? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009 1 PHẦN I: THÔNG TIN KHOA HỌC NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN HỆ THỐNG BÀI TẬP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH HỒI PHỤC TÍCH CỰC SAU GIỜ TẬP CHO SINH VIÊN CHUYÊN SÂU BÓNG ĐÁ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG (Trích phần tổng quan các vấn đề nghiên cứu của đề tài). Th.s Võ Văn Quyết Bộ môn Bóng đá – Đá cầu 1. Khái niệm về hồi phục ồi phục là sau khi kết thúc lượng vận động của bài tập, tất cả các chức năng của cơ thể dần dần được trở về trạng thái ban đầu.Trong giai đoạn hồi phục xảy ra sự đào thải các sản phẩm trao đổi chất, phục hồi nguồn dự trữ năng lượng, dự trữ tái tạo lượng men đã bị tiêu hao trong thời gian hoạt động cơ. Về thực chất đó là sự phục hồi cân bằng nội môi. Hồi phục không chỉ là quá trình đưa cơ thể trở về trạng thái ban đầu mà trong quá trình này còn xảy ra nâng cao khả năng chức phận của cơ thể gọi là hồi phục vượt mức. - Sự hồi phục: Tập hợp tất cả những biến đổi chức năng cơ thể trong giai đoạn hồi phục được gọi là sự hồi phục. - Trạng thái hồi phục: Trạng thái cơ thể khi các quá trình hồi phục còn đang diễn ra được gọi là “trạng thái hồi phục” - Quá trình hồi phục:Các quá trình sinh lý đảm bảo hồi phục những biến đổi chức năng của cơ thể sau lượng vận động bài tập được gọi là quá trình hồi phục - Giai đoạn hồi phục: Thời gian sau lượng vận động bài tập diễn ra sự hồi phục được gọi là giai đoạn hồi phục. * Mục đích của hồi phục. - Thúc đẩy sự hồi phục cơ thể càng nhanh càng tốt. - Làm mất đi những nguyên nhân gây mệt mỏi của cơ thể. - Tái tạo các khả năng chức phận đã bị tổn hại nhất thời. * Nếu thời gian hồi phục không đủ thì mệt mỏi sẽ tăng làm ảnh hưởng đến hiệu quả và cản trở sự phát triển. Đồng thời thành tích có thể bị giảm và VĐV dễ bị chấn thương. 2. Quy luật diễn biến các quá trình hồi phục chức năng cơ thể vận động viên trong tập luyện và thi đấu TDTT. I.P. Pavlov là người đầu tiên đã khám phá ra hàng loạt quy luật diễn biến các quá trình hồi phục mà cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sau đây là một số nhận định của ông: + Trong cơ quan đang hoạt động, bên cạnh các quá trình phá vỡ và suy kiệt luôn diễn ra quá trình hồi phục. Quá H
81
Embed
NỘI SAN KHOA HỌC 12 PHẦN I: THÔNG TIN KHOA HỌCupes3.edu.vn/assets/Quy IV2009.pdfnỘi san khoa hỌc 12 - 2009 1 phẦn i: thÔng tin khoa hỌc nghiÊn cỨu lỰa chỌn
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
1
PHẦN I: THÔNG TIN KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN HỆ THỐNG BÀI TẬP THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH HỒI PHỤC TÍCH CỰC SAU GIỜ TẬP CHO SINH VIÊN
CHUYÊN SÂU BÓNG ĐÁ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG
(Trích phần tổng quan các vấn đề nghiên cứu của đề tài).
Th.s Võ Văn Quyết
Bộ môn Bóng đá – Đá cầu
1. Khái niệm về hồi phục
ồi phục là sau khi kết thúc lượng
vận động của bài tập, tất cả các
chức năng của cơ thể dần dần được trở
về trạng thái ban đầu.Trong giai đoạn hồi
phục xảy ra sự đào thải các sản phẩm
trao đổi chất, phục hồi nguồn dự trữ
năng lượng, dự trữ tái tạo lượng men đã
bị tiêu hao trong thời gian hoạt động cơ.
Về thực chất đó là sự phục hồi cân bằng
nội môi. Hồi phục không chỉ là quá trình
đưa cơ thể trở về trạng thái ban đầu mà
trong quá trình này còn xảy ra nâng cao
khả năng chức phận của cơ thể gọi là hồi
phục vượt mức.
- Sự hồi phục: Tập hợp tất cả những biến đổi chức năng cơ thể trong giai
đoạn hồi phục được gọi là sự hồi phục.
- Trạng thái hồi phục: Trạng thái cơ
thể khi các quá trình hồi phục còn đang diễn ra được gọi là “trạng thái hồi phục”
- Quá trình hồi phục:Các quá trình
sinh lý đảm bảo hồi phục những biến đổi chức năng của cơ thể sau lượng vận
động bài tập được gọi là quá trình hồi
phục
- Giai đoạn hồi phục: Thời gian sau lượng vận động bài tập diễn ra sự hồi
phục được gọi là giai đoạn hồi phục.
* Mục đích của hồi phục. - Thúc đẩy sự hồi phục cơ thể càng
nhanh càng tốt.
- Làm mất đi những nguyên nhân gây
mệt mỏi của cơ thể. - Tái tạo các khả năng chức phận đã
bị tổn hại nhất thời.
* Nếu thời gian hồi phục không đủ thì mệt mỏi sẽ tăng làm ảnh hưởng đến hiệu
quả và cản trở sự phát triển. Đồng thời
thành tích có thể bị giảm và VĐV dễ bị
chấn thương.
2. Quy luật diễn biến các quá trình
hồi phục chức năng cơ thể vận động viên trong tập luyện và thi đấu TDTT.
I.P. Pavlov là người đầu tiên đã khám
phá ra hàng loạt quy luật diễn biến các
quá trình hồi phục mà cho đến nay vẫn
còn giữ nguyên giá trị. Sau đây là một số nhận định của ông:
+ Trong cơ quan đang hoạt động, bên
cạnh các quá trình phá vỡ và suy kiệt
luôn diễn ra quá trình hồi phục. Quá
H
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
2
trình hồi phục không chỉ diễn ra sau khi
kết thúc công việc, mà nó đã diễn ra
ngay trong khi lao động.
+ Mối quan hệ giữa mức độ suy kiệt
và tốc độ hồi phục phụ thuộc vào cường
độ của vận động. Trong thời gian thực
hiện các gánh nặng có cường độ lớn, quá
trình hồi phục không ở trạng thái bù lại
hoàn toàn các tiêu hao năng lượng, bởi
vậy quá trình bù trừ hoàn toàn các biến
đổi sẽ diễn ra muộn hơn – trong thời
gian nghỉ.
+ Sự hồi phục các nguồn dữ trữ bị
tiêu hao diễn ra không chỉ về mức xuất
phát ban đầu, mà có thể vượt lên cao hơn
(hồi phục vượt mức)
Theo IU.V. Pholbort (1951), A.V.
Chogovagze và L.A. Butchenco (1984)
sự lặp lại các gánh nặng thể lực có thể
dẫn đến sự phát triển hai quá trình trái
ngược nhau trong cơ thể:
+ Nếu các lượng vận động thể lực sau
được bắt đầu thực hiện ở giai đoạn khi
cơ thể đạt được trạng thái ban đầu, và
các quá trình hồi phục đảm bảo sự bổ
sung và tích luỹ nguồn năng lượng dự
trữ một cách thoả đáng hay vượt mức
ban đầu thì sẽ phát triển trạng thái biến
đổi cấu trúc, tăng cường khả năng chức
năng của cơ thể.
+ Nếu khả năng lao động chưa được
hồi phục về trạng thái ban đầu, thì lượng
vận động thể lực mới sẽ gây ra quá trình
ngược lại (rối loạn)- mệt mỏi quá sức .
Theo một số tác giả như: B.C.
Gippenreiter, 1962; V.V. Rozenblat,1975;
V.M. Volcov, 1977; A.V. Chogovagze,
1984; V.I. Dubrovski, 1991… mức độ
mệt mỏi cũng như tốc độ hồi phục được
quyết định bởi mối quan hệ ảnh hưởng
lẫn nhau của rất nhiều yếu tố: Đặc điểm
của công việc đã thực hiện (tính chất,
cường độ, khối lượng), trạng thái sức
khoẻ, trình độ chuẩn bị thể lực, tuổi, giới
tính, các đặc điểm cá nhân của người tập,
mức độ chuẩn bị về mặt kĩ thuật, kỹ
năng thả lỏng…Các tác giả đã chứng
minh có sự ảnh hưởng đặc thù của các
bài tập thể lực khác nhau đối với bộ máy
vận động và sự đảm bảo thực vật của
chúng trong mệt mỏi và hồi phục
3. Các giai đoạn của quá trình hồi
phục:
Các quá trình hồi phục diễn ra theo
dạng sóng, IA.M.Kos (1986) đã chia quá
trình hồi phục ra làm 4 pha :
- Pha hồi phục nhanh; - Pha hồi phục
chậm.
- Pha hồi phục vượt mức;
- Pha hồi phục muộn.
Theo tác giả hai pha đầu tương đương
với giai đoạn hồi phục khả năng hoạt
động bị giảm do kết quả của tập luyện
mệt mỏi kéo dài, pha thứ ba gia tăng khả
năng hoạt động hay còn gọi là pha hồi
phục vượt mức, pha thứ tư Khả năng tập
luyện trở về trạng thái xuất phát.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
3
Tập luyện Hồi phục Hồi phục Vượt mức Mức xuất phát
Sơ đồ: Biến đổi chức năng trong và sau hoạt động thể lực.
Phụ thuộc vào xu hướng chung của
các biến đổi sinh lý, sinh hóa và thời
gian cần thiết để hồi phục những biến
đổi đã về mức bình thường, nhiều tác giả
chia ra hai quá trình hồi phục là Hồi
phục nhanh và hồi phục chậm.
+ Hồi phục nhanh lan truyền trong
khoảng 30 -90 phút đầu của giai đoạn
hồi phục, có thể kéo dài lâu hơn sau
những lượng vận động thể lực có cường
độ lớn và kéo dài.Ở giai đoạn này diễn ra
quá trình phân giải các sản phẩm của quá
trình chuyển hóa yếm khí tích tụ trong
thời gian thực hiện lượng vận động và
trả nợ O2
+ Hồi phục chậm (muộn) kéo dài
trong nhiều giờ đồng hồ thậm chí vài
ngày sau tập luyện phụ thuộc vào cường
độ và thời gian thực hiện bài tập.
Trong giai đoạn này tăng cường các
quá trình trao đổi tái tạo và khắc phục
các rối loạn cân bằng ion và hormone
trong cơ thể, phục hồi nguồn dự trữ năng
lượng của cơ thể, tăng cường tổng hợp
các men và protitd cấu trúc bị hủy trong
quá trình hoạt động cơ.
Trong giai đoạn hồi phục muộn có
pha hồi phục vượt mức với đặc điểm là
khả năng hoạt động thể lực và nhiều
chức năng liên quan đến khả năng hoạt
động thể lực (chủ yếu hồi phục vượt mức
dự trữ năng lượng) của cơ thể sau hoạt
động với cường độ lớn không chỉ hồi
phục về mức trước vận động, mà còn
vượt quá. Trong thực tế huấn luyện, nếu
buổi tập sau được bắt đầu từ trong pha
hồi phục vượt mức sẽ là cơ sở để nâng
cao năng lực vận động, thành tích TT.
4. Các yếu tố quy định sự sử dụng
các phương tiện và phương pháp hồi
phục trong huấn luyện thể thao:
1) Các phương tiện và phương pháp
hồi phục khác nhau có các ảnh hưởng
khác nhau lên sự hồi phục năng lực vận
động của cơ thể VĐV.
Mức khả năng hoạt động thể lực xuất phát
Khả năng hoạt động thể lực
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
4
2) Hiệu quả của việc sử dụng các
phương tiện hồi phục phụ thuộc vào tính
chất, khối lượng, cường độ của gánh
nặng thể lực được thực hiện.
3) Sử dụng các phương tiện hồi phục
giống nhau trong thời gian dài dẫn đến
cơ thể thích nghi với chúng, và như vậy
hiệu quả của các phương pháp hồi phục
bị giảm. Cần phải luân phiên các phương
tiện và tăng giảm liều lượng thường
xuyên (sự thích nghi của cơ thể với các
phương tiện hồi phục như xoa bóp, áp
lực, kích thích điện, galvanic… diễn ra
nhanh hơn so với các phương tiện như
tắm hơi nóng, tắm hơi khô, tắm nước
nóng…)
4) Kết hợp sử dụng đúng đắn các
phương tiện hồi phục cơ thể trong tổ hợp
có thể làm gia tăng đáng kể hiệu quả hồi
phục.
5) Sự nâng cao trạng thái chức năng
của cơ thể phụ thuộc vào chiến thuât và
trình tự sử dụng các phương tiện hồi
phục.
6) Sử dụng các phương pháp hồi phục
một cách có kế hoạch trong hệ thống
huấn luyện thể thao thúc đẩy sự gia tăng
của các tố chất thể thao chuyên môn của
VĐV.
7) Sử dụng có định hướng các
phương pháp hồi phục giảm đáng kể
nguy cơ chấn thương thể thao.
8) Sự linh hoạt sử dụng các phương
pháp, phương tiện hồi phục trước, trong
và sau thực hiện các bài tập tập luyện và
thi đấu cho phép nâng cao hiệu quả tập
luyện của bài tập, phát triển phong độ
thể thao của các VĐV.
9) Thực hiện một cách định hướng
các phương pháp hồi phục (có tính tổ
hợp) sẽ thúc đẩy khả năng hoàn thành
các bài tập có lượng vận động lớn.
10) Sử dụng có kế hoạch, có định
hướng các phương tiện và phương pháp
hồi phục khác nhau, sẽ có tác dụng củng
cố hiệu quả huấn luyện được lưu lại của
các gánh nặng thể lực và các phương tiện
hồi phục.
Theo O.M. Mizoev (2000) và một số
tác giả khác, các phương tiện hồi phục
cần được sử dụng trong tổ hợp (kết hợp
một số phương tiện) có tính đến các yếu
tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm không
khí độ cao; đặc điểm của quá trình huấn
luyện (giai đoạn huấn luyện; lịch huấn
luyện tuần; định hướng khối lượng và
cường độ của các bài tập…); phụ thuộc
vào điều kiện tập luyện và thi đấu, đặc
điểm cá thể VĐV, điều kiện học tập, lao
động và sinh hoạt .
Thực tế đã chứng minh chỉ có sử
dụng tổng hợp các phương pháp hồi
phục sư phạm, y – sinh học, tâm lý mới
xây dựng được một hệ thống hồi phục
hiệu quả. Các nhà khoa học đã chứng
minh rằng, hình thức tổ chức sử dụng
các phương pháp hồi phục trong huấn
luyện thể thao gồm có:
+ Tính cá nhân của việc sử dụng các
phương pháp hồi phục trong điều kiện
sống hàng ngày và trong tập luyện của
VĐV.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
5
+ Thành lập các trung tâm để phát
triển các tố chất thể lực chuyên môn và
hồi phục năng lực vận động của cơ thể
VĐV.
Mặc dù sự cần thiết và tính logic của
việc sử dụng có kế hoạch các phương
pháp hồi phục trong công tác đào tạo các
VĐV cao cấp là hiển nhiên, nhưng trên
thực tế vấn đề kết hợp hợp lý giữa các
gánh nặng tập luyện và các phương pháp
hồi phục cần được tiếp tục nghiên cứu,
đặc biệt là đối với thể thao nước nhà, khi
mà các phương pháp hồi phục còn đang
áp dụng một cách quá hạn chế.
Tóm lại, các nguyên tắc chung khi
quyết định sử dụng bất kỳ phương pháp
hay phương tiện hồi phục nào hoăc kết
hợp giữa các phương tiện đã với nhau
phải dựa trên đặc điểm khối lượng và
cường độ bài tập tập luyện, sự phản ứng
và khả năng thích nghi của cơ thể VĐV
đối với gánh nặng thể lực đã cũng như sự
phù hợp cùng tính hiệu quả của các
phương tiện hồi phục được sử dụng cho
từng VĐV hoặc từng nhóm VĐV.
5. Bài tập hồi phục thể lực.
Hồi phục sau buổi tập có ý nghĩa rất
lớn giúp cho vận động viên thích ứng với
lượng vận động bài tập, hiện nay có
nhiều hoạt động luyện tập và phương
pháp trị liệu khác nhau để thúc đẩy quá
trình hồi phục. Dưới đây là các hoạt
động luyện tập và phương pháp trị liệu
thông dụng nhất:
- Nghỉ ngơi tích cực và nghỉ ngơi thụ
động
- Nghỉ ngơi tích cực được đan xen
trong luyện tập
- Thủy liệu pháp
- Massage (mat-xa) thể thao
- Châm cứu và bấm huyệt
5.1. Nghỉ ngơi tích cực.
Thời gian nghỉ ngơi phụ thuộc vào
khối lượng và cường độ của loại hình
vận động, vào hệ năng lượng và nguồn
nhiên liệu được cung cấp. Bảng dưới đây
giới thiệu thời gian hồi phục cho một số
hệ sinh hoá và quá trình sinh hoá.
