LỜI MỞ ĐẦU Lãnh đạo luôn đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển của một tổ chức nói riêng và của đất nước nói chung. Trong rất nhiều yếu tố cấu thành một nhà lãnh đạo tài năng, phong cách lãnh đạo là cực kỳ quan trọng. Hòa khí, hiệu suất làm việc và thành công của tổ chức phụ thuộc nhiều vào phong cách của nhà lãnh đạo. Đất nước đang phát triển, trong quá trình hội nhập phát triển ấy, bản lĩnh người Việt Nam ngày càng được khẳng định. Đã có không ít những người trở thành nhà lãnh đạo tài ba với xuất phát điểm rất thấp, hai bàn tay trắng và nền tảng học vấn hạn chế. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện ngày càng nhiều những người trẻ - với khát khao khởi nghiệp và thể hiện bản thân – đã và đang cố gắng tìm cho mình một lối đi riêng. Trong hoàn cảnh ấy, sự cần thiết phải rèn luyện kĩ năng lãnh đạo là rất rõ ràng, và hi ểu về phong cách lãnh đạo là một trong những hành động thiết thực để nâng cao kĩ năng ấy. Phong cách lãnh đạo được hình thành bởi cá tính và môi trường. Chín h vì vậy, trong mỗi môi trường, nhà lãnh đạo cần có phong cách sao cho phù hợp. Nhưng thế nào là phù hợp? Và làm sao để sử dụng phong cách lãnh đạo một cách hiệu quả nhất? Đó chính là những câu hỏi quan trọng khi tìm hiểu về vấn đề này. Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy, chúng tôi chọn đề tài “Phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc trong chủ trương khoán hộ giai đoạn 1960- 1970” để phân tích nhằm hiểu rõ hơn những vấn đề xung quanh phong cách lãnh đạo, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực, có giá trị thực tiễn cao. Bản thân là những sinh viên Khoa Quản trị kinh doanh, thông qua đề tài này, chúng tôi cũng mong đưa đến một cái nhìn toàn diện về phong cách lãnh đạo và tầm quan trọng của phong cách lãnh đạo đối với mỗi người làm quản trị, từ đó định hướng, rèn luyện bản thân để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng trong tương lai. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Lãnh đạo luôn đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển của một tổ chức
nói riêng và của đất nước nói chung. Trong rất nhiều yếu tố cấu thành một nhàlãnh đạo tài năng, phong cách lãnh đạo là cực kỳ quan trọng. Hòa khí, hiệu suất
làm việc và thành công của tổ chức phụ thuộc nhiều vào phong cách của nhà
lãnh đạo.
Đất nước đang phát triển, trong quá trình hội nhập phát triển ấy, bản lĩnh người
Việt Nam ngày càng được khẳng định. Đã có không ít những người trở thành
nhà lãnh đạo tài ba với xuất phát điểm rất thấp, hai bàn tay trắng và nền tảng
học vấn hạn chế. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện ngày càng nhiều những người trẻ
- với khát khao khởi nghiệp và thể hiện bản thân – đã và đang cố gắng tìm cho
mình một lối đi riêng. Trong hoàn cảnh ấy, sự cần thiết phải rèn luyện kĩ năng
lãnh đạo là rất rõ ràng, và hiểu về phong cách lãnh đạo là một trong những
hành động thiết thực để nâng cao kĩ năng ấy.
Phong cách lãnh đạo được hình thành bởi cá tính và môi trường. Chính
vì vậy, trong mỗi môi trường, nhà lãnh đạo cần có phong cách sao cho phù
hợp. Nhưng thế nào là phù hợp? Và làm sao để sử dụng phong cách lãnh đạo
một cách hiệu quả nhất? Đó chính là những câu hỏi quan trọng khi tìm hiểu về
vấn đề này.
Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy, chúng tôi chọn đề tài “Phong cách
lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc trong chủ trương khoán hộ giai đoạn 1960-
1970” để phân tích nhằm hiểu rõ hơn những vấn đề xung quanh phong cách
lãnh đạo, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực, có giá trị thực tiễncao.
Bản thân là những sinh viên Khoa Quản trị kinh doanh, thông qua đề tài
này, chúng tôi cũng mong đưa đến một cái nhìn toàn diện về phong cách lãnh
đạo và tầm quan trọng của phong cách lãnh đạo đối với mỗi người làm quản trị,
từ đó định hướng, rèn luyện bản thân để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng
phương vừa phải chi viện cho tiền tuyến khiến nhân dân phải đối mặt với nguy
cơ thiếu đói.
