Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế PHẦN NỘI DUNG Chương 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN 1. Một số khái niệm: Trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định phải tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tập thể và kinh tế hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, kinh tế tư tư bản nhân trong bộ phận kinh tế tư nhân cũng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. theo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “ kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Dưới đây là một số khái niệm liên quan. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và có thuê mướn lao động, tuy nhiên, thu nhập chủ yếu vẫn là dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. 2. Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản của kinh tế tư bản tư nhân Trang 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TƯ BẢN TƯ NHÂN
1. Một số khái niệm:
Trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định phải tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần.
Đó là các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tập thể và kinh tế
hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, kinh tế tư tư
bản nhân trong bộ phận kinh tế tư nhân cũng đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế. theo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “
kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh
tế”. Dưới đây là một số khái niệm liên quan.
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và có thuê mướn lao động, tuy nhiên, thu nhập chủ yếu vẫn là dựa vào sức
lao động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức
lao động làm thuê.
2. Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản của kinh tế tư bản tư nhân
Trang 1
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
2.1 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra
thành lập và làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài
sản, đồng thời là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp trong doanh nghiệp tư nhân thường tự mình làm giám
đốc và trực tiếp quản lý các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên,
có những trường hợp chủ doanh nghiệp không trực tiếp quản lý mà thuê một
người khác làm giám đốc và gián tiếp quản lý. Vì vậy, Chủ doanh nghiệp luôn
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp mình cả khi doanh nghiệp
có lợi nhuận cũng như thua lỗ. Nếu trường hợp doanh nghiệp hoạt động có lợi
nhuận thì chủ doanh nghiệp được hưởng toàn bộ, và ngược lại, nếu doanh nghiệp
bị thua lỗ thì chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sàn của
mình.
2.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên
góp vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
bằng tài sản của mình trong phạm vi vốn đã góp. Vì thế, trong công ty trách
nhiệm hữu hạn có sự phân tách tài sản chung và riêng. Tài sản chung chính là
tổng tài sản của công ty do các thành viên đóng góp. Tài sản riêng chính là tài
sản của mỗi thành viên trong công ty đã đóng góp và họ được hưởng mọi quyền
lợi liên quan đồng thời phải chịu trách nhiệm trên phần vốn đã góp. Tuy nhiên,
đôi khi công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có một thành viên, trong trường hợp này
Trang 2
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
chủ doanh nghiệp có vai trò giống như chủ doanh nghiệp trong doanh nghiệp tư
nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu ra
công chúng để huy động vốn. Trong quá trình chuyển nhượng cổ phiếu sẽ ưu
tiên cho các thành viên trong công ty mua trước và sau đó nếu các thành viên
này không mua hoặc không mua hết thì cổ phiếu đó có thể được chuyển nhượng
ra bên ngoài công ty. Đối với trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên thì chủ doanh nghiệp có quyền bán một phần hay toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp cho cá nhân hay tổ chức khác.
2.3 Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công
ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cỏ phần
gọi là cổ đông. Cổ đông có trách nhiệm chịu toàn bộ trách nhiệm về khoản nợ
của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Trong suốt quá trình hoạt động của công ty cổ phần ít nhất phải có ba
thành viên tham gia công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn cho nên có
sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy việc quy định số thành viên tối thiểu
phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ
phần. ở hầu hết các nước đều có quy định số thành viên tối thiểu của công ty cổ
phần.
Phần vốn góp (cổ phần) của các thành viên được thể hiện dưới hình thức
cổ phiếu. người có cổ phiếu có thể chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của công ty.
Trang 3
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Công ty cổ phần có thể phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra
công chúng theo quy định của pháp luật để huy động vốn.
2.4 Công ty hợp doanh
Công ty hợp doanh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty
đối nhân, trong đó ít nhất hai thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại
dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ
của công ty. Do đó, ngoài các thành viên của công ty hợp doanh có thể có thành
viên góp vốn.
Thành viên hợp doanh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín
nghề nghiệp, phải chịu rất ít ràng buộc của pháp luật. Về cơ bản, các thành viên
có quyền tự thỏa thuận về việc quản lý, diều hành công ty. Tuy nhiên, chỉ có
thành viên hợp doanh mới có quyền quản lý công ty còn thành viên góp vốn thì
không có quyền này.