Quá trình Thời gian hồi phục
Bổ xung ATP-CP 2-5 phút
Loại bỏ lac-tat 30-60 phút (hồi phục chủ động)
60-120 phút (nghỉ ngơi)
Bổ xung glycogen cơ* Lên tới 48 giờ
* Glycogen là dạng tồn trữ carbohydrate chính trong cơ thể, tương ứng với chất bột
trong cây, cá. Glycogen được trữ trong gan và cơ; và có thể sẵn sàng biến thành
glucose.
Vận động viên thường xem nhẹ các hoạt động nghỉ ngơi tích cực. Phần cuối
của buổi luyện tập là thời gian tốt nhất để giới thiệu về các hoạt động nghỉ ngơi
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
6
tích cực, mặc dù nghỉ ngơi tích cực có thể được xúc tiến trong suốt quá trình
luyện tập. Hoạt động nghỉ ngơi tích cực
thường được lựa chọn để giải quyết một
số nhiệm vụ trong luyện tập. Các hoạt động này được sử dụng để hồi phục
trạng thái sinh lý của vận động viên.
Th«ng thường được sử dụng các kỹ thuật sau:
- Thực hiện bài tập cường độ hoạt
động vừa phải nhẹ nhàng: Chạy nhẹ
nhàng, đạp xe nhẹ nhàng, thể dục nhịp điệu nhẹ, các bài tập ở bể bơi như (khi
bơi ngửa,bơi nghiêng,bơi trườn nhẹ
nhàng thả lỏng,dang rộng chân tay trong bể bơi nước nóng vv..) Để hồi phục o xy
hồi phục quá trình đào thải lac-tat; Gọi là
bài tập ưa khí.
- Duỗi cơ: Được xử dụng để hồi phục hệ cơ xương
- Thả lỏng cơ khớp bằng các động
tác: Rung cơ và lắc cơ, hoạt động thụ động
5.2.Rung cơ và lắc cơ .
a . Tác dụng sinh lý. - Động tác này thường được thực hiện
sau hoặc xen kẽ với động tác duỗi cơ
nhằm giúp cho máu và bạch huyết
chuyển động được dễ dàng hơn, dịch
giữa các tế bào được phân bố đồng đều hơn, gây ức chế thần kinh trung ương,
giúp cơ được thả lỏng và giảm bớt sự
căng thẳng .
b. Phương pháp thực hiện - Rung, lắc cơ thường được thực hiện
rất đơn giản cơ được lắc bằng ngón tay cái
và ngón tay út làm trụ còn các ngón khác được nâng lên làm con lắc).
Tuy nhiên muốn thực hiện tốt được động tác này thì cổ tay phải thả lỏng,
chuyển động nhanh và nhịp nhàng vơí
tần số từ 12 - 15 lần trong 2 giây. Kỹ
thuật rũ cơ thường được thực hiện sau tất cả các động tác khác vào cuối buổi tập
với phương pháp thực hiện tương tự như
rung cơ . * Rũ cơ cẳng chân: VĐV nằm sấp,
người hồi phục đứng song song với bộ
phận hồi phục, tay cầm lấy cổ chân, gập
cẳng chân lại một góc 900 rồi nâng chân lên cách sàn (sân) 1 - 2cm và thực hiện
động tác rũ cơ sang hai bên theo chiều
ngang . Động tác này cũng có thể được thực
hiện với người được hồi phục trong tư
thế ngồi hai tay song song, người hồi
phục đứng đối diện, hai tay cầm lấy các ngón chân rồi kéo căng và rung động với
tần số nhanh nhất.
* Rũ cơ cẳng tay: VĐV nằm ngửa, người hồi phục đứng cạnh vùng ngực,
tay gần cầm lấy cổ tay củaVĐV, gập
cẳng tay một góc 900 rồi nâng tay lên
cạnh giường từ 3-4 cm và thực hiện động tác rũ cơ nhẹ nhàng sang 2 bên theo
chiều ngang. Nếu VĐV ở tư thế ngồi thì
người hồi phục phải đứng đối diện, hai
tay cầm lấy các ngón tay củaVĐV, kéo căng và rung động theo tần số nhanh
nhất.
5.3. Hoạt động bị động. Được chia làm 2 loại là hoạt động bị
động cục bộ theo chức năng các khớp và
hoạt động bị động liên hoàn (chi trên, chi
dưới và toàn thân) .
a. Tác dụng sinh lý
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
7
Hoạt động này sẽ làm tăng đàn tính của cơ và dây chằng bám vào khớp, tăng
độ linh hoạt của khớp và phòng ngừa các
di chứng chấn thương khớp .
b . Phương pháp thực hiện - Hoạt động bị động cục bộ theo chức
năng các khớp được thực hiện bằng các
động tác như dạng, khép, gấp, duỗi xoay vào, xoay ra và quay vòng.
- Hoạt động bị động liên hoàn chi
trên được thực hiện bằng cách để VĐV
ngồi thấp, người hồi phục đứng đối diện, dựng một tay nắm lấy 4 ngón tay và tay
kia nắm lấy ngón tay cái để lòng bàn tay
của họ hướng vào mặt mình rồi lấy mặt làm tâm, xoay tròn bàn tay (vòng to hay
nhỏ tuỳ thuộc vào độ dài của tay người
được xoa bóp). Mục đích của động tác
này là để gấp duỗi khớp khuỷu và dạng khép khớp vai. Sau khi xoay vài 3 lần,
khi thấy tay xoay đã nhẹ nhàng thì nhanh
chóng giật thẳng tay lên phía trên đầu . Chú ý: Nếu thực hiện động tác với
tay phải thì xoay ngược chiều kim đồng
hồ còn tay trái thì ngược lại.
- Hoạt động bị động liên hoàn chi dưới được thực hiên như sau: VĐV nằm
ngửa, chân duỗi thẳng, người hồi phục
đứng bên cạnh, ngang với cẳng chân, tay
cùng bên với chân thực hiện nắm lấy cổ chân, tay còn lại nắm ở dưới hâm khớp
gối rồi thực hiện gấp khớp gối và khớp
hông và đè đùi tỳ sát vào hông. Khi thấy động tác đã nhẹ nhàng tức là cơ đã được
thả lỏng thì nhanh chóng kéo thẳng chân
ra .
Chú ý: Khi kéo chân người xoa bóp không được di chuyển mà chỉ thay đổi
trọng tâm theo chuyển động của người được xoa bóp.
- Hoạt động bị động liên hoàn thân
được thực hiện bằng cách để VĐV nằm
sấp, nhưng thân người hơi xoay sang trái hoặc phải người hồi phục đứng cạnh bên
trái hoặc phải. Nếu kéo tay trái thì bàn
chân trái để gần ngang mông song song với thân, còn chân phải tỳ vuông góc vào
mông rồi cho VĐV luồn tay trái xuống
dưới thân, sang bên nách phải tạo góc
khoảng 450. Người hồi phục dựng hai tay nắm lấy cổ tay trái của VĐV rồi kéo nhẹ
lên để xoay thân nằm nghiêng (mông
vẫn úp) và thực hiện vài lần (thả lỏng những nhóm cơ thân) cho đến khi thấy
động tác đã nhẹ nhàng thì nhanh chóng
giật tay trái lên đồng thời chân phải đè
mông xuống. Nếu thực hiện đúng sẽ nghe thấy hàng loạt tiếng kêu và VĐVsẽ
cảm thấy dễ chịu và ngược lại nếu không
nghe thấy tiếng kêu và làm VĐV bị đau như vậy động tác đã sai kỹ thuật. Sau khi
đã kéo xong tay trái chuyển bên để kéo
sang tay phải .
Hoạt động hồi phục còn tập trung vào hồi phục về tâm lý, ví dụ như các hoạt
động: Tập thở, tập hình dung, tuởng
tượng, (nhớ lại toàn bộ hoặc một phần
của một trận đấu, một ván chơi ...). Chuyển đổi sang loại bài tập có
cường độ hoạt động vừa phải (chẳng hạn
như thể dục nhịp điệu nhẹ) và các bài tập dạng khác so với các bài tập chính của
buổi tập còng thường được sử dụng như
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực.
Các hoạt động tại bể bơi, khi thì đi bộ, khi thì bơi (đặc biệt là bơi ngửa và
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
8
bơi nghiêng) hoặc thả lỏng cơ thể, dang rộng chân tay trong bể bơi nước nóng là
các hình thức hồi phục tích cực tuyệt vời
sau thi đấu. Các kỹ thuật phục hồi dạng
này thường được áp dụng cho các đội bóng đá, bóng rổ ở những nơi có điều
kiện.
5.4. Duỗi cơ Duỗi cơ là hoạt động làm cho các mô
tế bào dài thêm so với độ dài ở trạng thái
nghỉ. Duỗi cơ là một chuỗi các hoạt động
có thể làm thay đổi độ dài của cơ từ mức tối thiểu đến mức tối đa. Hoạt động duỗi
cơ cực kỳ quan trọng đối với sự hoạt
động của cơ xương; duỗi cơ thường được xem là cách thức tăng cường độ dẻo
trong hoạt động của cơ bắp.
Độ dẻo là tầm vận động xung quanh
một khớp. Tầm vận động của các cá thể có sự khác biệt rất lớn.
5.4.1. Những loại cơ nào có thể duỗi
dài thêm a. Cơ
Cơ xương có những thuộc tính giống
như một sợi dây cao su, nhờ vậy chúng
có thể dãn dài thêm, sau đó lại trở về trạng thái nghỉ (trạng thái ban đầu). Độ
dài cơ không thể gia tăng bằng một kích
thích thần kinh mà phải bằng một ngoại
lực. Ngoại lực này có thể là lực hút, lực đà (xung lực) được tạo ra nhờ sự co các
cơ đối kháng. Cơ đối kháng co dãn để
các cơ chủ vận hoạt động. Ngoại lực còn có thể được tạo ra nhờ trọng lực hoặc
nhờ một người khác, chẳng hạn như các
đối tác hoặc trợ thủ.
b. Mô liên kết
Mô liên kết tạo thành cân mạc. Cân mạc là các lớp màng có độ dày khác
nhau trong tất cả các vùng của cơ thể.
Cân mạc bao quanh từng sợi cơ và bao
quanh toàn bộ cơ. Cân mạc, đặc biệt là cân mạc bao quanh cơ hạn chế hoạt động
duỗi cơ. Cân mạc vừa có thuộc tính của
chất vitcô (xenlulô dạng đặc sệt), vừa có thuộc tính của chất dẻo. Nhờ thuộc tính
của chất vitcô, độ dài sau khi duỗi được
duy trì; nhờ thuộc tính của chất dẻo, độ
dài ban đầu (độ dài trước khi duỗi) được phục hồi. Thuộc tính chất dẻo là yếu tố
không thể thiếu giúp cho cân mạc duy trì
được tư thế duỗi. c. Dây chằng và gân
Khi cơ hoạt động hoặc ở trạng thái
duỗi, dây chằng và gân thường bị dãn
một cách đột ngột, thiếu cẩn trọng. Vấn đề duỗi hai loại mô này một cách chủ
động trong quá trình hồi phục là vấn đề
chuyên môn đang được các chuyên gia y học thể thao nghiên cứu.
5.4.2 Tác dụng của duỗi cơ Tăng tuần hoàn máu,tăng quá trình
trao đổi chất * Để thao tác tốt hơn, tăng độ linh
hoạt của cơ.
* Để tăng tầm vận động xung quanh
một khớp linh hoạt. * Để nhóm cơ đối kháng hoạt động ở
mức tối đa.
* Tăng khả năng hoãn xung. * Tăng khả năng kháng lực.
* Giảm căng cơ hoặc tăng tính mềm
dẻo của cơ.
5.4.3 Duỗi cơ như thế nào?
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
9
Có hai phương pháp duỗi cơ cơ bản: Phương pháp sử dụng kỹ thuật động và
phương pháp sử dụng kỹ thuật tĩnh.
a. Phương pháp sử dụng kỹ thuật
động Bất kỳ một vận động nào còng liên
quan tới sự co duỗi đồng bộ của cơ.
Phương pháp của vận động duỗi cơ là: tầm vận động từ nhỏ nhẹ dần đến tối đa,
hết mức, hết tầm. Lợi ích của kiểu vận
động này là:
- Tăng nhiệt độ của cơ, tăng tuần hoàn máu để tăng độ dẻo,
- Khởi đầu một chương trình vận
động đặc thù của một môn thể thao. Các động tác bột phát là hoạt động
của các vận động trong thể thao, chẳng
hạn như môn bóng đá, chạy tốc độ, các
môn nhảy, các môn ném…Hầu hết các vận động viên đều cần thiết phải luyện
tập các động tác bột phát dành riêng cho
môn thể thao của mình. Các động tác bột phát cần thiết phải được đưa vào giai
đoạn cuối của khởi động để làm cho vận
động viên ở tư thế sẵn sàng nhập cuộc
tốt nhất trước khi buổi tập hoặc trận đấu bắt đầu.
Duỗi cơ nhún bật là kiểu duỗi cơ
được lặp đi lặp lại nhiều lần. Kiểu duỗi
cơ này có thể thực hiện bằng những động tác có tầm vận động nhỏ hoặc những
động tác có tầm vận động tối đa. Tuy
nhiên, áp dụng tầm vận động tối đa ở giai đoạn này là nguy hiểm vì nó kích
thích phản xạ kéo cơ và làm duỗi cơ một
cách máy móc trong khi cần phải co
ngắn lại. Trừ trường hợp đây là một đòi hỏi bắt buộc của một môn thể thao, kỹ
thuật này không nên áp dụng bởi vì nó có thể dẫn tới hiện tượng rách cơ.
b. Phương pháp sử dụng kỹ thuật tĩnh
(còn gọi là phương pháp duy trì trạng
thái duỗi cơ) Nghiên cứu cho thấy rằng, không có
sự khác biệt trong việc cải thiện tầm vận
động giữa các lần duỗi cơ được duy trì từ 10 đến 120 giây. Duy trì duỗi cơ từ ba
phút trở lên được thực hiện bởi thuộc
tính vitcô của mô liên kết; duy trì duỗi
cơ trong quãng thời gian ngắn hơn được thực hiện bởi thuộc tính chất dẻo của cơ
và của mô liên kết. Duy trì duỗi cơ ba
phút trở lên với mục đích kéo dài các mô liên kết để tạo ra những thay đổi, đây là
mục tiêu lâu dài; duỗi cơ trong khoảng
thời gian ngắn hơn với mục đích đưa cơ
trở lại độ dài ở trạng thái nghỉ, đây là mục tiêu trước mắt.
Duy trì duỗi cơ trong thời gian từ 6
đến 10 giây là cách duỗi cơ có hiệu quả hồi phục cao hơn. Đây là lượng thời gian
đủ để cơ quan gân Golgi kích hoạt phản
ứng nghịch đảo của phản ứng duỗi cơ.
Phản ứng nghịch đảo xảy ra khi cảm nhận được sự căng cơ. Quá trình cảm
nhận và phản ứng được duy trì trong
khoảng từ 6 đến 10 giây. Sau quãng thời
gian này độ căng cơ giảm và cơ trở về trạng thái thư giãn. Sau đã có thể có
thêm một lượng vận động nho nhỏ để
duỗi cơ. Ở giai đoạn này có thể sử dụng thêm các biện pháp trợ giúp thụ động
(trợ giúp bằng ngoại lực) để duỗi cơ.
Duy trì duỗi cơ kéo dài (từ 30 đến 180
giây) do các cấu tử chất dẻo của mô liên kết thực hiện; kiểu duỗi cơ này là lý
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
10
tưởng để tăng tầm vận động cơ. Những kỹ thuật này có thể dẫn tới cảm giác bắt
đầu thấm mệt ở một số cơ.
Co-thả lỏng cơ kết hợp với sự co-duỗi
của nhóm cơ đối kháng kéo theo sự duỗi cơ bằng tầm vận động nhỏ, sau đó đưa
khớp về chiều ngược lại để duy trì tư thế
duỗi. Sau đó nhóm cơ đối kháng co lại; nhờ sự kiềm chế lẫn nhau của nhóm cơ
chủ vận và nhóm cơ đối kháng, mức độ
duỗi cơ được gia tăng. Kỹ thuật này tốn
nhiều thời gian hơn so với kỹ thuật duỗi cơ tĩnh 10 giây, nhưng có tác dụng gia
tăng độ mạnh cơ tại thời điểm cuối của
tầm vận động.
5.4.4. Kỹ thuật duỗi cơ để hồi phục Sau buổi tập hoặc trận đấu, kỹ thuật
hồi phục thích hợp nhất là kỹ thuật duỗi
cơ tĩnh 6-10 giây. Duỗi cơ nên được thực hiện trong môi trường ấm áp và được
tiếp tục bằng tắm nước ấm. Mục đích là
để duỗi cơ chủ động và duỗi cơ thụ động trong môi trường có hỗ trợ trọng lực.
Kiểu duỗi cơ này trợ giúp hồi phục
độ dài cơ ở trạng thái nghỉ. Để tăng
cường độ dẻo của vùng cơ bị căng hoặc vùng cơ có vấn đề, các buổi tập đặc biệt
hỗ trợ duỗi cơ cần được đưa vào chương
trình huấn luyện.
