HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỒ THỊ VÂN ANH PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG 2. PGS.TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG HÀ NỘI - 2017
168
Embed
PHÁP LUẬ Ừ Ế THỜ Ỳ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄ Ự VẬ ỤNG …hcma.vn/Uploads/2017/6/4/Luan an Van Anh.pdf · quá trình phát triển của chế độ xã hội đó.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ THỊ VÂN ANH
PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG 2. PGS.TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Hồ Thị Vân Anh
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 9
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 9 1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài 18 1.3. Đánh giá chung kết quả các công trình nghiên cứu và những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu của luận án 22
Chương 2: NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN 28
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và các tiền đề của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn 28
2.2. Khái niệm và nội dung pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn 47 2.3. Các giá trị trong nội dung pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn 64
Chương 3: VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 73
3.1. Khái niệm và các nguyên tắc vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế 73
3.2. Thực trạng vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt Nam từ năm 1945 đến nay 87
3.3. Đánh giá thực trạng quá trình vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam 102
Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM 108
4.1. Yêu cầu đảm bảo việc tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam 108
4.2. Giải pháp tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam 118
KẾT LUẬN 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 153 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
CEDAW : Convention on the Elimination of all forms
of Discrimination against Women
(Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ tất cả
các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ)
ĐTLL : Đại Thanh luật lệ
HVLL : Hoàng Việt luật lệ
KHXH : Khoa học xã hội
Nxb : Nhà xuất bản
PLTK : Pháp luật thừa kế
QTHL : Quốc triều hình luật
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: So sánh các chương trong Quốc triều hình luật và Luật nhà Đường 41
Bảng 2.2: So sánh số lượng điều luật Hoàng Việt luật lệ và Đại Thanh luật lệ 44
Bảng 3.1: Đánh giá tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với nền
văn hóa Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh 112
Bảng 3.2: Đánh giá tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với nền
văn hóa Việt Nam ở Thành phố Hà Nội 112
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kì chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật, pháp luật thừa kế phản ánh phần nào bản chất
chế độ xã hội, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn lịch sử trong
quá trình phát triển của chế độ xã hội đó.
Dựa vào những ghi chép của các sử gia trong các tài liệu về lịch sử cũng như
sự suy đoán pháp lý có thể thấy được pháp luật thừa kế hình thành và phát triển
cùng với sự hình thành Nhà nước Việt Nam cổ đại, từ thời Hùng Vương nước ta đã
có pháp luật thừa kế, và đến thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã đạt được những thành
tựu lập pháp nhất định. Những thành tựu này đến bây giờ vẫn có ý nghĩa trong việc
nghiên cứu về mặt lý luận và gợi mở một số vấn đề vận dụng về mặt thực tiễn để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 đã
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào ngày 01/01/2017. Tuy nhiên, việc tiếp
tục hoàn thiện các chế định về thừa kế vẫn được đặt ra trong bối cảnh xây dựng xã
hội dân sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Thừa kế là chế định đặc biệt vì nó liên quan nhiều đến văn hóa - văn hóa tộc
người, đòi hỏi các nhà lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp khi xây dựng những chế
định này cũng như khi vận dụng pháp luật thừa kế đều phải có sự am hiểu về phong tục
tập quán của dân tộc, về văn hóa dân tộc mà thật ra nội dung này được tập trung ở cổ
luật của dân tộc. Thực tế áp dụng pháp luật cho thấy vẫn còn những bất cập giữa quy
định của pháp luật về thừa kế và thực tiễn thi hành, mà một trong những lý do của thực
trạng này là vẫn còn khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn do một số quy định của
pháp luật thừa kế chưa thực sự phù hợp với phong tục tập quán, thói quen ứng xử mang
tính chất cộng đồng của người Việt. Nghiên cứu các chế định thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn ở Việt Nam còn là để hiểu biết về những phong tục tập quán của người
Việt tạo tiền đề cho việc vận dụng các giá trị cổ luật để hoàn thiện pháp luật thừa kế ở
Việt Nam hiện nay, phần nào giải quyết bất cập nêu trên. Việc tìm hiểu tục lệ của dân
tộc thông qua việc nghiên cứu thừa kế trong cổ luật thiết nghĩ là hết sức cần thiết trong
2
thời buổi xã hội đang trải qua một “cơn sốt vỡ da” của nền kinh tế thị trường, những
giá trị truyền thống đã và đang ít nhiều bị mai một, lãng quên.
Có thể nói, những giá trị cổ luật thừa kế này không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch
sử, về truyền thống, mang yếu tố dân tộc mà ít nhiều còn có ý nghĩa về xây dựng
pháp luật thừa kế hiện hành. Những giá trị này không mất đi mà nó đã, đang và sẽ
đồng hành cùng với sự phát triển của đời sống dân sự hiện đại; những yêu cầu và
giải pháp tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn có ý
nghĩa gợi mở cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay cũng như cho
công tác thực thi pháp luật.
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 5 năm 2005 về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định
hướng đến 2020” đã khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “phát huy di
sản văn hóa dân tộc” [15]...
Vì vậy, nghiên cứu về “Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và
sự vận dụng trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam” là cần thiết, có cơ
sở khoa học và phù hợp với mã ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung, giá trị của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn và thực trạng vận dụng các giá trị của hệ thống pháp luật này qua các
thời kỳ lịch sử ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, luận án chỉ ra những hạn chế, bất
cập của quá trình vận dụng này, từ đó đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp
tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong việc hoàn
thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu chế định thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn từ đó chỉ ra các
giá trị vận dụng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ sau
cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
3
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng các giá trị pháp luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay.
- Phân tích, xác định rõ các yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục vận
dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa
kế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn từ trước đến nay đã được nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Luận án nghiên cứu đề tài này dưới góc độ lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật; không nghiên cứu dưới góc độ luật nội dung chuyên
ngành (luật dân sự). Vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu chỉ rõ giá trị trong nội dung
của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn; cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng
các giá trị này từ năm 1945 đến nay; chỉ ra những bất cập của pháp luật thừa kế hiện
hành nhất là những bất cập của quá trình vận dụng. Trên cơ sở đó xác định rõ các yêu
cầu và đề xuất những giải pháp tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn ở Việt Nam
và nghiên cứu sự vận dụng các giá trị này trong hoàn thiện pháp luật thừa kế trong
phạm vi không gian là ở Việt Nam.
* Về thời gian nghiên cứu
- Đề tài tập trung vào pháp luật thừa kế của các thời kỳ lịch sử: Thời kỳ Lê
sơ (từ năm 1428 - 1527) và thời kỳ nhà Nguyễn giai đoạn độc lập tự chủ (từ năm
1802 - 1858). Cụ thể như sau:
+ Thời kỳ Lê sơ: Luận án nghiên cứu hệ thống pháp luật thừa kế của thời kỳ
này trong khoảng thời gian bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên
ngôi vua, lập ra triều đại mới vào năm 1428. Và kết thúc năm 1527 khi quyền thần
Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoành lập ra nhà Mạc.
4
+ Thời kỳ nhà Nguyễn giai đoạn độc lập tự chủ: Luận án nghiên cứu hệ
thống pháp luật thừa kế của thời kỳ này trong khoảng thời gian bắt đầu từ năm 1802
khi vua Gia Long lên ngôi đến năm 1858 là thời điểm thực dân Pháp bắt đầu sử
dụng vũ lực xâm chiếm Việt Nam. Pháp luật thừa kế của giai đoạn độc lập này trải
qua quá trình xây dựng pháp luật của 4 đời vua (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị
và Tự Đức).
- Thời gian nghiên cứu, đánh giá thực trạng vận dụng pháp luật thừa kế thời
kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện và xây dựng pháp luật thừa kế ở Việt Nam
được luận án khảo sát từ năm 1945 đến nay.
Ngoài thời gian nghiên cứu nêu trên, trong một số nội dung đề tài còn mở
rộng nghiên cứu thêm về các khoảng thời gian lịch sử khác để có cứ liệu và số liệu
trong quá trình đánh giá, so sánh, minh họa cho các luận cứ khoa học của luận án.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; luận án đã sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là hai phương pháp được sử dụng
chủ yếu trong hầu hết các nội dung của luận án. Cụ thể, tại chương 1, phương pháp
phân tích dùng để nghiên cứu nguồn tài liệu của các tác giả trong nước và nước
ngoài về các công trình liên quan đến luận án. Dựa trên kết quả phân tích này, luận
án tiếp tục sử dụng phương pháp tổng hợp để đánh giá kết quả các công trình
nghiên cứu và chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.
Tại chương 2, phương pháp phân tích được sử dụng để nghiên cứu hoàn cảnh
lịch sử, các tiền đề của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn; phương pháp
phân tích tiếp tục được sử dụng để nghiên cứu nội dung các quy định của pháp luật
thừa kế thời kỳ này. Trên cơ sở phân tích các vấn đề liên quan, luận án tiếp tục sử
dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra khái niệm của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà
Lê, nhà Nguyễn; sử dụng phương pháp tổng hợp để đánh giá những giá trị của pháp
luật thừa kế thời kỳ này qua các nội dung nghiên cứu.
Tại chương 3, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp tiếp tục
được sử dụng để đưa ra các khái niệm và nguyên tắc vận dụng pháp luật thừa kế
5
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Phương
pháp phân tích được sử dụng để nghiên cứu quá trình vận dụng pháp luật thừa kế
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn từ năm 1945 đến nay. Phương pháp tổng hợp được sử
dụng để đánh giá quá trình vận dụng, những bất cập, nguyên nhân những bất cập
của quá trình vận dụng này.
Tại chương 4, phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để nghiên
cứu những yêu cầu và giải pháp tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử cụ thể: Nghiên cứu pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn là nghiên cứu hệ thống pháp luật đã qua trong lịch sử. Muốn đảm bảo
tính khách quan khi nghiên cứu, đánh giá những giá trị của pháp luật thừa kế thời
kỳ này làm cơ sở để vận dụng pháp luật thì phải đặt nó trong mối liên hệ với điều
kiện kinh tế - xã hội của thời đại ấy, tương ứng với phương thức sản xuất và những
hình thức cơ bản của sự phát triển cùng những mâu thuẫn xã hội của thời đại đó.
Không đưa ra những yêu cầu quá xa, vượt lên những điều kiện lịch sử và thời đại
mà nó ra đời. Đồng thời, trên cơ sở quan điểm phát triển, cần phải hiểu đúng quy
luật của sự tiếp biến văn hóa. Phải nắm vững quan điểm biện chứng giữa cái nội
sinh và cái ngoại sinh trong giao lưu văn hóa và những biểu hiện thực tế của chúng
trong lịch sử - văn hóa - pháp luật Việt Nam. Có vậy, mới có thể đánh giá khách
quan cả mặt tích cực và những hạn chế của nền pháp luật thừa kế trong hai thời kỳ
lịch sử này. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện luận án
nhưng tập trung chủ yếu ở chương 2 khi nghiên cứu nội dung và đánh giá các giá trị
trong nội dung pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn; sử dụng trong
chương 3 để nghiên cứu thực trạng vận dụng và đánh giá quá trình vận dụng pháp
luật thừa kế thời kỳ này trong pháp luật thừa kế Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Phương pháp thống kê, so sánh
Phương pháp này được sử dụng tại chương 1 để thống kê, tổng hợp các công
trình nghiên cứu liên quan đến luận án của các tác giả trong nước và nước ngoài.
Qua đó đánh giá được tổng quan tình hình nghiên cứu và chỉ ra những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu của luận án. Tại chương 3, luận án sử dụng phương pháp này để
tập hợp các quy định của pháp luật về thừa kế qua các giai đoạn lịch sử từ năm 1945
6
đến nay, qua đó phân tích được thực trạng vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ này
trong các giai đoạn lịch sử. Phương pháp thống kê được sử dụng để hệ thống các
giải pháp thành các nhóm giải pháp về lý luận, về hoàn thiện và thực hiện pháp luật
tại chương 4 của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu thông qua các tài liệu thứ cấp.
+ Luận án không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chế định thừa kế trong hai
bộ cổ luật: Quốc triều hình luật (QTHL) và Hoàng Việt luật lệ (HVLL) mà luận án
còn tiếp tục nghiên cứu chế định này ở các Chỉ, Dụ, các văn bản luật và văn bản
lịch sử ban hành dưới thời các triều vua khác trong cùng một giai đoạn lịch sử để bổ
khuyết cho hai bộ luật chính. Cụ thể:
. Đối với pháp luật triều Lê: Để bổ khuyết cho QTHL luận án nghiên cứu
thêm một số nội dung liên quan trong Hồng Đức thiện chính thư, Đại Việt sử ký
toàn thư, Thiên Nam dư hạ tập, Lịch triều hiến chương loại chí,...
. Đối với pháp luật triều Nguyễn: Ngoài HVLL luận án còn chú trọng đến các
Luật, các Chỉ, Dụ bổ sung trong các năm dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức,
trong đó đặc biệt chú ý đến bộ Quốc triều tân luật ban hành dưới triều Minh Mạng.
Đối với các Chỉ, Dụ ban hành dưới triều Nguyễn đã được Bộ Hình sưu tập và
sắp xếp thành 5 tập và về sau được Deloustal sắp xếp lại theo từng loại, theo thứ tự
các điều khoản trong bộ luật Gia Long và dịch ra tiếng Pháp để tiện sử dụng, đặt
dưới tiêu đề là Reccueil des principales ordonnances royales édictées depuis la
promulgation du code Annamite et en vigueur au Tonkin (Tập các Chỉ dụ chính yếu
được ban hành từ khi ban bố bộ HVLL và vẫn còn thi hành ở Bắc Kỳ), gồm tất cả
251 đạo chỉ dụ (trong đó đặc biệt chú ý đến một số Chỉ, Dụ như chỉ dụ năm Minh
Mạng thứ 10 (1829), chỉ dụ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), chỉ dụ năm Tự Đức thứ 8
(1855)... Đây là các chỉ dụ liên quan đến tài sản của người vô tự, thừa kế tài sản của
người con gái đối với tài sản của cha mẹ, của người vợ góa đối với chồng...), 560
quyển Đại Nam thực lục, 25 quyển Minh Mạng chính yếu, 3.171 tập Châu Bản...
nhưng quan trọng nhất là các Chỉ dụ được Nội các tập hợp lại trong bộ Khâm định
Đại Nam Hội điển sự lệ gồm 15 tập. Các nguồn tài liệu này nguyên bản dưới dạng
chữ Hán - Nôm, đa số bản gốc đều đã bị thất lạc hoặc tản mát, vì vậy tài liệu được
tác giả sử dụng chủ yếu là các bản dịch, các tài liệu thứ cấp.
7
Đối với một số nội dung không còn lưu trữ văn bản tài liệu trực tiếp, luận án
phải nghiên cứu thông qua các tài liệu thứ cấp là các tác phẩm của các tác giả thời
kỳ trước nghiên cứu về nội dung đó, như các công trình sách của GS. Vũ Văn Mẫu,
Nguyễn Mạnh Bách, Phan Huy Chú, Trương Quang Quýnh,... Phương pháp này
được sử dụng rải rác trong toàn bộ nội dung nghiên cứu từ chương 1, chương 2,
chương 3 và chương 4 của luận án.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Một là, luận án xác định được các tiền đề của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn; xây dựng được khái niệm về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn. Trên cơ sở đó đánh giá được các giá trị của cổ luật riêng về chế định thừa kế.
Hai là, luận án chỉ rõ tính hợp lý và cần thiết của việc tiếp tục vận dụng
những giá trị của pháp luật thời kỳ này vào hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành
bởi cách tiếp cận lợi ích chính đáng quyền con người trong lĩnh vực thừa kế đã có
ngay chính trong các quy định của cổ luật thừa kế thời kỳ này.
Ba là, luận giải cơ sở lý luận về vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay. Luận án tiếp cận vấn đề
này dưới góc độ phân tích khái niệm, các nguyên tắc vận dụng.
Bốn là, luận án khái quát, phân tích và đánh giá được thực trạng vận dụng
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong xây dựng và hoàn thiện pháp
luật thừa kế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến nay.
Năm là, luận án chỉ rõ các yêu cầu của việc tiếp tục vận dụng và đề xuất một
hệ thống các giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về lịch sử nhà nước
và pháp luật thông qua nghiên cứu cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Kết
quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng cơ sở lý luận và đặt nền tảng khoa
học cho việc tiếp tục vận dụng cổ luật thừa kế trong hoàn thiện pháp luật thừa kế
hiện nay ở Việt Nam.
8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án sẽ là tài liệu tập hợp lưu giữ những nội dung của cổ luật thời kỳ
này. Đây trước hết là công trình sưu tầm, hệ thống hóa nghiên cứu các bộ cổ luật,
các Chỉ, Dụ dưới luật, các toàn thư, các bộ hội điển,... liên quan đến lĩnh vực thừa
kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Công trình còn góp phần tìm hiểu và lưu giữ những
giá trị văn hóa cổ xưa, những tục lệ đặc sắc độc đáo của dân tộc tạo động lực, cơ hội
để tiếp nối công cuộc giữ gìn nền văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Luận án là một công trình độc lập để các nhà nghiên cứu, các giảng viên,
sinh viên, học viên chuyên ngành luật tham khảo trong việc thực hiện các công trình
nghiên cứu, giảng dạy và học tập các vấn đề liên quan.
- Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cơ quan lập pháp sử
dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ cho việc xây dựng các giải
pháp về hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện đại. Ngoài ra, luận án còn có ý nghĩa cho
các cơ quan chức năng quản lí về văn hóa, lịch sử trong việc lưu giữ những giá trị
của cổ luật, là luận cứ khoa học cho việc tiếp tục tìm hiểu những giá trị truyền thống
cội nguồn dân tộc, giữ gìn, tôn tạo và phát huy bản sắc dân tộc Việt.
7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CẦN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật thừa kế thời
kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
* Đề tài khoa học, các công trình sách - Đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu lịch sử hình thành, nội dung cơ bản
và những giá trị của Quốc triều hình luật thời nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức)” của Lê
Thị Sơn [90]. Đây là công trình tập hợp nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực cổ luật
tham gia. Một số bài viết trong công trình này ngoài việc nghiên cứu nội dung, điều
khoản của pháp luật các tác giả còn quan tâm đánh giá những giá trị tiến bộ, tích
cực trong các chế định của pháp luật thừa kế nhà Lê.
- Đề tài nghiên cứu cấp trường: “Giá trị kế thừa về nhà nước và pháp luật
dưới triều vua Lê Thánh Tông trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay” của Hoàng Thị Kim Quế [72]. Trong nội dung nghiên cứu, đề
tài đã chỉ ra những giá trị kế thừa của tư tưởng Lê Thánh Tông về pháp luật trong
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, một trong những giá trị đó là quyền thừa
kế của vợ chồng và quyền thừa kế của các con đối với di sản do cha mẹ để lại. Các
tác giả đánh giá nội dung quyền thừa kế này là giá trị nhân văn, tiến bộ của QTHL.
- Các công trình sách bao gồm:
+ "Dân luật khái luận" của Vũ Văn Mẫu [49], trong đó có bàn về QTHL và
HVLL nội dung đề cập đến chế định thừa kế. Trong giáo trình này tác giả đã đánh
giá cao những giá trị tiến bộ của pháp luật thừa kế nhà Lê. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu pháp luật thừa kế nhà Nguyễn tác giả đi đến kết luận đây là sự sao chép pháp
luật Trung Hoa nên đã triệt tiêu các giá trị tích cực về quyền thừa kế được quy định
trước đó trong QTHL.
+ "Việt Nam dân luật lược khảo" của Vũ Văn Mẫu [50]; "Dân luật lược
giảng" của Vũ Văn Mẫu [51]. Trong hai tác phẩm này tác giả cũng có đề cập ít
nhiều đến cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn nhưng vẫn với quan điểm như trên.
10
+ "Cổ luật Việt Nam lược khảo" của Vũ Văn Mẫu [52]. Bộ tác phẩm này
cung cấp nhiều thông tin và tư liệu quý cho việc nghiên cứu pháp luật thừa kế nhà
Lê, nhà Nguyễn. Tuy nhiên trong tác phẩm này tác giả chỉ tập trung phân tích nội
dung của cổ luật thừa kế qua các thời kỳ lịch sử từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Tác phẩm
chưa có sự phân tích, đánh giá, so sánh để làm nổi bật những giá trị của cổ luật thừa
kế nhà Lê, nhà Nguyễn.
+ "Sơ khảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam" của Đinh Gia Trinh
[109]. Trong tác phẩm này, tác giả giữ nguyên quan điểm của giáo sư Vũ Văn Mẫu
khi nghiên cứu về cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn.
Ngoài công trình của luật gia Đinh Gia Trinh, ở miền Bắc cho đến ngày đất
nước thống nhất không còn thấy có một công trình nào khác nữa về vấn đề này, nên
đây là quan điểm chung về chế định thừa kế trong thời kỳ phong kiến của giới luật
học ở miền Bắc Việt Nam trước năm 1975.
Trong mười năm đầu sau 1975 không thấy có một công trình nghiên cứu nào
về pháp luật thừa kế trong thời kỳ phong kiến. Chỉ từ năm 1986 trở đi, cùng với chủ
trương đổi mới đất nước, ngành luật học ở Việt Nam dần phát triển. Năm 1986,
Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Huế đã xây dựng một chuyên đề giảng
dạy tại khoa với tiêu đề: "Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (từ nguồn gốc
đến thế kỷ XIX)" [32]. Giáo trình đã được Hội đồng khoa học khoa Lịch sử Trường
Đại học Sư Phạm Huế nghiệm thu và đưa ra giảng dạy bắt đầu từ năm 1986-1987
và được trường Đại học Sư phạm Huế in ấn làm tài liệu học tập cho sinh viên (xuất
bản vào năm 1993). Mặc dù còn chịu ảnh hưởng của các công trình đi trước, nhưng
trong giáo trình đó các tác giả đã cố gắng chứng minh và nhận định một số giá trị
tích cực trong quy định về thừa kế của pháp luật nhà Nguyễn.
- "Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (Từ nguồn gốc đến trước Cách
mạng tháng Tám 1945)" của tác giả Vũ Thị Phụng [68]. Ngoài việc khẳng định giá
trị tiến bộ trong QTHL, tác giả đồng thời cùng phê phán pháp luật nhà Nguyễn nhất
là các chế định về quyền thừa kế của phụ nữ.
- Vào đầu năm 1994, tác giả Nguyễn Q. Thắng đã dịch HVLL ra tiếng Việt,
kèm theo nhận xét, đánh giá chung về Bộ luật. Đây là lần đầu tiên công chúng được
tiếp cận với một bản dịch tương đối đầy đủ về HVLL. Trong nội dung mở đầu tác
11
giả đã có những luận giải về việc cần đánh giá lại những giá trị tích cực của HVLL
trong lĩnh vực dân sự mà đặc biệt là về chế định thừa kế [96].
Ngoài ra, từ năm 2000 đến nay, trong xu hướng đầu tư đúng mức cho hoạt
động nghiên cứu cổ luật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nội dung và giá trị
của cổ luật tiếp tục được xuất bản thành sách. Đáng chú ý có các tác phẩm liên quan
trực tiếp đến đề tài luận án:
+ Tác phẩm “Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thời Pháp thuộc” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý [129]. Nội dung tác phẩm
đề cập nhiều vấn đề, song chủ yếu là lịch sử và pháp luật xuyên suốt từ thời Lê cho
đến thời Pháp thuộc. Tác phẩm này cung cấp nhiều thông tin và trích dẫn nhiều văn
bản cổ luật về thừa kế có giá trị tham khảo cao. Thông qua những chế định pháp
luật về dân sự từ thời Lê như QTHL đến thời Nguyễn với HVLL, các tác giả đã đi
sâu phân tích mặt tích cực cũng như những hạn chế của các quy định pháp luật dân
sự về thừa kế nhằm rút ra những vấn đề cần suy ngẫm.
+ "Quốc triều Hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị" của Lê Thị
Sơn [90] đã tập trung phân tích lịch sử hình thành của bộ QTHL, khái quát các nội
dung của QTHL. Đặc biệt chú trọng phân tích các giá trị tiến bộ, các nét đặc sắc của
QTHL được thể hiện trong các quy định của bộ luật này về thừa kế. Nhiều bài viết
đã tập trung phân tích các nội dung về phân chia di sản theo chúc thư, chia di sản
theo pháp luật, lập hương hỏa, lập thừa tự,... Nội dung các bài nghiên cứu đã nêu
bật giá trị pháp lý và tính nhân văn của chế định thừa kế trong QTHL.
+ "Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn. Trong phần “thân
quyền về tài sản khi cha mẹ chết” của tác giả Huỳnh Công Bá [9] đã nghiên cứu sơ
bộ các chế định về thừa kế trong pháp luật nhà Nguyễn. Tác giả đã cung cấp nhiều
nội dung và tư liệu đáng tin cậy tạo cơ sở nền tảng ban đầu để tiếp tục nghiên cứu
chuyên sâu hơn về chế định thừa kế trong pháp luật nhà Nguyễn.
+ "Nhận diện quyền dân sự trong bộ luật Hồng Đức" của Trần Quang Trung
[110]. Trong tác phẩm này, tác giả đã nghiên cứu các chế định liên quan đến quyền
dân sự QTHL trong đó có quyền thừa kế. Qua đó, đi đến những nhận định, đánh giá
về tính tích cực và một số hạn chế trong chế định thừa kế của cổ luật nhà Lê.
12
* Luận án, luận văn - Vấn đề thừa kế được nghiên cứu trong một số luận án tiến sĩ. Tuy nhiên
phạm vi nghiên cứu chỉ chủ yếu trong pháp luật dân sự hiện đại, như: "Thừa kế theo
pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của Phùng Trung Tập
[93]; “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam” của Trần Thị Huệ [41].
Các luận án tiến sĩ này chỉ hệ thống hóa các quy phạm pháp luật về thừa kế của
pháp luật Việt Nam hiện hành. Tập trung chủ yếu phân tích đánh giá các chế định
thừa kế trong các văn bản pháp luật dân sự từ sau năm 1945 và trong BLDS năm
1995. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện lý luận khoa học đối với chế định thừa
kế và nâng cao hiệu quả áp dụng.
- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay”,
của tác giả Nguyễn Thị Châu [21]. Trong luận văn này tác giả đã nghiên cứu cơ sở
lý luận của hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam; nghiên cứu quá trình phát
triển và thực trạng pháp luật thừa kế ở Việt Nam; nêu quan điểm và giải pháp hoàn
thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Trong phần nội dung khái quát về quá trình
phát triển pháp luật thừa kế ở Việt Nam tác giả đã nêu sơ lược một số vấn đề về
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Tuy nhiên đây chỉ là một nội dung
chiếm dung lượng không đáng kể trong luận văn.
- Luận văn cấp thạc sĩ “Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời
Nguyễn ở Việt Nam” của tác giả Hồ Thị Vân Anh [2]. Trong luận văn này tác giả đã
tập trung nghiên cứu chuyên sâu về nội dung và giá trị của pháp luật thừa kế trong
HVLL thời kỳ nhà Nguyễn. Luận văn không chỉ dừng lại nghiên cứu chế định thừa
kế trong HVLL mà còn mở rộng phạm vi nghiên cứu trong cả hệ thống các Chỉ, Dụ
bổ sung suốt thời kỳ các vua sau vua Gia Long: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,...
Trên cơ sở so sánh đối chiếu với pháp luật triều Lê và pháp luật Trung Hoa cùng
thời kỳ tác giả đã đi đến một số kết luận cho việc nhìn nhận lại những giá trị tích
cực của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Nguyễn.
* Tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo khoa học - Trong “Hội thảo khoa học về triều Nguyễn” (thuộc Chương trình nghiên
cứu khoa học cấp Bộ) do Trường Đại học sư phạm Huế tổ chức năm 1994, đã có
các báo cáo khoa học trao đổi nhận định về chế định pháp luật thừa kế thời kỳ nhà
13
Nguyễn, nổi bật có các báo cáo của TS. Huỳnh Công Bá và nhà nghiên cứu Nguyễn
Q. Thắng. Qua đó các tác giả đã ghi nhận sự đóng góp và sáng tạo của các nhà lập
pháp dưới các triều đại sau vua Gia Long về việc xây dựng nội dung các quy định
về quyền thừa kế dưới thời kỳ này [9].
- Vào năm 2000, Đại học Huế tổ chức hội thảo khoa học: “Văn hóa Việt
Nam thời Nguyễn và những vấn đề đặt ra hiện nay” [31]. Hội thảo cũng đã có nhiều
bài viết với những góc nhìn đa chiều về chế định thừa kế trong pháp luật thời kỳ
nhà Nguyễn.
- Tiếp đến, là các cuộc hội thảo quy mô quốc gia, quy tụ nhiều bài viết của
các nhà nghiên cứu về cổ luật. Hội thảo nghiên cứu chuyên sâu về QTHL được tổ
chức vào 2 ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2007 tại Thành phố Thanh Hóa (do Bộ Tư
pháp phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa tổ chức) với tiêu đề
“Quốc triều Hình luật - những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam” [119]. Các bài tham luận trong hội thảo này đã tập
trung phân tích những thành tựu lập pháp dưới thời nhà Lê. Đặc biệt chú trọng đến
những chế định pháp luật được đánh giá là có tính tiến bộ vượt bậc mang giá trị
nhân văn cao với tính dân tộc Việt đậm nét, có thể được tham khảo để kế thừa và
hoàn thiện pháp luật hiện đại trong đó có các chế định về thừa kế trong QTHL. Và
gần đây nhất là Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” mang tầm cỡ quốc gia được UBND tỉnh
Thanh Hóa phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức tại Thanh Hóa từ
ngày 18 đến ngày 19 tháng 10 năm 2008... [120]. Đáng tiếc, là trong các cuộc hội
thảo này, vấn đề về pháp luật dân sự, thừa kế thời kỳ nhà Nguyễn chưa được quan
tâm đúng mức. Chưa có bài tham luận nào về thừa kế theo pháp luật trong HVLL
thời Nguyễn.
- Việc nghiên cứu còn được tập trung ở một số bài báo đăng trên các tạp chí
chuyên ngành trước năm 2010 như: “Tương đồng và khác biệt Bộ luật Hồng Đức và
bộ luật của Trung Hoa” của Nguyễn Minh Tuấn [116]; “Những giá trị tích cực của
Nho giáo trong Bộ luật Hồng Đức” của Nguyễn Minh Tuấn [117]; “Quyền sở hữu
tài sản của người phụ nữ trong QTHL” của tác giả Nguyễn Phương Lan [45];
“Những bộ cổ luật Việt Nam và một số giá trị đương đại” của tác giả Vũ Thị Phụng
14
[69]; “Pháp chế triều Nguyễn đối với vấn đề nhân thân của người phụ nữ” của
Huỳnh Công Bá [7], “Vấn đề tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình dưới
triều Nguyễn” của Huỳnh Công Bá [8]...
Trong thời gian này, hầu hết các bài báo chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu
các giá trị tích cực trong QTHL. Việc nghiên cứu về chế định dân sự trong HVLL
và pháp luật nhà Nguyễn hầu như ít được quan tâm. Chỉ duy nhất có hai bài báo của
TS. Huỳnh Công Bá và nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hữu Châu Phan được đăng
trên tạp chí chuyên ngành viết về pháp luật triều đại này nhưng không viết chuyên
sâu về thừa kế trong pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn.
Đến năm 2010 trở lại đây, HVLL mới bắt đầu được một số tác giả quan tâm
nghiên cứu. Bắt đầu xuất hiện một số bài báo nghiên cứu về pháp luật nhà Nguyễn
trên các tạp chí chuyên ngành như bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật: “Cần
công bằng với bộ luật Hoàng Việt luật lệ” của tác giả Vũ Anh Tuấn [115]. Trên cơ
sở điểm lại một số quan điểm khác nhau về cách đánh giá bộ luật, tác giả cũng nêu
ra một vài suy nghĩ có tính gợi mở về hình thức, nội dung của bộ luật trong so sánh
với các bộ luật Trung Hoa và bộ QTHL nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ chung
chung. “Về mối quan hệ giữa “Hoàng Việt luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ”” của tác
giả Nguyễn Thị Thu Thủy [100]. Và “Tính tích cực của “Hoàng Việt luật lệ” và giá
trị của nó đối với nền tư pháp Việt Nam hiện đại” đăng trong Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế Việt Nam học lần thứ IV năm 2012. Như vậy, việc nghiên cứu pháp luật triều
Nguyễn mới chỉ dừng lại ở nội dung nghiên cứu tổng quát HVLL, so sánh với pháp
luật Trung Hoa, còn chế định thừa kế trong pháp luật triều Nguyễn đến nay vẫn ít
được quan tâm nghiên cứu.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng pháp luật và
vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
* Đề tài khoa học, các công trình sách Trong đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu lịch sử hình thành, nội dung cơ
bản và những giá trị của Quốc triều hình luật thời nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức)” của
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp [90] đã nêu trên, các bài viết còn tập trung
phân tích, đánh giá những giá trị tích cực mang tính đương đại trong các quy định
về pháp luật thừa kế trong QTHL. Từ đó, một số bài viết đã chỉ ra tính kế thừa trong
15
các quy định pháp luật thừa kế hiện hành và đặt ra một số gợi mở cho việc tiếp tục
vận dụng các giá trị của pháp luật thừa kế nhà Lê trong việc hoàn thiện pháp luật
thừa kế hiện hành tập trung vào các vấn đề: Di chúc chung của vợ chồng, di sản
dùng vào việc thờ cúng...
- Các công trình sách:
+ Trên cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Quốc triều Hình luật -
Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị” của Lê Thị Sơn [90]. Trong tác phẩm này,
ngoài việc tập trung phân tích lịch sử hình thành của bộ QTHL, khái quát các nội
dung của QTHL như đã trên, các tác giả còn đặc biệt chú trọng phân tích các giá trị
tiến bộ, các nét đặc sắc của QTHL được thể hiện trong các quy định của bộ luật này
về thừa kế. Công trình đã nghiên cứu bài học kinh nghiệm được rút ra từ hoạt động
lập pháp của các vua nhà Lê và gợi mở cho việc vận dụng một số nội dung đối với
công tác hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
+ Trong tác phẩm: “Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn”
của Huỳnh Công Bá [9] đã khái quát lại một số giá trị về mặt nội dung và kỹ thuật
lập pháp của chế định thừa kế nhà Nguyễn góp phần vận dụng hoàn thiện pháp luật
thừa kế hiện hành. Tác giả cho rằng pháp luật thừa kế là một lĩnh vực gắn bó chặt
chẽ với phong tục tập quán. Một sự định hướng thiên lệch sẽ rất khó lấy lại thăng
bằng. Vì vậy, nghiên cứu những giá trị tích cực trong pháp luật thừa kế dưới triều
Nguyễn để vận dụng hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành là rất cần thiết.
+ Trong tác phẩm: “Nhận diện quyền dân sự trong bộ luật Hồng Đức” của
Trần Quang Trung [110] đã phân tích và nghiên cứu chế định về thừa kế như đã nêu
trên. Trong chương 5, tác giả đã kết luận giá trị về quyền dân sự trong đó có giá trị
về quyền thừa kế của QTHL mang tính tiến bộ, cần thiết phải tiếp tục kế thừa để
vận dụng hoàn thiện về mặt pháp lý cũng như trong công tác thực tiễn nhằm bảo vệ
quyền thừa kế của công dân hiện nay.
+ Tác phẩm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế và sự vận dụng
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật [39]. Tác phẩm này
mặc dù không trực tiếp liên quan đến đề tài, tuy nhiên tác phẩm đã cung cấp cho tác
giả phương pháp luận tiếp cận vấn đề lý luận về “vận dụng” và cách tiếp cận hệ
16
thống lý luận các quan điểm và giải pháp về việc “tiếp tục vận dụng” để hoàn thiện
pháp luật hiện hành. Đây là cơ sở phương pháp luận giúp tác giả tiếp cận một nội
dung nghiên cứu quan trọng của luận án về “Vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà
Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành”.
+ Sách chuyên khảo: “Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án”
của Đỗ Văn Đại [29] đã vận dụng một số nội dung và cách giải quyết các tranh chấp
thừa kế trong cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn làm cơ sở để đánh giá và bình luận
một số vụ án trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế của các Tòa án Việt Nam
hiện nay, cụ thể, tại các bản án sau: án số 14, 17, 68, 69, 45, 47, 48, 50, 38, 39, 61, 64,
75, 78, 54, 57, 18, 19, 91, 93, 110, 113, 65, 66, 20 và 21. Trong hai tập sách chuyên
khảo này tác giả đã có những lập luận và căn cứ khoa học vững chắc để gợi mở cho
Tòa án những phương án giải quyết các tranh chấp thừa kế trên cơ sở vận dụng những
nội dung tích cực và hợp lý của cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn.
* Luận án, luận văn
+ “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay”
của tác giả Phùng Trung Tập [93] đã phân tích, lập luận để làm rõ quá trình xây
dựng và phát triển cũng như đánh giá nội dung những quy định về thừa kế theo
pháp luật của công dân Việt Nam qua từng giai đoạn phát triển trong hơn 50 năm.
Luận án đã giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quát về quá trình xây dựng và phát
triển của pháp luật thừa kế ở Việt Nam sau năm 1945, tạo tiền đề cho việc tiếp tục
nghiên cứu quá trình vận dụng cổ luật trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa
kế từ 1945 đến nay ở Việt Nam.
+ “Học thuyết pháp trị Trung Hoa thời cổ đại: Giá trị và sự kế thừa trong
quản lí xã hội ở nước ta hiện nay” của tác giả Đỗ Đức Minh [55]. Trên cơ sở làm rõ
quá trình hình thành, nội dung, những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của học thuyết
pháp trị Trung Hoa cổ đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam, luận án làm rõ sự cần
thiết những quan điểm và gợi mở tính kế thừa cũng như vận dụng những giá trị của
học thuyết này trong quản lí xã hội ở nước ta hiện nay. Đây là luận án vận dụng
những quan điểm của học thuyết cổ đại trong lịch sử để kế thừa trong việc giải
quyết những vấn đề hiện tại của xã hội. Có giá trị tham khảo cho tác giả trong việc
17
tiếp cận phương pháp luận của việc nghiên cứu hệ thống lý luận và yêu cầu, giải
pháp vận dụng các giá trị cổ luật trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
+ “Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án nhân
dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai [48]. Trong luận án
này tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng tập quán (trong đó có các tập
quán về thừa kế) trong việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân
(TAND). Trên cơ sở thực trạng áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân
sự của TAND, luận án đã đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng tập
quán (bao gồm các tập quán về thừa kế) trong giải quyết các tranh chấp dân sự.
+ “Luật tục người Thái và sự vận dụng trong quản lí nhà nước đối với cộng
đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam” của tác giả Vi Văn Sơn [91].
Trong luận án này, tác giả chú trọng đề cập đến một số nội dung về lý luận vận
dụng: luận giải khái niệm vận dụng; các phương thức vận dụng; những vấn đề đặt ra
về vận dụng luật tục người Thái trong quản lí Nhà nước đối với người dân tộc thiểu
số và cộng đồng người Thái ở Việt Nam. Mặc dù không trực tiếp liên quan đến đề
tài nhưng luận án đã cung cấp cho tác giả những góc nhìn đa chiều về nghiên cứu lý
luận vận dụng pháp luật và nghiên cứu hệ thống các quan điểm và giải pháp về vận
dụng. Ngoài ra, luật tục cũng là một trong những nội dung được đề cập đến trong
luận án nên những thông tin này rất có ý nghĩa cho tác giả trong việc nghiên cứu.
+ “Vận dụng truyền thống văn hóa pháp lý Việt Nam trong xây dựng văn hóa
pháp lý hiện nay” của tác giả Dương Văn Chăm [20]. Luận văn tập trung nghiên
cứu truyền thống văn hóa pháp lí trong pháp luật thời phong kiến, tác giả dành một
dung lượng nhỏ đề cập đến cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn; nghiên cứu
những yêu cầu về việc vận dụng những truyền thống này trong xây dựng văn hóa
pháp lí hiện nay. Luận văn đã đề xuất những giải pháp vận dụng truyền thống văn
hóa pháp lí từ lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam trong xây dựng
nền văn hóa pháp lí ở nước ta hiện nay.
* Tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo khoa học Hội thảo nghiên cứu chuyên sâu về QTHL được tổ chức vào 2 ngày 17 và 18
tháng 3 năm 2007 tại Thành phố Thanh Hóa (do Bộ Tư pháp phối hợp với UBND
tỉnh Thanh Hóa tổ chức) với tiêu đề “Quốc triều Hình luật - những giá trị lịch sử và
18
đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” [119]. Trên cơ sở
phân tích nội dung chế định thừa kế thời kỳ nhà Lê, các bài viết trong hội thảo đã
đánh giá tính tiến bộ, sự kế thừa và những bài học kinh nghiệm, sự gởi mở trong
việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành, giải quyết các vướng mắc
trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật thừa kế.
- Việc nghiên cứu nội dung liên quan đến vận dụng cổ luật còn được tập
trung ở một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Tương đồng và
khác biệt Bộ luật Hồng Đức và bộ luật của Trung Hoa” [116] và “Những giá trị
tích cực của Nho giáo trong Bộ luật Hồng Đức” của Nguyễn Minh Tuấn [117];
“Quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong QTHL” của tác giả Nguyễn Phương
Lan [45]; “Những bộ cổ luật Việt Nam và một số giá trị đương đại” của tác giả Vũ
Thị Phụng [69]...
Các tác giả đều thống nhất cho rằng nghiên cứu chế định thừa kế trong
QTHL và HVLL là một trong những cơ sở để giáo dục truyền thống, là nền tảng
văn hóa giúp Việt Nam hội nhập với thế giới nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc.
Với ý nghĩa đó, những giá trị đương đại trong các quy định về thừa kế của các bộ cổ
luật Việt Nam cần thiết phải tiếp tục khảo cứu, ghi nhận, vận dụng và phổ biến. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
Các tác phẩm của tác giả nước ngoài liên quan đến đề tài luận án chủ yếu tập
trung vào việc nghiên cứu nội dung, giá trị các chế định pháp luật về thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn mà hầu như không đề cập đến vấn đề vận dụng nội dung này
trong hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt Nam hiện nay. Vì vậy, trong tình hình
nghiên cứu nước ngoài tác giả chỉ chủ yếu liệt kê và phân tích nhóm các công trình
nghiên cứu liên quan đến pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn.
* Luận án, luận văn Người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu HVLL thành một luận án tiến sĩ là luật
sư Phan Văn Trường (1875-1933) trình tại Đại học đường Paris vào những năm 20
của thế kỷ XX. Luận án gồm 2 đề tài có tên là Essais sur le code Gia Long (86
trang) và một luận án phụ có tên Le droit pénal à travers l’ancienne l’Egislation
Chinoise (Etude comparée sur le code Gia Long) đã được Hội đồng giám khảo công
nhận là Tiến sĩ luật khoa đầu tiên của một người Việt tại Pháp. Trong luận án, luật
19
sư Phan Văn Trường đã nghiên cứu bộ HVLL khá tường tận; đồng thời tác giả cũng
so sánh, đối chiếu, phân tích giữa bộ HVLL và cổ luật Trung Hoa nhất là luật nhà
Thanh, so sánh, đối chiếu một số nội dung giữa HVLL và QTHL. Luận án có đề cập
đến chế định thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn nhưng chưa chuyên sâu và chưa
mang tính hệ thống. Tuy nhiên những nội dung này cũng có những giá trị nhất định của
việc đặt nền tảng ban đầu cho công tác nghiên cứu luận án [trích theo 9].
- Luận án Tiến sĩ Luật học: "De la propriété familiale comme fondement du
droit familial Vetnamien, d’ après Le Code Gia Long et Le Code des Lê" của Trần
Văn Liêu. Trong luận án tác giả nghiên cứu các vấn đề thuộc về gia đình, dòng tộc,
nghiên cứu nội dung về thừa kế trong QTHL thời Lê và HVLL thời Nguyễn nhưng
chủ yếu là nghiên cứu QTHL. Pháp luật thừa kế của các thời kỳ này được các tác
giả nghiên cứu trong mối tương quan với phong tục, tập quán, luật tục của dân tộc
[trích theo 9].
* Các công trình, sách - Vào năm 1865, Gabriel Anbaret là người đầu tiên dịch xong HVLL ra tiếng
Pháp và cho xuất bản với tiêu đề của tác phẩm là “Code annamite: Lois et
rèlements du Royaune d’ Annam”, xuất bản ở Paris năm 1865. Tiếp đó, đến năm
1876, Paul Louis Philastre dịch lại bộ HVLL ra tiếng Pháp xuất bản tại Paris, tiêu
đề Le Code Annamite, gồm 2 tập. Ở hai công trình này, các tác giả ngoài việc dịch
thuật, còn bình luận và chú giải bộ HVLL. Đáng chú ý là những bình luận và so sánh
của Paul Louis Philastre về chế định hôn sản và thừa kế trong HVLL với pháp luật nhà
Thanh Trung Quốc. Những so sánh và nhận định ban đầu của P. Philastre trong tác
phẩm xuất bản từ năm 1876 được xem là một trong những nền tảng cho việc tiếp tục
nghiên cứu cổ luật thừa kế phong kiến về sau. Tuy nhiên, đây chỉ là những nhận định
sơ khởi, ít nhiều còn mang tính chủ quan của tác giả [trích theo 96].
+ Tác phẩm “An Nam Yi You, Xiao Fang Hu Zhai Yu Di Cong Chao” của
tác giả Phan Đỉnh Khuê. Tác giả là người đã đến sinh sống và làm việc tại Việt
Nam từ những năm 1788. Tác phẩm bao gồm những truyện kể của ông Phan về các
phong tục hôn lễ, và các quy định về thừa kế và phong tục thừa kế trong xã hội xưa.
Đây là một công trình nghiên cứu về luật thừa kế và xã hội Việt Nam xưa đầu tiên
của một tác giả người Trung Quốc. Vì vậy, những nhận định của tác giả rất đáng
20
lưu ý, đặc biệt ở nội dung so sánh với cổ luật Trung Hoa được giới khoa học đánh
giá là có giá trị tham khảo cao [trích theo 131].
- Văn bản cổ xưa đầu tiên đầy đủ về bộ QTHL được Claude E.Maitre tìm
thấy tại Huế vào năm 1978. Claude Maitre, lúc đó là giám đốc trường Viễn Đông
Bác Cổ. Trong công trình này Claude E.Maitre đã dịch thuật QTHL và bình luận
một số nội dung liên quan đến hôn nhân và thừa kế trong QTHL. Claude E.Maitre
đã đi đến kết luận rằng, nhà Lê sau khi giành được nền độc lập chính trị từ Trung
Hoa đã cắt đứt mọi ràng buộc về tinh thần pháp lý với nền văn minh Trung Hoa. Vì
vậy, trong QTHL các chế định về thừa kế mặc dù mô phỏng pháp luật nhà Đường
nhưng vẫn có rất nhiều điểm dị biệt, trong đó đặc biệt là quy định về hương hỏa. Văn
bản do Claude Maitre nghiên cứu về Bộ luật này là một trong số những thư tịch cổ đại
vẫn đang được tàng trữ ở Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) [trích theo 50].
- Cổ luật thừa kế Việt Nam còn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của cả các
học giả Nhật Bản, nổi bật là các tác phẩm của học giả Yamamoto Tatsuro. Đầu
tiên phải kể đến tác phẩm “Shina Kazoku Kenkyu” của tác giả Nhật bản Makino
Tatsumi là nền tảng để tác giả Yamamoto Tatsuro thu thập, đưa vào các tác
phẩm nghiên cứu cổ luật nhà Lê, nhà Nguyễn đối sánh với cổ luật Trung Hoa về
chế định gia đình và thừa kế. Tác giả đã nghiên cứu tương đối toàn diện chế định
thừa kế trong các tác phẩm: “Annam reicho no koninho” xuất bản năm 1938,
“Annam no fudosan bai monjo” xuất bản năm 1940 và “Koku chokeiritsu ni
miere henshaku” xuất bản năm 1984. Các tác phẩm này cung cấp nhiều tư liệu
cho việc nghiên cứu lĩnh vực thừa kế trong xã hội phong kiến Việt Nam. Trong
các tác phẩm này, tác giả đã chứng minh chế độ hôn sản trong QTHL là chế độ
tài sản chung hợp nhất của vợ chồng, trong đó người vợ có kỷ phần riêng và có
quyền hưởng thừa kế [trích theo 131].
- Tác phẩm “De droit familial et patrimonial au Vietnam” của tác giả Paul
Pompei đã một lần nữa khẳng định quan điểm của Yamamoto Tatsuro và lý giải xa
hơn về quyền thừa kế của người vợ góa khi người chồng chết [trích theo 131].
