Nguyễn Thanh Lợi. Ghe bầu Lý Sơn (Quảng Ngãi) GHE BẦU LÝ SƠN (QUẢNG NGÃI) Nguyễn Thanh Lợi Trường Cao đẳng Sư phạm TW-TP.HCM Bài in trong Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, số 2, 2012 Ghe bầu là loại ghe đi biển chạy bằng buồm, chủ yếu dùng để vận chuyển hàng hóa. Đây là loại ghe của cư dân miền Trung, ra đời từ giữa thế kỷ XVI, có nguồn gốc tương đồng với loại thuyền prao (hay prau) của Mã Lai. Hòn đảo di sản[1] Lý Sơn nay là một huyện đảo nằm về hướng đông bắc của tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền khoảng 18 hải lý (tính từ cảng Sa Kỳ). Huyện đảo giữ một vị trí chiến lược về quốc phòng của tỉnh Quảng Ngãi và Quân khu V. Lý Sơn gồm một đảo lớn (xã An Hải và An Vĩnh) và một đảo bé (xã An Bình). Huyện có diện tích gần 10km 2 , dân số hiện trên 21.000 người. Trong đó, 60% dân số sống bằng nghề biển, 30% sống bằng nghề nông (chủ yếu trồng hành, tỏi) và 10% dịch vụ buôn bán.[2] Lý Sơn còn có tên gọi là cù lao Ré, được khai phá vào thế kỷ XVII. Trên đảo mật độ di tích dày đặc: 2 đình, 8 chùa, trên 30 lăng miếu. Trong số đó có nhiều di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia như chùa Hang (Thiên Khổng Thạch tự), đình An Hải, đình An Vĩnh, lăng Đông Hải, dinh Bà Thiên Y Ana, Âm Linh tự, dinh Tam Tòa, nhà thờ ông Phạm Quang Ảnh (Cai đội bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa), tượng đài Hoàng Sa Bắc Hải… Hàng năm trên đảo có nhiều lễ hội như lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ đua thuyền, lễ tế Âm Linh tự, lễ cúng cá Ông, lễ đình làng An Vĩnh, An Hải…với những giá trị văn hóa hết sức nhân văn. Cả huyện đảo như một bảo tàng văn hóa dân gian sống động với những di sản quý báu được gìn giữ khá nguyên vẹn so với trong đất liền. Lý Sơn không chỉ được mệnh danh là “vương quốc tỏi” mà còn xưa nổi tiếng với nghề buôn ghe bầu ở miền Trung với những thương nhân buôn bán khắp xứ. Ghe bầu miền Trung Ghe bầu là loại ghe đi biển chạy bằng buồm, chủ yếu dùng để vận chuyển hàng hóa. Đây là loại ghe của cư dân miền Trung, ra đời từ giữa thế kỷ XVI, có nguồn gốc tương đồng với loại thuyền prao (hay prau) của Mã Lai. Theo các nhà ngôn ngữ học, danh từ “ghe bàu” (ghe bầu) có lẽ là cách phát âm của người Việt khi đọc chữprau hay perahu của ngôn ngữ Mã Lai. Chữ prau là một danh từ chỉ ghe, thuyền, một loại phương tiện chuyên chở trên mặt nước (water crafts). Ngô Đức Thịnh cho rằng có thể tên gọi ghe bàu là biến âm của tên gốc Chăm là prau, một loại thuyền mà người Mã Lai thường dùng đi lại giữa các đảo ở vùng Đông Nam Á hải đảo.
12
Embed
Nguyễn Thanh Lợi. Ghe bầu Lý Sơn (Quảng Ngãi)qlkh.hcmussh.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/qlkh/VAN HOA HOC_VIET NA… · dày đặc: 2 đình, 8 chùa, trên 30 lăng
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Nguyễn Thanh Lợi. Ghe bầu Lý Sơn (Quảng Ngãi)
GHE BẦU LÝ SƠN (QUẢNG NGÃI)
Nguyễn Thanh Lợi
Trường Cao đẳng Sư phạm TW-TP.HCM
Bài in trong Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, số 2, 2012
Ghe bầu là loại ghe đi biển chạy bằng buồm, chủ yếu dùng để vận chuyển hàng hóa. Đây là
loại ghe của cư dân miền Trung, ra đời từ giữa thế kỷ XVI, có nguồn gốc tương đồng với loại
thuyền prao (hay prau) của Mã Lai.