Công ty hợp doanh có hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty bao gồm tất cả các thành viên hợp doanh. Khi tiến hành họp công ty,
Hội đồng thành viên và các thành viên hợp doanh có quyền ngang nhau trong
biểu quyết mà không phụ thuộc vào giá trị phần vốn góp. Đây là điểm khác biệt
giữa quyền của các thành viên trong việc quản lý công ty của công ty hợp doanh
và công ty cổ phần.
Trong quá trình hoạt động của công ty, các thành viên của công ty hợp
doanh phân công nhau đảm nhiệm các chức trách quản lý và kiểm soát công ty
đồng thời cử người làm Giám đốc công ty. Khi đó, giám đốc thực hiện nhiệm vụ
điều hành công việc trong phân công, điều hòa, phối hợp công việc của các thành
viên hợp doanh và thực hiện các công việc khác theo ủy quyền của các thành
viên hợp doanh.
Trang 4
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
3. Vai trò của kinh tế tư bản tư nhân
3.1 Kinh tế tư bản tư nhân thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định phải xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần gồm kinh tế tư nhân (gồm kinh tế tư bản tư
nhân), kinh tế tập thể, kinh tế Nhà nước, kinh tế hỗn hợp, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Do đó, kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận không thể
thiếu quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động,
nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá
trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư bản tư nhân ngày
càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hóa tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều
sản phẩm của khu vực kinh tế tư bản tư nhân được xuất khẩu ủy thác qua doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế tư bản tư nhân ngày càng phát triển và chiếm một bộ phận lớn
trong nền kinh tế. Nó đã thu hút được nhiều lao động ở nông thôn trong các
ngành kinh tế nhất là công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa
phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
3.2 Kinh tế tư bản tư nhân góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế.
Kinh tế tư bản tư nhân cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ
để thỏa mãn nhu cầu về đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do
quy mô nhỏ phù hợp với năng lực quản lý của các hộ gia đình nên đã phát triển
trong các tầng lớp dân cư.
Trang 5
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư bản tăng nhanh và chiếm
số lượng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước. Tính đến năm 2010, lĩnh
vực kinh tế này có hơn 2.350 cơ sở kinh doanh và hơn 11.500 hộ kinh doanh.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của các doanh nghiệp tư nhân nói chung
và kinh tế tư bản tư nhân nói riêng tăng lên đáng kể.
Chính phủ đã sử dụng kinh tế tư bản tư nhân làm công cụ để thực hiện
mục tiêu kích cầu vì đây là lĩnh vực nhạy bén với thị trường nhất. Theo thống kê
thì nền kinh tế Việt Nam muốn tăng trưởng 1% GDP thì cần tăng trưởng tiêu
dùng từ 2,1% đến 2,2% (gồm cho cả tiêu dùng cho đời sống và tiêu dùng cho sản
xuất). Do đó, khi muốn kích cầu, Chính phủ cần tác động vào lĩnh vực kinh tế tư
bản tư nhân giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế này mở rộng sản xuất,
làm cho tổng cầu tăng nhanh. Chính vì vậy, nó đã làm cho các yếu tố tiêu dùng
cho sản xuất đầu gia tăng, đồng thời thu nhập của người lao động tang, giảm tỷ
lệ thất nghiệp.
Ngày nay, lĩnh vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển rất mạnh và rất đa
dạng trong nhiều ngành. Nó đã tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu. Chính vì vậy, nó đã thúc đẩy quá trình tiêu dùng trong xã hội
phát triển khi doanh nghiệp cần sử dụng các nguyên vật liệu phục vụ sản xuất,
người dân tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra cho nên thúc đẩy
mức tiêu dùng xã hội tăng rất nhanh. Như vậy, kinh tế tư bản tư nhân đóng vai
trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
3.3 Kinh tế tư bản tư nhân đã huy động vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo nhiều
việc làm và xóa đói giảm nghèo trong các tầng lớp dân cư.
Trang 6
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Các công ty cổ phần trong lĩnh vực kinh tế tư bản tư nhân có quyền phát
hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp góp phần mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh và phát triển.
