BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý kinh tế (Phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng kinh tế) Mã số: 62340410 HÀ NỘI - 2018
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP
CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
(Phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng kinh tế)
Mã số: 62340410
HÀ NỘI - 2018
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS NGUYỄN THẾ CHINH
2. PGS.TS ĐINH ĐỨC TRƯỜNG
Phản biện 1: PGS. TS Nguyễn Mậu Dũng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 2: TS. Nguyễn Hoàng Nam
Viện chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
Phản biện 3: GS. TS Nguyễn Hồng Sơn
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Vào hồi: 16 giờ 00 ngày 24 tháng 8 năm 2018
Có thế tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Đại học Kinh tế Quốc dân
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sư cân thiêt cua nghiên cưu
Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có những
tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và một quốc
gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige và cộng sự
(1996), Edward (1993), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002), Ederington (2004),
Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không phải mọi tác động là
như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù riêng của từng ngành và từng
quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của tự do hóa thương mại đến
môi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường;
(ii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua sự chuyên môn hóa,
chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa thương mại tác động tới môi
trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công nghệ; (iv) tự do hóa thương mại
tác động tới môi trường bằng hiệu ứng trực tiếp. Do vậy, cần có những công trình
nghiên cứu tiếp theo ở mức độ chi tiết hơn những kênh nào cũng như những yếu tố
nào diễn ra tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường và mức độ
tác động của nó đến các ngành và các doanh nghiệp.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới -
WTO (World Trade Organization) từ năm 2007. Cho đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. Tự do hóa thương mại trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết, có tác động trực tiếp và nhanh nhất đến thương
mại quốc tế và đầu tư, từ đó lan tỏa đến sản xuất trong nước, tạo việc làm và giảm
nghèo. Ngoài ra, tự do hóa thương mại con có những tác động vô hình khác như
làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới mạnh mẽ thể chế
nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy nhiên, Việt Nam
không thể ne tránh những vấn đề thương mại và suy thoái môi trường trong hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng. Vấn đề thương mại và
môi trường trong các Hiệp định của WTO; hiệp định thương mại song phương, đa
phương được thể hiện dưới dạng tiêu chuân về quy trình sản xuất và chế biến, các
quy định về nhãn mác, các hệ thống phí, lệ phí liên quan đến môi trường đối với
các sản phâm xuất nhập khâu (MUTRAP, 2015).
Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng
toàn nền kinh tế của Việt Nam vì đây là ngành lớn, đóng góp hơn 70% tỷ trọng giá
trị xuất nhập khâu hàng hóa, đóng góp khoảng 18% vào GDP của cả nước. Khu
vực sản xuất công nghiệp từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn của sự
tăng giá đầu vào, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ công…
khiến mức tăng trưởng chậm lại và hiệu quả thấp. Giai đoạn 2011-2015, sản xuất
công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng
10%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh.
Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực.
Công nghiệp khai khoáng giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm
2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015.
Sau 10 năm gia nhập WTO, độ mở nền kinh tế Việt Nam đã tăng từ 144% năm
2007 lên 173% năm 2016 (Bộ Công Thương, 2017).
2
Như vậy, tự do thương mại đã thuc đây ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Nhưng sự phát triển đó có
tác động đến chất lượng môi trường hay không? Đã có những nghiên cứu thực địa
chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường
từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (Hettige và cộng sự, 1996) hay (Dean, 2002;
Edwards, 1993; Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2010). Ở Việt Nam,
các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại với ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và cho rằng đó là mối quan
hệ thuận chiều (Mani và Jha.S, 2005) (Pham Thai Hung và cộng sự, 2008). Tuy nhiên,
nghiên cứu này thực hiện khi Việt Nam mới bắt đầu gia nhập WTO, vì vậy chưa có
nhiều thời gian để kiểm định. Ngân hàng thế giới cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa
thương mại và ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
Nam (WB, 2007), nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xếp hạng các ngành gây ô
nhiễm môi trường .