Luyện tập duỗi cơ nhằm tăng tầm vận động của khớp, tăng tuần hoàn và bạch
huyết, tăng khả năng chịu đựng hay tăng
độ dài cơ ở trạng thái nghỉ; hoạt động này cần được thực hiện trong một môi
trường ấm áp, tốt nhất là vào cuối buổi
chiều, đầu buổi tối. Sau buổi tập này
không nên có bất kỳ một hoạt động luyện tập nào khác, bởi trạng thái bắt
đâu thấm mệt xuất hiện, nên để cơ nghỉ ngơi hoàn toàn. Tập thả lỏng 20 phút
trong nước ấm của một bể bơi hoặc suối
nước khoáng cực kỳ có hiệu quả.
6. Cần coi trọng phần hồi phục sau huấn luyện.
Theo đà tăng trưởng về khối lượng
huấn luyện và khả năng chịu đựng của vận động viên trong các cuộc thi đấu của
nền bóng đá hiện đại, đặc biệt là trong
điều kiện chịu đựng khối lượng lớn nhất,
thì vận dụng các biện pháp về y học và hồi phục về mặt tâm lý đã trở thành một
khâu quan trọng trong quá trình huấn
luyện bóng đá nói chung và huấn luyện thể lực nói riêng. Điều này không những
đề phòng được vận động viên tập luyện
quá sức, phòng ngừa được các chấn
thương, mà còn nâng cao năng lực, khả năng chịu đựng của vận động viên từ 5
đến 10%.
Quy luật thời gian của quá trình hồi phục được thể hiện ở sự hồi phục về khả
năng cơ năng với khối lượng vận động
lớn nhất chậm. Sự hồi phục khả năng
công năng yếm khí tương đối nhanh hơn. Khả năng hồi phục đường của sợi cơ
nhanh hồi phục nhanh hơn sợi cơ chậm.
Do đó, trong huấn luyện, cần phải sắp
xếp thay đổi nội dung tập luyện, điều tiết lượng vận động phải toàn diện, tỉ mỉ
(lượng vận động phải có giới hạn).
Ngoài ra, sau khi tập luyện cần tiến hành hồi phục trạng thái tâm lý, hồi phục sinh
lý, sinh hoá. Tiến hành hồi phục tích cực.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alagich. R. (1998), Huấn luyện bóng đá hiện đại, Dịch: Nguyễn Huy Bích, Phạm
Anh Thiệu, Nxb TDTT, Hà Nội.
2. Lưu Quang Hiệp, Lê Đức Chung, Vũ Chung Thuỷ, Lê Hữu Hưng, "Y học thể dục
thể thao", NXB TDTT (1999).
3. "Giải phẫu học", NXB TDTT.
4. Nguyễn Danh Tốn (Chủ biên), "Lý luận và phương pháp thể dục thể thao", NXB
TDTT (1997).
5. Lê Bửu, Nguyễn Thế Truyền (1991), Lý luận và phương pháp thể thao trẻ, Nxb
TDTT, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Lê Bửu, Nguyễn Thế Truyền (1986), Kiểm tra năng lực thể chất và thể thao, Nxb
TDTT, thành phố Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Đăng Chiêu (2004), Nghiên cứu lượng vận động sinh lý của các VĐV
bóng đá lứa tuổi 15 - 16 và 17 - 18 trong thời kỳ chuẩn bị cơ bản, Luận án tiến sĩ
giáo dục học, Viện khoa học TDTT, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Cừ (1996), “Cơ sở sinh lý của năng lực vận động”, Y học thể thao,
Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ bác sĩ thể thao, Viện khoa học TDTT, Hà Nội.
9. Harre. D (1996), Học thuyết huấn luyện, Dịch: Trương Anh Tuấn, Bùi Thế Hiển,
Nxb TDTT, Hà Nội.
10. Lưu Quang Hiệp (1994), “Tập bài giảng sinh lý học TDTT”, Tài liệu dùng cho
các học viên cao học TDTT, Hà Nội.
11. Lưu Quang Hiệp, Phạm thị Uyên (2003), Sinh lý học TDTT, Nxb TDTT, Hà Nội.
12. Kedulop. M.C (1962), Vấn đề lý luận chung các môn bóng, Nxb TDTT, Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Mỹ (1999), Giáo trình kỹ thuật đá bóng, Nxb TDTT, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Nhâm, Phạm Ngọc Viễn, Lê Quý Phượng (2001), “Đặc điểm chức
năng sinh lý - sinh hoá của VĐV bóng đá trẻ Việt Nam lứa tuổi 15 - 16”, Thông
tin khoa học TDTT, (5).
15. Nguyễn Đức Nhâm (2005), Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, chức năng, tố
chất thể lực của các VĐV bóng đá nam tuyển trẻ quốc gia Việt Nam lứa tuổi 16 -
19”, Luận án tiến sĩ giáo dục học, Viện khoa học TDTT, Hà Nội.
16. Nguyễn Thiệt Tình (1997), Huấn luyện và giảng dạy bóng đá, Nxb TDTT, Hà
Nội.
17. ...........
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
12
XÂY DỰNG NỘI DUNG HUẤN LUYỆN THỂ LỰC CHUYÊN MÔN CHO VĐV
CHẠY 800M NỮ LỨA TUỔI 17-18 TRONG GIAI ĐOẠN HUẤN LUYỆN
CHUYÊN MÔN HOÁ SÂU CỦA CÁC TỈNH KHU VỰC MIỀN TRUNG VÀ
TÂY NGUYÊN
Th.s Nguyễn Thị Kim Nhung
Bộ môn Điền Kinh
Lời mở đầu:
hành tích thể thao là tổng hòa của
nhiều yếu tố trong đó thể lực
chuyên môn đóng vai trò quyết định
hàng đầu. Việc chuẩn bị thể lực chuyên
môn cho VĐV điền kinh nói chung và
VĐV chạy 800m nói riêng là công việc
cấp thiết, tất yếu trong công tác huấn
luyện. Vai trò của thể lực chuyên môn
phải được chú trọng trong tất cả các thời
kỳ, giai đoạn huấn luyện chuyên môn.
Muốn đạt được thành tích cao trong chạy
800m cần có một trình độ thể lực chuyên
môn tốt.
Trình độ chuyên môn có thuận chiều
với thành tích thể thao, thông qua thành
tích thể thao có thể đánh giá được tình
độ thể lực chuyên môn của VĐV và
ngược lại. trình độ chuyên môn là thước
đo thành tích ở môn chạy 800m trong
quá trình huấn luyện. việc xây dựng nội
dung huấn luyện thể lực chuyên môn
đóng vai trò hết sức quan trọng, nó quyết
định đến thành bại của quá trình huấn
luyện. Việc xây dựng nội dung huấn
luyện thể lực chuyên môn cho VĐV một
cách khao học đúng đắn sẽ đạt được
thành tích cao, tiết kiệm được kinh phí,
thời gian, nhân lực và phát triển nhân tài,
đồng thời là động lực thúc đẩy tính tự
giác tích cực, lòng say mê tập luyện cho
VĐV.
1. Đánh giá thực trạng chung về
công tác huấn luyện thể lực chuyên
môn cho VĐV chạy 800m nữ lứa tuổi
17-18 các tỉnh khu vực Miền Trung và
Tây Nguyên.
- Trong công tác huấn luyện của các
địa phương đã lập ra được kế hoạch
khung cho một năm huấn luyện.
- Trong kế hoạch huấn luyện đã xây
dựng kế hoạch huấn luyện theo cấu trúc
chu kỳ năm, chu kỳ kép 2, chu kỳ kép 3,
song tỷ lệ người sử dụng kế hoạch huấn
luyện theo cấu trúc chu kỳ năm là chủ
yếu, thực tế theo chương trình thi đấu
các giải trong năm của liên đoàn Điền
kinh Việt nam trong một năm từ 3-6 giải,
cho nên trong quá trình xây dựng kế
hoạch huấn luyện chúng ta phải xác định
giải nào là giải quan trọng nhất, để từ đó
xây dựng cấu trúc chu kỳ huấn luyện
theo các đỉnh quan trọng, có như vậy
người làm công tác huấn luyện mới có
cơ sở để sử dụng khối lượng cũng như
phương tiện huấn luyện phù hợp với
từng mốc quan trọng, thành tích VĐV
mới đạt hiệu quả cao.
- Đã phân chia tỷ lệ phần trăm khối
lượng các phương tiện huấn luyện chung
T
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
13
và chuyên môn trong năm, nhưng tỷ lệ
người sử dụng phương tiện huấn luyện
chung/ huấn luyện chuyên môn theo tỷ lệ
50/50 chiếm ưu thế, là không hợp lý,
thực tế cho chúng ta thấy đối tượng huấn
luyện đang trong giai đoạn huấn luyện
chuyên môn hoá sâu, sử dụng tỷ lệ 50/50
là không hợp lý, dẫn đến khó có thể phát
triển thể lực chuyện môn cho VĐV chạy
800m.
- Trong kế hoạch huấn luyện đã xác
định các tố chất nhằm phát triển thể lực
chuyên môn cho VĐV chạy 800m,
nhưng tỷ lệ người sử dụng phát triển sức
nhanh chiếm đa số, thực tế hiện nay các
VĐV chạy cự ly trung bình thiếu sức bền
rất nhiều, các VĐV chạy 400m đầu còn
400m cuối thành tích giảm dần và không
duy trì được tốc độ cho đến hết cự ly.
- Xác định được các phương tiện
huấn luyện cơ bản để phát triển thành
tích chạy 800m, nhưng các phương tiện
huấn luyện cơ bản trên mới chỉ tập trung
phát triển sức nhanh, sức mạnh, sức bền
tốc độ, còn sức mạnh bền, sức bền
chung, sức bền chuyên môn và sức bền
hỗn hợp chưa được chú trọng tập trung
để phát triển.
- Đã sử dụng được một số test đặc
trưng để kiểm tra, đánh giá trình độ thể
lực chuyên môn cho VĐV chạy 800m,
nhưng các test trên mới chỉ tập trung
đánh giá sức nhanh, sức mạnh, sức bền
tốc độ, còn sức mạnh bền, sức bền chung
và chuyên môn chưa được sử dụng.
- Nội dung và phương pháp huấn
luyện chính chưa được phong phú, VĐV
khó có thể phát huy tính tích cực và
hứng thú trong tập luyện.
- Giải quyết các nhiệm vụ và biện
pháp trong nội dung huấn luyện chưa đi
vào chiều sâu chi tiết dẫn đến rất khó có
thể nâng cao thành tích thể thao.
- Điều kiện dụng cụ sân bãi, kết hợp
điều kiện tự nhiên cũng như khí hậu rất
tốt để có khả năng phát triển thành tích
chạy cự ly trung bình dài, nhưng trong
nội dung, phương tiện huấn luyện cơ bản
chưa tận dụng hết điều kiện tốt như: dốc,
đồi núi,cát, biển, khí hậu…vv. Để phát
triển thành tích chạy cự ly trung bình.
2. Những căn cứ xác định khối
lượng các phương tiện huấn luyện thể
lực chuyên môn cho VĐV chạy 800m ở
thời kỳ giai đoạn chuyên môn hóa sâu.
Trên cơ sở tham khảo một số tài liệu
về kế hoạch, nội dung huấn luyện cự ly
chạy 800m trong và ngoài nước kết hợp
thực tiễn như đã trình bày tại chương 3,
chúng tôi tiến hành lựa chọn và phỏng
vấn các chuyên gia, huấn luyện viên trên
cả nước về các test đánh giá trình độ thể
lực chuyên môn, đánh giá thực trạng thể
lực chuyên môn của 5 tỉnh khu vực miền
trung và tây nguyên, đề xuất và phỏng
vấn khối lượng phương tiện huấn luyện
thể lực chuyên môn, phân bố chu kỳ
huấn luyện. Kết quả được trình bày ở
bảng 4.1.
3. Phân bố khối lượng các phương
tiện huấn luyện thể lực chuyên của
VĐV chạy 800m nữ giai đoạn chuyên
môn hóa sâu
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
14
Theo cơ sở lý luận và đặc điểm tâm
sinh lý, đặc điểm huấn luyện, nguyên tắc
huấn luyện, học thuyết huấn luyện đã
trình bày ở phần tổng quan, đồng thời
chúng tôi dựa vào kế hoạch huấn luyện
chung của các tỉnh, cũng như dựa vào
điều kiện cơ sở vật chất dụng cụ, sân bãi
đặc biệt là về địa hình tự nhiên như: Khí
hậu, đồi núi, biển, đây là những yếu tố
thuận lợi nhất để phát triển thành tích
chạy cự ly trung bình
4. Kế hoạch huấn luyện cụ thể cho
VĐV chạy 800m nữ của các tỉnh thuộc
khu vực miền trung và tây nguyên
năm 2008. (chủ yếu giải thi đấu chính:
Trong đó giải quốc tế Hà nội mở rộng,
giải trẻ toàn quốc, giải vô địch toàn
quốc).
Bảng 4.3. Kết quả phỏng vấn kế hoạch huấn luyện cho VĐV chạy 800m nữ của
các tỉnh thuộc khu vực Miền Trung và Tây Nguyên (n = 30)
KẾT QUẢ
TT
CHU KỲ TG/
Tuần Đồng ý Tỷ lệ
% 1
Chu kỳ 1 (24 tuần)
- Chuẩn bị chung 1: Từ tuần 1 đến tuần 7 - Chuẩn bị chuyên môn 1: Từ tuần 7 đến tuần 18: - Chuẩn bị thi đấu và thi đấu1: Từ tuần 19 đến tuần 23: - Chuyển tiếp 1: Tuần 24
07
12
04
01
28
29
27
30
93,3
96,6
90
100 2
Chu kỳ 2 (12 tuần)
- Chuẩn bị chung 2: Từ tuần 25 đến tuần 66 - Chuẩn bị chuyên môn 2: Từ tuần 27 đến tuần 32: - Chuẩn bị thi đấu và thi đấu2: Từ tuần 33 đến tuần 35: - Chuyển tiếp 2: Tuần 36
02
06
03
01
29
29
27
30
96,6
96,6
90
100 3 Chu kỳ 3
(12 tuần) - Chuẩn bị chung : Từ tuần 37 đến tuần 38 - Chuẩn bị chuyên môn 3: Từ tuần 39 đến tuần 44: - Chuẩn bị thi đấu và thi đấu3: Từ tuần 45 đến tuần 47: - Chuyển tiếp 3: Tuần 48
02
06
03
01
29
27
28
30
96,6
90
93,3
100
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
15
Qua bảng phỏng vấn việc phân bổ
thời gian của các chu kỳ trong quá trình
huấn huấn luyện trên, chúng tôi thấy
người đồng tỷ lệ rất cao từ 90% trở lên.
Đó là bước đầu chúng tôi có cơ sở vững
chắc để tiến hành xây dựng nội dung
huấn luyện.
5. Nghiên cứu ứng dụng và đánh
giá hiệu quả nội dung huấn luyện thể
lực chuyên môn đã xây dựng cho VĐV
chạy 800m.
* Tổ chức thực nghiệm sư phạm:
Sau khi xây dựng được nội dung
huấn luyện và các test đánh giá thể lực
chuyên môn cho đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm sư
phạm trên 40 VĐV nữ của 5 tỉnh thuộc
khu vực miền trung và tây nguyên.
Nội dung chương trình huấn luyện
của 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng là
đều sử dụng các nhóm bài tập phát triển
thể lực chuyên môn, nhưng khác về tỷ lệ
phân bố thời gian của các nhóm bài tập
đặc trưng trong các thời kỳ của chu kỳ
huấn luyện và các phương pháp huấn
luyện khác.
Để đưa nội dung chương trình huấn
luyện đã xây dựng vào thực nghiệm,
chúng tôi đã kiểm tra ban đầu của 2
nhóm thông qua các test đã lựa chọn. Kết
quả kiểm tra ban đầu được trình bày ở
bảng 5.1:
Bảng 5.1: Kết quả kiểm tra đánh giá trước thực nghiệm của VĐV chạy 800m
nữ các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên (lứa tuổi 17-18) nA = 20, nB= 20.
Đ.Chứng 6.30 7 Bật xa 3 bước không đà (cm,m) T.Nghiệm 6.40
0,0061
4,58
<0,05
Đ.Chứng 22.50 8 Bật xa 10 bước không đà (cm,m) T.Nghiệm 23.0
0,081
4,49
<0,05
Đ.Chứng 2’17’’0 9 Thành tích chạy 800m ( giây, phút) T.Nghiệm 2’15’’5
0,0063 3,50
<0,05
Đ.Chứng 4’49’’8 10 Thành tích chạy 1.500m ( giây, phút) T.Nghiệm 4’47’’5
0,085 3,38
<0,05
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
17
Như vậy thành tích của nhóm thực
nghiệm trong 10 test sau thực nghiệm
đều tăng. Sau việc áp dụng nội dung bài
tập đã xây dựng có ý nghĩa ở ngưỡng xác
suất p > 5%.