Kinh tế tư bản tư nhân sử dụng một số lượng lớn người lao động. Do vậy,
việc thành lập ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân đã tạo nhiều cơ hội cho
người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cho nhân
dân, ổn định xã hội.
Vì mục đích lợi nhuận nên các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tư bản
tư nhân đã không ngừng cải tiến, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến trên thế
giới. Khi công nghệ phát triển đòi hỏi tay nghề lao động phải được nâng cao cho
phù hợp. Điều này đã góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xóa đói giảm nghèo.
Việc các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển từ nông
thôn cho đến thành thị đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao
động. Theo kết quả điều tra, năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành
phố Hồ Chí Minh đạt 2.534 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước
là 1024 USD/năm, mục tiêu đến năm 2010 là 3.000 USD/năm, trong khi GDP
bình quân đầu người cả nước khoảng 1.050-1.100 USD/năm.
3.4 Kinh tế tư bản tư nhân góp phần tăng ngân sách Nhà nước đồng thời góp
phần giữ vững ổn định kinh tế - xã hội của Đất nước.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, kinh tế tư bản tư nhân được thừa nhận, nó
đã phát triển nhanh và mở rộng trong nhiều ngành, nhiều khu vực kinh tế. Tính
đến năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, chiếm khoảng 7,3% tổng thu ngân sách
tăng 12,5% so với năm 1999. Năm 2001, kinh tế tư bản tư nhân đã nộp ngân
Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố Hồ
Chí Minh có hạ tầng cơ sở được đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới
nhiều. Trong công cuộc xây dựng, phát triển đô thị và nông thôn, hệ thống hạ
tầng kỹ thuật đóng vai trò quan trọng, tạo dựng nền tảng cho sự phát triển bền
vững.
Về quy hoạch: Trong thời gian qua, thành phố tiếp tục đẩy mạnh, nâng
cao chất lượng công tác quy hoạch. Công tác quy hoạch thành phố gắn với quy
hoạch vùng, quy hoạch xây dựng gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tổ
chức thi quy hoạch - kiến trúc, thiết kế đô thị, thuê tư vấn quốc tế lập đồ án quy
hoạch. Trên cơ sở quy hoạch xây dựng vùng thành phố Hồ Chí Minh, thành phố
đã xây dựng và được Chính phủ phê duyệt, đang triển khai thực hiện Đồ án điều
chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, xây
dựng quy định quản lý kiến trúc đô thị,… là cơ sở để tiến hành đồng bộ các giải
pháp xử lý căn cơ kết cấu hạ tầng đô thị về giao thông, cấp nước, thoát nước, cải
thiện môi trường; bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp,
đất vườn, ao liền kề đất ở trong khu dân cư; chủ động phối hợp với các bộ,
ngành Trung ương tiến hành di dời, phát triển hệ thống cảng; tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm trong quản lý quy hoạch.
Về Giao thông vận tải: Mạng lưới giao thông vận tải ở thành phố Hồ Chí
Minh rất đa dạng. Nơi đây có đầy đủ các loại giao thông như đường sắt, đường
hàng không, đường biển, đường bộ. Thành phố đã cải tạo hầu hết các con đường
trong nội thành, đưa vào sử dụng cầu Thủ Thiêm, đường hầm Thủ Thiêm nối
Thủ Thiêm với nội thành, đường cao tốc TP.HCM - Trung Lương đã nối vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình
Trang 24
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Dương, Bình Phước) với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nâng cấp các Cảng
biển, phát triển cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực hàng không ….
Các công trình xã hội: Thành phố đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đưa vào
sử dụng nhiều công trình giao thông, cấp nước, thoát nước, môi trường. Các
chương trình sửa chữa, nâng cấp và xây mới chung cư hết hạn sử dụng, chương
trình nhà ở xã hội, chương trình xây dựng 1 triệu m² nhà lưu trú của công nhân,
chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên, gắn với đầu tư phát triển dịch vụ đô
thị (cấp điện, nước sạch, viễn thông, xử lý rác,...) đã góp phần giải quyết nhu cầu
nhà ở của nhân dân, công nhân, sinh viên; khẩn trương chuẩn bị khởi công các
dự án xây dựng hệ thống đường sắt đô thị (tuyến Metro số 1, Tramway,
Monorail,...).