- Tác phẩm “Varieties of huong hoa: A Problem of Vietnamese Law” của
Henry Mc Aleavy. Là tác phẩm duy nhất của một tác giả nước ngoài nghiên cứu về chế
định hương hỏa trong cổ luật Việt Nam. Tác giả đã có những nhận định khái quát về
21
thành phần hương hỏa, người ăn hương hỏa, lập thừa tự... Tuy nhiên, cũng do chưa hiểu
hết được tục lệ của người Việt nên trong tác phẩm này, Henry Mc Aleavy lại cho rằng
chỉ có con trai mới có quyền thừa kế việc thờ cúng tổ tiên [trích theo 131].
- Tác phẩm “London school of Economics Monographys on Social Anthropolygy” của Edmund Leach. Trong tác phẩm, tác giả tập trung nghiên cứu lĩnh vực hôn nhân và gia đình trong QTHL và HVLL trong đó có một phần liên quan đến hương hỏa và thừa kế nhưng không đáng kể [trích theo 131].
- Trong năm 1970, có hai tác phẩm của học giả người Pháp cùng xuất bản đều nghiên cứu về luật và xã hội phong kiến Việt Nam dưới thời kỳ phong kiến. Qua tác phẩm “Vietnamese Historical Sources” của Gaspardone và tác phẩm “The Mandarin Road to Old Hue” của Charles Chapman. Đây là hai tư liệu quý của các học giả nước ngoài về luật và tục của xã hội Việt Nam xưa, trong đó có nhiều cứ liệu về phong tục hương hỏa, thừa tự [trích theo 131]...
- Với tác phẩm “The Birth of Vietnam” của tác giả Keith Taylor đã tiếp tục nghiên cứu luật và xã hội phong kiến Việt Nam dưới thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Tuy nhiên, K. Taylor chủ yếu tập trung luận giải năng cách của người phụ nữ trong xã hội xưa và kết luận “đàn bà Việt Nam tự do đi lại mà không xa lánh đàn ông như ở Trung Hoa” và “đàn bà Việt Nam vẫn có quyền hưởng thừa kế” [trích theo 131].
- “Social Organization and Confucian Thought in Viet Nam” của John Whitmore. Nội dung tác phẩm này nghiên cứu địa vị pháp lý và chia di sản thừa kế giữa các con trong gia đình. Tuy nhiên J. Whitmore lại cho rằng con gái không có quyền hưởng thừa kế trong xã hội phong kiến Việt Nam [trích theo 131].
- Công trình nghiên cứu “Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII” của Insun Yu. Đây là công trình bằng tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc của một giáo sư người Hàn Quốc nghiên cứu xã hội truyền thống Việt Nam. Công trình đề cập chủ yếu đến lĩnh vực đời sống pháp luật dân sự dưới thời Lê và dành hẳn một chương riêng nghiên cứu về quyền thừa kế. Đây là tài liệu có giá trị trong việc nghiên cứu cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê [131].
* Các bài viết, hồi ký - Quyển hồi ký của John Craufurd một đặc phái viên người Anh đến Việt
Nam vào hai thập kỷ đầu của thế kỷ XIX với tiêu đề “Journal of an Embassy to the
Courts of Sian and Cochin China”. Trong tác phẩm này, tác giả đã nghiên cứu luật
22
và xã hội Việt Nam cổ, rút ra kết luận tích cực cho luật và xã hội Việt Nam thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn vì đã có ghi nhận vị trí xứng đáng cho người phụ nữ và cho
rằng địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam hơn hẳn các nước Viễn đông, đặc biệt là
quyền thừa kế của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ này [trích theo 9].
- Trong thời gian này, còn ghi nhận một số tác phẩm tiếp tục nghiên cứu về
tục lệ và xã hội Việt cổ như: Các tác phẩm hồi ký của Léo Pold Cardière, tiêu đề
“Les Europeens qui ont vu le vieux Hué: l’ Abbé de Choisy” xuất bản tại Paris năm
1929, tác phẩm “Voyages and Discoveries” của William Dam Pier xuất bản năm
1931; tác phẩm “A Sketch of the Geography of Cochin China” của Charles
Chapman xuất bản năm 1817, tái bản năm 1970 tại Paris.. [trích theo 9]. Nội dung
các tác phẩm nghiên cứu tục lệ của xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và
khi nghiên cứu một số nội dung trong chế định cổ luật thừa kế, một lần nữa các tác
giả tiếp tục khẳng định sự ngạc nhiên với vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia
đình và quyền lợi của họ trong việc hưởng di sản thừa kế.
- Một thầy tu người Trung Quốc tên Đại Sán đã viết hồi ký “Shi Liu Qi Shi Ji
Guang - Nam Zhih Xin Shi Lao” xuất bản tại Trung Quốc năm 1960 nhân một
chuyến thăm Huế vào giữa thế kỷ XIX đã kết luận rằng: luật pháp và xã hội triều
Nguyễn coi trọng phụ nữ không khác gì đàn ông. Trong gia đình người phụ nữ có
quyền có tài sản riêng là của hồi môn của cô ấy, có quyền hưởng dụng di sản do
người chồng quá cố để lại. Thậm chí Đại Sán còn mạnh dạn cho rằng người phụ nữ
Việt Nam được coi trọng hơn hẳn phụ nữ Trung Quốc cùng thời kỳ [trích theo 131]. 1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Đánh giá chung - Một số kết quả đạt được trong nhóm các công trình nghiên cứu liên quan
đến pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong và ngoài nước có thể khái
quát ở một số nội dung sau:
+ Về mặt lý luận:
⋅ Góp phần sưu tầm, hệ thống hóa và dịch thuật các bộ cổ luật có chế định về
thừa kế, các Chỉ, Dụ dưới luật về thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Việc sưu
tầm, hệ thống hóa và dịch thuật các bộ cổ luật, các toàn thư, các bộ hội điển đồ sộ
23
cũng như việc dịch thuật các tư liệu liên quan về cổ luật thừa kế là thành quả đáng
ghi nhận đầu tiên của các tác giả. Qua đó, góp phần giới thiệu cổ luật thừa kế Việt
Nam cho các học giả trên thế giới, tạo nguồn tư liệu phong phú cho việc tìm hiểu cổ
luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn được phổ biến rộng rãi hơn trong giới
nghiên cứu luật và nhân dân cả nước.
⋅ Nghiên cứu sâu rộng về văn hóa và tục lệ của dân tộc liên quan đến lĩnh
vực thừa kế. Các công trình nghiên cứu cả trong nước và nước ngoài về văn hóa, tục
lệ của người Việt liên quan đến lĩnh vực thừa kế tính đến nay cũng hết sức phong
phú. Những tác phẩm của các học giả chuyên nghiên cứu về phong tục tập quán như
Toan Ánh, Phan Kế Bính, John Crawfurd, Phan Đỉnh Khuê... đã bước đầu tiếp cận
nghiên cứu tìm hiểu văn hóa tục lệ thừa kế của người Việt trong đời sống dân sự.
Tiếp đến là các công trình của những nhà khoa học trong nước hoạt động trên nhiều
lĩnh vực khác nhau như: dân tộc học, văn hóa học, khoa học lịch sử, văn hóa dân
gian... Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đánh giá người Việt cổ có bản sắc dân tộc
độc đáo, nhân văn, tiến bộ, cần được nghiên cứu, vận dụng, bảo tồn và phát huy.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đứng trước yêu cầu xây dựng và phát huy
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Khi Nghị quyết của Đảng
đã đặt văn hóa ngang tầm với các yếu tố chính trị, kinh tế thì những công trình liên
quan đến văn hóa trong pháp luật dân sự về thừa kế là những di sản vô giá cho các
thế hệ hậu sinh người Việt Nam. Đồng thời là kho tư liệu quý phục vụ cho việc
nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, pháp luật.
⋅ Nghiên cứu, đánh giá những giá trị tiến bộ của pháp luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn. Trong hầu hết các công trình nghiên cứu với những căn cứ
thuyết phục, các tác giả đã tập trung chỉ ra những điểm dị biệt giữa QTHL,
HVLL so với cổ luật Trung Hoa cùng thời kỳ. Tìm hiểu các công trình nghiên
cứu cổ luật thừa kế nhà Lê cho thấy đa số các tác giả đều đồng thuận trong việc
đánh giá giá trị tích cực trong các quy định về thừa kế trong QTHL, chứng minh
được yếu tố khác biệt và sự tiến bộ của pháp luật thừa kế QTHL so với pháp luật
các nước Viễn Đông cùng thời kỳ trong các chế định về: hương hỏa, thừa tự,
quyền hưởng di sản và người vợ góa, quyền lợi của con gái trong việc hưởng
thừa kế...
24
⋅ Bước đầu đánh giá và nhìn nhận lại pháp luật nhà Nguyễn trong đó có pháp
luật thừa kế thời kỳ nhà Nguyễn. Đối với pháp luật nhà Nguyễn mặc dù còn nhiều ý
kiến khác nhau nhưng các nhà khoa học cũng đã bước đầu quan tâm nghiên cứu
trong bối cảnh nhìn nhận lại và đánh giá khách quan hơn đối với nền pháp luật nhà
Nguyễn nói chung và cổ luật thừa kế của thời kỳ này nói riêng.
+ Về mặt thực tiễn
⋅ Đánh giá giá trị pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn góp phần
hoàn thiện pháp luật hiện hành. Nhiều công trình đã đào sâu về nội dung của cổ luật
thừa kế nhà Lê, đánh giá những giá trị về cổ luật thừa kế nhà Lê và gợi mở việc kế
thừa trong quá trình hoàn thiện pháp luật. Một số công trình đã bước đầu nghiên
cứu về HVLL, về những giá trị của HVLL, bước đầu nghiên cứu về hệ thống pháp
luật dân sự nhà Nguyễn, đặc biệt là pháp luật thừa kế thời kỳ này. Đây là những tư
liệu có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn góp
phần vận dụng trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
- Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến vận dụng pháp luật và vận
dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa
kế hiện hành cũng tạo thành một tập hợp gồm nhiều công trình. Mặc dù đa số các
công trình này không trực tiếp liên quan đến luận án nhưng nhóm công trình này đã
bổ trợ cho tác giả phương pháp tiếp cận lý luận về vận dụng pháp luật. Ngoài ra,
một số công trình liên quan đến đánh giá các giá trị của cổ luật thừa kế của các thời
kỳ này đã gợi mở cho tác giả những nội dung về kế thừa và vận dụng cổ luật nhà
Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Các công trình này
cũng tồn tại ở nhiều dạng: đề tài nghiên cứu khoa học, sách, luận văn, luận án, tạp
chí, bài báo, kỷ yếu hội thảo khoa học... Các nhà khoa học có thể nghiên cứu về vận
dụng pháp luật nói chung hoặc vận dụng các học thuyết chính trị pháp lý để hoàn
thiện pháp luật hoặc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn.
Hoặc là những bài báo, đề tài nghiên cứu theo hướng rút ra những bài học kinh
nghiệm từ những giá trị của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn gợi mở cho
việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Nguồn tư liệu trên hỗ trợ
cho tác giả luận án nghiên cứu các vấn đề như: cơ sở lý luận về vận dụng, khái niệm
và các nguyên tắc vận dụng; nghiên cứu quá trình vận dụng và đánh giá thực trạng
25
vận dụng cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở
Việt Nam; Nghiên cứu hệ thống các yêu cầu và giải pháp tiếp tục vận dụng cổ luật
thừa kế cho công tác hoàn thiện và áp dụng pháp luật thừa kế hiện nay...
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu của luận án Với tổng quan công trình khoa học của các tác giả trong nước và nước ngoài
như trên, tác giả cho rằng có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cả về phương
diện lý luận và thực tiễn.
* Về phương diện lý luận
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn. Trong nội dung này, luận án tập trung giải quyết được những vấn đề: quan
niệm về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn; các cơ sở tiền đề cho sự
hình thành cổ luật thừa kế; khái quát được khái niệm thừa kế trong cổ luật, nghiên
cứu nội dung các quy định của cổ luật thừa kế theo các thời kỳ khác nhau và theo
các nhóm nghiên cứu.
Hai là, nghiên cứu quan niệm về vận dụng và cơ sở lý luận về vận dụng pháp
luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt
Nam. Trong nội dung này, luận án luận giải sâu hơn về khái niệm, các nguyên tắc
vận dụng giá trị trong nội dung của pháp luật thời kỳ này để tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt Nam hiện nay.
Ba là, nghiên cứu những nhóm quan hệ pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn: nhóm các quy định những vấn đề chung về thừa kế, nhóm các quy định
điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa những chủ thể được hưởng thừa kế, nhóm các
quy định về các hình thức thừa kế, nhóm các quy định do Nhà nước thừa nhận về
hương ước và luật tục để giải quyết các quan hệ thừa kế.
Bốn là, đánh giá những giá trị của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn. Không chỉ dừng lại ở việc đánh giá chuyên sâu các quy định của pháp luật
nhà nước về thừa kế mà luận án còn tiếp tục đánh giá khái quát các giá trị của nội
dung này trong hương ước và luật tục được nhà Lê, nhà Nguyễn thừa nhận trong xã
hội xưa. Trên cơ sở đánh giá giá trị cổ luật thừa kế của hai triều đại này, luận án
phân tích cả mặt tích cực cần được vận dụng và cả những hạn chế là tàn dư cần
được khắc phục và loại bỏ.
26
* Về phương diện thực tiễn
Một là, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích thực trạng quá trình vận dụng pháp
luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Luận án
đánh giá quá trình vận dụng này đã đạt được những thành tựu gì và đánh giá cả
những bất cập, hạn chế của quá trình vận dụng ấy. Luận án tiếp tục luận giải và chỉ
ra nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình vận dụng.
Hai là, trước yêu cầu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt
Nam hiện nay, luận án chỉ rõ các yêu cầu và giải pháp trong việc tiếp tục vận dụng
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế
hiện hành. Vấn đề đặt ra trong nội dung này là cần nghiên cứu hệ thống các yêu cầu
đảm bảo cho việc tiếp tục vận dụng cổ luật thừa kế của hai triều đại này trong điều
kiện hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Một nội dung quan trọng nữa cần chú
trọng là nghiên cứu các nhóm giải pháp để đảm bảo tiếp tục vận dụng cổ luật thừa
kế trong hoàn thiện pháp luật hiện hành. Không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các
giải pháp chung về lý luận, luận án còn nghiên cứu cụ thể các giá trị của cổ luật
thừa kế để tiếp tục góp ý sửa đổi bổ sung trực tiếp các điều luật trong chương thừa
kế của BLDS hiện hành.
Kết luận chương 1
Qua sự tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên cho thấy vấn đề pháp luật
thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập
tương đối đầy đủ. Song, nếu đặt các vấn đề đó một cách lôgíc, hệ thống trong một
tên đề tài: “Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và sự vận dụng trong
hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam”, thì có thể nhận thấy các công trình đã
nghiên cứu phần nhiều chỉ mang tính cắt xén, hoặc chỉ nghiên cứu về cổ luật thừa
kế thời kỳ nhà Lê, hoặc chỉ nghiên cứu về cổ luật thời kỳ nhà Nguyễn. Chưa có
công trình nào nghiên cứu về cổ luật thời kỳ nhà Nguyễn trong lĩnh vực thừa kế.
Đáng lưu ý là, nghiên cứu cổ luật dưới phương diện vận dụng các giá trị của cổ luật
trong việc hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành đến nay vẫn là nội dung chưa
được quan tâm đúng mức.
27
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
cũng như đánh giá được những thành tựu tiến bộ và yếu tố vận dụng trong hoàn
thiện pháp luật dân sự hiện đại. Chưa có công trình nào nghiên cứu quá trình vận
dụng các giá trị này trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Hơn nữa, đặt
vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh vẫn giữ gìn và phát huy giá
trị truyền thống để xây dựng nền văn hóa pháp lý Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc thì đây là vấn đề càng cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề
“Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và sự vận dụng trong hoàn thiện
pháp luật thừa kế ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
28
Chương 2
NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ
THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CÁC TIỀN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT THỪA
KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử * Điều kiện kinh tế - xã hội và pháp luật thời kỳ Lê sơ (1428 - 1527)
Trong lịch sử phát triển các nhà nước phong kiến ở Việt Nam, thời Lê sơ (thế
kỷ thứ XV - thế kỷ XVIII) được đánh giá là thời kỳ phát triển hưng thịnh, đặc biệt
là giai đoạn khi vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) trị vì đất nước (1460 - 1497),
một vị vua anh minh, xuất chúng và mẫn tiệp.
Những chuyển biến về kinh tế thời Trần mạt (nửa sau nhà Trần, tức 1300 -
1400) tạo tiền đề để nhà Lê xây dựng nền kinh tế ổn định, thịnh vượng hơn trước.
Nhà Lê xóa bỏ chế độ ban cấp ruộng đất quy mô lớn thời Lý - Trần, thủ tiêu nền
kinh tế điền trang, thái ấp, phát triển nền kinh tế tiểu nông với chế độ sở hữu nhỏ và
vừa. Thực hiện chủ trương này, Nhà nước Lê sơ đã tiến hành thực hiện các chính
sách về ruộng đất: chính sách lộc điền và phong thưởng ruộng đất công; chính sách
quân điền; chính sách đồn điền và khẩn hoang. Ở thời kỳ này, bên cạnh chính sách
lộc điền, Nhà nước còn thi hành chính sách phân chia lại ruộng đất - gọi là phép
quân điền nhưng thực chất là sự can thiệp của Nhà nước vào việc phân chia ruộng
đất công của làng xã. Để thi hành chế độ quân điền, nhà nước Lê sơ đã thực hiện
trên thực tế quyền sở hữu Nhà nước về ruộng đất, biến làng xã thành người quản lý
đất đai của Nhà nước; đồng thời biến nông dân công xã thành tá điền của Nhà nước.
Ngoài tính giai cấp, phép quân điền bảo đảm cho người nông dân, kể cả hạng cố
cùng nhất - số ruộng tối thiểu để cày cấy sinh sống. “Ý nghĩa tích cực chính của chế
độ quân điền là đã góp phần phát triển kinh tế tiểu nông” [114, tr.120]. Bên cạnh
việc thực thi chính sách lộc điền, chính sách quân điền, nhà Lê còn thực hiện chính
sách đồn điền và khẩn hoang nhằm mở mang diện tích đất nông nghiệp.
Nền kinh tế và chế độ ruộng đất dưới thời kỳ này phát triển, đời sống người
dân ấm no, đầy đủ. Dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao: “Đời vua Thái Tổ, Thái
29
Tông / Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”; “Kì này lúa mọc xanh đồng / Giỗ
vua Thái Tổ, Thái Tông mưa rào”. Người dân ngày càng nhiều của cải và đất đai
tích lũy được, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển trong đó có các quan hệ về
thừa kế.
Trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Theo quan điểm của một số nhà văn hóa
học, đến thời Lê sơ, quá trình giao lưu - tiếp thu (tiếp biến) giữa văn hóa bản địa
Việt Nam với văn hóa Trung Hoa và văn hóa khu vực đã có thể coi là đạt đến đỉnh
điểm. Pháp luật chịu ảnh hưởng của pháp luật Trung Hoa, văn hóa thời kỳ này
chuyển sang kiểu văn hóa Nho giáo. Trong bối cảnh đó, các quan điểm “tôn quân
quyền”, “quân chủ thần quyền”, “chính danh”, “lễ trị”, “đức trị”... được giai cấp
phong kiến Đại Việt tiếp thu làm cơ sở tư tưởng chính trị pháp lý của giai cấp mình.
Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, khi khảo cứu các sử liệu, có thể nhận thấy,
nhân dân và các vua triều Lê sơ vẫn luôn chú trọng giữ gìn và phát triển văn hóa
bản địa. Bên cạnh việc tiếp biến văn hóa Trung Hoa, triều Lê sơ vẫn phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ trong việc khuyến khích sự phát triển giá trị truyền thống của
dân tộc Việt trong đó có các tục lệ về thừa kế.
Không nghi ngờ gì thời Lê sơ mà tập trung là giai đoạn Lê Thánh Tông
trị vì, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu đã đạt tới sự ổn định, kỷ
cương và thịnh trị thường vẫn được coi vào bậc nhất trong chế độ phong
kiến Việt Nam. Thế kỷ XV như là thế kỷ cổ điển của chế độ nhà nước
quân chủ phong kiến quan liêu [126, tr.32].
- Tình hình pháp luật thời Lê sơ
Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật là một quá trình pháp điển hóa liên
tục được bắt đầu từ đời vua Lê Thái Tổ đến đời vua Lê Cung Hoành và đỉnh cao là
dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đầu năm 1428, khi còn ở dinh Bồ Đề, Bình Định
Vương đã “bàn định pháp lệnh cai trị quân dân” và đưa ra yêu cầu xây dựng pháp
luật: “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn”
[89, tr.27]. Dưới thời vua Lê Thái Tông (1423-1442) những chỉ dẫn trong Hồng
Đức thiện chính thư với Quốc triều hình luật cho thấy có 5 điều khoản đã được Lê
Thái Tông bổ sung vào Bộ luật. Ngoài ra, ông đã cho đưa thêm vào Bộ luật nội
dung điều khoản phù hợp với lệnh chỉ năm 1434 và một số Chỉ Dụ của ông năm
30
1437. Vua Lê Nhân Tông (1443 - 145), năm 1449 bổ sung thêm 14 điều luật về
quyền tư hữu ruộng đất và nguyên tắc xét xử những tranh chấp về ruộng đất mà
theo Phan Huy Chú, “từ đó về sau các vụ tranh kiện về phân chia tài sản trong dân
gian mới có tiêu chuẩn” [25, tr.29]. Đó là Chương Điền sản của Bộ luật thời Lê sơ.
Vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) - vị vua của triều Lê sơ đã có những đóng
góp lớn lao để hoàn thiện pháp luật triều Lê, đặc biệt là bộ QTHL. Phần lớn các luật lệ
ban hành dưới triều vua Thái Tông được tập hợp trong hai tập tư liệu về pháp luật là
Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính thư. Theo chính sử, Thiên Nam dư hạ
tập là bộ sách được biên soạn vào năm 1483 gồm có 100 quyển. Hiện nay chỉ còn 4,5
quyển trong đó có quyển ghi chép lại một số luật lệnh với niên hiệu Quang Thuận và
Hồng Đức. Khi so sánh từng điều khoản trong Thiên nam dư hạ tập với QTHL cho
thấy có 41 điều khoản đã được Thánh Tông đưa thêm vào Bộ luật. Tiếp tục so sánh
từng điều khoản trong Hồng Đức thiện chính thư với QTHL cho thấy có 42 điều khoản
đã được đưa vào QTHL. Trên cơ sở tổng hợp và hệ thống hóa toàn bộ các điều luật đã
ban hành trong thời Lê sơ và bổ sung thêm, vua Lê Thánh Tông đã tập hợp, xây dựng
thành một Bộ luật hoàn chỉnh thường gọi là Luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật.
Riêng đối với các quy định về thừa kế, QTHL cũng đã có những quy định chặt
chẽ, đặc biệt là các điều luật về hương hỏa hoàn toàn mang bản sắc dân tộc Việt (quy
định từ Điều 388 đến Điều 400 QTHL). Theo nhận định của GS. Vũ Văn Mẫu:
So với luật nhà Đường, Quốc triều hình luật nhà Lê ngay cách sắp xếp,
bố cục cũng không giống nhau, nhưng điều quan trọng là về nội dung,
trong Bộ luật nhà Lê đã có rất nhiều điều tân kỳ, chưa hề được ban hành
bao giờ ở Trung Hoa. Những điều luật ấy rải rác khắp trong Bộ Hình luật
nhà Lê, nhất là trong hai chương Hộ hôn và Điền sản. Hai chương này
là... một sự tân kỳ mới mẻ [51, tr.89].
Nhìn chung pháp luật thế kỉ XV - XVIII không những đồ sộ về khối lượng
mà còn phong phú về hình thức văn bản và đa dạng về lĩnh vực điều chỉnh. Những
thành tựu lập pháp trong thời kỳ này được xây dựng trên nền tảng kinh tế - xã hội
thịnh trị của phong kiến Việt Nam, nhất là ở thời kỳ Lê sơ mà đỉnh cao là thời kỳ Lê
Thánh Tông đã trở thành mẫu mực, các triều đại trước đó chưa hề đạt tới, triều đại
sau cũng khó có thể vượt qua và phải lấy đó để noi theo.
31
* Điều kiện kinh tế - xã hội và pháp luật thời Nguyễn (giai đoạn độc lập tự
chủ) (1802 - 1858)
Trong nhận định và đánh giá về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
(thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX) vẫn còn có những khác biệt giữa các nhà nghiên cứu
và còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận. Tuy nhiên, tác giả
thống nhất với nhận định của GS. Phan Huy Lê:
Mẫu số chung của những công trình nghiên cứu vẫn thống nhất phải khai
thác những nguồn tư liệu phong phú, phân tích và xử lý một cách khoa
học để nâng cao nhận thức về thời kỳ này một cách khách quan, trả lại
các giá trị đích thực cho các triều vua chúa, các nhân vật lịch sử, nêu cao
những cống hiến tích cực, đồng thời phân tích cả những mặt hạn chế, tiêu
cực [111, tr.373].
Các nguồn tư liệu và kết quả nghiên cứu cho đến nay đã tạo lập một cơ sở
khoa học vững chắc để các nhà khoa học trên các lĩnh vực lịch sử và pháp luật cùng
nhau nhìn nhận và đánh giá một cách công bằng đối với những thành tựu về kinh tế
- xã hội và pháp luật vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX, phân
tích một cách khách quan mặt tích cực và cả mặt hạn chế, mặt mạnh và cả mặt yếu.
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận nêu trên, luận án đưa ra những đánh giá
khách quan về điều kiện kinh tế - xã hội và pháp luật triều Nguyễn.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội
Thời phát triển của vương triều bao gồm các đời vua Gia Long (1802 -
1820), Minh Mạng (1820 - 1841) và Thiệu Trị (1841 - 1847), tức khoảng nửa đầu
thế kỷ XIX, thời thịnh đạt nhất là dưới triều vua Minh Mạng. Nước Việt Nam, quốc
hiệu đặt năm 1804, và Đại Nam năm 1838, là một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ
rộng lớn gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện nay, bao gồm cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài cũ.
Về mặt kinh tế, Nhà nước vẫn duy trì phương thức sản xuất phong kiến trên
cơ sở chế độ sở hữu tư nhân như dưới triều Lê sơ và ngày càng mở rộng; có chính
sách tích cực trong việc phát triển kinh tế, đặc biệt là việc quản lý và mở rộng đất
đai (nhiều nhất là quai đê, lấn biển lập làng). Nông nghiệp vẫn chú trọng, nhưng
công thương nghiệp vẫn bị hạn chế nhiều. Dưới triều Nguyễn, đánh dấu sự phát
32
triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu và chiếm hữu tư nhân về ruộng đất. Xu hướng
chung đối với ruộng đất công làng xã là ngày càng thu hẹp để nhường chỗ cho chế
độ ruộng đất tư hữu ngày càng phát triển. Đây cũng là tiền đề cho sự phát triển của
pháp luật dân sự nhất là sự bức thiết ra đời của pháp luật thừa kế xuất phát từ nhu
cầu thừa kế đất đai của tư nhân. Song song với chính sách thừa nhận tư hữu đất đai,
nhà Nguyễn cũng có các chính sách bảo vệ ruộng đất công làng xã như ban hành
chính sách quân điền (năm 1804 dưới thời vua Gia Long và năm 1839 dưới thời vua
Minh Mạng).
Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận một số thành tựu khai hoang, thủy lợi,
phát triển nông nghiệp thời Nguyễn, nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ và vùng đồng
bằng ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông thủy bộ phát triển mạnh, nhất là hệ
thống kênh đào ở Nam Bộ và hệ thống đường dịch trạm nối liền kinh đô Huế với
các trấn, tỉnh thành trên cả nước. Các trạm dịch được tổ chức rất chặt chẽ với những
quy định về thời hạn chuyển văn thư phân làm ba loại: tối khẩn, khẩn, thường. Thí
dụ loại “tối khẩn”, từ kinh đô Huế vào đến Gia Định là 9 ngày, ra đến Hà Nội là 4
ngày 6 giờ.
Về mặt xã hội, Nhà nước vẫn chú trọng và duy trì chế độ học hành, thi cử để
tuyển dụng quan lại, tiếp tục đề cao Nho giáo, quan tâm và khuyến khích sự phát
triển của các loại hình văn hóa dân tộc khác như văn học, sử học, nghệ thuật... triều
Nguyễn cũng lập Quốc Tử Giám, mở khoa thi Hương và thi Hội để đào tạo nhân tài.
Từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1822 đến khoa thi cuối cùng năm 1919, triều Nguyễn
tổ chức được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ 292 Tiến sĩ và 266 Phó bảng, cộng 558 người.
Khu Văn Miếu tại kinh đô Huế còn lưu giữ 32 tấm bia Tiến sĩ thời Nguyễn. Công
việc biên soạn quốc sử, các bộ chính sử của vương triều, các bộ tùng thư và địa chí
được đặc biệt quan tâm và để lại một di sản rất đồ sộ. “Có thể nói, trong thời quân
chủ, chưa có Quốc Sử Quán của vương triều nào hoạt động có hiệu quả và để lại
nhiều công trình biên soạn đến như thế” [42, tr.376].
Những cống hiến tích cực của vương triều Nguyễn đã được nhìn nhận và
đánh giá lại một cách khách quan, công bằng. Nhưng bên cạnh đó cũng cần nhìn
nhận những hạn chế về kinh tế - xã hội thời kỳ này.
33
- Những năm đầu nắm chính quyền, vua Gia Long đã cho thi hành chính sách
hà khắc, mở rộng phạm vi trừng trị hình sự, củng cố sự bất bình đẳng xã hội và không
quan tâm nhiều đến chính sách xã hội, bảo đảm đời sống cho người dân. Đây cũng là
nguyên nhân pháp luật dân sự ít được đề cập đến ở triều vua Gia Long, là sự thiếu sót
ban đầu trong chính sách dân luật nhất là pháp luật thừa kế của thời nhà Nguyễn.
- Vương triều Nguyễn dù ban hành nhiều chính sách khẩn hoang tích cực, kể
cả một số chính sách giảm nhẹ tô thuế, nhưng xã hội thời Nguyễn không ổn định.
Trong gần như suốt thời Nguyễn, khởi nghĩa nông dân nổ ra triền miên và triều
Nguyễn không thể nào giải quyết nổi.
- Từ triều Tự Đức (1848 - 1883), vương triều Nguyễn càng ngày càng bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập, làm cho thế nước ngày càng suy yếu và cuối cùng thất bại
trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội xét cả trên phương diện thành tựu
và hạn chế đều là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá khách quan về nền pháp luật
(nhất là pháp luật thừa kế) thời kỳ nhà Nguyễn.
- Tình hình pháp luật thời nhà Nguyễn (giai đoạn độc lập tự chủ).
Thành tựu lập pháp của giai đoạn này tập trung ở Bộ HVLL (ban hành dưới
triều Gia Long), bộ Quốc triều tân luật (ban hành dưới triều Minh Mạng) và hệ
thống các văn bản pháp luật bổ khuyết cho hai Bộ luật chính (các đạo, chỉ, dụ…).
+ Về Bộ HVLL dưới triều Gia Long
Sau khi lên ngôi năm 1802, Vua Gia Long đã ra Chỉ Dụ cho các quan đại
thần tham chước lại luật Hồng Đức và luật Đại Thanh để soạn một bộ luật thích
hợp. Năm 1812, bộ HVLL (còn gọi là Bộ luật Gia Long) được ban hành và năm
1815 được in thành sách để phân phát cho các quan cai trị.
Về mặt nội dung, bộ HVLL gồm có 398 điều chia làm 22 quyển, các điều
được phân theo chức năng quản lý của 6 Bộ ở cấp Trung ương. Trong HVLL, các
quy định về dân sự đặc biệt là các quy định về thừa kế chiếm một tỷ lệ rất nhỏ,
nhiều vấn đề dân sự không được ghi nhận và thiếu những quy định cụ thể, tính chất
hướng dẫn trong các quy phạm rất hạn chế, chủ yếu là những cấm đoán, vì vậy khi
vận dụng và áp dụng chắc chắn không tránh khỏi việc thiếu sót và tùy tiện. Trong
quyển 6, 7, 8 HVLL gồm 66 điều luật Hộ. Tuy nhiên trong đó chỉ có 10 điều về
34
ruộng, nhà, 16 điều về hôn nhân, 3 điều về vay nợ là thuộc sự điều chỉnh của pháp
luật dân sự. Điều đáng chú ý là trong HVLL chỉ có duy nhất 1 điều lệ quy định về
lập đích tử (lập con thừa tự), ngoài ra hầu như không đề cập đến vấn đề về hương
hỏa, chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế, khế ước... mà chỉ chú ý đến vấn đề thuế
ruộng, thuế thân...
Hoàng Việt luật lệ là sản phẩm lập pháp dưới triều Gia Long - triều đại đầu
tiên của vương triều Nguyễn - ra đời trong bối cảnh chính trị hết sức phức tạp.
Trong những năm đầu nắm quyền thống trị, đất nước không ổn định sau thời gian
nội chiến kéo dài, mối quan hệ nặng về thù hận với những người lãnh đạo của
phong trào Tây Sơn nhất là nghĩa quân Tây Sơn vẫn còn rải rác trong nhân dân,
phạm vi biên giới mở rộng không tránh khỏi sự dòm ngó của phong kiến phương
Bắc, sự tác động mạnh mẽ của Chủ Nghĩa Tư Bản phương Tây... Chính trong hoàn
cảnh chính trị đặc biệt này nên HVLL tất nhiên ra đời nhằm giải quyết các vấn đề
trước mắt của xã hội đương thời nên nặng về hình luật. Tình hình đất nước chưa ổn
định nên vua Gia Long chưa thể tập trung phong tục các quan hệ dân sự, trong đó
có quan hệ về thừa kế mà chỉ chủ yếu giải quyết vấn đề cấp thiết về ruộng đất. Như
vậy, sẽ là khập khiễng khi các nhà nghiên cứu đặt HVLL (ra đời trong bối cảnh
chính trị - xã hội đang nhiều biến động) của triều Nguyễn để so sánh với QTHL (ra
đời trong giai đoạn thịnh vượng của nhà nước phong kiến) dưới triều Lê sơ. Đây
cũng là nguyên nhân khiến cho ban đầu dưới triều Nguyễn, trong HVLL còn nhiều
thiếu sót về mặt pháp luật nhất là thiếu sót về các chế định dân luật và thừa kế.
+ Bộ Quốc triều tân luật dưới triều Minh Mạng
Nghiên cứu nền pháp luật nhà Nguyễn giai đoạn độc lập tự chủ không chỉ tập
trung nghiên cứu mỗi HVLL dưới triều Gia Long mà còn phải mở rộng phạm vi
khảo cứu các văn bản pháp luật của các triều đại sau Gia Long, nhất là dưới thời
Minh Mạng (1820 - 1841), Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883), trong
đó pháp luật nhà Nguyễn dưới thời Minh Mạng được xem là phát triển rực rỡ trong
giai đoạn thịnh đạt nhất triều Nguyễn. Khảo cứu các tài liệu về cổ luật thời kỳ nhà
Nguyễn, nhận thấy thật ra ngoài HVLL ban hành dưới triều Gia Long, vua Minh
Mạng trong thời gian trị vì còn ban hành bộ Quốc triều tân luật. Trong bộ luật thứ
hai dưới triều Nguyễn này, vua Minh Mạng đã chủ yếu bổ khuyết các vấn đề dân
35
luật và về thừa kế, hương hỏa... nghiên cứu một số chế định cho thấy nội dung Quốc
triều tân luật gần với QTHL triều Lê sơ. Chắc chắn rằng Minh Mạng đã kế thừa các
giá trị tiến bộ của triều Lê sơ để hoàn thiện Quốc triều tân luật. Đáng tiếc là bộ
Quốc triều tân luật hiện nay vẫn đang ở nguyên mộc bản - chữ Hán chưa được dịch
ra chữ quốc ngữ vì vậy chưa được lưu hành rộng rãi trong giới nghiên cứu.
+ Hệ thống các văn bản dưới luật, bổ khuyết cho các Bộ luật chính
Để bổ khuyết cho 2 Bộ luật chính này, nhà Nguyễn còn ban hành rất nhiều
các văn bản pháp luật khác như Chiếu, Chỉ và đặc biệt là Đạo, Dụ của các Vua. Đạo
dụ năm Thiệu Trị thứ tư (1844) bổ sung cho Điều 83 HVLL điều chỉnh các vấn đề
di sản của người vô tự. Đạo dụ năm Gia Long thứ ba (1805) và Đạo dụ năm Tự Đức
thứ tám (1855) quy định về hôn nhân. Các Đạo dụ và Chỉ dụ này đầu tiên được chép
trong Minh Mạng luật đại lược, Hoàng triều khai định luật lệ và Chấn chỉnh hương
phong. Nội dung của Hoàng triều khai định luật lệ và Chấn chỉnh hương phong
chép gần giống nhau và bổ sung cho nhau. “Điều chú ý là có thể thấy trong hai bản
văn đó có một số điều luật hộ, hoặc không thấy hoặc có nội dung khác với những
điều luật hộ trong bộ Luật Gia Long. Trừ vài điểm thuộc thời Minh Mạng (năm thứ 6)
còn hầu hết đều thuộc năm đầu thời Thiệu Trị” [9, tr.71]. Và “...cách giải quyết các
quan hệ dân sự trong Hoàng triều khai định luật lệ và Chấn chỉnh hương phong dưới
thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không khác gì pháp luật triều Lê sơ” [9, tr.73].
Từ các luận giải trên đi đến kết luận, pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn giai đoạn
độc lập cũng là một nền pháp luật tương đối hoàn bị, vẫn phản ánh tinh thần độc lập
tự chủ, trên cơ sở tiếp thu tinh hoa pháp luật Trung Hoa và kế thừa cổ luật nhà Lê.
2.1.2. Tiền đề xác lập pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn * Tiền đề thứ nhất: Quyền thừa kế được xác lập trên cơ sở điều kiện kinh tế
của nền sản xuất nông, công và thương nghiệp.
Nhà Lê, nhà Nguyễn với trạng thái kinh tế phổ biến nhất là nông nghiệp;
ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, quý giá nhất và là tài sản giá trị nhất
trong khối di sản thừa kế của người dân. Cả 2 thời kỳ này đã có những chính sách
hợp lý để khuyến khích người dân tích cực trong hoạt động sản xuất nông nghiệp vì
bản thân họ được sở hữu đất đai và được hưởng lợi từ những chính sách ruộng đất
của Nhà nước. Theo đó, “Nhà nước không chỉ thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất
36
cho mọi đối tượng trong xã hội, mà còn bằng những biện pháp thiết thực để bảo
đảm và hiện thực hóa các quyền đó” [110, tr.22]. Nhà nước thừa nhận đất đai là
hàng hóa được trao đổi thông qua các giao dịch dân sự đồng thời cho phép thừa kế
ruộng đất.
Như vậy, các quyền tài sản trong đó có quyền để lại thừa kế, quyền hưởng
thừa kế được thừa nhận cho mọi đối tượng, không phụ thuộc vào đẳng cấp, địa vị,
giới tính,... điều này phù hợp với trạng thái kinh tế nông nghiệp đương thời. So với
các quyền tài sản khác, quyền thừa kế ruộng đất được quy định chặt chẽ nhất. Hơn
nữa, sự biến động của chế độ ruộng đất thời Lê, thời Nguyễn kéo theo sửa đổi, bổ
sung các quy định về ruộng đất cho phù hợp với thực trạng đó. Cụ thể, vào thời
điểm ban hành, QTHL dành hẳn một chương quy định về các chế độ ruộng đất,
chương Điền sản có 32 điều; và duy nhất Chương này trong QTHL liên tục được bổ
sung nhiều lần với 27 điều (chưa kể vấn đề ruộng đất còn được quy định trong
nhiều văn bản cổ luật khác). Trong pháp luật nhà Nguyễn nội dung này cũng được
chú trọng không kém. Đạo dụ năm Minh Mạng thứ 20 (1839) bổ sung trình tự, thủ
tục và hình thức của văn khế ruộng đất; Đạo dụ năm Thiệu Trị thứ tư (1844) bổ
sung Điều 83 HVLL điều chỉnh các vấn đề về tài sản thừa kế của người vô tự...
Việc mở rộng các quyền thừa kế về ruộng đất cho người dân được quyết định
bởi sự phát triển của nền kinh tế, trước hết là kinh tế nông nghiệp.
Việc Nhà nước Việt Nam ban hành các văn bản có các điều khoản về
thừa kế đất đai là một bằng chứng nữa về sự tồn tại của sở hữu tư nhân
về ruộng đất ở thế kỷ XV và các thế kỷ tiếp đó. Chính sự phát triển của
chế độ tư hữu ruộng đất đã làm cho hiện tượng thừa kế ruộng đất phổ
biến. Và lẽ đương nhiên có những tranh chấp phát sinh từ việc thừa kế
ruộng đất. Nhà nước cần thông qua chế định thừa kế để ổn định cơ sở gia
tộc của chế độ phong kiến [127, tr.283].
* Tiền đề thứ hai: Quyền thừa kế được xác lập trên cơ sở ảnh hưởng và tiếp
thu các giá trị truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Việt.
Một là, xuất phát từ truyền thống nhân văn của dân tộc.
Pháp luật thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn phản ánh từ đặc trưng của một nền văn
hóa nông nghiệp - xóm làng, đề cao cuộc sống gia đình. Ở Việt Nam, một gia đình
37
có nhiều thế hệ cùng chung sống trong một nhà là truyền thống, những gia đình
“tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường” được xem là phúc đức. Con người gắn
kết nhau bởi quan hệ huyết thống, gia đình, dòng tộc, làng xã, “máu chảy ruột
mềm”, “chị ngã em nâng”, “sẩy cha còn chú / sẩy mẹ bú dì”, “thương người như thể
thương thân”, “giọt máu đào hơn ao nước lã”... Trong gia đình, tình thương, trách
nhiệm và gắn bó của các thế hệ là rất chặt chẽ. Vì vậy, người Việt Nam luôn nghĩ
đến việc dành dụm chắt chiu để lại “cơ đồ” cho con cháu.
Thừa kế là cần thiết để người quá cố làm tròn bổn phận của mình đối với gia
đình, dòng họ. Khi sinh ra, họ đã có bổn phận “hiếu thảo”, “kính nhường” đối với
ông bà cha mẹ. Khi trưởng thành họ ý thức được bổn phận phải chăm lo cho gia
đình. Đến lúc nhắm mắt họ cũng tiếp tục mong muốn làm tròn bổn phận chăm lo
cho hậu thế. Của cải của người Việt được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
“hầu như được ứng xử theo bổn phận, đạo hiếu trong gia đình, dòng họ và tập quán
có tính chất phổ thông” [41, tr.24]. Mọi sự quy định về thừa kế của cổ luật Việt
Nam đều được quy định theo mục đích củng cố nền tảng gia đình và bảo đảm sự lưu
truyền dòng dõi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống nhân văn là cơ sở
quan trọng cho việc hình thành các quan niệm về cổ luật thừa kế. Các quy định về
hương hỏa, thừa kế được ban hành từ thời Lê Sơ năm 1449, tiếp tục được kế thừa
dưới thời Nguyễn qua các triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức phần nào thể
hiện sự “luật hóa” các truyền thống văn hóa của người Việt cổ. Điều này hoàn toàn
xuất phát từ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân Việt, từ nhu cầu thực tế
của đời sống văn hóa Việt xưa.
Hai là, xuất phát từ tín ngưỡng tế tự, thờ cúng tổ tiên của người Việt xưa
Toan Ánh cho rằng: “Nếu trong tín ngưỡng ta có cái gì đặc biệt hơn hết, phải
nói đó là thờ phụng tổ tiên và việc cúng giỗ những người đã khuất” [3, tr.12]. Vì
việc tế tự tổ tiên theo tục lệ là một nghĩa vụ nghiêm mật, con cháu không khi nào
được bỏ, cho nên các nhà khá trở lên, người ta thường trích trong di sản một phần tự
sản gọi là “phần hương hỏa” giao cho người tộc trưởng hoặc người chi trưởng, con
trai trưởng giữ để lo tế tự tổ tiên ở nhà thờ họ và nhà thờ chi. Việc tế tự tổ tiên
không phải là chỉ cốt cho linh hồn tổ tiên khỏi khổ mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn
nữa, là nhớ ơn sinh thành của của tổ tiên (phục bản phản thủy), và lưu truyền nòi
38
giống mãi mãi về sau (vĩnh truyền tôn thống), cho nên ta có thể cho rằng tế tự tổ
tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích. Phan Kế Bính trong Việt Nam phong
tục đã viết: “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất thành kính, ấy cũng là một lòng
bất vong bản, ấy cũng là nghĩa cử của người”. “Cây có gốc mới nở ngành xanh
ngọn / Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” [13, tr.75]. Ngoài việc kế thừa chế
định hương hỏa từ tín ngưỡng và truyền thống của dân tộc, nhà cầm quyền của hai
triều đại nhà Lê và nhà Nguyễn ý thức rõ việc bảo vệ, tiếp tục phát triển chế định
hương hỏa, song song với nó là việc đề cao phong tục thờ cúng tổ tiên. Khi người
phương Tây coi tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một “tục đầy sự mê tín” thì vua
Gia Long đã giải thích ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cần được duy trì:
Tôi đã cấm ma thuật, chiêm tinh, đoán số và tôi cũng coi việc thờ ngẫu
tượng là sai và kỳ cục. Nhưng tôi kiên trì thờ cúng ông bà theo cách mà
tôi đã trình bày với Ngài, bởi tôi coi đó như là một trong những cơ sở của
nền giáo huấn chúng tôi. Nó gợi cho con trẻ ngay từ khi còn ấu thơ lòng
hiếu thảo đối với cha mẹ và đem lại cho các bậc cha mẹ cái quyền uy mà
nếu thiếu nó, họ không thể ngăn chặn tốt những sự hỗn loạn trong gia
đình [63, tr.258].
Phong tục thờ cúng tổ tiên vừa là tiền đề, vừa là hình thức của chế định
“hương hỏa”. Bằng việc quy định, bảo vệ và duy trì các phong tục tập quán của dân
tộc, pháp luật hóa thành các chế định hương hỏa trong cổ luật thừa kế. Cổ luật đã
chứng minh được ý thức dân tộc, tính Việt trong các chế định về thừa kế dưới pháp
luật các thời kỳ này.
Ba là, truyền thống tôn trọng phụ nữ.
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà → coi trọng cái
bếp → coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình - người nắm “tay hòm chìa khóa”.
Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không bằng
cồng bà”, còn theo kinh nghiệm dân gian thì “Ruộng sâu trâu nái, không bằng con
gái đầu lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong
việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang… Vì tầm quan trọng
của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ “cái” với nghĩa là “mẹ” đã mang thêm
39
nghĩa “chính, quan trọng”: sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay
cái, mái cái... Dười thời nhà Lê, nhà Nguyễn các Vua rất coi trọng những phụ nữ giữ gìn
gia đạo, gia phong, lễ giáo bằng việc ban tặng danh hiệu. Vua Lê Thánh Tông, năm
1463 khởi xướng việc ban tặng danh hiệu “Tiết hạnh khả phong” cho những phụ nữ
như vậy. Người đầu tiên nhận được danh hiệu là bà Nguyễn Thị Bồ, người làng Đại
Hữu, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội); vì bà biết giữ tiết hạnh
thờ chồng, hy sinh cả cuộc đời để nuôi dạy con cái nên người (có người đỗ đạt làm
quan) [110, tr.32]. Sau này, có nhiều người phụ nữ khác cũng được ban tặng danh
hiệu này hay danh hiệu “Liệt nữ”. Người được sắc phong danh hiệu này hưởng
nhiều quyền lợi vật chất (như: chính sách ưu đãi của nhà nước về tô thuế, trợ cấp
của nhà nước,...). Vấn đề này cũng được các vua nhà Nguyễn quan tâm. Một Chỉ dụ
đề ngày 25 tháng 10 năm Gia Long 18 (12/12/1899) đã ghi rõ:
Hàng năm, lý trưởng, xã trưởng phải lập danh sách những người trong
làng, xã thọ 80 tuổi với đàn bà, những người con hiếu thuận với ông bà,
cha mẹ, những người con gái, những người vợ tiết hạnh để triều đình kịp
thời cấp biển biểu dương, phong tặng làm gương cho mọi người noi theo,
xây dựng nên mỹ tục ở làng xã [2, tr.21].
