Top Banner
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ BỘ MÔN MÔ PHÔI PHÔI THAI HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn: ThS.Trần Kim Thương ThS. Lê Phương Thảo 2012 --------------- Lưu hành nội bộ ---------------
62

PHI THAI HỌC ĐẠI CƯƠNG2016/06/14  · mô ống sinh tinh có chứa các tinh nguyên bào. Đến tuổi dậy thì sẽ có từng nhóm các tinh nguyên bào tham gia vào

Feb 15, 2021

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
  • 1

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ

    BỘ MÔN MÔ PHÔI

    PHÔI THAI HỌC

    ĐẠI CƯƠNG

    Biên soạn:

    ThS.Trần Kim Thương

    ThS. Lê Phương Thảo

    2012

    --------------- Lưu hành nội bộ ---------------

    https://www.facebook.com/EbookYKhoa

  • 2

    MỤC LỤC

    TÊN BÀI TRANG

    Bài 1: Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh ............................................. 3

    1.1. Sự hình thành giao tử .................................................................. 3

    1.2. Sự di chuyển của giao tử và sự thụ tinh .................................... 17

    Bài 2: Phân cắt phôi bào và làm tổ ........................................................ 24

    2.1. Sự phân cắt phôi sau khi thụ tinh đến lúc làm tổ ...................... 24

    2.2. Diễn biến quá trình làm tổ của phôi .......................................... 27

    Bài 3: Sự hình thành và phát triển các lá phôi ...................................... 30

    3.1. Sự tạo ra đĩa phôi hai lá ............................................................ 30

    3.2. Sự phát triển phôi trong tuần thứ 3 – giai doạn phôi vị ............ 33

    Bài 4: Các phần phụ của phôi .............................................................. 42

    4.1. Sự thay đổi ở nguyên bào nuôi ................................................ 42

    4.2. Đĩa đệm và màng rụng đáy ....................................................... 45

    4.3 Nhau .......................................................................................... 46

    4.4 Màng ối và dây rốn ................................................................... 55

    4.5 Sự thay đổi của bánh nhau ........................................................ 56

    4.6 Dịch ối ....................................................................................... 57

  • 3

    BÀI 1

    SỰ HÌNH THÀNH GIAO TỬ VÀ SỰ THỤ TINH

    MỤC TIÊU BÀI HỌC

    Sau khi học xong bài này sinh viên phải:

    1. Kể được 3 giai đoạn hình thành giao tử.

    2. Mô tả chi tiết sự hình thành giao tử ở người nữ qua các giai đoạn.

    3. Mô tả chi tiết quá trình hình thành tinh trùng qua các giai đoạn.

    4. Mô tả được quá trình trứng được thụ tinh.

    NỘI DUNG

    1. SỰ HÌNH THÀNH GIAO TỬ

    Sự hình thành giao tử (quá trình tạo giao tử, tạo giao tử) từ thời kỳ phôi

    thai đến khi trưởng thành trải qua 3 giai đoạn: (1) Sự di cư tế bào mầm từ

    ngoài phôi (ở túi noãn hoàng) đến các tuyến sinh dục nguyên thủy, (2)

    nguyên phân tăng số lượng tế bào mầm, (3) giảm phân và thay đổi cấu trúc,

    chức năng của giao tử. Giai đoạn 1 giống nhau ở cả hai giới, 2 giai đoạn

    sau thì có sự khác biệt giữa nam và nữ.

    1.1. Giai đoạn 1: Di cư tế bào mầm (germ cell)

    Các giao tử được bắt nguồn từ tế bào mầm nguyên thủy (primordial

    germ cells), chúng được hình thành từ nguyên ngoại bì (epiblast) trong tuần

    lễ thứ 2 của thai kỳ sau đó di chuyển đến nằm trong thành của túi noãn

    hoàng. Từ tuần thứ tư đến tuần thứ năm của thai kỳ, những tế bào mầm này

    rời túi noãn hoàng di cư qua biểu mô ruột sau rồi theo mạc treo ruột sau

    đến các tuyến sinh dục nguyên thủy.

    Các tế bào mầm nguyên thủy di cư sai vị trí không đến tuyến sinh dục

    nguyên thủy sẽ bị chết, nếu sống chúng sẽ tạo u quái (teratomas) là hỗn hợp

  • 4

    mô được biệt hóa gồm da, tóc, xương, sụn, răng, thường có ở vùng trung

    thất, cùng-cụt và miệng.

    Hình 1. Hình ảnh phôi cuối tuần thứ 3, chỉ ra hình ảnh của tế bào mầm

    nguyên thủy ở trong thành của túi noãn hoàng.

    1.2. Giai đoạn 2: Nguyên phân tăng số lượng tế bào mầm

    Sau khi đến tuyến sinh dục nguyên thủy các tế bào mầm nguyên thủy

    nhanh chóng nguyên phân tạo các tế bào lưỡng bội (2n) có bộ gen giống

    nhau. Số lượng tế bào mầm tăng lên hàng trăm, hàng triệu.

    Quá trình nguyên phân thì giống nhau giữa các loại tế bào mầm sinh

    dục, tất cả đều trải qua các pha như ở hình 2. Nhưng có sự khác biệt ở nam

    và nữ là tuổi bắt bắt đầu nguyên phân lần đầu tiên, thời điểm kết thúc

    không còn nguyên phân nữa và số lần nguyên phân của tế bào mầm.

    Đuôi phôi

    Khoang ối

    Tế bào mầm nguyên

    thủy trong thành túi

    noãn

    Niệu nang

    Dây rốn nguyên thủy

    Đầu phôi

    Tim

    Túi noãn hoàng

    Đuôi phôi

    Khoang ối

  • 5

    Hình 2. Sơ đồ nguyên phân

    1.2.1. Nguyên phân tế bào mầm ở nữ

    Nguyên phân bắt đầu từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5 của thai kỳ, xảy

    ra ở buồng trứng nguyên thủy. Trong giai đoạn này số lượng tế bào mầm có

    khoảng vài ngàn đến tối đa khoảng 7 triệu. Tại thời điểm đạt số lượng đó,

    các tế bào mầm nguyên thủy (noãn bào nguyên thủy) bắt đầu chết. Đến

    tháng thứ 7 phần lớn chúng đã bị thoái hóa ngoại trừ một số ở gần bề mặt

    của buồng trứng. Tất cả các noãn bào nguyên thủy còn sống được đi vào kỳ

    trước của giảm phân I, hầu hết chúng được bao bọc xung quanh bởi 1 lớp tế

    bào biểu mô lát, noãn bào nguyên thủy cùng với biểu mô lát đơn được gọi

    là nang noãn nguyên thủy (nang trứng nguyên thủy).

    Nhiễm sắc thể Trung tử Nhiễm sắc thể đôi

    Kỳ trung gian Kỳ đầu Kỳ giữa

    Kỳ sau (phân chia

    NST) Kỳ cuối Hai tế bào con

  • 6

    1.2.2. Nguyên phân tế bào mầm ở nam

    Nguyên phân diễn ra suốt đời, bắt đầu ở tinh hoàn nguyên thủy. Biểu

    mô ống sinh tinh có chứa các tinh nguyên bào. Đến tuổi dậy thì sẽ có từng

    nhóm các tinh nguyên bào tham gia vào chu kỳ nguyên phân từng đợt và

    lặp lại theo chu kỳ gần như trong suốt cuộc đời người nam.

    1.3. Giai đoạn 3: Giảm phân và thay đổi cấu trúc, chức năng của giao

    tử. Giảm phân trải qua 2 lần phân chia tế bào là giảm phân I và giảm phân

    II.

    Ở giảm phân I, DNA cũng được nhân đôi, các kỳ diễn ra tương đối

    giống như ở nguyên phân nhưng khác ở chỗ là các nhiễm sắc thể tham gia

    trao đổi chéo, chuyển đổi các đoạn giữa các nhiễm sắc thể với nhau trong

    kỳ trước, đến kỳ sau thì các nhiễm sắc thể của mỗi cặp tương đồng sẽ di

    chuyển về các cực của thoi phân bào đối nhau, mà không phân ly ở chỗ tâm

    động như trong nguyên phân làm cho các tế bào con có chất liệu di truyền

    không bằng nhau sau giảm phân I. Kỳ cuối, nhiễm sắc thể giữ nguyên số

    lượng và đi vào các kỳ của giảm phân II mà không nhân đôi.

  • 7

    Hình 3. Các giai đoạn của giảm phân

    Ở giảm phân II, các nhiễm sắc thể cũng sắp xếp trên mặt phẳng xích đạo

    (kỳ giữa giảm phân II) và sau đó tách ra ở tâm động để mỗi chiếc đơn đi về

    2 cực của tế bào hình thành nên các giao tử mang bộ nhiễm sắc thể đơn bội

    (1n).

  • 8

    Hình 4. Sơ đồ so sánh nguyên phân và giảm phân

    1.3.1. Diễn biến và thời điểm giảm phân ở nữ

    Giảm phân diễn ra chậm và muộn, thời điểm gần sinh tất cả các

    nguyên noãn bào (noãn bào nguyên thủy – primary oocyte) đi vào kỳ trước

    của giảm phân I, các nguyên noãn bào ở kỳ trước giảm phân I gọi là

    nguyên bào I (nang trứng nguyên thủy) có bộ nhiễm sắc thể 4n, tiếp theo

    đó chúng dừng lại ở giai đoạn này và chuyển sang trạng thái diplotene, quá

    trình giảm phân ngừng lại lần một.

    Trạng thái diplotene là giai đoạn nghỉ ngơi trong suốt kỳ trước

    được đặc trưng bởi các nhiễm sắc thể ngưng tụ ở mức độ thấp hơn kỳ trước

    của giảm phân I, các cặp nhiễm sắc thể tương đồng liên kết chặt với nhau

    tại vị trí bắt chéo (sẽ xảy ra chuyển đoạn nhiễm sắc thể khi phân ly). Các

    nguyên noãn bào vẫn ở trạng thái nghỉ ngơi và không tiếp tục giảm phân

    cho đến tuổi dậy thì. Trạng thái này có được là do chất ức chế sự trưởng

    thành của nang trứng (ức chế giảm phân), 1 loại peptide nhỏ được tạo ra

  • 9

    bởi những tế bào nang dẹt của biểu mô lát đơn. Chất ức chế giảm phân này

    được chuyển từ nang bào sang noãn bào bởi các liên kết khe giữa noãn bào

    và tế bào nang. Sự ức chế giảm phân này chấm dứt trước rụng trứng khi

    các hormon hoàng thể (LH) do tuyến yên tiết ra tăng vọt đột ngột phá vỡ

    các liên kết khe. Noãn bào chịu tác động bởi sự tăng trưởng của các nang

    bào, đặc biệt khi nang trứng chín.