Môi trường: Công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường được
chú trọng và có tiến bộ. Gắn nội dung bảo vệ môi trường vào quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, các chương trình, dự án đầu tư. Triển khai các
dự án thoát nước, xử lý chất thải nguy hại; hoàn thành cơ bản việc di dời các cơ
sở sản xuất ô nhiễm môi trường vào khu quy hoạch; chủ động phối hợp với các
tỉnh liên quan xây dựng và triển khai Đề án bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai để
ngăn chặn ô nhiễm nguồn nước, đáp ứng nhu cầu cấp nước sinh hoạt và sản xuất
- kinh doanh.
Như vậy, đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đầu mối xuất
nhập khẩu lớn nhất của cả nước với hệ thống cảng biển khá phát triển. Việc hình
thành các hệ thống giao thông quan trọng như tuyến đường Đông – Tây, đường
Xuyên Á, cũng như việc mở rộng các tuyến đường trọng yếu trên địa bàn Thành
phố, … đã mở ra cơ hội gia tăng hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn
Trang 25
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh, do tổng mức lưu chuyển hàng hoá gia tăng cũng như
gia tăng khách du lịch bằng đường bộ.
Nếu so với các doanh nghiệp ở Hà Nội, cảng biển là một lợi thế đối với
các doanh thuộc kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây có
cảng Cát Lái, cảng Sài Gòn,... đã tạo điều kiện vận chuyển hàng hóa và giao
thương kinh tế đến các khu vực kinh tế trong và ngoài nước.
Nếu so với các doanh nghiệp ở Hải Phòng, giao thông đường sắt là lợi thế
đối với các doanh thuộc kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, giao thông đường hàng không là lợi thế đối với các doanh
thuộc kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh đối với các doanh nghiệp
ở tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương.
Cảng biển cũng là lợi thế cạnh tranh các doanh thuộc kinh tế tư bản tư
nhân ở thành phố Hồ Chí Minh đối với các doanh nghiệp ở tỉnh Bình Dương.
Giao thông đường sắt là lợi thế cạnh tranh các doanh thuộc kinh tế tư bản
tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh đối với các doanh nghiệp ở tỉnh Cần Thơ.
Với lợi thế về hạ tầng cơ sở như trên giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực
kinh tế tư bản tư nhân tiết kiệm được nhiều chi phí trong sản xuất kinh doanh,
đưa hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng, thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hóa phát triển.
2.2.3 Lợi thế về khoa học công nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh được coi là trung tâm của khoa học kỹ thuật hiện
đại nhất trong nước, do đó, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế tư bản tư
nhân có lợi thế trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản
xuất kinh doanh hơn các địa phương khác.
Trang 26
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh được coi là thị trường lớn cho ngành dịch vụ
CNTT phát triển, là nơi hoạt động của nhiều doanh nghiệp CNTT lớn và tập
trung nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước. TP.HCM xếp thứ 4 trong “top
50” thành phố mới nổi hấp dẫn nhất về gia công phần mềm quốc tế do Global
Services bình chọn năm 2009. Trong khi đó, dưới góc độ đánh giá về các thành
phố là nơi an toàn khi gia công phần mềm dịch vụ thì TP.HCM xếp thứ 34/50 do
Brown-Wilon Group xếp hạng. Nếu giữ được tốc độ tăng trưởng 35%/năm (theo
số liệu tăng trưởng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam) thì trong ba
năm tới TP.HCM sẽ đạt doanh thu ngang với thành phố Penang của Malaysia,
tức khoảng 560 triệu đô-la Mỹ (năm 2009). Với một địa phương có thế mạnh về
công nghệ thông tin như thế, các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tư bản tư
nhân mạnh dạn ứng dụng vào sản xuất kinh doanh để giảm chi phí, giảm giá
thành tăng năng lực cạnh tranh. Đây chính là lợi thế so sánh đối với tất cả các
tỉnh thành trong cả nước, trong đó có cả Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Bình Dương, Đồng Nai và Cần Thơ.
2.2.4 Nguồn nhân lực cũng là một lợi thế so sánh của kinh tế tư bản tư nhân ở
thành phố Hồ Chí Minh.