Tóm lại, tự do thương mại có vai tro rất quan trọng đối với sự phát triển của
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng gây ra những
tác động tới môi trường. Tuy nhiên, tác động này chưa được xác định rõ và đầy đủ
trên cả phương diện định tính và định lượng. Từ thực tế đó việc nghiên cứu sinh
(NCS) lựa chọn đề tài “Tác động cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng
cả mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng đung yêu cầu thực tiễn quản lý ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cưu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của tự do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam từ đó đưa
ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành này.
Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm
môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;
- Phân tích thực trạng của tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam;
- Phân tích tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của tự do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cưu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Luận án nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tác
động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
thông qua doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp được sử dụng theo ngành
3
cấp 4 và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khâu.
Ngoài ra, NCS con nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh
nghiệp và phân vùng kinh tế.
+ Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2014, các giải pháp, kiến nghị được đề
xuất đến 2025, tầm nhìn 2035;
+ Không gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi cả nước Việt Nam, dựa
trên cách phân vùng của PCI gồm: Các thành phố trực thuộc Trung Ương, Đồng
bằng sông Hồng, Miền nui phía Bắc, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
4. Đóng góp mới cua luận án
Luận án này, nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Bên cạnh những kế
thừa, luận án đã khắc phục được một số hạn chế của các nghiên cứu đi trước. Sau
đây là một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận án khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tích
cực và tiêu cực tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Trong cùng một môi trường tự do thương mại như nhau thì loại hình, quy mô, khu
vực phân bố của doanh nghiệp có tác động đến ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở những cấp độ khác nhau.
Về mặt thực tiễn: Luận án đã xây dựng được khung lý thuyết, sử dụng mô
hình nghiên cứu của nhà kinh tế học Hettige và cộng sự cùng bộ dữ liệu mảng
được ghep nối từ bộ số liệu của GES và IPPS giai đoạn từ năm 2006 đến 2014.
Ngoài các biến thể hiện đặc điểm doanh nghiệp như yếu tố đầu vào, tuổi, vùng
phân bố thì luận án con sử dụng thêm các biến kiểm soát như: i) loại hình, quy mô
doanh nghiệp, ngành; ii) biến tương tác là tích số giữa tự do thương mại lần lượt
với loại hình và quy mô doanh nghiệp, ngành. Đặc biệt, luận án sử dụng tỷ lệ xuất
khâu, tỷ lệ nhập khâu và tỷ lệ tổng kim ngạch để làm thước đo của tự do hóa
thương mại, đây là thước đo được sử dụng rộng rãi ở trên thế giới, nhưng con hạn
chế ở Việt Nam.
Bằng chứng thực nghiệm khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tích
cực và tiêu cực đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam. Cụ thể, tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam biến thiên ngược chiều. Đây là kết quả khác
biệt so với những kết quả nghiên cứu trước đây.
Bên cạnh đó, chỉ có sự tương tác là tích số giữa tự do hóa thương mại và loại
hình, quy mô doanh nghiệp, ngành có tác động đến ô nhiễm môi trường. Trong
cùng một mức độ tự do hóa thương mại, ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp FDI
gây ra lớn hơn DN ngoài NN; DN lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn DN nhỏ
và DN siêu nhỏ. Đặc biệt, tốc độ gây ô nhiễm môi trường của ngành bân lớn hơn
nhiều lần ngành sạch, lần lượt là: ô nhiễm chất độc: 8,87 lần; ô nhiễm kim loại:
24,21 lần; ô nhiễm nước: 20,04 lần; ô nhiễm không khí là 22,85 lần. Cuối cùng,
khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là
nơi tập trung nhiều DN gây ô nhiễm nhất. Đồng bằng sông Cửu Long và Miền nui
4
phía Bắc là hai khu vực được nhận thấy ô nhiễm nhiều nhất do ngành bân gây ra.