    Số lượng nang noãn nguyên thủy tại thời điểm sinh có khoảng

    600.000 đến 800.000. Trong suốt tuổi nhi đồng (trước tuổi dậy thì) các

    nang trứng nguyên thủy tiếp tục thoái triển, đến tuổi dậy thì còn khoảng

    400.000, trong số này thì sẽ có ít hơn 500 nang trứng nguyên thủy tiến triển

    đến chín, số còn lại sẽ bị thoái triển trong các giai đoạn trưởng thành của

    nang trứng trước khi trứng chín.

    Các nang trứng sẽ lần lượt đi vào trưởng thành (chín) vì vậy có

    những nang trứng sẽ tồn tại ở trạng thái diplotene hơn 40 năm mới đi vào

    chín. Mặc dù giai đoạn diplotene là giai đoạn thích hợp nhất để bảo vệ

    những nang trứng chống lại sự ảnh hưởng của môi trường. Nhưng thực ra

    vẫn có nguy cơ bất thường về nhiễm sắc thể ở những nang trứng được cất

    giữ lâu trong trạng thái diplotene. Nói cách khác, nang trứng càng lâu đi

    vào quá trình chín thì càng có nhiều nguy cơ bất thường các vật chất di

    truyền bên trong noãn bào, vì vậy phụ nữ càng lớn tuổi (>35tuổi), càng có

    nhiều nguy cơ sinh ra những đứa con bị bất thường về nhiễm sắc thể.

    Hình 5. A. Tế bào mầm nguyên thủy; B. Tế bào noãn nguyên thủy; C. Tế

    bào noãn nguyên thủy ở ở kỳ trước giảm phân I.

  • 10

    Hình 6. Nang noãn nguyên thủy ở tháng thứ 4 (A), tháng thứ bảy của thai

    kỳ (B) và lúc mới sinh (C).

    Đến tuổi dậy thì, mỗi tháng có khoảng 15 – 30 nang trứng nguyên

    thủy bắt đầu đi vào giai đoạn trưởng thành, trải qua 3 giai đoạn: (1) nang

    trứng sơ cấp, (2) nang trứng thứ cấp (3) nang trứng trước khi chín. Trong

    đó giai đoạn 2 là dài nhất, trong khi giai đoạn trước khi rụng trứng cách

    khoảng 37 giờ trước khi rụng trứng.

    Khi nang noãn nguyên thủy bắt đầu phát triển, tế bào nang trứng

    xung quanh thay đổi hình dạng từ hình lát sang hình khối (lúc này gọi tên

    là nang trứng sơ cấp) và bắt đầu tăng sinh thành biểu mô tầng với những

    tế bào chứa hạt chế tiết bên trong (tế bào hạt hay hạt bào). Các nang bào

    tựa trên 1 màng đáy ngăn cách chúng với các tế bào đệm xung quanh (mô

    liên kết), tất cả tạo thành vỏ nang. Chúng cũng cùng với noãn bào chế tiết

    ra 1 lớp glycoprotein trên bề mặt của noãn bào, đó chính là màng trong suốt

    (zona pellucida).

    Tiếp tục phát triển thành nang trứng thứ cấp, các tế bào của vỏ

    nang tạo thành 2 lớp: lớp trong gồm những tế bào chế tiết gọi là vỏ trong

    (theca interna) có nhiều mao mạch máu cung cấp dinh dưỡng để tế bào

  • 11

    nang trứng phát triển và lớp vỏ sợi ngoài (theca externa) có nhiều mô liên

    kết. Các nhánh bào tương của tế bào nang có khuynh hướng xuyên qua

    màng trong suốt, tiếp xúc với noãn bào để vận chuyển vật chất từ tế bào

    nang vào trong noãn.

    Hình 7. A. nang trứng nguyên thủy; B. nang trứng đang phát triển (sơ cấp);

    C. nang trứng đặc

    Nang trứng tiếp tục phát triển, các nang bào tiếp tục phân chia và có

    sự xuất hiện các khoang dịch giữa các nang bào, tạo nên những cái hốc,

    ngày một lớn lên theo thời gian. Các nang bào xung quanh noãn vẫn được

    duy trì và hình thành gò noãn. Lúc trưởng thành nang trứng có hốc có thể

    có đường kính hơn 25mm.

    Các tế bào nang lớp vỏ trong của nang trứng có khả năng chế tiết các

    steroid. Các tế bào này có thụ thể tiếp nhận LH của tuyến yên để điều khiển

    chế tiết androgen (testosterone) đi qua màng đáy, đến các tế bào hạt ở vỏ

    ngoài gặp các enzym aromatase do các tế bào này tiết ra dưới sự điều khiển

    của FSH biến androgen thành estradiol. Estradiol rời khỏi nang trứng đến

    các vùng khác ở cơ thể đồng thời kích thích tạo các thụ thể tiếp nhận LH ở

    các hạt bào, nhờ vậy các hạt bào có khả năng đáp ứng với một lượng LH

    tăng vọt để kích thích rụng trứng.

    Màng trong suốt àng trMong suốt

    đang hình thành

    Tế bào

    nang vuông Tế bào nang dẹt

    Nhân của

    nang trứng

    nguyên thủy

    Mô liên kết quanh nang trứng

    A B C

    Màng tong suốt

    đang hình thành

    Màng trong suốt

  • 12

    Một số nang trứng trong số 15- 30 nang đi vào giai đoạn trưởng

    thành tiếp tục phát triển, rồi cuối cùng chỉ có một vài nang trứng trưởng

    thành đến chín, số còn lại sẽ teo đi và để lại vết tích trên buồng trứng. Khi

    nang trứng thứ cấp trưởng thành, LH tăng đến cực đỉnh sẽ đưa nang trứng

    vào giai đoạn trước rụng trứng. Giảm phân I hoàn thành, kết quả cho ra 1 tế

    bào noãn mới (noãn thứ cấp) chứa hầu hết tế bào chất từ tế bào mẹ và 1 cực

    cầu chứa 23 cặp nhiễm sắc thể (cực cầu 1 - nằm giữa màng trong suốt và

    màng đáy của nang bào). Sau đó, noãn bào đi vào giảm phân II nhưng nghỉ

    ở kỳ giữa II khoảng 3 giờ trước khi rụng trứng. Giảm phân II hoàn thành

    khi noãn bào được thụ tinh, noãn có thể duy trì khoảng 24 giờ sau khi rụng

    trứng. Cực cầu 1 cũng sẽ phân chia tạo 2 cực cầu mang bộ NST 1n.

    Hình 8. Giảm phân ở nang trứng đang trưởng thành

    1.3.2. Diễn biến và thời điểm giảm phân ở nam:

    Lúc mới sinh, những tế bào mầm phát sinh giao tử nằm trong tinh

    hoàn của đứa bé trai, nó được bao quanh bởi những tế bào nâng đỡ (tế bào

    Sertoli) nằm ở đáy biểu mô tinh. Việc tạo tinh trùng được bắt đầu lúc dậy

    thì ở các ống sinh tinh của tinh hoàn. Quá trình này khởi đầu bằng nguyên

    phân các tinh nguyên bào.

    Trước khi dậy thì 1 thời gian ngắn, ống sinh tinh được hình thành có

    lòng rõ rệch từ những dây đặc (gọi là sex cord) chứa các tế bào mầm.

    Noãn sơ cấp

    phân chia

    Noãn thứ cấp và thể

    1 thể cực Thể cực phân chia

    Noãn thứ cấp

    phân chia

    Đám tế bào hạt

    quanh noãn Màng trong suốt

  • 13

    Trong khoảng thời gian đó, những tế bào mầm nguyên thủy bắt đầu

    nguyên phân vài lần (tế bào có khả năng nguyên phân gọi là tinh nguyên

    bào A) cuối cùng tạo ra các tinh nguyên bào B không còn khả năng

    nguyên phân nữa mà sẽ đi vào giảm phân tạo tinh trùng. Vì vậy tinh

    nguyên bào A còn được xem là tế bào gốc tạo tinh trùng có khả năng

    nguyên phân và bảo tồn số lượng trong suốt cuộc đời người nam.

    Các tinh nguyên bào B bắt đầu giảm phân kích thước to lên (lúc này

    có thể gọi tên là tinh bào I – primary spermatocyte) và đi vào kỳ trước của

    giảm phân I rồi nghỉ ở trạng thái giống diplotene khoảng 22 ngày, sau đó

    nhanh chóng hoàn thành giảm phân I và hình thành tinh bào II (secondary

    spermatocytes). Tinh bào II tiếp tục giảm phân II tạo tiền tinh trùng mang

    bộ nhiễm sắc thể 1n. Tóm lại, từ tinh nguyên bào A giảm phân cho ra các

    tiền tinh trùng (tinh tử). Các tinh tử không phân chia nữa nhưng sẽ đi vào 1

    quá trình biệt hóa thành tinh trùng trong các hốc của tế bào Sertoli. Tế bào

    Sertoli có nhiệm vụ nâng đỡ, bảo vệ các tinh trùng, tham gia cung cấp dinh

    dưỡng và hỗ trợ sự trưởng thành của tinh trùng.

  • 14

    Hình 9. Sơ đồ tạo giao tử ở nam và nữ

    Sự tạo tinh trùng được chi phối bởi LH và FSH của tuyến yên. LH

    gắn kết với các receptor trên tế bào Leydig và kích thích sản xuất

    testosterone để gắn kết với những tế bào Sertoli thúc đẩy biệt hóa tinh

  • 15

    trùng. FSH rất cần thiết vì nó gắn kết với các thụ thể trên tế bào Sertoli kích

    thích sản xuất tinh dịch và kích hoạt tổng hợp protein receptor androgen

    nội bào.

    Các nhánh tế bào Sertoli nối với nhau tạo hàng rào máu tinh hoàn

    ngăn để tách biệt các tế bào dòng tinh đang trưởng thành với hệ miễn dịch

    của cơ thể. Chính vì thế khi giảm phân các tinh nguyên bào B không chịu

    tác động của miễn dịch của cơ thể. Vô sinh do miễn dịch xảy ra nếu hàng

    rào máu – tinh hoàn bị hỏng.

    Hình 10. Các tế bào dòng tinh trong biểu mô tinh với tế bào Sertoli.