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều
học giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat) [98, tr.29]. Và
nền văn hóa Việt được GS Trần Quốc Vượng trân trọng định vị bằng “nguyên lý
Mẹ” [110, tr.29].
Với truyền thống, ý thức của dân tộc về đề cao và tôn trọng người phụ nữ là
một trong những cơ sở thực tế để từ đó xác lập các quyền cơ bản cho nữ giới trong
các lĩnh vực kinh tế hôn nhân - gia đình, thậm chí cả trong lĩnh vực chính trị, nhưng
đặc biệt nhất là lĩnh vực dân sự thừa kế trong cổ luật. Điều này sẽ được minh chứng
rõ nét hơn trong các nội dung sau.
Bốn là, ảnh hưởng phong tục tập quán của dân tộc Việt
Trong đời sống, nhu cầu về sở hữu tài sản, thừa kế và hương hỏa nảy sinh từ
rất sớm, trong khi đó, mãi đến năm Nhâm Ngọ niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo (1042),
nhà Lý mới ban hành bộ luật đâu tiên là Hình thư. Các vương triều sau đều soạn
40
thảo các bộ luật riêng cùng một hệ thống các văn bản pháp luật khác, tiêu biểu là bộ
Hình thư của nhà Trần (năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long - 1266), Bộ Quốc triều
hình luật (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) của triều Lê hoàn thành vào khoảng năm
Quý Mão (1483), về sau là bộ Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Luật Gia Long) của
triều Nguyễn soạn xong năm Ất Mão (1815). Như vậy, trước khi có luật của Nhà nước
đến hàng nghìn năm, cư dân các làng Việt quen sống với lệ tục của họ và khi giải quyết
các tranh chấp thừa kế trong đời sống dân sự họ tuân theo các tục lệ mang tính phổ
thông. Thêm nữa, pháp luật thời phong kiến còn thiếu đồng bộ, thiếu đầy đủ, văn bản
luật in ra ít, văn bản pháp luật về dân sự và thừa kế lại càng ít hơn. Phần lớn trong các
tranh chấp dân sự về thừa kế cư dân làng xã không hiểu luật, nên thường lấy luật tục
của buôn bản, hương ước của làng mình để xử lý các vấn đề nảy sinh.
Đứng trước tình hình đó, Nhà nước phong kiến cả nhà Lê và nhà Nguyễn đã
thể hiện việc thừa nhận tục lệ thừa kế qua ba nội dung sau đây:
- Nhà nước chấp nhận tục lệ về thừa kế trong luật, soạn thảo luật có nội dung
phù hợp với phong tục.
- Nhà nước phong kiến dùng luật để củng cố phong tục và từ đó trở lại củng
cố pháp luật tạo ra sự ổn định trong quan hệ pháp luật thừa kế.
- Nhà nước định hướng phong tục theo quỹ đạo của Nhà nước, dùng các biện
pháp để kiểm soát và “áp chế” phong tục.
Điển hình cho thái độ này, dưới triều Lê, vua Lê Thánh Tông vào năm Giáp
Thân niên hiệu Quang Thuận (1464) đã ra Sắc dụ cho phép: “làng nào có những
phong tục khác lạ thì có thể cho đặt ra những lệ cấm” [127, tr.353]. Và tại Điều 40
QTHL lại minh thị: “những người miền thượng du cùng phạm tội với nhau thì theo
phong tục xứ ấy mà định tội”. Dưới triều Nguyễn, vua Gia Long khi ban bố điều lệ
Hương đảng vào tháng giêng năm Giáp Tý (1804) trong phần mở đầu đã nói rõ:
“nước là hợp các làng mà thành. Từ làng mà đến nước, dạy dân nên tục, vương
chính lấy làng làm trước... nay tham chước thêm bớt, xén chỗ quá đáng, để chỗ vừa
phải, lập định lệ để cùng về đường chính vậy” [47, tr.127]
Chính việc nhà nước phong kiến không thể “với tay” đến hết các cấp cơ sở
giải quyết các tranh chấp dân sự nhất là tranh chấp về thừa kế; “phép vua” đôi lúc
“thua lệ làng” nên việc nghiên cứu các nội dung thừa kế trong hương ước và luật tục
41
cổ xưa cũng là một trong những cơ sở để có cái nhìn toàn diện về cổ luật thừa kế
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn.
* Tiền đề thứ 3: Tham chước chọn lọc pháp luật Trung Hoa và là sự kế thừa nền pháp luật thừa kế giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam
Ở Việt Nam, tuy ở các triều đại trước, cụ thể là nhà Trần và trước đó, theo lời Phan Huy Chú, thì xây dựng nền tảng pháp luật cho triều đại mình, vẫn có việc “đều đã tham chước xưa nay” của trong nước cũng như ngoài nước kể cả hệ thống pháp luật của Hán - Tùy - Đường nhưng phải nói rằng chưa cơ bản, chủ yếu. Phải sang đến “đời Lê, Nho giáo (mới) giành được địa vị thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến... Từ đó, chính quyền phong kiến lấy Nho giáo làm mẫu mực cho việc dựng nước trị dân, làm khuôn vàng thước ngọc cho việc xây dựng các thiết chế chính trị và xã hội” [25, tr.159]. Tuy nhiên, bên cạnh sự vay mượn này, nhà lập pháp triều Lê và cả triều Nguyễn đều đã có những sửa đổi, bổ sung trong nội dung chế định về thừa kế, thậm chí sáng tạo riêng để phù hợp với tục lệ và điều kiện của xã hội Việt xưa. Điều này dễ nhận thấy trong nội dung và hình thức của QTHL dưới thời Lê. Cụ thể như sau:
Về hình thức, cấu trúc QTHL được mô phỏng theo cấu trúc của Bộ luật nhà Đường, QTHL có 722 điều được nhóm thành 13 chương, Bộ luật nhà Đường có 502 điều được chia thành 12 chương. Các chương trong hai bộ luật này như sau: Bảng 2.1: So sánh các chương trong Quốc triều hình luật và Luật nhà Đường
QTHL Luật nhà Đường
1. Danh lệ 2. Vệ cấm 3. Vi chế 4. Quân chính 5. Hộ hôn 6. Điền sản 7. Thông gian 8. Đạo tặc 9. Đấu tụng 10. Trá ngụy 11. Tạp luật 12. Bộ vong 13. Đoán ngục
1. Danh lệ 2. Vệ cấm 3. Quy chế hành chính 4. Hộ hôn 5. Các chuồng ngựa của nhà nước và kho tàng 6. Những việc huy động lao dịch không được phép 7. Đạo tặc 8. Đấu tụng 9. Trá ngụy 10. Tạp luật 11. Bộ vong 12. Đoán ngục
Nguồn: [126, tr.50].
42
Như vậy, trừ 4 chương 3, 4, 6, 7 ra cả 9 chương còn lại của QTHL đều giống
với các chương còn lại trong bộ luật nhà Đường. Tuy nhiên, chính sự có mặt của 4
chương riêng có trong QTHL đã nói lên sự độc lập tương đối của các nhà làm luật triều
Lê trong quá trình xây dựng Bộ luật. Đặc biệt là chương 6 “điền sản” của QTHL nội
dung quy định về thừa kế và hương hỏa hoàn toàn không tìm thấy trong luật nhà
Đường. Nhà nghiên cứu Insun Yu đã khẳng định: “luật về quyền thừa kế gia tài và chế
độ hương hỏa của Bộ luật nhà Lê là đặc thù cho xã hội Việt Nam”. [131; tr.178]
Cả Insun Yu, Deloustal và Nguyễn Ngọc Huy khi nghiên cứu đối sánh giữa
QTHL và luật Trung Hoa đều thống nhất có quá nửa số điều khoản khác nhau giữa
hai bộ luật. Theo Insun Yu tỉ lệ khác biệt là 407 điều luật / 722 điều luật (chiếm tỉ lệ
56,37%); Theo Deloustal là 434 / 722 (chiếm tỉ lệ 60,19%); Theo Nguyễn Ngọc
Huy là 404 / 722 (chiếm tỉ lệ 55,95%) [127, tr.36]. Các điều khoản riêng có trong
QTHL tập trung chủ yếu ở chương Điền sản và Hương hỏa. Cũng theo nhiều nhà
nghiên cứu thống kê có 57 / 722 điều luật quy định về lĩnh vực thừa kế chiếm tỉ lệ
7% trên tổng số các điều luật của bộ luật. Số các điều khoản này mang sắc thái riêng
biệt, độc đáo thể hiện tục lệ hoàn toàn thuần Việt.
Theo quan niệm cổ điển, các điều thuộc về dân luật thường không được
nhà làm luật Đông phương quy định, cũng không nói rõ ràng về cách
thức thảo các văn tự, chứng thư, chúc thư, không định rõ về chế độ tài
sản của vợ chồng trong lúc sinh thời cũng như trong khi góa bụa, không
ấn định minh bạch các việc thừa kế, còn ba điều 374, 375, 376 thuộc mục
“Điền sản mới tăng thêm” của Quốc triều hình luật lại ghi rất rõ những
nội dung này. Về luật thừa kế, luật nhà Lê cũng giải thích cặn kẽ. Các
điều về hương hỏa đã đề cập đến một chế độ hoàn toàn Việt Nam, không
hề thấy trong luật nhà Đường, nhà Minh [127, tr.178].
Từ những luận cứ vững chắc trên, đi đến kết luận: Không thể phủ nhận sự
ảnh hưởng của cổ luật Trung Hoa trong việc xây dựng QTHL nhưng có thể thấy rõ
việc tham chước các chế định từ luật nhà Đường trong QTHL cũng đã được sửa đổi
cho phù hợp với điều kiện thực tế của nước Đại Việt. Và đặc biệt luật nhà Lê đã bổ
sung thêm các nội dung về dân luật bao gồm chế định thừa kế là những quy định
hoàn toàn thuần Việt, riêng có của QTHL.
43
Nghiên cứu nội dung của pháp luật thừa kế nhà Nguyễn đặc biệt là HVLL trên phương diện so sánh với pháp luật Trung Hoa đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Phạm vi nghiên cứu của luận án là pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn, không chỉ giới hạn trong HVLL. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, nguồn tư liệu không đầy đủ, chưa được dịch thuật và giới thiệu rộng rãi nên tác giả chưa có điều kiện khảo cứu tổng quát nội dung của cả nền pháp chế triều Nguyễn so sánh với pháp luật Trung Hoa. Tác giả trong khả năng có thể chủ yếu sử dụng một số đoạn trong các bộ luật và các Chỉ Dụ của triều Nguyễn có chứa đựng quy định về pháp luật thừa kế để phục vụ cho việc nghiên cứu chuyên sâu lĩnh vực này. Tất nhiên, HVLL vẫn là nguồn tài liệu chính quan trọng của triều đại này, nên việc nghiên cứu pháp luật thừa kế nhà Nguyễn tất yếu phải được bắt đầu từ HVLL. Việc đối sánh với cổ luật Trung Hoa tất yếu cũng phải bắt đầu từ HVLL. Trong lời tựa, đương kim hoàng đế Gia Long chỉ rõ: “...Các triều đình phương Bắc, các vua dựng lên những là Hán, Đường, Tống, Minh... Mỗi triều đại các sách về luật lệ đều có sửa đổi mà đầy đủ nhất là luật triều đại Thanh. Thế nên, ta lịnh cho triều thần... tham chiếu... luật Thanh triều; rút lấy, thêm bớt, cân nhắc, biên tập thành bộ luật tiện dụng” [96, tr.12].
Tuy nhiên, vấn đề tham chước “có chọn lọc” hay “sao chép y nguyên” pháp luật nhà Thanh, “phủ nhận” hay vẫn “kế thừa” pháp luật triều Lê về lĩnh vực thừa kế là vấn đề còn tranh cãi.
Quan điểm thứ nhất theo hướng phủ nhận hoàn toàn giá trị của HVLL và pháp luật triều Nguyễn, cho rằng HVLL là một bản sao chép của Đại Thanh luật lệ (ĐTLL) và tất cả các quy định về thừa kế trong QTHL thời Lê sơ đến HVLL và pháp luật nhà Nguyễn đều bị thủ tiêu hoàn toàn. Đây là quan điểm của các nhà nghiên cứu như: Trần Trọng Kim, P.L.F Philastre, G. Taboulet, Phan Văn Trường, GS. Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Phan Quang, GS. Trương Quang Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Hữu Châu Phan, Đinh Gia Trinh...
Quan điểm thứ hai theo xu hướng khẳng định giá trị tích cực của HVLL và lý giải cho sự thiếu sót ban đầu của HVLL về vấn đề thừa kế. Đây là quan niệm của các nhà nghiên cứu: TS. Huỳnh Công Bá, Nguyễn Q. Thắng, Vũ Anh Tuấn,...
Nghiên cứu nội dung thừa kế trong HVLL nằm rải rác trong các lệ của bộ
luật này, chỉ thấy được quy định tại lệ 1 Điều 83 (quy định về phân chia di sản cho
các con), lệ 2 Điều 83 (quy định về phân chia di sản cho con cái khi gia đình tuyệt
44
tự) và 1 lệ Điều 87 (quy định gián tiếp về hương hỏa). Còn lại 64 điều trong phần
Hộ luật không có quy định nào về thừa kế mà chỉ tập trung vào một số nội dung:
cho vay tiền (3 điều), cấm buôn bán họp chợ (2 điều). Kết cấu nội dung các điều luật
trong phần Hộ luật gần như sao chép nguyên ĐTLL. Chỉ khác ĐTLL 1 điều duy nhất
(Điều 90 quy định về điền trạch). Qua các căn cứ trên, trước hết tác giả đồng tình với
một số quan điểm của GS. Vũ Văn Mẫu. “Về hình thức, bộ HVLL so với bộ luật nhà
Thanh, chép gần đúng toàn thể nguyên văn, chỉ loại bỏ mất vài điều lệ” [51, tr.150]. Và
trong HVLL “Không có những điều khoản liên can đến hương hỏa, đến chúc thư, đến
các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng...” [51, tr.175].
Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu HVLL, ĐTLL, và các bộ luật, Chỉ, Dụ
của các vua sau vua Gia Long, luận án chỉ ra một số vấn đề cần quan tâm và nhìn
nhận khách quan hơn đối với pháp luật triều Nguyễn.
Một là, mặc dù sao chép chủ yếu ĐTLL nhưng HVLL vẫn có những nét dị
biệt, những giá trị tích cực.
Về số lượng điều luật, HVLL ít hơn ĐTLL 38 điều luật, được chia ra các
phần như sau:
Bảng 2.2: So sánh số lượng điều luật Hoàng Việt luật lệ và Đại Thanh luật lệ
Nội dung so sánh Hoàng Việt luật lệ
Đại Thanh luật lệ
Mục lục về tên gọi luật lệ 45 46 Chế độ quan chức 13 14 Dân 11 15 Điền trạch (ruộng, nhà) 10 11 Hôn nhân 16 17 Thương khố 22 23 Hạn thuế 2 8
Lại luật
Cấm buôn bán, họp chợ 2 5 Quân chính 20 21 Đồn canh xét trên đất trên sông 5 7 Chăn nuôi, chuồng trại 5 11 Binh luật
Bưu dịch 12 16 Kiện thưa 11 12 Nhận của đút lót 9 11 Hình luật Phạm gian 9 10
Công luật Xây cất 6 9 Nguồn: [100, tr.70].
45
Theo bảng so sánh trên, trong tổng số 38 điều luật khác biệt của HVLL, 2
điều luật là của riêng nhà Nguyễn và vài chục điều luật khác biệt ít nhiều với các
điều luật nhà Thanh. Những điều luật khác biệt của HVLL so với các điều luật của
ĐTLL được thay đổi một vài chữ, hoặc là bỏ bớt một phần nội dung (một số câu
trong điều luật), một số chi tiết không phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam, hoặc là
thay đổi hình phạt theo hướng tăng lên so với luật Thanh, hoặc là cải biến các tiểu
chú. Sự khác biệt này mặc dù không đáng kể nhưng “nó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực
của các nhà làm luật thời Nguyễn trong quá trình sao chép một bộ luật của một
vương triều khác ở một quốc gia khác, để bớt đi sự khập khiễng khi áp dụng vào xã
hội Việt Nam thời Nguyễn” [100, tr.78].
Điều đó chứng tỏ các nhà làm luật đã có sự chọn lọc kỹ lưỡng chứ không
hoàn toàn là sự sao chép đơn thuần. Vì vậy nếu nói rằng HVLL là sự sao chép
nguyên vẹn từ ĐTLL là quan điểm không chính xác.
Hai là, đến thời nhà Nguyễn, vua đầu tiên của triều Nguyễn - Gia Long “ở
một phần khác của đất nước, rất ít đến với phần đất nước phía Bắc” [127, tr.173]
sau bao năm trận mạc, thống nhất được đất nước và trở thành người tạo lập một
triều đại mới với gần 20 năm ở ngôi vua, nhận thức ra vai trò, ý nghĩa của việc kế
thừa cổ luật dân tộc nên đã lệnh đình thần biên soạn bộ HVLL với sự chỉ đạo:
“...giở xem hình luật mà các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập
từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng cho mỗi triều đại, mà đầy đủ hơn cả là Bộ
luật Hồng Đức (đời Lê)...” Gia Long, khi nhận xét về pháp chế nói chung của các
triều trước, đều chỉ cụ thể, đích danh rằng Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng của
triều đại mình nên đều phải “tham chiếu” nhưng trong đó đặc biệt “tham chiếu” bộ
luật Hồng Đức để biên tập thành HVLL.
Mặc dù ban đầu trong HVLL có những thiếu sót về hôn sản và thừa kế. Tuy
nhiên phạm vi nghiên cứu của luận án là pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn. Vì vậy, việc
nghiên cứu không chỉ dừng lại ở HVLL mà còn mở rộng phạm vi nghiên cứu đến
Quốc triều tân luật (ban hành dưới triều Minh Mạng), đây cũng là một văn bản
pháp luật quan trọng của triều Nguyễn chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến việc
điều chỉnh quan hệ thừa kế của thời kỳ đó. Ngoài ra còn có các Chỉ, Dụ dưới thời
46
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức liên quan đến hương hỏa, thừa kế (được tập hợp lại
trong Hoàng triều Khai định luật lệ và Chấn chỉnh hương phong), điển hình như:
- Đạo dụ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) (bổ túc điều 83 luật Gia Long) về tài
sản của người vô tự có đoạn chép: “những tài sản ấy chia làm 10 phần, 7 phần làm
công sản quốc gia, 3 phần giữ làm tư sản giao cho một người thân thuộc hay một
người đầy tớ trông nom việc phụng tự cho người chết. Phần này không bao giờ
được quá 3.000 quan tiền và 30 mẫu ruộng, dù tài sản của người chết để lại nhiều
đến đâu cũng vậy...” [9, tr.35].
- Đạo dụ năm Minh Mạng thứ 20 (1839) bổ túc điều 89 luật Gia Long về các
khế ước điển mại, và hương hỏa, thừa tự.
- Đạo dụ năm Tự Đức thứ 8 (l855) bổ túc điều 94 và 95 luật Gia Long. Các
lễ vật trong việc hôn nhân phải tùy theo gia cảnh, không được thái quá. Không thể
bắt buộc người con rể tương lai ký văn tự nợ hay cầm cố ruộng nương.
Nội dung các văn bản này đã bổ sung cho những thiếu sót của HVLL đặc
biệt là các quy định thừa kế. Các vấn đề về hương hỏa, thừa kế được quy định đầy
đủ trong Quốc triều tân luật và các Chỉ, Dụ này về cơ bản cách giải quyết vẫn hoàn
toàn giống với pháp luật triều Lê.
Tóm lại, HVLL và cổ luật thừa kế dưới thời nhà Nguyễn đã có sự tham
chước pháp luật Trung Hoa rõ nét nhưng sự tham chước này ít nhiều đã có chọn lọc
cho phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam xưa. Các vấn đề về hương hỏa, thừa kế
tiếp tục được bổ sung dưới các triều đại vua sau vua Gia Long trong suốt thời kỳ
độc lập tự chủ của triều Nguyễn trên tinh thần tiếp tục kế thừa cổ luật triều Lê. Và
chế định về thừa kế thời kỳ nhà Nguyễn sau triều đại vua Gia Long về cơ bản không
khác nhiều so với pháp luật nhà Lê trước đó.
Nền lập pháp triều Nguyễn tất nhiên ban đầu trong HVLL có nhiều
thiếu sót nhưng sau đó đã được các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức bổ khuyết trên tinh thần kế thừa pháp luật triều Lê. Nền pháp
luật dân sự trong đó có pháp luật thừa kế của triều đại nhà Nguyễn vẫn
phản ánh được điều kiện sinh hoạt vật chất của người dân, giải quyết
các quan hệ pháp luật trên cơ sở văn hóa, tục lệ của dân tộc hoàn toàn
thuần Việt [111, tr.105].
47
2.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
2.2.1. Khái niệm pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn Để có cơ sở tiếp cận khái niệm pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
trước hết cần tiếp cận nội dung này dưới góc độ quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ở thời kỳ này việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Ph.Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế. Những người trong thị tộc chết, tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ [21, tr.7].
Lúc này thừa kế được phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Bởi vì ở thời kỳ này con người sống quần hôn cho nên không thể xác định được cha của đứa trẻ là ai và con sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ.
Khi chế độ tư hữu ra đời và xã hội phân chia thành các giai cấp có lợi ích đối lập nhau thì các tập quán về thừa kế này không còn phù hợp nữa. Tầng lớp có của bằng địa vị xã hội của mình tìm cách giữ lại những tập quán có lợi, vận dụng và biến đổi cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Bằng sự thừa nhận của Nhà nước, các quy tắc tập quán được biến đổi trở thành những quy tắc xử sự chung để giải quyết những vụ việc cụ thể có tính chất điển hình; trở thành những quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc. Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định đặc quyền của giai cấp thống trị trong xã hội. Đây là sự hình thành nên pháp luật.
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
48
Nếu trước đây, thừa kế trong xã hội thị tộc được dịch chuyển theo phong tục
tập quán thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển di sản từ một người đã
chết cho một người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của Nhà nước, phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước, ban
hành các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định phạm vi chủ thể,
nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản và những vấn đề khác có liên
quan đến việc thừa kế di sản. Tổng hợp tất cả các quy phạm đó tạo thành một chế
định trong hệ thống pháp luật Việt Nam - đó là pháp luật về thừa kế.
Pháp luật thừa kế là tổng hợp những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
thừa kế phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Là một quan hệ pháp luật phát sinh trong đời sống kinh tế xã hội cụ thể, nên
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trước hết vẫn chứa đựng đầy đủ
những nội dung và tính chất chung trong phạm trù khái niệm pháp luật về thừa kế
như đã nêu trên.
Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn là hệ thống những quy tắc xử
sự do Nhà nước của các thời kỳ này ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực thừa kế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam trong các triều đại phong kiến, pháp luật về thừa kế
được hình thành dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Các quy định về thừa kế dưới
thời Lê, thời Nguyễn nhằm mục đích duy trì, bảo vệ truyền thống chế độ gia đình
phụ quyền và hiếu nghĩa của con cháu trong dòng tộc. Những quan niệm về gia
đình, lễ giáo, tín ngưỡng và chuẩn mực đạo đức thờ cúng tổ tiên đều có sự tác động
mạnh lên quan hệ thừa kế. Vì vậy, pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn có
những đặc điểm riêng sau đây:
Một là, về quyền để lại thừa kế.
Khác với dân luật hiện đại, thừa kế theo quan niệm truyền thống và theo
pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn đều hướng đến mục đích củng cố nền tảng gia đình
và bảo đảm sự lưu truyền dòng dõi hết đời này sang đời khác. Vấn đề thừa kế và để lại
49
thừa kế không phải là quyền lợi của cá nhân được hưởng di sản hay người để lại thừa
kế, mà cao hơn là duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng tộc (dưới góc độ bảo đảm về
mặt vật chất). Danh từ ‘Thừa kế’ được GS Vũ Văn Mẫu giải thích lại là sự rút ngắn từ
bốn chữ ‘kế tự thừa diêu’ (tức là nối dõi và thừa tiếp sự tế tự) [110, tr.106].
Trong quan niệm về thừa kế, nhà lập pháp phương Đông xưa đã đưa ra khỏi
phạm vi các mối quan tâm tầm thường, vị kỷ, chỉ nhằm lưu truyền và thụ tặng tài
sản. Để được nâng cao thành một chế định tế tự với mục đích duy trì vĩnh viễn sự
phụng sự tổ tiên theo thời gian. Và việc tiếp nhận gia sản của người chết để lại hay
di tặng chỉ là một phương tiện để thực hiện mục đích ấy. Khái niệm thừa kế theo
tinh thần lập pháp của hai thời kỳ này không chỉ giới hạn trong việc định đoạt di sản
thông thường với giá trị vật chất mà còn được mở rộng việc thừa kế cả những giá trị
tinh thần đó là việc giữ gìn, kế tục nếp nhà, tiếp nối truyền thống đáng tự hào của
gia đình dòng họ. Và tất yếu coi trọng sự cúng bái và thờ phụng tổ tiên.
Hai là, về quyền hưởng di sản thừa kế.
Quyền hưởng di sản thừa kế trong pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn
được quy định chung cho cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên, quyền để lại thừa kế thường
thuộc về cha mẹ, vợ chồng thì quyền hưởng thừa kế mở rộng cho con cái. Cho dù ở
vai trò nào, thừa kế vẫn được cổ luật quy định là quyền của mỗi cá nhân nên có thể
nhận hay từ chối di sản mà không phải chịu bất kỳ áp lực nào.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế là người để lại di sản chết; di
sản được chia cho người còn sống, nếu họ đủ điều kiện hưởng thừa kế. Vấn đề đặt
ra là chia cho ai; người còn sống phải đảm bảo những điều kiện gì; di sản chia theo
hình thức nào; ai chịu trách nhiệm chia di sản; giải quyết tranh chấp giữa các đồng
thừa kế bằng cách nào?... Quyền thừa kế sẽ được thực hiện hiệu quả nếu trả lời thỏa
đáng những vấn đề này. Nhà nước thời kỳ Lê sơ và thời Nguyễn rất đề cao vai trò
quản trị của pháp luật nên chủ thể duy nhất có thẩm quyền trả lời những câu hỏi này
là nhà làm luật. Và phương án giải quyết trong các bộ cổ luật, các Chỉ, Dụ dưới luật
suy cho cùng nhằm mục đích bảo vệ tính bền vững quan hệ hôn nhân và gia đình.
“Pháp luật dùng lợi ích vật chất làm phương tiện để ràng buộc các mối quan hệ
nhân thân, huyết thống giữa những người thừa kế; không để việc phân chia di sản
dẫn đến sự đổ nát, phân tranh trong gia đình” [110, tr.112].
50
Ba là, về quyền thừa kế di sản hương hỏa.
Hương hỏa được hiểu theo nghĩa đen là nhang (hương) và đèn (hỏa) đây là
hai phương tiện kết nối hai thế giới vô hình và hữu hình, giữa người sống và người
đã chết. Người Việt có đời sống tâm linh coi trọng việc thờ cúng ông bà, tổ tiên và
nhang đèn là những phương tiện được sử dụng phổ biến nhất. Vì vậy hương hỏa có
nghĩa bóng là phụng sự tổ tiên; rộng hơn là chỉ đến phần tài sản dùng vào việc thờ
tự. Nôm na, hương hỏa là phần tài sản giao riêng cho người con nối dõi của người
chết để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên, ông bà [51].
Vì liên quan đến việc thờ tự và nối dõi nên quyền thừa kế, khai thác tài sản
hương hỏa trước tiên đương nhiên thuộc về người con trai trưởng. Đây không chỉ là
quyền mà còn là nghĩa vụ, nhưng quan trọng hơn, là vinh dự to lớn, củng cố vị thế
của người con trai trưởng trong dòng tộc. Điều này hoàn toàn phù hợp với các
chuẩn mực của Nho giáo cũng như quan niệm tông pháp của người Việt và được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp luật nhà Lê, nhà Nguyễn. Đây là đặc điểm nổi bật
của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. 2.2.2. Nội dung quy định của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
2.2.2.1. Nhóm các quy định do Nhà nước ban hành * Nhóm các quy định những vấn đề chung về thừa kế
Về thời điểm mở thừa kế
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Lê
Về thời điểm mở thừa kế, trong pháp luật nhà Lê không tìm thấy quy định
trực tiếp nào về vấn đề này nhưng có thể suy ra từ quy định tại Điều 2 QTHL. Theo
đó, nội dung Điều 2 QTHL cấm con cháu đang có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy
chồng, cấm đang có tang cha mẹ mà vui chơi ăn mặc như thường... Điều 2 đã liệt
các vi phạm này vào 10 tội ác. Theo tục lệ của người Việt, thời kỳ cư tang con cháu
phải lo việc hiếu, lo nhang đèn, tế tự nên việc chia gia tài trong thời gian chưa mãn
tang chắc chắn là điều không thể xảy ra.
Điều 378 QTHL quy định: “Phàm cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản,
con trai phạt 60 trượng, biếm hai tư, con gái thì phạt 50 roi, biếm một tư, phải trả
nguyên tiền cho người mua, điền sản trả lại cho cha mẹ”.
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn
51
Điều 82 HVLL minh thị: Phàm ông, bà, cha, mẹ còn sống, cháu con không
được tách hộ khẩu để chia dứt gọn tài sản. Ai trái thì phạt 100 trượng, nếu ông, bà,
cha, mẹ thưa lên là cháu con bị buộc tội. Đang lúc còn để tang cha mẹ mà anh em
tách hộ khẩu chia hẳn gia sản thì phạt 80 trượng. Trong thời gian đó tôn trưởng đi
thưa thì cháu con bị buộc tội, còn việc chia của theo di chúc thì chẳng sao.
Về thời điểm mở thừa kế, đến cổ luật nhà Nguyễn thì nội dung này đã được
quy định cụ thể tại Điều 82 HVLL: “Đang lúc còn để tang cha mẹ mà anh em tách
hộ khẩu, chia hẳn gia sản thì phạt 80 trượng”.
Quy định của pháp luật thời kỳ nhà Lê và nhà Nguyễn về nội dung này gần
như tương đồng nhau. Các hệ luận về thời điểm mở thừa kế được suy ra trên cơ sở
các quy định của hai thời kỳ này với các nội dung sau:
Một là, tại thời điểm người để lại di sản chết chưa phát sinh quan hệ thừa kế
ngay nếu vợ hoặc chồng người chết vẫn còn sống. Cụ thể, nếu người cha chết mà
người mẹ vẫn còn sống thì di sản do người cha để lại cho các con của người này
hưởng chưa được chia ngay. Ngược lại, nếu người mẹ chết thì người cha sẽ tiếp tục
quản lý tài sản. Chỉ trong trường hợp cả cha lẫn mẹ đều qua đời thì các con mới
được chia tài sản.
Hai là, thời điểm phát sinh thừa kế là thời điểm người có tài sản chết nhưng
thời điểm chia thừa kế là thời điểm sau mãn tang người chết. Và quy định này có
giá trị cho cả hai trường hợp: thừa kế theo chúc thư và thừa kế theo pháp luật. Ví
dụ: Thời gian để tang cha mẹ là 3 năm. Sau 3 năm (lúc mãn tang cha mẹ), các con
mới được chia di sản thừa kế.
Về di sản thừa kế
Thứ nhất, về thành phần tích sản: được xác định theo nguyên tắc tài sản
riêng thuộc quyền sở hữu của người chết.
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Lê
Trước hết, về xác định thành phần tích sản, qua nghiên cứu các quy định của
QTHL tại điều 374, 375, 376, dễ dàng nhất trí với nhiều nhà nghiên cứu rằng tài sản
vợ chồng được hình thành từ ba nguồn khác nhau: Thứ nhất, tài sản của người
chồng thừa hưởng từ gia đình chồng (phu điền sản); Thứ hai, tài sản của người vợ
52
thừa hưởng từ gia đình vợ (thê điền sản); Thứ ba, tài sản do hai vợ chồng tạo dựng
nên trong quá trình hôn nhân (tân tạo điền sản). Ngoài ra, các đoạn 258 và 259 trong
Hồng Đức thiện chính thư (258, lệ về vợ chồng không có con; 259, lệ đối với chồng
trước có con, vợ chồng sau không có con...) còn cho thấy, tài sản gia đình ở thời Lê
không chỉ gồm điền thổ còn gồm các thứ khác như vàng, bạc, nhà cửa, lụa vải,
giường chiếu, đồ sứ, màn thau... (gộp lại là của nổi), những tài sản được coi là của
nổi đó chủ yếu để phục vụ tế lễ và nhằm thực hiện tục trả nợ miệng.
Trong gia đình, người gia trưởng có quyền hành nhiều hơn đối với tài sản
chung. Điều này thể hiện ở chỗ, các thân thuộc trong gia đình có nghĩa vụ phục tùng
sự phán quyết của người gia trưởng. Tuy nhiên, với việc thừa nhận “thê điền sản”,
và “tân tạo điều sản”, người phụ nữ trong gia đình dưới triều đại thời Lê cũng được
thừa nhận những quyền gần như ngang hàng với người gia trưởng.
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn
Trong HVLL lại không minh thị quy định về chế độ hôn sản. Do đó, muốn
nghiên cứu vấn đề này cần phải suy đoán từ Điều 76 khi đề cập đến việc phân chia
tài sản của gia đình, Điều 83 khi đề cập đến việc phân chia tài sản giữa con vợ cả và
con vợ lẽ, việc thừa kế di sản cha mẹ đẻ của người con gái, Điều 96 khi đề cập đến
việc người vợ cả được ngang hàng với người chồng... Song cũng từ suy đoán này đã
có 2 quan điểm khác nhau trong việc nhìn nhận chế độ hôn sản của pháp luật nhà
Nguyễn của giới nghiên cứu.
- Quan điểm thứ nhất (của P. Philastre, Engène Sicé, Nguyễn Huy Lai): Theo
quan điểm này, chế độ hôn sản dưới triều Nguyễn là chế độ hôn sản cộng đồng toàn
sản (communauté universelle). Theo đó, tất cả tài sản trong sự phối hiệp phu phụ
đều đặt dưới quyền độc nhất của người chồng về phương diện quản lý cũng như sử
dụng, người vợ không được thừa nhận quyền có của riêng.
- Quan điểm thứ hai (của Camille Briffaut, Vũ Văn Mẫu,...): Theo quan điểm
này, chế độ hôn sản dưới triều Nguyễn là chế độ hôn sản cộng đồng pháp định
(communauté juridique). Theo đó,
Người đàn bà có chồng được có tài sản riêng trong khối tài sản chung
của gia đình. Trong sự phối hiệp phu phụ, mỗi người phối ngẫu được
53
mang góp kỷ phần của mình và vẫn giữ nguyên vốn ấy, đến khi giá thú
đoạn tiêu nếu không có con cái, họ được phép rút kỷ phần về. Còn trong
quá trình sống chung họ có nghĩa vụ đồng tâm hiệp tác và trong mọi
hành động họ phải cùng nhau chịu trách nhiệm về những hậu quả của sự
hiệp tác ấy [52, tr.60].
Cuộc tranh luận này đã được giải quyết với việc đưa ra các luận cứ thuyết
phục để bảo vệ cho quan điểm thứ hai:
Một là, theo Lệ 2 Điều 76 của HVLL mà người ta thường nêu ra để cho rằng
tất cả tài sản của vợ đều được nhập vào gia sản của chồng. Thực ra, điều luật này
không quy định rõ nội dung như vậy, mà điều luật ấy chỉ buộc người đàn bà góa
không có con, nếu tái giá thì phải trả lại cho nhà chồng tất cả tài sản của người
chồng chết. Vậy không thể căn cứ một cách hợp lý vào Lệ 2 Điều 76 của HVLL để
suy luận rằng tài sản của người vợ bị sáp nhập vào gia sản của người chồng để trở
thành một khối duy nhất thuộc quyền sử dụng của người chồng.
Hai là, theo tục lệ của người Việt, người vợ luôn luôn được đặt ngang hàng
với người chồng, làm nội tướng trong gia đình, người vợ gần như bao giờ cũng giữ
tiền bạc, sắp xếp mọi việc trong gia đình. Một trong những lý do khiến người vợ có
địa vị quan trọng trong gia đình là do những hoạt động kinh tế tự chủ của họ. Giáo
sư Insun Yu đã nhận xét: “Khía cạnh quan trọng của vị trí người vợ trong gia đình
truyền thống Việt Nam. Nó đã chứng minh rằng sở dĩ người vợ được vị thế cao trong
gia đình là do những hoạt động kinh tế của chính mình...” [131, tr.94]. Một số người
khách Tây phương đến Việt Nam vào thế kỷ XVIII, XIX cũng nhận xét rằng phụ nữ
Việt Nam không chỉ cùng chồng lao động trên đồng ruộng, mà còn tham gia các hoạt
động thương mại, làm nghề thủ công... và “không thấy có sự phân biệt về tiền công với
đàn ông”. Một người Anh đến Huế vào thế kỷ XIX đã nói “đàn bà Việt Nam cũng sắc
sảo như đám con buôn cổ phần chứng khoán ở Luân Đôn” [131, tr.25].
Và nghiên cứu các quy định trong Hoàng triều khai định luật lệ và Chấn
chỉnh hương phong dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị cho thấy, các Chỉ, Dụ dưới hai
triều đại này vẫn tôn trọng nguyên tắc phân sản và thừa kế tài sản của người phụ nữ
có chồng, khi giá thú bị đoạn tiêu, y như pháp luật triều Lê quy định trong QTHL.
54
- Thứ hai, về thành phần tiêu sản
Trong gia đình “tứ đại đồng đường” có đủ cơ sở để chứng minh rằng trong
cả thời kỳ nhà Lê và thời kỳ nhà Nguyễn đa số các khoản nợ của người gia trưởng
đều nhằm đảm bảo cho gia đình sinh sống. Cũng không thể thiết lập được sự rạch
ròi giữa hai khái niệm “nợ của gia đình” và “nợ do một người chết để lại”. Cổ luật
và tục lệ đều thừa nhận vấn đề này. Tục lệ “phụ trái tử hoàn” theo Nho giáo trong
xã hội xưa được coi là một nếp sống, chuẩn mực về đạo đức và luân lý, là đạo hiếu
đối với bậc sinh thành. Như vậy, bên cạnh quyền hưởng di sản do người chết để lại,
người thừa kế phải gánh chịu phần nghĩa vụ của người chết. Tuy nhiên, luân lý Nho
giáo này qua lăng kính cổ luật Việt Nam đã bớt khắc nghiệt và nhiều tiến bộ. Phần
cuối của Đoạn 256 Hồng Đức thiện chính thư nói rõ: “Nếu chồng chết thì đòi vợ,
nếu vợ chết thì đòi chồng, chứ không được đòi cha mẹ và họ hàng anh em. Ai trái
luật này thì sẽ bị tội...”. Theo quy định này chỉ có vợ, chồng có trách nhiệm trả các
món nợ vay, không liên can đến cha mẹ và không truyền kiếp đến các con. Như vậy
là trái với tinh thần của Nho giáo, nhưng lại rất tiến bộ, hiện đại.
* Nhóm các quy định điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa những chủ thể được
hưởng thừa kế
Quan hệ hôn nhân
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Lê
Mục đích cốt yếu của giá thú trong cổ luật là phụng sự tổ tiên. Người vợ cả
có nhiệm vụ giúp người chồng thực hiện chữ “hiếu” cả trong hiện tại cũng như
trong tương lai. Vì vậy, nhiệm vụ tế tự phải giao cho con trưởng của người vợ cả là
đích trưởng tử, người vợ cả cũng gọi là đích thê. Cổ luật cũng nêu rõ địa vị của
người vợ cả: “Thê giả, tề dã” có nghĩa là người vợ cả ngang hàng với chồng. Theo
tục lệ, người vợ cả và người vợ lẽ có thể ở riêng nhà nhưng bàn thờ tổ tiên bao giờ
cũng phải để ở nhà nơi người vợ cả ở với người chồng. Có lẽ vậy nên tục lệ còn gọi
vợ cả là “chính thất”. Xuất phát từ địa vị quan trọng này nên khi một trong hai
người “phối ngẫu” (vợ hoặc chồng) chết thì người kia có quyền hưởng di sản thừa
kế. Điều 375, 376 QTHL đều minh thị quy định quyền hưởng dụng di sản của người
vợ góa khi chồng chết trước. Điều 376 QTHL quy định: “Vợ chồng đã có con, nếu
55
1 người chết trước, thì điền sản thuộc về vợ hay chồng... một phần...”. Người còn
sống có toàn quyền quản lý di sản mà người chết để lại.
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn
Quốc triều tân luật dưới thời Minh Mạng đã quy định: “Khi hôn thú bị chấm
dứt do một người phối ngẫu mệnh một, nếu người vợ chết trước, tài sản thuộc về
người chồng quản lý; ngược lại, nếu người chồng chết trước, tài sản được giao cho
người vợ quản lý”. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, người vợ hoặc chồng
còn sống chỉ có trách nhiệm quản lý di sản người chết để lại.
Trong câu 226 Tập ý kiến của Ủy ban tư vấn án lệ đã liệt kê những người mà
tục lệ cho là có quyền ăn thừa kế đã ghi rõ: con, cháu, cha mẹ, ông bà nội tộc và
ngoại tộc. Người chồng góa và người vợ góa không được ghi trong bản liệt kê ấy.
Câu 237 cũng nói là, di sản trước hết truyền cho con cháu không phân biệt trai gái,
nếu không có con cháu thì truyền cho cha mẹ, ông bà bên nội và những người này
nhận rồi giao lại cho người thừa tự. Riêng trong câu 257 tập ý kiến lại nói, nếu
người vợ chết vô hậu, người chồng trở thành sở hữu chủ của cải của vợ, với nhiệm
vụ lập thừa tự cho vợ. Như vậy, theo tục lệ, chỉ riêng trường hợp vợ chết vô hậu
(không con) thì chồng mới được hưởng di sản của vợ.
Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và cả tục lệ đều không quy
định quyền hưởng di sản thừa kế của người vợ lẽ và nàng hầu. Nên nội dung này
không được đề cập trong luận án.
Quan hệ huyết thống
* Về chế định tử hệ chính thức
- Sự suy đoán tử hệ chính thức
Về vấn đề này, pháp luật thời kỳ nhà Lê và nhà Nguyễn có sự tương đồng.
Cụ thể, sự suy đoán tử hệ chính thức đều không được cả QTHL và HVLL quy định
cụ thể, nhưng tục lệ thời kỳ này cho biết: Các người con được sinh ra trong thời kỳ
giá thú, bất kể người mẹ là vợ cả, vợ thứ hay nàng hầu đều được thừa nhận là con
chính thức của người chồng. Dân gian vẫn quan niệm thời gian mang thai của người
phụ nữ là 9 tháng 10 ngày (tức là 280 ngày), nhưng tục lệ vẫn không loại trừ những
đứa trẻ sinh ra trước 5 tháng sau ngày kết lập giá thú và quá 12 tháng sau ngày giá
56
thú bị đoạn tiêu. Đối với những đứa trẻ sinh ra trước 7 tháng sau khi lập giá thú, tuy
có thể bị hồ nghi về sự đoan chính của người mẹ nhưng người cha không khước từ
thì đứa trẻ ấy vẫn được coi là con ruột của người chồng và vẫn được thừa nhận
quyền hưởng di sản thừa kế. Nhiều khi đứa trẻ sinh ra 12 tháng hay 13 tháng sau khi
giá thú bị đoạn tiêu cũng vẫn được coi là con của người chồng cũ vì xem đó là việc
đẻ lên tháng (tục gọi là chửa trâu). Những đứa con do sự suy đoán tử hệ và được
người cha người mẹ thừa nhận thì đều được xem là tử hệ chính thức và đều được
hưởng di sản thừa kế của cha mẹ chúng.
- Sự phân biệt đích thứ, trưởng ấu
Con trai vợ chính dù ít tuổi bao giờ cũng được coi là anh đối với các con của
vợ thứ hay nàng hầu. Sự phân biệt này rất quan trọng về phương diện tế tự, vì người
con được ưu tiên chỉ định để trông nom việc phụng sự tổ tiên bao giờ cũng là người
trưởng nam trong số các con của vợ cả. Người ấy được gọi là đích trưởng tử. Không
có người con trưởng mới chọn con thứ và không có con của vợ cả mới chọn đến con
của vợ thứ. Vì vấn đề lựa chọn người nối dõi việc phụng tự là mục tiêu tối thiết yếu
của hôn nhân nên nó đã được nhà làm luật hết sức quan tâm. Cả QTHL, lẫn luật
pháp dưới triều Nguyễn về sau, đều quy định vấn đề này. Điều 389 QTHL quy định
về “coi trọng dòng đích khi lập người phụng sự hương hỏa” đã nói rõ: “Phàm con
cháu giữ việc phụng sự hương hỏa... phải theo lệ thường ủy cho người con trưởng
của vợ cả. Nếu con trưởng chết thì lấy cháu trưởng, nếu không có cháu trưởng thì
mới lấy con thứ...”. Điều 76 HVLL, với tiêu đề là “lập đích tử vi pháp” đã quy định:
“Phàm lập con chính con trưởng trái phép thì phải phạt 80 trượng. Khi vợ cả đã trên
50 tuổi mà không có con mới được phép lập con dòng thứ làm trưởng tử. Không lập
trưởng tử thì tội cũng như trên”.
Quan hệ nuôi dưỡng (nghĩa dưỡng)
Về nội dung này, quy định của pháp luật thời kỳ nhà Lê và nhà Nguyễn về
cơ bản có cùng quan điểm.
Nước ta lấy sự thờ phụng tổ tiên làm trọng, nên những người không con phải
lo nuôi con nuôi lập tự. Thường, người ta chọn một người cháu gọi bằng bác hay
bằng chú, nhưng nếu cháu gần không có, trong trường hợp người không con không
57
có anh em ruột, hoặc anh và em trai ruột người này cũng không con, thì lập cháu xa,
nhưng vẫn phải đồng huyết thống, nghĩa là cũng thuộc về họ nội. Đối với việc lập
tự bắt buộc phải là người đồng tông để khỏi gây nên sự rối loạn trong việc phụng sự
tổ tiên (Đoạn 256 Hồng Đức thiện chính thư; Điều 76 và “lời chú” HVLL).
Tục lệ và luật pháp định rằng việc lập tự phải theo thứ tự chiêu thuận, nghĩa
là cháu mới được thừa tự cho chú bác, chứ cháu không được lấy chú bác lập tự cho
mình. Ngoài ra anh không có con trai, em có thể ăn thừa tự anh được, trái lại anh
không được ăn thừa tự cho em, phải để việc ăn thừa tự cho con mình tức là cháu
ruột của em. Người được lập thừa tự có thể bị phế bỏ, nếu người đó xét ra kém đức
hạnh, hoặc làm điều gì phạm tới thanh danh gia đình. Phế người thừa tự này để lập
người khác, gọi là lập ái hay lập hiền.
Trong việc lập thừa tự không được chọn con độc đinh hoặc con trưởng, vì
những người con này đã có phận sự riêng lo việc hương khói cho cha mẹ. Người đã
được lập tự phải ở với cha mẹ nuôi như cha mẹ đẻ, không được bỏ nhà đi, và được
hưởng mọi quyền lợi như một người con đẻ. Với định chế lập tự, bắt buộc phải
chọn con trai để tiếp tục việc phụng tự trong họ (suy từ Điều 76 HVLL và Điều 381
QTHL). Việc lập tự mặc nhiên thành vô hiệu, nếu cha mẹ nuôi sau khi lập tự con
nuôi, lại sinh được con trai. Tuy việc lập tự thành vô hiệu, nhưng người con nuôi
vẫn giữa được quyền lợi như một người con đẻ và sẽ được hưởng một phần gia tài
với người con đẻ. Khi cha mẹ nuôi đã có con trai, người con nuôi lập tự trước có thể
trở về sống với cha mẹ mình.
* Nhóm các quy định về các hình thức thừa kế
Thừa kế không có chúc thư
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Lê
Trong QTHL, nếu chồng cùng vợ trước có một con, vợ sau không có con,
nay chồng chết trước và không có chúc thư, thì điền sản sẽ chia làm 3 phần: cho con
vợ trước 2 phần, vợ sau 1 phần. Nếu vợ trước có 2 con trở lên thì phần vợ sau chỉ
bằng phần của mỗi người con mà thôi. Phần của người vợ sau chỉ được dùng để cấp
dưỡng cho một đời mình, không được nhận làm của riêng. Nếu vợ sau chết hay cải
giá thì phần ấy lại thuộc về con chồng. Trường hợp người vợ chết trước cũng thế,
58
nhưng người chồng vẫn cứ được hưởng, dù có cải thú hay không. Nếu điền sản là
của chồng và vợ trước làm ra thì chia làm 2 phần: vợ trước và chồng mỗi người một
phần. Phần của vợ trước thì để riêng cho con của bà ta, còn phần của chồng thì được
đem chia ra như đoạn trên. Nếu điền sản là của chồng và vợ sau mỗi người một
phần. Phần của chồng thì đem chia như đoạn trên, còn phần của vợ sau thì được
nhận làm của riêng. Ngược lại, trường hợp vợ chết trước thì chồng cũng phải đem
tài sản ra phân chia như thế (Điều 1 “phần tăng bổ” của chương “Điền sản”).
