THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016 3 Một số nội dung cơ bản của Luật Trẻ em Nguyễn Văn Bảy uật Trẻ em được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016 (thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004) và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2017. Luật có 07 chương, 106 điều và có những nội dung mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, về tên gọi, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 được đổi thành Luật Trẻ em. Việc thay đổi này đã phản ánh đầy đủ hơn nội dung và phạm vi của Luật về đối tượng đặc thù được quy định trong Luật. Thứ hai, Luật giải thích rõ hơn về 11 thuật ngữ, bao gồm bảo vệ trẻ em, phát triển toàn diện của trẻ em, chăm sóc thay thế; người chăm sóc trẻ em; xâm hại trẻ em, bạo lực trẻ em, bóc lột trẻ em; xâm hại tình dục trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em. Ngoài các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được nêu trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Trẻ em quy định thêm các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha, mẹ hoặc không có người chăm sóc. Luật cũng quy định về lồng ghép vấn đề trẻ em khi xây dựng pháp luật, chính sách được quy định thành một nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, đồng thời cụ thể hóa thành trách nhiệm của các cơ quan có liên quan thuộc Quốc hội, Chính phủ. Thứ ba, Luật quy định 25 nhóm quyền của trẻ em, với nhiều quyền được bổ sung và được thể hiện cụ thể hơn như: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bí mật đời sống riêng tư; quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột lao động, không bị bạo lực, L
26
Embed
Nguyễn Văn Bảy L uật Trẻ em được Quốc Trẻ em quy định thêm cácsotuphap.kontum.gov.vn/Uploads/files/So 04-2016.pdftinh thần do bạo lực; trẻ em bị bóc
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
3
Một số nội dung cơ bản của Luật Trẻ em
Nguyễn Văn Bảy
uật Trẻ em được Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 11 thông qua ngày
05/4/2016 (thay thế Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004) và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/6/2017.
Luật có 07 chương, 106 điều và
có những nội dung mới cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, về tên gọi, Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004 được đổi
thành Luật Trẻ em. Việc thay
đổi này đã phản ánh đầy đủ hơn
nội dung và phạm vi của Luật
về đối tượng đặc thù được quy
định trong Luật.
Thứ hai, Luật giải thích rõ
hơn về 11 thuật ngữ, bao gồm
bảo vệ trẻ em, phát triển toàn
diện của trẻ em, chăm sóc thay
thế; người chăm sóc trẻ em;
xâm hại trẻ em, bạo lực trẻ em,
bóc lột trẻ em; xâm hại tình dục
trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em;
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt;
giám sát việc thực hiện quyền
trẻ em theo ý kiến, nguyện
vọng của trẻ em.
Ngoài các nhóm trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt đã được nêu
trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004, Luật
Trẻ em quy định thêm các
nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt như trẻ em bị tổn hại
nghiêm trọng về thể chất và
tinh thần do bạo lực; trẻ em bị
bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ
em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc
bệnh phải điều trị dài ngày
thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận
nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh
nạn, tị nạn chưa xác định được
cha, mẹ hoặc không có người
chăm sóc.
Luật cũng quy định về lồng
ghép vấn đề trẻ em khi xây
dựng pháp luật, chính sách
được quy định thành một
nguyên tắc bảo đảm thực hiện
quyền và bổn phận của trẻ em,
đồng thời cụ thể hóa thành
trách nhiệm của các cơ quan có
liên quan thuộc Quốc hội,
Chính phủ.