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đưa ra các kiến nghị chính sách
nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Thiếu hụt dữ liệu về ô nhiễm môi trường là một hạn chế trong nghiên cứu,
nhưng trong luận án này, NCS đã nghiên cứu và xử lý để có bộ dữ liệu về cường
độ ô nhiễm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Đây là một phần
đóng góp của luận án về cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực
công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó, tác giả đã phân loại ngành sạch và
ngành bân ở cấp độ chi tiết 4 chữ số bằng việc sử dụng bộ dữ liệu GES và IPPS.
Đây là cấp phân loại ngành sạch – bân nối giữa VSIC và ISIC chi tiết nhất hiện
nay.
5. Cấu trúc cua luận án
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận về tác động của tự do hóa
thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Chương 4. Định hướng và giải pháp chính sách để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong bối cảnh tự do hóa thương
mại ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cưu về tác động cua tư do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo
1.1.1 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp đinh tinh
1.1.2 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp đinh lương
1.1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu của luận án
Các nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu IPPS và GSO để đánh giá tác động của
tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
đều khẳng định rằng: quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tự do thương mại đã tác
động đến môi trường, Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó.Tuy nhiên, đánh giá
tác động của tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam trong thời gian Việt Nam gia nhập WTO tới
nay thì con hạn chế. Đặc biệt là sử dụng mô hình của Hettige và cộng sự để đánh
giá tác động của tự do thương mại lên ô nhiễm môi trường trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam con ít. Vì vậy NCS lựa chọn mô hình lý
thuyết của Hettige và cộng sự để phân tích tác động động của tự do thương mại tới
ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dưới
hai góc độ: Doanh nghiệp và ngành.
5
Về mặt lý thuyết, từ các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, tự do hóa thương
mại tác động tới môi trường cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và bằng cả phương pháp
định lượng lẫn định tính. Vì vậy trong nghiên cứu của mình, NCS sử dụng cả
phương pháp định lượng và phỏng vấn chuyên gia để nghiên cứu tác động của tự
do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
thông qua các kênh: quy định môi trường; thay đổi quy mô sản xuất và thay đổi cơ
cấu nền kinh tế; di cư ô nhiễm từ các nước phát triển qua các nước đang phát triển
thông qua đầu tư. Đây là nghiên cứu chi tiết hơn các nghiên cứu trước đây ở Việt
Nam. Ngoài ra, xet dưới góc độ ngành, nghiên cứu của WB thực hiện ở Việt Nam
năm 2008 chỉ dừng lại ở xếp loại ngành sạch, ngành bân theo mã ngành ISIC bản
sửa đổi lần 3. Nhưng trong nghiên cứu này, ngoài xếp loại ngành sạch ngành bân
chi tiết nhất ở cấp độ 4 chữ số theo VSIC bản sửa đổi lần 4 thì NCS con so sánh
tốc độ gia tăng ô nhiễm giữa hai ngành sạch và bân để từ đó thấy được sự thay đổi
cơ cấu trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, NCS tiến hành đo lường tình trạng ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dựa trên lượng thải. Từ đó, NCS sử dụng
phương pháp định lượng để nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo qua thành phần ô nhiễm
là nước, không khí, chất độc và kim loại ở cấp độ DN thuộc ngành. Bởi hoạt động
sản xuất của các doanh nghiệp luôn thải ra chất thải ở thể lỏng và khí, các thành
phần ô nhiễm: nước, không khí, chất độc, kim loại được nghiên cứu nhiều ở trên
thế giới. Tình trạng ô nhiễm nước, không khí, chất độc, kim loại đang là vấn đề
môi trường trầm trọng ở Việt Nam. Tác động này được kiểm định qua biến loại
hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, phân loại ngành.
Cuối cùng, NCS tiến hành phỏng vấn sâu để bổ sung vào kết quả định lượng
và gợi ý chính sách để giảm nhẹ những tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở nước ta.