Bên cạnh đó việc mô hình Hợp tác xã cấp cao bộc lộ những hạn chế của
nó khi đưa vào vận hành.
Thứ nhất, tuy có hàng vạn thanh niên vào bộ đội nhìn chung lao động ở
nông thôn còn khá dồi dào. Do không quản lý tốt, sử dụng không hợp lý nên để
lãng phí một lực lượng lao động đáng kể.
Thứ hai, khi xây dựng Hợp tác xã, người ta coi hộ là yếu tố cơ bản để
phân bố tư liệu sản xuất, giao chỉ tiêu sản xuất kinh doanh…, nhưng trong quá
trình sản xuất lại tách hộ khỏi tư liệu sản xuất cơ bản nhất, do vậy đã triệt tiêuđộng lực của sự phát triển nên sản xuất kém hiệu quả, tạo ra một cơ chế quan
liêu bao cấp cùng một số cán bộ cứng nhắc, giáo điều, máy móc, không chịu
bám sát thực tế. … Hậu quả của cơ chế này là tạo ra một lớp người lớp người
lười biếng, thụ động, ý thức lao động kém, chủ yếu chờ vào tiếng kẻng, nông
dân chẳng còn thiết tha với ruộng đồng, sản xuất theo kiểu đối phó, năng suất
lúa năm sau tuột hơn năm trước. Nạn đói diễn ra thường xuyên.
Thứ ba, các cơ quan quản lý của Hợp tác xã giữ vai trò tổ chức và điềuhành mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Hợp tác xã nông nghiệp dùng công
điểm làm cơ sở cho việc phân phối thu nhập dẫn đến tình trạng rong công,
phóng điểm diễn ra tràn lan không hiệu quả, năng suất lao động rất thấp, tình
trạng thiếu đói ngày càng trầm trọng.
2.3. Thực trạng về phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc trong chủ
trương khoán hộ giai đoạn 1960-1970
2.3.1. Thực trạng về phong cách lãnh đạo dân chủ của Bí thư Kim Ngọc
trong chủ trương khoán hộ giai đoạn 1960-1970
Thứ nhất, đối với người dân: trong cuộc sống thường ngày, Kim Ngọc
nổi tiếng là người biết lắng nghe ý kiến của mọi người và ham học hỏi. Ông
thường xuyên ra tận các cánh đồng nơi xã viên lao động để lắng nghe ý kiến và
nguyện vọng của dân. Trong thời gian biểu của mình, ông dành 1/3 thời gian
cho việc đi cơ sở. Ông thậm chí cùng xuống lao động, đánh trâu đi cày với bà
con, giả dạng người ăn mày thâm nhập người lao động để nghe, nhìn hết những
vui buồn, sướng khổ và nguyện vọng của dân từ đó đưa ra những chủ trương
đúng đắn, hợp lòng dân.
Thứ hai, trong điều hành quản lý đối với các xã, mỗi tháng 3 đến 4 lần
ông đích thân đi kiếm tra cách làm ăn của các Hợp tác xã và cách quản lý điều
hành của các chủ nhiệm Hợp tác xã. Mỗi lần đến ông thường không báo trước
và thường ra đồng để thăm bà con, thăm tình hình sản xuất, cày bừa, thăm lúa,
trước khi đến trụ sở ủy ban xã để lắng nghe tình hình một cách khách quan
nhất. Không máy móc giáo điều, ông luôn kiên nhẫn lắng nghe tình hình và cổ
vũ sự sáng tạo của ban chủ nhiệm các Hợp tác xã nhằm nâng cao năng suất laođộng. Ông đánh giá cao sự hiểu biết của các chủ nhiệm Hợp tác xã về tình hình
sản xuất và cho rằng mình cần học hỏi họ rất nhiều.
Thứ ba, trong quản lý bộ máy tỉnh ủy, khi phát hiện ra một vấn đề mới,
Bí thư Kim Ngọc luôn triệu tập các cuộc họp thường vụ để lấy ý kiến của mọi
người và cùng bàn bạc giải quyết vấn đề. Ông kiên nhẫn lắng nghe cả lời khen
ngợi và phê phán nặng nề, chắt lọc và đưa ra quyết định cuối cùng. Các cuộc
họp được tổ chức thường xuyên và luôn mang lại hiệu quả cao, hỗ trợ tối đacho quá trình ra quyết định.