Thứ ba, Luật quy định 25
nhóm quyền của trẻ em, với
nhiều quyền được bổ sung và
được thể hiện cụ thể hơn như:
quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quyền bí mật đời sống
riêng tư; quyền được chăm sóc
thay thế và nhận làm con nuôi;
quyền được bảo vệ để không bị
xâm hại tình dục, không bị bóc
lột lao động, không bị bạo lực,
L
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
4
không bị mua, bán, bắt cóc,
đánh tráo, chiếm đoạt; quyền
được bảo vệ trong tố tụng và xử
lý vi phạm hành chính; quyền
được bảo vệ khi gặp thiên tai,
thảm họa, ô nhiễm môi trường,
xung đột vũ trang; quyền được
đảm bảo an sinh xã hội; quyền
của trẻ em không quốc tịch, trẻ
em lánh nạn, tị nạn. Ngoài ra, kế
thừa Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004, các
bổn phận của trẻ em được quy
định cụ thể trong Luật Trẻ em
phù hợp với chế định về nghĩa
vụ công dân của Hiến pháp
năm 2013 và phù hợp với yêu
cầu đào tạo, bồi dưỡng con
người Việt Nam trong bối cảnh
mới. Trẻ em có bổn phận đối
với gia đình, nhà trường, cộng
đồng, đất nước và chính bản
thân các em.
Thứ tư, Luật quy định các
chính sách cơ bản của Nhà
nước để bảo đảm trẻ em được
chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm
sóc sức khỏe, giáo dục, bảo
đảm điều kiện vui chơi, giải trí,
hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thể thao, du lịch và thông tin,
truyền thông cho trẻ em. Đây là
căn cứ quan trọng để Nhà nước
ban hành các chính sách cụ thể
thực hiện đầy đủ các quyền trẻ
em phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội và giải
quyết các vấn đề có liên quan
đến trẻ em phát sinh trong thực
tế.
Thứ năm, các biện pháp bảo
vệ trẻ em được quy định cụ thể
từ phòng ngừa, hỗ trợ đến can
thiệp cùng với trách nhiệm thực
hiện của các cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân để bảo đảm
trẻ em được an toàn, được hỗ
trợ và can thiệp kịp thời khi có
nguy cơ hoặc đang bị xâm hại.
Luật cũng quy định cụ thể các
loại hình, điều kiện hoạt động,
thẩm quyền thành lập, cấp đăng
ký, đình chỉ, chấm dứt hoạt
động đối với cơ sở cung cấp
dịch vụ bảo vệ trẻ em. Ngoài
ra, Luật còn quy định việc áp
dụng các hình thức chăm sóc
thay thế đối với trẻ em nhằm
bảo đảm trẻ em được sống
trong môi trường gia đình và
được chăm sóc thay thế khi bị
mất môi trường gia đình hoặc
không thể cùng cha đẻ, mẹ đẻ
vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất
của trẻ em.
Vấn đề bảo vệ trẻ em trong
quá trình tố tụng và xử lý vi
phạm hành chính, Luật Trẻ em
quy định mang tính hệ thống
hóa các nguyên tắc, biện pháp
áp dụng đối với người chưa
thành niên trong quá trình tố
tụng và xử lý vi phạm hành
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
5
chính được quy định tại các văn
bản pháp luật hiện hành.
Thứ sáu, Luật quy định
phạm vi, hình thức trẻ em tham
gia vào các vấn đề về trẻ em và
các biện pháp bảo đảm sự tham
gia của trẻ em trong gia đình
cũng như bảo đảm sự tham gia
của trẻ em trong nhà trường và
cơ sở giáo dục khác. Đặc biệt,
Luật Trẻ em quy định rõ tổ
chức đại diện tiếng nói, nguyện
vọng của trẻ em là Trung ương
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và cũng là tổ chức
giám sát việc thực hiện quyền
trẻ em theo ý kiến, nguyện
vọng của trẻ em.
Thứ bảy, Luật Trẻ em quy
định cụ thể trách nhiệm chủ trì,
trách nhiệm phối hợp của các
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân và cơ sở giáo dục trong
việc bảo đảm thực hiện quyền
trẻ em. Luật còn quy định rõ
hơn về việc tổ chức phối hợp
liên ngành giữa các cơ quan, tổ
chức, giữa các địa phương
trong việc giải quyết các vấn đề
trẻ em, thực hiện quyền trẻ
em./.