1.2 Cơ sở lý luận về tác động cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo
1.2.1 Một số vấn đề lý luận về tự do hóa thương mại
1.2.2 Một số vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
1.2.3 Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo
1.2.3.1 Khái niệm về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Tự do hóa thương mại tác động tích cực, tiêu cực đến các khía cạnh môi trường
xuất phát từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gọi là tác động của tự do hóa thương
mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
1.2.3.2 Tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo
Tóm lại, có 03 nhóm các quy định thương mại để xử lý các vấn đề môi trường:
- Để xử lý các vấn đề môi trường bên ngoài lãnh thổ thông qua các công cụ
thương mại như: cấm, hạn ngạch…;
6
- Để bù đắp đối với các quốc gia nới lỏng các quy định/ tiêu chuân về môi
trường thông qua đánh thuế hoặc biện pháp về hải quan;
- Các biện pháp phía sau biên giới: các biện pháp môi trường nội địa không trực
tiếp vào các quốc gia khác. Đây là nhóm công cụ không rõ ràng và dễ bị cho là có
nhiều nguy cơ gây ra các tranh chấp thương mại và tạo ra các rào cản thương mại,
như: thuế và các quy định nội địa của quốc gia nhập khâu được áp dụng không
phân biệt đối xử với các sản phâm được sản xuất trong nước và nhập khâu có thể
tạo ra rào cản thương mại cho quốc gia xuất khâu nếu các quy định môi trường ở
quốc gia nhập khâu cao hơn so với quốc gia xuất khâu. Các trợ cấp cho hàng hóa
xuất khâu gây ra sự gia tăng các vấn đề môi trường.
1.2.3.3 Tự do hóa thương mại tác động tới tăng năng suất của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo
Như vậy, tự do hóa thương mại tác động lên toàn bộ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo.Tác động này bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn,
cũng như cả khu vực phi chính thức và chính thức. Đối với khu vực kinh tế chính
thức, việc giảm thuế hàng hóa cuối cùng làm tăng năng suất trung bình, với sự gia
tăng lớn nhất là kênh phân phối. Nếu các DN đầu tư công nghệ và phân phối lại lực
lượng sản xuất để tăng năng suất thì tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường sẽ giảm đi và DN đó có khả năng thành công trong môi trường
tự do hóa thương mại. Ngược lại, nếu DN tăng năng suất bằng sản xuất nhiều hơn
sẽ dẫn đến sự phá sản và gia tăng ô nhiễm bởi cạn kiệt tài nguyên và gia tăng chất
thải.
1.2.3.4 Tự do hóa thương mại tạo sự di cư của các ngành công nghiệp bẩn đến các
nước đang phát triển
Từ lý thuyết của các nhà kinh tế đưa ra, NCS sử dụng dữ liệu để xem xét,
trong tiến trình tự do hóa thương mại, Việt Nam có nằm trong quy luật là “ổ chứa ô
nhiễm” của một nước đang phát triển thông qua dòng vốn FDI mà các nhà kinh tế
đã đưa ra? Thành phần môi trường bị ô nhiễm được xet đến trong nghiên cứu này
là nước, không khí, chất độc và kim loại.
1.2.3.5 Tự do hóa thương mại tạo sự chuyên môn hóa trong ngành công nghiệp bẩn
Với việc Việt Nam khai thác lợi thế cạnh tranh chính trong các mặt hàng
thâm dụng lao động và thâm dụng tài nguyên thiên nhiên xuất khâu sang các đối
tác thương mại chính. Những đối tác nhìn chung có các quy định môi trường
nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, sự mở cửa thương mại ấn tượng của Việt Nam có thể có
những ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường. Bởi vì, để tiếp tục tăng trưởng nhanh
chóng như những năm vừa qua, Việt Nam có thể “chuyên môn hóa” trong những
ngành “thâm dụng ô nhiễm” hay những ngành có cường độ ô nhiễm cao (ngành
bân). Nghiêm cứu thực nghiệm của Mani và Jha năm 2005 đã cho chung ta thấy
điều đó (Mani và Jha.S, 2005). Như vậy, từ lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, các
nước đang phát triển đang “chuyên môn hóa” trong những ngành “thâm dụng ô
nhiễm”. Vậy, Việt Nam có nằm trong quy luật đó hay không chính là mục tiêu của
nghiên cứu này.