Thứ tư, trước khi soạn thảo Nghị quyết 68 NQ/TW ngày 10-9-1966 của
tỉnh uỷ Vĩnh Phúc “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong các
Hợp tác xã hiện nay” hướng dẫn về khoán hộ, đã có một quá trình thu thập và
lắng nghe ý kiến dân được thực hiện, nên nghị quyết rất được lòng dân chúng,
dù vào thời điểm đó Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên và duy nhất tiến hành việc
khoán hộ. Điều này thể hiện phong cách lãnh đạo dân chủ của Bí thư Kim
Ngọc. Và sau đó, nhìn thấy nguyện vọng tha thiết của người dân, Bí thư Kim
Ngọc đã tiến hành soạn thảo nghị quyết này.
Thứ năm, trong quá trình ban hành Nghị quyết 68 (nghị quyết khoán hộ)
mang tính lịch sử trên con đường chuyển đổi mô hình Hợp tác xã, để kiểm tra
tính ứng dụng của nghị quyết này trước khi chính thức ban hành, Bí thư Kim
Ngọc đã chọn xã Thô Thụỵ, Vĩnh Lạc, huyện Vĩnh Tường để thí điểm khoán
2.4.2. Phân tích thực trạng về sự kết hợp phong cách lãnh đạo dân chủ với
một số phong cách lãnh đạo khác của Bí thư Kim Ngọc trong chủ trương
khoán hộ giai đoạn 1960-1970
2.4.2.1. Phân tích sự kết hợp phong cách lãnh đạo dân chủ và phong cách lãnh
đạo độc đoán
Thứ nhất, trong quá trình quản lí, với cương vị bí thư tỉnh ủy tỉnh Vĩnh
Phúc, ông đã cực kỳ kiên quyết và gay gắt đối với những hành động quan liêu
của một số cán bộ. Đó là một cách để ông răn đe cấp dưới của mình làm việc
có trách nhiệm hơn. Ông thường chỉ tin những gì mình nhìn thấy, kết hợp với
lời phản ánh của bà con nông dân và sự phân tích của bản thân. Chính vì thế,khi đi thực tế ở các Hợp tác xã, đa phần ông ra thẳng cánh đồng trước khi đi
vào trụ sở ủy ban. Ông tin rằng muốn biết hiệu quả làm việc của cấp dưới trước
hết cần đánh giá qua năng suất và tình hình lúa. Sau khi đi thăm đồng, có kết
luận các cán bộ xã làm việc không tận tụy, vô trách nhiệm, không cần nghe
những lời giải thích từ họ, ông đã thẳng thắn phê bình, yêu cầu họ xuống ngay
dưới ruộng để cùng ông kiểm chứng cho sự vô trách nhiệm của mình. Điển
hình như trong một lần kiểm tra việc cấy cày của nông dân, bí thư tỏ ra khônghài lòng với việc ban cán bộ quản lý ẩu, dẫn đến nông dân cày ruộng bất cẩn,
đất còn chưa nhuyễn, ảnh hưởng đến tiến độ cấy, năng suất và chất lượng cấy
của xã viên, ông yêu các cán bộ xã bước xuống ruộng ngay lập tức, tự xem xét
cách làm việc của mình và lệnh cho các cán bộ này bằng mọi cách, kể cả nhổ
lúa lên cấy lại, cũng phải cải thiện thửa ruộng ấy. “Bằng mọi cách, các cậu phải
tự làm cho ruộng lúa này xanh tốt, không được bắt các cô gái này làm nữa. Tôi
không muốn kì tới xuống đây lại vẫn thấy như thế này”.
Thứ hai, trong những cuộc họp thảo luận và ban hành Nghị quyết 68 về
khoán hộ, Bí thư Kim Ngọc có thái độ rất khắt khe với một số nhân viên cấp
dưới phản đối nghị quyết. Một ví dụ cụ thể là khi ông quyết định cử Tỉnh ủy
viên (Trưởng ban tuyên huấn) – người ra sức chống lại chính sách khoán hộ mà
Bí thư Kim Ngọc đưa ra - đi công tác ở Lào. Cho rằng Bí thư tìm cách đuổi
mình đi nên ông này kịch liệt phản đối. Bí thư Kim Ngọc đã trả lời: “Vậy ông
có đủ khả năng và sức mạnh để cản trở cái mới, cái tiến bộ đang dần dần thay
thế những cái lạc hậu, giáo điều, máy móc vẫn đang diễn ra trong các Hợp tác
xã nông nghiệp hiện nay hay không? Mà ông có ở lại bất quá cũng chỉ làm tôi
khó chịu chứ chẳng cản trở được tôi đâu”. Trong cuộc thảo luận với Bộ nông
nghiệp TƯ, bí thư Kim Ngọc đã rất rõ ràng khi thẳng thắn bảo vệ quan điểm
bảo vệ khoán hộ. Thậm chí ông có sự áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác.