    Sự chuyển dạng tinh tử thành tinh trùng có các thay đổi ở nhân và

    bào tương. Nhân giảm kích thước và cô đặc nhiễm sắc chất do histon được

    thay bằng protamin. Bào tương giảm số lượng, các bộ golgi tập trung về

    vùng đỉnh nhân tạo cực đầu chứa các enzym có chức năng thụ tinh. Ở cực

  • 16

    đối lại, đuôi hình thành từ vị trí trung tử. Các ti thể sắp xếp xoắn quanh

    đoạn gần của đuôi. Các đầu gắn (domain) hình thành ở protein màng bào

    tương tinh trùng. Các đầu gắn protein màng bào tương này thay đổi trong

    khi tinh trùng di chuyển bên trong đường sinh dục nữ. Bào tương tinh tử

    mất dần dưới dạng các thể vùi bong ra và tạo đuôi, các thể vùi sẽ được tế

    bào Sertoli thực bào.

    Hình 11. Sơ đồ biệt hóa tinh trùng từ tinh tử

    Trước đây người ta cho rằng không có sự biểu hiện gen ở các tinh

    trùng. Hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh các tinh tử không những có

    mà còn thường xuyên có biểu hiện gen. Hàng trăm loại protein được tạo ra

    trong và sau giảm phân II.

    Tổng thời gian cho việc tạo được 1 tinh trùng hoàn chỉnh với hình

    dạng và chức năng đầy đủ (tính từ lúc bắt đầu giảm phân) khoảng 64-74

    ngày. Mỗi ngày có khoảng 300 triệu tinh trùng được tạo ra. Tinh trùng có

    đầu (đường kính ngang khoảng 2-3µm, dài khoảng 4-5 µm) chứa nhân và

    cực đầu, đoạn giữa có các trung tử, đoạn gần của đuôi có các ti thể xếp

    xoắn ốc, đuôi dài 5 µm cấu tạo đặc thù tiêm mao.

  • 17

    Sau khi được biệt hóa hoàn chỉnh, tinh trùng còn ở ống sinh tinh

    chưa có khả năng tự chuyển động và không thể thụ tinh. Từ ống sinh tinh,

    tinh trùng được chuyển đến mào tinh hoàn nhờ dịch tiết ống sinh tinh. Lúc

    ở mào tinh hoàn, tinh trùng trưởng thành thêm về sinh hóa, được bao bởi

    lớp glycoprotein và sửa đổi protein bề mặt vùng đầu. Bên trong đường sinh

    dục nữ, lớp glycoprotein bị loại bỏ do cắt bởi màng bào tương đầu tinh

    trùng để tinh trùng có thể thụ tinh. Các biến đổi sinh hóa tiếp theo sau khi

    tinh trùng được phóng tinh, ở trong hỗn hợp dịch giàu năng lượng gồm

    dịch tiết tiền liệt tuyến và dịch tiết túi tinh, từ lúc này tinh trùng có thể tự di

    chuyển.

    Khoảng 10% tổng số tinh trùng bất thường do sai sót trong quá trình

    biệt hóa gồm tinh trùng có 2 đầu, cụt đuôi hay đầu to nhỏ bất thường. Tinh

    trùng bất thường không có khả năng thụ tinh. Nếu tỉ lệ tinh trùng bất

    thường trên 20% thì khả năng thụ tinh giảm.

    2. SỰ DI CHUYỂN CỦA GIAO TỬ VÀ SỰ THỤ TINH:

    2.1. Sự di chuyển của trứng:

    Khoảng giữa chu kỳ kinh nguyệt, nang trứng chín có noãn bào ngừng ở

    kỳ giữa của giảm phân I di chuyển lên bề mặt buồng trứng. Dưới tác động

    của FSH và LH, nang trứng phình to nhanh chóng. Giảm phân I kết thúc,

    noãn bào II tiến triển đến kỳ giữa và ngừng lại lần thứ 2. Sau giảm phân I

    cực cầu được đẩy ra ngoài, nang trứng nhô lên bề mặt buồng trứng, đỉnh

    nhô gọi là điểm vỡ.

    Giữa chu kỳ kinh nguyệt, nồng độ LH tăng vọt kích thích sự rụng trứng.

    Trong vòng vài phút sau khi nồng độ LH đạt đỉnh điểm, nguồn máu cung

    cấp cho vỏ ngoài nang trứng và buồng trứng tăng, làm cho các protein

    huyết tương rò rỉ qua các mao mạch máu gây phù mô đệm. Sự phù nề cùng

    với tác động của các chất prostaglandin, histamine và vasopressin dẫn đến

    chuỗi phản ứng tạo enzym collagenase. Cùng lúc các tế bào hạt chế tiết

  • 18

    acid hyaluronic làm lỏng lẻo lớp hạt bào. Phân giải collagen, thiếu máu và

    chết một số nang bào làm nang trứng suy yếu, áp suất dịch nang trứng tăng

    lên (15-20mmHg) cùng sự co thắt của các tế bào dạng cơ trơn làm vỡ nang

    trứng tại thời điểm 28-36 giờ sau khi LH tăng vọt.

    Sự rụng trứng tống xuất cả dịch nang trứng và noãn bào ra khỏi buồng

    trứng vào khoang bụng. Khối mô tống xuất không chỉ có noãn bào mà còn

    có màng trong suốt, vòng tia (2-4 tế bào nang quanh noãn) và chất nền dễ

    dính bao quanh gò noãn. Bình thường chỉ có 1 nang trứng rụng, nếu có trên

    2 nang trứng rụng sẽ tạo điều kiện sinh đa thai khác trứng.

    Một số người nữ có cơn đau bụng khi rụng trứng gọi là cơn đau

    “giữa kỳ kinh” hay có xuất huyết lượng ít do nang trứng vỡ. Một dấu hiệu

    nữa của sự rụng trứng là tăng thân nhiệt, thường để tránh giao hợp vào các

    ngày có rụng trứng.

    Ngay trước thời điểm trứng rụng, vòi tử cung tăng số lượng tế bào

    biểu mô trụ có lông chuyển, tăng hoạt động cơ trơn, mạc treo buồng trứng

    dài ra do tác động của hormon. Khi rụng trứng các tua vòi áp sát và quét

    qua bề mặt buồng trứng. Hiện tượng này cùng với sự hình thành các tế bào

    trụ có lông chuyển giúp bắt trứng dễ dàng.

    Hình 12. Loa vòi bắt trứng rụng

    Nang trứng đang

    phát tiển Vòi tử cung

    Nguyên phân lần 2 ở

    trứng đã rụng

    Đám tế bào quanh noãn

    Loa vòi

    Nang trứng

    rụng

    Tua vòi

  • 19

    Khi vào vòi tử cung, nang trứng rụng được di chuyển về phía tử cung

    nhờ: sự co thắt của cơ trơn thành vòi, các tế bào trụ có lông chuyển, dịch

    tiết ở vòi tử cung cùng sự cuốngg theo dòng dịch từ ổ bụng do loa vòi hấp

    thu vào.

    Nang trứng di chuyển trong vòi tử cung 3-4 ngày, không phụ thuộc thụ

    tinh hay không thụ tinh và nó có 2 giai đoạn: (1) giai đoạn di chuyển chậm

    ở bóng vòi (khoảng 72 giờ) và (2) giai đoạn di chuyển nhanh ở eo vòi

    (khoảng 8 giờ); sau khi qua eo vòi, nang trứng rụng đi vào lòng tử cung.

    Chưa rõ cơ chế yếu tố phù nề niêm mạc và giảm co thắt cơ trơn kìm giữ

    nang trứng rụng chậm đi vào eo vòi nhưng khi có progesterone thì đoạn nối

    eo vòi giãn ra để nang trứng rụng đi qua.

    Khoảng 80 giờ sau khi rụng trứng, nang trứng rụng (hoặc phôi) di

    chuyển tới vòi tử cung. Nếu không có thụ tinh, nang trứng sẽ thoái triển và

    được thực bào.

    2.2. Sự di chuyển của tinh trùng:

    Khi phóng tinh, tinh trùng di chuyển nhanh qua ống phóng tinh, hòa vào

    dịch tiết của túi tinh và tuyến tiền liệt. Dịch tiết tuyến tiền liệt có nhiều acid

    citric, acid phosphatase, các ion kẽm, magnesium, prostaglandin và có

    nhiều fructose (nguồn năng lượng chính cho tinh trùng). Mỗi lần phóng

    tinh có khoảng 2-6ml tinh dịch cùng với 40-250 triệu tinh trùng nhưng chỉ

    có khoảng 25 triệu tinh trùng có khả năng thụ tinh. Sau phóng tinh, tinh

    trùng tụ lại đoạn trên của âm đạo. Trong tinh dịch có hệ đệm để bảo vệ tinh

    trùng không bị tác động bởi acid âm đạo (pH=4.3). Ở người tác dụng đệm

    chỉ kéo dài khoảng vài phút đủ cho tinh trùng có thể đi vào cổ tử cung.

    Chỉ khoảng 1% tinh trùng sau phóng tinh đi vào cổ tử cung. Thông

    thường sự di chuyển của tinh trùng từ cổ tử cung đến vòi tử cung chủ yếu

    do sự vận động của chính bản thân nó và có thể có sự hỗ trợ của dịch được

    tạo ra ở tử cung và vòi tử cung. Cuộc hành trình của tinh trùng từ cổ tử

  • 20

    cung đến vòi tử cung tối thiểu mất 2-7 giờ. Sau khi đến đoạn eo của vòi thì

    tinh trùng di chuyển chậm lại hoặc tạm thời không di chuyển. Đến khi rụng

    trứng, tinh trùng bắt đầu di chuyển tiếp tục đến đoạn bóng nơi mà thụ tinh

    sẽ xảy ra, có thể có những chất hấp dẫn từ trứng do các nang bào tiết ra

    (hiện tượng hóa hướng động).

    2.3. Sự thụ tinh:

    Khi gặp trứng, tinh trùng cũng không thể thụ tinh ngay lập tức mà còn

    phải hoạt hóa (capacitation) và phản ứng cực đầu (acrosome reation).

    Hoạt hóa là dựa vào điều kiện của đường sinh dục nữ, giai đoạn này tối

    thiểu khoảng 7 giờ. Trong số nhiều yếu tố dẫn đến hoạt hóa thì yếu tố dịch

    tiết trong đường sinh dục nữ (của vòi tử cung) là quan trọng, nó giúp cho

    tinh trùng tách bỏ lớp áo khoác glycoprotein và những protein của tinh dịch

    bám ở cực đầu tinh trùng. Chỉ có những tinh trùng đã được hoạt hóa mới có

    thể vượt qua những tế bào ở vành tia và tiếp tục phản ứng cực đầu.