1.2.3.6 Tự do thương mại tác động đến đến môi trường bằng chuyển giao công
nghệ, tri thức và đầu tư
7
Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho quốc gia tham gia giảm thiểu ô
nhiễm môi trường bằng việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh.
Nhưng ngược lại, tự do thương mại sẽ tạo ra áp lực cho môi trường nếu quốc gia
đó bị hạn chế về tài chính, chính sách.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Khung phân tích và giả thuyêt nghiên cưu
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan về tác động của tự do hóa thương mại
tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Để trả lời câu hỏi
nghiên cứu và kiểm định giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng phương pháp nghiên
cứu định lượng với sự hô trợ của phần mềm kinh tế lượng Stata 12 và phương pháp
phỏng vấn, thống kê cùng với khung phân tích được sử dụng trong nghiên cứu này
như sau:
Sơ đồ 2.1: Khung phân tích
Nguồn: NCS Tổng hợp từ cơ sở lý luận
Định hướng và giải pháp chính sách giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ CNCBCT
trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở Việt Nam
trong
Cơ sở lý thuyết về tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường
từ ngành CNCBCT
Thực trạng ô nhiễm môi
trường ngành CNCBCT Thực trạng tự do hóa
thương mại ngành
CNCBCT
Tự do hóa thương
mại ngành CNCBCT
Ô nhiễm môi trường
từ ngành CNCBCT
Quy định môi trường
DN FDI gây ô nhiễm môi trường
nhiều hơn các loại hình DN khác
- Sử dụng biến kiểm soát loại
hình DN
DN lớn gây ô nhiễm môi trường
nhiều hơn các quy mô DN khác
- Sử dụng biến kiểm soát quy mô
DN
Cơ cấu của ngành CNCBCT ở
Việt Nam dịch chuyển theo chiều
hướng gia tăng ngành công
nghiệp bân
- Sử dụng biến kiểm soát ngành
8
Từ các mối quan hệ của khung phân tích này và dựa trên tổng quan nghiên
cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để kiểm định thực nghiệm như sau:
Giả thuyết 1: Khi tự do thương mại gia tăng thì ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia tăng. (Dean, 2002)
(Gumilang, 2011; Mani và Wheeler, 1998).
Giả thuyết nghiên cứu: dưới góc độ ngành và Doanh nghiệp
Dưới góc độ ngành:
Giả thuyết 2: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì cơ cấu của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dịch chuyển theo chiều hướng gia tăng ngành
công nghiệp bẩn. Hay nói cách khác, khi tự do thương mại gia tăng thì tải lượng ô
nhiễm từ ngành bẩn lớn hơn ngành sạch. (Mani và Jha.S, 2005) (Mani và
Wheeler, 1999; Copeland và Taylor, 1994)
Dưới góc độ Doanh nghiệp:
Giả thuyết 3: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì Doanh nghiệp FDI gây
ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác (Grossman and Krueger,
1993) (Ederington và cộng sự, 2004).
Giả thuyết 4: Khi tự do thương mại gia tăng thì các doanh nghiệp có quy
mô lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác. (Copeland và
Tayor, 2003) ((Mani và Jha.S, 2005)
2.2 Phương pháp nghiên cưu
2.2.1 Phương pháp thống kê mô tả
2.2.2 Phươg pháp nghiên cứu đinh lương
2.2.2.1 Mô hình đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường
Để ước lượng tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường
ngành công nghiệp, NCS sử dụng mô hình dưới dạng hàm tải lượng ô nhiễm tổng
quát được đề xuất trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự (Hettige và cộng sự,
1996) như sau:
P = β0 + β1 X+ β2 T+ β3 D+ui (1)
Trong đó, P là mức độ ô nhiễm, X là vec- tơ các yếu tố đầu vào, T là biến đại
diện cho tự do hóa thương mại, D là vec – tơ tập hợp các biến giả, ui là số hạng sai số
ngẫu nhiên.