Cơ quan chức năng cần phản hồi thông tin từ báo chí
Vĩnh Linh
rong giai đoạn hiện nay,
báo chí có vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội... của nước ta.
Là một kênh rất quan trọng
trong việc giúp cho cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền
quản lý, điều hành hiệu quả các
hoạt động xã hội. Đồng thời, có
thể nói đây thật sự là vũ khí khá
hiệu quả nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người dân
cũng như đấu tranh phòng
chống các mặt trái, tiêu cực, tệ
nạn của xã hội. Vì vậy, việc
phản hồi thông tin từ báo chí
một cách kịp thời, chính xác rất
quan trọng, điều này không chỉ
là việc trao đổi, phản hồi thông
tin đơn thuần mà còn thể hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ
quan chức năng, người có thẩm
quyền đối với dư luận, cộng
đồng, đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc
phản hồi, trả lời thông tin phản
ánh, nhất là các thông tin tiêu
cực trên các phương tiện truyền
thông đại chúng chưa được coi
trọng đúng mức. Nguyên nhân
là do chúng ta chưa có cơ chế
bắt buộc các cơ quan chức
năng, người có thẩm quyền
phải giải trình, làm rõ các nội
dung tiêu cực do các cơ quan
T
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
6
thông tin đại chúng nêu mà
hoàn toàn tùy thuộc vào người
đứng đầu cơ quan, đơn vị. Do
đó, xảy ra tình trạng có cơ
quan, đơn vị, địa phương tích
cực trả lời, giải trình, phản hồi
dư luận báo chí, song bên cạnh
đó có không ít cơ quan thờ ơ,
không phản hồi hoặc phản ứng
tiêu cực không mang tính xây
dựng làm rõ nội dung mà báo
chí phản ánh. Đặc biệt, hiện
nay thường hay xảy ra tình
trạng chỉ khi nào cơ quan quản
lý cấp trên hoặc dư luận phản
ánh gay gắt thì mới vào cuộc
phản hồi một cách thụ động,
đối phó. Bên cạnh đó, tình
trạng do thông tin chưa được
làm rõ, đi đến cùng sự thật đã
gây nghi ngờ, lo lắng, thậm chí
bức xúc cho dư luận quần
chúng nhân dân.
Vì vậy, để việc phản hồi
thông tin từ báo chí, dư luận đi
vào thực chất thì cơ quan có
thẩm quyền cần quy định trách
nhiệm về phản hồi thông tin từ
báo chí, nhất là các vụ việc
phản ánh về mặt trái, tiêu cực
có liên quan đến cơ quan, đơn
vị, địa phương mình. Theo đó,
khi có thông tin phản ánh từ
các cơ quan báo chí, các cơ
quan, đơn vị phải nhanh chóng
tiến hành xác minh, điều tra
làm rõ và phản hồi kịp thời đến
cơ quan báo chí, dư luận và cơ
quan quản lý cấp trên nhằm làm
rõ tất cả các nội dung liên quan
mà báo chí đã phản ánh. Điều
này sẽ góp phần quan trọng
trong việc đấu tranh phòng
chống tệ nạn tham nhũng, tiêu
cực, cửa quyền và thiếu trách
nhiệm của cơ quan chức năng,
đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức./.
Cần xử lý thật nghiêm người khiếu nại, tố cáo sai sự thật
Đỗ Văn Nhân
hời gian qua tình hình
khiếu nại, tố cáo luôn có
chiều hướng gia tăng, chưa có
biểu hiện giảm về số lượng vụ
việc. Tính chất các vụ việc
khiếu nại, tố cáo ngày càng
phức tạp, kéo dài, vượt cấp,
đơn thư chuyển lòng vòng…
làm lãng phí thời gian, công
sức và chi phí cho các cơ quan
nhà nước, cũng như chính
người khiếu nại, tố cáo. Lĩnh
vực khiếu nại, tố cáo thường
tập trung chủ yếu là đất đai,
giải phóng mặt bằng, chế độ
chính sách… Nội dung đơn thì
rất đa dạng như: vừa khiếu nại,
vừa tố cáo, có khi kèm cả kiến
T
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
7
nghị hay nội dung khiếu nại, tố
cáo đúng thì lại rất ít nhưng vu
khống xuyên tạc thì rất nhiều.