Trong quá trình thực nghiệm ngoài
việc kiểm tra 10 tets đánh giá chỉ tiêu
trình độ thể lực trước và sau thực
nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra
thành tích thi đấu chạy 800m theo 3 chu
kỳ huấn luyện tương ứng với 3 giải thi
đấu chính trong năm:
Kết thúc chu kỳ I: Tiến hành kiểm
tra thành tích ở giải quốc tế mở rộng.
Kết thúc chu kỳ II: Tiến hành kiểm
tra thành tích ở giải vô địch trẻ toàn
quốc.
Kết thúc chu kỳ III: Tiến hành kiểm
tra thành tích ở giải vô địch toàn quốc.
* Thành tích sau thực nghiệm của các
Test cũng như chạy 800m thông qua các
thời kỳ HL đó là giai đoạn chuẩn bị
chung, giai đoạn chuẩn bị chuyên môn,
giai đoạn thi đấu, cũng như kết quả thực
nghiệm của các giải thi đấu, gồm giải
Quốc tế Hà nội mở rộng, giải vô địch
toàn quốc, vô địch trẻ. Thành tích giải
quốc tế Hà nội mở rộng của nhóm thực
nghiệm kém hơn nhóm đối chứng, điều
này có thể khẳng định rằng nhóm thực
nghiệm khi áp dụng phương pháp huyến
luyện mới cũng như phương tiện, khối
lượng bài tập, cơ thể VĐV xảy ra nhiều
biến đổi tâm sinh lý trong cơ thể của
VĐV, trong khoảng thời gian ngắn khi
thay đổi điều kiện tập luyện, môi trường,
phương tiện tập luyện VĐV khó có thể
bắt nhịp ngay để có thành tích cao được
đây là bước đầu các VĐV gặp rất nhiều
khó khăn thể hiện thành tích thi đấu
không tăng dẫn đến sự khác biệt không
có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất P > 0,05,
sau khi khắc phục được khó khăn ban
đầu thành tích VĐV tăng lên một cách rõ
rệt, chúng ta nhìn vào bảng trên thành
tích của giải vô địch trẻ so với thành tích
giải quốc tế Hà Nội mở rộng, nhóm thực
nghiệm có sự tiến bộ rõ hơn so giải quốc
tế Hà nội mở rộng, nhưng cũng chưa có
sự khác biệt giữa toán thống kê P>0,05.
Đặc biệt giải quan trọng nhất trong năm
giải vô địch Quốc gia thì thành tích của
nhóm thực nghiệm tốt hơn hẳn thể hiện
sự khác biệt ở toán thống kê cần thiết
P<0,05, từ những vấn đề phân tích trên
cho chúng tôi đi đến nhận xét sau:
- Sự phân chia thời gian cho các thời
kỳ huấn luyện thể lực chung, thể lực
chuyên môn và thời kỳ thi đấu là hợp lý,
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi cũng như
mục đích - điểm rơi đề ra.
- Các phương tiện mà chúng tôi đề ra
là phù hợp cho từng thời kỳ huấn luyện
luyện.
- Việc định hướng lượng vận động,
sắp xếp tỷ lệ huấn luyện cho các vận
dụng, như kỷ thuật, thể lực chung, thể
lực chuyên môn, kiểm tra thi đấu là hợp
lý.
- Ngoài ra cũng phải kể đến việc sắp
xếp lượng vận động trong mỗi tuấn, mỗi
tháng, ở trong các chu kỳ là phù hợp
khoa học.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
18
- Các giáo án đặc trưng trong mỗi
tuần ứng với từng thời kỳ huấn luyện là
có cơ sở.
6. Kết luận và kiến nghị:
* Kết luận:
Từ những kết quả nghiên cứu của đề
tài trên cho phép chúng tôi rút ra những
kết luận sau:
1. Thực trạng công tác huấn luyện đội
tuyển chạy cự ly trung bình của các tỉnh
khu vực miền trung, tây nguyên: Về
công tác chuẩn bị xây dựng kế hoạch
huấn luyện chưa hợp lý thể hiện ở chổ
chương trình thi đấu của liên đoàn điền
kinh Việt Nam và ngành TDTT một năm
có từ 3- 6 giải thi đấu, trong đó có cả giải
thi đấu với quy mô nhỏ và giải thi đấu có
quy mô lớn, nhưng trong kế hoạch huấn
luyện năm chưa xây dựng được kế hoạch
chi tiết theo từng mộc, từng chu kỳ quan
trọng, mà chí mới xây dựng kế hoạch
chung cho một năm.
- Tỷ lệ phân chia khối lượng các
phương tiện huấn luyện chung và huấn
luyện chuyên môn là 50:50 là chưa hợp
lý với giai đoạn huấn luyện chuyên môn
hoá sâu, như vậy VĐV khó có thể đạt
được trình độ thể lực chuyên môn tốt thể
hiện trong tập luyện cũng như trong thi
đấu.
- Các phương tiện huấn luyện chuyên
môn cơ bản chỉ mới tập trung phát triển
sức nhanh, sức mạnh, sức bền tốc độ,
chưa chú trọng tập trung phát triển sức
bền ưa khí, sức bền yếm khí, sức bền
hỗn hợp và sức mạnh bền, đây là những
yếu tố cơ bản quyết định đến thành tích
chạy 800m.
- Sử dụng các test đặc trưng để đánh
giá trình độ thể lực chuyên môn cho
VĐV mới biểu hiện sức SN, SM, SBTĐ
còn thiếu một số test đặc trưng để đánh
giá SBC, SBCM, SMB.
2. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích
thực trạng đề tài nghiên cứu đề xuất:
+ Tỷ lệ huấn luyện chung/ tỷ lệ huấn
luyện chuyên môn là 40:60 ( huấn luyện
chung chiếm 40% huấn luyện chuyên
môn chiếm 60%.
+ Với tổng số 540 buổi tập. Thời gian
cho mỗi buổi tập chính tuỳ theo khối
lượng bài tập đã được xây dựng, buổi tập
phụ 90- 120 phút.
+ Tổng khối lượng chạy 5.855km/48
tuần và 190 giờ.
+ Các bài tập bật nhảy, chạy phát
triển sức mạnh thần kinh cơ: 500km.
+ Các bài tập phát triển sức mạnh
khắc phục với tạ: 36.000kg.
3. Kết quả thực nghiệm đã cho thấy
tính hiệu quả rõ rệt trong chương trình
huấn luyện. Kết quả kiểm tra cho thấy
các chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực
trước và sau thực nghiệm có sự khác biệt
rõ rệt và nó có ý nghĩa ở ngưỡng xác
suất P>0,05. Ngoài ra thành tích thi đấu
chạy 800m cũng có sự chuyển biến rõ
theo các giải thi đấu chính trong năm,
tương ứng với các chu kỳ huấn luyện.
Chu kỳ I: Thành tích thi đấu chạy
800m chưa có sự khác biệt giữa nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng P>0,05.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
19
Chu kỳ II: Thành tích thi đấu chạy
800m có sự khác biệt giữa nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng nhưng chưa
rõ rệt P>0,05.
Chu kỳ III: Thành tích thi đấu chạy
800m có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng P<0,05.
2. Kiến nghị:
1. Qua việc nghiên cứu đề tài cho
thấy, hệ thống các phương tiện huấn
luyện đã xác định được coi là hệ thống
các phương tiện cần thiết phải áp dụng
trong thực tiễn huấn luyện thể lực
chuyên môn cho nữ VĐV chạy 800m
giai đoạn chuyên môn hóa sâu và phải
cần coi đây là tư liệu chuyên môn cho
các huấn luyện viên khi huấn luyện thể
lực chuyên môn cho VĐV chạy cự ly
trung bình.
2. Đề tài phải được tiếp tục nghiên
cứu trên diện rộng nhằm nâng cao hơn
nữa độ chính xác và độ tin cậy của nội
dung huấn luyện thể lực đã xây dựng đối
với các đối tượng khác nhau và trong các
giai đoạn huấn luyện khác nhau của chu
kỳ huấn luyện nhiều năm đối với các
VĐV chạy cự ly trung bình.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
20
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC MẠNH TỐC ĐỘ CHO NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU CẦU LÔNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỂ DỤC THỂ THAO ĐÀ NẴNG
Th.s Phan Thị Thanh Hà Bộ môn Cầu lông – Quần vợt
1. Đặt vấn đề:
ức mạnh tốc độ biểu hiện trong
cầu lông là khả năng di chuyển
nhanh để thực hiện các động tác như:
Nhảy đập cầu, bạt cầu, đẩy cầu..., là khả
năng xử lý các tình huống bất ngờ trong
khoảng thời gian ngắn nhất và có sức
mạnh. Trong cầu lông thường có từ 80 -
85% các kỹ thuật đòi hỏi phải có sức
mạnh tốc độ để đánh cầu.Thực tế quan
sát ở một số giải trong cả nước cũng như
xem trên băng hình cho chúng ta thấy
rằng sức mạnh tốc độ rất quan trọng,
nhất là trong những tình huống căng
thẳng để dành giật từng điểm. Nếu
không có sức mạnh tốc độ sẽ dẫn đến
mất điểm hoặc thua cuộc.
Đối với sinh viên chuyên sâu cầu
lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng
cũng vậy, nếu không có sức mạnh tốc độ
được phát triển tương xứng cũng khó
nâng cao năng lực cầu lông cho các em.
Nhưng để phát triển sức mạnh tốc độ,
vấn đề đầu tiên là phải xác định sức
mạnh tốc độ bằng những chỉ tiêu nào?
Chính vì vậy, đề tài tiến hành nghiên cứu
lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá sức mạnh
tốc độ cho sinh viên chuyên sâu cầu lông
Trường Đại học TDTT Đà Nẵng, góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn
cầu lông, đặc biệt là tố chất sức mạnh tốc
độ cho sinh viên.
2. Phương pháp và tổ chức nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp kiểm tra sư phạm.
- Phương pháp toán học thống kê.
Để giải quyết vấn đề nêu ra, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát trên 55 sinh viên
chuyên sâu thuộc năm thứ nhất, thứ hai
và thứ ba. Thời gian tiến hành từ tháng
1/2007 đến tháng 8/2007 ở Trường Đại
học TDTT Đà Nẵng.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu lựa chọn các chỉ tiêu
đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam sinh
viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại
học TDTT Đà Nẵng.
Để xác định được các chỉ tiêu đánh
giá sức mạnh tốc độ cho sinh viên
chuyên sâu cầu lông Trường Đại học
TDTT Đà Nẵng, trước hết thông qua
phân tích các tài liệu có liên quan, qua
quan sát các buổi kiểm tra đánh giá trình
độ VĐV các lứa tuổi để tìm ra các chỉ
tiêu thường được sử dụng để đánh giá
sức mạnh tốc độ cho VĐV nói chung,
sau đó chúng tôi đưa các chỉ tiêu đã lựa
chọn vào phiếu phỏng vấn và phỏng vấn
các giảng viên, HLV nhằm tìm ra những
S
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
21
chỉ tiêu đặc trưng nhất để đánh giá sức
mạnh tốc độ cho sinh viên chuyên sâu
cầu lông Trường Đại học TDTT Đà
Nẵng.
Để tìm được các chỉ tiêu phù hợp
trong đánh giá sức mạnh tốc độ cho sinh
viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại
học TDTT Đà Nẵng, đề tài thực hiện hai
lần phỏng vấn bằng phiếu, theo cùng một
cách đánh giá và trên cùng một đối
tượng.
Kết quả cuối cùng của phỏng vấn là
tối ưu nhất nếu giữa hai lần phỏng vấn
có sự trùng hợp cao và có sự nhất trí cao
các chỉ tiêu đều đạt 70% điểm tối đa trở
lên.
Hai lần phỏng vấn được tiến hành cách
nhau một tháng với cách trả lời như sau:
Rất quan trọng : 4 điểm
Quan trọng : 3 điểm
Ít quan trọng : 2 điểm
Không quan trọng : 1 điểm
Lần phỏng vấn thứ nhất phát ra 30
phiếu thu về 26 phiếu. Ở lần phỏng vấn
thứ hai, chúng tôi vẫn phát ra 30 phiếu
trên cùng đối tượng như lần một và thu
về 24 phiếu.
Kết quả phỏng vấn (bảng 3.1) cho
thấy chỉ có 06 chỉ tiêu đảm bảo yêu cầu
đặt ra để đánh giá sức mạnh tốc độ cho
nam sinh viên chuyên sâu cầu lông.
BẢNG 3.1: KẾT QUẢ PHỎNG VẤN CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC
MẠNH TỐC ĐỘ CỦA NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU CẦU LÔNG
Kết quả PV lần 1
n = 26
Kết quả PV lần 2
n = 24 TT Các chỉ tiêu
Điểm % Điểm %
1 Ném quả cầu lông xa (m) 88 88.61 82 85.42 2 Ném bóng đặc 3kg bằng 2 tay trên cao ra
trước (m) 67 64.42 64 66.66
3 Treo gập bụng trên thang dóng 20s (lần) 82 78.84 76 79.16 4 Nhảy dây đơn 30s (lần) 85 81.73 79 82.29 5 Nằm sấp chống đẩy tối đa sức 20s (lần) 68 65.38 62 64.58 6 Bật xa tại chỗ (m) 90 86.53 83 86.45 7 Bật cao tại chỗ (cm) 66 63.46 61 63.54 8 Bật nhảy 1 chân 10 bước (m) 69 66.34 63 65.62 9 Cầm tạ 1,5kg mô phỏng động tác đánh cầu thấp
tay 20s (lần) 69 66.34 65 67.70
10 Lăng vợt nặng mô phỏng động tác đập cầu 30s (lần)
67 64.42 63 65.62
11 Luân phiên giậm nhảy vụt cầu bên trái và bên phải chéo qua đầu 10 lần/bên (s)
68 65.38 64 66.66
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
22
12 Bật nhảy đập cầu mạnh 30s (quả) 92 88.46 86 89.58 13 Di chuyển ngang sân đơn lăng vợt phải trái 20
lần (s) 89 85.57 80 83.33
14 Di chuyển ngang sân 5m 20s (lần) 70 67.3 66 68.75 15 Di chuyển tiến lùi theo đường thẳng 7 lần (s) 66 63.46 63 65.62 16 Di chuyển 4 góc sân 5 lần (s) 66 63.46 63 64.58
Để đảm bảo tính khách quan của các chỉ tiêu đã lựa chọn qua phỏng vấn, chúng tôi tiếp tục tiến hành xác định độ tin cậy và tính thông báo của chúng.
3.2. Xác định độ tin cậy của các chỉ tiêu đánh giá sức mạnh tốc độ của nam sinh viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng.
Để xác định độ tin cậy của 6 chỉ tiêu đã lựa chọn qua phỏng vấn nhằm đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam sinh viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm bằng phương pháp test lặp lại cách nhau 7 ngày trên 55 nam sinh viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng (các khóa Cao đẳng 7, 8 và 9) ở nhóm theo dõi ngang (nhóm quan trắc sư phạm) theo từng năm học (từ năm thứ nhất đến năm thứ ba trong chương trình đào tạo). Tuần tự lập test của các đối tượng và quãng nghỉ giữa hai lần lập test cùng điều kiện kiểm tra đều được đảm bảo như nhau. Kết quả thu được như trình bày ở bảng 3.2.
Như vậy, qua bảng 3.2 ta thấy: Trong 6 chỉ tiêu đã lựa chọn qua phỏng vấn có 5 chỉ tiêu đạt độ tin cậy r > 0.80 với P < 0.05 tức là đảm bảo độ tin cậy cần thiết để sử dụng. Đó là các chỉ tiêu:
- Ném quả cầu lông xa (m). - Nhảy dây đơn 30 giây (lần).
- Bật xa tại chỗ (m). - Bật nhảy đập cầu 30 giây (quả). - Di chuyển ngang sân đơn lăng vợt
phải trái 20 lần (giây). Còn lại, chỉ tiêu treo gập bụng trên
thang dóng 20 giây (lần) do có hệ số tương quan r < 0,80 tức là không đủ độ tin cậy sử dụng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn huấn luyện và giảng dạy với đối tượng sinh viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng cho nên chúng tôi loại ra khỏi vòng thử nghiệm tiếp theo của đề tài.
Như vậy, sau khi khảo sát độ tin cậy của 6 chỉ tiêu qua phỏng vấn, chúng tôi chọn được 5 chỉ tiêu đủ độ tin cậy cần thiết để đánh giá sức mạnh tốc độ cho sinh viên chuyên sâu cầu lông Trường Đại học TDTT Đà Nẵng. Cụ thể gồm:
1. Ném quả cầu lông xa (m). 2. Nhảy dây đơn 30 giây (lần). 3. Bật xa tại chỗ (m). 4. Bật nhảy đập cầu mạnh 30 giây
(quả). 5. Di chuyển ngang sân đơn lăng vợt
phải trái 20 lần (giây). Để đảm bảo tiêu chuẩn của một test,
chúng tôi tiếp tục tiến hành xác định tính thông báo của 5 chỉ tiêu kể trên.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
23
BẢNG 3.2. KẾT QUẢ XÁC ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY CỦA HỆ THỐNG CÁC TEST ĐÁNH GIÁ SỨC MẠNH TỐC ĐỘ CHO
NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU CẦU LÔNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG.