    Phản ứng cực đầu xảy ra sau khi tinh trùng gắn kết với màng trong

    suốt tại những receptor trên mặt ngoài màng trong suốt. Đỉnh điểm của

    phản ứng là phóng thích enzym ở cực đầu cần cho sự phá vỡ màng trong

    suốt, chúng bao gồm acrosin và chất giống như trypsin.

    Nhìn chung quá trình thụ tinh diễn ra gồm 3 giai đoạn:

    + Giai đoạn 1: Sự xâm nhập của tinh trùng qua vành tia.

    Có khoảng 300 đến 500 tinh trùng đến gặp trứng và tham gia vào thụ

    tinh nhưng cuối cùng chỉ có 1 tinh trùng thụ tinh với trứng. Nói cách khác

    sự thụ tinh là tinh trùng vượt qua những rào cản bảo vệ noãn.

    + Giai đoạn 2: Sự xâm nhập của tinh trùng qua màng trong suốt.

    Màng trong suốt là 1 lớp vỏ bao quanh trứng dày 13µm, chủ yếu

    gồm 3 glycoprotein ZP1, ZP2 và ZP3. Trong đó protein ZP3 có vai trò như

    là thụ thể gắn tinh trùng. Sau khi giải phóng enzym, nhờ hoạt động của

    đuôi tinh trùng tạo lực đẩy đầu tinh trùng cùng lõi của đuôi vào khoảng

    quanh noãn hoàng (khoảng trống giữa màng bào tương noãn bào và màng

  • 21

    trong suốt), bỏ lại màng bào tương của nó bên ngoài màng trong suốt. Tiếp

    sau đó tinh trùng phải vượt qua khoảng quanh noãn hoàng để đến tiếp xúc

    với noãn.

    Hình 13. Sự xâm nhập của tinh trùng vào trứng

    + Giai đoạn 3: Sự hòa hợp noãn bào và tinh trùng (sự hòa hợp của 2

    tiền nhân)

    Ở trong khoảng quanh noãn bào, màng nhân tinh trùng tăng tính

    thấm, phình to và các yếu tố ở bào tương noãn bào tác động các thành phần

    trong nhân tinh trùng làm cho các nối disulfide ở các protamin bị khử, các

    protamin nhanh chóng tách rời và nhiễm sắc chất tinh trùng duỗi ra (lúc

    này gọi là tiền nhân nam) và tiến gần đến nhân noãn bào đã hoàn thành

    giảm phân II, nhiễm sắc thể cũng đang duỗi xoắn (tiền nhân nữ).

    Ban đầu 2 tiền nhân được liên kết với nhau bởi những phân tử kết

    dính dạng receptor và chất gắn, đuôi tinh trùng đứt ra và tiêu biến. Tiếp đến

    là màng của 2 tiền nhân hòa hợp với nhau tạo nhân của hợp tử chứa bộ

    nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n.

    Tế bào vành tia

    Pha 1 Pha 2

    Pha 3

    Thể cực

    phân chia

    Cực đầu

    Nhân tinh

    trùng Màng

    bào

    tương

    Tinh trùng hòa màng

    Phá màng cực đầu

    Giảm phân 2

  • 22

    Hình 14. A. Sự kết dính 2 tiền nhân; B. Giai đoạn 2 phôi bào.

    Ngay khi tinh trùng đã vào noãn (qua được màng trong suốt), trứng

    đáp ứng qua 3 cơ chế:

    (1) Phản ứng vỏ và màng trong suốt: phóng thích các hạt vỏ noãn

    bào chứa enzym ly giải. Màng của noãn bào ngăn chặn tinh trùng khác xâm

    nhập, màng trong suốt thay đổi cấu trúc và cấu tạo ngăn chặn tinh trùng

    khác gắn kết và xâm nhập.

    (2) Bắt đầu lại sự giảm phân 2 của trứng: trứng hoàn thành giảm

    phân 2 ngay sau khi tinh trùng xâm nhập vào và phóng thích 1 cực cầu nữa

    và tiền nhân nữ.

    (3) Sự hoạt hóa của trứng: yếu tố hoạt hóa trứng có lẽ được mang

    vào bởi tinh trùng. Hoạt hóa sau khi hòa màng có thể được xem như là

    hoàn thiện tế bào và tạo những phân tử liên quan với việc phát triển phôi

    giai đoạn đầu.

  • 23

    Hình 15. Sơ đồ mô tả toàn bộ quá trình thụ tinh

    Câu hỏi lượng giá:

    1. Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bất thường về số lượng nhiễm sắc

    thể là gì? Hãy cho ví dụ 1 hội chứng lâm sàng liên quan đến bất

    thường số lượng nhiễm sắc thể?

    2. Hãy so sánh quá trình tạo giao tử ở nam và nữ?

  • 24

    BÀI 2

    PHÂN CẮT PHÔI BÀO VÀ LÀM TỔ

    MỤC TIÊU

    Sau khi học xong bài này sinh viên phải

    1. Mô tả được các các giai đoạn phân cắt phôi bào trước khi làm tổ

    2. Mô tả được phôi làm tổ như thế nào.

    NỘI DUNG

    1. SỰ PHÂN CẮT PHÔI SAU KHI THỤ TINH ĐẾN LÚC LÀM TỔ

    Hình 1. Sơ đồ quá trình phân cắt và di chuyển của phôi sau khi thụ tinh

    Khoảng 30 giờ sau khi thụ tinh, hợp tử đã hoàn thành lần phân chia

    thứ thất cho ra 2 phôi bào có kích thước không đều, phôi bào lớn hơn sẽ

    phân chia sớm hơn phôi bào kia 1 chút. Vì thế có giai đoạn 3 phôi bào.

    Tiếp theo là giai đoạn 4, 8, 9, 12 phôi bào. Khoảng 3-4 ngày sau thụ tinh

    phôi ở giai đoạn 12-16 tế bào (phôi dâu), với phần trung tâm gồm những

  • 25

    phôi bào lớn và ở ngoại vi là 1 lớp phôi bào nhỏ. Phôi bào lớn sẽ phát triển

    thành phần chính của phôi (sẽ phát triển thành thai sau này) và một số bộ

    phận phụ của phôi như màng ối, túi noãn hoàng, niệu nang. Còn phôi bào

    nhỏ sẽ tạo lá nuôi để góp phần tạo ra bánh nhau và màng ối.

    Sự phân chia của phôi xảy ra đồng thời với quá trình di chuyển phôi

    vào trong lòng tử cung. Lúc này, phôi được nôi dưỡng chủ yếu bằng thẩm

    thấu các chất dinh dưỡng trong dịch tiết của vòi tử cung. Vành tia dần bị

    thoái hóa. Màng trong suốt thì cũng sẽ mất đi trong giai đoạn phôi nang.

    Hình 2. Phôi ở giai đoạn hai, bốn tế bào, phôi dâu, phôi nang

  • 26

    Hình 2. Các phôi bào của chuột dưới kính hiển vi diện tử. A. không nén, B.

    các tế bào nén lại.

    Hình 3. Phôi nang (B) và sự bám của phôi nang vào niêm mạc tử cung (C)

    Khi phôi dâu vào trong buồng tử cung, dịch bắt đầu ngấm qua màng

    trong suốt qua khe gian bào tạo nên 1 cái khoang nằm chen giữa lớp phôi

    bào lớn và phôi bào nhỏ, mục đích để mang chất dinh dưỡng vào nuôi các

    tế bào bên trong. Giai đoạn này phôi được gọi là phôi nang. Ở phôi nang,

    bao ngoài là lớp nguyên bào nuôi (trophoblast), ở trong phía cực phôi gồm

    Lá nuôi

    Khoang phôi nang

    Nguyên bào phôi Nội mạc tử cung Lớp đệm

    Nguyên bào phôi

    Lá nuôi

    hợp bào

  • 27

    1 đám tế bào gốc hay nguyên bào phôi (embryoblast) sẽ phát triển nên cơ

    thể sau này.

    Có hai phôi nang người được lấy ta từ tử cung được mô tả lần đầu tiên.

    Một phôi nang cấu tạo bởi 58 tế bào khoảng 4 ngày tuổi ( Hertig AT, Rock

    J. và Adam EC, 1954). Phôi nang thứ 2 cấu tạo bởi 107 tế bào khoảng 4,5

    ngày tuổi. Phôi này đã có 1 nút phôi cấu tạo bởi 8 phôi bào lớn, 99 phôi

    bào nhỏ trong đó có 30 phôi bào nhỏ phủ mặt ngoài nút phôi và 69 phôi

    bào nhỏ tạo nên khoang phôi nang (Hertig, Adams, Mulligan, 1954; Hertig,

    Rock, Adams, 1956).

    2. DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH LÀM TỔ CỦA PHÔI

    Phôi bắt đầu làm tổ ở giai đoạn phôi nang khoảng ngày thứ sáu sau khi

    thụ tinh, tương ứng với ngày thứ 21 của chu kỳ kinh 28 ngày (niêm mạc tử

    cung ở giai đoạn chế tiết). Phôi nang bám vào niêm mạc tử cung ở cực

    phôi, xuyên qua lớp niêm mạc vào lớp đệm, dần dần toàn bộ phôi vùi trong

    niêm mạc tử cung.

    Hình 4. Sự làm tổ của phôi ở ngày thứ 9 sau thụ tinh

    Hốc lá nuôi Các mạch máu dãn ra

    Lá nuôi hợp bào

    Lá nuôi tế bào

    Khoang ối

    Thượng bì

    Hạ bì

    Nút đông fibrin Túi noãn hoàng

    nguyên thủy

    Màng túi noãn hoàng

    nguyên thủy

  • 28

    Bình thường trứng làm tổ ở thành sau hay thành trước tử cung,

    nhưng trứng có thể làm tổ ở những vị trí khác đã được ghi nhận: vòi tử

    cung, cổ tử cung, trên buồng trứng hay trong ổ bụng ...

    Hình 5. Các vị trí làm tổ bất thường có thể xảy ra

    Hình 6. Sự làm tổ của phôi ở túi cùng sau (trong ổ bụng)

    Ruột

    Mạc treo ruột

    Vòi tử cung

    Loa vòi

    Tua vòi

    Nội mạc

    đoạn eo tử

    cung

    Thân tử

    cung

  • 29

    Câu hỏi lượng giá:

    1. Phôi phân chia như thế nào trên đường di chuyển từ vị trí thụ tinh

    vào buồng tử cung?

    2. Phôi làm tổ như thế nào? Hãy nêu một số nguyên nhân gây thai

    ngoài tử cung trên lâm sàng (thường gặp là thai ở vòi tử cung)?