Nghe tin cấp dưới chưa tán thành với chủ trương mình đưa ra, và có hành động
báo với cấp trên, Bí thư Kim Ngọc đã bày tỏ thái độ tức giận, ông cho rằng cấp
dưới có thái độ không hợp tác. Ông nói: “Thường vụ tỉnh ủy mà vô nguyên tắc
thế là cùng, để đấy, tôi cho biết tay…Nếu bị cho lên giàn thiêu, tôi vẫn nói việclàm của tôi là đúng”. Một ví dụ khác là khi nhận được phản hồi không đồng ý
với chủ trương mình đưa ra từ phía một người trong thường vụ tỉnh ủy, không
giữ được bình tĩnh trong cách ứng xử, Bí thư Kim Ngọc đã yêu cầu người cán
bộ này từ chức ngay lập tức. Theo ông, suy nghĩ của một kẻ không biết đâu là
lợi ích thực sự của nhân dân, thì không xứng đáng làm cán bộ. Một lần khác,
khi tỉnh ủy viên bày tỏ thái độ không hợp tác, muốn ngừng ý tưởng khoán hộ
của bí thư Kim Ngọc, ông đã đập tay xuống bàn, lớn tiếng chê trách và khẳngđịnh: “Tôi nói cho anh biết nhá, bản dự thảo này phải được thực hiện trong
toàn tỉnh, dứt khoát phải thực hiện”.
2.4.2.2. Phân tích sự kết hợp phong cách lãnh đạo dân chủ và phong cách lãnh
đạo tự do
Thứ nhất, ở nhiều Hợp tác xã đã chủ động thực hiện hình thức cho
người dân thực hiện trồng xen canh, tăng thêm vụ, nhận thấy đây là một việc
làm hết sức phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, Bí thư Kim Ngọc
chẳng những không phản đối mà còn ủng hộ. Ông đã để các địa phương đó tự
quyết định mô hình sản xuất cho mình, miễn sao có kết quả tốt, năng suất cao,
cuộc sống của người dân thêm phần no ấm. Bí thư Kim Ngọc cũng luôn tạo các
tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ huyện ủy, các ban quản trị Hợp tác xã địa phương
đi đến nhận thức và trao cho họ khả năng điều hành công việc nhà nông trong
được nỗi cơ cực của người nông dân; lắng nghe, quan tâm đến những suy nghĩ
và mong ước của họ. Bản thân là một người có lối sống giản dị đời thường, ông
gần gũi với mọi người, đi sâu vào cuộc sống của bà con để có những quyết
định đúng đắn, dựa trên nguyện vọng của dân và hợp lòng dân. Trong mỗi cuộc
họp, ông lắng nghe ý kiến của tất cả mọi người: “Các cậu cứ nói, đúng sai gì tớ
cũng nghe hết”, rồi sau đó cùng nhau bàn bạc đưa ra kế hoạch tốt nhất.
Thứ hai, là một người cán bộ mẫn cán, mang trong mình cốt cách của
một Đảng viên, nắm vững đường lối của Đảng, hiểu rõ tư tưởng Mác - Lênin,
ông luôn muốn làm hết mình để giúp đỡ người dân, cải tạo tình trạng ruộng
đồng xơ xác, có đất nhưng không có cái ăn. Bí thư Kim Ngọc đã dám nhìnnhận thẳng thắn vào sự thật rằng năng suất lao động sụt giảm nghiêm trọng là
do tình trạng “cha chung không ai khóc”. “Liều thuốc” cho tình trạng đó chính
là “để nông dân làm chủ mảnh đất của mình”. Từ đó chính sách khoán hộ được
chính thức đưa vào Nghị quyết 68 NQ/TW, và thực tế đã chứng minh tính đúng
đắn của việc làm này.