Theo số liệu thống kê dân số tính đến ngày 01/04/2009, tình hình dân số
của các địa phương như sau:
Địa phương Diện tích (km2) Dân số (người ) TP Hồ Chí Minh 2.095,23 7.162.864Hà Nội 3.324,92 6.448.837Hải Phòng 1521,95 1.837.302Đà Nẵng 1.255,53 795.670Bình Dương 2.681,01 1.482.636Đồng Nai 5.860,00 2.483.211
Trang 27
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Cần Thơ 1.389,60 1.187.089Tính đến ngày 01/04/2009, dân số thành phố Hồ Chí Minh là 7.162.864
người, chiếm 8,34% dân số Việt Nam. Đây chính là một lực lượng lao động dồi
dào để cung ứng cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế tư bản tư nhân nói
riêng và các thành phần kinh tế nói chung. Cơ sở đào tạo dạy nghề phát triển
mạnh. Đến cuối năm 2006, toàn thành phố có 320 cơ sở dạy nghề chính thức
đăng ký hoạt động, tăng 1,9 lần so với đầu năm 2001. Trong đó có 28 trường
trung cấp nghề, 18 trường trung cấp chuyên nghiệp, 12 trường cao đẳng có dạy
nghề, 4 trường đại học có dạy nghề, 72 trung tâm dạy nghề, 7 trung tâm dịch vụ
việc làm, 3 trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, 6 trung tâm khác, 170 cơ
sở dạy nghề kinh doanh nhỏ.
Mạng lưới giáo dục phân bố khắp 24 quận huyện, có quy mô đào tạo hàng
năm khoảng 35.000 học sinh công nhân kỹ thuật và 320.000 học viên ngắn hạn.
Ngoài ra thành phố đã khai thác có hiệu quả hệ thống trường Trung ương
đóng tại thành phố để góp phần đào tạo công nhân kỹ thuật. Hàng năm học sinh
thành phố do các trường Trung ương đào tạo xấp xỉ số do các trường thành phố
đào tạo.
Bên cạnh đó, thành phố đang thí điểm chương trình liên kết với các trường
Trung ương đào tạo công nhân kỹ thuật (CNKT) cho thành phố (3 trường với
450 CNKT).
2.2.5 Lợi thế về chính sách thu hút đầu tư
Các chính sách về đất đai, nộp thuế, và áp dụng giao dịch điện tử trong
khai báo thuế cũng như giảm thủ tục đăng ký kinh doanh cũng góp phần tạo lợi
thế cho các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh
phát triển hơn các địa phương khác.
Trang 28
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
2.2.6 Lợi thế về ngành kinh tế
Bên cạnh các lợi thế về nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở, xã hội và thị
trường, thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế vào các ngành như các ngành công
nghiệp (gồm Chế biến lương thực, thực phẩm, dệt may, da giày, nhựa và hoá
chất, cơ khí, điện tử, xây dựng) và các ngành dịch vụ (gồm thương mại, xuất
nhập khẩu, du lịch, tư vấn, phần mềm; tài chính – ngân hàng, khoa học – công
nghệ; viễn thông, giáo dục và y tế).
Về lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tính đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí
Minh vẫn sẽ là một trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước và của Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam. Kinh tế tư bản tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh
tập trung phát triển các ngành cơ khí gia dụng, sản xuất phương tiện vận tải, chế
tạo máy, chế tạo thiết bị công nghệ, điện tử và các ngành công nghệ cao khác
vừa theo chiều rộng, vừa theo chiều sâu, tạo tốc độ tăng giá trị sản ượng cao
nhưng đồng thời cũng nâng dần tỷ lệ giá trị gia tăng trong xuất khẩu. Trong nội
bộ ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh, sự tăng trưởng được đóng
góp bởi công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, xây dựng, sản xuất và phân
phối điện, nước, khí đốt, trong đó quan trọng nhất là công nghiệp chế biến với tỷ
trọng chiếm đến 86,2% giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp.
Về ngành dịch vụ, Thành phố Hồ Chí Minh không những chỉ phục vụ cho
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh mà còn cho cả khu
vực rộng lớn. Với việc hình thành mạng lưới tiêu thụ hàng hoá cùng với sức
mạnh về tài chính, thương nghiệp Thành phố Hồ Chí minh chi phối hầu hết hoạt
động sản xuất kinh doanh của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tiêu thụ hàng hoá lớn nhất của cả nước.