  • 30

    BÀI 3

    SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC LÁ PHÔI

    MỤC TIÊU:

    Sau khi học xong bài này sinh viên phải:

    1. Mô tả được sự phát triển của phôi ở giai đoạn 2 lá

    2. Mô tả được sự phát triển của phôi ở giai đoạn 3 lá

    NỘI DUNG:

    Phôi không ngừng biến đổi trong quá trình làm tổ. Hai cấu trúc ở phôi

    nang là lá nuôi và nguyên bào phôi sẽ tạo ra tất cả các loại mô qua các giai

    đoạn. Tuy nhiên các phôi thụ tinh cùng lúc không nhất thiết phát triển

    giống nhau trong cùng thời điểm. Giữa chúng có 1 tỉ lệ khác biệt về sự phát

    triển, thường thì thai càng nhỏ thì sự khác biệt càng nhỏ. Hình thái ứng với

    tuổi thai chỉ là 1 sự tương đối.

    1. SỰ TẠO RA ĐĨA PHÔI HAI LÁ

    Hình 1. Hình ảnh phôi người 7,5 ngày

    Nội mạc tử cung

    Tuyến tử

    cung

    Biểu mô bề

    mặt

    Thượng

    Khoang ối

    Hạ bì

    Lá nuôi tế bào

    Màng ối nguyên

    thủy

    Mạch máu

    Lá nuôi hợp bào

  • 31

    Khi phôi làm tổ vào nội mạc tử cung ở đầu tuần lễ thứ 2. Các nguyên

    bào phôi có đặc điểm tế bào biểu mô, sắp xếp hình tấm được gọi là lá phôi,

    gồm một lớp mỏng các tế bào ở phía bụng của mầm phôi. Lớp tế bào này

    được gọi là thượng bì phôi (epiblast) ở mặt lưng và lớp ở dưới là hạ bì phôi

    (hypoblast) ở mặt bụng. Các tế bào thượng bì phôi sẽ tạo ra cơ thể và 1 số

    mô khác ngoài phôi. Hạ bì phôi sẽ tạo biểu mô lót thành túi noãn hoàng.

    Sau khi hình thành thượng bì phôi và hạ bì phôi có dạng tấm rõ ràng, mầm

    phôi được gọi là đĩa phôi 2 lá.

    Ngày thứ 8, phôi nang đã lọt 1 phần vào nội mạc tử cung. Ở cực

    phôi, lá nuôi biệt hóa thành 2 lớp: lớp tiếp xúc với nội mạc tử cung (ở phía

    ngoài của phôi) gọi là lá nuôi hợp bào (syncytiotrophoblast), còn lá trong

    gọi là lá nuôi tế bào (cytotrophoblast).

    Lá nuôi hợp bào sẽ phát triển mạnh tiến sâu vào lớp đệm của nội

    mạc tử cung và bao lấy xung quanh phôi khi phôi đã vùi hoàn toàn vào

    trong nội mạc tử cung.

    Giữa hai lá phôi sẽ xuất hiện 1 khoang nhỏ rồi lớn dần lên thành

    khoang ối. Màng ối xuất nguồn từ lớp tế bào nuôi ở bên trên khoang ối. Vì

    vậy có thể nói màng ối có chung nguồn gốc với ngoại bì. Ở phía dưới hạ bì

    phôi cũng hình thành 1 cái khoang đó là túi noãn hoàng nguyên phát.

    Khoảng ngày thứ 9, các tế bào từ hạ bì phôi tỏa ra lót mặt trong lá

    nuôi tế bào tạo thành màng trong của túi noãn hoàng nguyên phát. Đến

    ngày thứ 10 sau thụ tinh thì đĩa phôi 2 lá hình thành xong gồm thượng bì

    phôi và hạ bì phôi, nằm giữa túi noãn hoàng nguyên phát và túi ối.

    Từ ngày thứ 12, các tế bào trung bì ngoài phôi xuất hiện nằm xen

    giữa lớp tế bào nuôi và lớp màng trong túi noãn hoàng nguyên phát và bắt

    đầu lan rộng ra để chen vào giữa lá nuôi và màng ối. Tiếp đến trong lớp

    trung bì ngoài phôi đó xuất hiện những hốc lớn rồi hợp lại với nhau thành

    một khoang duy nhất gọi là khoang ngoài phôi bao quanh túi noãn hoàng

  • 32

    nguyên phát đang thoái hóa và màng ối. Lúc này túi noãn hoàng thứ phát

    cũng được hình thành.

    Trải qua 13 ngày phát triển, vị trí mà phôi đã chui vào ở nội mạc tử

    cũng đã liền lại. Tuy nhiên tại thời điểm này vẫn có thể có hiện tượng chảy

    máu ra ngoài giống máu kinh là do các dòng máu của mẹ đổ vào các hốc

    của lá nuôi hợp bào có thể rò rỉ ra ngoài. Bởi vì máu chảy ra vào lúc này

    cũng gần với thời điểm chu kỳ kinh bình thường nên làm cho những người

    phụ nữ đã mang thai có thể lầm với kỳ hành kinh, điều này dẫn tới việc tính

    tuổi thai sẽ không chính xác.

    Hình 2. Xuất hiện trung bì ngoài phôi

  • 33

    Hình 3. Phôi 13 ngày

    2. SỰ PHÁT TRIỂN PHÔI TRONG TUẦN THỨ BA – GIAI ĐOẠN

    PHÔI VỊ

    Giai đoạn phôi vị là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển phôi.

    Trong giai đoạn này xảy ra mọi sự vận chuyển tế bào sinh ra từ các lá phôi

    (mầm cơ quan) về những vị trí nhất định để phát triển thành các cơ quan

    sau này.

    2.1. Sự tạo ra trung bì hình thành phôi 3 lá

    Sự kiện chính xảy ở đầu tuần thứ 3 của quá trình phát triển phôi là sự

    xuất hiện đường nguyên thủy (primitive streak) ở mặt ngoại bì hướng vào

    khoang ối (mặt lưng của phôi). Đến ngày thứ 15-16 nó được mô tả là 1 cái

    rãnh hẹp, dài, ở phía đuôi phôi, hai gờ rảnh hơi nhô do sự tăng sinh tế bào.

    Ở đầu trước của rãnh có 1 chỗ lõm, được bao quanh bởi một cái gờ hình

    vành khuyên, mở thông ra phía sau tạo thành nút nguyên thủy (nút

    Hensen). Đường nguyên thủy và nút Hensen là nơi tế bào chưa biệt hóa

    được phát sinh và di cư để tạo ra cả ba lá phôi.

  • 34

    Hình 4. Sơ đồ đĩa phôi đầu tuần thứ 13

    Hình 5. Sơ đồ di cư của tế bào sinh ra từ đường nguyên thủy

  • 35

    Hình 6. Sơ đồ di chuyển của các tế bào được sinh ra từ đường nguyên thủy

    Trên thiết đồ cắt ngang phôi qua đoạn giữa đường nguyên thủy, ở 2

    bên bờ rãnh, các tế bào trương lên, tăng sinh, các tế bào mới sinh đi xuống

    phía dưới, chen vào giữa thượng bì và hạ bì phôi, rồi lan sang 2 bên và về

    phía đầu phôi, tới bờ đĩa phôi để tiếp giáp với trung bì ngoài phôi phủ

    màng ối và túi noãn hoàng.

    Các tế bào thượng bì phôi đi vào đường nguyên thủy, phân chia, thay

    đổi hình dạng rồi rời đường nguyên thủy tạo các lớp tế bào bên dưới

    thượng bì phôi. Hạ bì phôi cũng thay đổi chỗ của các tế bào cùng với các tế

    bào được sinh ra từ đường nguyên thủy hình thành nội bì (endoderm). Phần

    tế bào được sinh ra đang lan dần về các phía nằm giữa lớp thượng bì và nội

    Màng họng miệng

    Màng ối cắt ngang

    Tế bào trước dây sống

    Nút nguyên thủy

    Đường nguyên thủy

    Màng nhớp

    Thượng bì

    Nút ngyên thủy Đường nguyên thủy

    Màng ối

    Túi noãn

    hoàng Hạ bì

    Các tế bào trung mô đang di

    chuyển

  • 36

    bì mới tạo được gọi là trung bì (mesoderm). Những tế bào còn lại ở thượng

    bì phôi thêm vào những tế bào đến từ đường nguyên thủy sẽ phát triển

    thành ngoại bì (ectoderm).

    Về phía đầu phôi, trung bì lan ra 2 bên tấm trước dây sống, rồi vòng

    qua phía trước sát nhập với nhau ở đường giữa, tạo thành diện tim, còn gọi

    là diện mạch, nơi tim và mạch máu lớn đầu tiên được tạo ra.

    Vì không có trung bì chen vào giữa, nên nội bì tấm trước dây sống

    dán chặt vào ngoại bì trên đó tạo thành 1 màng có 2 lá phôi gọi là màng

    họng (buccopharyngeal membrane).

    Ở phía đuôi phôi ngay đầu sau của đường nguyên thủy, cũng có 1

    vùng trung bì không lan tới, ở đó nội bì và ngoại bì cũng dán chặt vào nhau

    gọi là màng nhớp (cloacal membrane).

    2.2. Sự tạo ra dây sống (notochord)

    Dây sống là cột tế bào nằm dọc theo trục cơ thể của phôi, có vai trò

    chống đỡ phôi và tham gia biệt hóa các tế bào thành một số mô và cơ quan

    như: ngoại bì thần kinh, tấm sàng ở hệ thần kinh trung ương, các đốt xơ và

    nụ tụy sau.

  • 37

    Hình 7. Minh họa sự hình thành dây sống, được tạo bởi những tiền dây

    sống di cư xuyên qua đường nguyên thủy dính vào nội bì tạo đĩa dây sống

    và cuối cùng tách ra từ nội bì để hình thành dây sống. A. Sơ đồ cắt dọc

    phôi khoảng 17 ngày, vùng đầu của dây sống đã được hình thành, trong khi

    đó những tế bào ở vùng đuôi còn dính vào nội bì. B. Sơ đồ cắt ngang qua

    vùng đĩa dây sống ngay khi đĩa sống tách ra từ nội bì để tạo dây sống hoàn

    chỉnh. C. Minh họa dây sống hoàn chỉnh.