Thứ ba, đã từng phục vụ trong quân ngũ nên Bí thư Kim Ngọc mang
trong mình tính quyết đoán của một người lính. Nghị Quyết 68 ra đời vấp phảisự phản đối kịch liệt từ nhiều phía, nhưng ông vẫn giữ vững lập trường, bởi nền
tảng của nghị quyết là dựa trên niềm mong mỏi của người nông dân, dựa trên
nỗi khát khao và nguyện vọng của họ. “Chúng ta phải đi sâu vào đời sống của
người dân chứ không thể dựa vào những triết lý, giáo điều được”.
2.5.2. Nguyên nhân khách quan hình thành
phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc
trong chủ trương khoán hộ giai đoạn 1960-
1970
2.5.2.1. Nguyên nhân khách quan hình thành phong cách lãnh đạo dân chủ
của Bí thư Kim Ngọc trong chủ trương khoán hộ giai đoạn 1960-
1970
Hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ đã góp phần tạo nên phong cách lãnh đạo
của Bí thư Kim Ngọc. Thực tế đã chứng minh việc ông sử dụng phong cách
dân chủ để lắng nghe thấu hiểu ý kiến của người nông dân, suy xét đề xuất của
ban chủ nhiệm các Hợp tác xã, xây dựng quan điểm trong nội bộ ban thường vụ
huyện ủy và tỉnh ủy, để từ đó tạo nên một đường lối thống nhất với sự đoàn kết
nhất trí cao xuyên suốt từ tỉnh ủy xuống người nông dân là điều hết sức sáng
suốt.
Thứ nhất, vào những năm 1960, đầu những năm 1970, trên lĩnh vực
nông nghiệp, cả nước chỉ áp dụng mỗi một mô hình là khoán việc. Vì khoán
việc không quy trách nhiệm cho ai, xã viên không hề thấy quyền lợi mà mình
sẽ được hưởng trên cánh đồng chung nên khi có tiếng kẻng thì xã viên ra đồng,
làm cho qua chuyện, rồi có kẻng lại về. Tình hình này làm cho nền nông nghiệplụn bại, nạn đói diễn ra thường xuyên.
Thêm vào đó, quyết định ngày 26-1-1968 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú với diện tích
5.103km2 và gần 1,3 triệu dân (ông Kim Ngọc giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh
Phú) sinh ra không biết bao nhiêu khó khăn. Đất rộng, người thưa, địa hình
chia cắt. Tư tưởng địa phương chủ nghĩa khiến nội bộ mất đoàn kết nghiêm
trọng. Trong khi đó chiến tranh ngày một ác liệt. Hậu phương trở nên xơ xác,chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em tham gia lao động sản xuất. Tất cả những
điều đó đòi hỏi một phương hướng phát triển kinh tế mới phù hợp hơn, để cải
thiện tình hình đói kém liên miên trong tỉnh.
Hiểu được điều này, Bí thư Kim Ngọc đã rất dân chủ trong việc thảo
luận với cán bộ Hợp tác xã và lắng nghe ý kiến người nông dân để tìm ra
nguyên nhân và cách giải quyết, bởi nhân dân chính là người trực tiếp sản xuất,
trực tiếp tham gia mô hình Hợp tác xã hàng ngày và nhìn thấy những điểm yếu
của nó. Nếu không có sự tiếp thu lắng nghe ý kiến của những người dân này,
Bí thư Kim Ngọc không thể cho ra đời bản nghị quyết 68 hợp lòng dân và được
dân ủng hộ hết mình như thế, bởi nền tảng của nghị quyết chính là nguyện
vọng tha thiết của người dân.
Thứ hai, vào khoảng những năm 1963-1964, phong trào Hợp tác xã -
phong trào luôn được coi là điển hình tiên tiến của XHCN, diễn ra rất rầm rộ.
ra sự thay đổi kỳ diệu trong nông nghiệp đưa nước ta từ môt thiếu ăn trở thành
nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới.
Phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc đã thổi môt luồng không khí
mới vào tinh thần sản xuất của người nông dân. Viêc cùng nhau bàn bạc, thảo
luân những vấn đề xuất phát từ tâm tư nguyên vọng của chính họ đã tạo ra hiêu
quả kinh tế rõ rêt, đưa nền sản xuất đi lên. Tư tưởng của ông, công lao của ông
sẽ sống mãi với thời gian, trở thành bài học lớn, luôn sống động và mang tính
thức tỉnh, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang đòi hỏi tiếp tục đổi mới ngày
nay. Cũng như vậy, tên tuổi những con người vì dân, vì nước, không ngại hiểm
nguy, dám đổi mới, dám dấn thân như Kim Ngọc sẽ sống mãi với dân tộc, vớithời gian.