Về trường hợp vợ chồng không có con, nếu một trong hai người chết trước
thì việc phân chia điền sản do cha mẹ cho trước đây được thực hiện như sau: Nếu
chồng chết trước, số điền sản đó sẽ được chia làm 2 phần: một phần giao cho người
trong họ ăn thừa tự để giữ việc hương khói; một phần thuộc về người vợ dùng để
cấp dưỡng cho đến suốt đời mình. Khi vợ chết hay tái giá thì phần ấy sẽ được
chuyển giao cho người thừa tự. Nếu cha mẹ chồng còn sống thì giao cả về cho cha
mẹ chồng. Ngược lại, trường hợp người vợ chết trước người chồng thì cũng phân
chia như thế, chỉ khác là dù chồng có tái thú hay không thì cũng đều được hưởng.
Nếu điền sản ấy là do hai vợ chồng làm ra thì sẽ chia làm 2 phần: mỗi người một
phần. Phần của vợ sẽ được dùng làm của riêng, phần của chồng sẽ được chia làm 3
phần: 1 phần cho người thừa tự, 2 phần cho người vợ dùng để cấp dưỡng suốt đời
mình (nếu vợ chết hay cải giá thì 2 phần đó sẽ giao cho người thừa tự). Về phần
thừa tự, nếu cha mẹ chồng còn sống thì sẽ do cha mẹ chồng giữ. Ngược lại, trường
hợp người vợ chết trước thì điền sản cũng được phân chia như thế, chỉ khác là cho
dù có tái thú hay không người chồng cũng được hưởng (Điều 2 “phần tăng bổ” của
chương “Điền sản”).
- Đối với pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn
Trong những năm đầu của triều đại mình, Minh Mạng đã nhận thấy cần thiết
phải tham chước pháp luật nhà Lê để bổ sung vấn đề phân chia di sản:
Quốc triều tân luật của Minh Mạng đã giải quyết như sau: Khi hôn thú bị
chấm dứt do một người phối ngẫu mệnh một, thì nếu người vợ chết trước, tài sản
thuộc về người chồng quản lý; ngược lại, nếu người chồng chết trước, tài sản được
giao cho người vợ quản lý. Nếu người vợ có con thì sau khi người vợ chết sẽ giao
59
tài sản đó cho con giám thủ và phụng tự. Nếu vợ chồng không có con thì người vợ
chỉ được hưởng dụng một đời với điều kiện là không được tái giá. Nếu người vợ tái
giá, tài sản đó sẽ thuộc về gia tộc của người chồng và người ta sẽ trích ra 1/10 để
dùng lập tự cho người chồng. Nếu người vợ không tái giá, thì tài sản đó, gồm cả tài
sản của cha mẹ chồng cho người chồng đều thuộc về người vợ hưởng dụng. Sau khi
người vợ chết, tài sản đó được chia đôi: một nửa thuộc về gia tộc nhà chồng và
người ta trích lấy 1/10 để lập tự cho người chồng, còn lại thì gia tộc chia nhau; một
nửa thuộc về gia tộc nhà vợ và người ta cũng trích lấy 1/10 để lập tự cho người vợ
và số còn lại thì gia tộc chia nhau. Riêng đối với tài sản do cha mẹ của vợ hoặc
chồng chia cho, thì khi vợ chồng khi ly hôn mà không có con, hoặc khi hai người
phối ngẫu chết đi mà không có con, hoặc khi người vợ chết đi mà không có con thì
sẽ trả về cho mỗi bên, hoặc cho gia đình của mỗi bên đã cho. Trường hợp người
chồng có nhiều vợ: Nếu người vợ trước có một con, vợ sau không có con, khi người
chồng chết thì gia sản được chia làm 3 phần, con của vợ trước được 2 phần, người
vợ sau không con được 1 phần dùng để dưỡng lão cho đến hết đời (sau khi chết
hoặc cải giá thì tài sản đó thuộc về con của người vợ trước). Nếu người vợ trước có
2 con trở lên thì người vợ sau không con được hưởng một phần giống như phần của
mỗi người con của vợ trước [9].
Trong những vấn đề nêu trên, pháp luật của nhà Nguyễn, từ sau năm 1824 đã
không khác gì so với pháp luật của nhà Lê.
Thừa kế hương hỏa (thừa kế tự sản)
Khi nghiên cứu pháp luật thừa kế về chế định hương hỏa thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn nhận thấy nhiều điểm tương đồng của 2 thời kỳ này, cụ thể ở các nội dung sau:
- Hình thức hương hỏa.
Việc hương hỏa phải được lập thành văn bản và muốn cho việc lập hương hỏa có
giá trị đối với người thứ 3 thì văn bản phải được đăng ký vào sổ địa bạ [3, tr.28]
- Người lập hương hỏa
Ai cũng có quyền được lập hương hỏa (tự sản), không phân biệt nam nữ, tuổi
tác. Trong thực tế, việc lập hương hỏa được đặt ra khi một người lúc sống được
thừa hưởng phần hương hỏa do tiền nhân thiết lập, đến khi người ấy chết thì một
60
phần hương hỏa ấy sẽ được chuyển sang cho người con trưởng, nếu không có con
trưởng thì sẽ giao cho cháu trưởng, nếu không có người kế tự (nam giới) thì phải chỉ
định người lập tự trong hàng thân tộc. Nếu một người cha chết nhưng không làm
chúc thư, mà có để lại gia sản cho các con, thì bổn phận của các người con đó lúc
chia gia sản phải lập hương hỏa giao cho người con trưởng giám thủ. Người quả
phụ cũng có thể lập hương hỏa cho chồng với các tài sản do chồng để lại hoặc do
mình kiếm ra được. Trường hợp một gia đình tuyệt tự thì việc lập hương hỏa phải
do gia tộc hoặc xã quan quyết định và chuyển giao cho người kế tự.
- Thành phần hương hỏa
Trong số 59 điều luật về điền sản của QTHL thì có tới 13 điều quy định về
ruộng hương hỏa. Điều này chứng tỏ nhà nước phong kiến Lê sơ rất coi trọng vấn
đề sử dụng ruộng đất cho việc thờ cúng. Đối với pháp luật triều Nguyễn căn cứ vào
Lệ 1 Điều 87 HVLL nói rằng: “Nếu các con cháu bán trái phép các điền sản của tiền
nhân di lưu để dùng vào việc tế tự thì sẽ bị lưu đi viễn châu, nếu bán quá 50 mẫu”.
Qua đó cho thấy tài sản hương hỏa trong xã hội xưa thuộc vào loại bất động sản
ruộng đất. Sở dĩ hương hỏa phải là bất động sản vì chúng phải được di chuyển từ
đời này qua đời khác để lưu truyền việc tế tự, nên chỉ có các bất động sản mới thỏa
mãn được các điều kiện ấy. Tuy nhiên, theo một đạo dụ năm Thiệu Trị 4 (1844),
“trong các gia đình tuyệt tự phần dùng làm tự sản không thể nào vượt quá giới hạn
30 mẫu ruộng và 3000 quan tiền” [65, tr.286]. Như vậy, trong thành phần hương
hỏa, ngoài ruộng đất còn có thể có cả tiền nong, nhưng bất động sản vẫn là yếu tố
chính yếu.
- Người ăn hương hỏa
Theo quan niệm của xã hội phong kiến, người con trai trưởng có nghĩa vụ và
bổn phận thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Vì vậy, QTHL quy định khi cha mẹ chết, có
ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em, chị em tự chia nhau thì lấy 1/20 số
ruộng đất làm hương hoả, giao cho con trai trưởng giữ; còn lại thì chia đều. Nếu cha
mẹ có chúc thư thì phần ruộng đất hương hoả được xác định theo chúc thư (Điều
388 QTHL). Hơn nữa, việc thừa kế ruộng đất hương hoả được quy định rất cụ thể:
ruộng hương hoả trước hết phải giao cho con trai trưởng của người vợ cả, nếu người
61
con trưởng chết trước thì mới lấy người cháu trưởng; nếu không có người cháu
trưởng thì mới lấy người con thứ. Nếu người vợ cả không có con khác thì mới chọn
lấy người con nào tốt của người vợ lẽ. Nếu người con trưởng có tật hay hư hỏng,
không thể thờ cúng được, thì phải trình quan sở tại để chọn con khác thay. Nếu trái
luật thì sẽ khép vào “tội bất hiếu bất mục trái bỏ điển lễ” (Điều 389 QTHL).
Điều này cũng được quy định tương tự trong pháp luật nhà Nguyễn, người ăn
hương hỏa có nghĩa vụ phải phụng sự gia tiên hoặc người mệnh một (Dụ năm Thiệu
Trị 4), nghĩa vụ quản lý tài sản hương hỏa (Điều 87 HVLL) và nghĩa vụ chỉ định
người được thừa tự thay mình (Điều 306 và 307 HVLL). Theo Điều 76 HVLL, việc
lập đích tử (người nhận hương hỏa và thừa tự) phải tuân theo nguyên tắc về việc tập
ấm. Trước hết phải chọn trưởng nam trong các con của vợ cả. Chỉ có thể chọn con
thứ của người vợ cả nếu người con trưởng bị ngăn cản. Nếu người vợ cả quá 50 tuổi
mà không có con trai thì mới được phép lập con trưởng của người vợ thứ. Trong
trường hợp người chết không có con cháu, người thân thuộc muốn được hưởng
phần hương hỏa thì phải hội đủ các điều kiện: đồng tông (Điều 76 HVLL) theo lệ
“chiêu mục tương đương”, không là con một trong gia đình và không có hiềm khích
với người được lập hương hỏa. Khi một gia đình tuyệt tự, không còn ai trong họ có
thể kế tự thì con gái của người chết có thể được nhận thừa kế (Điều 85 HVLL).
- Sự chấm dứt hương hỏa
Hương hỏa có thể bị chấm dứt vì 3 lý do: Một là, tài sản hương hỏa bị phá
hủy do một tai biến thiên nhiên (như bão lụt...) hay lý do khác (như chiến tranh...);
Hai là, tài sản hương hỏa bị chấm dứt vì lý do pháp định (khi hương hỏa đã lưu
truyền quá 5 đời gọi là “ngũ đại mai thần chủ”, hay khi ngành họ bị tuyệt tự); tài sản
hương hỏa được cải dụng thành hậu điền (hậu Thần, hậu Phật...), hoặc được bán để
chi dùng vào các việc khác (như xây dựng từ đường, phần mộ...)
2.2.2.2. Nhóm các quy định do Nhà nước thừa nhận về hương ước và luật
tục để giải quyết các quan hệ thừa kế
* Về hương ước (hay còn gọi là khoán ước) liên quan đến thừa kế
Hương ước có nội dung liên quan đến hương hỏa và thừa kế xuất hiện dưới
thời Lê và “nở rộ” dưới thời Nguyễn. Khởi đầu, khi hương ước xuất hiện và tồn tại
62
song song với luật pháp, vua Lê Thánh Tông đã tạo ra đạo dụ 5 điểm, trong đó điểm
đầu tiên có nội dung “các làng xã không nên có hương ước riêng vì đã có luật pháp
chung của cả nước”. Song, hương ước điều chỉnh về lĩnh vực thừa kế có nguồn gốc
từ phong tục, có sức sống bền bỉ nên mặc dù bị ngăn cản, nó vẫn tồn tại. Vua Gia
Long cũng đã từng nói: “Quốc gia là góp làng xã lại mà thành. Muốn trị nước thì
phải sửa sang công việc làng xã” [25, tr.191].
Trong vấn đề thừa kế, hương ước xưa dưới thời Lê, thời Nguyễn đặc biệt chú
trọng đến ruộng hương hỏa và tục thờ cúng tổ tiên. Theo hương ước của người Việt
xưa thì của hương hỏa là của cải gia tiên để lại, lấy hoa lợi dùng trong việc thờ
phụng và cúng giỗ tục gọi là “tự sản”. Không con cháu nào có quyền phát mại của
hương hỏa, và trong trường hợp bị tịch biên, của hương hỏa được trừ lại. Xuất phát
từ tục lệ này, nên hương ước xưa của làng nào cũng có quy định trường hợp những
người không con cái hoặc không có con trai thì việc “giỗ hậu” của những người này
được xác lập bằng việc hiến ruộng nương hoặc mua ruộng nương cúng vào họ, vào
làng, vào chùa, vào đền hoặc vào đình để về sau khi trăm tuổi, họ, làng, chùa, đền,
đình sẽ cúng giỗ. Hương ước xưa gọi là “mua hậu” hay “kí hậu”.
Hậu điền là ruộng hậu, nguyên là của tư của một người vì không có con cái,
đem ruộng đó cúng cho họ hoặc cho làng để làm việc chung cho cả họ hoặc cả làng:
xây nhà thờ, làm đình chùa, v.v... Họ hoặc làng nhận ruộng, rồi khi người hiến
ruộng chết họ hoặc làng sẽ cúng giỗ cho người này.
Kỵ điền là ruộng tư giao cho làng để cúng giỗ. Đối với những trường hợp
người đó không có con trai, thì con gái sẽ mua ruộng cúng vào họ hoặc vào làng để
họ hoặc làng sẽ làm giỗ cho cha mẹ mình. Những ruộng này gọi là kỵ điền. Trong
Học luật lệ An Nam, Thân Trọng Huề viết: “Kỵ điền là ruộng tư giao cho làng để
làm kỵ giỗ cho mình hay là kỵ giỗ cho ông bà, cha mẹ mình” [4, tr.57]. Có người
mua hậu riêng cho hai vợ chồng mình, có người mua hậu chung cho cả cha mẹ đôi
bên. Tùy mua nhiều mua ít mà gia giảm số tiền.
Người thì ký hậu tại đình miếu, người thì ký hậu tại chùa, người thì ký hậu
tại bản thôn, bản tộc người thì ký hậu tại biệt xã là quê ngoại của mình. Hàng giáp,
hàng thôn, nhà chùa, bản tộc, hoặc biệt xã đã nhận tiền và ruộng đất của người mua
63
hậu phải làm tờ ký kết rồi dựng bia đá tại đình miếu, hoặc chùa hoặc ở trong từ
đường. Trong văn bia kể rõ tên người mua hậu ở phủ huyện tổng xã nào; dân làng
nhận bao nhiêu tiền, chi về việc gì, và ruộng đất ký hậu cho bao nhiêu, ở tại đâu, cứ
mỗi năm về ngày tháng nào thì dùng lễ gì mà cúng tế. Lại có mấy câu tán tụng công
đức người mua hậu, cũng tức như tờ ký kết. Hôm ký tờ dựng bia, người mua hậu phải
làm rượu mời dân làng ăn uống. Từ bấy giờ người mua hậu gọi là ông hậu bà hậu.
* Về luật tục liên quan đến thừa kế
Xuất phát từ một thực tế của Việt Nam, và biểu thị sự tôn trọng luật tục của
các dân tộc Việt Nam, cổ luật nhà Lê, nhà Nguyễn đều ít nhiều thừa nhận cách ứng
xử theo luật tục của dân tộc thiểu số trong cộng đồng buôn bản. Điều 40 QTHL quy
định: “Người thượng du phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội.
Những người thượng du phạm tội với người trung châu thì theo luật mà định tội”.
Quan điểm ưu tiên người các dân tộc miền núi còn được thể hiện ở các điều luật
khác như Điều 451, 452 QTHL... Dưới triều Nguyễn, chính sách dân tộc rất được
các vua triều đại này quan tâm. Thời kỳ này Tây Nguyên được triều Nguyễn xem là
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng vì “nhiều người cho rằng nước nào làm chủ
được Tây Nguyên thì có thể khống chế không chỉ Đông Dương mà còn cả Đông
Nam Á” [120, tr.364]. Dưới thời Gia Long, vùng dân tộc thiểu số đã được tổ chức
thành các tổng nguồn (tương đương cấp huyện), dưới có các đấu mục (tương đương
xã trưởng), dưới đấu mục là các sách trưởng (tương đương thôn trưởng). Các chức
danh này đều do người thiểu số nắm giữ. Tráng niên người thiểu số được ghi vào
danh bộ.
Nghiên cứu luật tục xưa cho thấy, thừa kế tài sản tuỳ thuộc vào quan hệ
huyết thống tính theo dòng mẹ (mẫu hệ) hay dòng cha (phụ hệ) và tùy theo quan
niệm của từng tộc người nên vấn đề này trong nội dung luật tục của các dân tộc
khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn, với tộc người Êđê theo mẫu hệ thì tài sản gia
đình, dòng tộc đều thuộc quyền sở hữu của mẹ và chị em gái. Nam giới tuy là lực
lượng lao động chủ yếu làm ra của cải nhưng theo luật tục thì họ không được sở
hữu bất cứ loại tài sản nào. Khi còn nhỏ, sống với gia đình thì khi trưởng thành, anh
ta lấy vợ, phải sống ở bên phía nhà vợ. Khi vợ chết, mà phía vợ không có người nối
64
nòi, anh ta phải quay về nhà mẹ hay chị em gái mà không được mang tài sản gì.
Luật tục khẳng định, trong xã hội mẫu hệ Êđê, mọi của cải đều thuộc về nữ giới.
Người Raglai trong luật tục của mình khẳng định mọi của cải do ông bà tổ
tiên để lại đều là của chung, không ai được chiếm đoạt, mua bán. Nếu chồng chết,
thì của cải riêng mang tính cá nhân của anh ta phải được trả về bên mẹ, bên chị em
gái của anh ta, bên vợ không có quyền chiếm lấy.
Nghiên cứu luật tục của đồng bào Bana cho thấy, người Bana có cách thức
chia di sản thừa kế như sau: Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết trước, tài sản của
người chết để lại thuộc về con cái, vợ hay chồng còn sống. Nếu vợ hay chồng còn
sống mà lấy chồng hay lấy vợ khác và không ở tại nhà cũ thì không được hưởng tài
sản của chồng hoặc vợ đã chết. Trong trường hợp này, tài sản của người chết thuộc
về con cái của họ. Trường hợp vợ hoặc chồng còn sống mà vẫn ở nhà cũ thì tài sản
của người vợ hay chồng trước khi chết được để thừa kế cho con cái chung của họ.
Con của người vợ hoặc chồng còn sống có với người chồng hoặc vợ lấy sau chỉ
được hưởng thừa kế tài sản của cha mẹ họ khi chết để lại. Nếu con của vợ hoặc
chồng trước và con của chồng hoặc vợ sau thương yêu nhau và có sự đồng ý giữa
những người con này thì họ được hưởng thừa kế tài sản của cả vợ hoặc chồng trước
và của cả chồng hoặc vợ sau khi chết với các mức kỉ phần bằng nhau;...
Như vậy, mỗi làng, mỗi buôn có tục lệ riêng về thừa kế trong đời sống, lúc
đầu là tục lệ truyền miệng, đến giữa thế kỷ XV được văn bản hóa thành hương ước,
luật tục thừa kế. Bởi vậy, Nhà nước các triều đại phong kiến khi soạn thảo luật đều
lưu ý đến hương ước, luật tục về thừa kế, để cho các phong tục có một vị trí thích
đáng trong các bộ luật và chấp nhận để các làng, các buôn được duy trì hương ước
và luật tục về thừa kế trên cơ sở quản lý việc soạn thảo hương ước, luật tục.
2.3. CÁC GIÁ TRỊ TRONG NỘI DUNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ
NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
2.3.1. Các giá trị tích cực trong pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
* Trong nội dung các quy định pháp luật thừa kế
Thứ nhất, pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã giải quyết tốt mối
quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán.
65
Cả HVLL và QTHL đều thể hiện rõ quan điểm này. Điển hình là Điều 351
HVLL quy định: “phàm những điều không nên làm mà làm thì phải phạt 40 roi” và
Điều 642 QTHL quy định: “Việc không được phép làm mà làm thì việc lớn xử tội
đồ hay lưu, việc nhỏ xử tội biếm hay phạt”. Thế nào là những “điều không nên
làm”? và những điều “không được phép làm”. Đó là những điều mà tục lệ, luân lý
xã hội Việt cổ cấm đoán. Như vậy, phạm vi áp dụng của Điều 351 HVLL và Điều
642 QTHL thật quá rộng. Tác dụng của nó là chế tài tất cả những điều của luân lý,
tục lệ xã hội. Điều 351 của Hoàng Việt và Điều 642 của QTHL đã “khiến cho các
luật gia Tây phương khi nghiên cứu luật Việt Nam, phải ngạc nhiên và đặc biệt chú
ý” [90, tr.19].
Do điều kiện kinh tế chính là nông nghiệp mang nặng tính tự cấp, tự túc.
Tính cố kết về quan hệ láng giềng kết hợp với quan hệ huyết thống trong làng - chạ
rất chặt. Nên người dân Việt có tâm lý “trọng tĩnh, trọng tình và trọng tục”. Tục lệ
được ghi nhận trong hương ước và luật tục trong nhiều trường hợp là kim chỉ nam
để người dân ứng xử và giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong gia đình, dòng
tộc. Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn thừa nhận và xem hương ước,
luật tục cũng là một nguồn của pháp luật để giải quyết các tranh chấp thừa kế trong
xã hội cổ xưa. Tất nhiên, với điều kiện, các tục lệ này phải phù hợp với tinh thần
chung của pháp luật Nhà nước.
Đây là những vấn đề về lý luận, những bài học kinh nghiệm của cổ luật thừa
kế nhà Lê, nhà Nguyễn trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phong tục và
pháp luật. Việc kế thừa và phát huy những mặt tích cực của phong tục, luật tục,
hương ước trong việc soạn thảo luật hiện nay, để luật phù hợp với thực tế cuộc
sống, đi vào cuộc sống và giữ được các giá trị văn hóa truyền thống là vấn đề hết
sức cấp thiết.
Thứ hai, pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn thể hiện truyền thống
nhân đạo, tinh thần bảo vệ quyền con người.
Dù chịu ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô” nhưng pháp luật phong kiến hai thời kỳ này cũng đã
bảo vệ quyền lợi của người vợ trong việc hưởng di sản thừa kế của người chồng.
66
Pháp luật xưa đã đặt người vợ cả lên vị trí gần như ngang hàng với người gia trưởng
trong gia đình. Nên theo tục thường thì việc quản lý gia sản không những là vợ làm
giúp chồng mà lại chính vợ tự đảm đương, cho nên không những người ta gọi người
chủ phụ là “nội trợ”, mà lại thường gọi là “nội tướng”. Thể hiện rõ nét nhất ở việc
pháp luật nhà Lê, nhà Nguyễn thừa nhận quyền hưởng di sản thừa kế của người con
gái trong gia đình. Quy định này trong QTHL và HVLL khác với pháp luật nhà
Thanh của Trung Quốc, thậm chí không tìm thấy quy định này trong toàn bộ nội
dung của pháp luật phong kiến Trung Quốc. Có sự khác biệt này là do ở Trung
Quốc con gái thường không được hưởng tài sản gì mà chỉ được một ít của hồi môn
khi về nhà chồng. Trong khi đó ở Việt Nam, theo tục lệ và các bộ cổ luật (nhà Lê,
nhà Nguyễn) đều thừa nhận quyền thừa kế của người con trai và con gái tương đối
bình đẳng. Đây là tinh thần độc lập, tự chủ của nhân dân, qua các vị Vua có ý thức
tự cường đã đưa vào cổ luật những quy định phản ánh được nét đặc thù trong sinh
hoạt của đời sống dân sự của riêng dân tộc Việt. Điều này một lần nữa phản ánh ý
thức độc lập dân tộc mạnh mẽ của các triều đại này, sự chăm lo của Nhà nước đối
với đời sống của người dân và sự tôn trọng của Nhà nước đối với những phong tục
tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ ba, pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn đã giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đạo đức và pháp luật; bảo vệ sự ổn định và hòa thuận trong gia đình.
Những quy định trong cổ luật thừa kế cho thấy, những lễ nghi trong gia đình
được quy định chặt chẽ, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Các mối quan hệ
gia đình giữa cha mẹ và con cái, giữa tôn trưởng và ti ấu đặt trong phạm trù đạo đức
chữ “hiếu”, “lễ” đều được pháp luật hai triều đại này quy định rõ ràng, mạch lạc.
Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, phải tôn kính bậc tôn trưởng trong gia đình. Các
chuẩn mực đạo đức về ứng xử trong gia đình truyền thống đã được quy định thành
pháp luật khiến bất cứ cá nhân nào đặt vào hoàn cảnh đó cũng khó mà làm trái với
luân thường đạo lý. Thể hiện rõ nét ở việc cổ luật cấm con cái chia di sản thừa kế
khi một trong hai người cha hoặc mẹ còn sống. Phải khi cả cha và mẹ đều chết và
mãn tang xong thì con cháu mới quyền chia khối di sản thừa kế. Có thể thấy rõ sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức truyền thống; giữa pháp trị và đức
67
trị trong các quy định này. Nhà làm luật thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã giải quyết
tốt mối quan hệ pháp luật và đạo đức truyền thống, khiến cho các quan hệ về thừa
kế vận hành, theo quy trình luật pháp nhưng không làm mất đi các giá trị đạo đức
trong gia đình cổ xưa.
Ngoài ra, để đảm bảo sự hợp lý và đoàn kết trong gia đình, pháp luật nhà Lê
còn cho phép một số trường hợp ngoại lệ. “Thậm chí, để đảm bảo sự đoàn kết trong
gia đình, pháp luật thời Lê có quy định ngoại lệ cho phép các con chia lại tài sản mà
di chúc đã định đoạt...” (Lệnh năm thứ 14 niên hiệu Hồng Đức). Quy định này một
lần nữa đã khẳng định khả năng giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo đức với pháp
luật của các nhà lập pháp cổ xưa. Loại bỏ những khả năng con cháu tranh giành,
phân chia di sản khi cha hoặc mẹ còn sống; con cháu chia di sản ngay khi chưa mãn
tang, chưa làm tròn đạo nghĩa với người đã khuất... Đáng tiếc, đây lại là những vấn
đề xảy ra khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Các quy định của cổ luật trên đây có
thể là vài gợi ý cho việc nhìn nhận các giá trị văn hóa và cho công tác hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện nay.
* Trong kỹ thuật luật pháp
Thứ nhất, các quy phạm cổ luật thừa kế được xây dựng cụ thể, chi tiết và
đảm bảo hiệu lực thực thi bằng việc quy định các chế tài.
- Các quy phạm điều chỉnh quan hệ thừa kế trong cổ luật bao giờ cũng có
các chế tài. Hình phạt áp dụng cho hành vi vi phạm trong lĩnh vực thừa kế rất đa
dạng, có thể xử đến tội chết (như giảo, chém) hoặc đánh roi, đánh trượng hoặc
lưu... Ví dụ, Lệ 1 Điều 87 HVLL quy định: “Nếu các con cháu bán trái phép các
điền sản của tiền nhân di lưu vào việc tế tự thì sẽ bị lưu đi viễn châu”... Với việc
xác định rõ ràng biện pháp chế tài áp dụng đối với chủ thể xâm phạm các quan
hệ thừa kế thể hiện rõ ràng cơ chế điều chỉnh của cổ luật thừa kế, có khả năng
loại trừ, ngăn chặn những hành vi vi phạm một cách có hiệu quả đồng thời bảo
đảm cho các quy định của pháp luật thừa kế được tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh trong thực tế.
- Một số quy phạm pháp luật có cách trình bày tương đối độc đáo rất dễ hiểu.
Đó là cách diễn đạt quy phạm pháp bằng việc mô tả những tình huống cụ thể. Ví dụ:
68
“Người ông là Trần Giáp sinh được trai gái hai con, trai trưởng là Trần Ất, gái là
Trần Thị Bính, Trần Ất sinh được một gái là Trần Thị Đinh, còn ấu thơ thì Trần Ất
chết. Ông là Trần Giáp lập chúc thư giao phần ruộng đất hương hỏa cho Trần Thị
Bính giữ. Khi Trần Thị Bính chết thì hương hỏa phải trả lại cho con gái Trần Ất là
Trần Thị Đinh giữ” (Điều 397 QTHL). Cách diễn đạt quy phạm pháp luật dưới hình
thức này khiến cho các quy định phức tạp cũng có thể được diễn đạt một cách đơn
giản dưới hình thức mô tả. Vì thế, người dân có thể được hiểu một cách dễ dàng.
Đây là, tinh thần “dân lấy làm tiện” của nhà lập pháp cổ xưa.
Ngoài ra, nhà làm luật đa số sử dụng cách diễn đạt trực tiếp các quy phạm
pháp luật thừa kế, rất ít sử dụng phương pháp pháp luật dẫn chiếu hoặc khi một
hành vi nào đó cần được xử lý theo điều luật khác, nhà làm luật cũng chỉ rõ việc xử
lý theo điều nào. Nếu nghiên cứu các quy định thừa kế trong cổ luật chúng ta đều
thấy phần quy định trong các quy phạm pháp luật thừa kế là quy định dứt khoát, tức
chỉ nêu lên một cách xử sự để chủ thể lựa chọn.
Thứ hai, một số các quy phạm về cổ luật thừa kế thể hiện được kỹ thuật lập
pháp đặc sắc.
Như đã phân tích ở các nội dung trên, “chế độ cộng đồng hôn sản” trong
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn là chế độ hôn sản duy nhất và bắt
buộc áp dụng cho tất cả các giá thú. Không một cặp vợ chồng nào có thể làm hôn
khế để ước định một chế độ khác với chế độ chung nói trên. Sở dĩ như vậy là vì chế
độ hôn sản do cổ luật quy định là sự phản ánh của tổ chức gia đình phụ hệ. Theo
chế độ cộng đồng hôn sản này, người ta phân biệt ra các điền sản tân tạo, phu tôn
điền sản, thê tôn điền sản và các phù vật (của nổi) gồm những động sản theo
quan niệm của dân luật hiện đại. Mặc dù tất cả đều hợp thành một khối duy nhất,
đặt dưới quyền điều khiển và sử dụng của người chồng, song các phu tôn điền
sản và thê tôn điền sản lâm thời được hồi phục bản chất pháp lý trong những
trường hợp buộc phải thanh toán khối cộng đồng hôn sản. Nếu gia đình không có
con, nghĩa là nếu giá thú không thực hiện được mục đích nối dõi tông đường, hai
loại tài sản trên được phân chia trên căn bản sự tôn trọng quyền lợi của ngành họ
nào đã góp các tài sản ấy. Nếu trái lại, giá thú có con, thì các tài sản ấy để lại cho
69
các con. Như vậy, chủ trương rằng, trong cổ luật tất cả các tài sản đều là của
chung thì tất nhiên không đúng; mà bênh vực chủ thuyết cho cổ luật Việt Nam đã
thừa nhận cho người đàn bà có chồng được có của riêng cũng không phù hợp với
sắc thái đặc biệt của cổ luật Việt Nam. Thật ra, thuật ngữ “tài sản riêng” (les
biens propres) phản chiếu một ý niệm mượn trong kỹ thuật pháp lý của Tây
phương, không có trong cổ luật Việt Nam. Trong tục lệ, qua kết quả khảo sát của
Ủy ban cố vấn án lệ cho thấy người xưa đã sử dụng hai thuật ngữ rất đúng là
“của nhà chồng” và “của nhà vợ”, nó đã dịch rất sát nghĩa các khái niệm “phu
tôn điền sản” và “thê tôn điền sản” trong cổ pháp [52]. Các loại điền sản này,
như đã phân tích, có một quy chế đặc biệt không thể được đồng hóa với các khái
niệm tài sản chung hay tài sản riêng. Những tài sản ấy là kỷ phần của mỗi người
phối ngẫu góp vào để xây dựng tương lai gia đình và để lại cho con. Trong
trường hợp mục tiêu có con không thành tựu thì quyền lợi của mỗi họ (tôn) đối
với các tài sản ấy lại xuất hiện và phải được tôn trọng. “Nếu muốn áp dụng kỹ
thuật pháp lý Tây phương và tìm một thuật ngữ để biểu hiện sắc thái đặc biệt ấy
thì có thể dùng thuật ngữ “tài sản chung với điều kiện giải trừ” (biens communs
sous condition résolutoire) hay “tài sản riêng với điều kiện đình chỉ” (biens
propres sous condition suspensive)” [9, tr.60]. Nói cách khác, các tài sản ấy có
thể coi là tài sản chung, nhưng nếu giá thú không có con thì tính cách tài sản
chung sẽ bị giải trừ. Hoặc là chỉ có thể coi các tài sản trên là tài sản riêng khi nào
xảy ra điều kiện không có con. Trong trường hợp này, điều kiện nói trên không
có tính cách giải trừ mà chỉ có tính cách đình chỉ. Sự phân tích trên chứng tỏ
rằng qua những biện pháp do truyền thống và tục lệ chi phối, kỹ thuật pháp lý
trong cổ luật Việt Nam đã làm cho quy định này vừa thỏa mãn được mục đích
thiết yếu của giá thú là sự sinh con nối dõi, vừa bênh vực hữu hiệu quyền lợi của
hai họ mà không xâm phạm vào tình nghĩa cao quý giữa hai vợ chồng. Nhờ kỹ
thuật pháp lý mới lạ ấy, trong cổ luật thừa kế Việt Nam, người ta không cần phải
quy định các khế ước hôn thú, tuy vậy quyền lợi của hai vợ chồng và hai họ vẫn
được tôn trọng trong tình đoàn kết mật thiết. Nội dung này cho thấy giá trị đương
đại, tiến bộ, gần như “tiệm cận” với pháp luật dân sự hiện đại của cổ luật.
70
2.3.2. Một số hạn chế mang tính lịch sử trong các quy định pháp luật
thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn Trên cơ sở bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là quyền lợi của
nhà vua và triều đình, với sự chi phối của hệ tư tưởng Nho giáo, trong đó duy trì
quan hệ đẳng cấp, sự bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, bảo vệ
quyền lợi người gia trưởng nên các quy định trong cổ luật không thể tách rời khỏi
các điều kiện lịch sử. Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, thời kỳ trị vì của triều đại
nhà Lê, nhà Nguyễn những quy định này lại là phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
của xã hội, phù hợp với phong tục tập quán đã từng tồn tại và được ưa chuộng của
quần chúng nhân dân. Do đó, việc đánh giá các quy định của cổ luật cần được xem
xét trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong sự tương quan với các văn bản pháp luật
khác cùng thời đại. Tuy nhiên, xét ở một góc độ tương đối, lấy quy chuẩn của
những quan điểm pháp lý chung, có thể liệt kê một số hạn chế mang tính lịch sử
trong nội dung pháp luật thừa kế của hai thời kỳ này như sau:
- Một là, còn tồn tại sự bất bình đẳng trong quyền hưởng di sản thừa kế giữa
vợ và chồng.
Với sự chi phối của Nho giáo, pháp luật thừa kế dưới thời Lê, thời Nguyễn
có xu hướng thiên về quyền lợi pháp lí của người chồng, bảo vệ quyền lợi của
người chồng với tư cách là gia trưởng. Sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa
vợ chồng biểu hiện trong khi người vợ mất hết quyền hưởng hoa lợi từ tài sản riêng
của người chồng đã chết nếu cải giá lấy chồng khác thì người chồng dù lấy vợ khác
vẫn không mất quyền hưởng hoa lợi từ tài sản riêng của vợ đã chết.
Một điểm nữa thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng là trong khi người
vợ phải để tang chồng trong thời gian là ba năm, bằng thời gian để tang cha mẹ, với
những quy định rất khắt khe, chặt chẽ về tang phục, về cách xử sự... trong suốt thời
gian đó thì pháp luật không hề có quy định về việc để tang vợ của người chồng. Tác
giả Insun Yu đã nhận xét: “Đạo Nho dưới thời nhà Lê không đòi hỏi nhiều bổn phận
đối với người đàn ông goá vợ: họ phải chịu một năm để tang vợ theo nghi lễ Nho
giáo nhưng cũng như ở Trung Quốc, trên thực tế họ được tự do tái hôn trong thời kỳ
để tang" [131, tr.129].
- Hai là, tồn tại sự phân biệt đối xử trong quyền hưởng thừa kế giữa các con.
71
Con do vợ cả hoặc vợ lẽ, nàng hầu sinh ra đều là con chính thức của người
chồng song chỉ có con trai trưởng của vợ cả mới được chọn làm đích tử - người nối
dõi tông đường, thừa kế tài sản hương hoả, thờ phụng tổ tiên. Việc xác định con
đích tử có ý nghĩa quan trọng trong gia đình phong kiến; nhằm bảo đảm trật tự gia
đình, tránh sự tranh chấp quyền gia trưởng, dẫn đến sự bất hoà trong gia đình, tuy
nhiên nó cũng dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa các con.
Đối với con nuôi: về cơ bản con nuôi có quyền lợi như con đẻ nhưng về mặt
thừa kế thì con nuôi không được hưởng quyền thừa kế ngang bằng với con đẻ mà
phải ít hơn. Phần tài sản con nuôi được hưởng bằng một nửa của con đẻ. Chỉ khi
người con nuôi được nuôi từ thơ ấu và người nuôi không có con đẻ thì con nuôi mới
được hưởng toàn bộ tài sản của cha mẹ nuôi; nếu thuở bé không ở cùng thì con nuôi
được hai phần, người thừa tự được một phần.
- Ba là, một số vấn đề còn để phong tục, tập quán điều chỉnh.
Mặc dù pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn, nhất là nhà Lê đã quy định
khá đầy đủ các quan hệ về thừa kế, song quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
nhiều trường hợp không được quy định. Điều đó đã phần nào hạn chế tác động điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật. Đó là các vấn đề như:
+ Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng trong quan hệ thừa kế
không được cổ luật điều chỉ cụ thể. Do sự chi phối của đạo đức Nho giáo và tập
quán mà thừa kế di sản của vợ chồng chủ yếu do phong tục điều chỉnh. Pháp luật
không can thiệp, vì vậy không có cơ sở để giải quyết tranh chấp. Do đó khi cần thiết
lại phải điều chỉnh bằng các Chỉ, Dụ riêng lẻ, không có tính hệ thống và tính pháp
điển hoá không cao (đặc biệt là pháp luật nhà Nguyễn).
+ Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con mới chỉ tập
trung điều chỉnh các quan hệ về nhân thân trên cơ sở đạo đức Nho giáo là chủ yếu
mà không điều chỉnh các quan hệ về tài sản khi có tranh chấp.
+ Chưa quan tâm bảo vệ quyền lợi pháp lí về thừa kế của con ngoài giá thú,
chưa có quy định nào về việc xác định quan hệ cha, con...
Bốn là, còn một số hạn chế về kĩ thuật lập pháp.
- Nhà làm luật triều Lê, triều Nguyễn đã gộp tất cả các quan hệ thừa kế cũng
như các quan hệ dân sự... vào trong bộ luật hình sự và áp dụng cho tất cả các quan
72
hệ này một chế tài như nhau là chế tài hình sự khi có vi phạm. Việc áp dụng chế tài
hình sự để xử lí các quan hệ thừa kế, quan hệ dân sự trong mọi trường hợp có vi
phạm là không thích hợp và quá cứng rắn song mặt khác nó có tác dụng bảo đảm
hiệu lực của luật.
- Các quy định về thừa kế còn nằm rải rác trong các chương khác nhau của
bộ luật mà không được tập trung vào một phần hoặc chương riêng nên tính pháp
điển hoá không cao.
Kết luận chương 2 Qua việc đánh giá điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật của hai
thời kỳ: nhà Lê và nhà Nguyễn; nghiên cứu những tiền đề cho sự ra đời của cổ luật
thừa kế. Có thể khẳng định cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn ra đời dựa
trên những điều kiện lịch sử cụ thể của thời kỳ đó. Cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn dù chịu ảnh hưởng của triết học Nho giáo và cổ luật phong kiến Trung
Hoa nhưng vẫn phản ánh được truyền thống, tục lệ của dân tộc. Giá trị của cổ luật
thừa kế hai thời kỳ này được nghiên cứu và đánh giá toàn diện trong các quy định
của pháp luật Nhà nước và cả trong hương ước, luật tục liên quan đến thừa kế. Các
nội dung nghiên cứu trong chương 2 đã cho thấy mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn
chế nhất định song cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn đã có những thành tựu đáng
kể, nhiều giá trị tích cực và tiến bộ trong các quy định về: Thời điểm mở thừa kế; di
sản thừa kế; về phạm vi những người được hưởng thừa kế (bao gồm quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng); phân định di sản thừa kế; thừa kế
hương hỏa (tự sản); về hương ước và luật tục liên quan đến thừa kế trong cổ luật…
Pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn cũng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho
hậu thế trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống; giải
quyết mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật; giải
quyết mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Đặt trong bối cảnh hiện nay, khi các giá
trị truyền thống đang ít nhiều bị mai một, pháp luật thừa kế vẫn còn nhiều bất cập.
Muốn hoàn thành mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thừa kế tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc thì việc nghiên cứu, tìm kiếm những giá trị tốt đẹp trong di sản
pháp lý của người xưa là hết sức cần thiết trong việc vận dụng những giá trị này để
hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành và góp phần gìn giữ “nếp nhà” của người Việt.
73
Chương 3
VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
3.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA
KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
THỪA KẾ
3.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, khái niệm vận dụng là
“Đem tri thức lý luận dùng vào thực tiễn” [67, tr.122]; khái niệm hoàn thiện là “đầy
đủ nhất, làm cho tốt hơn” [67, tr.86].
Theo cuốn từ điển Hán Việt của giáo sư Nguyễn Lân thì, “vận dụng” là “đem
điều học được ra thực tiễn”, và kèm theo dẫn chứng câu nói của nguyên Tổng Bí
thư Lê Duẩn “Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh của nước
ta” [44]. Cũng trong tài liệu này, khái niệm hoàn thiện được hiểu là “hoàn hảo, hoàn
thành” [44].
Trên cơ sở cách hiểu thuật ngữ “vận dụng” và “hoàn thiện” như đã nêu trên,
cần tiếp tục làm rõ vậy vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn vào
việc hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay là vận dụng yếu tố nào? Tiếp
thu tri thức cổ luật trên tinh thần nào để có thể vận dụng một tri thức cổ điển cách
đây hàng mấy trăm năm vào hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Đây là một nội
dung cần bàn luận trên cơ sở tiếp cận các đặc trưng về vận dụng cổ luật thừa kế
trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam.
Rõ ràng, yếu tố làm nên “tinh thần tri thức” rõ nét nhất trong pháp luật thừa
kế thời Lê, thời Nguyễn là những giá trị tích cực mang tính dân tộc trong nội dung
và tinh thần lập pháp của cổ luật thừa kế. Thể hiện qua tinh thần nhân đạo, truyền
thống tôn trọng phụ nữ, trọng đạo hiếu... Nhiều nội dung trong cổ luật thừa kế dưới
hai thời kỳ này đã ăn sâu vào lối sống và tiềm thức ứng xử của người dân Việt,
được lưu giữ trở thành những phong tục tập quán tốt đẹp. “Tinh thần tri thức” còn
74
thể hiện qua truyền thống lập pháp vì con người, bảo vệ các giá trị nhân văn, tôn
trọng các giá trị của tục lệ truyền thống trên lĩnh vực thừa kế. Pháp luật thừa kế với
ý thức lập pháp độc lập, sáng tạo, mục đích tối thượng là nhằm bảo vệ sự ổn định,
hòa thuận trong gia đình. Qua đó các thế hệ hậu sinh học tập được những bài học
kinh nghiệm quý báu: kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và làng
xã; kinh nghiệm pháp điển hóa; kỹ thuật lập pháp trong xây dựng quy phạm pháp
luật thừa kế đảm bảo yêu cầu “dân lấy làm tiện”; bài học học kinh nghiệm về giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, giữa pháp luật và tục lệ... Đặc
biệt là bài học về tinh thần tự chủ khi tiếp thu văn minh pháp lý của nhân loại để
làm giàu hệ thống pháp luật của dân tộc, đây là việc làm cực kỳ tế nhị và khó khăn
mà cha ông ta đã làm được. Các “yếu tố tri thức” này vừa mang tính cổ truyền
nhưng cũng có những yếu tố tiến bộ, những kinh nghiệm đáng để học hỏi, vận
dụng. Vì vậy, “yếu tố tri thức” này đến bây giờ vẫn ít nhiều mang tính thời sự, do
đó có thể vận dụng để “dùng vào thực tiễn” hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
Đây là điều thế hệ hậu sinh “học được” từ bài học kinh nghiệm lịch sử của cha ông
để góp phần “thực hiện” việc hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
Lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến nhà Lê, nhà Nguyễn đã để lại cho
hậu thế nhiều giá trị truyền thống trong lĩnh vực pháp luật thừa kế bên cạnh một hệ
thống các phong tục, tập quán tiêu biểu, phản ánh đời sống pháp luật thừa kế của
dân tộc ta. Pháp luật triều đại trước được triều đại sau kế thừa, phát huy, vận dụng
có hiệu quả trong xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Đồng thời nhiều giá trị
trong các nội dung này vẫn ít nhiều còn giá trị trong vận dụng xây dựng pháp luật
thừa kế ở nước ta hiện nay. Vận dụng cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
trong hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt Nam hiện nay, là đưa giá trị của nội dung và
các tư tưởng lập pháp tiến bộ, các tục lệ tốt đẹp trong cổ luật vào xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thừa kế hiện hành; nâng cao ý thức, hành vi và lối sống
pháp luật cho các thành viên trong xã hội.
Truyền thống biểu hiện qua các phong tục, tập quán về thừa kế còn là sự
thống nhất hữu cơ những giá trị có được từ đời sống của người dân Việt thể hiện
qua các quan hệ pháp luật (hành vi, lối sống). Do vậy, đề cao yếu tố truyền thống
75
trong xây dựng pháp luật thừa kế hiện hành cũng là góp phần bảo tồn và phát huy
giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, nâng cao sức mạnh và quyền lực con người
trong xã hội hiện đại. Quá trình vận dụng cổ luật thừa kế trong hoàn thiện pháp luật
hiện hành là một quá trình “gạn đục khơi trong”. Để xây dựng pháp luật thừa kế
hiện nay cần kế thừa giá trị các truyền thống tích cực đồng thời với việc đẩy lùi tiến
đến xóa bỏ những tục lệ tiêu cực trong lĩnh vực này, nhưng quan trọng nhất vẫn
phải giữ gìn và bảo tồn những giá trị Chân - Thiện - Mỹ mà người xưa cất công tìm
kiếm. Những giá trị này đã, đang và sẽ đồng hành cùng con người Việt Nam trong
thời đại mới và luôn mang nhiều ý nghĩa trong công tác lập pháp.
Từ cách tiếp cận trên, rút ra khái niệm: Vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam là hoạt động
chuyển tải những giá trị truyền thống trong lĩnh vực thừa kế của thời kỳ này vào
xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành; xóa bỏ các yếu tố tiêu cực,
bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thừa kế, góp phần giữ gìn và phát huy
bản sắc của dân tộc.
3.1.2. Các nguyên tắc vận dụng
Nguyên tắc vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong
hoàn thiện pháp luật thừa kế Việt Nam là những quan điểm, những tư tưởng chỉ đạo
quá trình vận dụng các giá trị của pháp luật thời kỳ này trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Bao gồm các nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc quán triệt đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ mới
Ngay từ Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (năm
1993) Đảng đã xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của Chủ Nghĩa Xã
Hội [5].
Nghị Quyết Trung ương 5 (khóa VIII) tiếp tục khẳng định tầm quan trọng
của văn hóa dân tộc: xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng con
76
người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới - con người xã hội chủ nghĩa
(XHCN) với những đức tính tốt đẹp, tiếp đó là các nhiệm vụ xây dựng môi trường
văn hóa [14].
Trên tinh thần đó, trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp
luật là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Ngày 24 tháng 05 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 48/NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam 2010, định hướng đến năm 2020” đề ra mục tiêu:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và
thực hiện pháp luật; phát huy vai trì và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện
quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa nước
ta trở thành công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [15].
Trong đó xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần xuất phát từ thực
tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những giá trị lập pháp tiên tiến của các nước
trên thế giới kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc với
tính hiện đại của hệ thống pháp luật.