    Màng họng

    Dây sống

    Màng nhớp

    Niệu nang

    Cuốn phôi

    Hố nguyên thủy và rảnh thần kinh

    Màng ối

    Thành

    túi noãn

    hoàng

    Đĩa dây sống

    Lớp trung mô

    ở trong phôi

    Ngoại bì

    Trung bì ở ngoài phôi

    Dây sống Ngoại

  • 38

    2.3. Sự lớn lên của phôi

    Hình 8. Sự khép mình của phôi, hình thành túi ối

  • 39

    Hinh 9. Đĩa phôi khoảng 16 ngày (A), 18 ngày (B)

    Hình 16 . Sơ đồ mạch máu nuôi phôi khoảng 19 ngày

    Hình 10. Sơ đồ mạch máu phôi

    Màng

    ối Túi noãn

    hoàng

    Đường nguyên

    thủy

    A

    Nút nguyên

    thủy

    Đường

    nguyên

    thủy

    Lông

    nhau

    Khoang ối

    Màng ối

    Tim

    Khoang

    ngoài tim

    Túi noãn hoàng

    Hốc máu Mạch máu

    Màng đệm

    Cuốn phôi

    Niệu nang

    Mạch máu

  • 40

    Sơ đồ biệt hóa tạo cơ quan từ 3 lá phôi

  • 41

    Câu hỏi lượng giá:

    1. Đĩa phôi 2 lá bao gồm những gì? Nó được hình thành từ đâu?

    2. Đĩa phôi 3 lá được tạo ra từ đâu? Nó có vai trò như thế nào trong

    thời kỳ phôi thai?

    3. Anh (chị) hãy vẽ sơ đồ biệt hóa tạo cơ quan từ 3 lá phôi?

  • 42

    BÀI 4

    CÁC PHẦN PHỤ CỦA THAI

    MỤC TIÊU BÀI HỌC

    Sau khi học xong bài này sinh viên phải:

    1. Mô tả được cấu trúc đại thể của bánh nhau.

    2. Trình bày được sự tạo nhau.

    3. Kể được các chức năng của nhau.

    4. Nêu được bản chất và sự hình thành của các màng thai: màng rụng,

    màng đệm, màng ối, màng nhau.

    5. Trình bày được tuần hoàn dịch ối.

    NỘI DUNG

    Khi thai phát triển đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng thì

    bánh nhau cũng sẽ thay đổi để đáp ứng đủ nhu cầu đó. Trước tiên là tăng

    diện tích tiếp xúc bề mặt nhau và tử cung. Kế đó, các màng thai cũng thay

    đổi khi tăng sản xuất nước ối.

    1. THAY ĐỔI Ở NGUYÊN BÀO NUÔI (TROPHOBLAST)

    Bắt đầu tháng thứ 2, nguyên bào nuôi hình thành nhiều lông nhau

    (villi) cấp 2 và cấp 3 tỏa ra xung quanh (hình 4.1). Lông nhau bám (stem

    villi) kéo dài từ trung mô của đĩa đệm đến lớp màng rụng đáy

    (cytotrophoblast shell). Bề mặt của lông nhau được cấu thành bởi lớp lá

    nuôi hợp bào tựa lên lớp lá nuôi tế bào rồi đến mô liên kết lõi gai nhau của

    trung mô mạch máu (hình 4.2. C). Sự phát triển hệ thống mao mạch trong

    lõi của lông nhau bám diễn ra nhanh chóng rồi thông với mao mạch của đĩa

    đệm và cuống phôi (connecting stalk), tăng mạch máu ngoài phôi.

  • 43

    Hình 4.1. Phôi người tại thời điểm bắt đầu tháng thứ 2 của sự phát triển.

    Tại cực phôi, lông nhau phát triển nhanh về số lượng và hình dạng, cực đối

    phôi thì phát triển chậm hơn.

    Máu của mẹ được phân phối vào bánh nhau bởi các động mạch xoắn

    trong tử cung, các động mạch này đổ máu trực tiếp vào hồ máu được lót

    bên trong bởi lớp lá nuôi hợp bào (hình 4.1 và 4.2). Những tế bào này, xuất

    phát từ đầu tận của lông nhau bám, xâm nhập vào đầu tận của động mạch

    xoắn, nơi mà chúng thay thế những tế bào nội mô trong lòng mạch máu của

    mẹ, tạo nên những mạch ghép có cả những tế bào của mẹ và con. Để làm

    được điều này, nguyên bào nuôi di chuyển qua biểu mô để chuyển thành

    nội mô. Sự xâm nhập của nguyên bào nuôi vào trong động mạch xoắn đã

    làm chuyển dạng những mạch máu này từ đường kính nhỏ có sức đề kháng

    Màng rụng bao

    Khoang đệm

    Đĩa đệm

    Hồ máu

    Lớp lá nuôi tế

    bào ngoài

    Động mạch xoắn Lông nhau

  • 44

    cao thành đường kính lớn và có sức đề kháng thấp làm tăng lưu lượng máu

    đổ vào các khoảng trống quanh lông nhau (hình 4.1 và 4.2).

    Hình 4.2. Cấu trúc của lông nhau qua các giai đoạn phát triển khác nhau.

    A. Trong suốt tuần thứ 4. Trung bì ngoài phôi thâm nhập vào lông nhau

    bám trực tiếp vào màng rụng đáy. B. Trong suốt tháng thứ 4, nhiều lông

    nhau nhỏ, thành của mao mạch tiếp xúc trực tiếp với lớp lá nuôi hợp bào.

    C,D. chỉ sự lớn lên của các lông nhau.

    Trong suốt những tháng tiếp theo, các lông nhau ngày càng phát triển

    chia nhánh nhiều hơn tạo ra nhiều lông nhau tự do tủa vào trong hồ máu.

    Ban đầu, lông nhau tự do mới được hình thành có cấu tạo đơn giản (hình

    4.2. C), nhưng bắt đầu tháng thứ 4, nguyên bào nuôi và một vài tế bào mô

    liên kết thoái hóa. Thành hợp bào nuôi và nội mô của mạch máu là lớp

    ngăn cách chủ yếu giữa tuần hoàn mẹ và con (hình 4.2. B,D). Dần dần lớp

    hợp bào nuôi rất mỏng và có những phần chứa một vài nhân lớn vỡ ra rơi

    Lớp tế bào lá nuôi Màng

    rụng

    ĐM xoắn

    Hồ máu

    Mạch máu

    Lá nuôi tế bào

    Đĩa đệm Hợp bào

    nuôi

    Trung bì

    ngoài phôi

    Mạch máu lông nhau

    Có 2 lớp:

    - Hợp bào nuôi

    - Nội mô

    Có 4 lớp:

    - Hợp bào nuôi

    - Tế bào nuôi

    - MLK lõi

    - Nội mô

  • 45

    vào trong hồ máu quanh các lông nhau. Những mảnh vụn này, được biết

    như nút hợp bào, có thể đi vào vòng tuần hoàn mẹ và thường thoái hóa,

    không gây ra bất kỳ ảnh hưởng gì cho mẹ.

    Liên hệ lâm sàng

    Tiền sản giật là 1 bệnh được đặc trưng bởi tăng huyết áp thai kỳ, có

    protein niệu và phù. Nó có thể bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào khi thai từ

    20 tuần và gây ra hậu quả thai chậm phát triển, thai chết hoặc tử vong ở

    sản phụ. Bệnh biểu hiện là những rối loạn thuộc về lá nuôi liên quan đến

    việc biệt hóa sai hoặc không hoàn toàn của tế bào lá nuôi, nhiều tế bào

    không đi vào nội mô của động mạch xoắn để chuyển dạng biểu mô. Những

    bất thường về tế bào này dẫn đến tăng huyết áp và còn những vấn đề khác

    chưa được biết rõ. Nguyên nhân của tiền sản giật bao gồm hiện tượng

    khảm của bánh nhau, trong đó có những nguyên bào nuôi bất thường về

    gen hay bệnh ở sản phụ có thể gây ra những vấn đề về mạch máu như là

    tiểu đường. Phụ nữ hút thuốc lá cũng gây tăng nguy cơ tiền sản giật.

    2. ĐĨA ĐỆM VÀ MÀNG RỤNG ĐÁY (CHORION FRONDOSUM

    AND DECIDUA BASALIS)

    Trong những tuần đầu của thai kỳ, lông nhau có ở toàn bộ bề mặt của

    lớp đệm (hình 4.1). Khi thai lớn lên, lông nhau phát triển vượt trội ở cực

    phôi, đĩa đệm phát triển giống hình cây có nhiều nhánh (bush chorion).

    Lông nhau cực đối phôi thoái hóa ở tháng thứ 3 làm cho lá đệm ở phía này

    nhẵn (màng đệm nhẵn). (hình 4.3 và 4.4)

    Khác biệt giữa cực phôi và cực đối phôi của màng đệm là cấu trúc

    của màng rụng, chính là lớp chức năng của nội mạc tử cung, nó được bong

    ra trong suốt thời kỳ sinh sản sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Màng rụng phủ

    đĩa đệm cực phôi là màng rụng đáy, gồm lớp đặc với những tế bào lớn,

    những tế bào màng rụng dự trữ 1 lượng lớn lipid và glycogen. Lớp này, đĩa

    màng rụng liên kết chặt với lớp đệm. Lớp màng rụng phủ cực đối phôi là

    màng rụng bao (hình 4.4. A). Với sự phát triển của túi đệm, lớp này trở nên

  • 46

    căng ra. Rồi sau đó, nó dính sát vào màng rụng thành ở cực đối phôi, xóa đi

    khoang tử cung. Vì vậy, bánh nhau được hình thành từ đĩa đệm cực phôi và

    màng rụng đáy. Còn màng ối và màng đệm hình thành màng nhau

    (amniochorionic membrane) xóa đi khoang đệm (hình 4.4).

    3. NHAU

    3.1. Cấu trúc của bánh nhau

    Bắt đầu tháng thứ 4, bánh nhau có 2 phần: (a) phần thai, được hình

    thành từ đĩa đệm và (b) phần mẹ, được hình thành từ màng rụng đáy (hình

    4.4.B). Ở phía thai, bánh nhau được giới hạn bởi đĩa đệm (hình 4.7); ở phía

    mẹ thì nó được giới hạn bởi màng rụng đáy, đĩa màng rụng thì hầu như

    dính chặt vào bánh nhau. Ở vùng chức năng, nguyên bào nuôi và tế bào

    màng rụng cài vào nhau. Vùng này, được đặc trưng bởi màng rụng và

    những tế bào hợp bào khổng lồ, giàu chất ngoại bào vô định hình. Tại thời

    điểm này, hầu hết tế bào lá nuôi biến dạng. Giữa đĩa đệm và màng rụng là

    hồ máu (khoảng quanh lông nhau) được đổ đầy bởi máu mẹ. Chúng được

    hình thành từ những hốc trong lá nuôi hợp bào. Cây lông nhau phát triển

    vào trong các hồ máu (hình 4.2 và 4.7).

    Trong suốt tháng thứ tư và tháng thứ năm, màng rụng hình thành

    vách ngăn màng rụng, các vách ngăn này hướng vào khoảng trống quanh

    lông nhau nhưng không dính vào đĩa đệm. Chúng có lõi là mô của mẹ và

    được phủ lên bề mặt một lớp hợp bào nuôi, chính lớp hợp bào nuôi tách

    biệt máu mẹ trong hồ máu với các lông nhau của mô thai. Kết quả của việc

    tạo vách này làm bánh nhau được phân chia thành nhiều múi (ngăn) (hình

    4.8). Do các vách ngăn màng rụng không dính vào đĩa đệm nên máu mẹ có

    thể lưu thông qua lại giữa các ngăn khác nhau.

  • 47

    Hình 4.3. Phôi 6 tuần. Túi ối và khoang đệm được mở ra để lộ phôi, minh

    họa sự xuất hiện của nguyên bào nuôi ở cực phôi và ngược lại những lông

    nhau nhỏ ở cực đối phôi. Ống túi noãn hoàng có khuynh hướng dài ra, túi

    noãn hoàng có khuynh hướng thoái hóa.

    Dây rốn

    Ống túi noãn

    hoàng

    Túi noãn hoàng Màng ối Lá đệm

  • 48

    Hình 4.4. Sự dính của các màng thai lên thành tử cung. A. Kết thúc tháng

    thứ 2. Thấy túi noãn hoàng nằm trong khoang đệm, giữa màng ối và màng

    đệm. Tại cực đối phôi, lông nhau thoái hóa (màng đệm nhẵn). B. Cuối

    tháng thứ 3, màng ối và màng đệm sát nhập vào nhau thành màng nhau và

    khoang tử cung bị xóa dần bởi sự lớn lên của khoang ối và cuối cùng màng

    rụng bao và màng nhau dính vào màng rụng thành.

    Khi thai tiếp tục phát triển và lớn lên trong tử cung, bánh nhau

    cũng lớn lên. Nó tăng sự gồ ghề của bề mặt và trải rộng hơn trong tử

    cung, một thai kỳ đủ tháng bánh nhau có thể chiếm từ 15%-30% diện tích

    bề mặt trong lòng tử cung. Sự tăng bề dày của nhau là kết quả của sự phát

    triển cây lông nhau nhưng không ăn sâu vào mô mẹ.

    3.2. Bánh nhau của thai đủ tháng

    Bánh nhau đủ tháng hình đĩa với đường kính khoảng 15-25cm, có bề

    dày khoảng 3cm, nặng khoảng 500-600g (người Việt trung bình khoảng

    470g). Nhau bong ra khỏi thành tử cung khoảng 30 phút sau khi sinh. Bánh

    nhau mới bong, nhìn mặt mẹ có thể thấy rõ 15-20 chỗ phình được gọi là

    múi nhau, phủ bởi 1 lớp màng rụng đáy (hình 4.8). Các rãnh giữa các múi

    nhau chính là các vách ngăn màng rụng.

    Bánh nhau Màng nhau dính vào

    màng rụng thành Màng rụng đáy

    Đĩa đệm

    Khoang

    ối

    Túi noãn

    hoàng

    Khoang

    TC

    Lá đệm

    Màng

    rụng bao

    Khoang

    đệm

    Màng rụng

    thành

    Khoang ối

  • 49

    Mặt thai của bánh nhau được phủ hoàn toàn bởi đĩa đệm. Nhiều động

    mạch và tĩnh mạch lớn tập trung hướng về dây rốn (hình 4.8). Màng đệm

    được phủ bởi màng ối. Đôi khi, cuốngg dây rốn không nằm chính giữa

    bánh nhau mà có thể lệch về một phía. Hiếm khi nằm ở rìa của bánh nhau.

    3.3. Tuần hoàn nhau

    Các ngăn của bánh nhau nhận máu của khoảng 80-100 động mạch

    xoắn đi ra từ đĩa màng rụng và đổ vào các hồ máu (hình 4.7). Áp lực trong

    các động mạch đổ máu giàu oxy sâu vào hồ máu. Khi áp suất giảm, máu

    chảy trở lại đĩa đệm hướng về màng rụng vào đi vào các tĩnh mạch nội mạc

    tử cung (hình 4.7).

    Nhìn chung, hồ máu của bánh nhau trưởng thành chứa khoảng 150ml

    máu, việc đổ đầy máu được lặp đi lặp lại theo chu kỳ khoảng 3-4 lần/phút.

    Máu này di chuyển giữa các lông nhau màng đệm có tổng diện tích tiếp xúc

    là khoảng 4 - 14m2. Tuy nhiên, sự trao đổi chất ở bánh nhau không diễn ra

    ở tất cả các lông nhau mà chỉ có ở những vị trí có các mạch máu của thai

    sát dưới lớp hợp bào phủ bên ngoài. Ở những lông nhau nhỏ, lớp hợp bào

    thường chia nhiều vi lông nhau để tăng diện tích tiếp xúc giữa tuần hoàn

    mẹ và con (hình 4.2. D). Hàng rào máu mẹ - con là màng ngăn cách máu

    mẹ và máu con, nó được cấu tạo bởi 4 lớp: (a) lớp nội mô mạch máu của

    con, (b) mô liên kết lõi lông nhau, (c) lớp lá nuôi tế bào, (d) lớp lá nuôi hợp

    bào (hình 4.2.C). Tuy nhiên, từ tháng thứ 4 trở đi hàng rào này mỏng hơn

    làm cho lớp tế bào nội mô mạch máu tiếp xúc sát với lớp hợp bào giúp tăng

    khả năng trao đổi chất. Đôi khi người ta gọi nó là hàng rào nhau thai, nó thì

    không là hàng rào thật sự vì trở về sau có nhiều chất đi qua màng này một

    cách tự do hơn.

    3.4. Chức năng của bánh nhau

    Chức năng chính của bánh nhau là: (a) trao đổi chất, khí và những

    sản phẩn chuyển hóa giữa máu mẹ và con, (b) sản xuất hormon.

  • 50

    Hình 4.5. Thai 19 tuần trong tử cung, hình còn cho thấy dây rốn và bánh

    nhau. Lòng tử cung được lấp đầy. Thành của tử cung có 1 nhân xơ.

    Thành tử cung

    và màng thai Nhau

    Dây rốn

    Nhân xơ tử

    cung

  • 51

    Hình 4.6. Thai 23 tuần trong tử cung. Đã cắt bỏ 1 phần thành tử cung và

    màng ối. Trong hình chỉ mạch máu bánh nhau hội tụ về dây rốn. Dây rốn

    quấn 1 vòng chặt quanh bụng, có khả năng gây ra bất thường ở thai nhi.

    Mạch

    đĩa

    đệm

    Cổ tử

    cung Dây rốn

  • 52

    Hình 4.7 Bánh nhau ở giai đoạn nửa sau thai kỳ. Các múi bánh nhau được

    chia ra bởi vách màng rụng. Hầu hết máu quanh lông nhau trở về vòng

    tuần hoàn mẹ bởi những tĩnh mạch nội mạc. Một phần nhỏ đi vào các múi

    lân cận. Khoảng quanh lông nhau được lót bởi lá nuôi hợp bào.

    Hình 4.8 Bánh nhau thai đủ tháng. A. Mặt thai, đĩa đệm và dây rốn được

    phủ bởi màng ối. B. Mặt mẹ có các múi nhau. Có 1 vùng màng rụng được

    bóc đi. Mặt mẹ của bánh nhau luôn được kiểm tra cẩn thận lúc sanh,

    thường có một hoặc nhiều múi nhìn hơi trắng bởi vì việc hình thành mô sợi

    quá mức và nhồi máu của một nhóm hồ máu.

    3.4.1. Trao đổi khí

    Trao đổi khí như là O2, CO2, CO được thực hiện bằng khuếch tán.

    Thai lấy 20-30ml O2 trong 1 phút từ vòng tuần hoàn mẹ, việc cung cấp O2

    Vách màng rụng

    ĐM xoắn Đĩa màng rụng TM nội mạc

    Màng ối Đĩa đệm Bó mạch rốn Mạch đĩa

    đệm

    Màng ối

    Dây rốn

    Đĩa đệm

    Múi nhau Màng rụng đáy đã lột bỏ

    Mạch đĩa

    đệm

  • 53

    này bị ngắt thì dẫn đến thai chết. Dòng chảy của máu ở bánh nhau quyết

    định việc cung cấp O2, lượng O2 qua thai trong những tháng đầu phụ thuộc

    vào sự phân tán, không phải khuếch tán.

    3.4.2. Trao đổi chất dinh dưỡng và ion

    Khả năng miễn dịch bắt đầu phát triển vào giai đoạn sau của tam cá

    nguyệt thứ nhất. Thai có thể nhận kháng thể từ mẹ (IgG) vào tuần thứ 14.

    Giai đoạn này thai tăng miễn dịch thụ động chống lại các bệnh nhiễm

    khuẩn. Lúc mới sinh bé mới bắt đầu sản xuất IgG và đạt hiệu quả tối đa khi

    bé 3 tuổi.

    Tương quan lâm sàng

    Ly giải nguyên hồng cầu thai và phù thai

    Hơn 400 kháng nguyên hồng cầu đã được xác định và hầu hết không

    gây ra ảnh hưởng trong suốt thai kỳ, một số ít có thể kích thích đáp ứng

    miễn dịch của mẹ sinh kháng thể chống lại tế bào máu thai. Tiến trình này

    là một ví dụ về isoimmunization, và nếu sự đáp ứng của mẹ có hiệu quả thì

    kháng thể sẽ tấn công và làm ly giải hồng cầu thai gây tán huyết ở trẻ sơ

    sinh. Bệnh này đôi khi được gọi là ly giải nguyên hồng cầu bởi vì ly giải

    quá nhiều tế bào máu kích thích việc sản sinh nhiều hồng cầu non gọi là

    nguyên hồng cầu. Trong 1 vài trường hợp, thiếu máu trở nên rất nghiêm

    trọng gây phù thai dẫn đến thai chết (hình 4.9). Hầu hết trường hợp nặng là

    do kháng nguyên từ nhóm máu hệ CDE (Rhesus). Kháng nguyên D hay Rh

    là nguy hiểm nhất, nó sẽ biểu hiện sớm hơn và nghiêm trọng hơn ở những

    lần mang thai kế tiếp. Đáp ứng kháng thể xảy ra trong những trường hợp

    thai có Rh+ còn mẹ thì Rh- và tế bào hồng cầu của con đi vào hệ tuần

    hoàn của mẹ do những vùng chảy máu nhỏ trên bề mặt của lông nhau lúc

    sinh. Phân tích nước ối thấy có bilirubin, là sản phẩm tiêu hủy hemoglobin,

    để đánh giá mức độ ly giải hồng cầu. Điều trị cho những đứa trẻ mắc bệnh

    liên quan đến truyền dịch cho thai trong tử cung hoặc ở trẻ sơ sinh. Tuy

  • 54

    nhiên, bệnh thì có thể được ngăn chặn bởi việc xác định người phụ nữ có

    nguy cơ bằng khảo sát kháng thể và điều trị với kháng D-immunoglobulin.

