tế khu vực cùng rất nhiều các điều
ước quốc tế song phương.
Như vậy, hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau
về khủng bố và chưa có định nghĩa về khủng bố nào đưa ra nhận được sự
đồng thuận của tất cả các quốc gia. Vấn đề phân biệt giữa khủng bố và các
tội phạm khác, vấn đề chủ thể của hành vi khủng bố… vẫn là chủ đề tranh
cãi giữa các quốc gia. Mặc dù, thông qua các biểu hiện của hành vi khủng
bố trên thực tế cũng như qua lý luận chung của pháp luật hình sự quốc tế
không khó khăn để đưa ra định nghĩa khách quan về khủng bố, tuy nhiên
các quốc gia sẽ chỉ đạt được định nghĩa thống nhất khi có sự tách bạch
giữa các vấn đề chính trị và pháp lý. Bởi lợi ích chính trị là một trong
những rào cản của một định nghĩa chung về khủng bố. Thiết nghĩ, để đạt
được định nghĩa thống nhất, các quốc gia cần đặt lợi ích chung của nhân
loại, mục tiêu bảo vệ con người lên trên hết.
14
CHƯƠNG II
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
2.1. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Có thể phân chia nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về đấu tranh
chống khủng bố làm 2 nhóm đó là nhóm các nguyên tắc chung và nhóm
các nguyên tắc đặc thù. Nhóm nguyên tắc chung gồm có các nguyên tắc:
- Bình đẳng chủ quyền của các quốc gia
- Không sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực
- Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
- Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế
- Dân tộc tự quyết
- Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
Nhóm các nguyên tắc đặc thù bao gồm:
- Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không
được xâm phạm chủ quyền quốc gia khác.
- Pháp luật chống khủng bố và các biện pháp chống khủng bố không
được vi phạm các quyền con người cơ bản.
- Mọi hành vi khủng bố quốc tế đều phải bị ngăn chặn và trừng trị,
không được viện dẫn lý do chính trị để từ chối hợp tác chống khủng bố.
Trong phạm vi luận văn chỉ phân tích nhóm nguyên tắc đặc thù.
2.2. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÁC CÔNG ƯỚC
Các hành vi khủng bố thuộc phạm vi áp dụng của các công ước quốc tế
về chống khủng bố, bao gồm:
- Hành vi chống lại an toàn hàng không dân dụng;
- Hành vi chống lại an toàn hàng hải;
15
- Hành vi chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm
viên chức ngoại giao;
- Hành vi bắt cóc con tin;
- Hành vi khủng bố bằng vũ khí hạt nhân;
- Hành vi khủng bố bằng bom;
- Hành vi tài trợ khủng bố;
Nhìn chung, các công ước đều chỉ áp dụng đối với các hành vi tấn công
vào mục tiêu dân sự, ví dụ: tàu biển, tàu bay dân sự, còn các loại tàu ngầm,
tàu thuộc lực lượng quân đội, hải quan, cảnh sát không thuộc phạm vi áp
dụng của các công ước.
2.3. XÁC ĐỊNH QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA THEO
QUY ĐỊNH TẠI CÁC CÔNG ƯỚC
Theo quy định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố, quyền tài
phán được trao cho quốc gia nào đó phải dựa trên 1 trong 5 căn cứ, đó là:
quyền tài phán theo lãnh thổ, quyền tài phán theo quốc tịch của người bị
tình nghi là phạm tội, quyền tài phán theo quốc tịch của nạn nhân, quyền
tài phán bảo vệ và quyền tài phán phổ quát
2.4. NGHĨA VỤ CỦA CÁC QUỐC GIA TRONG ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI KHỦNG BỐ THEO QUY ĐỊNH TẠI CÁC
CÔNG ƯỚC
2.4.1. Nghĩa vụ lập pháp
Đây là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên công ước. Khi là thành
viên của các công ước quốc tế về chống khủng bố, để giúp cho việc đấu
tranh có hiệu quả chống lại tội phạm này và cũng là một trong các hình
thức thực hiện công ước, quốc gia phải có nghĩa vụ nội luật hóa các quy
định của công ước mà quan trọng nhất là phải tội phạm hóa các hành vi
được nêu ra trong ước.
16
Bên cạnh việc tội phạm hóa các hành vi được nêu trong công ước, các
quốc gia còn phải nội luật hóa các quy định có tính chất phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm được nêu ra tại các công ước và các quy định giúp cho việc
dễ dàng hợp tác giữa các quốc gia.
2.4.2. Nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia
2.4.2.1. Hợp tác ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm
Hợp tác nhằm ngăn chặn tội phạm là biện pháp được thực hiện trước
khi tội phạm xảy ra hoặc trong khi đang diễn ra hành vi phạm tội nhằm
làm giảm bớt hậu quả của tội phạm. Để ngăn chặn tội phạm, các công ước
quy định các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau nhằm phát hiện
và ngăn chặn mọi hành vi chuẩn bị trên lãnh thổ của mình nhằm thực hiện
tội phạm trong và ngoài nước.
Các biện pháp hợp tác được quy định trong các công ước là trao đổi
thông tin, phối hợp với nhau để tiến hành các biện pháp phù hợp, ví dụ:
kiểm tra người, tài sản tại sân bay, cửa khẩu…
2.4.2.2. Tương trợ tư pháp về hình sự
Các công ước quốc tế về chống khủng bố quy định về nghĩa vụ của các
quốc gia trong việc tương trợ tư pháp về hình sự. Cụ thể như sau:
- Trao đổi thông tin, tài liệu về tội phạm;
- Bắt giữ tội phạm;
- Tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội phạm;
- Dẫn độ tội phạm.
2.5. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
Trước sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố, sự gia tăng các hành vi khủng
bố cùng mức độ tàn ác của nó thì các quy định của pháp luật quốc tế hiện hành
đang bộc lộ rõ những bất cập, tập trung chủ yếu ở các khía cạnh sau:
17
Thứ nhất, pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay được quy định tại
nhiều công ước, mỗi công ước có phạm vi điều chỉnh là các hành vi phạm tội
khác nhau (mà việc thực hiện tội phạm đó được coi là biểu hiện của khủng bố
quốc tế) nên gây khó khăn cho việc nghiên cứu cũng như thực thi.
Thứ hai, một số quy định tại các công ước không thống nhất.
Thứ ba, tuy có tới hơn mười công ước quốc tế về chống khủng bố trong
khuôn khổ Liên hợp quốc tuy nhiên chưa công ước nào đưa ra được định
nghĩa chung về khủng bố.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật quốc tế về chống khủng bố hiện nay
được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, tuy
nhiên bên cạnh đó cũng có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc này
là tư tưởng chính trị - pháp lý định hướng toàn bộ hoạt động đấu tranh
chống khủng bố trên phạm vi quốc gia cũng như toàn thế giới. Pháp luật
quốc tế về chống khủng bố hiện nay cũng đã có những quy định cụ thể về
các vấn đề như: xác định quyền tài phán của các quốc gia đối với cá nhân
phạm tội, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tội phạm hoá các hành vi
quy định tại các công ước, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tao đổi
thông tin về tội phạm, dẫn độ… Tuy nhiên, các quy định này hiện đang
nằm rải rác ở các văn bản khác nhau tạo ra việc không thống nhất, gây khó
khăn cho việc áp dụng. Đây chính là điểm hạn chế lớn nhất của pháp luật
quốc tế về chống khủng bố hiện nay cần sớm được hoàn thiện trong tương
lai nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống tội phạm này.
18
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
3.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ TẠI VIỆT NAM
Khủng bố hiện nay là một trong những nguy cơ đe dọa nghiêm trọng hòa
bình và an ninh quốc tế. Nhằm chung tay cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh
chống lại tội phạm này, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước quốc tế
về chống khủng bố, đồng thời nghiên cứu và thực hiện khuyến nghị của các
tổ chức quốc tế về vấn đề này.
Cụ thể, Việt Nam là thành viên của 8/13 điều ước quốc tế đa phương
thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về chống khủng bố và đang nghiên cứu gia
nhập các công ước còn lại; là thành viên của Công ước ASEAN về chống
khủng bố; ngoài ra chúng ta còn ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương
về vấn đề này.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định quan trọng nhất nhằm
đấu tranh trừng trị tội khủng bố nằm trong Bộ luật hình sự.
Bên cạnh Bộ luật hình sự, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý giúp cho việc phòng ngừa, phát hiện và hợp tác quốc tế trong đấu
tranh chống khủng bố. Trước tiên, phải kể đến đó là các quy định về quản
lý và kiểm soát vũ khí, chất nổ, chất độc hóa học, chất phóng xạ… đây là
những công cụ, phương tiện thường được sử dụng trong các vụ khủng bố.
Bên cạnh các quy định về quản lý vật liệu nổ, chúng ta cũng ban hành các
quy định về quản lý biên giới, chống lại các hoạt động vận chuyển vũ khí,
chất cháy, chất nổ qua biên giới, vượt biên và kiểm soát các đối tượng xuất
nhập cảnh…
19
3.2. TỘI KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN
KHỦNG BỐ THEO QUY ĐỊNH TẠI BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống khủng bố mà hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng, bởi
việc ghi nhận một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó vào luật hình sự
đồng nghĩa với thái độ nghiêm khắc và quyết tâm cao nhất của nhà nước
trong việc loại trừ hành vi đó ra khỏi đời sống xã hội.
3.2.1. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại
Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999
Ở Việt Nam, tội khủng bố lần đầu tiên được ghi nhận tại Bộ luật hình sự
năm 1985, nằm trong Chương I – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia và
được xếp vào mục A – Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc
gia. Bên cạnh tội khủng bố, Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định các tội
phạm khác có liên quan như tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 87); tội
phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 94);
tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ,
chất cháy, chất độc, chất phóng xạ (Điều 96), đây là các tội phạm được ghi
nhận tại các công ước quốc tế về chống khủng bố và yêu cầu các quốc gia
thành viên phải nội luật hóa.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ra đời thay thế Bộ luật năm 1985
vẫn xếp khủng bố vào Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, là một
trong các tội phạm nghiêm trọng nhất tại phần Các tội phạm. Về cơ bản
quy định này không có gì khác so với Bộ luật hình sự năm 1985, tội khủng
bố theo quy định tại Bộ luật năm 1999 là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của cán bộ, công chức hoặc
công dân nhằm chống chính quyền nhân dân. Khách thể của tội phạm vẫn
là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của con người và dấu hiệu mục đích
20
là bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, so với quy định của
Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật năm 1999 có mở rộng phạm vi khách
thể hơn, không chỉ là tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của công nhân
viên chức nhà nước, người nước ngoài mà còn bao gồm cả công dân Việt
Nam nói chung.
Tuy chưa khắc phục được nhiều những hạn chế tại Bộ luật năm 1985
nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng đã bổ sung nhiều quy định góp phần
đấu tranh chống khủng bố theo quy định tại các công ước quốc tế về chống
khủng bố, đó là tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); Tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230)…
3.2.2. Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan theo quy định tại
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung)
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 được
ban hành ngày 29/6/2009 là bước tiến lớn trong quy định về khủng bố và
các tội phạm liên quan. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 đã
có những sửa đổi cơ bản về tội khủng bố và các tội phạm liên quan theo
hướng khách quan hơn, phù hợp với xu thế chung của luật hình sự các nước
trên thế giới đồng thời đã tội phạm hóa một số hành vi khác liên quan đến
khủng bố theo yêu cầu của các công ước quốc tế về chống khủng bố mà
Việt Nam là thành viên.
Về tội khủng bố, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) quy định 2 tội: Tội
khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân nằm trong Chương XI – Các
tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội khủng bố nằm trong Chương XIX –
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Cụ thể hơn, Điều
84 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội khủng bố có nội dung không
thay đổi, Luật sửa đổi chỉ bổ sung tên Điều luật bằng cách thêm cụm từ
21
“nhằm chống chính quyền nhân dân”. Việc thêm cụm từ này nhằm phân biệt
với tội khủng bố mới được tội phạm hóa tại Điều 230a. Tội khủng bố quy
định tại Điều 230a là quy định hoàn toàn mới so với các văn bản pháp luật
hình sự trước đây, phù hợp với xu hướng chung của luật hình sự các nước
trên thế giới.
Bên cạnh những bổ sung về tội khủng bố đã nêu trên, Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi) còn tội phạm hóa một số hành vi liên quan đến khủng
bố theo yêu cầu tại các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đó là
Điều 230b: Tội tài trợ khủng bố; Điều 251: Tội rửa tiền. Tài trợ khủng bố
theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi) là hành vi huy động,
hỗ trợ tiền, tài sản dưới mọi hình thức cho tổ chức, cá nhân khủng bố.
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI KHỦNG BỐ VÀ CÁC TỘI PHẠM LIÊN QUAN
Quy định tại Bộ luật hình sự về tội phạm này vẫn còn một số bất cập sau đây:
Thứ nhất, tội khủng bố tại Điều 84 Bộ luật hình sự quy định “người nào
nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ,
công chức hoặc công dân” và “khủng bố người nước ngoài nhằm…”. Như
vậy, đối tượng tác động của hành vi ở đây là cán bộ, hoặc công chức hoặc
công dân hoặc người nước ngoài. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi
thì chỉ cần quy định công dân và người nước ngoài đã đủ bao gồm hết tất cả
các đối tượng trên.
Thứ hai, ngay trong Bộ luật hình sự còn tồn tại hai quy định khác nhau
về tội khủng bố: Điều 84 - Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
và Điều 230a: Tội khủng bố. Hai tội phạm này có cấu thành rất khác nhau
thể hiện chính sách xử lý riêng biệt của Nhà nước ta đối với hai loại hành vi
phạm tội này gây khó khăn cho việc xử lý và hợp tác quốc tế đấu tranh
chống khủng bố.
22
Theo quan điểm của chúng tôi, để giải quyết vấn đề này cần bỏ tội khủng
bố nhằm chống chính quyền nhân dân tại Chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân sẽ bổ sung
và xử về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật
hình sự năm 1999).
Hiện nay, tội này chỉ xét xử người có hành vi hoạt động thành lập hoặc
tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Thiết nghĩ, từ “hoạt
động” ở Điều luật này cần được giải thích mở rộng hơn chứ không chỉ là
“hoạt động thành lập hay “tham gia tổ chức”.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới và quy
định tại các công ước quốc tế về chống khủng bố (ví dụ Công ước New
York 1999 về tài trợ khủng bố, Công ước New York 1997 về chống khủng
bố bằng bom…) thì hành vi khủng bố được thực hiện nhằm ba mục đích:
Một là, gây hoảng loạn trong công chúng; Hai là, ép buộc chính quyền làm
hoặc không làm một việc nhất định theo yêu cầu của bọn khủng bố; Ba là,
ép buộc tổ chức quốc tế làm hoặc không làm công việc nhất định theo yêu
cầu của những kẻ khủng bố. Tuy nhiên, tội khủng bố theo quy định tại
Điều 230a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999
mới chỉ ghi nhận một mục đích của hành vi khủng bố, đó là hành vi nhằm
gây hoảng loạn trong công chúng. Chính vì thế, thiết nghĩ Bộ luật hình sự
cần tiếp tục sửa đổi theo hướng ghi nhận các mục đích trên vào tội khủng
bố quy định tại Điều 230a. Nếu giữ nguyên quy định như hiện nay có
nghĩa là hành vi có mục đích gây hoảng loạn trong công chúng thì sẽ xử lý
về tội khủng bố còn hành vi có một trong 2 mục đích còn lại sẽ xử về các
tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều này không phù hợp với pháp luật
quốc tế, pháp luật các nước trên thế giới đồng thời chưa ghi nhận hết các
dấu hiệu cấu thành tội khủng bố tại Điều 230a.
23
Thứ tư, về các tội liên quan đến khủng bố, Bộ luật hình sự Việt Nam đã
ghi nhận tương đối đầy đủ các hành vi theo yêu cầu của các công ước quốc
tế về chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, Việt Nam
cũng ghi nhận các hành vi khủng bố thực tế đã diễn ra trên thế giới như hành
vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), hành vi phát tán
vi-rút, chương trình tin học có tính năng gây thiệt hại cho mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều 224)… Tuy nhiên, các
điều luật này được sắp xếp chưa hợp lý, chưa đúng với tính chất của hành
vi. Ví dụ, hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186) là
hành vi đặc biệt nguy hiểm cho cộng đồng lại xếp vào các tội phạm về môi
trường. Hành vi này nên xếp vào Chương các tội xâm phạm an toàn công
cộng như các tội phạm cùng tính chất khác như tội khủng bố, tội phát tán
chương trình vi-rút máy tính, chiếm đoạt tàu bay…
Thứ năm, việc quy định tội khủng bố và các tội liên quan tại Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện nay làm xuất hiện vấn đề sau:
Khi xuất hiện một hành vi ví dụ như chiếm đoạt tàu bay, tàu biển, khi
nào thì bị truy tố, xét xử về tội khủng bố (Điều 230a Bộ luật hình sự), khi
nào bị truy tố xét xử về các tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ (Điều 221 Bộ
luật hình sự). Đây là vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể.
Như vậy, nhìn chung pháp luật hình sự Việt Nam đang ngày càng hoàn
thiên và tương thích hơn với pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia khác
trên thế giới cũng như ghi nhận một cách khách quan biểu hiện của hành vi
khủng bố trên thực tế. Điều này giúp nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh
chống khủng bố giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Tuy nhiên, các quy
định về tội khủng bố cũng như các tội phạm liên quan trong luật hình sự
Việt Nam còn một số bất cập như trên đã trình bày, điều này cần sớm được
khác phục để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động hợp tác đấu
tranh chống khủng bố.
24
KẾT LUẬN
Khủng bố hiện nay là một trong những nguy cơ đe doạ lớn tới hoà bình
và an ninh quốc tế. Do vậy, đấu tranh chống khủng bố là hành động cấp thiết
và lâu dài trên nhiều phương diện, trong đó pháp luật là công cụ chủ yếu.
Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất hiện nay trong việc hoàn thiện pháp luật
quốc tế về đấu tranh chống khủng bố chính là Công ước chung về chống
khủng bố với một định nghĩa toàn diện về tội phạm này. Hiện nay trên thế
giới tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về khủng bố và chưa có định
nghĩa về khủng bố nào đưa ra nhận được sự đồng thuận của tất cả các quốc
gia. Vấn đề phân biệt giữa khủng bố và các tội phạm khác, vấn đề chủ thể
của hành vi khủng bố… vẫn là chủ đề tranh cãi giữa các quốc gia. Mặc dù,
thông qua các biểu hiện của hành vi khủng bố trên thực tế cũng như qua lý
luận chung của pháp luật hình sự quốc tế không khó khăn để đưa ra định
nghĩa khách quan về khủng bố, tuy nhiên các quốc gia sẽ chỉ đạt được định
nghĩa thống nhất khi có sự tách bạch giữa các vấn đề chính trị và pháp lý.
Bởi lợi ích chính trị là một trong những rào cản của một định nghĩa chung
về khủng bố. Thiết nghĩ, để đạt được định nghĩa thống nhất, các quốc gia
cần đặt lợi ích chung của nhân loại, mục tiêu bảo vệ con người lên trên hết.
Pháp luật quốc tế về chống khủng bố nhìn chung được xây dựng trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, nhưng bên cạnh đó
cũng có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc này là tư tưởng chính
trị-pháp lý định hướng cho toàn bộ hoạt động đấu tranh chống khủng bố ở
mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố
hiện nay quy định nghĩa vụ của các quốc gia phải tội phạm hoá các hành vi
được nêu trong công ước, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia và các biện
pháp phòng ngừa hành vi khủng bố. Pháp luật quốc tế về chống khủng bố
hiện nay cũng quy định việc xác định quyền tài phán của quốc gia đối với
25
những cá nhân phạm tội khủng bố với các căn cứ như: lãnh thổ, quốc tịch,
của người bị tình nghi, quyền tài phán phổ quát… Thế nhưng, các quy định
này hiện nằm rải rác ở nhiều điều ước khác nhau vì cộng đồng quốc tế
chưa xây dựng được công ước chung về chống khủng bố. Hiện trạng này
đã gây ra những khó khăn nhất định cho cuộc đấu tranh chống khủng bố ở
mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Thiết nghĩ, đây
chính là hạn chế của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố cần
được khắc phục trong thời gian tới.
Luận văn này trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm hiện nay trên thế
giới, nghiên cứu pháp luật các nước và pháp luật quốc tế về chống khủng
bố với mục đích tìm ra được một định nghĩa về khủng bố khách quan nhất,
được nhiều người chấp nhận nhất. Từ đó hướng tới việc hoàn thiện Bộ luật
hình sự Việt Nam về chống khủng bố. Bởi vì, Bộ luật hình sự là Bộ luật
duy nhất của Việt Nam ghi nhận về tội phạm về hình phạt, thể hiện quan
điểm và thái độ nghiêm khắc nhất của Nhà nước ta đối với hành vi phạm
tội này.
Luận văn hy vọng sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc trả lời câu hỏi
lớn gây tranh cãi hiện nay trên thế giới: Khủng bố là gì? Đồng thời qua đó
có thể đóng góp ý kiến tích cực về mặt cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho
việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam trong tương lai về vấn đề này.