Từ hàm tải lượng ô nhiễm tổng quát, NCS xây dựng mô hình nghiên cứu tải
lượng ô nhiễm của một doanh nghiệp và biểu diễn dạng tuyến tính như sau:
Pijt = β0 + β1 Xijt + β2 Tijt +Dijt β3 +ui (2)
Trong đó, Pijt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim
loại, nước, không khí) của doanh nghiệp thứ i thuộc ngành j theo thời gian t; Xijt
là yếu tố đầu vào; T là biến số đại diện cho mở cửa thương mại ; D là vec tơ
các biến kiểm soát bao gồm kiểm soát về quy mô doanh nghiệp, loại hình doanh
nghiệp và vùng miền phân bố; β là các vec – tơ hệ số của các tham số phù hợp;
ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
9
Ngoài ra, để đánh giá tổng quát hơn về tác động của tự do hóa thương mại
đến ô nhiễm môi trường ở cấp độ ngành, mô hình được sử dụng dưới dạng tuyến
tính là:
Pjt = β0 + β1 Xjt + β2 Tjt + Djt β3 +ui (3)
Trong đó, Pjt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim loại,
nước, không khí) của ngành thứ j theo thời gian t; Xjt là yếu tố đầu vào; T là biến
số đại diện cho mở cửa thương mại; D là vec tơ các biến kiểm soát bao gồm kiểm
soát về loại ngành và vùng miền phân bố; β là các vec – tơ của các hệ số của các
tham số phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
2.2.2.2 Phương pháp ước lượng
Mô hình chung của dạng số liệu mảng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + vit hay Yit = β0 + βi*Xit +ci + uit (vit = ci + uit) (4)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc; Xit là vec tơ các biến giải thích, vit là các yếu
tố ngẫu nhiên, ci là biến không quan sát được (thể hiện đặc điểm riêng của từng
quan sát hoặc từng đơn vị), uit thỏa mãn các giả thiết của phương pháp ước lượng
bình phương tối thiểu OLS.
Mô hình hồi quy gộp POLS
Nếu không có cit thì mô hình (4) khi được viết lại dưới dạng mô hình hồi
quy gộp (Pooled Model) như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + uit (4.1)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc ; Xit là véc- tơ các biến giải thích trong phương trình
4.
Mô hình tác động cố đinh FEM
Mô hình FEM có dạng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + ci + uit (4.2)
Mô hình FEM được ước lượng bằng phương pháp hồi quy cổ điến với biến
giả hoặc phương pháp biến đổi dọc như sau:
Có : Yi = β0 + βi*Xi + ci + uit
uuXXYY iittitiit
1
Phương pháp này giup loại bỏ những ảnh hưởng theo chiều ngang của ci và chỉ
còn lại những ảnh hưởng theo chiều dọc. Vì thế hàm còn có tên gọi là ước lượng dọc.
Mô hình hồi quy ngẫu nhiên REM
Cuối cùng, mô hình được lựa chọn sẽ sử dụng hồi quy robust để kiểm soát
các vi phạm về phương sai thay đổi và tự tương quan của sai số ngẫu nhiên
(Wooldridge, 2002), (Greene, 2003).
10
2.2.2.3 Dữ liệu
i) Nguồn dữ liệu
Trong nghiên cứu này NCS sử dụng dữ liệu doanh nghiệp được chiết từ bộ
Điều tra Doanh nghiệp (GES) do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện trong giai
đoạn 2006 – 2014. Bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp cung cấp một nguồn thông tin
phong phu ở cấp độ doanh nghiệp, ngành, bao gồm: giá trị xuất nhập khâu, năm
thành lập, ngành hoạt động, hình thức sở hữu, cơ cấu vốn, cơ cấu việc làm, vùng
miền phân bố. Các thông tin này được khai thác để có một tập hợp dữ liệu về đặc
điểm của doanh nghiệp, ngành để sử dụng cho khung phân tích đã nêu trên.