Tài liệu tham khảo 1. Aulic I. V (1982), Đánh giá trình độ tập luyện thể thao, (Phạm Ngọc
Trâm - dịch) NXB TDTT, Hà Nội.
2. Banda Revski I. A (1970), Độ tin cậy của các test thực nghiệm trong thể thao,
NXB TDTT, Mat-xcơ-va.
3. Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Nguyễn Hiệp (1983), Lý luận phương
pháp huấn luyện thể thao, Sở TDTT Thành phố HCM.
4. Dương Nghiệp Chí và cộng sự (2004), Đo lường thể thao, NXB TDTT, Hà Nội.
5. Lê Thanh Sang (1994), “Cầu lông”, Tập bài giảng cho sinh viên chuyên sâu
cầu lông, Đại học TDTTI, Bắc Ninh.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
26
GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA TÌNH TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN Th.S Đặng Trần Thanh Ngọc
Bộ môn Khoa học cơ bản
1. Đặt vấn đề
rong đời sống xã hội pháp luật
đóng vai trò vô cùng quan trọng,
pháp luật là phương tiện quan trọng
không thể thiếu đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển xã hội. Tuy nhiên, pháp luật
khộng phải là phương tiện duy nhất để
điều chỉnh hành vi của con người, quản
lý xã hôi mà còn có các quy phạm xã hôị
khác như quy phạm đạo đức, phong tục,
luật tục, hương ước… cùng hỗ trợ, bổ
sung cho nhau, trong đó quy phạm đạo
đức và quy phạm pháp luật giữ vị trí
trung tâm, có vai trò quan trọng nhất.
Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định
"Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng
thời coi trọng giáo dục đạo đức, nâng
cao đạo đức". Vì vậy, giáo dục nhằm
nâng cao ý thức đạo đức, pháp luật cho
mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt với
đối tượng học sinh, sinh viên (HSSV)
vốn là những chủ nhân tương lai của đất
nước là vấn đề thiết yếu. Thời gian qua,
được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội, công tác tuyên truyền,
giáo dục đạo đức, pháp luật đã đạt được
những thành tựu đáng kể , góp phần và
việc xây dựng lối sống lành mạnh cho đa
số HSSV. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa
nhận trong thực tế có một bộ phận không
nhỏ HSSV không chịu tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, đua đòi, buông thả dẫn
đến vi phạm pháp luật và gần đây tình
trạng vi phạm pháp luật của HSSV ở
mức "báo động" cả về số lượng và mức
độ nghiêm trọng. Do đó, viêc nghiên cứu
một cách toàn diện tình hình vi phạm
pháp luật của HSSV nhằm đưa ra những
giải pháp nhằm ngăn ngừa vi phạm trong
HSSV có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn, góp phần vào việc thực hiện mục
tiêu phát triển toàn diện, để HSSV trở
thành người lao động "kiểu mới" có trình
độ chuyên môn, năng động, sáng tạo có
khả năng vươn đến nền kinh tế tri thức
đồng thời là lớp người có đạo đức, có
kiến thức pháp luật để sống và làm việc
trong nhà nước pháp quyền xã hôi chủ
nghĩa với xu thế hội nhập quốc tế, môi
trường toàn cầu hoá mà không đánh mất
bản sắc và truyền thống văn hoá của dân
tộc.
2. Thực trạng vi phạm pháp luật
trong học sinh, sinh viên
Liên tiếp trong thời gian ngắn, các cơ
quan bảo vệ pháp luật đã bắt và xét xử
nhiều vụ án có tính chất nghiêm trọng
mà đối tượng là học sinh, sinh viên
(HSSV) như vụ trọng án kinh hoàng, giết
người trên xe ô tô Lexus xảy ra vào đêm
14/02/2009 ở Kim Mã (Hà Nội) do nữ
sinh viên năm thứ tư Trường Đại Học Sư
phạm Hà Nội I là Vũ Thị Kim Anh gây
ra.
T
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
27
Ngày 18/03/2009 Toà án nhân dân
Thành phố Hà Nội xét xử nhóm sinh
viên Trương Cao Đẵng Giao Thông vận
tải Thái Nguyên về hành vi giết người và
cướp tài sản ở xã Đồng Ngạc, huyện Từ
Liêm , Hà Nội .Toà đã tuyên phạt Hồ
Thìn, tên cầm đầu 17 năm tù, các đồng
phạm của Thìn mỗi tên nhận từ 5-7 năm
tù. Nghe xong lời tuyên án , tất cả thành
viên trong nhóm cướp sinh viên đều bật
khóc nức nỡ vì phải trả giá quá đắt cho
hành vi nông nổi của mình, đã đánh mất
tương lai vì phút giây bồng bột.
Vũ Thị Kim Anh và nhóm bị cáo nguyên là sinh viên Trường Cao đẳng GTVT
Thái Nguyên.
Ngoài ra, tối 4/5/2009, Công an
phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội đã kiểm tra hành chính tại quán cà
phê Meloly 321 Phúc Tân và phát hiện
18 người, cả nam và nữ, hầu hết là học
sinh ở Hà Nội đang "lắc" trong tiếng nhạc ồn ã. Khám xét tại chỗ, cơ quan
Công an thu giữ một gói chứa 339 gam
cần sa. Kết quả test cho thấy, nhiều đối tượng trong số này đã có phản ứng
dương tính với ma túy tổng hợp
Hoặc ngày 27-6-2009, Nguyễn Hữu
Quý (SN 1985), trú huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị là SV Trường Đại học Bách
khoa Đà Nẵng, do thiếu tiền nợ cá độ
bóng đá nên Quý đã thực hiện liên tiếp 3
vụ trộm cắp xe máy tại chính trường mình học. Quý là SV năm cuối, đã thi tốt
nghiệp và chờ lấy bằng ra trường kiếm
việc làm, chỉ vì ham mê cờ bạc, ham
chơi mà Quý đã chôn vùi tương lai tốt đẹp của mình trong nhà tù.
Bên cạnh đó, sự gia tăng đột biến của
tệ nạn ma túy học đường ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối. Theo thống kê
của Viện kiểm sát nhân dân tối cáo. Nếu
như năm 2004, chỉ có 600 HSSV nghiện
ma túy, thì đến năm 2007 con số này đã tăng lên 1.234 học sinh, sinh viên. Có tới
600 trường hợp học sinh, sinh viên trên
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
28
địa bàn Hà Nội vi phạm Luật giao thông trong tháng 9/2009 thậm chí có những
trường hợp học sinh, sinh viên còn
chống lại lực lượng làm nhiệm vụ. Điều
đáng nói là ý thức đạo đức, pháp luật của học sinh ở những bậc học càng cao càng
có chiều hướng đi xuống. Theo kết quả
khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam, tỉ lệ học sinh đi
học muộn: Tiểu học 20%, THCS 21%,
THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: Tiểu học 8%,
THCS 55%, THPT 60%; tỉ lệ nói dối cha mẹ: Tiểu học 22%, THCS 50%, THPT
64%; tỉ lệ không chấp hành ATGT: Tiểu
học 4%, THCS 35%, THPT 70%, những con số này cho thấy càng lớn, ý thức đạo
đức của học sinh càng đi xuống. Năm
2007, tại cuộc điều tra khảo sát tại 30
trường ĐH, CĐ trong cả nước - do Vụ Văn hoá - Ban TTVHTƯ phối hợp với
Vụ Công tác học sinh - sinh viên (Bộ
GDĐT) đã đưa ra con số rất đáng suy nghĩ: 51,4% sinh viên cho rằng "sống
thử trước hôn nhân là hiện tượng khá
phổ biến" và được coi là "bình thường".
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an về trật tự xã hội trong
năm năm trở lại đây, có đến 47.000 vụ
phạm pháp hình sự do HSSV gây ra. Sáu
tháng đầu năm 2009 trên cả nước xảy ra 25.508 vụ phạm pháp hình sự. Lực lượng
cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội công an các đơn vị, địa phương đã điều tra khám phá 18.597 vụ, bắt giữ xử
lý 27.396 đối tượng; triệt phá 1.986 băng
nhóm tội phạm hình sự, xử lý 6.484 đối
tượng. Trong số đối tượng gây án, tỷ lệ HS, SV chiếm 3,6%, trong đó có nhiều
vụ án đặc biệt nghiêm trọng như giết bạn cùng lớp, cùng trường, giết cướp.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được
tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ
phận giới trẻ hiện nay có nhiều bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp hành nội
quy, kỷ luật của nhà trường, chấp hành
pháp luật đến những hành vi tiêu cực trong học tập, thi cử của HSSV và sự
xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào học
đường
Từ thực trạng trên, chúng ta thấy tình trạng vi phạm pháp luật của HSSV thực
sự là một bức tranh với sắc màu ảm
đạm.Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự xuống cấp trong đạo đức cũng như hành
vi lệch chuẩn và dẫn đến vi phạm pháp
luật của HSSV? Phải chăng đang xuất
hiện tỷ lệ nghịch giữa kiến thức và ý thức pháp luật trong một bộ phận
HSSV?
3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh, sinh
viên HSSV nhìn chung là tầng lớp xã hội
tiến bộ, được trang bị hệ thống kiến thức tương đối toàn diện, họ là những người
năng động và sáng tạo, tích cực và nhạy
bén trọng các quan hệ xã hội. Tuy nhiên,
HSSV còn có hạn chế là nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi, dễ bị kích động,
khó kiềm chế, đôi khi tự cao và đặc biệt
là hiểu biết pháp luật chưa toàn diện và sâu sắc.
Theo nghiên cứu của nhiều giới: Các
nhà tâm lý học và giáo dục học…cho
thấy HSSV vi phạm pháp luật chủ yếu do hạn chế, yếu kém từ nhiều phía: Gia
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
29
đình - Nhà trường - Xã hội, trong đó quan trọng nhất là môi trường gia đình.
Nhiều trường hợp cha mẹ vì nhiều lý
do khác nhau mà chưa quan tâm đúng
mức đến việc giáo dục con, buông lỏng quản lý dẫn đến các em sống tự do và dễ
bị lôi kéo vào tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật. Ngoài ra, sự thiếu gương mẫu của các thành viên trong gia đình cũng là
yếu tố quan trọng dẫn đến tình trạng vi
phạm pháp luật của HSSV. Bên cạnh đó,
có một số gia đình cha mẹ dù rất thương yêu con nhưng do không hiểu đặc điểm
tâm sinh lý con đang giai đoạn phát triển
nhân cách nên cách ứng xử không phù hợp hoặc có sự sai lầm trong phương
pháp giáo dục con như quá muông chiều
con hoặc quá khắc khe…với con cũng
dẫn đến hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật của các em. Trở thành sinh
viên (SV) là ước mơ của tất cả những cô
cậu học trò. Vì vậy trong những năm học phổ thông các em phân đấu không mệt
mỏi để đạt ước mơ của mình nhưng khi
bước và cổng giảng đường đại học thì
một số em có tâm lý nghỉ "xả hơi" , lơ là việc học tập , thậm chí còn quan niệm
“Sinh viên không ăn chơi không phải là
sinh viên”, "Chơi gấp không hết mất đời
sinh viên"… Từ những suy nghĩ tiêu cực đó, một số sinh viên không làm chủ bản
thân bị bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo dẫn đến
đua đòi, ăn chơi rồi dần dần sa ngã… Biết bao sinh viên dù trước đó rất ngoan
hiền nhưng khi bước vào giảng đường,
do có nhiều mối quan hệ (cả tốt lẫn xấu),
họ đã bắt đầu con đường hư hỏng và trở thành một con người hoàn toàn khác. Hệ
lụy của những việc này là nhiều sinh viên sa vào tệ nạn xã hội như rượu chè,
cờ bạc, lô đề, cá độ bóng đá…dẫn đến
nợ nần, túng quẫn. Khi nợ nần chồng
chất, không còn nguồn nào để xoay xở trả nợ thì rủ nhau đi trộm cắp, cướp giật,
cưỡng đoạt tài sản, giết người. Điển
hình, do ăn chơi đua đòi, mê cá độ bóng đá, bài bạc nên một sinh viên Trường
Đại học DLDT đã mượn xe máy của
người yêu đi cầm cố rồi không có tiền trả
nợ, phải treo cổ tự tử. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục đạo đức, pháp luật
trong nhà trường từ bậc tiểu học và bậc
lớn hơn hiện nay chưa phù hợp, nặng về tính hàn lâm, giáo điều hoặc quá lạc hậu
cũng như đội ngũ giáo viên chưa đồng
bộ dẫn đến tâm lý nhàm chán, ảnh hưởng
đến hiệu quả giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường. Ngoài ra, trong nền
kinh tế thị trường đầy biến động, sự
thiếu nhiệt tình và nỗi lo mưu sinh của một số thầy cô giáo cùng với hiện tượng
vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật
nghiêm trọng của một số ít nhà giáo
thoái hoá, biến chất trong thời gian gần đây như giáo viên đánh bố đẻ ở Mê Linh,
Hà Nội, hiệu trưởng mua dâm nữ sinh ở
Hà Giang , thầy giáo tiểu học ở Hà Tĩnh
cưỡng bức bé gái 9 tuổi... làm hình tượng người thầy ít nhiều bị lu mờ, làm
giảm sút niềm tin của xã hội nói chung
và của HSSV nói riêng đối với người thầy, khiến HSSV không có "điểm tựa"
để phấn đấu. Một khi vai trò của người
thầy không còn được đề cao như trước
thì việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong bộ phận HSSV hiện nay là vấn đề
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
30
thiết yếu. Tâm lý của con người bị chi phối không chỉ do gia đình và nhà trường
mà môi trường xã hội có vai trò rất quan
trọng trong sự hình thành và phát triển
nhân cách. Hiện nay, chất lượng cuộc sống ngày càng cao, HSSV có nhiều cơ
hội tiếp xúc nhiều luồng văn hoá, thông
tin khác nhau trong đó có những luồng văn hoá độc hại như trò chơi điện tử
nặng về tính bạo lực, sách báo, văn hoá
phẩm đồi trụy, kích động bạo lực, chém
giết trong khi đó HSSV ở trong giai đoạn hoàn thiện nhân cách nên những hiện
tượng tiêu cực đó dễ dàng tác động xấu
đến đầu óc non trẻ của các em. Sau 30 năm nghiên cứu, bốn hiệp hội bảo vệ sức
khỏe và tâm lý quốc gia lớn nhất của Mỹ
gồm Hội Y tế Mỹ, Học viện Nhi khoa,
Hiệp hội Tâm lý và Học viện Trẻ em và vị thành niên tuyên bố: “Xem phim ảnh,
chơi game bạo lực lâu ngày có thể dẫn
đến việc lãnh đạm với bạo lực ngoài đời thật, thậm chí chấp nhận chúng. Những
ảnh hưởng này rất rõ rệt và tồn tại rất
lâu trong tâm lý các em”. Trường hợp
Nghiêm Viết Thành (sinh năm 1991) học sinh trường Trung học phổ thông Dân
lập Thành Đông, TP Hải Dương giết bố
đẻ, chặt xác để phi tang vào tháng
5/2009 là một trong những minh chứng điển hình tác hại của game online. Trước
lúc gây án Thành vốn là con nghiện
game online. Thành và cô bạn cùng lớp "hoá mình" thành hai nhân vật Sóng và
Gió đi chinh phạt và chém giết nhau
trong một trò chơi, khi bị bố mắng vì
mải chơi điện tử không lo học, Thành đã dùng dao rựa chém chết bố sau đó cưa
xác ra 5 khúc vứt gần sông Sặt để phi tang. Sau đó, Thành mở két sắt gia đình
lấy 8 triệu đồng. Chỉ trong 2 ngày,
Thành đã nướng hết 5 triệu vào trò chơi
game. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến tình hình phạm tội của HSSV có thể
được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau nhưng mấu chốt là khiếm khuyết trong công tác giáo dục của gia đình, nhà
trường và xã hội mà đặc biệt là vai trò
của gia đình.
4. Giải pháp ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật cuả học sinh, sinh
viên Hành vi vi phạm pháp luật trong
HSSV là mối lo ngại của gia đình và
toàn xã hội. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để các em định hình một lối sống phù
hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật? Việc hạn chế và ngăn chặn tình trạng
HSSV phạm pháp luật cần sự vào cuộc
của tổng thể xã hội. Bởi lẽ, giáo dục toàn diện và chiều sâu không chỉ ở các môn
học, giờ học trong nhà trường mà gồm cả
cách ứng xử giũa cha mẹ - con , thầy -
trò và sự quan tâm của toàn xã hội đối với các em. Do đó, chúng ta cần:
- Thứ nhất, Xây dựng đời sống lành
mạnh trong gia đình và xã hội cũng như
nêu cao vai trò gương mẫu của người lớn - cả cha mẹ và thầy cô giáo về đạo đức,
lối sống cũng như cách ứng xử, đó là cơ
sở quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả giáo dục đối với con em chúng ta. Các
thầy cô giáo, cha mẹ cần thương yêu,
gần gũi các em, tạo niềm tin đồng thời là
chỗ dựa tinh thần cho các em để các em có thể tin tưởng , chia sẽ những tâm tư,
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
31
tình cảm cũng như những khó khăn, rắc rối trong cuộc sống để kịp thời uốn nắn.