Hòn đảo di sản[1]
Lý Sơn nay là một huyện đảo nằm về hướng đông bắc của tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền
khoảng 18 hải lý (tính từ cảng Sa Kỳ). Huyện đảo giữ một vị trí chiến lược về quốc phòng của
tỉnh Quảng Ngãi và Quân khu V. Lý Sơn gồm một đảo lớn (xã An Hải và An Vĩnh) và một đảo
bé (xã An Bình). Huyện có diện tích gần 10km2, dân số hiện trên 21.000 người. Trong đó, 60%
dân số sống bằng nghề biển, 30% sống bằng nghề nông (chủ yếu trồng hành, tỏi) và 10% dịch vụ
buôn bán.[2]
Lý Sơn còn có tên gọi là cù lao Ré, được khai phá vào thế kỷ XVII. Trên đảo mật độ di tích
dày đặc: 2 đình, 8 chùa, trên 30 lăng miếu. Trong số đó có nhiều di tích lịch sử văn hóa cấp quốc
gia như chùa Hang (Thiên Khổng Thạch tự), đình An Hải, đình An Vĩnh, lăng Đông Hải, dinh
Bà Thiên Y Ana, Âm Linh tự, dinh Tam Tòa, nhà thờ ông Phạm Quang Ảnh (Cai đội bảo vệ
Hoàng Sa, Trường Sa), tượng đài Hoàng Sa Bắc Hải…
Hàng năm trên đảo có nhiều lễ hội như lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ đua thuyền, lễ tế
Âm Linh tự, lễ cúng cá Ông, lễ đình làng An Vĩnh, An Hải…với những giá trị văn hóa hết sức
nhân văn. Cả huyện đảo như một bảo tàng văn hóa dân gian sống động với những di sản quý báu
được gìn giữ khá nguyên vẹn so với trong đất liền.
Lý Sơn không chỉ được mệnh danh là “vương quốc tỏi” mà còn xưa nổi tiếng với nghề
buôn ghe bầu ở miền Trung với những thương nhân buôn bán khắp xứ.
Ghe bầu miền Trung
Ghe bầu là loại ghe đi biển chạy bằng buồm, chủ yếu dùng để vận chuyển hàng hóa. Đây là
loại ghe của cư dân miền Trung, ra đời từ giữa thế kỷ XVI, có nguồn gốc tương đồng với loại
thuyền prao (hay prau) của Mã Lai.
Theo các nhà ngôn ngữ học, danh từ “ghe bàu” (ghe bầu) có lẽ là cách phát âm của người
Việt khi đọc chữprau hay perahu của ngôn ngữ Mã Lai. Chữ prau là một danh từ chỉ ghe,
thuyền, một loại phương tiện chuyên chở trên mặt nước (water crafts).
Ngô Đức Thịnh cho rằng có thể tên gọi ghe bàu là biến âm của tên gốc Chăm là prau, một
loại thuyền mà người Mã Lai thường dùng đi lại giữa các đảo ở vùng Đông Nam Á hải đảo.
Đây là loại thuyền mà mũi và lái đều nhọn, bụng bầu, độ ngấn nước sâu, nên thuyền có khả
năng ra khơi xa. Bánh lái (kiểu lái cối, lái ống, lái âm dương...) đều có cấu tạo là sỏ lái xuyên
trực tiếp vào bánh lái. Thuyền dùng loại buồm hình tứ giác hay cánh dơi. Mắt thuyền có hình
dẹp, dài, trước tròn, đuôi mắt dài nhọn...[3]
Ghe bầu Lý Sơn
Ghe bầu Lý Sơn cấu tạo gồm 3 khoang: khoang đốc, khoang lòng và khoang mũi.