Người khiếu nại, tố cáo mặc dù
không có chứng cứ chứng minh
cho nội dung khiếu nại, tố cáo
nhưng vẫn vô tư xuyên tạc, vu
khống, nói xấu cán bộ, công
chức, các cơ quan, đơn vị và cả
chính quyền địa phương nhưng
rất ít khi bị xử lý nên một phần
từ lý do này dẫn đến số lượng
đơn thư khiếu nại, tố cáo và
tính chất phức tạp của nội dung
đơn cũng không hề giảm mà
ngày càng tăng lên.
Thực tiễn, các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết khiếu
nại hay xử lý nội dung tố cáo
của công dân thường không chú
trọng đến việc xử lý người
khiếu nại, tố cáo có hành vi
khiếu nại, tố cáo sai sự thật.
Thông thường kết luận những
nội dung khiếu nại, tố cáo sai
sự thật là không có cơ sở giải
quyết, còn đối với hành vi
khiếu nại, tố cáo sai sự thật thì
lại bỏ qua cho người khiếu nại,
tố cáo và điều này vô hình
chung không có sức răn đe đối
với người khiếu nại, tố cáo, đây
cũng là nguyên nhân làm cho
tính chất các đơn thư ngày càng
phức tạp (chủ yếu là khiếu nại,
tố cáo sai sự thật). Nếu như cán
bộ, công chức nào có điều kiện
trực tiếp xử lý đơn thư của
công dân, thì khó khăn lắm mới
định hình được nội dung khiếu
nại, tố cáo liên quan đến cơ
quan hay cán bộ, công chức
mình, những nội dung tố cáo
hay khiếu nại sai sự thật thì khi
yêu cầu cung cấp chứng cứ
chứng minh thì lại không có để
cung cấp.
Một nguyên nhân nữa là vì
sao người khiếu nại, tố cáo sai
sự thật rất ít bị xử lý là do các
cơ quan có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo ngại xử
lý, sợ va chạm, liên lụy, nể
nang… đồng thời, cũng chưa
có cơ chế rõ ràng trong việc xử
lý, cụ thể không có Nghị định
xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực khiếu nại, tố cáo.
Chính vì vậy, hầu như rất ít khi
xử lý người khiếu nại, tố cáo
sai sự thật, do vậy người khiếu
nại, tố cáo cũng chưa nhận thức
được đầy đủ hành vi vi phạm
của mình. Đây là những hạn
chế, bất cập trong thực tiễn thi
hành pháp luật khiếu nại, tố cáo
trong thời gian qua.
Luật Khiếu nại năm 2011,
Luật Tố cáo năm 2011 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2012
đều quy định các hành vi
nghiêm cấm như: đối với Luật
Khiếu nại năm 2011 thì nghiêm
cấm hành vi "cố tình khiếu nại
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
8
sai sự thật" (Khoản 5 Điều 6);
đối với Luật Tố cáo năm 2011
thì nghiêm cấm hành vi "cố ý tố
cáo sai sự thật; kích động,
cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc
người khác tố cáo sai sự thật;
mạo danh người khác để tố
cáo" (Khoản 10 Điều 8). Đồng
thời, cũng quy định các biện
pháp xử lý như: tại Điều 68
Luật Khiếu nại năm 2011 quy
định: "Người nào có một trong
các hành vi quy định tại các
Khoản 5, 6, 7 và 8 Điều 6 của
Luật này hoặc vi phạm các quy
định khác của pháp luật về
khiếu nại và giải quyết khiếu
nại thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp
luật"; tại Điều 48 Luật Tố cáo
năm 2011 quy định: "Người tố
cáo và những người khác có
liên quan có hành vi quy định
tại các Khoản 6, 7, 8, 9, 10, 11,
12 và 13 Điều 8 của Luật này
hoặc vi phạm các quy định
khác của pháp luật về tố cáo và
giải quyết tố cáo thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật".