Nếu chúng ta làm tốt vấn đề này thì
những hành vi tiêu cực, lệch chuẩn thậm
chí vi phạm pháp luật của các em sẽ không có cơ hội bộc lộ ra bên ngoài.
Nghiên cứu của Tiến Sĩ Dương Diệu
Hoa (ĐH Sư phạm Hà Nội) cho rằng: “Phần đông học sinh gặp khó khăn về
tâm lý không tìm đến thầy cô giáo và cha
mẹ vì người lớn đã làm chúng thất vọng
và đổ vỡ niềm tin". Về lâu dài, các cơ sở giáo dục cần thành lập phòng tư vấn tâm
lý - hướng nghiệp cho HSSV. Họ sẽ lắng
nghe, chia sẻ, giúp đỡ để giải tỏa ngay những thắc mắc, băn khoăn, bức xúc...
của các em. Tránh tình trạng các em bị
dồn nén tâm tư, đến lúc bộc phát thì gây
ra hậu quả khó lường. Ngoài ra, gia đình là cái nôi đầu tiên
thiết lập những giá trị đạo đức nền tảng
của đứa trẻ, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách HSSV.
Cổ ngữ có câu: "Ở nhà phải thói, ra
đường khỏi lo" nên các gia đình cần
quan tâm nhiều hơn đến con, trang bị cho các em kỹ năng sống, kỹ năng giao
tiếp, có bản lĩnh vững vàng để có thể
"miễn dịch" với những thói hư tật xấu
ngoài xã hội. - Thứ hai, Bộ BGDĐT cần từng
bước cải cách chương trình giáo dục đạo
đức, pháp luật của các bậc học cho phù hợp với HSSV. Chưong trình nên giảm
tối đa những vấn đề lớn lao, xa rời thực
tế mà cần hướng đến vun đắp cho các em
những giá trị đạo đức cơ bản như lòng nhân ái, tính trung thực, lối sống lành
mạnh, có trật tự kỹ cương đồng hành với kiến thức pháp luật cơ bản gắn liền với
cuộc sống đời thường. Do đó, phương
pháp giáo dục đạo đức, pháp luật theo
kiểu "Học thuộc lòng" không còn phù hợp nữa mà giáo dục phải gắn liền với
thưc tiễn. Thông qua việc giải quyết các
tình huống thực tế, các em có thể nhận thức giá trị đạo đức, định hướng hành vi
ứng xử phù hợp đạo đức, pháp luật Từ
đó, hình thành cho các em thói quen cư
xử đạo đức, kỹ năng sống đúng đắn cũng như thói quen hành xử theo pháp luật .
Riêng đối với giáo dục đại học, cao
đẵng, trung cấp chuyên nghiệp, hiện nay Bộ GDĐT đã ban hành chương trình
môn học pháp luật dùng cho đào tạo
trình độ trung cấp chuyên nghiệp theo
Quyết định số 33/2008/QĐ-BGDĐT ngày 01/07/2008 và đã biên soạn giáo
trình Pháp Luật mới dành cho trình độ
trung cấp chuyên nghiệp, xuất bản vào tháng 10/2009, nhưng chương trình môn
pháp luật của đại học rất cũ, lạc hậu (ban
hành từ năm 1995). Do đó, Bộ GDĐT
cần nhanh chóng xây dựng chương trình, giáo trình môn Pháp Luật Đại Cương
mới cho phù hợp để sử dụng trong các
trường đại học, cao đẵng không chuyên
luật. Ngoài ra, các trường cần bổ sung môn Pháp luật Đại cương vào nội dung
chương trình chính khoá của tất cả các
ngành đào tạo đại học, cao đẵng, trung cấp chuyên nghiệp theo tinh thần của
Nghị quyết 61/2007/NQ-CP ngày
07/12/2007của Chính Phủ, Chỉ thị
45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/08/2007 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo và được cụ
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
32
thể hoá theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 và Quyết định số
1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ
tướng Chính Phủ về việc Phê duyệt Đề
án "Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà
trường"
-Thứ ba, Để làm trong sạch môi trường giáo dục trong hệ thống các
trường Đại học, Cao đẳng, ngoài những
chế tài xử lý hiệu quả của cơ quan chức
năng đối với những trường hợp HSSV vi phạm pháp luật, nhà trường, gia đình cần
tăng cường công tác quản lý, giáo dục
HSSV. Bản thân, mỗi HSSV cần phải xây dựng cho mình một ý thức học tập,
lối sống lành mạnh, tránh xa các cám dỗ
là mầm mống nảy sinh tội phạm. Nhà
trường cần chú trọng hơn nữa trong công tác quản lý, giáo dục các em. Các trường
cần tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát sinh hoạt của học sinh trong giờ học, các buổi ngoại khóa và tại các ký túc xá,
nhà trọ nơi HSSV thường trú, đặc biệt
với đối tượng là SV bởi vì phần đông SV
phải sống xa gia đình nên trong cuộc sống hằng ngày, sự quản lý, giáo dục từ
phía cha mẹ không còn như những năm
học phổ thông và việc quản lý họ phải
dựa vào nhà trường. Tuy nhiên, hiện nay ký túc xá thiếu trầm trọng, SV sống rải
rác nhiều nơi lại thường xuyên thay đổi
chỗ ở nên việc quản lý SV các trường gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, nếu
các phong trào hoạt động của nhà
trường, Đoàn Thanh niên tạo ra được sân
chơi lành mạnh, bổ ích đủ sức hấp dẫn có thể thu hút đông đảo HSSV tham gia
cũng cũng góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục, giúp các em
xa rời các tệ nạn xã hội vốn là nguồn gốc
phát sinh tội phạm.
- Thứ tư, Các cơ quan chức năng cần có sự quản lý, giám sát đối với các cơ sở
kinh doanh, giải trí tiềm ẩn nguy cơ vi
phạm pháp luật như dịch vụ internet, trò chơi điện tử, quán bar, vũ trường, quán
karaoke...và xử lý nghiêm minh, kịp thời
đối với các cơ sở vi phạm pháp luật, góp
phần phòng ngừa tình trạng vi phạm pháp luật của HSSV.
- Thứ năm, Cần có sự phối hợp chặt
chẽ và đồng bộ của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức,
pháp luật cho HSSV để có thể ngăn chặn
kịp thời những hành vi phạm pháp của
các em ngay từ ban đầu. Cụ thể là nhà trường thường xuyên liên hệ chặt chẽ với
gia đình để thông báo kịp thời kết quả
học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cũng như các biểu hiện lệch lạc trong
suy nghĩ, lối sống của HSSV để phối hợp
giáo dục, quản lý. Các bậc phụ huynh
cần giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhà trường để nắm bắt tình hình học tập, tư
tưởng, các mối quan hệ của con em
mình, đồng thời các chủ thể phải có sự
phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,
giáo dục.
Chúng tôi cho rằng, biện pháp tổ chức triển khai mô hình liên kết giữa
Công an phường (CAP), nhà trường và
phụ huynh hoặc biện pháp xây dựng môi
trường sư phạm lành mạnh sẽ góp phần
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
33
quan trọng vào việc ngăn ngừa tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật trong HSSV.
Theo đó, CAP kết hợp với Ban giám
hiệu các nhà trường phát động phong
trào tố giác tội phạm và tệ nạn xã hội. Ban chấp hành Đoàn Thanh niên tổ chức
mạng lưới nắm tình hình trong nhà
trường, kết hợp với công tác nắm tình hình của các cấp ủy Đảng và Đoàn thể ở
địa phương và phụ huynh về diễn biến
hoạt động của các loại đối tượng ngoài
xã hội, lưu ý theo dõi số HSSV cũ đã bị đuổi học do vi phạm pháp luật, ý thức tổ
chức kỷ luật... nay còn quan hệ với
HSSV của trường để thông báo cho CAP có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm hoạt động gây án. Bên cạnh đó,
CAP tập trung công tác điều tra cơ bản,
rà soát, lập danh sách đối tượng hình sự trong khu dân cư, địa bàn công cộng gần
các trường học, từ đó phân công cảnh sát
khu vưc kết hợp cán bộ cơ sở quản lý, duy trì giao ban với lực lượng bảo vệ nhà
trường trong công tác phát hiện, phòng
ngừa tội phạm, không để hình thành các
điểm, tụ điểm tệ nạn xã hội xung quanh khu vực trường học.
Xây dựng môi trường sư pham lành
mạnh là việc triển khai mô hình liên kết
đảm bảo an ninh trật tự trong các trường học. Trong đó, CAP cùng với Ban giám
hiệu các trường đóng trên địa bàn xây
dựng và tổ chức thực hiện quy trình, qui chế phòng ngừa HSSV vi phạm pháp
luật thông qua công tác quản lý HSSV
trong các giờ học. Thường xuyên có liên
hệ của giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh về các trường hợp HSSV vi phạm
ý thức tổ chức kỷ luật. Lực lượng bảo vệ nhà trường có trách nhiệm nắm tình
hình, phát hiện các trường hợp gây mất
trật tự trong khu vực trường học, kịp
thời báo CAP giải quyết. Các buổi sinh hoạt Đoàn, Đội của nhà trường đều được
lồng ghép với việc tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật và phát động HSSV tố giác những biểu hiện bất
thường, mâu thuẫn nảy sinh của HSSV
trong trường với nhau và giữa HSSV
trong trường với với thanh thiếu niên bên ngoài để nhà trường và CAP chủ động có
biện pháp giải quyết. Đối với các cơ sở
kinh doanh Internet, các cửa hàng kinh doanh photocoppy, quán bar, vũ trường...
CAP đã yêu cầu chủ các cơ sở kinh
doanh cam kết không để ảnh hưởng đến
HSSV các trường. Sự phối hợp giữa CAP với các trường học đóng trên địa
bàn và phụ huynh sẽ tạo được sự đồng
thuận, cộng đồng trách nhiệm trong công tác quản lý HSSV giữa 3 môi trường:
Nhà trường - gia đình - xã hội, góp phần
xây dựng môi trường sư phạm trong sạch
lành mạnh trên địa bàn, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật trong HSSV.
5. Kết luận Thời gian gần đây, tình trạng HSSV
sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật như luồng gió đen gây ảnh hưởng đến
môi trường giáo dục. Đó là kết quả của
sự quan tâm không đúng mức, sự giáo dục không đồng bộ của gia đình, nhà
trường và xã hội trong đó giáo dục gia
đình đóng vai trò quyết định . Hơn lúc
nào hết, gia đình, nhà trường và xã hội cần có sự kết hợp chặt chẽ để giáo dục
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
34
học sinh, sinh viên, góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật ở các em.
*Ghi chú : - Thông tin "Theo thống kê của Viện
kiểm sát nhân dân tối cáo. Nếu như năm 2004, chỉ có 600 HSSV nghiện ma túy,
thì đến năm 2007 con số này đã tăng lên
1.234 học sinh, sinh viên và theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát
triển giáo dục Việt Nam, tỉ lệ học sinh đi
học muộn: Tiểu học 20%, THCS 21%,
THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: Tiểu học 8%, THCS 55%, THPT 60%; tỉ lệ nói dối cha
mẹ: Tiểu học 22%, THCS 50%, THPT
64%; tỉ lệ không chấp hành ATGT: Tiểu học 4%, THCS 35%, THPT 70%, những
con số này cho thấy càng lớn, ý thức đạo
đức của học sinh càng đi xuống. Năm
2007, tại cuộc điều tra khảo sát tại 30 trường ĐH, CĐ trong cả nước - do Vụ
Văn hoá - Ban TTVHTƯ phối hợp với Vụ
Công tác học sinh - sinh viên (Bộ GDĐT) đã đưa ra con số rất đáng suy
nghĩ: 51,4% sinh viên cho rằng "sống
thử trước hôn nhân là hiện tượng khá
phổ biến" và được coi là "bình thường " được trích dẫn từ báo Lao động số 217
ngày 20/09/2008.
- Thông tin " Theo số liệu báo cáo
của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an về trật tự xã hội trong năm năm trở lại đây,
có đến 47.000 vụ phạm pháp hình sự do
HSSV gây ra . Sáu tháng đầu năm 2009 trên cả nước xảy ra 25.508 vụ phạm
pháp hình sự. Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội công an
các đơn vị, địa phương đã điều tra khám
phá 18.597 vụ, bắt giữ xử lý 27.396 đối
tượng; triệt phá 1.986 băng nhóm tội phạm hình sự, xử lý 6.484 đối tượng.
Trong số đối tượng gây án, tỷ lệ HS, SV
chiếm 3,6%, trong đó có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng như giết bạn cùng lớp,
cùng trường, giết cướp."
Được trích dẫn từ báo Giáo dục TP
Hồ Chí Minh ngày 21/10/2009. - Thông tin "Vụ trọng án kinh hoàng,
giết người trên xe ô tô Lexus do nữ sinh
viên năm thứ tư Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội I là Vũ Thị Kim Anh gây
ra " được trích dẫn từ báo Tin Tức ngày
15/05/2009.
- Thông tin "Ngày 18/03/2009 Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử
nhóm sinh viên Trường Cao Đẳng Giao
Thông vận tải Thái Nguyên ... tuyên phạt Hồ Thìn, tên cầm đầu 17 năm tù, các
đồng phạm của Thìn mỗi tên nhận từ 5-7
năm tù. " được trích dẫn từ báo Đất Việt
ngày 18/03/2009. - Thông tin" Ngày 27-6-2009, Nguyễn
Hữu Quý ( SN 1985 ), trú huyện Hải
Lăng, tỉnh Quảng Trị là SV Trường Đại
học Bách khoa Đà Nẵng, do thiếu tiền nợ cá độ bóng đá nên Quý đã thực hiện
liên tiếp 3 vụ trộm cắp xe máy tại chính
trường mình học" được trích dẫn từ báo Đà Nẵng ngày 24/09/2009.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
35
XÁC ĐỊNH MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NĂNG LỰC TRÍ TUỆ VÀ KẾT QUẢ HỌC
TẬP MÔN CHUYÊN SÂU CỦA SINH VIÊN CHUYÊN SÂU CỜ VUA NĂM NHẤT
Th.s Trần Mạnh Hưng Bộ môn Thể dục – Cờ vua
I.Cách thức thực hiện các test đánh
giá năng lực trí tuệ của SV chuyên sâu
Cờ Vua trường ĐH TDTT Đà Nẵng
Để đánh giá năng lực trí tuệ của
VĐV, đề tài sử dụng các test kiểm tra:
1. Test đánh giá khả năng tập
trung chú ý
- Mục đích: Đánh giá khả năng tập
trung chú ý của VĐV Cờ Vua.
- Cách thức thực hiện: Việc kiểm tra
được tiến hành dựa trên bảng 25 ô, mỗi ô
được chia thành 2 (theo đường chéo) -
nửa trên là các số tự nhiên được xếp
đúng thứ tự từ nhỏ đến lớn, nửa dưới các
số đó bị đảo lộn một cách ngẫu nhiên.
Đối tượng phải tìm và sắp xếp lại theo
đúng trật tự con số từ nhỏ cho đến lớn
phần nửa dưới của ô (chữ số mầu đỏ) và
ghi lại con số màu đen cùng ô tương ứng
vào bảng nhỏ ở dưới (ghi từ trái sang
phải hết hàng trên xuống hàng dưới).
- Yêu cầu thực hiện nhanh và chính
xác.
- Cách đánh giá năng lực chú ý tổng
hợp theo công thức:
)25( nt
P-
=
Trong đó:
P: Hiệu xuất chú ý.
t: Thời gian hoàn thành thí nghiệm.
n: Sai số (ghi không đúng số ở góc
trên bên trái vào các số thứ tự ở góc
dưới bên phải).
Giá trị P càng nhỏ thì hiệu xuất chú ý
càng tốt.
.
Test đánh giá khả năng chú ý.
Họ và tên: Lớp:
Giới tính: Tuổi
Đẳng cấp VĐV:
Ngày kiểm tra: Kết quả:
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
36
2. Test trí nhớ thị giác.
Trí nhớ thị giác có ý nghĩa rất lớn đối
với VĐV, trí nhớ thị giác phát triển ở
mức độ cao giúp VĐV hình thành nên
các biểu tượng về sự vật hay hiện tượng
đã được tri giác, nó giúp các VĐV có thể
tưởng tượng lại các động tác kỹ thuật và
các thành phần của nó như: Tốc độ, góc
độ, biên độ, kỹ thuật thực hiện... Từ đó
có thể rèn luyện theo tâm vận động. Trí
nhớ thị giác được hình thành trên cơ sở
các liên hệ mang tính lôgíc, các đường
liên hệ thần kinh đã được hình thành
trong quá trình tập luyện, kết hợp với
khả năng tư duy sáng tạo có thể đề ra các
giải pháp kỹ chiến thuật sáng tạo và hợp
lý.
Đánh giá năng lực trí nhớ thị giác
được tiến hành thông qua bộ test trí nhớ
thị giác bao gồm 4 biểu mẫu, mỗi biểu
1 8
2 20
3 7
4 17
5 13
6 11
7 4
8 18
9 21
10 15
11 24
12 3
13 14
14 10
15 5
16 2
17 12
18 25
19 1
20 23
21 6
22 19
23 9
24 16
25 22
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
37
mẫu có 7 loại ký hiệu khác nhau và được
xắp xếp không theo một trật tự nhất định.