Giàn then (sườn ghe) để giữ be ghe; giàn mui cong bằng tre, lợp lá dừa, chặn nan tre ở trên, có
tác dụng che mưa che nắng. Mỗi ghe có 3 cột buồm, buồm lòng ở ngay chính giữa ghe, lớn nhất
(cao 9m, bằng với chiều dài chiếc ghe), buồm mũi nhỏ hơn buồm lòng (cao 7m); rồi đến buồm
ưng, thấp nhất (cao 5m). Buồm làm bằng lá đệm mua trong Nam, bề ngang khoảng 4 tấc, chiều
dài tùy theo cánh buồm, may bằng chỉ triên (dây may buồm bằng chỉ sợi dừa). Ngoài ra còn có
một chèo lái, bốn chèo ngang, một bánh lái để chèo lái ghe, một bánh mũi để đỡ ghe cho khỏi tạt
nghiêng một bên.
Trên cù lao Ré từ lâu đã hình thành làng nghề truyền thống chuyên đóng mới và sửa chữa
các loại ghe bầu tại bến Đá (Lý Vĩnh). Những năm 1945-1946, thực dân Pháp cấm làng nghề
hoạt động, tiêu hủy các phương tiện nghe bầu ở Lý Sơn. Các thợ đóng ghe phải phiêu dạt vào đất
liền, đến Phú Thọ (xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa), Tịnh Kỳ (huyện Sơn Tịnh), Sa Huỳnh
(huyện Đức Phổ), Tam Kỳ (Quảng Nam) để tiếp tục hành nghề. Nên nghề đóng ghe bầu ở Lý
Sơn dần dần bị thất truyền. Hiện nay trong nhà ông Võ Điềm (90 tuổi), một thợ con (thợ phụ
đóng ghe bầu) cho cha mình là người Huế - người chuyên đóng ghe bầu ở bến Đá, xã Lý Vĩnh
(huyện Lý Sơn) vẫn còn bàn thờ tổ nghề với mô hình một chiếc ghe bầu.
Đóng mới một chiếc ghe bầu trung bình cần khoảng 300 công lao động. Một chiếc ghe bầu
cỡ 80 tấn, đóng mất 3 năm ròng. Lý Sơn có 2 thợ cái là ông Nguyễn Hãn (anh em chú bác ông
Nguyễn Đằng) và ông Nguyễn Sư (con ông Nguyễn Đằng). Còn thợ phụ có đến vài chục người.
Hiện các bác thợ cái đều đã mất, chỉ còn vài thợ phụ, bạn ghe lớn tuổi sinh sống trên đảo.
Ghe đóng xong, được trét dầu rái trộn với cây chai mắm (xác máu), một cây mọc nhiều trên
đảo, để chống rỉ nước. Mủ cây chai mắm còn được ốp vào các chốt nêm bằng gỗ để chốt chặt
không cho thấm nước.
Ghe bầu Lý Sơn trước đây mua từ Quảng Nam, Sa Kỳ (Quảng Ngãi), về sau được đóng tại
bến Đá (xã An Vĩnh). Nguyên liệu gồm gỗ kiền kiền, gỗ chò mua ở vùng Cầu Ván (Quảng
Nam); ván lợp mua ở Nam Ô (Đà Nẵng),ván be mua nơi Lăng Cô (Huế), Hội An; gỗ mù u thì có
sẵn trên đảo; dầu rái có Bồng Sơn (Bình Định) cung cấp; đệm buồm thì kiếm ở Cù Mi, La Gi
(Bình Thuận); tre nan đặt làm sẵn dọc theo sông Trà Khúc.