Cường độ ô nhiễm được định nghĩa là: lượng ô nhiễm trên một đơn vị hoạt
động gây ra bởi các chất gây ô nhiễm. Sau đó, cường độ ô nhiễm được dùng làm
mức ô nhiễm ước tính, Hettige và cộng sự đã đưa ra nghiên cứu về cường độ ô
nhiễm năm 1996 (Hettige và cộng sự, 1996).
Cường độ ô nhiễm = Lượng ô nhiễm
Một đơn vị hoạt động gây ra ô nhiễm
ii) Xử lý dữ liệu
iii) Biến số và thước đo
* Biến phụ thuộc
Hệ thống IPPS sử dụng ba loại hệ số ô nhiễm, bao gồm: (i) các hệ số dựa vào
sản lượng; (ii) các hệ số dựa vào giá trị gia tăng; (iii) các hệ số dựa vào việc làm. Cả
ba loại hệ số trên đều được nhận thấy có tương quan cao với nhau. Nhưng ô nhiễm và
việc làm được nhận thấy có biến thiên cùng chiều nên các hệ số dựa vào việc làm
thường được dùng để ước tính ô nhiễm ở các nước đang phát triển. Điều này được
giải thích trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự năm 1995. Ngoài ra, hệ thống
IPPS được kiểm tra với bộ dữ liệu ngành ở Mỹ và ở Indonesia cho ô nhiễm nguồn
nước, nghiên cứu cho thấy sự thay đổi cao đối với cường độ ô nhiễm dựa trên hệ số
lao động. Mặc khác, bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO không có các thông tin
về sản lượng, giá trị gia tăng. Vì vậy trong luận án, NCS dựa vào việc làm để suy tính
giá trị ước tính tải lượng ô nhiễm .
Cường độ ô nhiễm = Lượng ô nhiễm (kg)
1.000 (Lao động)
Dựa trên công thức tính cường độ ô nhiễm, NCS sẽ tính tải lượng ô nhiễm.
Môi thành phần môi trường khác nhau thì tải lượng ô nhiễm sẽ khác nhau, vì chất
gây ô nhiễm khác nhau. Nhìn chung, tải lượng ô nhiễm được hiểu là: khối lượng
chất ô nhiễm có trong một đơn vị chất thải. Ví dụ: tải lượng ô nhiễm nước thải là
khối lượng chất ô nhiễm có trong một đơn vị nước thải.
Luận án sử dụng dữ liệu cường độ ô nhiễm công nghiệp (IPPS), cường độ ô
nhiễm bằng tải lượng ô nhiễm chia cho tổng lao động doanh nghiệp, vì vậy, tải
lượng được tính bằng:
11
Tải lượng ô nhiễm = Lượng ô nhiễm (kg) * Tổng lao động của doanh nghiệp
1.000 (Lao động)
Tải lượng ô nhiễm được lấy logarit trước khi đưa vào mô hình nghiên cứu.
Đối với môi chất ô nhiễm không khí, nước và các chất độc hại cho hơn 240 hóa
chất và kim loại, IPPS cung cấp một giá trị giới hạn thấp, giá trị giới hạn cao và
giá trị giới hạn trung vị. Trong nghiên cứu của WB áp dụng IPPS để tính ảnh
hưởng ô nhiễm từ các ngành công nghiệp năm 2008, đã sử dụng giá trị giới hạn
thấp của cường độ ô nhiễm, để áp dụng cho nhiều biện pháp bảo toàn của cường độ
ô nhiễm. Vì vậy, trong luận án này NCS cũng sử dụng giá trị giới hạn thấp của
cường độ ô nhiễm.
Cuối cùng, dựa vào nghiên cứu của Hettige và cộng sự (1995, trang 4) thì
“các cường độ ô nhiễm theo ngành luôn luôn có phân phối theo hàm số mũ, với
một ít ngành cường độ cao và nhiều ngành cường độ rất thấp”. Như vậy các giá trị
ước tính ô nhiễm nên được thực hiện ở càng chi tiết càng tốt. Vì vậy NCS sử dụng
các hệ số ô nhiễm ở cấp độ 4 chữ số, đây là cấp độ chi tiết nhất hiện có trong hệ
thống IPPS.