Để triển khai hiệu quả các
quy định này, nhằm hạn chế
hành vi khiếu nại, tố cáo sai sự
thật trong thời gian tới cần thực
hiện đầy đủ các giải pháp:
Một là, tuyên truyền sâu
rộng Luật Khiếu nại năm 2011,
Luật Tố cáo năm 2011 đến cá
nhân, tổ chức và toàn thể nhân
dân để nắm rõ các quy định của
pháp luật, đặc biệt là các hành
vi nghiêm cấm và quy định xử
lý các hành vi khiếu nại, tố cáo
sai sự thật;
Hai là, ban hành Nghị định
xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực khiếu nại, lĩnh
vực tố cáo và triển khai thực
hiện nghiêm túc, tránh tình
trạng nợ Nghị định này như
trước đây;
Ba là, khi thụ lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo cần phân loại
cụ thể nội dung nào đúng sự
thật thì phải nghiêm túc giải
quyết; đối với nội dung sai sự
thật sau khi có kết luận chính
thức thì phải chuyển đến cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền
xử lý theo quy định của pháp
luật.
Có như vậy, sẽ hạn chế được
các đơn thư khiếu nại, tố cáo
sai sự thật, cũng như tình trạng
các đơn thư kéo dài, vượt cấp,
phức tạp như thực tiễn thi hành
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
9
pháp luật khiếu nại, tố cáo như thời gian qua./.
Chỉ đạo tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng
trên địa bàn tỉnh
Lệ Quỳnh
gày 05/7/2016, UBND
tỉnh đã ban hành Công
văn số 1502/UBND-NNTN về
việc tăng cường công tác quản
lý bảo vệ rừng trên địa bàn tỉnh
theo Kết luận 04-KL/TU của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Theo
đó, UBND tỉnh yêu cầu:
Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ chỉ huy
Quân sự tỉnh, Bộ chỉ huy Bộ
đội biên phòng tỉnh, Công an
tỉnh, UBND các huyện, thành
phố và các đơn vị chủ rừng tiếp
tục quán triệt, tổ chức thực hiện
quyết liệt, đồng bộ các giải
pháp đã nêu tại Kết luận số 04-
KL/TU ngày 13/01/2016 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy và chỉ
đạo của UBND tỉnh tại các văn
bản: Công văn số 778/UBND-
NNTN ngày 19/4/2016, Thông
báo số 574/TB-VP ngày
20/4/2016, Kế hoạch số
1095/KH-UBND ngày
26/5/2016, Quyết định số
561/QĐ-UBND ngày
26/5/2016, Công văn số
1264/UBND-NNTN ngày
10/6/2016 và các quy định hiện
hành khác có liên quan.
Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, UBND các
huyện, thành phố trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ của
ngành, địa phương, phối hợp
với Sở Thông tin và Truyền
thông, Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh, Báo Kon
Tum và các cơ quan thông tấn
báo chí trên địa bàn tỉnh tăng
cường công tác tuyên truyền
sâu rộng với nhiều hình thức
khác nhau về các quy định của
pháp luật, các chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước liên
quan công tác quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng đến các tầng
lớp cán bộ, nhân dân trên địa
bàn tỉnh, nhất là người dân
sống tại các khu vực gần rừng,
trong rừng nhằm nâng cao nhận
thức về tầm quan trọng của
rừng đối với đời sống; đồng
thời tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng
các chế tài xử lý đối với các
hành vi vi phạm Luật Bảo vệ và
phát triển rừng để giáo dục, răn
đe, phòng ngừa chung. Rà soát
các vụ việc vi phạm đã phát
hiện nhưng chưa xử lý, tổ chức
kiểm điểm nghiêm túc, làm rõ
N
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
10
trách nhiệm, xử lý kỷ luật theo
thẩm quyền đối với các tổ chức,
cá nhân có liên quan để xảy ra
tình trạng khai thác, vận chuyển
lâm sản trái pháp luật trên địa
bàn quản lý trong thời gian qua.