Tải trọng và kích thước ghe bầu chia làm 3 cỡ: cỡ nhỏ dưới 50 tấn, dài 4m; cỡ trung 50 tấn,
dài 12m và cỡ lớn trên 100 tấn, dài 22m, rộng 6m, cột buồm cao từ 1,8-2,5m. Ghe bầu Quảng
Ngãi có ký hiệu QNG 45 TT, lần lượt đó là viết tắt tên tỉnh Quảng Ngãi, 45 là số hiệu ghe thuyền
trong tỉnh, TT là thương thuyền.
Thông thường trên mỗi chiếc ghe bầu Lý Sơn có 8-12 người. Tổng lái thường là chủ ghe
hoặc thuê người, 1 tổng khoang (tổng thương, lái phụ), 1 biện (thư ký quản lý sổ sách), 1 tổng
khậu (hậu cần) (tổng mũi), số còn lại là thủy thủ lo việc vận hành ghe.[4]
Kỹ thuật vận hành
Ghe bầu di chuyển bằng buồm xuôi gió, chỉ cần có gió động buồm là đi được, dù nhanh
hay chậm. Những lúc thiếu gió hay gió hơi ngược họ có kỹ thuật chạy “vát” hay chạy “ganh” rất
độc đáo, theo hình chữ “chi”. Tức là ghe bầu chạy ngược gió bằng cách kéo xiên xiên cánh
buồm, nếu ghe nghiêng thì ganh được đưa hết bên trong, tùy theo độ nghiêng mà người bạn
trong ghe chạy ra ngồi trên đòn ganh, nếu ghe nghiêng nhiều hơn thì cùng lúc hai, ba, bốn người
chạy ra. Nếu gió xuôi, ghe đi mất 10 phút, còn gió ngược thì đi mất 15-20 phút cho cùng một
quãng đường.
Ngày xưa, tham gia vào những chuyến hải trình dài ngày trên biển nhưng không có những
phương tiện định vị hiện đại như la bàn bây giờ. Dân ghe bầu đã sáng tác ra các bài Vè lái vô, Vè
lái ra bằng thể thơ lục bát mà người nào đi ghe bầu cũng thuộc làu. Đây thực sự là những cẩm
nang đường biển, “Nhật trình đi biển”, giúp họ an toàn trên những chuyến đi xa, tránh được bãi
đá ngầm, luồng lạch không an toàn, đồng thời ngâm nga để giải khuây lúc đi buôn đường dài.
Ban đêm họ dựa vào các vì sao trên bầu trời, ban ngày dựa vào các dãy núi để tính toán lộ trình.
Ngày xưa, tham gia vào những chuyến hải trình dài ngày trên biển nhưng không có những
phương tiện định vị hiện đại như la bàn bây giờ. Dân ghe bầu đã sáng tác ra các bài Vè lái vô, Vè
lái ra bằng thể thơ lục bát mà người nào đi ghe bầu cũng thuộc làu. Đây thực sự là những cẩm
nang đường biển, “Nhật trình đi biển”, giúp họ an toàn trên những chuyến đi xa, tránh được bãi
đá ngầm, luồng lạch không an toàn, đồng thời ngâm nga để giải khuây lúc đi buôn đường dài.
Ban đêm họ dựa vào các vì sao trên bầu trời, ban ngày dựa vào các dãy núi để tính toán lộ trình.