Với số dân trên 7 triệu người vào năm 2010 ở thành phố Hồ Chí Minh và mức
Trang 29
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
sống tương đối cao (thu nhập bình quân/ đầu người vào năm 2010 là trên
3.000USD), nên đây là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của kinh tế tư bản tư
nhân.
Với lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ cũng như
nguồn nhân lực đã cho thấy các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư bản tư nhân ở
hành phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh tương lai.
PHẦN KẾT LUẬN
Sau 25 năm thống nhất đất nước và sau 20 năm đổi mới, kinh tế tư bản tư
nhân ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung từng bước được
thừa nhận và ngày càng phát triển nhanh hơn. Tất cả các loại hình doanh nghiệp
cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và các cơ sở kinh
doanh cá thể, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và thu
ngân sách. Hiện nay, Việt Nam có hơn 400.000 doanh nghiệp đã được đăng ký
hoạt động và đóng góp khoảng 49% vào GDP của toàn xã hội. Trong năm 2010,
tông san phâm (GDP) trên đia ban Thành phố Hồ Chí Minh ước đat 414.068 ty
Trang 30
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
đông, tăng 11,8% so năm 2009. GDP của khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) từ chiếm 45,6% tổng GDP năm 2006 đã tăng
lên khoảng 48% trong năm 2010. Khu vực kinh tế tư nhân cũng tạo ra 50,2%
việc làm của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân khu vực này đạt trên 10%,
cao hơn mức 8% của cả nền kinh tế giai đoạn 2006 – 2010. Như vậy, thành phần
kinh tế tư bản tư nhân có vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội
của Đất nước.
Các chính sách mà thành phố Hồ Chí Minh thực hiện để phát triển kinh tế
tư bản tư nhân đều nằm trong các chương trình chung của Chính phủ nước ta.
Các chính sách diễn tiến phức tạp từ chỗ muốn triệt tiêu, xóa bỏ loại hình kinh tế
này chuyển sang chấp nhận và cuối cùng khuyến khích phát triển. Điều này
chứng tỏ tầm quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm, động viên nguồn vốn,
khai thác tài nguyên làm ra nhiều của cải phục vụ nâng cao đời sống và đóng góp
cho đất nước.
Các chính sách kinh tế trong những năm 1975 đến năm 1986 đã đem lại bài
học quý báu cho Đảng ta. Đó là bài học về cách nhìn nhận vai trò của các thành
phần kinh tế và nền kinh tế thị trường trong tiến trình đi xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Từ đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách lớn, bước
đầu đã tạo ra điều kiện, môi trường cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản
tư nhân trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Trong giai đoạn đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế tư bản tư nhân
trong phạm vi cả nước đã giải quyết những vấn đề sự tồn tại của kinh tế tư bản tư
nhân có trái với quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa không. Với mục đích cuối cùng
là tạo ra nhiều giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt từ việc bóc lột sức lao động
Trang 31
Tiểu luận môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
của người làm thuê nên nó luôn bị coi là sai đường lối xã hội chủ nghĩa. Cho
nên, các nhà kinh tế cũng như nhà chính trị nước ta luôn tranh luận vấn đề Đảng
viên có được làm kinh tế tư bản tư nhân không? Cho đến năm 2006, tại Đại hội
Đảng lần thứ X đã cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân để góp phần ổn định
kinh tế gia đình và xã hội.
Các chính sách phát triển kinh tế tư bản tư nhân ở thành phố đã mang lại
hiệu quả tốt. Tuy nhiên, do trình độ yếu kém nên làm cho lĩnh vực kinh tế này
bộc lộ những mặt hạn chế như ô nhiễm môi trường, gian lận thương mại, trốn
thuế,...
Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, kinh tế tư bản tư nhân ở
thành phố Hồ Chí Minh đã tận dụng các lợi thế vốn có của địa phương như điều
kiện tự nhiên, hạ tầng kỹ thuật, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực cũng như
lợi thế ngành kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh cho hợp lý.
Tóm lại, kinh tế tư bản tư nhân phải luôn cần sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước. Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và cơ chế quản
lý hợp lý cho sự phát triển, trong đó, cần cụ thể hoá Luật doanh nghiệp sửa đổi,
tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển ngày càng