    Kháng nguyên từ nhóm máu ABO cũng có thể gây đáp ứng kháng

    thể nhưng ảnh hưởng thì không nhiều như nhóm Rh. Khoảng 20% trẻ sơ

    sinh không tương hợp nhóm máu hệ ABO của mẹ, nhưng chỉ 5% có ảnh

    hưởng trên lâm sàng. Những trường hợp này có thể điều trị 1 cách hiệu quả

    sau khi sinh.

    3.4.3. Sản xuất hormon

    Cuối tháng thứ 4, bánh nhau sản xuất progesterone với 1 lượng đủ để

    có tác dụng duy trì thai kỳ nếu hoàng thể thoái hóa. Có thể, tất cả hormon

    được tổng hợp bởi hợp bào nuôi. Ngoài ra, bánh nhau còn sản xuất 1 lượng

    hormon estrogen, chủ yếu là estriol, cho đến trước khi kết thúc thai kỳ thì

    đạt mức tối đa. Mức estrogen này kích thích tử cung và tuyến vú phát triển.

    Trong suốt hai tháng đầu của thai kỳ, hợp bào nuôi cũng sản xuất ra

    hCG (human chorionic gonadotropin) để duy trì hoàng thể. Hormon này

    được tiết vào trong nước tiểu của mẹ vào giai đoạn đầu của thai kỳ, sự hiện

    diện của nó được dùng góp phần chẩn đoán có thai. Một hormon khác nữa

    được sản xuất bởi bánh nhau là somatomammotropin. Nó giống như

    hormon tăng trưởng giúp thai ưu tiên thu nhận glucose từ máu mẹ và đôi

    khi làm mẹ bị tiểu đường. Nó cũng kích thích phát triển vú để tiết sữa.

    Tương quan lâm sàng

    Hàng rào nhau thai

    Hầu hết hormon của mẹ không qua được nhau thai. Hormon có thể

    qua là thyroxine nhưng chỉ với tỉ lệ thấp. Một vài progestin tổng có thể qua

    nhau thai nhanh chóng và làm cho thai chuyển từ giới nam thành nữ. Thậm

    chí nguy hiểm hơn là dùng estrogen tổng hợp – diethylstilbestrol cũng dễ

    dàng qua nhau thai. Hỗn hợp này gây ra ung thư biểu mô của âm đạo và bất

    thường của tinh hoàn thai nhi.

  • 55

    Mặc dù hàng rào nhau thai được xem như là một cơ chế bảo vệ chống

    lại những yếu tố nguy hại, nhưng nhiều virus như rubella, cytomegalovirus,

    Coxsackie, variola, varicella, measles và vius bại liệt – có thể dễ dàng qua

    nhau thai. Một vài virus có thể gây nhiễm làm chết tế bào và dị tật bẩm

    sinh.

    4. MÀNG ỐI VÀ DÂY RỐN

    Tại tuần thứ 5, các cấu trúc đi theo cuống phôi nguyên thủy(xem hình

    4.10A.C): (a) ống mô liên kết, chứa đựng niệu nang và mạch rốn gồm 2

    động mạch và 1 tĩnh mạch; (b) ống noãn hoàng (Vitelline duct), kèm theo

    mạch máu của noãn hoàng; (c) kênh liên kết trong phôi và khoang ngoài

    phôi là khoảng giữa màng ối và đĩa đệm (hình 4.10B)

    Trong suốt thời kỳ phát triển, khoang ối lớn lên nhanh chóng làm

    hẹp dần khoang đệm và khoang ối bắt đầu bao lấy cuống phôi nguyên thủy,

    rồi sau đó phát triển thành dây rốn nguyên thủy (hình 4.10). Phần xa phôi,

    dây rốn chứa đựng ống túi noãn hoàng và các mạch máu rốn. Đoạn gần, nó

    chứa cả một vài quai ruột và vết tích của niệu nang (hình 4.10). Túi noãn

    hoàng được tìm thấy trong khoang ối được liên kết với dây rốn bởi ống của

    nó. Kết thúc tháng thứ 3, màng ối được mở rộng đến tiếp xúc với màng

    đệm, xóa đi khoang đệm, túi noãn hoàng co lại và tiêu biến từ từ.

    Khoang bụng tạm thời quá nhỏ so với sự phát triển nhanh của quai

    ruột nên một số chúng bị đẩy ra khoảng ngoài phôi trong dây rốn. Những

    quai ruột bị đẩy ra với hình thức thoát vị rốn sinh lý. Gần kết thúc tháng

    thứ 3, quai ruột rút vào trong mình phôi, và khoang trong dây rốn bị tiêu

    biến, có 1 chất nền bao quanh các mạch máu của dây rốn được gọi là thạch

    Wharton. Mô này rất giàu proteoglycan có nhiệm vụ bảo vệ các lớp mạch

    rốn. Thành của động mạch có cơ và có chứa nhiều sợi chun có khả năng co

    dãn tốt khi dây rốn co dãn.

  • 56

    Hình 4.10. A. Phôi 5 tuần minh họa cấu trúc cuống phôi nguyên thủy. B.

    Dây rốn nguyên thủy lúc thai 10 tuần. C. Cắt ngang qua vòng dây rốn. D.

    Cắt ngang qua dây rốn nguyên thủy thấy quay ruột nhô ra trong dây rốn.

    Tương quan lâm sàng

    Bất thường dây rốn

    Lúc sinh, dây rốn có đường kính khoảng 2cm và dài 50-60cm. Nó thì

    ngoằn ngoèo dễ gây thắt nút. Dây rốn dài có thể quấn cổ của thai, sẽ có ảnh

    hưởng khi phần còn lại ngắn có nguy cơ sanh khó do sức kéo thai về phía

    bám của bánh nhau.

    Khoang

    ối

    Ống túi

    noãn hoàng

    Khoang

    ngoài phôi

    Ống niệu

    nang

    Mạch rốn

    Khoang

    ngoài phôi

    Quai ruột

    Màng ối

    Túi noãn

    hoàng

    Quai ruột

    Mạch ống –

    túi noãn

    hoàng

    Dây

    rốn

    NT

  • 57

    Bình thường có 2 động mạch và 1 tĩnh mạch dây rốn. Tuy nhiên, có

    khoảng 1/200 trẻ sơ sinh chỉ có 1 động mạch rốn và trong số này có khoảng

    20% có dị tật tim và mạch bẩm sinh. Mất động mạch rốn là do thiếu sót

    trong quá trình tạo hoặc do thoái hóa sớm trong sự phát triển thai.

    Dây màng ối

    Việc xé rách màng ối tạo ra những dây màng ối mà có thể quấn vòng

    một bộ phận của thai như là chi hoặc ngón, siết chặt gây ra cắt cụt đoạn

    xa…Việc tạo dây màng ối có thể do nhiễm trùng hoặc nhiễm độc ảnh

    hưởng đến thai và màng thai hoặc cả hai. Dây màng ối hình thành từ màng

    ối, như mô sẹo, siết chặt các cấu trúc của thai.

    5. SỰ THAY ĐỔI CỦA BÁNH NHAU Ở GIAI ĐOẠN KẾT THÚC

    THAI KỲ

    Thời điểm kết thúc thai kỳ, nhiều sự thay đổi xảy ra ở bánh nhau có

    thể làm giảm bớt sự trao đổi chất giữa hai vòng tuần hoàn. Những thay đổi

    này bao gồm: (a) tăng mô sợi trong lõi của lông nhau, (b) dày màng đáy

    mao mạch thai, (c) trao đổi chỉ có tác dụng ở các mao mạch nhỏ của lông

    nhau, (d) lắng đọng mô sợi trên bề mặt của lông nhau trong vùng chức

    năng và trong đĩa đệm. Mô sợi được hình thành quá mức gây ra nhồi máu ở

    một vài múi nhau, nhìn thấy hơi trắng.

    Hình 4.11 Bất thường

    về chi gây ra bởi dây

    màng ối. A Chi khuyết

    vòng. B Cụt chi

  • 58

    6. DỊCH ỐI

    Khoang ối được lấp đầy bởi dịch lỏng và sạch được sản xuất ra bởi

    những tế bào màng ối, nguyên liệu được lấy từ máu mẹ. Lượng dịch ối

    tăng từ 30ml (tuần 10) đến 450ml (tuần 20) và đến 800-1000ml (tuần 37).

    Trong suốt những tháng đầu của thai kỳ, phôi treo lơ lửng bởi đây rốn của

    nó trong dịch này, vai trò là cái đệm bảo vệ quan trọng. Dịch có chức năng

    của dịch ối là: (a) giảm sóc (b) ngăn không cho sự kết dính của phôi với

    màng ối, và (c) cho phép thai cử động dễ dàng. Thể tích dịch ối được thay

    đổi mỗi 3 giờ. Từ đầu tháng thứ 5, thai nuốt nước ối khoảng 400ml/ngày.

    Nước tiểu của thai cũng được thêm vào trong dịch ối ở tháng thứ 5 nhưng

    hầu như chỉ là nước, khi bánh nhau có chức năng thì sẽ thải được những

    chất chuyển hóa. Trong suốt quá trình chuyển dạ, dịch ối trong màng hình

    thành đầu ối giúp cổ tử cung xóa mở.

  • 59

    TÓM TẮT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI THAI

  • 60

  • 61

  • 62

    CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ

    1. Nhau được hình thành từ phần nào của mẹ và của con?

    2. Tại sao máu thai và máu mẹ không hòa lẫn vào nhau?

    3. Nhau phát triển như thế nào từ khi hình thành đến lúc sinh ra?

    TÀI LIỆU THAM KHẢO:

    1. PGS.Nguyễn Trí Dũng,. (2009). Phôi thai học đại cương. Nhà xuất

    bản khoa học kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Đỗ Kính và cộng sự. (2001). Phôi thai học người. Nhà xuất bản Y

    học.

    3. T.W. Sadler. Langman’ s medical embryology tenth edition, L.

    Williams & Wikins