Châu Lai, Châu Ổ bao xa
Trước mũi Vũng Quít, thiệt là Thống Binh
Hòn Châm cổ ngựa trời sinh
Làng Gành, Mỹ Giảng kinh ra Vũng Tàu
Nới lèo rán, lái cho mau
Châu Me, Lò Rượu sóng xô hòn Nhàn
Khỏi Thập là thấy Bàn Than
Ngoài thời lao Ré, nằm ngang Sa Kỳ
Trà Khúc, Quảng Ngãi núi chi
Có hòn Thiên Ấn dấu ghi để đời
Hòn Sập ta sẽ buông khơi
rong vịnh ngoài dời núi nổi nghinh ngang
Buồm giương ba cạnh sẵn sang
Anh em ta sẽ lập đàng tư tương
Mỹ Á cửa cạn hòn Thương
Trả hết bãi trường vác thử khoai lang.[5]
Nghề buôn ghe bầu
Nghề đi buôn ghe bầu ở Nam Trung Bộ gọi là buôn các lái. Ghe bầu Lý Sơn đã từng có
mặt ở Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Nha
Trang, Phan Thiết, Sài Gòn, Châu Đốc, Sa Đéc và theo sông Hậu lên tận Nam Vang
(Campuchia). Những bến họ thường đậu, trao đổi hàng hóa ở Sài Gòn là Tân Thuận, Nhà Bè,
Thủ Thiêm, Lê Quang Liêm (quận 6), Nguyễn Duy (quận 8), Vân Đồn (quận 4), cầu Ông Lãnh
(quận 1)
Gạo, muối, đường được mua bán ở Quảng Bình, Hải Phòng, các tỉnh thuộc đồng bằng sông
Hồng cũng từng in dấu chân dân buôn ghe bầu Lý Sơn.
Ghe bầu chở đi đá vôi, mủ cây chai mắm và mua gạo từ nơi khác về. Một số vạn ghe chở
muối ở Sa Huỳnh và Tịnh Hòa (huyện Sơn Tịnh) vào bán trong Nam, đồng thời chở đá và sắt về
bán cho thương nhân người Hoa ở Tam Kỳ (Quảng Nam).
Các loại lưới đan bằng nhợ lấy từ vỏ cây gai đem bán ở các cửa Sa Cần, Sa Kỳ, cửa Đại
(Quảng Ngãi), cửa Thanh Khê, Hiệp Hòa (Quảng Nam). Ở xã Lý Vĩnh, một số tộc họ sống bằng
nghề chở ghe bầu, như họ Võ, họ Đặng, họ Phạm...
Theo lời kể của các ông Phạm Văn Tạ (67 tuổi), Phạm Ngữ (86 tuổi), Phạm Đoàn (62 tuổi)
ở Lý Sơn thì cho đến khoảng thập niên 50 của thế kỷ XX, Lý Sơn còn có ghe bầu của các chủ
ghe: ông Nên, ông Thắng, ông Cừ, ông Chiên, ông Nghinh, ông Niên, Bá hộ Toản, Cả Chuẩn,
Trùm Hai. Ghe bầu của ông cả Chuẩn bị sóng đánh vỡ trong năm Bính Tuất (1946).
Người lúc trẻ có thời gian đi ghe bầu, ông Võ Hiển Đạt (sinh 1932, thôn Tây, xã An Vĩnh)
đến nay vẫn còn nhớ tên các chủ ghe bầu ở Lý Sơn: bà Học (2 chiếc lớn), ông Nguyễn Đăng (1
chiếc), ông Bùi Thước (1 chiếc), ông Trần Phán (1 chiếc lớn, 1 chiếc nhỏ), ông Trần Xán (1
chiếc nhỏ), ông Nguyễn Để (1 chiếc), ông Phan Miễn (1 chiếc), ông Đặng Mạ (bố vợ ông Võ
Hiển Đạt, 1 chiếc). Tổng cộng có khoảng 30 chiếc ghe bầu ở Lý Sơn.
Ông Phan Đình Chi (69 tuổi, thôn Tây, xã An Vĩnh) người từng có 3 năm đi ghe bầu trên
tuyến Lý Sơn - Sài Gòn cho biết về một vài chủ ghe bầu trên đảo Lý Sơn: bà Học và ông Hổ
cùng ở thôn Tây mỗi người có 1 chiếc ghe lớn, ông Sử có 1 chiếc ghe cỡ trung, ông Ngô Xương
có 1 chiếc ghe nhỏ. Đa phần họ rủ nhau hùn vốn đi buôn, rất ít khi chở thuê.
Ông Nguyễn Ngọc Nhi người xã An Vĩnh (huyện Lý Sơn) cho biết, khoảng trước năm
1960, vùng này còn khoảng 4 chiếc ghe bầu đi buôn trên các tuyến đường biển Quảng Ngãi- Hội
An, cảng Sa Kỳ-Lý Sơn. Hàng từ Sa Kỳ- vùng Ba Làng An[6] đưa ra Hội An (Quảng Nam)
gồm: đường cát, đường phổi, đường phèn, lâm thổ sản (quế, đậu xanh, hồ tiêu, lạc, trầm hương)
để xuất tiếp sang Hồng Kông, Ấn Độ, Tây Âu...Hàng mua về chủ yếu là hàng tiêu dùng: dầu lửa,
cước lưới, vải vóc, kim chỉ may...Hàng từ Sa Kỳ đưa ra Lý Sơn là: gạo, muối, hàng tiêu
dùng...Hàng mua từ Lý Sơn vào là: cá khô, mực, xà cừ, lạc, lưới gai, dầu mù u, san hô.
Bến Sũng Thầy Tu (nay thuộc khu vực 4, thôn Đông, xã Lý Vĩnh), bến Lăng Cồn hay bến
Lỗ Cát (thôn Tây, xã An Vĩnh), ngay trước Âm Linh tự, thường gọi là xóm Cồn, nơi có bãi cát
rộng là những chỗ ghe bầu về neo đậu. Còn bến cồn Mom hay suối Cạn (thôn Tây, xã Lý Vĩnh)
lại là nơi bến xuất phát, cũng là nơi đóng, sửa ghe. Vào khoảng năm 1949, ở các bến này luôn có
khoảng trên 10 chiếc ghe bầu đậu thường trực.
Những chuyến đi dài ngày kéo dài từ tháng chạp đến tháng 8 âm lịch năm sau. Hội An tuy
gần Lý Sơn, nhưng có những chuyến buôn phải dừng lại ở đây cả tháng để bán cho hết hàng rồi
mới nhổ neo đi tiếp.
Ghe bầu vào Nam theo chu kỳ “3 nồm, 3 bấc”. Vào khoảng tháng 10-12 âm lịch, ghe bầu
theo gió bấc đi bán lưới gai, rau câu, tau chân vịt, cá, mắm...chủ yếu bán ở Sài Gòn. Đến tháng
2-4 âm lịch theo gió nồm, ghe bầu chở gạo từ Gò Công, Cai Lậy, Cái Bè (Tiền Giang), Sóc
Trăng, đôi khi mua tận ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng về bán cho Lý Sơn, Sa Kỳ; sắt, thiếc bán
cho người Hoa ở cảng Kỳ Hà (Quảng Nam). Hòn Khói (Ninh Hòa, Khánh Hòa) và mũi Né (Phan
Thiết, Bình Thuận) là nơi ghe bầu dừng lại lấy nước trên các chuyến về. Ghe bầu Lý Sơn thường
vào Phan Thiết, Phan Rí (Bình Tuy) chở nước mắm tỉn ra bán ở Tam Kỳ, gọi là đi lựa.
Ngày trước, dân buôn ghe bầu vẫn phải chịu sự đánh thuế của nhà nước. Chủ lái được chia
40% từ hoa lợi, số còn lại của bạn ghe. Dù có tiền từ việc đi bạn, nhưng do đi những chuyến dài
ngày, nên phần lớn bạn ghe đều tiêu xài vào việc cờ bạc, hút xách, trai gái.
Thỉnh thoảng vẫn xảy ra chuyện chìm ghe, chết người trên biển của dân buôn ghe bầu. Một
lần ông Bùi Hạnh (ông cố ngoại của ông Võ Hiển Đạt) theo gió bấc vào bán hàng ở Bình Định,
bị chìm ghe được cá Ông cứu thoát đưa về Lý Sơn. Hay nhiều người gặp nạn cũng được cứu vớt
đưa vào dinh Tam Tòa (xã An Hải) trên đảo. Do đó, cá Ông rất được dân ghe bầu trên đảo sùng
kính, xem như những vị thần độ mạng. Sau những chuyến đi buôn họ về trả lễ ông Nam Hải
bằng việc tổ chức hát bội hoặc đua thuyền, gọi là “hội lễ hoàn nguyện”, lâu dần thành lệ “Đông
cầu, Thu báo”, một nét đẹp nhân văn trong tín ngưỡng dân gian nơi vùng biển đảo này.
Mô hình ghe bầu Lý Sơn (Bảo tàng Quảng Ngãi)
Tháng 5/2011, Bảo tàng Quảng Ngãi đã đặt ông Võ Hiển Đạt đóng mới mô hình một chiếc
ghe bầu và một chiếc ghe câu. Đây là chiếc ghe bầu thứ hai (sau Bảo tàng Đà Nẵng) có mặt trong
bảo tàng của một tỉnh Nam Trung Bộ, được phục hồi nguyên gốc – một phương tiện vận chuyển
cận duyên quan trọng trong lịch sử giao thương Việt Nam. Ghe bầu miền Trung là một sản phẩm
đặc sắc của nghề biển Việt Nam, đã được từ điển hàng hải thế giới ghi nhận. Hy vọng nó sẽ có
một vị trí trang trọng trong bảo tàng văn hóa biển của Việt Nam được hình thành trong tương lai.
[1] Tác giả xin chân thành cám ơn ông Võ Hiển Đạt (thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi), người đã cung cấp nhiều tư liệu quý trong chuyến khảo sát Lý Sơn ngày
12/5/2011.
[2] Ủy ban nhân dân huyện Lý Sơn, Báo cáo Tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 và quý I năm
2011, ngày 11/5/2011.
[3] http://ghethuyen.freetzi.com/GheBau1-Web.htm
[4] Trong diễn xướng dân gian hát bả trạo ở Nam Trung Bộ, đám bạn chèo đưa Ông có khoảng
từ 10-16 người, tùy theo mỗi địa phương, gồm tổng mũi, tổng khoang (tổng thương) và tổng lái,
nhưng phải luôn là con số chẵn. (Nguyễn Văn Bổn (1985),Văn nghệ dân gian Quảng Nam-Đà
Nẵng, Tập 1, In lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung, Sở Văn hóa-Thông tin Quảng Nam, tr.74).
[5] Nguyễn Văn Bổn (2001), Văn học dân gian Quảng Nam (Miền biển), Sở Văn hóa-Thông tin
Quảng Nam, tr.446-448.
[6] Batangan nay là các xã An Hải (huyện Bình Sơn), An Vĩnh và An Kỳ (huyện Sơn Tịnh).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 1.Trần Văn An (2001), Một số vấn đề về yếu tố biển trong văn hóa Quảng Nam.
Trong Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Sở Văn hóa thông tin.
2. 2.Piétri (2004), Các loại thuyền buồm ven biển Đông Dương. Trong Tỉnh thành xưa ở Việt
Nam, Nxb Hải Phòng-Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
3. 3.Nhiều tác giả (2008), Địa chí Quảng Ngãi, Nxb Từ điển bách khoa.
4. 4.P. Paris (1942), Esquisse d’une ethnographie navale des pays Annamites, B.A.V.H.,
No4, Octobre-Décembre.
5. 5.Nguyễn Thanh Lợi (2010), Ghe bầu Phan Thiết, Tạp chí Xưa và Nay, số 364, tháng 9.
6. 6.Nguyễn Thanh Lợi (2007), Ghe bầu Quảng Ngãi, Tạp chí Cẩm Thành, Số 53, tháng 12.
7. 7.Nguyễn Thanh Lợi (2008), Ghe bầu miền Trung, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2.
8. 8.Nhiều tác giả (2002), Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn, Sở Khoa học, công nghệ và môi
trường Quảng Ngãi.
9. 9.Cao Chư (2010), Văn hóa dân gian xã Tịnh Khê, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. 10.Tài liệu điền dã huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) của Nguyễn Thanh Lợi, tháng 7-2007,
tháng 5/2011.
11. 11.Viện Battelle Memorial (1967), Thanh thư về tàu thuyền cận duyên miền Nam Việt