Sau khi giới thiệu, VĐV được quan sát
mỗi biểu mẫu trong 30 giây, thời gian để
ghi lại 45 giây. Người được thử nghiệm
trong thời gian 30 giây cần phải chú ý
quan sát tất cả các hình và vị trí của nó
trong biểu mẫu. Sau khi có lệnh “vẽ” thì
tất cả cố gắng nhớ và vẽ lại các hình cho
đúng với cấu trúc và vị trí của nó.
Kết quả được đánh giá theo công
thức:
%10028´=
nP
Trong đó:
P: Hiệu xuất trí nhớ thị giác.
n: Số vẽ đúng.
Hiệu xuất trí nhớ thị giác càng cao thì
giá trị tuyệt đối của P càng lớn.
Test xác định Khả năng Trí nhớ thị giác
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
38
3. Test trí nhớ thao tác.
+ Tài liệu thí nghiệm: Gồm một bảng
với các chữ số từ 3 – 7 chữ số trong mỗi
hàng và 1 đồng hồ bấm giây.
+ Điều kiện để tiến hành thí nghiệm:
Người làm thí nghiệm bằng một nhịp
điệu nhất định sẽ đọc một dãy số, trong
thời gian đó người thử nghiệm phải cộng
con số thứ nhất với con số thứ 2, số thứ 2
với số thứ 3… và nhớ tổng của những số
đó. Theo hiệu lệnh “viết”, người được
thử nghiệm sẽ ghi lại các con số đó. Thời
gian đọc các chữ số: số 3 là 3 giây; số 4
là 4 giây; số 5 là 5 giây… Thời gian ghi
đáp số: số 3 là 3 giây; số 4 là 7 giây; số 5
là 9 giây; số 6 là 12 giây; số 7 là 15 giây.
Thí nghiệm được tiếp tục cho đến khi kết
thúc trọn vẹn 10 dãy số.
Thí dụ cho một dãy 4 chữ số: 3, 5, 2, 7.
Trong dãy số này sẽ có tổng như sau:
3+5=8; 5+2=7; 2+7=9. Trong trường
hợp này người được thử gnhiệm nghiên
cứuần phải viết 8,7,9.
Toàn bộ thí nghiệm có 10 dãy số bào
gồm từ 3,4,5,6,7. Mỗi hàng có cùng một
số lượng chữ bằng nhau được lặp lại 2
lần. Thí dụ:
4, 5, 2.
3, 2, 6.
5, 2, 6, 3.
3, 5, 2, 4.
3, 2, 4, 5, 3.
4, 3, 6, 2, 5.
2, 5, 1, 7, 2, 6.
3, 4, 5, 2, 7, 2.
5, 2, 4, 3, 6, 2, 4.
6, 2, 3, 5, 2, 7, 1.
+ Đánh giá kết quả:
Kết quả thí nghiệm được đánh giá
theo số lượng các dãy số được thực hiện
đúng. Điểm tối đa là 10.
Giá trị điểm của 2 cặp dãy số có chứa: Kết quả 7 6 5 4 3
Điểm 4 3 2 1 0
4. Test cộng trừ số học.
Dựa theo phương pháp của GS - TS
Mankin - chuyên gia Cờ vua của Nga.
- Yêu cầu và cách tiến hành:
Cho trước một số gồm 4 chữ số (số
hàng đơn vị là số lẻ), yêu cầu học sinh
thực hiện tính nhẩm liên tục trừ đi 3,
thực hiện trong 1 phút. Kết quả được ghi
liên tiếp vào biên bản kiểm tra. Sau đó,
giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện
phép tính cộng nhẩm liên tục với 5 trong
1 phút tiếp theo.
- Dụng cụ: Phiếu kiểm tra, bút bi và
đồng hồ bấm giây.
5. Tính linh hoạt của hệ thần kinh
(tepping test) (lần/s).
Đây là phương pháp dự báo tính linh
hoạt thần kinh của A.Vrodinov bằng
cách đo nhịp vận động tối đa trong thời
gian 10s.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
39
+ Yêu cầu: Dùng bút bi chấm liên lục
trong thời gian 10s, mỗi đối tượng sẽ
thực hiện 3 lần và lấy kết quả trung bình
(giữa các lần đối tượng được nghỉ 30s).
+ Dụng cụ: Giấy trắng và bút bi.
6. Tốc độ thu nhận và xử lý thông
tin.
Đây là phương pháp đánh giá khả
năng thu nhận và xử lý thông tin của G.
Harteridge.
- Yêu cầu và cách tiến hành:
Dùng bút đánh dấu những vòng tròn
hở giống vòng hở đầu tiên trong từng
hàng.Thực hiện bài thử trong 1 lần 3
phút.
- Dụng cụ: Mẫu bài thử in sẵn, bút bi
và đồng hồ bấm giây.
7. Tư duy lôgic:
Đây là một trong những phương án
kiểm tra tốc độ tư duy có tên là “quan hệ
khối lượng”.
+ Yêu cầu:
- Đối tượng được phát tờ đầu bài in
sẵn và giải đáp thẳng vào đó trong
khoảng thời gian khống chế là 2 phút. Cả
nhóm đối tượng thực hiện bài thử cùng
một lúc.
- Với mỗi bài tập trong bài thử, trên
cơ sở mối “quan hệ khối lượng” giữa 3
đại lượng A, B và C cho trước, tìm nốt
mối quan hệ còn lại và ghi xuống dưới
nét gạch ngang.
+ Dụng cụ: Bút viết và đồng hồ điện
tử tính giờ.
+ Nội dung:
Test xác định năng lực Tư duy lôgic
Họ và tên: Lớp:
Giới tính: Tuổi
Đẳng cấp VĐV:
Ngày kiểm tra: Kết quả:
A nhỏ hơn B 2 lần A nhỏ hơn B 3 lần A lớn hơn B 2 lần
B lớn hơn C 7 lần B lớn hơn C 4 lần B nhỏ hơn C 5 lần
A C
C A A C
A lớn hơn B 7 lần A nhỏ hơn B 10 lần A lớn hơn B 3 lần
B nhỏ hơn C 4 lần B nhỏ hơn C 3 lần B nhỏ hơn C 6 lần
C A
A C C A
A nhỏ hơn B 3 lần A lớn hơn B 4 lần A lớn hơn B 3 lần
B lớn hơn C 2 lần B nhỏ hơn C 7 lần B nhỏ hơn C 5 lần
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
40
A C
C A A C
A nhỏ hơn B 8 lần A nhỏ hơn B 5 lần A lớn hơn B 4 lần
B lớn hơn C 9 lần B lớn hơn C 2 lần B nhỏ hơn C 3 lần
C A
A C C A
A lớn hơn B 6 lần A nhỏ hơn B 2 lần A nhỏ hơn B 10 lần
B nhỏ hơn C 7 lần B lớn hơn C 5 lần B lớn hơn C 3 lần
A C
C A C A
A lớn hơn B 4 lần A nhỏ hơn B 3 lần A lớn hơn B 9 lần
B nhỏ hơn C 2 lần B lớn hơn C 5 lần B nhỏ hơn C 12 lần
C A A C C A
II. Lập test.
§ Đối tượng kiểm tra là sinh viên chuyên sâu Cờ Vua năm thứ nhất.
§ Tiến hành kiểm tra.
Bảng 1. Kết quả xác định hệ số tương quan giữa một số chỉ số của năng lực trí tuệ
với kết quả học tập môn chuyên sâu của SV chuyên sâu Cờ Vua năm thứ nhất
r TT TEST Nam
(n=13) Nữ
(n=11) 1. Đánh giá khả nâng tập trung chú ý (%). 0.713 0.706 2. Test trí nhớ thị giác (điểm). 0.794 0.762 3. Test trí nhớ thao tác (điểm). 0.717 0.711 4. Test cộng trừ số học (sl). 0.729 0.715 5. Tepping test (sl). 0.775 0.724 6. Test tốc độ thu nhận và xử lý thông tin (bit/s). 0.853 0.837 7. Test xác định năng lực tư duy lôgic (%). 0.848 0.826
Từ kết quả thu được ở bảng 1 cho
thấy: Tất cả các test đều có hệ số tương
quan r trong khoảng 0.711 < r < 0.853).
Như vậy các test trên lại đều có mối
tương quan mạnh và có ảnh hưởng lớn
tới kết quả học tập môn chuyên sâu của
sinh viên Cờ Vua năm thứ nhất.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
41
THỰC TRẠNG VIỆC TỰ HỌC MÔN TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN HỆ
ĐẠI HỌC TẠI TRƯỜNG ĐH TDTT ĐÀ NẴNG Th.s Phạm Tuấn Anh
Bộ môn KHCB
I. Đặt vấn đề:
ự học và hướng dẫn sinh viên
tự học là vấn đề đã nảy sinh từ
lâu trong các hoạt động dạy - học của
thày và trò. Hiện tại công tác này chưa
được sự quan tâm sâu sắc của các nhà
quản lý cũng như các nhà giáo dục. Đây
là vấn đề bức xúc trong công tác giảng
dạy hiện nay nhưng vẫn chưa có các
công trình nghiên cứu về nhu cầu học tập
ngoài giờ lên lớp đối với các môn lý
thuyết của sinh viên trường ĐH TDTT
Đà Nẵng, đặc biệt là môn tiếng Anh -
một môn học được coi là khó đối với
sinh viên trường ta. Thực tế cho thấy các
giảng viên chỉ tập trung cho bài giảng và
các hoạt động trên lớp học, hầu như
không có biện pháp tổ chức, theo dõi,
đánh giá việc tự học của các em ngoài
giờ lên lớp. Việc tổ chức cho sinh viên
tự học ngoài giờ lên lớp không chỉ là
nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm,
phòng công tác quản lý HSSV mà thực
chất là một thành tố không tách rời của
quá trình dạy học – nghĩa là một trong
các nhiệm vụ của nhà giáo. Xây dựng
một kế hoạch giảng dạy, thiết kế chương
trình phù hợp, xác định nội dung dạy học
và biện pháp quản lý, kiểm tra đánh giá,
v.v…, để tổ chức công tác tự học cho
sinh viên là vấn đề thuộc lĩnh vực khoa
học giáo dục. Vấn đề này cần có những
cơ sở lý luận và thực tiễn cần được
nghiên cứu và chứng minh một cách
khoa học.
Đối với môn ngoại ngữ, cụ thể là môn
tiếng Anh, việc tự học ngoài giờ lên lớp
là hết sức cần thiết bởi thời lượng học
tập trên lớp không thể đáp ứng được yêu
cầu về lượng kiến thức mà sinh viên có
được sau mỗi học phần. Để có được
những biện pháp hướng dẫn tự học tiếng
Anh cho sinh viên ngoài giờ lên lớp cần
phải có những điều tra thực tế hiện nay
về nhu cầu học tập, hình thức tổ chức
dạy-học, nội dung chương trình dạy-học
và các thành tố liên quan khác trong quá
trình dạy-học môn này. Từ những số liệu
điều tra có được, kết hợp với các thành
quả sẵn có từ các công trình nghiên cứu
về giáo học pháp tiếng Anh, ta có thể đề
xuất các biện pháp hướng dẫn phù hợp,
giúp các em nâng cao khả năng tự học,
cải thiện kết quả học tập của các em.
II. Kết quả nghiên cứu:
II.1. Hoạt động tự học:
Có nhiều quan niệm về hoạt động này:
Tự học (self-learning) là quá trình nỗ
lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân
người học bằng hành động của chính
mình, hướng tới những mục đích nhất
định.
Theo GS. TS. Nguyễn Cảnh Toàn, tự
học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
T
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
42
dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp
cùng các phẩm chất của mình, cả động
cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới
quan để chiếm một lĩnh vực hiểu biết
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình. Việc tự học sẽ
được tiến hành khi người học có nhu cầu
muốn hiểu biết một kiến thức nào đó và
bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm
lĩnh được kiến thức đó.
Ở các trường đại học, tự học là cần
thiết và là cách học ở đại học. Đó là một
hình thức tổ chức hoạt động nhận thức
của cá nhân nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri
thức và kỹ năng do chính bản thân người
học tiến hành. Khi SV tự mình huy động
mọi phẩm chất, năng lực của bản thân để
tiến hành các hoạt động tìm tòi, khám
phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh
tri thức là họ tiến hành hoạt động tự học.
II.2. Sự hình thành kỹ năng tự học:
Theo P.Ia. Galperin và các đồng sự
của ông thì cơ chế hình thành kỹ năng
chính là cơ chế hình thành hành động trí
óc qua 5 giai đoạn, bao gồm:
Giai đoạn 1: thiết lập cơ sở định
hướng của hành động
Giai đoạn 2: hành động vật chất hay
vật chất hoá.
Giai đoạn 3: hành động với lời nói to.
Giai đoạn 4: hành động với lời nói
thầm.
Giai đoạn 5: hành động trong trí óc.
Như vậy, hành động từ ngoài chuyển
vào trong diễn ra qua từng giai đoạn. Ở
mỗi giai đoạn cấu trúc của hành động
được tổ chức lại ngày một khái quát và
rút gọn hơn nhưng vẫn giữ được nội
dung vật chất ban đầu của hành động.
Hay nói cách khác, sau khi chủ thể tiến
hành hành động qua đầy đủ các giai đoạn
nói trên thì “tri thức về các đồ vật sẽ
được nẩy sinh trong quá trình hành động
vật chất với các đồ vật đó, còn bản thân
các hành động này khi được hình thành
thì sẽ trở thành kỹ năng”.
Từ ý kiến trên, người có kỹ năng về
một hành động nào đó phải: có tri thức
về hành động bao gồm tri thức về mục
đích hành động, các điều kiện, phương
tiện đạt mục đích, các cách thức thực
hiện hành động; tiến hành hành động
đúng với yêu cầu của nó; đạt được kết
quả phù hợp với mục đích đề ra; có thể
hành động có kết quả trong các điều kiện
khác.
Như vậy, thực chất của việc hình
thành kỹ năng tự học cho sinh viên là
hình thành cho họ một hệ thống thao tác
nhằm làm biến đổi đối tượng và làm
sáng tỏ những thông tin trong nhiệm vụ
học tập, đối chiếu chúng với hành động
cụ thể. Để làm được điều đó cần giúp
sinh viên biết cách tìm tòi để nhận ra yếu
tố đã cho và yếu tố phải tìm, quan hệ
giữa chúng trong nhiệm vụ học tập; hình
thành mô hình khái quát để giải quyết
nhiệm vụ cùng loại; xác lập quan hệ giữa
bài tập, mô hình khái quát trên với kiến
thức tương ứng.
P.Ia. Galperin và các đồng sự của ông
cũng xác định có ba kiểu định hướng
hành động có giá trị thực tiễn quan trọng
nhất trong giảng dạy. Tương ứng với
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
43
chúng là ba kiểu định hướng vào việc
giải quyết nhiệm vụ. Mỗi kiểu định
hướng có kết quả và quá trình hành động
riêng. Trên cơ sở định hướng đó,
Galperin chia các cách giảng dạy ra làm
3 loại tương ứng:
Giảng dạy tương ứng với kiểu thứ
nhất gọi là cách “thử và sai”
Giảng dạy tương ứng với kiểu thứ hai
gọi là cách “thử và đúng”
Giảng dạy tương ứng với kiểu thứ ba
gọi là “không thử, đúng ngay”
Từ những phân tích các kiểu dạy học
nêu trên, có thể rút ra qui trình hình
thành kỹ năng tự học như sau:
Bước 1: Học sinh thấy được ý nghĩa
của kỹ năng cần nắm vững và mục đích
của hành động tương ứng.
Bước 2: Học sinh lĩnh hội các thành
phần cấu trúc cơ bản của hành động và
trình tự hợp lý nhất để thực hiện các thao
tác tạo thành hành động.
Bước 3: Học sinh thực hiện các bài
luyện tập để rèn luyện kỹ năng thực hiện
hành động
Bước 4: Học sinh sử dụng kỹ năng đã
hình thành vào việc thực hiện hành động
mới, phức tạp hơn nhằm nắm vững kỹ
năng mới.
Quá trình hình thành kỹ năng theo
các bước nêu trên đảm bảo phát huy cao
tính tích cực, tính tự lực và sáng tạo của
học sinh khi thực hiện nhiệm vụ học tập.
Điều đó cho phép học sinh có khả năng
áp dụng kỹ năng thực hiện hành động đã
biết trong tình huống mới.
II.3. Thực trạng việc tự học môn
tiếng Anh của sinh viên trường ĐH
TDTT Đà Nẵng
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng
phiếu hỏi trên 86 sinh viên đại học năm
thứ 1 tại trường (khóa ĐH 2), kết quả
cho thấy:
Ở nhóm các câu hỏi điều tra về trình
độ tiếng Anh cơ bản đầu vào 100%
người được hỏi đã học tiếng Anh trước
khi vào trường, trong đó 98% đã học 7
năm tiếng Anh chương trình phổ thông,
2% học chương trình 3 năm phổ thông.
Đa số các em cho rằng trình độ tiếng
Anh của mình ở mức trung bình (62%),
một số tự đánh giá mình thuộc mức độ
kém (34%), chỉ có 4% cho rằng mình
học khá tiếng Anh và không có trường
hợp nào tự đánh giá mình học giỏi môn
này. Như vậy sinh viên hệ đại học ở
trường ta có trình độ chuẩn đầu vào
không đều nhau và ở múc trung bình,
điều này là một hạn chế trong việc tiếp
thu chương trình học tập ngoại ngữ ở
trường đại học.
Ở nhóm câu hỏi đánh giá về thái độ,
động cơ của việc học tiếng Anh tại
trường, chỉ có 46% số người được hỏi
cho rằng tiếng Anh là cần thiết đối với
một sinh viên thể thao và chỉ có 27% cho
rằng mình thích học tiếng Anh, 76% cho
rằng mục đích của việc học tiếng Anh là
vì đây là môn học bắt buộc trong chương
trình, chỉ có 17% cho rằng học tiếng anh
là để phục vụ nhu cầu kiến thức. Đây là
một dấu hiệu cho thấy việc giáo dục mục
đích học tập của sinh viên, chỉ rõ tầm
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
44
quan trọng của ngoại ngữ trong công tác
TDTT trong giai đoạn hiện nay của các
thầy cô giáo, các nhà quản lý còn chưa
thực sự hiệu quả. Tư tưởng của sinh viên
thể thao vẫn coi ngoại ngữ như một
“gánh nặng” trong chương trình học tập
chính khóa.
Về nội dung học tập tiếng Anh: hầu
hết sinh viên (88%) cho rằng cần trau dồi
thêm kỹ năng nghe-nói, có 63% cho rằng
các nội dung phục vụ nghề nghiệp (tiếng
Anh chuyên ngành) cần phải đưa vào
chương trình học tập. Điều này cho thấy
chương trình tiếng Anh của hệ đại học
tại trường ta còn nhiều bất cập, thiên về
các kỹ năng đọc-viết, thiếu các nội dung
phục vụ nghề nghiệp. Vấn đề này có ảnh
hưởng không nhỏ đến động cơ, thái độ
học tập của sinh viên đối với môn học
này.
Về thời lượng học tập tiếng Anh
ngoài giờ chính khóa, 69% dành dưới 1
giờ/ ngày cho học tiếng Anh, 13% chỉ
học khi sắp kiểm tra hoặc thi cử, các biệt
có một số trường hợp (6%) không hề học
tiếng Anh ngoài giờ ngoại ngữ trên lớp.
Hình thức tự học của các em chủ yếu
là học một mình (84%), một số ít học
theo nhóm (12%) và số lượng sinh viên
trong mỗi nhóm không lớn, chủ yếu là
nhóm 2 người. Phương tiện học tập của
các em chủ yếu là sách giáo khoa (98%),
chỉ có 16% là có dùng từ điển, chủ yếu là
từ điển song ngữ ở mức độ bình thường.
Nhiều sinh viên xem chương trình TV
bằng tiếng Anh (77%) tuy nhiên mức độ
hiểu của các em rất thấp.
Về yêu cầu của sinh viên đối với
phương pháp giảng dạy của giảng viên,
đa số các em mong muốn được các thầy
cô sử dụng phương pháp nghe-nhìn
(59%), một số (23%) mong muốn được
tiếp thu bài học qua phương pháp giao
tiếp. Hầu hết các em mong muốn được
các thầy cô giáo hướng dẫn cách tự học
môn tiếng Anh (91%).
III. Kết luận:
Trên cơ sở các thông tin thu thập
được, có thể thấy hiện nay việc tự học
tiếng Anh ngoài giờ lên lớp đang là một
hạn chế lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng dạy-học môn này tại trường
ta. Xuất phát từ việc nhận thức chưa đầy
đủ về mục đích học tập dẫn đến thái độ,
động cơ học tập chưa đúng, điều này dẫn
đến việc đầu tư chưa thỏa đáng cho việc
học tập môn này cả về thời lượng lẫn
phương tiện học tập. Kết hợp với chuẩn
đầu vào thấp và chương trình đào tạo lạc
hậu, thiếu tính phục vụ nghề nghiệp,
thiên lệch về việc rèn luyện kỹ năng và
năng lực tự học yếu kém của sinh viên
dẫn đến kết quả dạy-học môn tiếng Anh
tại trường ta còn thấp.
Như vậy, việc tìm ra các giải pháp
khắc phục các nhược điểm trên là hết sức
cần thiết nhằm nâng cao chất lượng học
tập môn ngoại ngữ, một môn học được
coi là hết sức quan trọng trong giai đoạn
hiện nay.
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
45
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾT QUẢ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN
HỆ ĐẠI HỌC TRƯỜNG TDTT ĐÀ NẴNG Th.s Phan Thảo Nguyên
Bộ môn Lý luận chuyên ngành
1.1. Thực trạng việc đổi mới
phương pháp dạy học
ể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào
tạo cán bộ TDTT cho thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
những năm qua trường Đại học TDTT đã
tập trung giải quyết nhiều vấn đề để nâng
cao chất lượng dạy và học. Trong đó
việc đổi mới phương pháp dạy và học là
vấn đề rất được quan tâm vì phương
pháp dạy và học là yếu tố tác động trực
tiếp đến chất lượng dạy và học.
Trải qua một quá trình dài, đội ngũ
giảng viên trường Đại học TDTT cũng
như nhiều trường đại học khác chủ yếu
dạy học theo phương pháp dạy học
truyền thống, những phương pháp ấy ít
phát huy được tính tích cực, chủ động
của sinh viên trong quá trình học tập.
Nhận thức được những hạn chế của
phương pháp dạy học truyền thống đồng
thời thấy được tính ưu việt của phương
pháp dạy học mới, phương pháp dạy học
tích cực, lấy sinh viên làm trung tâm
người học chủ động khám phá tiếp thu
kiến thức thông qua sự hướng dẫn của
thầy.
Năm học 2008 – 2009 trường đại học
TDTT tổ chức cuộc hội thảo đổi mới
phương pháp dạy và học, hội thảo được
sự hưởng ứng tích cực của nhiều giảng
viên. Sau cuộc hội thảo nhiều giảng viên
cũng đã nhận thức được vai trò quan
trọng của việc đổi mới phương pháp dạy
và học Ban giám hiệu nhà trường cùng
hội đồng khoa học giao nhiệm vụ cho
các bộ môn thực hiện việc đổi mới
phương pháp dạy và học. Bộ môn lý luận
chuyên ngành là một trong các bộ môn
tham gia việc đổi mới một số phương
pháp dạy và học cho sinh viên của
trường.
Sau một thời gian thực hiện việc đổi
mới phương pháp dạy và học ở một số
môn tuy đã thu được một số kết quả song
vấn đề này chưa được đánh giá về ưu
nhược điểm.
1.2. Đánh giá thực trạng kết quả
một số môn học khi thực hiện phương
pháp giảng dạy cổ truyền:
Để khẳng định hiệu quả của việc đổi
mới một số phương pháp dạy và học cho
sinh viên trường Đại học TDTT Đà
Nẵng chúng tôi tiến hành đánh giá thực
trạng kết quả một số môn học lý thuyết
thuộc bộ môn giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy chúng tôi
đã tiến hành đổi mới một số phương
pháp dạy và học cho tất cả sinh viên các
khóa song điều kiện và thời gian có hạn
vì vậy chúng tôi chỉ kiểm tra và đánh giá
kết quả trong một khóa đó là sinh viên
hệ đại học khóa I trường Đại học TDTT
Đ
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
46
Đà Nẵng ở một số môn học lý luận do bộ
môn trực tiếp tham gia giảng dạy.
1.21.Trình độ đội ngũ giảng viên:
Tham gia việc đổi mới một số
phương pháp dạy và học trong bộ môn lý
luận chuyên ngành chúng tôi gồm có 04
giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy
các môn học cho khóa Đại học một. Về
trình độ có 02 giảng viên chính, 02 giảng
viên đang theo học cao học 3 trong số
các giảng viên đã từng có thâm niên
trong giảng dạy từ 15 năm trở lên trong
đó có một số giảng viên hàng năm luôn
dạt giảng viên giỏi cấp cơ sở sở có tinh
thần trách nhiệm cao trong giảng dạy và
có uy tín với sinh viên cùng đồng nghiệp
luôn thực hiện đúng quy trình lên lớp và
thực hiện đúng quy chế của Bộ Giáo dục
và đào tạo ban hành.
Trong các năm học bộ môn luôn tiến
hành dự giờ lấy phiếu thăm dò sinh viên
đánh giá việc dạy của giảng viên tỷ lệ
phiếu chúng tôi thu được chiếm 98% ý
kiến thăm dò về giảng viên trong có tinh
thần trách nhiệm trong giảng dạy.
1.22. Cơ sở vật chất phục vụ cho
giảng dạy:
Các môn học đều có tài liệu như sách
giáo khoa, giáo trình môn học, ngân
hàng câu hỏi ôn tập và các tài liệu có liên
quan đến môn học.
1.2.3. Về chương trình giảng dạy
các môn học lý thuyết.
Theo lịch trình giảng dạy các môn lý
luận năm học 2008 – 2009 Thuộc bộ
môn lý luận chuyên ngành.
Bảng 1: Lịch trình giảng dạy các môn lý luận năm học 2008 – 2009 ( kỳ I )
STT MÔN HỌC SỐ TIẾT KHÓA THỜI GIAN DẠY
1 Tâm lý TDTT 75 ĐH 1 10/8- 10/ 11/ 2008
2 Quản lý 30 ĐH 1 10/8 – 15/ 11/2008
3 Nghiên cứu KH 30 ĐH 42 12/8 – 1/11/ 2008
4 Lý luận TDTT 60 ĐH 42 15/ 8 – 22/10 /2008
5 Giao tiếp sư phạm 30 ĐH 42 15/10 – 22/11/2008
6 Công tác đoàn đội 30 ĐH 42 1/9– 11/ 12/ 2008
7 Giáo dục học 45 CĐ 10 1-/8 – 8/11/2008
8 Thể thao trường học 30 CĐ 9 10/8 – 10/11/ 2008
9 Lịch sử TDTT 30 CĐ 9 20/12 – 5/ 1/ 2009
10 Công tác đoàn đội 30 CĐ 9 1/12 – 15/1/ 2009
Căn cứ vào lịch trình giảng dạy của
trường chúng tôi chỉ thống kê các môn
học mà các giảng viên trong bộ môn trực
tiếp tham gia giảng dạy để áp dụng việc
đổi mới các phương pháp và hình thức
giảng dạy cho sinh viên hệ Đại học
TDTT. Ở kỳ I năm học 2008 – 2009 các
giảng viên trong bộ môn đã áp dụng
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
47
phương pháp và hình thức giảng dạy cổ
truyền. Cụ thể sử dụng các phương pháp
sau:
2. Phương pháp giảng dạy:
2.1. Phương pháp thuyết trình: dùng
lời nói để trình bày những vấn đề có tính
chất lý thuyết để giới thiệu và hệ thống
các kiến thức (bao gồm các phương pháp
giảng thuật, giảng giải, giảng diễn). Sinh
viên vừa nghe giảng giảng viên vừa chép
bài.
* Ưu điểm của phương pháp: Giáo
viên dễ dàng tác động đến tư duy tình
cảm của người họ, phát huy được chú ý
có tính chủ động của sinh viên
* Nhược điểm: Sinh viên dễ rơi vào
tính thụ động, không có sự chú ý cao,
giáo viên khó kiểm tra được mức độ tiếp
thu kiến thức của sinh viên.
2.2. Phương pháp vấn đáp: (hỏi - trả
lời)
Là phương pháp giáo viên dùng câu
hỏi hướng tới học sinh nhằm gợi mở cho
học sinh các vấn đề nhằm tìm ra tri thức
mới, rút ra kết luận và tổng kết.
Phương pháp vấn đáp gồm:
- Vấn đáp gợi mở (dùng câu hỏi giúp
sinh viên đi đến kết luận).
- Vấn đáp kiểm tra
- Vấn đáp củng cố .
* Ưu điểm: Kích thích được tính tích
cực tư duy của người học, bồi dưỡng
được năng lực diễn đạt ý bằng lời, phát
huy được hứng thú của sinh viên.
* Nhược điểm: Mất nhiều thời gian.
2.3. Phương pháp sử dụng sách giáo
khoa:
Giáo viên chỉ ra những phần cho sinh
viên tự nghiên cứu.
2.4.Phương pháp ôn tập:
* Ôn tập giúp học sinh nắm vững tri
thức , kĩ năng, kĩ xảo; tạo khả năng cho
giáo viên sửa chữa sai lầm, lệch lạc trong
tri thức của học sinh; đảm bảo cho toàn
thể học sinh trong lớp tiến bộ đồng đều,
rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo đúng
đắn và phát huy tính tích cực, độc lập tư
duy, mở rộng, đào sâu, khái quát hóa... ở
HS.
* Muốn ôn tập có hiệu quả cần có kế
hoạch, có hệ thống và kịp thời, ôn tập
với nhiều hình thức khác nhau; ôn tập rải
ra tốt hơn ôn tập trung vào thời gian
ngắn; ôn xen kẽ nhiều môn tốt hơn là chỉ
tập trung ôn một môn.
2.5. Phương pháp kiểm tra đánh
giá:
* Kiểm tra hàng ngày
* Kiểm tra định kỳ
* Kiểm tra viết, kiểm tra vấn đáp.
3. Hình thức tổ chức dạy học:
Khái niệm chung: Hình thức tổ chức
dạy học chỉ ra cách thức tổ chức phối
hợp hoạt động dạy và học để thực hiện
các nhiệm vụ dạy học.
3.1 Hình thức lên lớp.
* Những đặc điểm cơ bản của hình
thức lên lớp.
- Hoạt động được tiến hành chung
cho cả lớp gồm một số học sinh nhất
định phù hợp với khả năng bao quát của
giáo viên. Những học sinh này thuộc
cùng lứa tuổi, có trình độ nhận thức gần
như nhau, đảm bảo cho hoạt động giảng
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
48
dạy được tiến hành phù hợp với năng lực
chung của cả lớp;
- Hoạt động dạy học được tiến hành
theo tiết học; thời gian của mỗi tiết học
được thay đổi từ lớp dưới lên lớp trên;
các tiết học được sắp xếp một cách khoa
học theo thời khóa biểu. Tất cả những
quy định đó xuất phát từ đặc điểm nhận
thức, sức tập trung chú ý của học sinh và
từ những yêu cầu về vệ sinh nhà trường;
Giáo viên trực tiếp tổ chức, điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh
cả lớp, đồng thời chú ý những đặc điểm
riêng của từng học sinh.
3.2 Hình thức học ở nhà:
¨ Tổ chức cho học sinh học ở nhà có
ý nghĩa rất quan trọng nó giúp học sinh:
- Mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa và
khái quát hóa những điều đã học ở trên
lớp, làm cho vốn hiểu biết được hoàn
thiện .
- Củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng,
kỹ xảo, vận dụng những điều đã học ở
trên lớp vào các tình huống và thực tiễn
đời sống .
Từ những phương pháp giảng dạy và
các hình thức tổ chức giảng dạy trên
chúng tôi đã thống kê được kết quả học
tập các môn lý thuuyết thuộc hệ đại học
mà các giảng viên trong bộ môn trực tiếp
giảng dạy kết quả được trình bày ở bảng
2:
Bảng 2: Kết quả học tập các môn lý luận học kỳ I hệ đại học (trước thực nghiệm)
n = 399
STT MÔN HỌC KHÓA KHÔNG ĐẠT
(0- 4 điểm)
TRUNG BÌNH
(5 -6 điểm) KHÁ GIỎI
(7 – 10 điểm)
1 TÂM LÝ PHẦN 1 ĐH 1 24,8% 37,0% 38,0%
2 TÂM LÝ PHẦN 2 ĐH 1 13,4% 37,0% 35,6%
3 LÝ LUẬN PHẦN 1 ĐH 42 30,22% 25% 44,7%
4 LÝ LUẬN PHẦN 2 ĐH 42 29% 28,2% 42,8%
5 GIÁO TIẾP SP ĐH 42 15,7% 37,6% 49,7%
Qua kết quả trên chúng tôi nhận xét
đối với môn lý luận hình thức đánh giá
điểm kết thúc trong mỗi học phần chúng
tôi tổ chức thi vấn đáp, môn tâm lý 1,2
và giao tiếp sư phạm chúng tôi thi kết
thúc môn bằng hình thức tự luận. Cách
tính điểm theo quy chế 25 tỷ trong được
tính như sau:
Chuyên cần hệ số: 1
Thường xuyên, ý thức 3
Điểm thi kết thúc học phần 6
Điểm trung bình là điểm tổng của 3
thành phần chia cho 10 ( điểm thành
phần chúng tôi không làm tròn và chỉ
làm tròn điểm cuối cùng.
Trên đây là kết quả học tập của SV
đại học khi xử dụng phương pháp dạy
học cổ truyền mà bộ môn đã tổng kết .
? NỘI SAN KHOA HỌC 12 - 2009
49
PHẦN II: TRAO ĐỔI – BÀN LUẬN
CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC -
THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Th.s Võ Văn Vũ Phòng QLKH&HTQT