* Nhóm biến giải thich
Yếu tố đầu vào sản xuất được đo bằng K (nguồn vốn). Nguồn vốn (K) được
đại diện bởi nguồn vốn bình quân (trung bình cộng của nguồn vốn đầu năm và
nguồn vốn cuối năm) (Nguyễn Thị Cành, 2004; Bernanke và Gilchrist, 1996). Biến
số này được logarit hóa khi đưa vào mô hình hồi quy.
Halit (2003) ước tính tác động của tự do hóa thương mại đối với tăng trưởng
cho 120 quốc gia trong giai đoạn 1970-1997. Ông đã sử dụng hai phương pháp đo
độ mở của thương mại. Phương pháp đầu tiên được tính bằng cách sử dụng khối
lượng thương mại, bao gồm các tỷ lệ khác nhau của biến thương mại là: xuất khâu,
nhập khâu, tổng kim ngạch với GDP (Halit, 2003). Bên cạnh đó, Santos-Paulino
(2002) đã kiểm tra tác động của tự do hoá thương mại đối với tăng trưởng với 22
quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1972-1998. Ông đã sử dụng thước đo tăng
trưởng xuất khâu làm đại diện cho độ mở của nền kinh tế. Kết quả ước lượng bằng
phương pháp OLS cho thấy tăng trưởng xuất khâu nhanh hơn ở các nền kinh tế mở
(Paulino, 2002). Iscan Talan (1998) đã phân tích hiệu quả của sự mở cửa thương mại
đối với tăng trưởng năng suất tổng sản phâm cho các ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo ở Mexico trong giai đoạn 1970-1990. Để xác định hiệu quả năng suất của sự
tự do hóa thương mại, thước đo đại diện cho độ mở của thương mại chính là giá trị
xuất khâu. Kết quả là tự do hoá thương mại có những tác động tích cực đến tăng
trưởng năng suất (Talan, 1998).
Ngoài tình trạng thiếu đồng thuận về thước đo mức độ mở cửa của thương
mại, việc xây dựng một thước đo mở cửa thương mại phù hợp đoi hỏi phải có đầy
đủ dữ liệu. Do đó, việc lựa chọn thước đo tự do thương mại trong các nghiên cứu
12
thực nghiệm phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu và các mục tiêu nghiên cứu cụ
thể. Trong nghiên cứu này, để đo lường biến tự do thương mại, NCS sử dụng
thước đo, bao gồm:
(i) Tỷ lệ giữa giá trị xuất khâu với tổng doanh thu của ngành
(ii) Tỷ lệ giữa giá trị nhập khâu với tổng doanh thu của ngành
(iii) Tỷ lệ giữa tổng kim ngạch với tổng doanh thu của ngành
Trong đó, với cấp độ DN: giá trị xuất khâu, nhập khâu và tổng kim ngạch
được xác định bởi giá trị xuất khâu, nhập khâu và tổng kim ngạch của doanh
nghiệp thuộc cùng ngành tương ứng; tổng doanh thu được xác định bằng tổng
doanh thu của ngành cấp 4 tương ứng. Với cấp độ ngành: giá trị xuất khâu, nhập
khâu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu được xác định bằng tổng giá trị xuất khâu,
nhập khâu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu của ngành cấp 2 tương ứng.
Ngoài ra, luận án sử dụng biến tương tác là tích số giữa biến tự do hóa
thương mại với biến giả loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, ngành để
đánh giá ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đến ô nhiễm môi trường so sánh
giữa loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh.
Nhóm biến kiểm soát đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm: loại hình doanh
nghiệp, được chia thành doanh nghiệp Ngoài nhà nước (không bao gồm DN FDI)
(DN ngoài NN), doanh nghiệp FDI (DNFDI), doanh nghiệp trong nước (DNNN)
(Tổng cục thống kê, 2015); quy mô doanh nghiệp, được chia thành doanh nghiệp