Do đó, vận dụng những giá trị truyền thống trong pháp luật của các giai đoạn
lịch sử phong kiến Việt Nam góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
về xã hội công dân; thực hiện chiến lược xây dựng pháp luật theo chủ trương của
Đảng Cộng Sản là vấn đề cần thiết. Đảm bảo nguyên tắc này thì việc vận dụng mới
phát huy truyền thống bảo đảm giá trị về quyền con người trong xã hội thần dân,
truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc, cũng như những kinh nghiệm lập pháp và thực thi pháp luật của cha ông. Đồng
thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực từ xã hội thần dân nhằm sớm xây dựng thành
công nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ở nước ta hiện nay, góp phần hình
77
thành nên môi trường văn hóa pháp lý tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Pháp luật dân sự đặc biệt là pháp luật thừa kế gắn liền với đời sống xã hội, phong
tục tập quán, thói quen trong sinh hoạt gia đình và sinh hoạt cộng đồng của người
dân. Vì vậy, việc vận dụng những giá trị truyền thống của dân tộc trong nền pháp
chế cổ xưa vào việc hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành có ý nghĩa càng đặc biệt
quan trọng.
Ngày 02/06/2005, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49/NQ/TW
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã đề ra nhiệm vụ
“sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục
tiêu chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống
pháp luật dân sự, bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham
gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh” [16]. Ngày 22
tháng 02 năm 2006 Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã đề ra chương trình
trọng tâm công tác tư pháp với nội dung “nghiên cứu đề xuất các vấn đề cần sửa
đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung chiến lược cải cách tư
pháp và BLDS. Đẩy mạnh tiến bộ và khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn
thi hành BLDS” [6].
Ngày 12 tháng 03 năm 2014 Ban chấp hành Trung ương đã có kết luận của
Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa IX trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về
dân sự, tố tục tư pháp... theo đúng chủ trương, định hướng lớn nêu trong chiến lược
cải cách tư pháp”... [18].
* Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan và toàn diện; lịch sử cụ thể và phát
triển trong quá trình vận dụng
Thứ nhất, về nguyên tắc đảm bảo tính khách quan và toàn diện
Vận dụng những giá trị, thành tựu của cổ luật triều Lê, triều Nguyễn về thừa
kế cần được đánh giá, lý giải trên nguyên tắc lịch sử - cụ thể, khách quan, toàn diện,
khoa học, thể hiện đúng như giá trị bản thân nó cũng như thời đại lịch sử đã sản
sinh ra nó, không phủ nhận sạch trơn, chủ quan, phiến diện, không thoát ly quan
điểm thực tiễn và nguyên tắc tính giai cấp, không làm cho nó trở nên trừu tượng phi
78
lịch sử. Phép biện chứng bao hàm yếu tố phủ định không phải là gạt bỏ và thủ tiêu
quá khứ mà là cải tạo có phê phán những thành tựu chân chính của văn minh nhân
loại, duy trì tất cả những gì có giá trị chất chứa trong các thành tựu của quá khứ -
nghĩa là sự kế thừa trên con đường phát triển của xã hội và văn hóa nhân loại. Ngay
đối với các nhà tư tưởng tư sản hiện đại, Lê nin cũng căn dặn:
Nhiệm vụ của những người mác-xit ở khắp mọi nơi là phải biết thấm
nhuần và cải tạo những thành tựu mà những “người quản lý cũ” đạt
được... và biết cắt bỏ cái xu hướng phản động của họ, biết theo đường lối
của mình và đấu tranh với tất cả đường lối của những lực lượng và giai
cấp thù địch với chúng ta [124, tr.38].
Nghiên cứu vận dụng pháp luật thừa kế của một thời kỳ đã qua trong lịch sử,
nhà nghiên cứu cần phải vận dụng những nguyên tắc của một nhà sử học và của một
luật gia đối chiếu. Trước hết, phải có một tinh thần khảo sát và tổng hợp hết sức
khách quan, loại bỏ các định kiến để thấu rõ các sắc thái và tinh thần cổ luật. Hơn
nữa, để làm nổi bật những sắc thái ấy, có thể so sánh, đối chiếu với các định chế
tương tự, nhưng phải cùng thuộc trong khuôn khổ một hệ thống pháp luật chung. Các
luật gia Tây phương hoặc một số tác giả hiện đại khi nghiên cứu cổ luật Đông phương
nói chung, và cổ luật thừa kế Việt Nam nói riêng, thường không tránh khỏi sự áp dụng
những ý niệm pháp lý, những lối phân loại, những lối suy luận mượn trong kỹ thuật
pháp luật của Tây phương. Nguyên tắc ấy đã khiến họ lạc hướng - không nhận định
được thực chất của những chế định trong cổ luật thừa kế của cha ông ta.
Một ví dụ điển hình, chủ thuyết của luật gia Pháp là Cannille Briffaut chủ
trương rằng trong “cổ luật Việt Nam không có chúc thư và chỉ có sự phân sản do
ông bà cha mẹ thực hiện trong lúc sinh thời” [52, tr.35]. Đây là một chủ thuyết do
phương pháp khảo cứu đã bị các định kiến làm sai lạc. Đáng lý nhà nghiên cứu phải
khước từ tất cả các quan niệm pháp luật của phương Tây, kể cả các cách phân loại
và kỹ thuật mượn trong luật của Pháp, luật gia nói trên, trong khi khảo cứu luật Việt
Nam, đã luôn luôn và có lẽ vô tình, nghĩ tới luật của Pháp. Thiếu sự khảo sát với
một tinh thần khách quan, “nhiều nhà nghiên cứu đã đem so sánh các chúc thư trong
luật Việt Nam với sự “phân sản bằng chúc thư” (testament partage), hoặc với “sự
79
tặng cho phân sản” (donation-partage) trong dân luật của Pháp” [52, tr.113]. Một
khi thấy điều gì hơi tương tự, lập tức tác giả cố hết sức tìm cho được, với bất cứ giá
nào, những luận cứ để bảo vệ quan điểm của mình. Phương pháp khảo cứu ấy
không thể có tính cách khoa học. Chỉ cần một sự nhầm nhỏ nhặt trong cơ sở khởi
điểm cũng đủ khiến tất cả sự lý luận suy diễn trên cơ sở ấy phải sụp đổ.
Hay khi khảo cứu các chế định về cổ luật về thừa kế trong tập “Án lệ” của ủy
ban Cố vấn Án lệ trước đây cũng cần lưu ý. Đối với tục lệ cũ của ta, khi Ủy ban cố
vấn án lệ được thành lập để sưu tập các tục lệ về thừa kế, một phương pháp sai lạc
tương tự cũng đã được áp dụng. Ủy ban đã lập một bảng những câu hỏi về tục lệ
Việt Nam bằng tiếng Pháp, dùng những danh từ pháp lý mượn trong kỹ thuật pháp
lý phương Tây như các ý niệm “quyền ứng dụng thu lợi của quả phụ” (droit d’
usufruit de la veuve); “tài sản riêng của người vợ” (biens propres de la femme
mariée); “tình trạng vị phân của khối tài sản thừa kế” (indivision des biens
successoraux) v.v…
Ví dụ câu hỏi 53: “Sur quels biens porte le droit d’ usufruit de l’ épouse
veuve? Quels sont ses droits et devoirs en tant qu’ usufruitère?” (“Quyền ứng dụng
thu lợi” của người quả phụ được hành sử trên những tài sản nào? Người quả phụ có
những quyền lợi và nghĩa vụ gì, với tư cách người được hưởng “quyền ứng dụng
thu lợi”? [52, tr.43]. Đặt câu hỏi như vậy, đối với những hội viên Việt Nam chọn
toàn thể trong giới quan trường hay văn sĩ, không am hiểu luật pháp Phương Tây,
không ý thức rõ rệt nội dung của “quyền ứng dụng thu lợi”, lẽ dĩ nhiên, câu hỏi
cũng như câu trả lời chỉ phản chiếu ý kiến của những hội viên Pháp chọn trong các
thẩm phán hay cai trị viên. Nói cho đúng hơn khi đặt ra câu hỏi trên, các hội viên
Pháp đã có định kiến coi quyền lợi của người quả phụ là một “quyền ứng dụng thu
lợi”. Bản chất pháp lý của quyền ấy không còn là một vấn đề cần phải bàn cãi nữa;
trong khi ấy, về phía hội viên Việt Nam của Ủy ban đều không có một quan niệm gì
về “quyền ứng dụng thu lợi” cả.
Đáng lý, Ủy ban phải khảo sát một cách khách quan, tìm hiểu xem quyền lợi
của người quả phụ có những sắc thái gì, nội dung ra sao, và chỉ đặt vấn đề bản chất
pháp lý, và nếu cần, so sánh với các chế độ tương tự của luật Pháp Quốc, trong giai
80
đoạn cuối cùng. Nhưng vì đã đặt ngược vấn đề, Ủy ban đã đồng hóa một cách võ đoán
và đồng nhất quyền ấy, với “quyền ứng dụng thu lợi”, trước khi khảo sát vấn đề.
Do đó, trong nguyên tắc nghiên cứu vận dụng cổ luật thừa kế nhà nghiên cứu
phải rất thận trọng và luôn luôn nhớ rằng kỹ thuật pháp lý trong cổ luật khác hẳn kỹ
thuật pháp lý của pháp luật hiện đại; những danh từ, cũng như những ý niệm, những
phạm trù về thừa kế đều khác biệt. Nhà nghiên cứu không thể áp dụng vội vàng
những kiến thức sẵn có về pháp luật hiện đại để phân tích các chế độ cũ. Nói một
cách khác, khi vận dụng cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn phải đảm bảo
nguyên tắc giữ gìn đúng giá trị trong các danh từ, các ý niệm, các phạm trù pháp lý
trong cổ luật. Không nên mượn những ý niệm, những danh từ, những phạm trù của
pháp luật hiện đại để chỉ tên, phân tích hay xếp loại trong khi nghiên cứu cổ pháp
của phương Đông nói chung, và cổ pháp Việt Nam nói riêng. Mỗi kỹ thuật pháp lý
đáp ứng vào một ý thức hệ gia đình, xã hội, về phương diện tôn giáo cũng như về
phương diện chính trị hay kinh tế. Hai ý thức hệ, cổ luật của phương Đông và hiện
đại của phương Tây hoàn toàn đối lập. Cổ luật Việt Nam phải được khảo cứu trong
khuôn khổ ý thức hệ phương Đông, theo kỹ thuật pháp lý phương Đông. Chỉ có
nguyên tắc thiết yếu này mới có thể cho phép ta nhận định khách quan về những giá
trị trong cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, tạo cơ sở vững chắc cho quá
trình vận dụng pháp luật thời kỳ này trong quá trình hoàn thiện và xây dựng pháp
luật thừa kế ở Việt Nam
Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo tính lịch sử, cụ thể và phát triển
Nghiên cứu để vận dụng cổ luật thừa kế thời nhà Lê, nhà Nguyễn phải đặt nó
trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế - xã hội của thời đại ấy; hiểu biết thấu đáo
phương thức sản xuất và những hình thức cơ bản của sự phát triển cùng những mâu
thuẫn của thời đại, những tư tưởng của con người đã hình thành, phát triển trên
những giá trị cổ luật đó. Tìm hiểu giá trị của cổ luật Việt Nam về lĩnh vực thừa kế
trên lập trường, quan điểm và phương pháp mácxít cần phải đảm bảo được nguyên
tắc này để có sự nhìn nhận đúng đắn và có được một điểm tựa vững chắc mà tìm tòi,
phát hiện trong pháp luật thừa kế cổ xưa những thành tựu, những giá trị vẫn còn
hữu ích.
81
Bên cạnh đó, Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng “nguyên tắc tính
Đảng” là cơ sở để nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học xã hội [55, tr.136], trong
đó có các tư tưởng pháp lý. Vì vậy, thái độ thật sự có tính Đảng trong nghiên cứu
các tư tưởng về cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn yêu cầu phải khảo sát
đầy đủ trên tinh thần phê phán không thoát ly điều kiện lịch sử, phải phân tích
nguồn gốc giai cấp. Nguyên tắc này đưa ra yêu cầu cơ bản là: nghiên cứu cổ luật
thừa kế để vận dụng phải đặt trong những hoàn cảnh cụ thể của nó; tuyệt đối tránh
“hiện đại hóa” cổ luật hoặc bỏ qua những hoàn cảnh lịch sử cụ thể; đảm bảo tính
khách quan, chân thực để khắc họa đúng diện mạo tư tưởng trong nghiên cứu.
Do đó, khi vận dụng giá trị các quy định về cổ luật thừa kế dưới hai thời kỳ
này cần phải vận dụng một cách thích đáng nhãn quan lịch sử và biện chứng; tinh
thần nhân văn phải được coi là chuẩn mực để định chất giá trị tư tưởng. Nghiên cứu
vận dụng cổ luật thừa kế cũng cần gắn chính trị với đạo lý để phân tích có lý có tình
những hiện tượng, quá trình, những tư tưởng phù hợp với văn hóa phương Đông,
“khi xét công lao lịch sử của các nhân vật lịch sử, người ta căn cứ vào chỗ họ có
cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ” [122, tr.214 - tr.215]. Công
lao lịch sử của họ là ở chỗ đã giải quyết được những vấn đề mà lịch sử và thế hệ
tiền bối để lại. Khi tư tưởng không còn thích hợp hay đã lạc hậu thì chỉ nên nhìn
nhận như một giá trị lịch sử với những công lao thuộc về quá khứ. Vì vậy, cần phân
biệt cái gì là giá trị, cái gì không, cái gì liên quan với di tích lạc hậu trong một bộ
phận lạc hậu của xã hội hay trong tâm lý cá nhân, cái gì tiến bộ nhưng phát sinh
trong giai đoạn trước, cần phát triển hơn nữa trong hiện tại. Lênin cho rằng:
Phải có tính lịch sử nghiêm khắc trong việc soi sáng lịch sử tư tưởng, ví
dụ như không nên gán ghép cho các nhà triết học đời xưa một thứ “phát
triển” những tư tưởng của họ mà thực ra họ không có, không trình bày
những quan điểm tư tưởng cũ theo kiểu hiện đại. Thoát ly điều kiện cụ
thể, mọi sự phân tích đánh giá đều trở nên khập khiễng, sai lầm cũng như
những mưu toan giáo điều dùng các tư tưởng chính trị được thảo ra phù
hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể để đem áp dụng cho một hoàn cảnh lịch
sử khác cũng sai lầm chẳng kém [122, tr.143 - 144].
82
* Nguyên tắc kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp, xây
dựng nền văn hóa pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, loại bỏ các tư tưởng
lạc hậu
- Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng việc giữ gìn và phát huy di
sản văn hóa của ông cha ta để lại (trong đó có di sản pháp luật) coi đó là những giá
trị thiêng liêng, trường tồn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung
ương Đảng Khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định:
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính
trị, xã hội. 2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với
các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. 3. Phát triển văn hóa
vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển
văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người
có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo... [17].
Như vậy, Nghị quyết 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng một mặt đã nhấn
mạnh vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa nói chung, chỉ rõ tính xuyên suốt, thấm sâu
của văn hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt văn hóa ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội; đồng thời đề ra phương châm phải gắn xây dựng, phát
triển văn hóa với xây dựng, phát triển con người Việt Nam, coi đó là hai mặt của
một thể thống nhất.
Vận dụng giá trị những quy định cổ luật chính là một phần truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt, việc vận dụng nó vừa có ý nghĩa về bảo tồn văn hóa vừa có ý
nghĩa đối với công tác hoàn thiện và xây dựng pháp luật. Các giá trị về cổ luật thừa
kế đã góp phần hình thành một hằng số văn hóa bản địa trên tập hợp các yếu tố: đề
cao lợi ích, ý thức trách nhiệm và sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; hòa quyện lợi ích cá
nhân và gia tộc, coi trọng lợi ích lâu dài, phúc lợi và công bằng trong gia đình dòng
họ, phát huy tinh thần cộng đồng làng xã, dân tộc... Yếu tố truyền thống này cũng
83
góp phần hun đúc nên thuần phong mỹ tục “cần” và “đủ” cho đạo lý làm người và
kỷ cương xã hội; có thể chắt lọc và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Là hơi thở, mạch đập của đời sống xã hội, mã di truyền của văn hóa dân
tộc. Đến nay truyền thống gia tộc cộng đồng, làng xã vẫn giữ vị trí quan
trọng trong đời sống tình cảm và quan hệ xã hội của con người Việt
Nam, vẫn chi phối nhận thức cũng như hành động trong các tầng lớp
nhân dân và là nguồn sinh lực cho tương lai [55, tr.168].
Trong tư tưởng kết tinh các quy định về cổ luật thừa kế dưới hai thời kỳ này
với tinh thần bảo vệ quyền con người trong tư tưởng lập pháp cổ xưa được các nhà
nghiên cứu đánh giá cao không chỉ bởi phạm vi và những vấn đề mà nó điều chỉnh
rộng lớn, phong phú và phức tạp; mà còn bởi những yếu tố tiến bộ, bởi “sự sáng tạo
mang đậm tính cách Việt Nam”. Cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn của Việt Nam
vẫn tỏa sáng như “một điểm son của nền pháp lý cổ Việt Nam” trong việc bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, nhờ đó mà phụ nữ Việt Nam “đã có một địa vị xã hội
rất cao không những so với phụ nữ Trung Quốc mà còn so với phụ nữ các nước Tây
phương đương thời” [131, tr.249]. Có thể nói hồn Việt nhân hậu thấm đượm trong
các chương, điều của cổ luật thừa kế liên quan đến phụ nữ, trẻ em đã góp phần làm
nên và duy trì những giá trị trường tồn của nền văn hóa pháp lý Việt Nam cổ truyền.
Phải chăng việc xây dựng các điều luật này không phải dựa vào ý thức hệ tư
tưởng Nho giáo phong kiến mà dựa vào truyền thống nhân đạo của dân tộc và tư
tưởng lập pháp “vì con người”, “bảo vệ quyền con người”. Đây thực sự là một tư
tưởng nhân văn đi trước thời đại. Con người là chủ thể của lịch sử, mọi giá trị, mọi
nền văn minh, văn hóa. Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của nước ta là tiềm lực
con người Việt Nam. Xã hội Chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội con
người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước; có nền kinh tế phát
triển cao, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Chính vì thế, Đảng
và Nhà nước xác định xây dựng con người mới, lối sống mới là một chiến lược
trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) xác định
xây dựng con người mới, lối sống mới, đặt trọng tâm vào các chuẩn mực: Có tinh
84
thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội; có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh,
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; lao
động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao
hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Với những chuẩn mực trên, Đảng đặc biệt coi trọng con người là mục tiêu và
động lực phát triển kinh tế, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Kinh
nghiệm vô giá từ truyền thống của dân tộc ta là: Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò
quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính
bản thân dân tộc Việt Nam. Vậy nên, pháp luật thừa kế trước hết phải trên quan
điểm vì con người và bảo vệ con người. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản.
Bên cạnh đó, cũng cần tham khảo kinh nghiệm lập pháp của thế giới với tinh
thần vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước ta. Có như vậy,
pháp luật thừa kế mới đảm bảo tính hiện đại nhưng vẫn phản ánh được những sắc
thái đặc thù của truyền thống dân tộc; một nền pháp luật lấy con người làm trung
tâm, vì sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ, quyền con người được bảo đảm. Một hệ
thống pháp luật thừa kế nhân văn và tiến bộ phải bảo đảm triệt để nguyên tắc này
trong quá trình vận dụng.
Để một lần nữa khẳng định nguyên tắc này, tác giả ghi nhận các câu nói của
tiền nhân thay cho lời kết. Phan Huy Chú đã viết trong bài tựa của mục: “Văn Tịch
Chí”: “Những chút đỉnh còn để lại đó, đều là linh hồn trí não của người xưa, có lẽ
nào để cho mai một không lưu truyền được”? (kỳ lược tồn giả, cố giai cổ nhân tính
linh chi ngụ, khả sử dù mai một nhi bất truyền hồ?). Trong sách Luận Ngữ, cuối
thiên Vi chính, Khổng Tử đã nói: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ” (ôn điều cũ mà
biết điều mới, có thể làm thầy thiên hạ được). Nhà triết học Đức Leibnitz cũng viết:
“Hiện tại chứa đầy quá khứ và nặng gánh tương lai”. Chính trong tinh thần tìm hiểu
85
hiện tại, và xây dựng tương lai, chúng ta trở về nguồn, hòa mình vào quá khứ, ôn lại
bài học kinh nghiệm đã có trên mấy ngàn năm, một bài học mà dân tộc Việt Nam có
quyền hãnh diện trước lịch sử nhân loại.
Tất cả tương lai đều có ở trong quá khứ (All the future exists the past - Ngạn
ngữ Anh), đã nhiều thế kỷ trôi qua với biết bao biến động thăng trầm của lịch sử,
nhưng những giá trị và bài học kinh nghiệm về lập pháp và thực thi pháp luật của
cha ông vẫn là tinh hoa, mạch nguồn tư tưởng và động lực to lớn để Đảng và nhân
dân ta vững bước trên con đường đổi mới.
- Trong quá trình vận dụng phải loại bỏ và có giải pháp ngăn chặn những tư
tưởng lạc hậu là tàn dư của thời kỳ phong kiến trong nhận thức của người dân.
Khi vận dụng giá trị các quy định về cổ luật thừa kế thời Lê, thời Nguyễn
cần lưu ý yếu tố truyền thống luôn hàm chứa cả mặt tích cực và tiêu cực đối với sự
phát triển hiện tại bởi lẽ: truyền thống đem theo cả di sản lẫn di căn. Việc vận dụng cổ
luật thừa kế thời nhà Lê, nhà Nguyễn chỉ được thực hiện sau khi đã xác định được
những quy định mang tính tiến bộ và đảm bảo nguyên tắc loại bỏ, ngăn chặn những tư
tưởng tiêu cực, đáp ứng được yêu cầu hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay. Một vấn
đề điển hình là giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình; cá nhân và cộng đồng.
Trong truyền thống do lịch sử để lại, lợi ích của gia đình, của cộng đồng được đặt lên
hàng đầu. Cá nhân chỉ được tôn trọng và bảo vệ khi tự ghép mình trong khuôn khổ lễ
giáo của gia đình và cộng đồng, tuân thủ nghiêm ngặt tục lệ với nhiều đẳng cấp và cấp
độ cộng đồng chồng xếp lên nhau. Con người cá nhân chưa bao giờ được coi là thực
thể độc lập với quyền tồn tại và phát triển nhân cách của mình. “Ở xã hội ta, cá nhân
chìm đắm ở trong gia tộc cho nên nhất thiết các luân lý đạo đức, chế độ văn vật, chính
trị và pháp luật đều lấy gia tộc chủ nghĩa làm gốc” [1, tr.382]. Do sự phát triển của cổ
luật thừa kế hai thời kỳ này chịu ảnh hưởng lớn của Nho giáo, nên không phải pháp
luật mà là đạo đức và phong tục tập quán đóng vai trò thống trị trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Vì vậy, quan hệ về tài sản, quyền và lợi ích của các bên liên quan
đến di sản thừa kế ít được pháp luật bảo vệ và quan tâm.
Mặt khác, tính cộng đồng (họ hàng, làng xóm, nghề nghiệp...) cũng thường
tạo nên cách xử lý nặng về tình và nhẹ về lý (truyền thống đặt lý thấp hơn tình),
86
thậm chí đôi khi “như pháp luật phong kiến cho phép dựa vào đạo đức để che
giấu bản chất giai cấp” [55, tr.156]. Tư tưởng tôn ti, trật tự xã hội đẳng cấp nặng
nề, phi dân chủ, thiếu pháp luật và pháp luật chưa nghiêm... là những khiếm
khuyết phổ biến, hạn chế lớn đã và đang còn ít nhiều trong tâm lý, cách nghĩ và
thói quen hành xử của người Việt Nam. Tư tưởng phải “có lý, có tình”, “một bồ
cái lý không bằng một tí cái tình” đôi lúc trở thành phương châm thực thi pháp
luật của người Việt Nam. Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật thuộc phạm
trù gia đình, bị chi phối bởi đạo đức, lễ nghĩa nên chắc chắn tâm lý coi nhẹ “cái
lý” càng biểu hiện sâu sắc ở đây.
Ngày nay, trong các gia đình, dòng tộc các tàn dư tư tưởng và lề thói phong
kiến tiềm tàng vẫn ít nhiều tồn tại, dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là hai
căn bệnh “gia trưởng” và thói “vô kỷ luật” xuất hiện trong các quan hệ pháp luật dân
sự, quan hệ pháp luật thừa kế. Với bối cảnh xây dựng nhà nước và pháp luật trong điều
kiện mới, những tàn tích lạc hậu này cần được nghiên cứu và xử lý loại bỏ.
Nguyên tắc vận dụng kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp phải
đi đôi với việc loại bỏ các tư tưởng lạc hậu. Đảng ta nhấn mạnh:
Những học thuyết xã hội ngoài Chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá khứ...
trong có có thể có những nhân tố hợp lý, những giá trị chung toàn nhân
loại. Những yếu tố ấy nếu biết gạn lọc, biết hấp thụ một cách có phê phán
sẽ làm giàu thêm bản thân Chủ nghĩa Mác và như vậy mới đúng tinh thần
và thực chất học thuyết của chúng t” [54, tr.164].
Quan điểm này của Đảng càng nổi lên tính thời sự cấp thiết với bối cảnh
nhân loại đang trong xu thế “hội nhập” nhưng không “hòa tan”, giữ gìn và tôn vinh
các giá trị văn hóa dân tộc là một trong những mục tiêu của thời đại của các quốc
gia, dân tộc. Vì vậy, việc tích lũy tri thức chính trị - pháp quyền của cha ông và tìm
tòi những giá trị phù hợp với thực tiễn Việt Nam trên cơ sở kế thừa, vận dụng
những giá trị văn hóa của dân tộc để xây dựng một nền pháp luật thừa kế hoàn
thiện, một xã hội công bằng, văn minh vì lợi ích con người là yêu cầu khách quan
của sự nghiệp đổi mới.
87
3.2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ
LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
3.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày có
Pháp lệnh thừa kế năm 1990
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong giai đoạn lịch sử thời kỳ cận đại,
cùng với việc xây dựng và củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ
lực Latinh hóa hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam trong đó có pháp luật thừa kế.
Sự bành trướng này được đánh dấu bằng các mốc lịch sử vào năm 1858 (khi quân
Pháp và quân Tây Ban Nha bắt đầu sử dụng vũ lực xâm chiếm Việt Nam); năm
1867 (Pháp chiếm xong toàn bộ 6 tỉnh phía Nam, biến nơi đây thành thuộc địa của
Pháp), và năm 1884 (Hòa ước ký kết giữa Việt Nam và Pháp về mặt pháp lý Việt
Nam trở thành một nước bị bảo hộ của Pháp). Trong lĩnh vực dân sự nói chung và
pháp luật thừa kế nói riêng trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng khuôn mẫu rõ nét của
hệ thống pháp luật La Mã - Đức, xây dựng theo mô hình của Pháp nhưng điều đáng
nói là pháp luật thừa kế thời kỳ này cũng đã có những cải biên cho phù hợp với bối
cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Trần Văn Liêm đã nhận định: “trái
ngược hẳn, người Pháp đô hộ Việt Nam có toàn quyền ban hành luật lệ, nhưng đã
giữ nguyên phong tục Việt Nam, nhất là vấn đề liên quan tới gia đình” [27, tr.3],
ngay cả khi ban hành xong ba BLDS bao gồm: BLDS giản yếu áp dụng tại Nam Kỳ
năm 1883, BLDS Bắc Kỳ năm 1931, và BLDS Trung Kỳ năm 1936 (Hoàng Việt
Trung Kỳ hộ luật). Như vậy, “cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, pháp luật theo
mô hình Pháp tràn ngập lãnh thổ Việt Nam nhưng một số phong tục tập quán về
thừa kế của người Việt vẫn được giữ lại” [27, tr.4]. Ở đây ít nhiều phản ánh sự
thừa nhận và vận dụng các tục lệ của dân tộc mà chủ yếu là từ thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn truyền lại. Một số hương ước, luật tục về thừa kế được thừa nhận
trong hai triều đại đến đây đã trở thành phong tục tập quán truyền thống ăn sâu
vào lối sống và nhận thức của người dân Việt. Minh chứng cụ thể là, trước khi
BLDS năm 1936 được ban hành thì Bộ luật Gia Long vẫn được áp dụng tại
Trung Kỳ. Hay BLDS Bắc Kỳ 1931 vẫn trên tinh thần tôn trọng các phong tục
88
tập quán riêng của các dân tộc ít người vùng cao, tức là các tập quán về thừa kế
vẫn được áp dụng trong thời kỳ này.
Tuy nhiên, việc vận dụng này chỉ dừng lại ở việc thừa nhận hương ước và
luật tục về thừa kế mà không vận dụng giá trị trong nội dung cổ luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn.
Trong giai đoạn này, pháp luật thừa kế Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp
nên hầu hết các nội dung, giá trị của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn ít
được quan tâm vận dụng trong chế định thừa kế của các BLDS thời kỳ này. Hệ
thống pháp luật dân sự thời kỳ này chỉ thừa nhận các giá trị của cổ luật thừa kế đã
trở thành phong tục tập quán, thể hiện qua việc cho phép áp dụng tục lệ về thừa kế
bằng một số quy định riêng lẻ trong các bộ luật.
Trong giai đoạn 1945 - 1990, kể từ khi nước ta giành được độc lập, pháp luật
thừa kế của chế độ mới được xây dựng, củng cố và bổ sung theo hướng từng bước
được hoàn thiện.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta đã
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời vào ngày 2/9/1945, là Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á. Song song với việc củng cố chính quyền, Đảng và Nhà
nước ta đã rất chú trọng đến việc củng cố và phát triển nền kinh tế từ mức độc thấp
nửa thực dân - phong kiến nhằm mục đích nâng cao dần mức sống của nhân dân.
Các mối quan hệ trong xã hội đã dần dần được đổi mới theo những chủ
trưởng đúng đắn phù hợp với yêu cầu phát triển tất yếu, khách quan của
dân tộc và thời đại. Cùng với sự ra đời của Nhà nước non trẻ, pháp luật
của chế độ mới cũng được hình thành và phát triển, trong đó quyền thừa
kế của công dân cũng được coi trọng [67, tr.36].
Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ,
trong đó có những quy định về quyền thừa kế, ngoại trừ những điều khoản trái với
nền độc lập và dân chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do điều kiện thời
điểm lịch sử lúc đó chưa cho phép chúng ta xây dựng và ban hành kịp thời các văn
bản pháp luật. Đặc biệt, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 sửa đổi một
89
số qui lệ và quy định trong dân luật (do chủ tịch Hồ Chí Minh ký, chiểu theo Sắc
lệnh ngày 10/10/1945 tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Việt Nam) để thi hành cho
đến khi ban hành những bộ luật mới cho toàn cõi Việt Nam. Với chủ trương đó, gần
như toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự (lúc đó gọi là luật hộ) được xây dựng trong
thời kỳ thuộc địa (như đã nghiên cứu ở nội dung trên) vẫn giữ nguyên giá trị. Theo
đó, trong giai đoạn này, pháp luật thừa kế cũng chỉ thừa nhận một số các tục lệ về
thừa kế đã trở thành phong tục tập quán từ thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn để lại còn
nội dung các quy định về thừa kế thời kỳ này chịu ảnh hưởng chủ yếu của pháp luật
Pháp, chưa có sự kế thừa và vận dụng các giá trị trong nội dung của cổ luật thừa kế.
Đến năm 1950, trước yêu cầu cấp bách của việc xoá bỏ các tàn tích của chế
độ cũ trong lĩnh vực dân sự, nhà làm luật, trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc
kháng chiến chống Pháp, đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để bắt tay vào việc xây
dựng hệ thống pháp luật dân sự XHCN. Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất
của thời kỳ này là việc ban hành Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy
lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh ghi nhận một số nguyên tắc lớn liên quan đến
nhân thân và tài sản: quyền nhận cha, mẹ, quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của
người phụ nữ so với nam giới, quyền thừa kế,...
Các tư tưởng tiến bộ của cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn như: tư tưởng
tôn trọng phụ nữ, người vợ gần như ngang quyền với chồng trong gia đình, các con
được bảo vệ quyền thừa kế ngang nhau (kể cả con gái), tư tưởng đảm bảo sự gắn
bó, đoàn kết trong gia đình... đến đây bắt đầu ít nhiều xuất hiện trong tinh thần xây
dựng pháp luật thừa kế của thời kỳ bấy giờ thành các nguyên tắc cơ bản trong sắc
lệnh số 97-SL. Trong sắc lệnh này, mặc dù nội dung trong quy định về cổ luật thừa
kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn vẫn chưa được vận dụng trực tiếp, nhưng giá trị
trong tinh thần lập pháp tiến bộ của cổ luật thừa kế thời kỳ này đã bắt đầu ít nhiều
ảnh hưởng đến việc xây dựng các nguyên tắc của pháp luật thừa kế. Các nguyên tắc
cơ bản đã được ghi nhận đó là: Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong gia đình, vợ
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng di
sản thừa kế của bố, mẹ; người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên
có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán
90
tài sản chung; quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế của những người là con
cháu hoặc vợ hay chồng của người chết được bảo hộ, các chủ nợ của người chết
cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại [26, Đ.10].
Những nội dung trên của Sắc lệnh số 97-SL đã cụ thể hóa Điều 9 Hiến pháp
năm 1946 là: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” và Điều 12
(Hiến pháp năm 1946) là: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
đảm”. Có thể thấy rằng, những quy định trong Sắc lệnh số 97-SL ngoài việc nỗ lực
xóa bỏ hệ thống pháp luật thuộc địa còn có xu hướng bắt đầu việc lưu giữ, vận dụng
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống cổ luật thừa kế của dân tộc.
Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết những tranh
chấp về thừa kế trong giai đoạn này, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp năm
1946 và tinh thần của Sắc lệnh số 97-SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
1742-BTP ngày 18/9/1956 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 1742) quy định rõ, vợ
hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với các con; vợ lẽ và con nuôi
chính thức của người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người
đó. Vợ góa của người để lại di sản (kể cả vợ cả và vợ lẽ) đều có quyền thừa kế di
sản của chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác. Quy
định trong Thông tư số 1742 nói trên đã củng cố thêm nguyên tắc: “Những đàn bà
có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”.
Tư tưởng tôn trọng phụ nữ trong pháp luật dân sự hiện đại mà thật ra đã xuất
hiện trong cổ luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn đến đây đã được pháp luật thừa kế
Việt Nam vận dụng và xây dựng thành những chỉ đạo mang tính nguyên tắc và hệ
thống những điều luật cụ thể.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Thông tư số 81-
TANDTC ngày 24-7-1981 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 81) hướng dẫn đường lối
giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản.
Khi Thông tư số 81 của TANDTC được ban hành hướng dẫn các tòa án giải
quyết các tranh chấp về quyền thừa kế, thì theo đó về diện thừa kế cũng được hướng
dẫn xác định rõ nét hơn. Diện thừa kế theo pháp luật do Thông tư số 81 bổ sung
91
thêm những người có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản bao gồm con riêng
và cha kế mẹ kế đã thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ
con..., thì con riêng đó được coi như con chung và họ có quyền thừa kế của nhau
khi một bên chết trước. Như vậy, phạm vi những người thuộc diện thừa kế có thể
được mở rộng đến cả con riêng của vợ hay của chồng khi đủ điều kiện như luật định.
Điều này phản ánh tính chất của quan hệ thừa kế là một loại quan hệ tài sản đặc biệt có
mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa những
người thân thuộc trong gia đình Việt Nam, mặt khác, nó phù hợp với truyền thống và
tục lệ của người dân Việt muốn tài sản của mình để lại sau khi chết sẽ cho những người
thân gần nhất với mình thừa hưởng. Đặc biệt, trong Thông tư số 81 còn quy định
trường hợp một người được nhận làm “thừa tự” thì coi như con nuôi và người này cũng
là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người lập tự. (Thừa tự là trường hợp
một người do không sinh được con trai đã nhận một người cháu trai có quan hệ huyết
thống nội tộc với mình về nuôi với mục đích sau khi người nhận nuôi chết, thì người
được lập tự sẽ thờ cúng người lập tự và cha, mẹ, ông, bà của người lập tự).
Ngoài ra Thông tư số 81 đã có quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng.
Quy định này hoàn toàn không tìm thấy trong pháp luật dân sự phương Tây mà đây
là quy định “thuần Việt”. Việc lưu giữ quy định này có lẽ là sự vận dụng rõ nét nhất
các giá trị của cổ luật thừa kế.
Thông tư số 81 đã hướng dẫn giải quyết tranh chấp về nhà thờ họ: Nhà thờ
họ có từ lâu đời hoặc nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền
của để xây dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ.
Trong trường hợp trưởng họ xây dựng nhà thờ bằng tài sản của mình thì khi người
trưởng họ chết, nhà thờ này là di sản thừa kế của trưởng họ.
Mặc dù chỉ mới quy định hướng dẫn một nội dung giải quyết tranh chấp về
nhà thờ họ nhưng Thông tư số 81 đã thể hiện tinh thần tôn trọng tục lệ thờ cúng của
dân tộc. Ít nhiều đã thể hiện sự kế thừa và vận dụng các giá trị về tư tưởng hương
hỏa của cổ luật nhà Lê, nhà Nguyễn trong xây dựng nội dung này.
Ngoài ra, sự vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong
pháp luật thừa kế Việt Nam của giai đoạn này còn thể hiện tương đối rõ nét ở việc
92
Nhà nước thời kỳ này vẫn tôn trọng và thừa nhận những tục lệ, tập quán về thừa kế
của thời kỳ trước với điều kiện là không trái với những nguyên tắc của pháp luật
hiện hành. Cụ thể, Hiến pháp năm 1959 tại Điều 3 quy định: “Các dân tộc có quyền
duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hóa
dân tộc mình”. Trong giai đoạn này, khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1975, vì
hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. “Miền Nam với sự
tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã xây dựng một hệ thống pháp luật
theo mô hình pháp luật Pháp” [48, tr.40]. Hệ thống pháp luật này thừa nhận vai trò
nguồn bổ trợ của tập quán. Điều này thể hiện tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật
của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ví dụ, tại Điều 9 của Bộ Dân luật 1972 Quyển
1 quy định: Gặp trường hợp không có điều luật nào có thể dẫn dụng, thẩm phán sẽ
quyết định theo tục lệ.
3.2.2. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thừa kế được ban hành đến ngày Bộ
luật Dân sự 1995 có hiệu lực thi hành (ngày 01/07/1996)
Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ năm 1992, với sự ra đời của Hiến pháp 1992
và sau đó là hàng loạt các bộ luật, luật, các văn bản dưới luật, hệ thống pháp luật
ngày càng trở nên hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đổi mới. Với chính sách kinh tế thị
trường, bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy của cải trong khu vực tư nhân được
khuyến khích và, như là một hệ quả tất yếu, lưu thông dân sự phát triển nhanh.
Nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng trở nên rất phong phú
và đa dạng trong dân cư, Nhà nước đã xây dựng trong thời gian ngắn hàng loạt quy
phạm pháp luật dân sự, được ghi nhận trong nhiều văn bản lập pháp và lập quy
trong đó có pháp lệnh thừa kế (PLTK) 1990. PLTK ngày 30/8/1990 (PLTK) được
ban hành là một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy định khá
đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi có
BLDS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995.
Trong xu thế cải cách nền kinh tế và xu hướng mở cửa, pháp luật dân sự nói
chung và pháp luật thừa kế nói riêng trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng của nhiều hệ
thống pháp luật trên thế giới như truyền thống pháp luật Xô Viết, pháp luật Pháp...
nên sự vận dụng những giá trị của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong
93
xây dựng PLTK hầu như không rõ nét. Tuy nhiên vẫn có thể tìm thấy một số nội
dung trong PLTK có sự thay đổi cho phù hợp hơn với thực tiễn và tục lệ của dân
tộc. Đây là sự vận dụng một số tư tưởng trong nội dung của cổ luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn, cụ thể như sau:
Một là, văn bản phải kể đến đầu tiên là Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001). Tại Điều 5 Hiến pháp khẳng định đối với Việt Nam, các dân tộc cùng
sinh sống trên đất nước có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Như vậy, thông qua văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, Nhà
nước vẫn tiếp tục chính sách tôn trọng, thừa nhận, giữ gìn, phát huy những tập quán
tốt đẹp trong đó có các tục lệ về thừa kế của dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam.
Hai là, so với Thông tư số 81 PLTK đã quy định về quyền thừa kế của một người
đang là con nuôi của người khác được thừa kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được
thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ, mà Thông tư số 81 đã tước quyền này của họ.
Điểm mới này của PLTK đã thể hiện sự vận dụng tục lệ và quy định của
pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn trong nội dung con nuôi lập tự và không lập
tự. Và theo quy định của cổ luật thừa kế (như đã nghiên cứu ở nội dung trên) thì
người con nuôi vẫn có quyền thừa kế của cha mẹ nuôi và trong trường hợp trở về
gia đình cha mẹ đẻ thì họ vẫn có quyền hưởng thừa kế.
Ba là, theo quy định của PLTK, thì về số lượng hàng thừa kế theo pháp luật
được tăng thêm và được mở rộng hơn về người thừa kế theo hàng; đặc biệt, dựa trên
quan hệ huyết thống giữa người thừa kế ở hàng thứ ba với người để lại di sản, đó là
cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người
mà người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Pháp lệnh thừa kế quy định 03 hàng thừa kế tại Điều 25 như sau:
Hàng thứ nhất: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
Hàng thứ hai: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết;
94
Hàng thứ ba: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột.
Ba hàng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 25 PLTK có những
điểm khác biệt cơ bản và cũng là những điểm mới so với những quy định về hàng
thừa kế trong Thông tư số 81 (và các văn bản khác trước đây quy định về thừa kế).
Đặc biệt là những người thừa kế thuộc hàng thứ ba được sắp xếp theo quan hệ huyết
thống, bao gồm:
- Bề trên của người để lại di sản gồm có cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
- Bề dưới của người để lại di sản gồm có cháu ruột của người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được quy định trong
PLTK đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng mang tính truyền thống được vận
dụng từ tinh thần lập pháp từ thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và từ tục lệ của dân tộc
Việt Nam về quan hệ gia đình Việt Nam là: “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Những
người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của người đó. “Lợi ích của mỗi thành viên trong một gia đình, trong dòng tộc
luôn được pháp luật của nước ta coi trọng và bảo đảm thực hiện trong mối quan hệ
với lợi ích của toàn xã hội, khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng phong
phú về chủng loại và tăng cao về giá trị” [67, tr.59].
Ba hàng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 25 PLTK không
những phù hợp với thực tế xã hội, mà còn duy trì và củng cố được truyền
thống, tục lệ của dân tộc từ thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn còn lưu truyền lại khi
đặc biệt chú trọng bảo vệ quan hệ huyết thống trong các hàng thừa kế. Một mặt
bảo vệ triệt để quan hệ huyết thống, một mặt đảm bảo sự đoàn kết, yêu thương,
trách nhiệm và gắn bó giữa các thành viên trong gia đình và rộng hơn là trong
gia tộc, dòng tộc, không những là giữ gìn của cải vật chất để lưu truyền mãi
mãi cho các thế hệ con cháu mà còn giữ vững truyền thống, nề nếp gia phong,
đạo lý trong gia đình.
95
Bốn là, về di sản thờ cúng.
Pháp lệnh thừa kế được ban hành, thì di sản thờ cúng mới được quy định cụ
thể. Theo quy định tại Điều 21 PLTK, phần di sản này thuộc khối di sản của người
chết để lại dùng vào việc thờ cúng và được coi như di sản chưa chia. Di sản thờ
cúng được đem chia cho những người có quyền hưởng theo pháp luật, khi việc thờ
cúng không được thực hiện theo ý nguyện của người để lại di sản đó. Điều 21
PLTK không quy định giá trị, loại di sản dùng vào việc thờ cúng, mà chỉ quy định:
“Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được
coi như di sản chưa chia”. Tuy nhiên, dù có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì
về nguyên tắc, nếu di sản khác của người chết để lại không bảo đảm thực hiện các
nghĩa vụ về tài sản của người đó đối với người khác, thì di sản dùng vào việc thờ
cúng phải được coi là di sản chưa chia và cũng phải đưa vào khối tài sản thanh toán
nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại.
Quy định về di sản thờ cúng tiếp tục được PLTK lưu giữ một mặt bảo đảm
tính truyền thống một mặt thể hiện sự vận dụng và bảo tồn những di sản của cha
ông từ thời kỳ phong kiến lưu truyền lại, vận dụng tư tưởng trong quy định về
“hương hỏa” của các triều đại này trong xây dựng quy định di sản thờ cúng trong
PLTK. Theo đó, di sản của cha ông cho con cháu được lưu truyền cho con cháu nội
tộc theo quan hệ huyết thống sâu sắc: Đích tử, đích tôn, đồng tông, đồng tính, theo
tôn ti, theo thế thứ. Đồng thời quy định trên cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của con cháu người để lại di sản nhằm loại trừ khả năng di sản dùng vào việc thờ
cúng thuộc về người khác, ngoài những người trong diện thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
3.2.3. Giai đoạn sau ngày Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực đến nay * Trong BLDS năm 1995 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1996)
Công cuộc xây dựng dự thảo BLDS 1995 được bắt đầu từ những năm 80 của
thế kỷ 20. BLDS 2005 do Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo, Trưởng ban soạn
thảo là Bộ trưởng với sự tham gia của các Vụ trưởng. Tham gia Ban soạn thảo còn có đại
diện các Bộ, cơ quan, tổ chức, Toà án tối cao, Hội luật gia Việt Nam, các văn phòng luật
sư, các trường đại học... Điều cần lưu ý ở đây là đa số luật gia Việt Nam trực tiếp tham
gia xây dựng BLDS đầu tiên này được đào tạo trong nhà trường Xô Viết.
96
Ban dự thảo BLDS Việt Nam 1995 ngay từ đầu đã có trong tay BLDS Liên
bang Nga được ban hành năm 1964 là Bộ luật được pháp điển hóa với nhiều sự kế
thừa, tiếp thu các chế định pháp luật dân sự của thời Nga hoàng vốn theo mô hình
pháp luật dân sự của BLDS Đức và cả nhiều chế định pháp luật dân sự La Mã cổ
đại. Cấu trúc của BLDS Việt Nam đã được xây dựng theo mô hình BLDS của các
nước cộng hòa trong Liên bang Xô Viết trước đây và của Cộng hòa Liên bang Nga
năm 1964, Bộ luật này có 569 điều và 8 phần.
Nghiên cứu chế định thừa kế trong BLDS năm 1995, chúng ta thấy rõ vai trò
ảnh hưởng quan trọng trong học vấn của các nhà làm luật. Đa số những thành viên
trực tiếp tham gia soạn thảo BLDS năm 1995 được đào tạo ở Nga và các nước thuộc
Liên Xô trước đây nên các chế định thừa kế của Bộ luật này được xây dựng chủ yếu
trên cơ sở hình mẫu cấu trúc và các giải pháp pháp lý trong BLDS của Liên bang
Nga. Việc xem xét kinh nghiệm về quy định thừa kế trong các Bộ luật của các nước
khác - đặc biệt là của Pháp, Nhật chỉ có ý nghĩa tham khảo, đối chiếu, bổ sung.
“Điều này có nguyên nhân chủ quan là do các nhà làm luật khi xây dựng chế định
thừa kế trong dự thảo Bộ luật rõ ràng là phải dựa trên tư duy, các thuật ngữ, khái
niệm đã được đào tạo một cách chính thống” [27]. Các quy định về thừa kế trong
BLDS kinh điển, hình mẫu cho BLDS ở các nước trên thế giới như BLDS Pháp,
BLDS Đức cũng có ảnh nhiều đến các nhà làm luật Việt Nam nhưng ảnh hưởng đó
không phải là trực tiếp.
Có thể thấy, quan điểm vận dụng chủ đạo trong quá trình soạn thảo và xây
dựng các chế định về thừa kế trong BLDS 1995 chủ yếu là trên cơ sở các vướng
mắc về lý luận, thực tiễn của hoàn cảnh cụ thể Việt Nam và trên cơ sở tham khảo
quy định thừa kế trong các BLDS của một số nước trên thế giới. Các giá trị truyền
thống trong lịch sử cổ luật Việt Nam mặc dù cũng được đề cập đến như một kênh
tham khảo trong quá trình xây dựng chế định thừa kế trong BLDS 1995. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc vận dụng các giá trị của cổ luật thừa kế truyền thống trong bộ luật
này chưa được rõ nét. Nội dung của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
hầu như không được vận dụng trực tiếp để xây dựng chương thừa kế trong BLDS
1995. Giá trị của cổ luật thừa kế được vận dụng ở đây chủ yếu là một số giá trị về
97
tinh thần và tư tưởng lập pháp; ngoài ra có một số quy định trong cổ luật thừa kế
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đến đây đã được thừa nhận là phong tục tập quán nên
đã được BLDS 1995 thừa nhận như một giải pháp giải quyết vấn đề thực tiễn tranh
chấp về thừa kế trong nhân dân với điều kiện không trái với các nguyên tắc của
BLDS. Cụ thể như sau:
Một là, tại Điều 5 Hiến pháp 1992 khẳng định đối với Việt Nam, các dân tộc
cùng sinh sống trên đất nước có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình. Như vậy, thông qua văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất,
Nhà nước đã khẳng định chính sách tôn trọng, thừa nhận, giữ gìn, phát huy những
tập quán tốt đẹp của các dân tộc trong đó có tập quán về thừa kế trong đại gia đình
dân tộc Việt Nam. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để các văn bản luật và các
văn bản quy phạm pháp luật khác xây dựng nên cơ chế đảm bảo áp dụng tập quán
thừa kế với vai trò nguồn của pháp luật ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, BLDS 1995 và
hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác trong các lĩnh vực của đời sống dân
sự như hôn nhân gia đình, thừa kế,... đều cho phép áp dụng tập quán.
Tại điểm b tiểu mục 2.7 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ cũng đã nêu định nghĩa
về tập quán bao gồm cả tập quán thừa kế như sau: “tập quán là thói quen đã thành
nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng
nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng”.
Hai là, quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng vẫn tiếp tục được quy định
tại điều 673 BLDS 1995 là sự vận dụng rõ nét tư tưởng, tục lệ của cổ luật thừa kế
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và là sự kế thừa quy định từ PLTK trước đó. Theo đó,
tại điều 673 BLDS 1995 quy định:
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được
giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện
việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
98
hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế, thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không
chỉ định người quản lý di sản thờ cúng, thì những người thừa kế cử một
người quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp tất cả những người thừa
kế theo di chúc đều đã chết, thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về
người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện
thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh
toán nghĩa vụ tài sản của người đó, thì không được dành một phần di sản
dùng vào việc thờ cúng [79].
* Trong BLDS 2005 (Có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006)
Sau 10 năm thi hành, BLDS năm 1995 đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một
số quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường,
không rõ ràng hay không đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều Bộ luật mới
ra đời có các nội dung liên quan đến BLDS Việt Nam năm 1995 nhưng Bộ luật này
lại không điều chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự
tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế.
Tương tự như tư tưởng xây dựng BLDS 1995, khi soạn thảo những điều luật
trong BLDS 2005 các nhà làm luật Việt Nam tiếp tục dựa trên kinh nghiệm của
pháp luật dân sự các nước trên thế giới điều chỉnh các vấn đề về thừa kế, và tất
nhiên vẫn sửa đổi dựa trên cơ sở giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn thực
thi pháp luật thừa kế ở Việt Nam trong thời gian qua. Theo yêu cầu của Ban soạn
thảo BLDS 2005, Nhà pháp luật Việt Pháp đã mời các luật gia Pháp sang trao đổi
kinh nghiệm, tổ chức tọa đàm. Ngoài ra, việc xây dựng chế định thừa kế trong bộ
luật này còn tham khảo kinh nghiệm của pháp luật Đức, Pháp, Bỉ, Mỹ,... Vì vậy,
việc vận dụng giá trị nội dung của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong
hoàn thiện chế định thừa kế vẫn chưa rõ nét. Tương tự như trong BLDS 1995,
BLDS 2005 vẫn chỉ vận dụng một số các giá trị trong tinh thần lập pháp và vận
dụng một số các tục lệ về thừa kế phù hợp với nguyên tắc của bộ luật. Cụ thể:
99
Một là, tại Điều 3 BLDS 2005 ghi nhận nguyên tắc: “Trong trường hợp pháp
luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán...
Tập quán (...) không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”.
Ngoài Điều 3 BLDS năm 2005 còn có nhiều quy định khác cho phép áp dụng tập
quán hoặc lựa chọn giữa tập quán và sự thỏa thuận của các bên trong các quan hệ
thừa kế. Tại Việt Nam, việc áp dụng tập quán pháp đã có lịch sử hình thành và phát
triển lâu dài qua các thời kỳ lịch sử nhất là dưới thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn. Dưới
các triều đại phong kiến, các phong tục tập quán đã đóng vai trò quan trọng trong
việc thay thế pháp luật, góp phần duy trì sự ổn định của xã hội. Hiện nay, nguyên
tắc áp dụng tập quán tiếp tục được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành.
Hai là, BLDS 2005 tiếp tục vận dụng tư tưởng truyền thống trong chế định
hương hỏa thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn và tiếp tục kế thừa quy định này tại BLDS
1995 trong việc quy định nội dung di sản dùng vào việc thờ cúng tại Điều 670 BLDS
2005. Nội dung điều luật này không có gì thay đổi so với Điều 673 BLDS 1995.
* Trong BLDS 2015 (Có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2017)
Theo tờ trình Quốc hội năm 2014 của Chính phủ về dự án sửa đổi BLDS
2005. Cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tư pháp đã tổ chức họp Hội đồng khoa học
Bộ, nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học để lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa
phương, chuyên gia trong nước, nước ngoài về mục tiêu, quan điểm và những định
hướng lớn sửa đổi, bổ sung BLDS; tổ chức các hoạt động khảo sát ở một số địa
phương trong nước và nước ngoài (Nhật, CHLB Đức, Pháp, Nga); nghiên cứu, biên
dịch tài liệu liên quan đến pháp luật dân sự của một số nước, nhất là các nước
chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế như Nga và Campuchia... [30].
Dự thảo BLDS (sửa đổi) đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ
Tư pháp để lấy ý kiến nhân dân, gửi xin ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành, tổ
chức có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Có thể thấy, tư tưởng của quá trình xây dựng và hoàn thiện BLDS 2015
trước hết trên cơ sở giải quyết những vấn đề vướng mắc về lý luận và thực tiễn của
xã hội dân sự Việt Nam vào thời điểm hiện tại và tiếp đến là trên cơ sở tiếp thu kinh
nghiệm pháp luật dân sự, pháp luật thừa kế của các nước trên thế giới là chủ yếu.
100
Kinh nghiệm về truyền thống và tục lệ thừa kế vẫn tiếp tục được đề cập đến nhưng
vẫn chưa thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận dụng để hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện hành. Tuy nhiên, trong BLDS 2015 vấn đề áp dụng tập quán
trong đó có các tập quán về thừa kế đã được quan tâm và chú trọng hơn.
Tại khoản 3 điều 5 Hiến pháp 2013 quy định ‘các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Và tại khoản 1 Điều 5 BLDS 2015 đã nêu khái
niệm về tập quán: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình
thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng
rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực
dân sự” [86]. Như vậy rõ ràng, những tập quán thừa kế được áp dụng ở đây bắt
buộc phải đảm bảo nguyên tắc hiến định là tập quán tốt đẹp chứ không phải mọi
loại tập quán. Bên cạnh đó, tập quán tốt đẹp để được áp dụng điều chỉnh các quan
hệ xã hội trên lĩnh vực thừa kế và để làm cho quan hệ xã hội đó trở thành quan hệ
pháp luật thì phải phù hợp với những nguyên tắc được nêu trong các văn bản quy
phạm pháp luật đóng vai trò là đạo luật gốc. Cụ thể, trong lĩnh vực thừa kế thì phải
đảm bảo nguyên tắc nêu trong BLDS.
Về nguyên lý chung, khi Nhà nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội về
thừa kế, thông thường Nhà nước sẽ ban hành các quy phạm pháp luật tương ứng.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp quan hệ thừa kế mà Nhà nước cần điều chỉnh
chưa được quy định tại các văn bản pháp luật và đang được thực hiện theo các tập
quán trong nhân dân. Vì thế, “nếu những tập quán này phù hợp với mục tiêu điều
chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà nước, Nhà nước sẽ sử dụng phương pháp thừa
nhận, làm cho tập quán đó trở thành quy tắc sử sự có tính bắt buộc chung được Nhà
nước đảm bảo thực hiện” [11, tr.138].
Bộ luật Dân sự 2015 vẫn tiếp tục giữ lại quy định di sản dùng vào việc thờ
cúng tại Điều 645 và không có sửa đổi bổ sung gì trong nội dung điều luật này.
Như đã phân tích ở trên, giá trị nội dung của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà
Lê, nhà Nguyễn hầu như chưa được vận dụng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện
101
quy định về thừa kế trong các BLDS. Tuy nhiên, nếu phủ nhận hoàn toàn và cho
rằng pháp luật thừa kế hiện đại không vận dụng bất kì giá trị nào trong cổ luật thừa
kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn thì lại không khách quan và chưa hợp lí. Thật ra,
việc vận dụng, ngoài những nội dung như đã phân tích ở trên, trong quá trình lập
pháp nhà làm luật cũng đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng tiến bộ và “tinh
thần” lập pháp truyền thống. Trong quá trình xây dựng pháp luật thừa kế ngoài việc
tham khảo pháp luật các nước trên thế giới thì nội dung các điều luật thừa kế trong
các BLDS hiện đại vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng của truyền thống lập pháp Việt
Nam. Cụ thể như sau:
Một là, trong BLDS 1995, chế định thừa kế được quy định tại phần thứ 4 gồm 4
chương từ điều 643 đến điều 689; trong BLDS 2005, chế định về thừa kế được quy
định tại phần thứ 4, chương XXII, chương XXIII, chương XXIV, chương XXV; từ
điều 631 đến điều 687. Và tiếp tục được ghi nhận tại phần thứ 4, chương XX, chương
XXI, chương XXII, chương XXIII; Từ điều 609 đến điều 665 BLDS (sửa đổi) 2015.
Nội dung các quy định về thừa kế trong BLDS 1995, BLDS 2005 và BLDS 2015 có
thể nhận thấy rất nhiều điều luật cũng như “tinh thần” các điều luật ít nhiều có sự ảnh
hưởng của tư tưởng pháp luật thừa kế các thời kỳ trước, trong đó tất yếu có sự kế thừa
pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, chẳng hạn: về hình thức của di chúc, cổ
luật đã quy định hai hình thức: chúc thư và chúc ngôn. Các BLDS vẫn ghi nhận hai
hình thức di chúc chủ yếu này tại điều 652 và điều 653 BLDS 1995; điều 650, điều 651
BLDS 2005; điều 628, điều 629 BLDS 2015; về di chúc chung của vợ chồng quy định
tại điều 666 BLDS 1995; tại điều 663 BLDS 2005 cũng trên tinh thần kế thừa quy định
về thời điểm mở thừa kế trong cổ luật triều Lê, triều Nguyễn (theo đó di sản chưa chia
khi một bên vợ hoặc chồng còn sống, người còn sống được toàn quyền sử dụng và
hưởng dụng tài sản chung, di sản chung của vợ chồng chỉ được chia khi người cuối
cùng qua đời)…; Đặc biệt là quy định về “di sản dùng vào việc thờ cúng” xuất phát từ
chế định hương hỏa trong cổ luật đều được các BLDS ghi nhận tại các điều 673 BLDS
1995, điều 670 BLDS 2005, điều 645 BLDS 2015.
Hai là, trong các BLDS việc thừa nhận tập quán pháp trước hết thông qua
một quy định mang tính nguyên tắc, chẳng hạn thể hiện tại điều 3 BLDS 2005 và
102
khoản 2 Điều 5 BLDS 2015 đều quy định: “trong trường hợp pháp luật không quy
định các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán nhưng không được
trái với những nguyên tắc quy định trong BLDS” [88]. Đồng thời, các BLDS cũng
đều đã đưa ra nhiều quy định chi tiết thừa nhận tập quán trong quan hệ thừa kế: việc
xác định di sản dùng vào việc thờ cúng; đồ thờ cúng; nghĩa vụ thờ cúng; nghĩa vụ
liên quan đến thừa kế… chẳng hạn, tại điều 683 BLDS 2015 quy định thứ tự ưu tiên
thanh toán các nghĩa vụ ngay tại khoản 1, chi phí đầu tiên được ưu tiên thanh toán
chính là chi phí mai táng hợp lý theo tập quán…
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG PHÁP LUẬT
THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
3.3.1. Về kết quả đạt được
- Các chế định về thừa kế trong cổ luật thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã có
ảnh hưởng và hiệu lực thực tế trong suốt thời kỳ lịch sử phong kiến. Một số nội
dung của cổ luật thừa kế thời kỳ này đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen
ứng xử, khuôn mẫu ứng xử của người dân. Nhiều quy định trong cổ luật thừa kế đã
trở thành phong tục, tập quán và được thừa nhận rộng rãi trong đời sống dân sự của
người dân Việt. Việc vận dụng các tinh thần trong nội dung cổ luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn đã góp phần làm cho pháp luật thừa kế trở nên hoàn thiện hơn
và phù hợp hơn; gần gũi hơn với thực tiễn cuộc sống. Pháp luật mà đặc biệt là pháp
luật thừa kế bao giờ cũng là sự phản ánh một hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Pháp luật thừa kế được xây dựng trên nền tảng phù hợp với nhận thức,
tập quán, thói quen của người dân sẽ có hiệu quả thực thi cao và có sức sống bền bỉ,
lâu dài. Thực tế đã cho thấy, chế định về thừa kế rất ít sửa đổi, bổ sung qua các lần
sửa đổi BLDS. Đây là thành tựu nổi bật của quá trình vận dụng giá trị của cổ luật
thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam.
- Việc áp dụng tập quán về thừa kế có thể làm định hướng hình thành đường
lối giải quyết các trường hợp tương tự trong thực tiễn hiện tại, làm căn cứ cho việc
phát triển án lệ. Một số tập quán về thừa kế từ thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn để lại
cũng tương đối phong phú, đa dạng, đã được thừa nhận rộng rãi trong nhân dân.
103
Trong đó có nhiều tập quán thừa kế tiến bộ là thế mạnh để lựa chọn và góp phần
làm cho quy định về áp dụng tập quán tại BLDS ngày càng phát huy hiệu quả hơn.
Thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã để lại một hệ thống hương ước, luật tục về
thừa kế tương đối phong phú của nhiều dân tộc anh em trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, các thiết chế làng xã tồn tại từ lâu đời (xuất hiện từ thời nhà Lê, nhà
Nguyễn) với một hệ thống những lệ làng, hương ước liên quan đến thừa kế cũng là
những sản phẩm thành văn hoặc bất thành văn chứa đựng một số các quy phạm về
thừa kế cũng phong phú, đa dạng không kém đã đóng vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh các tranh chấp về thừa kế trong nội bộ làng xã đạt hiệu quả thực tiễn.
Các quy phạm về thừa kế này đủ chi tiết có thể bổ khuyết cho pháp luật và có sức
mạnh đảm bảo thực thi trong nội bộ làng xã. Vì vậy, đây cũng là nguồn, là sự bổ
khuyết, tương trợ cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
* Những hạn chế
Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã để lại một kho tàng tri thức
phong phú với nhiều giá trị đặc sắc, nhiều kinh nghiệm lập pháp tiến bộ có thể được
nghiên cứu và vận dụng trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật thừa kế. Tuy
nhiên, kết quả của quá trình vận dụng này vẫn còn khiêm tốn. Trừ giai đoạn đầu sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 việc vận dụng vẫn còn tương đối rõ nét, vì ở giai
đoạn này Nhà nước chủ trương giữ lại các luật lệ cũ trong đó bao gồm cả tục lệ thừa
kế của dân tộc. Ở các giai đoạn xây dựng pháp luật thừa kế sau đó việc vận dụng
hầu như ít được quan tâm và chưa đạt hiệu quả cao.
Nội dung của cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn gần như bao quát
các quy định của pháp luật thừa kế hiện đại, tổng cộng gồm 4 nhóm các quan hệ
thừa kế: Nhóm các quy định những vấn đề chung về thừa kế (thời điểm mở thừa kế,
di sản thừa kế); Nhóm quy định điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa những chủ thể
được hưởng thừa kế (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng);
Nhóm các quy định về các hình thức thừa kế (thừa kế không có chúc thư, thừa kế
hương hỏa); Nhóm các quy định do Nhà nước thừa nhận về hương ước và luật tục
để giải quyết các quan hệ thừa kế. Mỗi một nhóm nội dung đều để lại những giá trị
104
đặc sắc và những kinh nghiệm lập pháp nhất định trong một chừng mực nào đó vẫn
có thể được nghiên cứu tiếp thu để vận dụng trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện đại ở Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình vận dụng trên thực tiễn
đã cho thấy, việc vận dụng này hầu như mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh
giá các giá trị và chỉ ra bài học kinh nghiệm trong nội dung cổ luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn. Việc đặt ra các yêu cầu, các nguyên tắc để vận dụng trực tiếp
các giá trị trong nội dung cổ luật thừa kế thời kỳ này vào việc hoàn thiện pháp luật
thừa kế hiện hành ít được quan tâm.
Như đã phân tích ở trên, việc vận dụng chỉ mới tập trung ở 2 nội dung chủ
yếu: Một là, vận dụng tư tưởng truyền thống về “hương hỏa” của pháp luật thừa kế
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong việc quy định di sản dùng vào việc thờ cúng; Hai
là, thừa nhận một số tập quán từ thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong lĩnh vực thừa kế.
Giá trị trong các nhóm nội dung còn lại chưa được vận dụng trực tiếp, rõ nét. Việc
vận dụng ở đây chỉ dừng lại ở sự ảnh hưởng trong tinh thần và tư tưởng lập pháp để
góp phần ít nhiều gìn giữ yếu tố truyền thống trong hoạt động lập pháp hiện hành.
Việc vận dụng trực tiếp các giá trị trong nội dung cổ luật thừa kế để xây dựng và
hoàn thiện các quy định về thừa kế trong các BLDS hiện đại còn ít được quan tâm
nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu đánh giá cao các giá trị tiến bộ của cổ luật thừa kế như:
Bảo vệ quyền lợi phụ nữ, bảo đảm đoàn kết trong gia đình, bảo vệ quyền để lại di
sản và hưởng di sản thừa kế,… Tuy nhiên, nếu nói các giá trị này được vận dụng từ
cổ luật để xây dựng nên BLDS hiện hành thì lại không hoàn toàn chính xác vì thật
ra những tư tưởng này cũng trùng hợp với những tư tưởng của pháp luật thừa kế
phương Tây mà trong quá trình soạn thảo các nhà lập pháp đã học tập kinh nghiệm.
Có thể nói, thời gian qua việc vận dụng các giá trị truyền thống về lập pháp
nói chung và các giá trị trong nội dung cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
nói riêng trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
hành chưa đạt được những kết quả như mong muốn, chưa được quan tâm đúng mức
và chưa tương xứng với tầm vóc giá trị cổ luật thừa kế mà hai thời kỳ này đã để lại.
Việc chưa khai thác được hết các giá trị và các kinh nghiệm lập pháp trong nội dung
105
cổ luật thừa kế để góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế là một điều
đáng tiếc.
* Nguyên nhân của những hạn chế
- Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu các giá trị cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhất là nhà Nguyễn để vận dụng trong công tác lý luận và thực tiễn còn ít được đầu
tư nghiên cứu. Tài liệu về cổ luật thừa kế dưới hai triều đại này tương đối phong
phú nhưng nhiều tài liệu chưa được dịch ra tiếng Quốc ngữ. Nhiều nguồn tài liệu
trực tiếp vẫn đang còn ở dạng nguyên bản Hán Nôm; các nguồn tài liệu thứ cấp
phần nhiều vẫn là bản tiếng Pháp. Chưa kể rất nhiều tài liệu bị tản mát và thất lạc.
Vì vậy, việc nghiên cứu các giá trị này chưa được toàn diện nên việc vận dụng vào
hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành chưa được đẩy mạnh.
- Cơ sở pháp lí của việc vận dụng các giá trị của cổ luật trong hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện hành chưa đầy đủ, nhiều quy định còn chung chung khó có
thể thực thi trên thực tế. Ngoài ra, việc vận dụng không có sự ràng buộc mang tính
nguyên tắc trong quá trình xây dựng pháp luật thừa kế nên quá trình vận dụng vẫn
chỉ ở chừng mực nhất định. Hiện nay các giá trị truyền thống mới chỉ được quy định
chung là được “tôn trọng và phát huy”. Vì vậy, giá trị hiệu lực của quy định này
không cao. “Tôn trọng và phát huy” không đủ căn cứ pháp lý tạo ra cơ chế cho việc
vận dụng các giá trị trong cổ luật vào việc hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
- Do quy định về thuật ngữ “tập quán”, “phong tục tập quán” còn thiếu thống
nhất. Trong các BLDS tại rất nhiều điều khoản sử dụng thuật ngữ “tập quán” nhưng
phải đến BLDS 2015 mới giải thích thống nhất về khái niệm thuật ngữ “tập quán”.
Tuy nhiên, quá trình vận dụng tập quán thừa kế vẫn chưa có cơ chế và lộ trình nên
việc vận dụng trên thực tế vẫn chưa tìm được cách tiếp cận hợp lí, đúng pháp luật.
- Hiện nay chúng ta không có tòa án phong tục nên không có cơ chế xác định
và giải thích về phong tục tập quán thừa kế. Vẫn chưa thống nhất về quan niệm, các
nguyên tắc và điều kiện đặt ra trong việc vận dụng phong tục tập quán thừa kế trong
quá trình xây dựng và thực thi pháp luật thừa kế hiện hành. Thực tiễn đã có tình
trạng áp dụng không đúng, lạm dụng hoặc đi ngược lại tâm tư, nguyện vọng của đa
số người dân. Trong lịch sử, ở Việt Nam từng có thời kỳ tồn tại tòa án phong tục
106
như thời kỳ thuộc địa của thực dân Pháp, thời kỳ chính quyền Sài Gòn trước năm
1975. Thiết nghĩ, vận dụng các giá trị cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
trong việc hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành cần phải có cơ chế đồng bộ, phải
đưa ra những yêu cầu và giải pháp hợp lí chứ không phải chỉ thông qua các định
hướng chung hoặc thông qua một số các quy định pháp luật có phần hạn chế như
hiện nay.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, vấn đề xây dựng BLDS nói chung và
pháp luật về thừa kế nói riêng chưa có một mô hình về hệ thống pháp luật rõ ràng,
các quy định về thừa kế trên cơ sở học tập kinh nghiệm nước ngoài là chủ yếu, kinh
nghiệm lịch sử đã và đang được đặt ra nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức,
quá trình vận dụng vẫn còn thiếu sự tinh tế và sự chọn lọc. Do đó, việc nghiên cứu
kinh nghiệm lịch sử trong lĩnh vực thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn với tư tưởng
không phủ nhận sạch trơn, mà trong đó có nghiên cứu về sự ảnh hưởng và có sự vận
dụng hợp lí các truyền thống pháp luật này tới việc hoàn thiện pháp luật thừa kế
Việt Nam là rất quan trọng. Việc học tập thêm kinh nghiệm nước ngoài cùng với
việc giữ gìn các giá trị truyền thống trong cổ luật thừa kế của dân tộc rất có ích cho
việc xây dựng mô hình hệ thống pháp luật thừa kế hiện đại nhưng vẫn phù hợp với
các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam.
Kết luận chương 3
Trong chương 3, luận án đã tập trung nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về vận
dụng và nghiên cứu thực tiễn vận dụng cổ luật thừa kế dưới hai thời kỳ này trong
hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Trong nội dung cơ
sở lý luận về vận dụng cổ luật thừa kế trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt
Nam, luận án đã xây dựng được khái niệm vận dụng cổ luật thừa kế, luận án tiếp tục
phân tích các nguyên tắc của quá trình vận dụng này. Những nguyên tắc này được
hiểu là những quan điểm, những tư tưởng chỉ đạo trong quá trình vận dụng các giá
trị của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp luật
thừa kế ở Việt Nam, bao gồm các nguyên tắc: Nguyên tắc quán triệt đường lối đổi
mới của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ mới;
Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan và toàn diện; lịch sử cụ thể và phát triển trong
107
quá trình vận dụng; Nguyên tắc kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa
tốt đẹp, xây dựng nền văn hóa pháp luật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, loại bỏ
các tư tưởng lạc hậu. Trên cơ sở quan niệm về vận dụng và hệ thống các nguyên tắc
vận dụng, tại chương 3, luận án đã tiếp tục phân tích thực trạng vận dụng cổ luật
thừa kế của hai thời kỳ này trong hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay qua các giai đoạn cụ thể: Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945
đến trước khi có PLTK 1990, giai đoạn từ PLTK 1990 đến trước khi có BLDS 1995
và giai đoạn từ khi BLDS 1995 có hiệu lực đến nay. Qua đó, luận án đã đánh giá
những thành tựu đạt được của quá trình vận dụng và những vấn đề chưa đạt được
của quá trình này, chỉ ra những nguyên nhân của những bất cập này. Đây là căn cứ,
là cơ sở cho việc đề ra những yêu cầu và đề xuất hệ thống giải pháp cho việc tiếp
tục vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện pháp
luật thừa kế ở Việt Nam.
108
Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC VẬN DỤNG
PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
4.1. YÊU CẦU ĐẢM BẢO VIỆC TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHÁP LUẬT
THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
4.1.1. Yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh giữ gìn
và phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Việc hoàn thiện pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt
Nam nói riêng phải nhằm đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc pháp chế XHCN và
yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Do vậy, việc vận dụng cổ
luật để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng là
một trong những yêu cầu cấp thiết góp phần thực thi nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền với bối cảnh giữ gìn và phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng XHCN đang đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhiệm vụ
trực tiếp là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt là xây dựng xã hội dân
sự của dân, do dân và vì dân. Trong bối cảnh đó hoàn thiện pháp luật thừa kế “nhằm
bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc” có ý nghĩa
chiến lược. Nhà nước ta luôn gắn vấn đề xây dựng và hoàn thiện nền pháp luật nói
chung và pháp luật dân sự nói riêng “tiên tiến” với “phát huy di sản văn hóa dân
tộc”. Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã nêu
rõ “Thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980,
Hiến pháp năm 1992”. Trong Hiến pháp năm 2013 tại chương III, chương quy định
về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, tại khoản
109
1 Điều 60 quy định: “Nhà nước xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...”. Tại chương II, quyền con người và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cụm từ “truyền thống dân tộc” tiếp tục được nhắc
đến tại khoản 2 Điều 36: “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều
kiện... bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc...”. Tại khoản 2 Điều 18: “Nhà
nước CHXHCN Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định
cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam...”.
Có thể khẳng định những chủ trương, chính sách với nội dung cơ bản yêu
cầu “giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”, “truyền thống dân tộc” đã được hiến
định, thể hiện nhất quán từ chủ trương xây dựng kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật,
giáo dục đến chiến lược xây dựng và phát triển con người trong thời đại mới. Hội
nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi những cố gắng cao
độ, nhất là tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật về
thừa kế để đáp ứng những yêu cầu mới trong đời sống dân sự. Một trong những
nhiệm vụ hàng đầu là cần nghiên cứu tiếp thu có phê phán những tinh hoa tư tưởng
về nhà nước và pháp luật trong lịch sử dân tộc, tham khảo kinh nghiệm của quá
khứ, rút ra từ di sản pháp lý truyền thống những mặt tích cực và phù hợp để phục vụ
có hiệu quả yêu cầu hoàn thiện pháp luật dân sự về thừa kế trong giai đoạn hiện
nay. Theo Hồ Chủ tịch: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu,
nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển lên... Cái gì mới mà hay thì ta phải làm” [53, tr.37].
Cùng với thời gian, các quy định về cổ luật thừa kế biểu hiện thành các
phong tục tập quán về cơ bản vẫn được lưu truyền bằng nhiều cách. Những quy
phạm pháp luật này ít nhiều đến nay vẫn được lưu giữ lại, người dân vẫn xử sự theo
thói quen từ bao đời và rất nhiều quy phạm pháp luật thừa kế dưới thời kỳ này đến
nay đã được thừa nhận là phong tục, tập quán.
Đối với đồng bào dân tộc Kinh ở nhiều vùng miền, phong tục tập quán
lưu truyền bằng hương ước hay truyền miệng. Đồng bào các dân tộc ít
người lưu truyền bằng phong tục tập quán trong hệ thống luật tục hoặc
qua hành vi thực hành xã hội tại cộng đồng, qua lời kể của những
110
người cao tuổi có uy tín. Các dòng họ lưu truyền tập quán của mình tại
gia phả [48, tr.80].
Phong tục, tập quán còn được lưu giữ trong nếp sống, thói quen của người
dân, trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, làng xã...
Hiện nay, một số văn bản cổ luật về thừa kế dưới các thời kỳ này đã được
sưu tầm dịch thuật, bên cạnh đó cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu sưu tập,
đánh giá những giá trị và tinh hoa của các văn bản này. Điều này là sự thuận lợi cho
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cả người dân tiếp cận, tìm hiểu các giá trị văn
hóa cổ xưa.
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Do đó,
yêu cầu đặt ra trong hoàn thiện pháp luật thừa kế trước hết là việc tổ chức thực hiện
Hiến pháp năm 2013; cụ thể hóa điều 18, điều 36, điều 60 của Hiến pháp trong tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện BLDS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến
pháp luật thừa kế.
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị “về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010 định
hướng đến năm 2020” với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã
nêu quan điểm chỉ đạo: Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam... kết hợp hài hòa bản sắc
văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc...”; “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
và truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc”, “xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm
bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo
quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần và là động lực của sự phát triển đất nước,
hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện... phát huy di sản văn hóa dân tộc...” [15]. Quan điểm của Đảng giúp cho
việc nhận diện chính xác diện mạo của hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, đặt cơ sở cho việc hoạch định chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới.
Các nội dung được thể hiện trong các văn bản pháp lý nêu trên vừa là cơ sở
vừa là yêu cầu để đảm bảo tiếp tục vận dụng những giá trị cổ luật vào hoàn thiện
111
pháp luật thừa kế và thực thi tập quán trong giải quyết các tranh chấp thừa kế phát
sinh trong trường hợp chưa có pháp luật nhà nước quy định. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy để thực hiện yêu cầu này cần phải tiếp tục có những căn cứ pháp lý cụ thể
và toàn diện. Phương thức, giải quyết vận dụng các giá trị cổ luật có khả thi đến đâu
mà cơ sở pháp lý chưa đầy đủ thì việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật thừa kế vẫn
khó khăn. Do đó, Nhà nước cần nghiên cứu tiếp tục bổ sung các nguyên tắc cụ thể
của việc yêu cầu vận dụng các giá trị truyền thống trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật thì mới đủ căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện yêu cầu này.
4.1.2. Yêu cầu về khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế ảnh hưởng đến các giá trị truyền thống
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa cùng với sự xuất hiện của các nhân tố như: sự
vận động của hàng hóa, sự lưu thông của tư bản và công nghệ thông tin tất yếu dẫn
đến sự xuất hiện của “văn hóa đại chúng” trên phạm vi toàn cầu như một hệ quả
tương hỗ với các yếu tố đó. Tác động mang tính toàn cầu, toàn cầu hóa phá vỡ cách
nhìn hạn hẹp của từng nền văn hóa riêng rẽ, kể cả những nước định “đóng cửa”.
Vấn đề đặt ra cho các dân tộc là phải giải quyết hài hòa giữa lợi ích dân tộc và lợi
ích quốc tế, giữa hội nhập và giữ gìn bản sắc quốc gia dân tộc mình.
Bên cạnh những tác động tích cực, toàn cầu hóa còn đem đến nhiều tác động
tiêu cực và hệ lụy đối với nền văn hóa dân tộc. Một số quốc gia dân tộc chưa nhận
thức được đầy đủ tác động hai mặt của toàn cầu hóa, họ chỉ chú ý đến văn hóa hiện
đại và quên văn hóa truyền thống, xem nhẹ tính kế thừa, dẫn đến nguy cơ làm lu
mờ, đánh mất văn hóa truyền thống. Ở những nơi đó, người ta thường quay lưng lại
với những giá trị tốt đẹp của truyền thống, kéo văn hóa tụt xuống mức dung tục,
tầm thường. “Những biến động của kinh tế hàng hóa trở thành theo cách nói nổi
tiếng của Emile Durkheim, một thứ “khủng hoảng kỷ cương” (anomie) trước cái
nhìn không mấy thiện cảm theo hệ thống giá trị cũ” [55, tr.136].
Ở Việt Nam tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa nhất là văn hóa pháp
lý còn phức tạp hơn nhiều. Bước vào kinh tế thị trường trong xu thế toàn cầu hóa,
mọi giá trị và các tiêu chuẩn văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị đồng
hóa với văn hóa đại chúng. Thế hệ trẻ Việt Nam dễ bị chuyển từ cực nọ sang cực
kia, dễ rơi vào tâm lý sùng ngoại, chạy theo thị hiếu văn hóa kiểu Phương Tây -
112
những giá trị văn hóa xa lạ với tâm thức dân tộc, coi nhẹ những giá trị văn hóa
truyền thống. Một bộ phận dễ bị rơi vào những quan niệm sống tự do cá nhân cực
đoan, thái độ vô trách nhiệm với gia đình và vô cảm với xã hội. Một công trình đã tiến hành điều tra xã hội học ở Thành phố Hồ Chí Minh về
tác động tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền văn hóa Việt
Nam hiện nay, kết quả như sau:
Bảng 3.1: Đánh giá tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với nền văn
hóa Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: %
1 Thúc đẩy lối sống coi trọng vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần 82 2 Tạo điều kiện cho sự xâm nhập tràn lan của các sản phẩm văn hóa có
nội dung xấu 80
3 Tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống 70,6 4 Thúc đẩy tâm lý hưởng lạc 57,5 5 Thúc đẩy lối sống cá nhân, cực đoan, vị kỷ 57 6 Băng hoại đạo đức 79,7 7 Tệ nạn xã hội gia tăng 69,7
Nguồn: [34, tr.207].
Ở thành phố Hà Nội, kết quả điều tra về những tác động tiêu cực của toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đối với văn hóa Việt Nam như sau:
Bảng 3.2: Đánh giá tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với nền văn
hóa Việt Nam ở Thành phố Hà Nội
Đơn vị tính: %
1 Sự suy đồi về tư tưởng đạo đức, lối sống 72 2 Sự rối loạn về thông tin 62 3 Sự rạn nứt và tan vỡ quan hệ gia đình 56 4 Sự xâm nhập tràn lan văn hóa phẩm có nội dung xấu 94 5 Sự xuống cấp của các di sản văn hóa dân tộc 41 6 Sự băng hoại đạo đức truyền thống 60 7 Thúc đẩy lối sống trọng vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần 81 8 Thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống vị kỷ 60 9 Thúc đẩy tâm lý hưởng lạc 71 10 Mối quan hệ cộng đồng giảm sút 60 11 Trách nhiệm công dân giảm sút 42 12 Tiêu cực xã hội gia tăng 71 13 Tệ nạn xã hội gia tăng 85
Nguồn: [34, tr.208].
113
Kết quả điều tra ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy đa số các ý kiến được hỏi đều tán đồng rằng bên cạnh những mặt tích cực,
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế còn có những tác động tiêu cực đối với nền
văn hóa dân tộc. Trong đó, đáng lưu ý là những vấn đề về suy thoái đạo đức, lối
sống, băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống mà trước hết là các giá trị truyền
thống và “nếp nhà” trong gia đình.
Thể hiện rõ nét trong đời sống dân sự một bộ phận thế hệ trẻ Việt Nam
không còn coi trọng truyền thống gia đình “tứ đại đồng đường”, con cháu không
tôn trọng tang lễ của ông bà, cha mẹ, xem nhẹ thời kỳ cư tang theo tục lệ; tranh
giành nhà thờ cúng, nhà từ đường, tranh giành cả những tài sản dùng cho việc thờ
cúng. Thực trạng cho thấy đối với một bộ phận thế hệ trẻ chỉ giỏi ngoại ngữ và công
nghệ mà không hề biết đến cái khái niệm truyền thống về “hiếu - lễ - nghĩa”, “công
- dung - ngôn - hạnh”,... Tư duy này ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và thực
thi pháp luật thừa kế ngay từ trong gia đình ra đến cộng đồng và xã hội.
Sự xuống cấp về đạo đức trong nhiều gia đình đã làm phát sinh nhiều
hiện tượng phạm tội dã man, nghiêm trọng nhất là tệ nạn giết người thân,
đánh chết con cái, cha mẹ. Trong 8 năm qua đã có 2.449 bị cáo ở độ tuổi
tử 18 đến 30 tuổi phạm vào các tội kể trên và đã bị đưa ra xét xử trước
Toà án. Tình trạng con cái không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với
cha mẹ già yếu vẫn còn diễn ra ở các địa phương... [9, tr.178].
Để đưa pháp luật thừa kế đi vào cuộc sống, vấn đề hoàn thiện pháp luật là
một nhiệm vụ thường xuyên và đương nhiên. Một trong những yêu cầu cơ bản quan
trọng là pháp luật thừa kế phải góp phần khắc phục những tác động tiêu cực của mặt
trái cơ chế thị trường trong quá trình hội nhập. Cho dù là gì đi nữa, pháp luật thừa
kế Việt Nam hiện đại cũng vẫn phải củng cố bản sắc gia đình Việt Nam truyền
thống, đây là yêu cầu mang tính chiến lược lâu dài với đặc điểm trên kính dưới
nhường, gọi dạ bảo vâng, thương yêu hòa thuận, dân chủ cộng đồng, bình đẳng có
trật tự và nề nếp. “Con hơn cha là nhà có phúc”, nhưng không phải là lối “cá đối
bằng đầu”, dân chủ quá trớn. “Thuận vợ, thuận chồng” vì những mục đích cao cả
của đại gia đình, chứ không phải là những “phần tử độc lập” được kết hợp theo luật
114
chỉ vì sự mong cầu những nghĩa vụ và quyền của cá nhân theo tinh thần pháp lý Tây
phương. Vì như thế sẽ hạ thấp giá trị của gia đình, khiến cho gia đình trở nên lỏng
lẻo khi những nghĩa vụ và quyền không còn có ý nghĩa gì đối với họ thì các giá trị
truyền thống của gia đình cũng sẽ chết theo. Một trong những đặc trưng về bản sắc
văn hóa Việt Nam được phản ánh rõ nét trong pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà
Nguyễn là tính cộng đồng và tình nghĩa: cộng đồng trong gia đình, họ tộc, xóm
giềng, làng bản, vùng miền, đất nước... Từ trong quá khứ, tính cộng đồng xuất phát
trước hết và quyết định không phải là theo luật, song luật pháp (bao gồm cả tục lệ)
lại có một vai trò hết sức quan trọng trong việc củng cố và điều chỉnh các mối quan
hệ ứng xử đã trở thành phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Do đó, pháp luật
phải giải quyết tốt mối quan hệ với phong tục tập quán nhằm góp phần giữ gìn bản
sắc văn hóa Việt Nam. Đây là kinh nghiệm lập pháp mà pháp luật thừa kế thời kỳ
nhà Lê, nhà Nguyễn để lại cho hậu thế.
Từ thực trạng trên đây cho thấy có một sự chao đảo nào đó trong gia đình
Việt Nam hiện tại. Ở đây không hẳn hoàn toàn do “tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường gây ra” [9, tr.271]. Mà có lẽ dường như chúng ta đang bước quá nhanh từ
một xã hội truyền thống sang một xã hội quá hiện đại trong tất cả mối quan hệ của
gia đình. Liệu rằng đã đủ cơ sở kinh tế, xã hội và ý thức cho một xã hội như thế hay
chưa? Liệu rằng trong sự xộc xệch ở đâu đó của gia đình Việt Nam hiện nay phải
chăng vì thiếu một người đại diện gia đình trong thực tế? Mọi điều khoản tốt đẹp
của pháp luật thừa kế sẽ thành ra những lời khuyên bảo về luân lý, không ràng buộc
được ai và cũng chẳng thể chế tài được họ. Đối với bất cứ một cấp độ tổ chức xã hội
nào, dù là gia đình, làng xóm hay quốc gia, để tồn tại cũng phải có một cơ cấu và
quyền lực chi phối. Có điều, khác với các loại quyền lực khác trong xã hội, đó là
quyền lực gia đình, là thứ quyền lực của sự thương yêu, không nên nhầm lẫn. Mà
một khi không có quyền lực đảm bảo thì cơ cấu tổ chức cũng sẽ chẳng thể nào vận
hành được.
Chẳng hạn, “vợ chồng cùng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền hạn
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”, tuy nhiên trong nhà cũng cần phải có một
người gia trưởng (là người chồng hoặc người vợ) để có một người đại diện thực tế
115
cho gia đình và khi phải giải quyết các vấn đề cụ thể của gia đình, cũng như việc
giáo dục con cái và cả những việc kết ước giao dịch với các đệ tam nhân (người thứ
ba) sẽ khỏi phải bị đình trệ.
Đứng trước tác động của toàn cầu hóa về văn hóa, nước ta không hề khước
từ việc giao lưu, hội nhập với bên ngoài, luôn muốn tiếp nhận những tinh hoa của
loài người để làm cho bản sắc văn hóa Việt Nam thêm phần phong phú, đa dạng.
Đảng ta đã từng khẳng định:
Văn hóa Việt Nam là sự kết tinh văn hóa truyền thống Việt Nam và tinh
hoa của nhiều nền văn hóa thế giới. Nhưng Việt Nam luôn phản đối sự
tiếp nhận xô bồ mọi thứ văn hóa ngoại lai, không phù hợp với truyền
thống văn hóa của mình. Điều cơ bản, quan trọng nhất trong hội nhập
văn hóa của Việt Nam là giữ vững nguyên tắc tự chủ hội nhập vì một nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện sự chủ động hội
nhập, cần nhận thức rằng yếu tố nội sinh phải đóng vai trò quyết định
trong việc lựa chọn các yếu tố ngoại sinh. Trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và
nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc [34, tr.205].
Trong bối cảnh này, nghiên cứu vận dụng những giá trị truyền thống trong
pháp luật thừa kế thời Lê, Nguyễn không chỉ để nghiên cứu, bảo lưu những giá trị
tốt đẹp của cổ luật nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành mà còn góp phần
thực hiện chiến lược giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế. Đây là yêu cầu thực tiễn đang đặt ra không chỉ trong lĩnh vực pháp
luật thừa kế mà còn đặt ra cho cả nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
4.1.3. Yêu cầu về hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành Ngày 24/11/2015, BLDS 2015 đã được Quốc hội thông qua với 86,84% tổng
số phiếu tán thành và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2017. Ban đầu ý định chỉ
là sự sửa đổi các quy định về lãi suất cho vay mà cụ thể là Điều 476 BLDS 2005
theo đó “lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Bộ
Tư pháp đã tổ chức hội thảo về lãi suất và điều này xuất phát chủ yếu từ phía ngân
116
hàng mong muốn thoát khỏi giới hạn mức lãi suất trần nêu trên. Ở thời điểm này,
cũng xuất hiện nhu cầu sửa đổi các quy định về Hợp đồng trong BLDS 2005 và Bộ
Tư pháp cũng tiến hành tổ chức Hội thảo về vấn đề sửa đổi các quy định về Hợp
đồng trong BLDS. Sau đó, xuất hiện nhu cầu sửa đổi các quy định về tài sản (quyền
sở hữu) trong BLDS. Khi đã có chủ trương sửa đổi chế định Hợp đồng và chế định
Tài sản (Quyền sở hữu) thì thực chất là sửa đổi cơ bản BLDS. Vì thế, lại xuất hiện
nhu cầu Sửa đổi toàn bộ BLDS và, tại Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12 tháng
6 năm 2012 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, Bộ
luật Dân sự (sửa đổi) nằm trong “Chương trình chuẩn bị”. “Tại Tờ trình năm 2014
nêu trên, chúng ta đã thấy nhấn mạnh “phạm vi sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần
này được xác định là cơ bản và toàn diện” [30, tr.5].
Mặc dù phạm vi sửa đổi, bổ sung được xác định là cơ bản và toàn diện
nhưng với 6 phần, 27 chương và 689 điều luật, BLDS 2015 hầu hết chỉ tập trung
sửa đổi cơ bản các chế định về lãi suất trong hợp đồng vay, tài sản và quyền sở hữu.
Riêng đối với chương thừa kế hầu như rất ít sửa đổi. Cụ thể, trong tổng số 54 điều
luật về chế định thừa kế trong BLDS 2015 chỉ có 16/54 điều luật có sửa đổi bổ sung
nhưng nội dung sửa đổi không đáng kể. Các nội dung sửa đổi, bổ sung chỉ chủ yếu
phân tích rõ, quy định rõ thêm các điều khoản trong điều luật. Đặc biệt, tại chương
XXIII thừa kế theo pháp luật, BLDS 2015 không có bất kỳ sửa đổi nào và nội dung
chương này vẫn giữ nguyên như trong BLDS 2005. Chỉ có 2 sửa đổi đáng kể là: Bỏ
quy định về di chúc chung của vợ chồng và kéo dài thời hiệu khởi kiện đối với di
sản là bất động sản. Như vậy, kể cả trong BLDS 2015 vừa mới có hiệu lực thi hành
thì chế định thừa kế vẫn chưa được thực sự quan tâm trong lần sửa đổi này.
Những sửa đổi này chỉ là những bước đột phá ban đầu trong pháp luật thừa
kế ở Việt Nam, vẫn còn có những quy định chưa chi tiết, chưa cụ thể, còn chung
chung hoặc còn những quy định chưa phù hợp với tục lệ, truyền thống và tâm tư
nguyện vọng của người dân nên trong thực tiễn áp dụng, sẽ có nhiều bất cập trong
việc xác định quy phạm để giải quyết tranh chấp.
Mặc dù được đặc biệt quan tâm chú trọng, song công tác xây dựng và hoàn
thiện pháp luật thừa kế còn phải tiếp tục và thường xuyên hoàn thiện để pháp luật
117
đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội dân sự. Tình trạng pháp luật thừa kế vừa
thiếu vừa mâu thuẫn chồng chéo với phong tục, tập quán vẫn ít nhiều xảy ra; cơ chế
đảm bảo thực thi pháp luật thừa kế chưa được quan tâm đúng mức. Trước sự phát
triển đa dạng của kinh tế - xã hội, với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp, chúng ta
vẫn thiếu hụt và còn khoảng trống pháp luật thừa kế ở một số nội dung liên quan
đến truyền thống dân tộc. Một số lĩnh vực về thừa kế đã có luật lại chưa phù hợp và
chưa sát với thực tiễn hoặc chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất khung,
còn nhiều vấn đề cụ thể chưa được quy định rõ như nội dung: di sản dùng vào việc
thờ cúng; thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế...
Nhìn chung, quy mô khách quan của sự vận động các quan hệ xã hội dân
sự ở nước ta đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trên các lĩnh vực cơ
bản của cuộc sống trong đó có pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất. Do một số bất cập nên quy định
của pháp luật thừa kế một số nội dung chậm đi vào cuộc sống và không tránh
khỏi có cách hiểu, cách làm khác nhau dẫn đến “sơ hở” hoặc “lợi dụng” trong
thực hiện. Tính toàn diện, đồng bộ, hệ thống, tính khả thi của hệ thống pháp luật
về thừa kế còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý xã hội dân
sự bằng pháp luật.
Thừa kế là một chế định đặc biệt, nó gắn liền với đời sống dân sự của người
dân và liên quan nhiều đến văn hóa tộc người. Hoàn thiện pháp luật về thừa kế
không chỉ cần học tập những tinh hoa pháp luật của nhân loại mà còn cần sự am
hiểu về phong tục, về cách đối nhân xử thế mang tính tập quán phổ thông đã bám rễ
từ lâu đời trong mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng Việt. Ở đây, ít nhiều thuộc về
lĩnh vực văn hóa pháp lý, đòi hỏi các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp khi xây
dựng, hoàn thiện những chế định này cũng như khi thực thi pháp luật về thừa kế đều
phải có sự hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc Việt
thậm chí phải nắm bắt truyền thống của mỗi cộng đồng người trong cả hương ước
và luật tục. Tất cả những nội dung này có thể tìm thấy tập trung trong cổ luật thừa
kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, thông qua 2 bộ luật cơ bản là QTHL và HVLL; và
tập trung trong các Đạo, Dụ bổ khuyết cho bộ QTHL và HVLL.
118
Việc nghiên cứu các chế định thừa kế trong hai triều đại này còn là để hiểu
biết về những phong tục, tập quán của người Việt xưa. Vì thời xưa, giữa pháp luật
và tục lệ tuy hai mà một. Tục lệ chính là cách ứng xử của cộng đồng và pháp luật
chính là sự quy phạm hóa những nguyên tắc của tục lệ dân tộc. Tìm hiểu tục lệ của
dân tộc thông qua việc nghiên cứu thừa kế trong cổ luật hết sức cần thiết trong việc
bổ khuyết những giá trị tri thức truyền thống nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế
hiện nay, góp phần khỏa lấp những khoảng trống thiếu hụt của pháp luật hiện hành
về lĩnh vực phong tục tập quán, tục lệ của dân tộc. 4.2. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ THỜI KỲ NHÀ
LÊ, NHÀ NGUYỄN TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
4.2.1. Nhóm giải pháp về lý luận
4.2.1.1. Xác định tầm quan trọng của vấn đề truyền thống trong các
chương trình xây dựng hoàn thiện pháp luật thừa kế của Nhà nước Để xây dựng nền văn hóa pháp lý Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
thì tất yếu phải chú trọng xây dựng và phát triển yếu tố truyền thống trong xây dựng
pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng. Thực tiễn cũng cho thấy rõ một
xu hướng có tính phổ biến là, bên cạnh việc đề cao các giá trị của văn hóa nói chung
thì các quốc gia đều rất chú trọng đến việc phát triển văn hóa chính trị, văn hóa
quản lý, văn hóa pháp luật và văn hóa kinh doanh. Văn hóa pháp luật được coi là
yếu tố không thể thiếu trong các quá trình nói trên. Và truyền thống là một trong
những bộ phận cấu thành không thể tách rời khi xây dựng văn hóa pháp luật.
Ở nước ta, do những nguyên nhân nhất định, việc nhận thức về vị trí, vai trò
giá trị của cổ luật phong kiến nói chung và cổ luật thừa kế nói riêng còn nhiều hạn
chế. Việc tìm hiểu, đánh giá và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống trong xây
dựng pháp luật cũng chưa được quan tâm đúng mức. So với các lĩnh vực văn hóa
khác, việc xây dựng và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống trong hoàn thiện
hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng có sự chậm trễ khá lớn.
Những hiệu ứng tiêu cực của thực trạng đó có thể nhận thấy: hệ lý luận về cổ luật
chưa phát triển, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, các giá trị truyền thống ngày
càng mai một, ý thức pháp luật của người dân chưa cao, mô hình, cơ chế tổ chức và
thực thi pháp luật thừa kế còn chưa phù hợp, kém hiệu quả...
119
Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trước mắt và lâu dài, cần thiết phải có
những giải pháp nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, giá trị xã hội của văn hóa
truyền thống trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật thừa kế nói riêng. Cần có sự quan tâm đầu tư mạnh mẽ cho việc xây dựng và
phát triển các giá trị truyền thống trong pháp luật ở nước ta hiện nay. Cần đưa việc
xây dựng và phát triển các giá trị truyền thống trong pháp luật thành một trong
những nội dung được ghi nhận trong văn kiện của Đảng và hoạch định các chương
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước.
4.2.1.2. Tổ chức sưu tầm, khai thác, nghiên cứu, hệ thống hóa các văn bản
về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn
Để có căn cứ đánh giá và vận dụng các giá trị về cổ luật thừa kế trong hoàn
thiện pháp luật hiện hành, giải pháp quan trọng đầu tiên là phải sưu tầm, dịch thuật
các văn bản về cổ luật thừa kế dựa trên các nguồn đáng tin cậy. Hiện nay công tác
này chưa được đầu tư tương xứng. Đa phần các văn bản pháp luật về thừa kế của
hai thời kỳ này (trừ 2 bộ luật QTHL và HVLL) ít nhiều đã bị thất lạc hoặc vẫn đang
tản mác, hoặc được sưu tầm nhưng vẫn còn nguyên bản dưới dạng chữ Hán - Nôm
với hình thức mộc bản. Muốn nghiên cứu, đánh giá, truyền bá, vận dụng những giá
trị truyền thống của dân tộc về cổ luật thừa kế trước hết phải giải quyết vấn đề tiếp
cận nguồn tài liệu, bao gồm cả tài liệu trực tiếp (các văn bản cổ thừa kế) và tài liệu
gián tiếp (các tác phẩm nghiên cứu cổ luật thừa kế). Muốn vậy, Nhà nước cần đầu
tư nghiêm túc cho công tác sưu tầm và bảo tồn này.
Qua nghiên cứu pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, tác giả đề
xuất một số giải pháp mang tính khái quát về phương pháp khi khảo cứu các văn
bản cổ trong việc nghiên cứu cổ luật nói chung và cổ luật thừa kế nói riêng để đảm
bảo tính khoa học và độ tin cậy.
* Về giải pháp xác định niên hiệu một tài liệu về cổ luật thừa kế
- Đối với các tài liệu chép tay có ghi rõ ngày tháng biên soạn cần phải kiểm
soát lại một cách rất thận trọng. Những niên hiệu biên soạn đã được ghi chép, vì
một đôi khi các tài liệu ấy đã được làm giả mạo, để bán cho các thư viện khảo cổ.
Sau đây là một ví dụ điển hình được GS. Vũ Văn Mẫu nêu ra: Theo Đại Việt Sử ký
120
tháng Ba năm Kiến Trung thứ 6 (1236) vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà
Trần, đã ra lệnh cho khảo định lại những lệ của các triều vua trước làm ra bộ Quốc
Triều Thống chế, gồm 20 quyển. Theo sách, Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy
Chú, bộ sách ấy không còn nữa. Tuy nhiên trong thư tịch cổ luật ở Trường Viễn
Đông Bác Cổ Hà Nội, vào năm 1950, vẫn thấy một quyển chép tay nhan đề: “Quốc
Triều Thống Chế” số mục lục A.2111. Dưới nhan đề lại ghi rõ: “Trần Nhân Tôn
thời Kiến Trung sơ, mệnh chư thần tuyển định” nghĩa là “Đời Trần Nhân Tông, đầu
niên hiệu Kiến Trung, sai các quan soạn”. Nhưng thực sự tài liệu này là giả mạo.
Sách ấy chỉ chép lại một tài liệu làm ra dưới đời Minh Mạng, soạn ra sau năm 1835,
vì có nói tới các vụ nổi loạn Lê Duy Lương ở Ninh Bình, Lê Văn Khôi ở Phiên An,
là những việc xảy ra vào năm Minh Mạng thứ 14 (1835) (trong chương 12: Phấn
Vũ). "Sự giả mạo này cũng dễ nhìn nhận, vì niên hiệu của vua Trần Thái Tông là
Kiến Trung (1225 - 1237), còn niên hiệu đời vua Trần Nhân Tông là Thiệu Bảo
(1279 - 1284) và Trùng Hưng (1285 - 1293)" [51].
- Đối với các tài liệu in mộc bản có ghi rõ niên hiệu, trên nguyên tắc, vấn đề
không có gì khó khăn; tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt cũng không
tránh khỏi sự phức tạp. Ví dụ: Quyển “Quốc triều khám tụng điều lệ” là một quyển
sách in dưới đời Lê, san định các thể thức tố tụng.
Ở Trường Bác Cổ Viễn Đông có hai quyển số mục A2755 và A.2755 bis.
Trong sách có in rõ niên hiệu tờ thứ hai: “Cảnh Hưng tam thập cửu niên, mậu tuất,
trọng thu, cốc nhật, trùng san” (in lại ngày tốt, tháng hai trong mùa thu năm mậu
Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39). Dưới nhan đề, còn ghi thêm: “Chuẩn định Đinh
Dậu” nghĩa là làm xong năm Đinh Dậu.
Năm Cảnh Hưng thứ 39 là năm Mậu Tuất 1778 tính theo can chi, năm trước
tất phải là năm Đinh Dậu 1777. Chắc hẳn tính như vậy, nên Phan Huy Chú đã chép
ở trong Thiên “Văn tịch chí” là năm Cảnh Hưng thứ 38 có phát hành quyển Quốc
triều điều luật. Điều này đã khiến nhiều luật gia của Pháp, trong số đó có Deloustal
(người dịch bộ luật triều Lê sang tiếng Pháp) tưởng lầm rằng “quyển Quốc triều
điều luật này là quyển Luật Hồng Đức do đó các luật gia này đã kết luận quá vội
vàng rằng bộ Hình Luật Triều Lê đã được ban hành vào năm 1777” [51, tr.23-24].
121
Giải pháp đặt ra trong các trường hợp kể trên, bao gồm cả tài liệu đã ghi rõ
ngày tháng biên soạn thì việc khảo cứu vẫn phải hết sức thận trọng. Cần có sự so
sánh, đối chiếu với những tài liệu gốc và các tài liệu gián tiếp. Trên cơ sở các mốc
thời gian của lịch sử, các cứ liệu thuyết phục, từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá
đúng tính chính xác của tài liệu nghiên cứu.
- Trường hợp tài liệu không ghi rõ niên hiệu, trong trường hợp không ghi rõ
niên hiệu, sự xác định niên hiệu khó khăn hơn, song “bài toán” nhiều khi cũng có
thể giải quyết được. Giải pháp để tìm “đáp số” thay đổi tùy theo tài liệu được chép
tay hay in mộc bản.
Đối với tài liệu chép tay, vấn đề tìm kiếm soạn niên rất phức tạp. Giải pháp
khả thi nhất là tìm xem trong lịch sử có thể cung cấp một sự chỉ dẫn nào không. Đối
với các bộ sách quan trọng, trong sử thường ghi rõ làm ra năm nào.
Song trường hợp này cũng không phải là trường hợp thông thường. Nếu
thiếu cả sự chỉ dẫn của các sách sử ký, chỉ còn giải pháp duy nhất, là xét nội dung
tài liệu để xác định niên hiệu. Đối với các tài liệu cổ luật thừa kế không ghi chép
niên hiệu biên soạn, không có các căn cứ để viện giải như đã nêu trên thì giải pháp
hợp lý là phải phân tích nội dung tài liệu và hoàn cảnh lịch sử để đạt được một kết
quả khá vững chắc và mỹ mãn. Vấn đề xác định niên hiệu "trước tác" nhiều khi còn
được đặt ra đối với cả những sách in mộc bản về cổ luật thừa kế, mà đã mất trang in
niên hiệu. Hoặc những mộc bản bị thất lạc, rải rác khắp nơi. Trường hợp mộc bản bị
thất lạc, rải rác khắp nơi là vấn đề rất nan giải khi nghiên cứu cổ luật thừa kế thời kỳ
nhà Nguyễn. Như đã phân tích ở các nội dung trên, sẽ rất khó khăn cho việc đánh
giá cổ luật thừa kế của thời kỳ này nếu chỉ căn cứ vào mỗi bộ HVLL vì sự bổ
khuyết cho mảng thừa kế nhà Nguyễn rải rác ở Quốc triều tân luật ban hành thời
Minh Mạng, các Chỉ Dụ của các vua sau vua Gia Long như Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức... Đáng tiếc là các tài liệu này hoặc tồn tại dưới dạng nguyên bản Hán -
Nôm hoặc dưới dạng mộc bản, công tác sưu tầm chưa được chú trọng nên các mộc
bản này thất tán và thất lạc nhiều: một số ở Viện Hán Nôm, một số ở Thư viện
Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, một số ở các bảo tàng Đà Lạt, thậm chí một
số còn được lưu giữ trong các viện bảo tàng và thư viện của Pháp... Vì vậy, trong
122
thời gian tới Nhà nước cần chú trọng đầu tư cho công tác sưu tầm mộc bản triều
Nguyễn. Vừa là để bảo tồn di tích văn hóa về pháp luật, vừa là có căn cứ để nhìn
nhận và đánh giá đúng nền pháp luật dân sự nói chung và pháp luật thừa kế nói
riêng của thời kỳ này.
Đối với những mộc bản thừa kế mất trang in niên hiệu thì giải pháp đầu tiên
là căn cứ vào các tài liệu lịch sử và những luận cứ rút ra ở nội dung văn bản để xác
định niên hiệu. Giải pháp tiếp theo là, xét lối khắc chữ còn có thể đi đến một kết
luận chính xác hơn nữa. Lẽ dĩ nhiên, giải pháp xét chữ khắc chỉ áp dụng được với
các sách in mộc bản thừa kế, không thể áp dụng thông thường với các bản chép tay
của riêng mỗi cá nhân. Trong những sách in mộc bản vì được thông dụng trong
nước, người thợ khắc bao giờ cũng phải tránh tên húy nhà vua, còn đối với những
bản chép tay riêng của cá nhân, sự kiêng cử các tên húy không đặt ra.
Ví dụ: Trong bản chữ Hán của bộ QTHL có một chữ, đã do dịch giả khi thì
đọc là chữ “Cao” (trong điều 10), khi đọc là chữ “Cấu” (điều 374 và 375) [49,
tr.33]. Trong các điều 374 và 375, dịch giả đã đọc là “cấu tạo điền sản” nghĩa là
những điền sản do hai vợ chồng làm ra, phải phân biệt với điền sản của họ nhà vợ
(thê tôn điền sản) và điền sản của họ nhà chồng (phu tôn điền sản), trong trường
hợp hai vợ chồng không có con, mà một người chết trước không để lại chúc thư. Sự
thực, trong hai điều 374 và 375 cũng là chữ “tân”, chứ không phải chữ “cấu”, nói
khác theo các điều trên đây, cần phân biệt “tân tạo điền sản” với phu tôn điền sản và
thê tôn điền sản.
Vậy chữ ấy viết như thế nào mà dịch giả khi thì đọc thành chữ “cao” khi lại
đọc là chữ “cấu?” Theo một số nhà nghiên cứu sự thực chữ ấy chỉ là chữ “tân” viết
nửa bên trái sang bên phải và nửa bên phải viết sang bên trái, và trên đầu chữ đăng
thêm mấy dấu <<< (đây là một lối viết biến thể các chữ húy tên vua). Nói khác, chữ
“tân” trong bản QTHL đã viết biến thể.
Tên vua nào là Tân khiến thợ đã phải khắc chữ tránh chữ húy như vậy? Tra
cứu trong lịch sử sẽ rõ vua Lê Kính Tông (1600 - 1619) tên húy là Duy Tân. Ngoài
chữ “Tân” nói trên, quyển QTHL mà trường luật Sài Gòn đã phiên dịch, không thấy
có chữ húy nào khác.
123
Như vậy có thể kết luận bản QTHL mà chúng ta nghiên cứu chỉ là một bản in
lại của bộ luật Hồng Đức, được thực hiện dưới đời Lê Kính Tông.
Lẽ dĩ nhiên giải pháp tra cứu này đòi hỏi nhiều công phu, vì phải phân tích
từng điều khoản, so sánh các điều khoản có nghi vấn, đối chiếu các điều khoản ấy
với các tài liệu lịch sử. Nhiều khi phải tham khảo các tài liệu liên hệ đến địa dư
ngày xưa, để biện luận và xác thực được sự hoài nghi. Nhưng nếu nhờ sự tra cứu
này mà giải quyết được các nghi vấn về các niên hiệu "trước tác", ban hành, hay ấn
hành các tài liệu cổ luật nói chung và tài liệu về pháp luật nói riêng, sự đóng góp
của giải pháp này vào công việc duy trì nền văn hóa cổ truyền không phải là không
đáng chú trọng.
* Về giải pháp về bổ chính tài liệu về cổ luật thừa kế và xác định tính xác thực
Vấn đề này rất quan trọng đối với những sách được sao chép bằng tay.
Những tài liệu này thường trong tình trạng thiếu sót, nêu lên nhiều nghi vấn cần
thiết phải thận trọng trong việc tra cứu các tài liệu ấy. Đối với việc nghiên cứu pháp
luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn tài liệu chính làm “chuẩn thằng” nghiên
cứu tất nhiên là 2 bộ luật chính thức của các triều đại này: QTHL và HVLL, chúng
ta may mắn có được các bản in mộc bản nguyên vẹn của 2 bộ luật này. Tài liệu này
là căn bản chính yếu làm tiêu chuẩn để so sánh với các điều khoản ghi chép trong
các tài liệu khác. Mặc dù chỉ giữ vai trò bổ trợ, các tài liệu chép tay, trong việc đối
chiếu với hai bộ luật chính yếu của nhà Lê và nhà Nguyễn cũng đem lại nhiều lợi
ích. Sự đối chiếu cho phép hiểu rõ thêm các điều khoản về thừa kế trong hai bộ luật
QTHL và HVLL.
Trong một số trường hợp, các điều khoản về thừa kế trong bộ QTHL hay HVLL
đã được soạn một cách vắn tắt. Có lẽ, lúc ban hành các bộ luật này, với khung cảnh xã
hội và các tục lệ đương thời, nhà làm luật đã nghĩ rằng không cần phải giải thích thêm,
ai cũng hiểu. Nhưng ngày nay, khung cảnh xã hội cũng như tục lệ đã bị thời gian xóa
mờ, các điều luật trở nên khó hiểu, nêu lên nhiều thắc mắc mà chỉ có sự đối chiếu với
các tài liệu khác đầy đủ hơn mới giải quyết được vấn đề. Cụ thể:
- Sự bổ chính về tài liệu cho thấy một số điều luật và một số nội dung về
thừa kế được tăng bổ trực tiếp vào bộ luật hoặc được bổ sung bằng các văn bản dưới
124
luật. Chương hương hỏa trong QTHL là một nội dung được tăng bổ vào luật dưới
triều Lê. Các vấn đề về hương hỏa, thừa kế thời kỳ nhà Nguyễn lại được bổ khuyết
bằng các chỉ dụ dưới luật, rải rác trong các triều đại của các Vua sau vua Gia Long.
- Sự so sánh với văn bản gốc đồng thời cũng vạch rõ những điểm chép nhầm
trong các tài liệu chép tay hoặc những điểm nhầm lẫn trong quan điểm nghiên cứu
của các học giả.
Ví dụ cụ thể: Trong QTHL, Chương Điền sản, trong quyển thứ ba, được tăng
thêm hai mục. Một mục nhan đề là: “Thủy tăng điền sản chương” (Chương điền sản
mới tăng thêm) gồm 14 điều từ 374 đến 387. Các điều này nguyên do Vua Lê Nhân
Tông ban hành, niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449) để áp dụng cho các tư điền tư thổ,
các điều ấy sau này đã được in vào bộ QTHL một cách giản lược.
Trái lại, trong đoạn 258 của sách Hồng Đức Thiện Chính, nhan đề “phu thê
vô tử lệ” (lệ về vợ chồng không có con) và đoạn 259 nhan đề “Tiền phu thê hữu tử,
hậu phu tê vô tử lệ” (lệ về chồng hay vợ trước có con, chồng hay vợ sau không có
con), các điều luật của vua Lê Nhân Tông đã được chép một cách đầy đủ hơn các
điều 374-375 QTHL.
Hai điều 374 - 375 QTHL chỉ quy định vấn đề thừa kế, trong những trường
hợp trên, về các điền thổ, mà không nói tới các động sản. Trái lại, trong Hồng Đức
Thiện Chính Thư, sự quy định nguyên thủy của vua Lê Nhân Tông đã quy định cả
các động sản về phương diện thừa kế. Các động sản này được gọi là của nổi (phù
vật) gồm có vàng, bạc, vải, lụa, thóc lúa, giường chiếu, mâm thau. Loại phù vật này
được coi là những tài sản dùng để chi phí vào việc chôn cất, ma chay, tế tự cùng trả
nợ miệng theo tục dân. Trả xong các chi phí trên, các phù vật còn thừa lại sẽ do
người “phối ngẫu tồn sinh” được hưởng, nếu giá thú không có con cái (đoạn 258).
Trong trường hợp vợ hay chồng trước không có con mà vợ hay chồng sau có
con, thì sau khi ma chay, nếu còn của nổi, sẽ chia làm hai phần, một phần sẽ về vợ,
một phần về chồng. Phần của người vợ hay chồng sau sẽ chia đều cho các con
(đoạn 259). Đến đây vấn đề mới được giải quyết trọn vẹn. Vì vậy, khi nghiên cứu
cổ luật thừa kế, việc bổ chính tài liệu gốc bằng các văn bản khác trên cơ sở so sánh
đối chiếu là điều rất cần thiết.
125
* Về giải pháp xử lý sự khiếm khuyết các tài liệu cổ luật thừa kế
Vấn đề nan giải nhất là sự khiếm khuyết hoàn toàn các tài liệu trong cổ luật
thừa kế. Đây là trường hợp thông thường đối với nền pháp luật thời thái cổ, trước
Bắc thuộc cũng như đối với nền pháp luật các đời Lý, đời Trần. Các bộ luật của nhà
Lý và nhà Trần đã bị quân Minh tịch thu mang về Trung Hoa, vào đầu thế kỷ thứ 15
để thực hiện một chính sách tiêu hủy văn hóa Việt Nam, đồng thời làm tiêu tán tinh
thần quốc gia của dân tộc ta. Thậm chí các tài liệu về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà
Lê, nhà Nguyễn một số cũng đã bị khiếm khuyết do thất lạc, do chiến tranh hoặc do
các điều kiện khách quan. Nhiều tài liệu không còn tìm thấy trong các thư viện mà
chỉ có thể thu thập qua các nhà sách cũ hoặc do cá nhân sở hữu nên rất khó sưu tầm,
hệ thống. Nhiều tài liệu có giá trị nghiên cứu không thể tìm thấy được. Trường hợp
này, giải pháp đưa ra, nếu không có các tài liệu trực tiếp thì có thể tìm trong các bộ
sử ký những tài liệu gián tiếp. Ví dụ có thể tìm trong Đại Việt sử ký toàn thư, Thiên
Nam dư hạ tập, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ...
Đối với nhiều trường hợp, khi phải tham khảo các tài liệu sử ký, tài liệu luật
học nghiên cứu về thừa kế của các tác giả nước ngoài (Pháp, Nhật, Trung Quốc,
Hàn Quốc...) thì phải thận trọng vì một số tác giả nước ngoài không thoát khỏi định
kiến đối với giá trị nền văn hóa Việt Nam, hoặc ghi chép sai lệch vì bất đồng ngôn
ngữ, hoặc vì không hiểu được tinh thần văn hóa của dân tộc ta. Nhưng dẫu sao, các
sự chỉ dẫn ấy cũng rất quý báu, vì nhờ các tài liệu duy nhất ấy, phần nào suy luận và
đánh giá được tình hình pháp luật thừa kế của nước ta ở các thời kỳ lịch sử.
Nói tóm lại, việc tìm kiếm các tài liệu và xác định niên hiệu cùng giá trị, tính
xác thực của các tài liệu ấy, theo đó các giải pháp sử học, giữ một vai trò quan trọng
trong nghiên cứu cổ luật thừa kế. Trái với những ngành khoa học khác mà các tài
liệu hay các dữ kiện thường có sẵn, cổ luật thừa kế Việt Nam thường khiếm khuyết
tài liệu. Cần phải tìm các dữ kiện ấy, như một sử gia. Nhưng ngoài các đức tính cổ
điển của sử gia, sự nghiên cứu cổ pháp còn đòi hỏi năng cách của một luật gia
khách quan và thận trọng.
Để thực hiện nhiệm vụ khó khăn này, Nhà nước cần có sự đầu tư thỏa đáng
cho việc thực hiện các dự án sưu tầm, hệ thống hóa, biên dịch, phân tích, đánh giá,
126
bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các giá trị của các di sản văn hóa pháp luật này của
Việt Nam. Cần có sự tập hợp các chuyên gia của nhiều lĩnh vực khác nhau như văn
hóa học, luật học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, xã hội học... tham gia vào quá
trình này, đồng thời cũng cần tranh thủ sự hợp tác và giúp đỡ của Chính phủ và
chuyên gia các nước khác.
4.2.1.3. Đẩy mạnh nghiên cứu cổ luật thừa kế trong giảng dạy pháp lý và
trong nghiên cứu khoa học
Các công trình nghiên cứu về cổ luật thừa kế ở nước ta hiện nay không phải
là ít. Tập hợp các công trình nghiên cứu về phong tục tập quán, luật tục, hương ước
cũng rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, các công trình này hoặc chỉ chủ yếu nghiên
cứu các quy định cổ luật thừa kế hoặc chỉ nghiên cứu từ góc độ văn hóa riêng lẻ.
Các công trình nghiên cứu về pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn vẫn còn
manh mún, chưa có công trình mang tính hệ thống, toàn diện về lý luận. Do vậy,
nếu tiếp cận từ góc độ luật học thì các lý luận nghiên cứu về thừa kế từ lĩnh vực lịch
sử, văn hóa học chỉ hỗ trợ nghiên cứu chứ chưa có sự kết nối để góp phần hoàn
thiện hệ thống lý luận về pháp luật thừa kế dưới 2 thời kỳ này. Đặc biệt các công
trình sưu tầm về các văn bản cổ luật thừa kế, sưu tập về phong tục tập quán, về luật
tục, hương ước... cũng chỉ mag tính chất tham khảo cho các nhà lập pháp. Các cơ
quan có thẩm quyền không thể căn cứ vào các công trình này để làm cơ sở cho việc
vận dụng để xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
Do vậy, từ góc độ khoa học pháp lý, cần tiến hành những nghiên cứu công
phu, nghiêm túc, toàn diện và có tính hệ thống về cổ luật, cổ luật thừa kế dưới hai
thời kỳ này, nghiên cứu các tiền đề cho sự ra đời của cổ luật thừa kế, các nguyên tắc
của cổ luật thừa kế... làm cơ sở xây dựng các giáo trình, sách chuyên khảo chuyên sâu
về cổ luật thừa kế. Đồng thời thực hiện việc tập hợp các tài liệu cổ luật thừa kế, đánh
giá các giá trị theo những cách thức có đảm bảo về mặt pháp lý sẽ có ý nghĩa trong
việc đảm bảo vận dụng các giá trị này trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành.
Cần xây dựng hoặc thống nhất việc xây dựng các khái niệm pháp lý về cổ
luật thừa kế. Các khái niệm liên quan đến thừa kế trong cổ luật có những nét khác
biệt với khái niệm thừa kế trong pháp luật dân sự hiện đại. Vì vậy, để có tiền đề
127
nghiên cứu về cổ luật thừa kế trước hết các nhà nghiên cứu cần làm rõ các khái
niệm: kế tự thừa diêu, hương hỏa, thừa tự... Ngoài ra, còn có một số những khái
niệm về lĩnh vực văn hóa bổ khuyết cho nội dung này hiện nay cũng có rất nhiều ý
kiến khác nhau. Cần thống nhất các khái niệm về: phong tục, tập quán, văn hóa
pháp luật, truyền thống dân tộc, luật tục, hương ước... Muốn vận dụng các giá trị cổ
luật thừa kế trong hoàn thiện pháp luật hiện hành thì đầu tiên phải làm cho các khái
niệm này trở nên đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và thống nhất. Để thực hiện nhiệm vụ
này, trước hết đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ luật học, văn hóa
và ngôn ngữ. Mặc dù trong các loại từ điển Tiếng Việt, Hán Việt đều có đưa ra một
số định nghĩa này nhưng hầu hết không đồng nhất với nhau. Hơn nữa từ các góc độ
tiếp cận trên các lĩnh vực khác nhau lại có những khái niệm khác nhau. Vì vậy, cần
làm rõ và thống nhất các khái niệm này làm cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu về cổ
luật thừa kế. Ngoài ra, việc nghiên cứu các giá trị nội dung của cổ luật thừa kế dưới
góc độ để vận dụng các giá trị này trong hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành
cũng cần được đầu tư, quan tâm nghiên cứu rõ nét hơn. Cần thống nhất khái niệm
về vận dụng, các nguyên tắc vận dụng của quá trình này; nghiên cứu thực trạng của
quá trình vận dụng (đã đạt được những gì và chưa đạt được những gì). Cần nghiên
cứu nguyên nhân vì sao nhiều giá trị tích cực của cổ luật thừa kế thời kỳ này chưa
được vận dụng vào việc xây dựng pháp luật hiện hành. Từ đó đề ra những giải pháp
mang tính hệ thống và có tính khả thi trong thực tế góp phần tiếp tục hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện hành. Đây vừa là nhiệm vụ của các nhà khoa học, vừa là
công việc của các nhà lập pháp. Đòi hỏi phải có sự đầu tư và thống nhất cao từ
đường lối chỉ đạo đến sự tâm huyết của các nhà nghiên cứu.
4.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật
4.2.2.1. Vận dụng kinh nghiệm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa “hiện
đại” và “truyền thống” trong hoàn thiện pháp luật thừa kế
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 xác định: “Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam cần xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhưng tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
128
quốc tế về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn
hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật” [15].
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói
riêng ở nước ta hiện nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
phải mang tính kế thừa và phát triển, là sự kết nối giữa truyền thống với hiện đại.
Đồng thời là một hệ thống mở, có khả năng tương tác, hấp thụ những tinh hoa pháp
lý của nhân loại. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập này, Đảng và Nhà nước ta
luôn nhấn mạnh vấn đề phát huy văn hóa dân tộc nguồn sức mạnh nội sinh của đất
nước. Bước vào các “sân chơi” quốc tế, chúng ta vừa có điều kiện giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm lập pháp về lĩnh vực thừa kế của các nước khác nhưng vừa phải có
trách nhiệm hơn, có ý thức cao hơn trong việc tôn vinh những giá trị truyền thống
trong nền pháp lý của dân tộc. Vì vậy, trong khi nhiều nhà nghiên cứu đang tranh
cãi có nên tiếp thu các khái niệm của các nước trên thế giới về “vật quyền”, “trái
quyền”... thì vẫn nhất định phải bảo lưu và tiếp tục hoàn thiện các quy định về:
quyền thừa kế của cá nhân, quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân, quyền của
người lập di chúc, di tặng, di sản thừa kế, hình thức của di chúc, phân chia di sản
thừa kế… và đặc biệt là quy định về “di sản dùng vào việc thờ cúng” trong chương
Thừa kế (đây là di sản pháp lý của cha ông xuất phát từ chế định về “hương hỏa”
trong cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn). Yêu cầu “hội nhập” nhưng
không “hòa tan” trong quá trình tiếp thu các tư tưởng lập pháp của các nước khác
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng
cũng là điều mà tư tưởng lập pháp thời Lê, thời Nguyễn đã để lại cho hậu thế nhiều
truyền thống quý giá.
Giải pháp cụ thể cho vấn đề này là, cần làm rõ các giá trị, kinh nghiệm và bài
học xây dựng, phát triển pháp luật thừa kế của một số nước có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc có những đặc điểm tương đồng với pháp luật thừa kế Việt Nam như Pháp,
Đức, Nhật... Trên cơ sở đó đánh giá tác động (cả tích cực và tiêu cực) của nền pháp
luật dân sự của quốc gia này đối với pháp luật thừa kế Việt Nam trong quá khứ và
hiện đại. Dự báo xu hướng tác động của pháp luật dân sự các nước đó đối với nền
pháp luật dân sự, cụ thể trên lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam trong tương lai là yêu cầu
129
cần thiết khách quan đặt ra trong quá trình tìm hiểu các vấn đề lý luận và thực tiễn
để hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một nước có đặc điểm về địa lý chính trị và lịch sử khá đặc biệt.
Theo đó, quá trình tác động, giao lưu và tiếp biến pháp luật dân sự nói chung và
pháp luật thừa kế nói riêng diễn ra khá mạnh mẽ. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá
để thấy rõ những quy định thừa kế thuần Việt và những yếu tố pháp luật thừa kế của
nước ngoài được tiếp thu, chuyển hóa và vận dụng cho việc xây dựng pháp luật thừa
kế ở Việt Nam là cần thiết, khách quan.
Tuy nhiên, đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự quan
tâm, đầu tư của Nhà nước và sự hợp tác của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế
mới có thể làm được. Cần hình thành một chương trình chung cho cả quá trình đánh
giá này, đồng thời cần có sự phân đoạn lịch sử, xác định đúng phạm vi các vấn đề,
cần đánh giá để có kế hoạch, nội dung và phương pháp cụ thể cho việc triển khai
thực hiện để đảm bảo tính thiết thực và tính hiệu quả.
4.2.2.2. Vận dụng kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và
phong tục, tập quán trong hoàn thiện pháp luật thừa kế
Thứ nhất, về xây dựng công nhận hương ước, luật tục trong lĩnh vực thừa kế.
Nghị quyết số 48 ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng đã chỉ rõ: “trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải phát
huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện quan điểm của
Đảng, cần vận dụng truyền thống hài hòa của mối quan hệ pháp luật giữa nhà nước
với làng xã giữa nhà nước và cộng đông dân tộc trong xã hội” [15]. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật thừa kế phải phát huy dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn, khai thác
giá trị của luật tục, hương ước ở nước ta hiện nay trong lĩnh vực thừa kế.
Kinh nghiệm lập pháp xưa cho thấy hương ước và luật tục về lĩnh vực thừa
kế được hình thành trên cơ sở nhà nước phong kiến tôn trọng các tục lệ tồn tại trong
từng đơn vị làng xã người Kinh và cộng đồng dân tộc người thiểu số. Vận dụng
truyền thống này trong việc xây dựng và thừa nhận hương ước hiện nay phải xuất
phát từ nhu cầu thiết thực của địa phương, chuyển tải pháp luật vào quy ước, hương
ước; chọn người có trình độ biên soạn và phải được cơ quan nhà nước có thẩm
130
quyền thẩm định và phê duyệt khi thi hành. Còn đối với luật tục của người đồng bào
thì cho phép áp dụng luật tục để giải quyết với điều kiện họ vi phạm với nhau trong
cộng đồng người dân tộc và cách giải quyết không trái với nguyên tắc chung của
pháp luật Nhà nước.
Để làm được điều này, giải pháp cụ thể đặt ra là:
- Hoàn thiện các quy phạm về thừa kế trong hương ước trên cơ sở những quy
định của pháp luật thừa kế, xây dựng làng văn hóa, xã văn hóa cho nhân dân. Đối
với luật tục về thừa kế, trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, việc tiếp tục sử
dụng luật tục để điều chỉnh các quan hệ thừa kế ở cộng đồng dân tộc là cần thiết,
nhưng phải có chọn lọc và cách thức sử dụng phù hợp. Trước hết cần xác định
phạm vi các quy định về thừa kế của luật tục có thể tiếp thu. Những quy định này
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Không trái với tinh thần của pháp luật thừa kế.
- Quy định tương ứng của pháp luật thừa kế (nếu có), chưa thể thâm nhập
vào đời sống thực tế của cộng đồng dân tộc.
- Quy định về thừa kế này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng
trên những phương diện nào đó.
Đây phải là quá trình “gạn đục khơi trong” từ trong những hương ước xưa, từ
những luật tục cũ đồng thời với việc tuyên truyền xây dựng đời sống văn hóa mới.
Cụ thể phải loại bỏ những quy định lạc hậu trong lĩnh vực thừa kế như các tục mê
tín về ma chay, tục mê tín về thờ cúng thần linh, các tục lệ lạc hậu về thờ cúng ông
bà tổ tiên, tục lệ trọng nam (trong các làng xã người Việt). Đây là những hủ tục lạc
hậu vừa tốn kém tiền của, vừa gây hoang mang trong cộng đồng dân cư, vừa gây bất
bình đẳng và gây mất đoàn kết trong gia đình. Bên cạnh đó cần xây dựng các quy
chế về thừa kế tiến bộ trong các hương ước mới, thừa nhận những quy định về thừa
kế tiến bộ trong luật tục phù hợp với xu thế phát triển của thời đại nhưng vẫn giữ
gìn được các giá trị truyền thống tốt đẹp. Hương ước, luật tục mới điều chỉnh đời
sống dân sự trên lĩnh vực thừa kế ở nước ta hiện nay cần quy định những nội dung
cụ thể về: tổ chức thờ cúng thần linh, tổ chức ma chay, các quy chế về gia phả, nhà
thờ họ, thờ tự, hòa giải cơ sở tranh chấp thừa kế... Là cơ sở để người dân thực hiện
lối sống có văn hóa, phát huy các tiềm năng vật chất và trí tuệ trong cộng đồng.
131
Ở nước ta hiện nay việc công nhận áp dụng tập quán pháp trong giải quyết
các tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp về thừa kế nói riêng còn gặp một số
khó khăn do những hạn chế về cơ sở pháp lý và nhiều vấn đề tồn tại trong thực tiễn:
Một là, điều 5 BLDS 2015 không ghi nhận rõ tập quán ở đây là tập quán
trong nước hay tập quán nói chung, sẽ dễ gây nhầm lẫn là tập quán bao hàm cả tập
quán trong nước và tập quán quốc tế.
Hai là, quy định mang tính mềm dẻo là có thể áp dụng tập quán tại khoản 2
điều 5 BLDS 2015. Thiết nghĩ, đối với nội dung này cần phải quy định mang tính
pháp lý, thể hiện sự khẳng định, đó là thì áp dụng tập quán. Từ có thể không phải là
một từ phù hợp cho bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Vì BLDS dùng từ có
thể tại khoản 2 điều 5 BLDS 2015 nên việc TAND không áp dụng tập quán trong
trường hợp pháp luật cho phép cũng không vi phạm pháp luật. Hiện nay, BLDS
2015 đã được Quốc hội thông qua và tại điều 5 vẫn tiếp tục giữ nguyên từ có thể.
Theo tác giả, nhà làm luật nên cân nhắc để có quy định mang tính mệnh lệnh, dứt
khoát hơn trong tương lai.
Ba là, BLDS và các văn bản thường đưa ra nguyên tắc áp dụng tập quán là
“giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền thống và văn
hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc” nhưng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật thừa kế. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có quy định thế nào được coi là giữ gìn
bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc và những nguyên tắc cơ bản nào của pháp luật
được coi là tiêu chí đánh giá tính đúng đắn hay phù hợp của các phong tục tập quán
trong lĩnh vực thừa kế.
Bốn là, một số quy định của BLDS về áp dụng tập quán nói chung và tập
quán về thừa kế nói riêng còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Mặc dù điều 6 BLDS 2015
đã quy định rõ: tập quán được ưu tiên áp dụng trước, nếu không có tập quán mới áp
dụng quy định tương tự của pháp luật. Tuy nhiên, khi BLDS quy định về việc áp
dụng tập quán đối với từng trường hợp cụ thể về thừa kế vẫn còn nhiều trường hợp
quy định chưa rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, từ đó làm cho chủ thể trong quan hệ pháp
luật thừa kế và cả cơ quan áp dụng pháp luật gặp nhiều vướng mắc, lúng túng.
Năm là, một số quy định của BLDS về áp dụng tập quán thừa kế còn có điểm
chưa phù hợp. Quy định về nguyên tắc áp dụng tập quán tại điều 5 BLDS 2015
132
chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Theo các quy định này và cách hiểu chung
nhất hiện nay thì tập quán có thể được áp dụng với tư cách là nguồn của luật dân sự
khi có đủ các điều kiện sau:
(1) Là thói quen ứng xử hình thành từ lâu được cộng đồng (mọi người
sinh sống trên cùng địa bàn hoặc nghề nghiệp trên cùng một lĩnh vực,…)
thừa nhận; (2) không trái với nguyên tắc được quy định trong BLDS; (3)
được áp dụng trong trường hợp quan hệ đó chưa được pháp luật quy định
hoặc các bên trong quan hệ đó không có thỏa thuận [128, tr.319].
Có thể thấy rằng, điều kiện thứ 3 thể hiện rằng pháp luật dân sự nước ta coi
tập quán về thừa kế là nguồn luật bổ sung và chỉ được sử dụng trong trường hợp
pháp luật không có quy định như: về hương hỏa, thừa tự, hàng thừa kế, thanh toán
chi phí mai táng
Sáu là, pháp luật dân sự hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể về điều kiện
hoặc danh mục những tập quán thừa kế được áp dụng. Hiện nay, ngoài BLDS với
những quy định mang tính nguyên tắc chung nhất về việc thừa nhận tập quán pháp,
chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định thêm hoặc hướng dẫn cụ thể
hơn về tập quán và việc áp dụng tập quán trong lĩnh vực thừa kế. Do đó, việc vận
dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp thừa kế tùy thuộc vào chủ quan của thẩm
phán giải quyết vụ việc. Trong điều kiện trình độ, năng lực của thẩm phán đang còn
nhiều bất cập thì việc pháp luật thừa kế để ngõ việc áp dụng tập quán cho tự thân
thẩm phán khi giải quyết tranh chấp thừa kế là một thực trạng cần được khắc phục.
Bên cạnh đó, Việt Nam có tới 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có tập quán
riêng của mình, trường hợp phát sinh tranh chấp giữa các bên thuộc các dân tộc
khác nhau thì vận dụng tập quán thuộc dân tộc nào để giải quyết cũng là vướng mắc
chưa có lời giải đáp.
Tinh thần lập pháp của nhà làm luật triều Lê, triều Nguyễn đã cho thấy tập
quán về thừa kế được thừa nhận rộng rãi bởi mỗi thành viên trong cộng đồng có tập
quán đó dựa trên nguyên tắc mỗi thành viên đều ý thức được lợi ích của mình trong
việc ứng xử phù hợp với mong muốn của thành viên khác và đổi lại các thành viên
khác cũng phải ứng xử phù hợp với mong muốn của mình. Điều đó cho thấy tập
133
quán thừa kế mang yếu tố dân chủ sâu sắc hơn luật thành văn và đưa ra những gợi ý
rất hữu ích cho việc xây dựng pháp luật thừa kế.
Vận dụng tinh thần lập pháp này, từ những gợi mở của nhà lập pháp cổ xưa
thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị, giải pháp như sau:
Một là, bổ sung các quy định cần thiết làm căn cứ rõ ràng cho việc áp dụng
tập quán về thừa kế gồm:
- Quy định các tiêu chí xác định một thói quen ứng xử về thừa kế được cộng
đồng thừa nhận được coi là tập quán về thừa kế.
- Về nguyên tắc áp dụng tập quán thừa kế cần theo hướng:
+ Tập quán được áp dụng trong trường hợp pháp luật ko quy định và các bên
không có thỏa thuận.
+ Tập quán được áp dụng có nội dung không trái với các nguyên tắc cơ bản
của BLDS.
+ Trong trường hợp pháp luật đã quy định, nhưng các bên tự nguyện thực hiện
quyền, nghĩa vụ về dân sự theo tập quán, thì việc áp dụng tập quán được công nhận.
+ Tập quán chỉ được áp dụng trên địa bàn, nhóm cá nhân có thói quen ứng
xử theo tập quán đó (chẳng hạn không thể áp dụng tập quán ở Sơn La để giải quyết
tranh chấp ở Hòa Bình hoặc không thể áp dụng tập quán của người Mông ở Hà
Giang để giải quyết tranh chấp của người Kinh sống ở Hà Giang...).
+ Nguyên tắc lựa chọn tập quán trong trường hợp các bên tranh chấp có dân
tộc khác nhau và muốn áp dụng tập quán của dân tộc mình để giải quyết: Tòa án áp
dụng tập quán nơi xảy ra tranh chấp về tài sản và tập quán nơi xác lập quan hệ nhân
thân để giải quyết tranh chấp.
- Bổ sung quy định bên có nghĩa vụ chứng minh thói quen ứng xử là tập quán về
thừa kế; cơ quan; tổ chức có thẩm quyền xác nhận, vai trò thẩm tra của Tòa án...
Hai là, nghiên cứu, tập hợp, rà soát để xây dựng danh mục các tập quán về
thừa kế có thể được áp dụng để giải quyết tranh chấp thừa kế. Để thực hiện được điều
này trước hết cần sưu tầm phân tích và thống kê, rà soát, phân loại, lập danh mục tập
quán trong lĩnh vực thừa kế. Trên cơ sở đó, Chính phủ cần ban hành Nghị định riêng về
việc công nhận, áp dụng tập quán trong lĩnh vực dân sự bao gồm cả thừa kế.
134
Ba là, các bản án, quyết định đã áp dụng tập quán để xét xử các tranh chấp
về thừa kế cần được coi là án mẫu và đưa vào tập án mẫu phát hành đến TAND các
địa phương như tài liệu tham khảo, vận dụng.
Bốn là, thứ tự ưu tiên trong áp dụng pháp luật của tập quán so với các loại
nguồn khác của pháp luật.
Tác giả cho rằng, việc tiếp tục hoàn thiện BLDS cũng như lộ trình áp dụng
BLDS 2015 ít nhiều cần tham khảo kinh nghiệm của pháp luật nhà Lê, nhà Nguyễn,
theo đó trong một số trường hợp thứ bậc ưu tiên áp dụng của tập quán pháp nhiều
khi còn vượt trên văn bản pháp luật. Trong một số trường hợp đặc thù, khi mà
phong tục tập quán của người dân khác quy định của BLDS nhưng được cộng đồng
coi đó là thói quen ứng xử từ lâu đời, coi là hương ước, luật tục thì có thể được vận
dụng để giải quyết tranh chấp về thừa kế.
Thứ hai, cần hoàn thiện quy định “di sản dùng vào việc thờ cúng” theo
phong tục tập quán của người Việt.
Một vấn đề nghiêm mật có ảnh hưởng đến gia đình dòng tộc nhưng chỉ được
quy định trong nội dung một điều luật, (điều đáng nói là BLDS 2015 vẫn giữ
nguyên nội dung điều luật này). Việc này đã dẫn đến những vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật, nguyên nhân chủ yếu là do điều luật này chưa phản ảnh hết
các phong tục, tập quán liên quan, chưa kế thừa được những giá trị tích cực của cổ
luật về “hương hỏa”.
Điều 645 BLDS 2015 quy định:
1. Trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho
một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không
theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có
quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý
để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
135
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần
di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng [88].
Như vậy, quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng mới chỉ đề cập ở tính
kinh tế mà chưa đề cập đến giá trị truyền thống, tính chất xã hội và tính lưu truyền
của nó. Sự quy định còn sơ lược của một điều luật chứng tỏ các nhà lập pháp chưa
quan tâm đến ý nghĩa sâu xa của loại di sản này dẫn đến những “điểm trống” về các
nội dung sau:
Một là, BLDS không quy định điều kiện về hình thức của việc lập di sản thờ
cúng. Nhưng việc lập di sản thờ cúng không nhất thiết phải lập trong di chúc mà có
thể lập ở một văn bản phân sản hoặc một văn bản độc lập khác. Thực tế này vẫn diễn ra
ở các vùng nông thôn (đặc biệt di sản này thuộc về cả dòng họ). Hình thức này có được
coi là hợp pháp hay không và có những điều kiện nào kèm theo, khi xảy ra tranh chấp
cơ quan xét xử đã đánh giá các chứng cứ khác nhau. Chính vì vậy, tác giả thấy cần thiết
phải có quy định điều kiện về hình thức của việc lập di sản thờ cúng.
Hai là, về quy định cho phép “dành một phần di sản vào việc thờ cúng”
BLDS 2015 vẫn giữ nguyên quy định của BLDS 2005 là cho phép“dành một
phần di sản vào việc thờ cúng” nên quyền định đoạt không thể áp dụng cho toàn bộ
di sản. Thực ra, trong cổ luật việc dùng tài sản vào việc thờ cúng cũng bị giới hạn
về số lượng. Theo một văn bản thời Minh Mạng, tài sản dùng cho việc hương hỏa
không được quá “15ha” và Bộ luật Hồng Đức chỉ để cập đến việc dành 1/20 tài sản
của người quá cố (Điều 388 và 391) [9, tr.134]. Về sau này, cổ luật theo hướng di
sản dùng vào việc thờ cúng “không được vượt quá một kỷ phần nếu người để lại di sản
không có định đoạt khác” [9, tr.135]. Về phần di sản dùng vào việc thờ cúng, BLDS
chưa thực sự xác định rõ về giới hạn “một phần” là bao nhiêu trong tổng thể di sản và
theo một số ý kiến, “nên quy định rõ phạm vi di sản dùng vào việc thờ cúng chiếm tỷ lệ
bao nhiêu phần trăm tổng giá trị của người chết để lại” [128, tr.300].
136
Trường hợp một người định đoạt toàn bộ bất động sản của mình dùng vào
việc thờ cúng (giả sử vì người này chỉ có duy nhất một tài sản là bất động sản và ý
nguyện là để lại thờ cúng) thì việc định đoạt này nếu không được chấp nhận là trái
với phong tục tập quán của dân tộc vì theo văn hóa truyền thống thì di sản thờ cúng
là bất khả xâm phạm không thể chia cắt (để tính ra một phần là bao nhiêu). Vì vậy,
việc định đoạt này nên được chấp nhận, khi giới hạn bảo đảm quyền lợi của chủ nợ
và quyền được hưởng thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc được thực hiện. Vì vậy, việc quy định chỉ cho phép dành “một phần”
di sản vào việc thờ cúng là xâm phạm quyền tự định đoạt của người có tài sản và
trái với phong tục truyền thống.
Ba là, về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
Trước đây, trong pháp luật nhà Lê, nhà Nguyễn, tục lệ theo hướng người để
lại di sản không thể giao hương hỏa cho người con khác ngoài người con cả mà
không có lý do. Ngày nay, về người quản lý, theo BLDS 2005 và BLDS 2015, di
sản “được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện
việc thờ cúng” nên ai cũng có thể là người quản lý di sản theo ý chí của người để lại
di sản.
Có thể xảy ra (phổ biến) trường hợp người để lại di sản không chỉ định người
quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Về trường hợp này, theo khoản 1 Điều 645
BLDS 2015 quy định “trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người
quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ
cúng”. Những người thừa kế là ai? Chỉ cần những người thừa kế thuộc hàng thừa kế
thứ nhất hay tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật (tất cả ba hàng
thừa kế)? Thiết nghĩ, nên vận dụng tinh thần của cổ luật, tôn trọng phong tục tập
quán của dân tộc và chỉ cần mở rộng ra là cần ý kiến của người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất để cử người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng.
Bộ luật Dân sự không quy định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản
thờ cúng, vì thế không có cơ sở xác định việc một người có vi phạm nghĩa vụ thờ
cúng hay không? Họ có những quyền lợi nào khi thực hiện nghĩa vụ thờ cúng?
Trong khi tinh thần pháp luật nhà Lê và nhà Nguyễn đều quy định: người ăn hương
137
hỏa phải dùng hoa lợi của hương hỏa, và trong phạm vi hoa lợi ấy lo việc cúng giỗ
và sửa sang phần mộ, người ấy có thể dùng một phần hương hỏa để chi dùng cho
riêng mình. Hiện nay để xác định một người có thờ cúng hay không chỉ có thể đối
chiếu việc người đó đã thực hiện đúng với di chúc hoặc những thỏa thuận của người
thừa kế. Đặt trường hợp người lập di chúc không xác định cụ thể về quyền, nghĩa vụ
và những người thừa kế cũng không thỏa thuận về vấn đề này thì dựa vào tiêu chí
nào để xác định họ đã vi phạm nghĩa vụ thờ cúng. Hoàn toàn có thể luật hóa những
nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng, chẳng hạn như nghĩa vụ cúng giỗ, sửa
sang chăm lo phần mộ, bảo quản đồ thờ cúng như hoành phi câu đối, sổ ghi danh
dòng họ, lư hương, đỉnh đồng… tương ứng với nghĩa vụ là quyền lợi của người
quản lý di sản thờ cúng là được hưởng hoa lợi từ các loại tài sản này, tức từ di sản
thờ cúng. Chẳng hạn, trồng cây, trồng hoa màu trên đất của dòng họ.
Hoàn toàn có thể dựa trên một cơ sở thực tế là: người quản lý phải chi dùng
cho việc thực hiện nghĩa vụ thờ cúng cũng như “công” bỏ ra để làm tất cả những gì
theo nghi lễ và tập quán hay tín ngưỡng phải thực hiện để quy định quyền và nghĩa
vụ của người quản lý di sản. BLDS không quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể nên
bản thân họ và những người thừa kế khác không biết được quyền lợi và nghĩa vụ
đến đâu để xử sự, và căn cứ pháp lý nào để xác định họ vi phạm nghĩa vụ thờ cúng.
Bốn là, về chấm dứt di sản dùng vào việc thờ cúng
Hiện nay theo BLDS 2015 vẫn chưa có quy định giải quyết trong trường hợp
những vấn đề phát sinh sau khi cử người quản lý di sản thờ cúng. Trong thực tế, sau
một thời gian lập di sản thờ cúng, các thừa kế và người quản lý di sản thờ cúng
đồng ý sữa chữa hoặc dỡ bỏ di sản thờ cúng - phong tục và cổ luật gọi là chấm dứt
hương hỏa, miền Nam gọi là “phá hương hỏa” - thì pháp luật có chấp nhận cho họ
có thay đổi hiện trạng di sản thờ cúng không? Việc thay đổi hiện trạng di sản thờ
cúng đó có bị coi là trái với ý chí của người để lại di sản hay không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 645 BLDS 2015: “Trong trường hợp tất cả
những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc
về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật”. Thuật ngữ “thuộc” về người đang quản lý di sản không rõ ràng. Ở đây
138
“có thể được hiểu là thuộc về quyền sở hữu của người đang quản lý hợp pháp phần di
sản thờ cúng hoặc chỉ thuộc quyền quản lý, sử dụng di sản thờ cúng”. Nếu là thuộc
quyền sở hữu của người đang quản lý thì di sản dùng cho việc thờ cúng chấm dứt.
Người đang quản lý “là chủ sở hữu di sản” và “trong trường hợp này, người là chủ sở
hữu di sản có quyền định đoạt theo ý chí của chủ sở hữu, di sản được coi là di sản dùng
vào việc thờ cúng không còn là di sản thờ cúng nữa mà là tài sản thuộc sở hữu riêng
của người được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản này” [128, tr.305].
Bộ luật Dân sự chỉ quy định di sản dùng vào việc thờ cúng “thuộc” người
đang quản lý khi tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết và người quản
lý là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Quy định này là khó hiểu. Tại sao khi
những người thừa kế theo di chúc chết thì di sản lại thuộc người đang quản lý di sản
khi người này thuộc diện thừa kế theo pháp luật? Hơn nữa, chúng ta đã thấy, trong
thực tiễn xét xử, ngay cả khi không có di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng vẫn
tồn tại. Do vậy, quy định liên quan đến việc những người thừa kế theo di chúc đều
chết không có ý nghĩa đối với trường hợp vừa nêu.
Trên cơ sở tục lệ của dân tộc và những gợi ý từ tinh thần của chế định hương
hỏa thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, Điều 645 BLDS 2015 cần giải quyết tiếp các vấn
đề sau:
- Trong trường hợp giữa những người thừa kế không thống nhất được việc
lựa chọn người quản lý di sản thờ cúng thì có thể yêu cầu Tòa án xác định.
- Bổ sung quy định cho phép các đồng thừa kế cùng thống nhất việc thay đổi
hiện trạng di sản thừa kế (sửa chữa, xây dựng,..).
- Bỏ từ “một phần” tại Điều 645 BLDS 2015 để đảm bảo sự tôn trọng ý định
đoạt của người để lại tài sản.
- Khoản 2 Điều 645 BLDS 2015 cần bổ sung thêm quy định di sản được
dùng vào việc thờ cúng trong trường hợp đã giải quyết xong quyền lợi của những
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc (con chưa thành niên, cha,
mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên mà không có khả năng lao động), người có quyền
lợi liên quan (chủ nợ,..) hoặc có sự đồng ý của những người này.
- Quy định việc định đoạt di sản dùng vào việc thờ cúng phải lập thành văn bản.
139
- Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng.
4.2.2.3. Vận dụng kinh nghiệm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật trong hoàn thiện các quy định về thừa kế
Khi nhà làm luật xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế ngoài phương
diện chính trị còn phải quan tâm đến phương diện đạo đức mà trước tiên là đạo đức,
truyền thống trong gia đình người Việt. Điều này cho đến tận ngày nay các nhà làm
luật ở nước ta vẫn phải tuân thủ khi ban hành luật. Bởi lẽ, thiếu một trong hai
phương diện trên có thể rơi vào tình trạng quá chủ quan hoặc là quá khách quan làm
cho quy phạm không đủ sức sống trên thực tế. Phải nghiên cứu và vận dụng mối
quan hệ hữu cơ giữa pháp luật với đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây
dựng, ban hành pháp luật thừa kế và tổ chức thực thi pháp luật thừa kế trong cuộc
sống. Đồng thời, khai thác những giá trị tích cực, hợp lý của các phong tục tập quán
cổ truyền trong việc điều chỉnh các quan hệ thừa kế hiện nay. Cổ luật thừa kế thời
kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật có giá trị vận dụng trong hoàn
thiện pháp luật thừa kế hiện hành. Chưa bao giờ vấn đề đạo đức và pháp luật lại thu
hút được sự quan tâm thường trực của mỗi cá nhân, cộng đồng và xã hội như giai
đoạn hiện nay. Liên quan đến vấn đề này, BLDS hiện hành còn có một số nội dung
bất cập như sau:
- Về thời điểm mở thừa kế theo quy định pháp luật dân sự hiện hành khi một
người chết thì phần di sản của người này sẽ được chia ngay cho những người hưởng
thừa kế. Vấn đề này sẽ không phù hợp với đạo đức và truyền thống “hiếu nghĩa”
của người Việt. Đặt trong trường hợp di sản là tài sản chung hợp nhất, nếu một bên
cha hoặc mẹ chết trước, theo pháp luật hiện hành các con của người này có quyền
khởi kiện yêu cầu chia kỷ phần của người đã chết trong lúc người kia vẫn còn sống
và đang sử dụng khối tài sản chung. Quy định như trên sẽ làm phát sinh những ứng
xử không phù hợp với truyền thống đạo đức Việt Nam.
Vấn đề này, thật ra đã được giải quyết rất hợp lý trong quy định của pháp
luật nhà Lê, nhà Nguyễn. Cổ luật đã quy định rõ, nếu một người chết trước thì
140
người còn sống vẫn toàn quyền trong việc hưởng dụng khối tài sản chung. Và con
cái chỉ có quyền chia khối tài sản chung của cha mẹ khi người cuối cùng chết. Thậm
chí trong thời gian chưa mãn tang cha mẹ cổ luật cũng cấm sự phân chia di sản.
Vận dụng tinh thần này của cổ luật, trên cơ sở tôn trong tập quán đạo đức
của dân tộc, nên chăng trong BLDS cần xác định việc thừa kế tài sản chung của vợ
chồng thành hai nhóm:
Nhóm 1: Nhóm quy định tài sản chung của vợ chồng đương nhiên được
chuyển cho người vợ hoặc chồng còn sống khi người kia chết.
Nhóm 2: Tài sản chung được phân chia thừa kế theo quy định khi có 1 bên
vợ hoặc chồng chết.
Trong đó nhóm 1 được áp dụng trong trường hợp vợ chồng chung sống với
nhau đã có con chung và tài sản chung.
Xét về mặt pháp lý: Tài sản chung của vợ chồng là do vợ chồng cùng nhau
tạo lập và phát triển theo công sức của mỗi người. Như vậy, nếu chồng hoặc vợ chết
không thể hiện ý chí để lại di sản thừa kế cho người khác thì pháp luật cần quy định
ưu tiên quyền hưởng dụng cho người còn sống.
Xét về mặt tình cảm: Tài sản do vợ chồng cùng nhau tạo lập và phát triển
trong thời gian dài, tất nhiên mang nhiều dấu ấn, kỷ niệm riêng tư của vợ chồng cần
được tôn trọng. Quy định này sẽ góp phần phát huy truyền thống đạo đức Việt Nam,
trọn đời hiếu kính cha mẹ đồng thời tôn vinh và bảo vệ những giá trị tốt đẹp trong
khuôn mẫu gia đình cổ truyền Việt Nam.
- Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế
Khoản 1 điều 623 BLDS 2015 quy định: “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản kể từ thời
điểm mở thừa kế”. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia
thừa kế theo quy định BLDS 2005 và đến nay mặc dù đã được sửa đổi bổ sung tại
điều 623 BLDS 2015 bằng việc kéo dài thời hiệu khởi kiện đối với bất động sản
nhưng thực sự vẫn chưa phù hợp với truyền thống của người Việt Nam vì từ lâu đời
nay, sau khi cha mẹ qua đời, ai đang quản lý, trông coi, sử dụng di sản thì người đó
141
tiếp tục thực hiện, anh chị em ít khi tranh chấp. Đặc biệt, trường hợp một bên cha
hoặc mẹ chết trước, theo phong tục tập quán, người còn sống sẽ quản lý toàn bộ tài
sản, gồm cả tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, nếu con yêu cầu chia tài
sản của người chết trước sẽ bị coi là hành động bất hiếu, không thể chấp nhận được
về mặt tư cách đạo đức. Bởi vậy trên thực tế xảy ra khá nhiều trường hợp việc chia
tài sản đặt ra khi cả cha, mẹ đều chết và thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với tài sản
của người chết trước đã hết. Từ năm 2007, theo định hướng của TANDTC tại các
kỳ Tổng kết, TAND địa phương lại giải quyết theo hướng khi đương sự khởi kiện
chia di sản thừa kế thì một phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện, còn một phần di
sản còn thời hiệu thì chỉ thụ lý và chia theo yêu cầu của các đương sự đối với phần
di sản còn thời hiệu khởi kiện, còn phần di sản hết thời hiệu không giải quyết.
Trường hợp này trên thực tế thường xuyên phát sinh tranh chấp và các Tòa án đều
lúng túng trong việc giải quyết.
Giải pháp BLDS 2015 lựa chọn là tiếp tục duy trì quy định về thời hiệu khởi
kiện thừa kế nhưng kéo dài thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với
di sản là bất động sản nhưng đối với động sản vẫn giữ nguyên thời hiệu là 10 năm
kể từ thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, để người dân triệt để thực hiện thời hiệu
khởi kiện theo quy định tại Điều 623 BLDS 2015, hạn chế các trường hợp để quá
hạn mới khởi kiện, pháp luật cần có điều khoản quy định bắt buộc phải thông báo
cho các đồng thừa kế biết về thời điểm mở thừa kế hoặc công bố di chúc cho những
người được hưởng thừa kế theo di chúc. Nếu người được thừa kế đã được thông báo
mà không thực hiện đúng thời hiệu khởi kiện đã quy định thì đương nhiên phần của
người này được phân chia cho những người thừa kế còn lại.
Bên cạnh đó, pháp luật cần mở rộng khái niệm “trở ngại khách quan” theo
hướng bao gồm các trường hợp: người thừa kế bị mất liên lạc với gia đình, tranh
chấp thừa kế về quyền sử dung đất phải thực hiện thủ tục hòa giải cơ sở… để không
tính vào thời hiệu khởi kiện. Nếu có sự kiện thực tế làm gián đoạn thời hiệu mà
người có quyền khởi kiện xuất trình những bằng chứng cần thiết để chứng minh các
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan có cơ sở tin cậy, thì phải trừ đi
khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện của họ.
142
4.2.2.4. Vận dụng hoàn thiện pháp luật thừa kế trên cơ sở bảo vệ sự ổn
định và hòa thuận trong gia đình
Khoản 1 Điều 50 Luật công chứng năm 2006 quy định: “Người duy nhất
được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo
pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công chứng
văn bản khai nhận di sản” [84].
Khoản 1 Điều 49 Luật công chứng quy định: “Những người thừa kế theo
pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được
hưởng của từng người thì họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân
chia di sản” [84].
Những quy định này một mặt đã thể hiện sự quan tâm của pháp luật hiện
hành đến việc giữ gìn sự đoàn kết trong gia đình, tôn trọng quyền tự định đoạt
nhường cơm sẻ áo giữa những người thừa kế. Mặt khác, nội dung này cũng đã ít
nhiều thể hiện tính kế thừa của pháp luật dân sự hiện hành đối với tinh thần lập
pháp của pháp luật nhà Lê, nhà Nguyễn. Tuy nhiên trong quá trình thực thi những
quy định này vẫn phát sinh nhiều bất cập, vướng mắc. Một trong những nguyên
nhân là do pháp luật dân sự còn một số quy định chưa thực sự phù hợp với truyền
thống gia đình, tập quán, đạo đức của người Việt.
Một là, bất cập trong quy định của pháp luật về người thừa kế.
Việc xác định những người nào có quyền thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng
khi tiến hành khai nhận, phân chia di sản và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền hưởng
di sản của những người thừa kế cũng như sự đoàn kết trong gia đình. Điều 613
BLDS 2015 quy định như sau: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di
chúc không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế” [88]. Tuy
nhiên, quy định trên còn một số bất cập, thiếu sót như sau:
Hiểu như thế nào về “người còn sống vào thời điểm mở thừa kế”, đặc biệt
trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết trước,
ai chết sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa kế
143
di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn. Trong trường hơp
này, căn cứ pháp lý duy nhất có thể tin cậy được là giấy chứng tử, nhưng trong
nhiều trường hợp giấy chứng tử lại không ghi cụ thể giờ, phút chết của cá nhân.
Điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quyền thừa kế di sản. Thực
tiễn hiện nay với sự phát triển của y học, đã có nhiều trẻ được sinh ra theo
phương thức thụ tinh trong ống nghiệm với tinh trùng đã chết của người cha
trước đó nhiều năm. Vấn đề đặt ra là: Đứa trẻ được thành thai sau thời điểm mở
thừa kế (thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản chết), vậy đứa trẻ
này có được quyền thừa kế di sản hay không? Nếu được thừa kế thì đứa trẻ có
thể thông qua đại diện hợp pháp để tham gia vào quá trình khai nhận, thỏa thuận
phân chia di sản. BLDS và các văn bản hướng dẫn dường như chưa đề cập đến
vấn đề mới này.
Hai là, bất cập trong quy định của pháp luật về hạn chế phân chia di sản.
Pháp luật dân sự quy định những người thừa kế có quyền khai nhận, thỏa
thuận phân chia di sản sau đó có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được
công bố. Bên cạnh đó, điều 661 BLDS 2015 cũng có quy định về việc hạn chế phân
chia di sản trong những trường hợp nhất định đây là quy định tiến bộ, thể hiện rõ
nguyên tắc củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tiến bộ thì vẫn còn những vấn đề bất cập chưa được giải quyết triệt để,
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người thừa kế, cụ thể:
Tại đoạn 1 điều 661 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp theo ý chí của người
lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được
phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được
đem chia” [88]. Nhưng điều luật cũng như các văn bản hướng dẫn cũng chưa quy
định một khoảng thời gian tối đa cho việc hạn chế phân chia di sản hay căn cứ chấm
dứt việc hạn chế phân chia điều này gây ra những bất cập mới là, sẽ có những
trường hợp đáng lẽ phải chấm dứt tình trạng hạn chế phân chia di sản để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của những người thừa kế khác, thì lại không có căn cứ pháp lý
để công nhận sự chấm dứt đó.
144
Ba là, bất cập trong việc xác định di sản thừa kế.
Trong trường hợp người chết không để lại di chúc khi đang có nhiều tài sản
cho thuê, mượn,cầm cố, thế chấp mà người nhà không biết, người chết lúc còn sống
cũng không nói đến. Trong trường hợp không xác định được hoặc những người
đang thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản cố tình dấu không cho người thừa kế biết
về tài sản đó thì khi tiến hành khai nhận di sản hoặc thỏa thuận phân chia di sản một
phần di sản thừa kế sẽ bị mất đi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người hưởng di
sản thừa kế.
Mặt khác, pháp luật chưa quy định về vấn đề kiểm kê và đánh giá di sản thừa
kế. Khi một người để lại di sản chết ít khi di sản được chia ngay cho những người
thừa kế. Vì thế, di sản không được kiểm kê xem là bao nhiêu, bao gồm những tài
sản nào ở đâu để giao cho người quản lý và bảo quản di sản thì rất dễ bị mất mát, hư
hỏng thậm chí còn bị tẩu tán, dấu diếm làm mất đi tính toàn vẹn của khối di sản.
Khi tiến hành khai nhận hoặc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế sẽ không xác định
được đầy đủ chính xác khối di sản do người chết để lại đãn đến việc người thừa kế
sẽ không được hưởng đúng phần di sản mà đáng ra được hưởng.
Với những hạn chế này, rõ ràng pháp luật thừa kế hiện hành vẫn chưa đảm
bảo được sự đoàn kết và tinh thần đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia
đình. Chưa thể hiện được yếu tố đạo đức, truyền thống nhân văn của dân tộc. Vì
theo quan niệm của người Việt Nam thừa kế vẫn là một chế định thiên về đạo đức,
theo tục lệ thừa kế là cần thiết để người quá cố làm tròn bổn phận của mình đối với
gia đình, con cháu. Dựa trên tinh thần những gợi mở của nhà lập pháp xưa dưới nhà
Lê, nhà Nguyễn, về vấn đề này, tác giả đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật như sau:
Một là, hoàn thiện quy định của pháp luật về người thừa kế.
Những người thực hiện việc sinh con theo phương pháp thụ tinh nhân tạo với
tinh trùng của người chồng đã chết trước thường là những gia đình có điều kiện về
tài chính. Do vậy vấn đề thừa kế cho người con không phải là chuyện nhỏ, nó cần
được giải quyết một cách công bằng. Vì vậy pháp luật cần phải sự hướng dẫn cụ thể
trong trường hợp này, đảm bảo quyền cho đứa trẻ cũng như quyền của những người
thừa kế khác. Nếu công nhận người con được sinh ra trong trường hợp này được
145
thừa kế di sản của cha thì cần giải quyết các vấn đề liên quan như: ý chí của người
đã chết có đồng ý việc sinh con, cho hưởng thừa kế; căn cứ chứng minh đứa trẻ
được sinh ra là con của người chết; các thủ tục khai sinh, xác định cha cho con cũng
cần được quy định rõ ràng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định chủ thể
tham gia khai nhận, thỏa thuận phân chia di sản sau này.
Hai là, hoàn thiện quy định của pháp luật về hạn chế phân chia di sản.
Để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế, pháp luật cần quy định một
khoảng thời gian tối đa cho việc hạn chế phân chia di sản theo ý chí của người lập
di chúc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế. Đồng thời nên quy định các
căn cứ chấm dứt việc hạn chế phân chia như người quản lý di sản cố ý làm sụt giảm
giá trị di sản, hoặc trường hợp phân chia di sản cần thiết cho đời sống của người
hưởng thừa kế.
Ba là, hoàn thiện quy định của pháp luật về xác định di sản thừa kế.
Để tránh trường hợp tài sản của người chết dễ dàng bị tẩu tán hoặc không thu
thập đầy đủ cần xác lập một cơ chế quản lý những tài sản đó, ít nhất là những tài sản
giá trị lớn, có đăng ký quyền sở hữu.
Pháp luật cũng cần quy định cho người quản lý di sản phải bắt đầu kiểm kê
di sản trong vòng 30 ngày kể từ ngày người để lại di sản chết.
Ngoài ra, vận dụng tinh thần này trong việc tiếp tục hoàn thiện các quy định
về pháp luật thừa kế hiện hành, bên cạnh quy định về: “từ chối nhận di sản” tại
Điều 620 BLDS 2015 cần bổ sung thêm quy định “nhường quyền thừa kế” giữa
những người thừa kế với nhau. Việc nhường quyền thừa kế thể hiện tinh thần
nhường cơm sẻ áo cho nhau. Đây là truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau
giữa những người có quan hệ gia đình cần tiếp tục được kế thừa, phát huy.
4.2.2.5. Vận dụng truyền thống xây dựng quy phạm pháp luật thừa kế cụ
thể, chi tiết và đảm bảo hiệu lực thực thi
Thực tế hiện nay, hệ thống các quy phạm pháp luật về thừa kế và các quy
phạm của các ngành luật khác liên quan thường không xuất hiện đầy đủ, trực tiếp cả
ba bộ phận giả định, quy định và chế tài mà thông thường chỉ thể hiện một cách trực
quan hai bộ phận trong một quy phạm đó là giả định và quy định hoặc giả định và
146
chế tài. Ví dụ: Khoản 1 Điều 615 BLDS 2015 quy định: “Những người hưởng thừa
kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại” [88]. Như vậy, ví dụ này chỉ xuất hiện trực tiếp 2 bộ phận là giả định và quy
định. Khá nhiều người dân hiện nay do không có điều kiện tiếp cận một cách cơ bản
về luật học nên họ có suy nghĩ rằng quy phạm quy định ở Khoản 1 Điều 615 đến đó
là hết, nhiều người còn hiểu rất nguy hiểm rằng như vậy luật chỉ mang tính chất
khuyên răn, không “trả nợ” cũng không sao?! Họ không hề biết rằng đây là hình
thức gửi chế tài, chế tài đã được gửi ở cuối văn bản, hoặc được dẫn chiếu đến văn
bản pháp luật khác có liên quan, có thể là bộ luật, luật hoặc một văn bản hướng dẫn
khác. Ai phải thi hành, tuân thủ pháp luật nếu không phải là người dân, “mà cách
quy định thường thấy lâu nay, người dân dễ gì tiếp cận, mà tiếp cận nó thì dễ gì để
hiểu, mà chưa hiểu thì nói gì đến việc làm đúng” [20, tr.72].
Các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể của đời sống dân sự, kể cả lĩnh
vực thừa kế ở nước ta thường không quy định các biện pháp chế tài đối với tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm. Thay vào đó, các đạo luật và pháp lệnh sử dụng một
mô típ chung khi dành 01 hoặc 02 điều gần cuối của đạo luật hoặc pháp lệnh để quy
định về xử lý vi phạm theo hướng dẫn chiếu tới các đạo luật có quy định chế tài, và
được gọi “gửi chế tài” hay “quy định ẩn”. Có thể khẳng định, đây là một thông lệ -
thông lệ đạo luật thiếu chế tài, hay diễn đạt một quy phạm pháp luật không đầy đủ
trong quá trình xây dựng pháp luật ở nước ta thời gian qua. Thông lệ ấy chi phối
không chỉ công tác xây dựng, áp dụng pháp luật thừa kế mà cả công tác nghiên cứu,
tìm hiểu, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thừa kế chắc rằng người dân
không lấy làm tiện. Người dân khi muốn tìm hiểu pháp luật trong một lĩnh vực thì
ngoài các quy định trong đạo luật điều chỉnh lĩnh vực mình quan tâm còn phải tìm
hiểu cả các quy định về các biện pháp chế tài tương ứng trong các văn bản luật
khác. Hệ quả đương nhiên kéo theo là sự khó khăn trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho người dân.
Vận dụng kinh nghiệm truyền thống kỹ thuật lập pháp cụ thể, chi tiết, dân
lấy làm tiện của cổ luật thừa kế trong xây dựng quy phạm pháp luật hiện nay, giải
pháp đặt ra:
147
Thứ nhất, pháp điển hóa pháp luật thừa kế xây dựng quy phạm pháp luật đầy
đủ, tránh diễn đạt các quy phạm pháp luật thừa kế trùng lắp ở nhiều văn bản quy
phạm pháp luật. Pháp luật thừa kế phải chi tiết hóa để người dân dễ nắm bắt, dễ
nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu, dễ vận dụng và thực hiện theo luật. Sớm khắc phục thực
trạng “luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư” hiện nay - tức là nhờ chi tiết hóa
quy phạm pháp luật thừa kế - Thậm chí luật có hiệu lực nhưng không tổ chức thực
hiện, cứ chờ hướng dẫn, giải thích, triển khai.
Thứ hai, chế tài trong các điều luật liên quan đến pháp luật thừa kế mà
khoảng cách giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của chế tài rộng, rất dễ dẫn đến sự
tùy tiện trong việc áp dụng. Điều này là nguy cơ dẫn đến quyền và lợi ích chính đáng
của các cá nhân bị xâm hại. Vì vậy trong xây dựng quy phạm pháp luật thừa kế phải
chi tiết hóa hành vi, trách nhiệm pháp lý (chế tài) cụ thể, áp dụng chính xác trong giải
quyết các tranh chấp trong các quan hệ pháp luật. Pháp luật thừa kế phải gần dân và
thẩm thấu vào đời sống người dân. Một quy phạm pháp luật khi đi vào đời sống phải
đạt được các mục đích: rõ ràng, đầy đủ các bộ phận và hiểu thống nhất.
Thứ ba, trong quy phạm pháp luật thừa kế phải định hướng cho các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật thừa kế về hành xử sự đúng pháp luật của mình. Điều
này giúp nhân dân lựa chọn giữa hành vi hợp pháp và hành vi vi phạm pháp luật,
đồng thời giúp cán bộ bảo vệ pháp luật áp dụng pháp luật chính xác. Đây còn là cơ
sở để người dân ngược lại kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cá nhân
và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hạn chế tối đa các quy định có cụm từ “trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác” trong các quy phạm pháp luật thừa kế.
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực của người có thẩm quyền và
của nhân dân trong việc hiểu và vận dụng các giá trị của cổ luật thừa kế Thứ nhất, về nâng cao năng lực người có thẩm quyền ở đây chủ yếu là những
người thực hiện hoạt động lập pháp và trong một số trường hợp là những người hoạt
động trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kiểm soát hoạt động tố tụng dân sự, thậm chí
những người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nhóm giải pháp cụ thể này hướng tới việc nâng cao năng lực cho Đại biểu
Quốc hội, Thẩm phán TAND, Hội thẩm nhân dân và Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân. Các chủ thể này không những phải am hiểu về pháp luật thừa kế mà còn
148
phải có kiến thức sâu sắc về văn hóa dân tộc và đủ bản lĩnh để mạnh dạn áp dụng
tập quán trong lĩnh vực thừa kế. Với kiến thức sâu rộng về pháp luật và văn hóa
người có thẩm quyền sẽ có cách đánh giá khách quan, khoa học về sự tồn tại của
pháp luật thừa kế và sự chi phối của phong tục tập quán. Từ sự đánh giá này sẽ có
những kiến giải hợp lý cho việc vận dụng những giá trị truyền thống hoặc vận dụng
tinh thần tiến bộ của cổ luật thừa kế góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự
nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ đại biểu Quốc hội, thẩm phán, hội thẩm
nhân dân, kiểm sát viên thì cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp gắn với các
chủ thể có trách nhiệm như sau:
- Các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành pháp luật như Viện Hàn
lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trường
đại học Luật Hà Nội, trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí minh, trường Đại học
Luật Huế, Học viện Tư pháp, các trường trung cấp pháp lý v.v.. và các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp có giảng dạy pháp luật phải thực hiện sâu sắc hơn nội dung giảng
dạy về cổ luật trong chương trình pháp luật dành cho các trường đại học hiện nay.
- Tăng thời lượng và làm phong phú, sâu sắc hơn nữa nội dung về cổ luật nói
chung và cổ luật thừa kế nói riêng trong các giáo trình và chương trình giảng dạy
lịch sử nhà nước và pháp luật cho sinh viên học chuyên ngành luật (Trung cấp pháp
lý, đại học chuyên ngành luật). Hiện nay nội dung này trong các giáo trình lịch sử
nhà nước và pháp luật rất mờ nhạt và khiêm tốn về dung lượng.
- Tăng cường và đầu tư kinh phí tổ chức các hội thảo khoa học về cổ luật với
đối tượng tham gia không chỉ là các nhà nghiên cứu khoa học mà còn bao gồm các
chuyên gia trên cả 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thậm chí, mở rộng
quy mô để người dân cũng được trực tiếp tham gia.
Cần đẩy mạnh xây dựng các tài liệu phổ biến về phong tục tập quán cho đại
biểu quốc hội, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân…
Đối với tập quán về thừa kế, tài liệu phổ biến nói về nội dung, địa bàn áp
dụng các tập quán và phổ biến theo từng địa phương cấp tỉnh nơi tồn tại tập quán.
Có thể kế thừa những thành quả đã có về việc tập hợp phong tục tập quán là những
sách, những công trình này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tái bản, sửa đổi, bổ
149
sung và sử dụng lại thành các phụ lục kèm theo văn bản quy phạm pháp luật, liệt kê
các phong tục tập quán này theo từng nhóm dựa trên tiêu chí giá trị pháp lý là:
phong tục tập quán được khuyến khích áp dụng, được thừa nhận, phong tục tập
quán vận động xóa bỏ, phong tục tập quán nghiêm cấm áp dụng. Những phong tục
tập quán mới về thừa kế chưa hề được sưu tập, xuất bản thì sẽ tiến hành sưu tập và
văn bản hóa, bổ sung vào kho tàng lưu trữ phong tục tập quán, phát triển nguồn tập
quán pháp cho Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện
tốt hơn trách nhiệm nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về văn hóa dân tộc, về
phong tục tập quán tốt đẹp trên lĩnh vực thừa kế.
Chúng ta đều biết, mặc dù có tính phổ biến rộng rãi trong cộng đồng, nhưng
điều này không đồng nghĩa với việc mọi người trong cộng đồng đều hiểu hết những
giá trị văn hóa dân tộc nhất là thế hệ trẻ hiện nay. Do vậy, cần thông qua các hình
thức sinh hoạt văn hóa hoặc qua các loại tài liệu phát hành các kênh truyền thông,
mạng xã hội để tuyên truyền, phổ biến nội dung của văn hóa dân tộc, những tục lệ
tiến bộ, nhân văn, nhân đạo. Điều này một mặt nhằm giữ gìn, bảo tồn truyền thống
văn hóa, mặt khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc ảnh hưởng lên hành vi của các
chủ thể trong quan hệ xã hội về thừa kế.
Kết luận chương 4
Để vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện hành ở Việt Nam hiện nay, trước hết cần nhận thức đúng đắn
các yêu cầu của việc vận dụng, xem đây là những yêu cầu cấp thiết, làm cơ sở để đề
ra những giải pháp vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
và hoàn thiện hệ thống pháp luật thừa kế trong giai đoạn hiện nay. Những quan
điểm phải lưu ý đó là cần quán triệt chính sách, chủ trương của Đảng, của Nhà nước
ta về xây dựng pháp luật hiện đại, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cần có tinh
thần biện chứng, khách quan, toàn diện trong hoạt động nghiên cứu cổ luật để bảo
tồn và phát huy những giá trị của cổ luật không những cho công tác lập pháp mà
còn để xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mới.
150
Các nhóm giải pháp đề ra cũng phải có sự liên hệ mật thiết với nhau, không
thể coi trọng giải pháp này hoặc xem nhẹ giải pháp kia. Tuy nhiên, trình tự thực
hiện các giải pháp phải có tính logic, gắn bó liên tục. Trước hết, cần quan tâm các
giải pháp về hệ thống hóa cổ luật thừa kế, tiếp đến mới là các giải pháp về vận dụng
cổ luật vào hoàn thiện pháp luật hiện hành. Việc phân định các nhóm giải pháp để
thực thi rất có ý nghĩa, một mặt chúng ta vẫn nhìn nhận được những giá trị nhất
định của từng nhóm giải pháp, mặt khác việc gắn kết các giải pháp trong quá trình
triển khai sẽ làm cho quá trình thực hiện vận dụng cổ luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn có tính khoa học và hiệu quả.
151
KẾT LUẬN
Pháp luật về thừa kế là một bộ phận trong nền pháp luật của một triều đại,
thể hiện sâu sắc phong tục tập quán của một dân tộc. Việc vận dụng những giá trị
truyền thống trong hoàn thiện pháp luật hiện hành có ý nghĩa quan trọng trong hoạt
động xây dựng và thực thi pháp luật.
Nghiên cứu và vận dụng cổ luật thừa kế đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm, nghiên cứu. Mặc dù trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể vấn đề này được đề cập
đến ở các góc độ ít nhiều khác nhau nhưng không thể phủ nhận quá trình xây dựng
pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ trước đến nay luôn là một quá trình kế thừa và phát
triển dựa trên những giá trị truyền thống của các nền lập pháp trước. Nhiều quy định
của cổ luật thừa kế đến nay thậm chí đã trở thành phong tục tập quán trong đời sống
dân sự của người dân Việt. Ở Việt Nam, cổ luật thừa kế đã được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu từ rất sớm và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, tất
cả đều thể hiện nỗ lực trong việc góp phần bảo tồn, phát triển những giá trị văn hóa
pháp lý của dân tộc.
Từ sự phân tích, đánh giá các giá trị của pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê,
nhà Nguyễn đã cho thấy những nội dung của cổ luật thừa kế dưới hai triều đại này
hết sức phong phú, đa dạng, thậm chí có nhiều tư tưởng tiến bộ vượt trước thời đại.
Pháp luật thừa kế nhà Lê, nhà Nguyễn đã giải quyết vấn đề thừa kế trên tinh thần
tôn trọng phong tục tập quán sinh hoạt của người Việt, là sự kế tục những tục lệ tốt
đẹp của dân tộc. Điều này thể hiện rõ nét qua việc nhà lập pháp cổ xưa đã giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống; giữa pháp luật và phong tục tập
quán; giữa đạo đức và pháp luật... Đặc biệt đối với vấn đề pháp chế về nhân thân và
tài sản của người phụ nữ, cổ luật thừa kế của hai triều đại này đã thể hiện sâu sắc
đặc trưng của văn hóa Việt là sự tôn trọng phụ nữ (khác với xã hội gia trưởng phụ
quyền của Trung Quốc): người con gái được thừa kế của cha mẹ để lại, người vợ
góa có quyền quản lý di sản và thay quyền gia trưởng khi chồng mệnh một... Thậm
chí một số vấn đề pháp luật nhà Thanh không quy định như thừa kế hương hỏa
nhưng vẫn được pháp luật nhà Nguyễn đề cập đến. Và trong một số vấn đề, nó đã
152
giải quyết được một cách gọn ghẽ nhiều điều mà nền pháp lý phương Tây phải tốn
hao không biết bao nhiêu là công sức và giấy mực nhưng vẫn chưa thể giải quyết
được một cách thỏa đáng. Có thể khẳng định giá trị của cổ luật thừa kế đã, đang và
sẽ tiếp tục có sức sống trong đời sống dân sự Việt Nam, nếu được bảo tồn, giữ gìn,
nghiên cứu một cách công phu và hệ thống thì giá trị vận dụng cổ luật thừa kế trong
hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện hành và trong đời sống dân sự chắc chắn còn
nhiều vấn đề lớn hơn.
Vận dụng pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn trong hoàn thiện
pháp luật thừa kế hiện hành là một trong những yêu cầu khách quan của công cuộc
hoàn thiện pháp luật, phù hợp với chủ trương lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là
"xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
Vận dụng các giá trị cổ luật thừa kế là vận dụng những giá trị gắn liền với
văn hóa dân tộc, đồng thời với việc loại bỏ những tư tưởng lạc hậu. Các giá trị này
khi vận dụng phải nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện
hành. Việc vận dụng này trước hết phải trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của
pháp luật thừa kế, từ đó tiến hành hệ thống hóa các giá trị cổ luật thừa kế và nêu ra
những gợi ý có thể vận dụng để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện pháp luật thừa kế
hiện hành. Với những giải pháp vận dụng trên cả phương diện lý luận và hệ thống
giải pháp về hoàn thiện pháp luật cụ thể mà luận án đã đưa ra thì cổ luật nói chung và
cổ luật thừa kế nói riêng sẽ là một trong những kênh thông tin đưa ra những gợi ý hiệu
quả trước hết cho việc giữ gìn những giá trị cổ luật, sau nữa là góp phần hoàn thiện và
thực thi pháp luật trong giai đoạn hiện nay, góp phần vào việc xây dựng nền pháp luật
hiện đại, văn minh nhưng vẫn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Thực hiện đề tài này, tác giả tâm đắc với câu nói của nhà văn hào Leibnitz:
“Hiện tại chứa đầy quá khứ và cũng nặng gánh tương lai”, âu cũng là “một lòng bất
vong bản”, ấy cũng là “nghĩa cử của người”.
153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hồ Thị Vân Anh (2012), "Nguyên tắc hương hỏa trong Hoàng Việt luật lệ",
Thông tin pháp lý, (12).
2. Hồ Thị Vân Anh (2012), "Quy định về hương hỏa trong pháp luật thừa kế thời
Nguyễn ở Việt Nam", Tạp chí Kiểm sát, (18).
3. Hồ Thị Vân Anh (2013), "Tìm hiểu quy định thừa kế trong pháp luật thời nhà
Nguyễn", Tạp chí Kiểm sát, (6).
4. Hồ Thị Vân Anh (2013), "Về quyền hưởng di sản thừa kế của người con gái
trong pháp luật phong kiến nhà Nguyễn", Tạp chí Giáo dục lý luận, (200).
5. Hồ Thị Vân Anh (2013), "Về hiếu, lễ, nghĩa trong pháp luật thừa kế - những
giá trị truyền thống của người Việt", Thông tin pháp lý, (30).
6. Hồ Thị Vân Anh (2013), "Ảnh hưởng của phong tục tập quán đến pháp luật
thừa kế", Tạp chí Kiểm sát, (15).
7. Hồ Thị Vân Anh (2013), "Quan hệ giữa phong tục, tập quán với pháp luật về
thừa kế trong thời kỳ phong kiến", Tạp chí Kiểm sát, (18).
8. Hồ Thị Vân Anh (Chủ nhiệm) (2014), Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt
luật lệ thời Nguyễn ở Việt Nam, Đề tài Khoa học cấp cơ sở Khoa Luật - Đại
học Huế.
9. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Địa vị của người con gái trong chế định thừa kế
pháp luật Triều Nguyễn", Tạp chí Pháp luật và phát triển, (3).
10. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và
phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật thừa kế", Tạp chí Kiểm sát, (7).
11. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Phong tục, tập quán về hương hỏa và việc xây dựng
chế định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự", Tạp chí Pháp luật và phát
triển, (1).
12. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Vướng mắc trong việc thực thi một số quy định về
thừa kế theo di chúc theo Bộ luật Dân sự", Tạp chí Kiểm sát, (8).
154
13. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005 về thừa kế theo di chúc", Tạp chí Nghề luật, (2).
14. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Hoàn thiện quy định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (324).
15. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Vấn đề xác định di sản thừa kế trong pháp luật
phong kiến Triều Nguyễn", Tạp chí Pháp luật và phát triển, (5).
16. Hồ Thị Vân Anh (2015), "Hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền
để lại di sản dùng vào việc thờ cúng", Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (3).
17. Hồ Thị Vân Anh (Chủ nhiệm) (2016), Giải quyết tranh chấp về thừa kế qua thực
tiễn xét xử tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Đề tài khoa học cấp Đại học Huế.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt 1. Đào Duy Anh (1951), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn. 2. Hồ Thị Vân Anh (2009), Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời
Nguyễn ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Toan Ánh (1996), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Toan Ánh (2005), Tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội. 5. Ban Chấp hành Trung ương (1993), Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII, số 04 - NQ/HNTW ngày 14-01-1993 về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương (2006), Kế hoạch số 05/KH/CCTP, ngày 22/2/2006, Hà Nội.
7. Huỳnh Công Bá (2003), “Pháp chế triều Nguyễn đối với vấn đề nhân thân của người phụ nữ”, Tạp chí Nghiên cứu Huế, (9).
8. Huỳnh Công Bá (2003), “Vấn đề tài sản trong pháp luật hôn nhân và gia đình dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Huế, (7).
9. Huỳnh Công Bá (2005), Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
10. Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế. 11. Nguyễn Mạnh Bách (1995), Tìm hiểu Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai,
Đồng Nai. 12. Phạm Quang Bạch (1935), Essai sur l’idée de la loi dans Le Code Gia Long,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Paris. 13. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Bộ chính trị
ngày 16-7-1998 về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.
15. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48 NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
156
16. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
17. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 33 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 09-6-2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội.
18. Bộ Chính trị (2015), Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2015 của Bộ Chính trị Khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
19. Bộ Giáo dục và đào tạo (2002), Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triều Nguyễn ở đại học, cao đẳng sư phạm và phổ thông, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
20. Dương Văn Chăm (2007), Vận dụng truyền thống văn hóa pháp lý Việt Nam trong xây dựng văn hóa pháp lý hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Châu (2007), Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
22. Chính phủ (1998), Nghị định về đăng ký hộ tịch số 83/1998/NĐ-CP, ngày 10-10-1998, Hà Nội.
23. Chính phủ (1999), Nghị định về phương thức trả nhà ở số 25/1999/NĐ-CP, ngày 19-10-1999), Hà Nội.
24. Chính phủ (2000), Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
25. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội. 26. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 97/SL, ngày
22-5-1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, Hà Nội. 27. Ngô Huy Cương (2016), "Sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp tới luật tư ở Việt
Nam", Thông tin pháp luật dân sự, (15). 28. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 29. Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, 2
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
30. Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự
2015, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Đại học Huế (2000), Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn và những vấn đề đặt ra
hiện nay, Hội thảo khoa học, Huế.
32. Đại học Sư phạm Huế (1993), Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (từ
nguồn gốc đến thế kỷ XIX), Tập bài giảng, Đại học Sư phạm Huế, Huế.
33. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam, những
suy ngẫm, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
34. Phạm Duy Đức (2006), Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Sĩ Giác (Bản dịch) (1959), Hồng Đức thiện chính thư, Sài Gòn.
36. Vũ Minh Giang (2009), Lịch sử Việt Nam - truyền thống và hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
37. Trần Đình Hảo (1994), Pháp luật về chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất -
Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật
(1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật
(2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế và sự vận dụng
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
40. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
41. Trần Thị Huệ (2007), Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
43. Trần Trọng Kim (1949), Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Hà Nội.
44. Nguyễn Lân (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn học, Hà Nội.
158
45. Nguyễn Phương Lan (2003), “Quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong
Quốc triều hình luật”, Tạp chí Luật học, (22).
46. Trúc Linh (1894), Danh từ pháp luật lược giải, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.
47. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa, Nxb Thuận Hóa, Huế.
48. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2014), Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc
dân sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Vũ Văn Mẫu (1958), Dân luật khái luận, Nxb Giáo dục, Sài Gòn.
50. Vũ Văn Mẫu (1959), Việt Nam dân luật lược khảo, Quyển I, ĐHLK Sài Gòn
xuất bản.
51. Vũ Văn Mẫu (1968), Dân luật lược giảng, Quyển I, ĐHLK Sài Gòn xuất bản.
52. Vũ Văn Mẫu (1970), Cổ luật Việt Nam lược khảo, Quyển II, ĐHLK Sài Gòn
xuất bản.
53. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đỗ Đức Minh (2011), Học thuyết pháp trị Trung Hoa thời cổ đại: Giá trị và
sự kế thừa trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. Vũ Thị Nga, Nguyễn Huy Anh (1996), Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và
pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (1483), Thiên Nam dư hạ tập, (bản chữ Hán), Hà Nội.
58. Nhiều tác giả (Bản dịch) (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
59. Nhiều tác giả (1991), Quốc triều tân luật, (bản chữ Hán), Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1991), Tập ý kiến của Ủy ban Cố vấn Án lệ, (bản tiếng Pháp),
Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (1999), Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (2001), Giáo trình Luật La Mã, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam,
Tạp chí Xưa và Nay, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế.
159
64. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học
Sư phạm - Huế.
65. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 11, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
66. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 12, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
67. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
68. Vũ Thị Phụng (1990), Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn
gốc đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
69. Vũ Thị Phụng (2003), “Những bộ cổ luật Việt Nam và một số giá trị đương
đại”, Tạp chí Luật học, (11).
70. Lương Thần Cao Nãi Quan (Bản dịch) (1956), Quốc triều hình luật, Nxb
Nguyễn Văn Của, Sài Gòn.
71. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tư tưởng Đông Tây về Nhà nước và pháp luật -
Những nhân tố nhà nước pháp quyền", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (23).
72. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giá trị kế thừa về Nhà nước và pháp luật dưới triều
Lê Thánh Tông trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp trường, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
73. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946), Hiến pháp 1946, Hà Nội.
74. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1959), Hiến pháp 1959, Hà Nội.
75. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1959), Luật Hôn nhân và gia
đình 1959, Hà Nội.
76. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp 1980,
Hà Nội.
77. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1986), Luật Hôn nhân
và gia đình 1986, Hà Nội.
78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992,
Hà Nội.
79. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ luật Dân sự
năm 1995, Hà Nội.
160
80. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Nghị quyết số
35/2000/QH10, ngày 9-6-2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia
đình, Hà Nội.
81. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Hôn nhân
và gia đình 2000, Hà Nội.
82. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Dân sự
năm 2005, Hà Nội.
84. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Công
chứng, Hà Nội.
85. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Dự thảo Sửa đổi Bộ luật
Dân sự, Hà Nội.
86. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp 2013,
Hà Nội.
87. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân
và gia đình 2014, Hà Nội.
88. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự
năm 2015, Hà Nội.
89. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
90. Lê Thị Sơn (2004), Quốc triều Hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá
trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Vi Văn Sơn (2015), Luật tục người Thái và sự vận dụng trong quản lí nhà nước
đối với cộng đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
92. Phùng Trung Tập (1997), "Di sản dùng vào việc thờ cúng trong mối liên hệ
với di sản thừa kế", Tạp chí Luật học, (13).
93. Phùng Trung Tập (2001), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
161
94. Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
95. Nguyễn Văn Thành (Tổng tài) (1994), Hoàng Việt luật lệ (Bản dịch), Tập I, II,
III, IV, V, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Nguyễn Q. Thắng (2002), Lược khảo Hoàng Việt luật lệ, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
97. Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về hôn nhân và gia đình (trước và sau Cách
mạng tháng Tám), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
98. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Thu Thủy (2011), “Về mối quan hệ giữa “Hoàng Việt luật lệ” và