3.2. Bai học kinh nghiêm tư phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc
3.2.1. Bài học kinh nghiệm tư phong cách lãnh đạo dân chủ củ a Bí thư Kim
Ngọc
Bí thư Kim Ngọc là một nhà lãnh đạo dân chủ, biết lắng nghe ý kiến của
người dân. Ông thường xuyên ra tận ruộng đẩt thăm hỏi người dân. Bí thư Kim
Ngọc đã làm gần gũi hơn khoảng cách giữa người cán bộ và nhân dân. Ý kiếncủa ông khi đưa ra luôn hợp với lòng dân, vì ông hiểu rõ họ cần gì, họ muốn gì,
bất kỳ quyết định nào của ông cũng được xây dựng trên ý kiến của người dân.
Trong điều hành quản lý đối với Hợp tác xã, ông thuờng đích thân đi kiểm tra
các Hợp tác xã từ 3 đến 4 lần một tháng, mỗi lần đến ông đều không báo trước..
Trong các lần đi thăm Hợp tác xã, các chủ nhiệm của Hợp tác xã là những
người luôn được Kim Ngọc đánh giá cao. Từ điều này cho thấy, ông rất tranh
thủ ý kiến của cấp dưới, đặc biệt là những người trực tiếp quản lý công việc ở
Hợp tác xã. Trong công tác điều hành bộ máy tỉnh ủy, Kim Ngọc thuờng xuyên
xuống thăm địa bàn để nắm rõ hơn tình hình của các Hợp tác xã cũng như
những ý tưởng sáng tạo đang được thực hành trên địa bàn tỉnh, từ đó ông bàn
bạc lại trong các cuộc họp định kỳ để việc thảo luận và tìm hướng đi mới được
nối một tập thể. Nhưng để trở thành người lãnh đạo giỏi không hề dễ dàng, bởi
những tình huống mà nhà lãnh đạo có thể gặp phải trong quá trình làm việc là
muôn hình vạn trạng. Nhà lãnh đạo giỏi - ngoài việc phải biết kết hợp nguồn
nhân lực và vật lực nhằm đạt được các mục tiêu đề ra - còn cần có sự linh hoạt
trong việc vận dụng các phong cách lãnh đạo dân chủ, phong cách lãnh đạo tự
do và phong cách lãnh đạo độc đoán sao cho phù hợp.
Mỗi phong cách lãnh đạo đều quan trọng và không thể thiếu trong quá
trình làm việc. Các phong cách này khác nhau ở một số điểm cơ bản như: cách
truyền đạt mệnh lệnh, cách thiết lập mục tiêu, quá trình kiểm soát và ghi nhận
kết quả. Vì những nét riêng biệt như vậy nên tùy vào trường hợp, môi trườngcụ thể, cũng như tùy vào cá tính của từng nhà lãnh đạo mà các phong cách có
thể được sử dụng, không nhất thiết chỉ áp dụng một loại phong cách lãnh đạo
trong quá trình điều hành công việc. Quá trình lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc
trong đề tài này là một ví dụ điển hình. Sự khéo léo của ông trong việc kết hợp
phong cách lãnh đạo dân chủ, độc đoán và tự do (mà nổi bật là phong cách lãnh
đạo dân chủ) trong quá trình điều hành quản lý các hoạt động trong tỉnh, đặc
biệt là trong chủ trương khoán hộ đã góp phần không nhỏ vào thành công củanghị quyết 68, để ghi tên ông vào lòng dân và vào lịch sử phát triển đất nước.
Thời đại hiện nay, khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, các công
ty được thành lập ngày càng nhiều và kĩ năng, nghệ thuật lãnh đạo trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết, thì bài học về phong cách lãnh đạo của Bí thư Kim Ngọc
vẫn còn nguyên giá trị và đáng suy ngẫm. Từ sự tìm tòi phân tích phong cách
lãnh đạo của Bí thư trong đề tài này, chúng tôi đã đưa ra một số bài học kinh
nghiệm. Tin rằng những gì chúng tôi phân tích và đề xuất trong đề tài sẽ là một
cơ sở để các nhà lãnh đạo nghiên cứu và học hỏi, hoàn thiện kĩ năng lãnh đạo
của mình để đạt được sự thành công
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lý và nghệ thuật lãnh đạo - TS. Huỳnh Thanh Tú.