Giao Công an tỉnh chủ trì,
phối hợp với UBND các huyện,
thành phố và các đơn vị liên
quan điều tra, xác minh, khởi
tố, xử lý nghiêm minh các vụ
việc vi phạm Luật Bảo vệ và
phát triển rừng trên địa bàn tỉnh
đã được phát hiện nhưng chưa
xử lý theo quy định của pháp
luật./.
Tăng cường công tác phòng, chống bệnh Dại trên động vật
Kim Ngân
gày 20/6/2016, UBND
tỉnh ban hành Văn bản
số 1350/UBND-NNTN về việc
tăng cường công tác phòng,
chống bệnh Dại trên động vật.
Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu:
- Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Sở Y tế,
UBND các huyện, thành phố:
Thực hiện nghiêm túc các quy
định về phòng chống bệnh Dại
được quy định tại Nghị định số
05/2007/NĐ-CP ngày
09/01/2007 của Chính phủ,
Thông tư số 48/2009/TT-
BNNPTNT ngày 04/8/2009 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; Quy chế phối hợp
giữa các cơ quan thú y và y tế
của địa phương trong phòng,
chống bệnh Dại tại Thông tư
liên tịch số 16/2013/TTLT-
BYT-BNNPTNT ngày
27/5/2013.
- UBND các huyện, thành
phố: Chỉ đạo cơ quan thú y
phối hợp với Trung tâm y tế dự
phòng, UBND các xã, phường,
thị trấn trên địa bàn tổ chức
tuyên truyền sâu rộng về tính
chất nguy hiểm của bệnh Dại,
các dấu hiệu nhận biết chó nghi
mắc bệnh Dại, các biện pháp
phòng, chống bệnh Dại; tuyên
truyền, vận động người dân
tham gia giám sát, phát hiện và
báo cho chính quyền, cơ quan
thú y các trường hợp chó, mèo,
động vật khác nghi mắc bệnh
Dại để xử lý; vận động chủ
nuôi chó không thả rông ngoài
đường, khi đưa chó ra ngoài
nơi công cộng phải có biện
pháp an toàn cho người khác và
có người dắt; tiêm phòng vắc
xin Dại cho chó, mèo; hướng
dẫn người dân bị chó cắn đến
các cơ sở y tế dự phòng xử lý
vết thương và tiêm phòng vắc
xin phòng bệnh Dại cho người,
N
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
11
ngăn ngừa tử vong do chó dại
cắn; tiến hành tiêm phòng bổ
sung, tăng cường công tác giám
sát để phát hiện sớm bệnh Dại
trên động vật; quy định cụ thể
việc bắt giữ, thông báo, xử lý
đối với chó thả rông ở nơi công
cộng, nơi đông dân cư, khu đô
thị; UBND các huyện biên giới
phối hợp với các đồn Biên
phòng và các cơ quan chức
năng ngăn chặn triệt để việc
nhập lậu chó, mèo qua biên
giới và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm...
- Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Sở Y tế: Chỉ
đạo các đơn vị trực thuộc thực
hiện các hoạt động phối hợp
chung giữa ngành y tế và nông
nghiệp trong phòng, chống
bệnh Dại lây truyền từ động vật
sang người; chia sẻ thông tin về
bệnh Dại, chủ động tham mưu
cho UBND các cấp trong việc
tổ chức giám sát, phát hiện sớm
và xử lý triệt để các ca bệnh
Dại ở động vật, hướng dẫn xử
lý y tế kịp thời, bảo đảm an
toàn tính mạng cho người bị
chó cắn; hướng dẫn chuyên
môn, kỹ thuật, tổ chức kiểm tra,
giám sát, xác minh tác nhân
gây bệnh lây truyền từ động vật
sang người tại các đơn vị y tế
và UBND các huyện, thành
phố./.
Tăng cường công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
P.T
gày 08/6/2016, UBND
tỉnh ban hành Văn bản
số 1241/UBND-KGVX về việc
tiếp tục tăng cường công tác
đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm. Theo đó, UBND tỉnh
yêu cầu:
- Công an tỉnh: Phối hợp với
các ngành chức năng điều tra,
xác minh và xử lý nghiêm theo
quy định của pháp luật đối với
các hành vi mua bán, vận
chuyển, tiêu thụ thực phẩm
không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm trên địa bàn tỉnh.
- Các sở, ban, ngành; UBND
các huyện, thành phố: Tập
trung triển khai tốt Công văn số
1094/UBND-VX ngày
25/5/2016 của UBND tỉnh về
tăng cường trách nhiệm quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm.
- Sở Y tế, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Sở
Công thương, Công an tỉnh, các
đơn vị liên quan và UBND các
huyện, thành phố: Phối hợp
N
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
12
tăng cường thanh tra, kiểm
soát, kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm theo quy định của pháp
luật đối với hành vi vi phạm vệ
sinh an toàn thực phẩm và công
khai trên các phương tiện thông
tin đại chúng đối với tên, địa
chỉ các cơ sở kinh doanh sử
dụng thực phẩm không đảm
bảo vệ sinh an toàn.
- Sở Giao thông vận tải và
các cơ quan liên quan: Yêu cầu
các đơn vị kinh doanh vận tải
trên địa bàn tỉnh thực hiện
nghiêm các quy định của pháp
luật về hoạt động vận tải bằng
xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải
đường bộ; trong đó yêu cầu
doanh nghiệp ký cam kết không
vận chuyển hàng hóa, thực
phẩm không đảm bảo vệ sinh
an toàn./.
Giá dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô
Hoa Huệ
BND tỉnh ban hành
Quyết định số
28/2016/QĐ-UBND ngày
22/6/2016 quy định giá dịch vụ
xe ra, vào bến xe ô tô trên địa
bàn tỉnh.
Theo đó, đối tượng thu gồm
xe ô tô ra, vào bến để đón, trả
hành khách hoặc bốc dỡ hàng
hóa.
Nguyên tắc thu được quy
định như sau:
- Giá dịch vụ xe ra, vào bến
xe ô tô thu theo loại bến xe,
phân theo tuyến liên vận quốc
tế, liên tỉnh, nội tỉnh và chỉ thu
một lần khi xe rời bến (đã bao
gồm thuế VAT).
- Giá dịch vụ xe ra, vào bến
xe ô tô thu theo số ghế (hoặc
giường nằm) hoặc theo tải
trọng xe được ghi trong sổ
chứng nhận kiểm định an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi
trường (không bao gồm ghế lái
xe, phụ xe).
- Xe chở khách ra, vào bến
để bốc dỡ hàng hóa được thu
tiền theo giá dịch vụ tuyến nội
tỉnh có cự ly dưới 100km; xe
taxi ra, vào bến để bốc dỡ hàng
hóa được thu tiền theo giá dịch
vụ xe ra, vào bến để đón trả
hành khách.
- Xe ra, vào bến vừa để bốc
dỡ hàng hóa vừa để đón, trả
hành khách thì thu tiền theo giá
dịch vụ xe ra, vào bến để đón
trả hành khách.
Giao Sở Tài chính chủ trì
phối hợp với các đơn vị có liên
quan tham mưu trình UBND
U
THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT SỐ 04/2016
13
tỉnh điều chỉnh kịp thời khi có
sự biến động giá thị trường và
theo yêu cầu của đơn vị kinh
doanh khai thác bến xe.
Quyết định này có hiệu lực
thi hành sau 10 ngày kể từ ngày
ký và thay thế Quyết định số
12/2011/QĐ-UBND ngày
11/5/2011 của UBND tỉnh về
việc ban hành Quy định về giá
dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô
trên địa bàn tỉnh Kon Tum./.
Tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh