NGỤC TRUNG NHẬT KÝ = NHẬT KÝ TRONG TÙ “Một Vài Suy Nghĩ Sau Khi Đọc Lại Tập Thơ Ngục Trung Nhật Ký” là bài Đỗ Nam Hải nói từ Sài Gòn và chị Bảo Khánh ghi lại tại Sydney, Úc vì máy điện toán của anh bị công an tịch thu chưa trả lại. Ngày 19/5/2008, nhân kỷ niệm 118 năm ngày sinh HCM nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tại Hà Nội, VN đã tái bản tập thơ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ = NHẬT KÝ TRONG TÙ được nói của HCM này là tác giả viết khi bị bắt quân Tưởng Gi giam tại Quảng Tây, Trung Quốc từ 29/8/1942 đến 10/9/1943. TS Nguyễn Duy Hùng chịu trách nhiệm xuất bản và TS Nguyễn Minh Nghĩa chịu trách nhiệm nội dung. Theo lời giới thiệu ở trang 7, tập thơ gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán, phần cuối có ghi về quân sự và thời sự.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
NGỤC TRUNG NHẬT KÝ = NHẬT KÝ TRONG TÙ
“Một Vài Suy Nghĩ Sau Khi Đọc Lại Tập Thơ Ngục Trung Nhật Ký” là bài Đỗ Nam Hải nói từ Sài Gòn và chị Bảo Khánh ghi lại tại Sydney, Úc vì
máy điện toán của anh bị công an tịch thu chưa trả lại.Ngày 19/5/2008, nhân kỷ niệm 118 năm ngày sinh HCM nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia tại Hà Nội, VN đã tái bản tập thơ NGỤC TRUNG NHẬT
KÝ = NHẬT KÝ TRONG TÙ được nói của HCM này là tác giả viết khi bị bắt quân Tưởng Gi giam tại Quảng Tây, Trung Quốc từ 29/8/1942 đến
10/9/1943. TS Nguyễn Duy Hùng chịu trách nhiệm xuất bản và TS Nguyễn Minh Nghĩa chịu trách nhiệm nội dung.
Theo lời giới thiệu ở trang 7, tập thơ gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán, phần cuối có ghi về quân sự và thời sự.
Tập thơ được cho là: “Một văn kiện lịch sử quan trọng, một tác phẩm vănhọc xuất sắc, có tác dụng giáo dục sâu sắc, phẩm chất và đạo đức cách
mạng trên nhiều thế hệ…”.
1- Tâm hồn của tác giả là một người Trung Hoa.Bài “Song Thập Nhật”
Ngày 10/10/19111à lễ Quốc Khánh Trung Hoa Dân Quốc kỷ niệm cuộc nổi dậy ở Vũ Xương năm Tân Hợi, kẻ thù của CS và không liên hệ gì tới VN.
2- Bài “Kỷ niệm họ Hầu tặng một cuốn sách” trang 267… Chủ nhiệm họ Hầu tặng một bộ sách (Người dịch: Đỗ Văn Hỷ)
Sách ngài Chủ nhiệm mới đưa sang, Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang; Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ, Chân trời một tiếng sấm rền vang.
Hầu Chủ Nhiệm là Hầu Chí Minh, chủ nghiệm chính trị Chiến Khu 4, đã theo lệng Tưởng Giới Thạch thả HCM ra.
Là người nước ngoài ở tù mà còn được tặng sách?Tháng 1/1941 về hang Bắc Bó, tháng 5/1941 đã làm lãnh tụ Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), vậy còn lãnh tụ nào nữa đây?Đúng là câu chuyện của hai người Hoa chứ không phải người Việt.
3- Về tâm tư HCM, sao không thấy lo toan về chuyện đất nước?Đọc cả tập thơ không thấy nói gì tới danh nhân, địa danh Việt Nam.
Trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” do nxb Văn Học, Hà Nội, phát hành năm 2001, trang 105 và 107… của Trần Dân Tiên tức HCM kể chuyện “Đi liền 10 đêm và 5 ngày, cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì chiều hôm đó cụ đã bị bắt và
gian khổ lại bắt đầu. Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao CHS hơn 2 tuần, ngày thì mang gông, đêm đeo cùm. Trong khi cụ Hồ lê lết tấm thân
mệt lử từ nhà giam này đến nhà giam khác, có lẽ những việc lớn đang dồn dập trong nước và trên thế giới, ai khuyên bảo đồng chí, ai giúp đỡ và đẩy mạnh việc tổ chức, có lẽ các nước Đồng Minh đã đổ bộ lên Đông Dương, có lẽ Phát-Nhật đã cắn nhau, có lẽ là các đồng chí trong đảng CS Đông
Dương và các hội viên của Việt Minh đang đớn đau hỏi nhau cụ Hồ bị tai nạn gì? Lòng cụ Hồ rối như tơ vò vì phải ngồi im vô ích trong khi công việc
đang đòi hỏi cụ, mà thời gian đi qua không chờ người…”. Tóm lại là dù ở tù, HCM luôn lo âu về tình hình đất nước, các đồng chí
trong đảng CS Đông Dương… Thế thì thật vô lý, văn suôi thì thiết tha kể những mối lo gan ruột như thế
mả sao trong tập thơ không hế thấy nói gì, dù chỉ 1 dòng tới những chuyện này???
Nếu HCM ở tủ Quảng Tây hơn 1 năm 8/1942-10/1943 mà viết cả tập thơ như vậy, sao khi ở tù Hồng Kông năm 6/1931-1/1933, gần 2 năm mà không
thấy viết chữ nào cả!?
Bài nói chuyện được phát trên VN Sydney Radio ngày 31/8/2008 (sau Võ Đại Tôn) và đưa lên mạng.
http://www.vnsr.net/(từ quá giữa phần 2, sau phần nói chuyện của ông Võ Đại Tôn)
- - -Là người Việt Nam, một đảng viên CS quốc tế, thế mà không thấy trong tập thơ nói gì tới đất nước và chủ
nghĩa CS cả, mà lại nói về Trung Hoa Quốc Dân Đảng!?
Tập thơ phải là một người Hoa theo Quốc Dân Đảng nhưng vì lý do nào đ1o bị bắt.
Về Một Số Bài ThơBài 2, Khai Quyển (Mở đầu tập nhật ký), tác giả tự xưng là Lão Phu, chỉ
người già, khi đó Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi, chưa thể tự coi mình là “lão phu”. Dịch giả chỉ dám dịch là “ta” trống không.
Bài 5, Thế Lộ Nan (Đường đời hiểm trở), có thật bài này nằm trong Ngục Trung Nhật Ký không hay được thêm vào vì cả 133+1 bài mà không bài nào nói tới VN thì kỳ? Vả lại Việt ở đây cũng là Việt Quảng Đông, như
Việt Câu Tiễn, Tây Thi Nước Việt, không riêng gì Việt Nam.Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nhamNa tri bình lộ cánh nan khamCao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dânNghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởiTống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứuKhước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dịNhi kim xử thế cánh nan nan.
Bản dịch của Nam Trân:
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng, Lại bị tình nghi là Hán gian;Xử thế từ xưa không phải dễ, Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Bài 40, Lạc Liễu Nhất Chích Nha (Rụng mất một chiếc răng), Hồ Chí Minh chưa già làm gì ma rụng răng, hình ảnh nào Hồ Chí Minh sún răng
không?
Bài 42, Nhai Thượng (Trên đường phố), Hồ Chí Minh là người Việt thì sao bị coi là “Hán Gian”?
Bài 44, Trưng Binh Gia Quyến (Gia quyến bị bắt lính), nhà Hồ Chí Minh đâu có ai bị trưng binh đâu mà than thở?
Bài 59, Thụy Bất Trước (Không ngủ được) có câu: “Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh”, nên dịch là “Sao năm cánh nhọn mộng hồn
quanh”, tại sao lại dịch là: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh?”. Đâu có chữ nào nói tới màu vàng, đây là lối dịch của văn nô, gượng ép kéo bài
thơ vào chuyện Việt Nam vì hâu như cả tập thơ quên không nói tới quê hương, dân tộc.
Bài 61, Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo (Viết hộ báo cáo cho các bạn tù), Hồ Chí Minh là người Việt đi viết đơn tiếng Hoa cho người Hoa sao. lạ
vậy?
Bài 64, Song Thập Nhật (Ngày 10-10), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch thì mắc mớ gì nhớ ngày này và ca ngợi Trung Hoa kháng Nhật…
Bài 74, Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc
gậy của ta), Hồ Chí Minh khoảng 50-52 tuổi thì làm gì đã chống gậy sớm vậy?
Bài 90, Tứ Cá Nguyệt Liễu (Bốn tháng rồi), Hồ Chí Minh đã già đâu mà nói răng rụng mất một chiếc, nhất là tóc bạc thêm mấy phần, tức đã bạc và
nay bạc thêm nhiều?
Bài 102, Ngũ Khoa Trưởng, Hoàng Khoa Viên (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa
viên họ Hoàng),đây là 2 viên chức Tàu bạn tác giả thực là người Tàu, không thể là bạn Hồ Chí Minh được.
Bái 104, Dương Đào Bệnh Trọng (Dương Đào ốm nặng), một người Tàu bạn tác giả bị bệnh, không liên hệ gì Hồ Chí Minh.
Bài 108, Độc Tướng Công Huấn Từ (Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt, lại là người Cộng Sản sao lại học
lời và ca ngợi Tưởng Giới Thạch?
Bài 109, Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh (Tướng
quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng của Tưởng Giới Thạch?
Bái 110, Tặng Tiếu Hầu (Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác giả khuyên ghi khắc lời dạy “cần kiệm liêm chính” của Lương Khải Siêu, Trung Hoa Quốc
Dân Đảng. Một đảng viên Quốc Tế Công Sản suốt đời vì đảng mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới Mác-Lê hay Cộng Sản cả?.
- - - - -Nhân vật ông già tên “Lý” được nhắc tới trong t ác phẩm
phải chăng là tác giả?- - - - -
Lơi noi đâu cua bản in Nhật ký trong tu, NXB Văn hoa, Hà Nội, 1960,
cung ghi đây là "cuốn sổ tay cua Hồ Chu tich, gồm nhưng bài thơ mà
Ngươi đa viêt trong cảnh lao tu từ mua thu 1942 đên mua thu 1943.
Trong tu thì Hồ Chí Minh lấy đâu ra giấy bút mà viêt ngày này tháng
nọ.
- - - - -
Ai giới thiệu Ngục Trung Nhật Ký, lại chính là Trần Dân Tiên!Hồ Chí Minh giới thiệu Hồ Chí Minh
- - - - -Về Niên Biểu
Bìa sách ghi ngày 29/8/1932-10/9/1933, lưng sách ghi thêm ngày 29/8/1942-10/9/1943.
Bìa sách viết giữa 2 hàng số tự nhiên, nghiêng trên xuống, trái qua phải (\), còn lưng sách viết nghiêng dưới lên, trái qua phải (/), trên chữ “Hoàn” (完, chấm hết) có vẻ thêm vào cho phù hợp với năm tù của
Hồ Chí Minh?Một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.
Nguyễn Đình Thi (1924-2003, thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm
thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa
cứu quốc. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật) viết năm 1950 (tài liệu của Nha Thông Tin Việt Bắc)
rằng “Rồi hoạt động ở Tàu 1941-1942, Cụ bị bắt đi trong 62 ngày”…- - - - -
Từ trang đo (ghi chú) trơ đi, net chư viêt khá khác phân thơ. Theo nhưng ngươi biên soan cuốn sách thì phân sau là phân tác giả dung làm sổ tay, ghi chep các sư kiên chính tri quốc tê, khu vưc và Viêt Nam. Đăc biêt hơn là trong phân sổ tay này co nhiều chư tiêng Viêt và tiêng Pháp viêt lân vào vơi chư Hán.Hai net chư khác nhau (phân thơ và trong sổ tay ơ phân sau
cua HCM)- - - - -
Về Số Lượng Bài ThơCo nơi thì noi 115 (Harrison S. Salisbury), 120, 133, 134,
150 (Nguyễn Đình Thi)…??? Điều này cho thấy sư bất nhất và thiêu thành thật cua nhom chu trương đưa ra.
- - - - -Theo Học Giả Lê Hữu Mục:
“Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi (Hồ Chí Minh Không Phái Là Tác Giả Nhật Trung Nhật Ký) ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết
của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề
lui năm lại là 1989! “Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật
Ký”. Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã “cường điệu”, mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác
gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
“Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29 – 8 - 1932 đến 10 – 9 - 1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào
năm 1942 - 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời.
Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che
giấu, khuất tất. . ....
- - - - -
» Hiện giới thiệu
1. Vô đề 41. Long An – Đồng Chính 81. Mac ban trương
Ban gôc but tich ghi ngay thang la 29.8.1932 va 10.9.1933
Noi chung trư Nguyên Đinh Thi (1924-2003, Ông thuôc
thê hê cac nghê sỹ trương
thanh trong khang chiên chông
Phap. Ông viêt sach khao luân
triêt hoc, viêt văn, lam thơ, soan
nhac, soan kich, viêt ly luân phê
binh. Ông đươc nha nươc
phong tăng Giai thương Hô Chi Minh vê văn hoc nghê thuât đơt I năm 1996.
Sau Cách mang tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hoa cứu
quốc. Từ năm 1958 đên năm 1989 làm Tổng thư ký Hội nhà văn Viêt Namnăm 1995, ông là Chu tich Ủy ban toàn quốc Liên hiêp các Hội Văn học nghê thuật.
) viêt năm 1950 (tai liêu cua Nha Thông Tin Viêt Băc) răng
'Rôi hoat đông ơ Tau 1941-1942, Cu bi băt đi trong 62 ngay', con
cac nha nghiên cưu khac đêu đông y vê thơi gian ông Hô bi quân Tương giam la 29/08/1942 đên 10/09/1943. Y kiên cua Nguyên Đinh Thi bi ghi trong phân chu thich la sai.
Viêt trên bao Nhân dân ngay 13-9-1955, Phan Quang viêt: "chung tôi đươc xem cuôn sô tay Nhât
ky trong tu cua Hô Chu tich ghi tư ngay 29-8-1942 đên 10-9-1943, trong khi Ngươi tư chiên khu
Viêt Băc trơ ra nươc ngoai hoat đông va bi đê quôc giam giư hơn môt năm.'
Lơi noi đâu cua ban in Nhât ky trong tu, NXB Văn hoa, Ha Nôi, 1960, cung ghi đây la
"cuôn sô tay cua Hô Chu tich, gôm nhưng bai thơ ma Ngươi đa viêt trong canh lao tu tư mua thu 1942 đên mua thu 1943.'
Chi tâp trung vao ban gôc băng chư Han thi phân thơ đươc viêt tư trang đâu đên trang 53. Tai
trang nay thi co hai ngay thang khac la 29-8-1942 năm ơ trên va 10-9-1943 năm ơ dươi. Ca hai
dong ngay thang năm trên chư 'Hoan' băng Han tư.
Giao sư Đăng Thai Mai noi con sô đung ra la 1942-1943
Vao năm 2004, trên bao Lao Đông chay môt sêri bai tim hiêu vê nguyên tac "Nguc trung nhât ky",
trong đo giai thich vê chi tiêt ngay thang nay.
Tac gia Hoang Quang Uyên viêt: "Vê sư "nhâm lân" nay, Giao sư Đăng Thai Mai, Viên trương
Viên Văn hoc đã cho biêt: "Cuôn sô tay cua Bac hiên con đươc lưu trư, co ghi trên bia hai con sô
1932-1933."
"Trong thơi gian Viên Văn hoc hiêu đinh ban dich Nguc trung nhât ky, chung tôi đê đat lên Bac
câu hỏi vê điêm nay, qua Ban Tuyên giao. Va đã đươc tra lơi, hai con sô trên đây la sai, đung ra
la 1942-1943" (Đăng Thai Mai: Nghiên cưu, hoc tâp thơ văn Hô Chi Minh, NXB KHXH -1979)."
Ông Hoang Quang Uyên noi thêm: "Đê thêm chăc chăn, tôi đã tim hiêu ơ Viên Bao tang Cach
mang Viêt Nam, trong Hô sơ văn vât Nguc trung nhât ky, muc Niên đai văn vât ghi ro: 1942-1943.
Va băng chưng chăc chăn nhât la ơ trang 53, ban thao gôc cũng co ghi 1942-1943, dươi đo la
chư hoan (hêt)."
Thơ va sô tay
Tư trang đo trơ đi, net chư viêt kha khac phân thơ. Theo nhưng ngươi biên soan
cuôn sach thi phân sau la phân tac gia dung lam sô tay, ghi chep cac sư kiên chinh tri quôc tê,
khu vưc va Viêt Nam.
Đăc biêt hơn la trong phân sô tay nay co nhiêu chư tiêng Viêt va tiêng Phap viêt lân vao vơi chư
Han.
Vê con sô cac bai thơ trong Nguc Trung Nhât Ky cũng co môt sô điêu chưa đươc thông nhât,
ngay trong cuôn sach cua NXB Chinh tri Quôc gia.
Sach trich nha nghiên cưu Nguyên Đăng Manh noi răng 'Vũ Quân Phương khăng đinh Bac Hô la
môt nghê si đây tai năng vi Ngươi co kha năng sang tac hơn 133 bai thơ trong co 14 thang, ma la
14 thang ơ tu'.
Nguyên Đăng Manh 'chinh Vũ Quân Phương' ơ con sô thơi gian tac gia ơ tu 'không phai trong 14 thang, ma chu yêu chi trong 4 thang'. Xin chu y con sô bai thơ ma Vũ Quân
Phương nêu la 133 va Nguyên Đăng Manh cũng không sưa.
Nguyên Đinh Thi, vân trong phân viêt nêu trên, thi đưa ra con sô 150 bai. Con Harrison S. Salisbury trong lơi giơi thiêu ban tiêng Anh in năm 1971 ơ Mỹ lai noi đo la 115 bai.
Qua thưc, thơ Hô Chi Minh đang co cuôc sông riêng, không chi trong sach vơ ma con trong tâm
tri hang triêu ngươi, ơ Viêt Nam, ơ Trung Quôc va nhiêu đât nươc, nhiêu ngôn ngư khac nưa!
18/8/2006
Nguyễn Hoàng Sơn
- - - - - - - - -
Hội Văn Hóa Việt
Phỏng Vấn GS. Lê Hữu Mục
về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh
Tinh Vệ (D.T.)
Nhân chuyến Nam Du hay Hoa Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình
phát thanh của Hội Văn Hóa Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, tiểu bang
California. Bài phỏng vấn này do giáo sư Trần Công Thiện, đồng nghiệp của giáo sư Lê
Hữu Mục tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, và luật sư Đỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8 tháng
6 năm 2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên mạn lưới toàn cầu với
website của Đài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục, sắp xếp
lại, bàn thêm, viết thành bài này.
Học giả Lê Hữu Mục là giáo sư Đại học Văn khoa và Sư phạm, ông đậu đầu kỳ thi Tiến
sĩ Văn chương Việt Nam dành cho các giáo sư đại học năm 1970. Ông còn là nhà biên
khảo, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu triết học và tôn giáo và là nhạc sĩ nữa.
Ngoài khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn quan trọng, bài viết đăng báo, ông
viếtù cuốn “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký” gây nhức nhối
cho cộng sản Việt Nam. Cuốn sách này ông ra sức, tập trung ý chí và khả năng hoàn
thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại
“Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh Hồ Chí Minh. Đây là chuyện cũ, nhưng cho
đến bây giờ vẫn là mới nên nhắc lại chuyện cái phao xẹp “Tư tưởng Hồ Chí Minh” mà
nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn dân hại nước.
Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu
thuẫn và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng: Hồ Chí Minh là kẻ đạo văn.
Chúng ta đã biết người cộng sản dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô
đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu
dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm anh hùng Văn Hóa
Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học dựa trên sự mạo nhận của Hồ Chí Minh, ăn
cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn.
Mở đầu cuộc phỏng vấn ông Mục cho biết sau ngày 30 tháng Tư, 1975 ông tìm đường
đào thoát mấy lần nhưng dều thất bại. Trong những giáo sư ĐH Sư Phạm bị kẹt lại có
ông Khoa trưởng Trần Văn Tấn, GS Trần Kim Nở… Những người chủ mới của Trường
Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu: đoàn kết, xóa bỏ hận thù, hòa giải
Bắc Nam, nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng
chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị ở Bộ Chính Trị, họ xa cách,
lạnh lùng với các GS còn kẹt lại. Các giáo sư ngơ ngác, đúng cảnh “ hàng thần lơ láo…”
của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc phải thua cuộc.
Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve vãn, mời mọc, nhưng
“nói vậy nhưng không phải vậy”. Các GS miền Nam đúng ngồi không yên, không biết
phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang, chán nản. Điều xúc phạm đầu tiên là cách
xưng hô “anh chị” kỳ cục. Trước kia có tôn ti trật tự, là thày là giáo sư, là ông, bà. Giờ
đây là anh chị cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói “trường sở vốn là của
mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu ở
đâu?”
Hà Nội lộ mặt thật qua vụ ông Lê Trí Viễn vào Nam “lên lớp” các thày miền Nam. Ông
cán bộ giáo dục này tấn công nền sư phạm miền Nam nặng nề. Ông ta chê là miền Nam
không có một giáo trình quy củ, đàng hòang, không có cuốn sách nào là sách giáo khoa
chính thức, không có một tác phẩm nào tiêu biểu cho sư phạm của một nền đại học.
(Ông Lê Trí Viễn đã dùng nền giáo dục một chiều, chật chội của chế độ, để so sánh với
chủ trương nền dục khai phóng ở miền Nam). Ông ta dùng những lời đả kích mạnh mẽ,
vì ông ta ở thế thượng phong, thế của kẻ thắng. GS Mục là Trưởng Ban Việt-Hán đại
diện cho nhóm sư phạm kẻ bại trận (trong nhóm có GS Trương Văn Chình là GS ngôn
ngữ học nổi tiếng).
Mở đầu ông Mục cũng nói vài lời khiêm tốn, nhưng càng về sau, càng bị bực bội, nên
hơi mất bình tĩnh, tấn công trở lại nhóm GS miền Bắc. Ông cho biết ông đã đọc hết tài
liệu giảng dạy dành cho giáo sinh miền Bắc và đánh giá rằng những tài liệu đó cũng
không có giá trị cao, chỉ đáng quay ronéo phát cho giáo sinh làm tài liệu nội bộ thôi.
Ông cũng phản pháo lại, cho biết là ngoài ấy cũng không có tác phẩm giáo khoa nào
xứng đáng.
Một chuyện khác diễn ra để chúng ta thấy cái máy móc, một chiều của Hà Nội. Ông
Hoàng Xuân Nhị được coi là một giáo sư gạo cội, từng đi du học bên Pháp và Liên Xô,
vào Sài Gòn thuyết trình về thơ của Hồ Chí Minh. Ông ta nói dài dòng về cuốn Ngục
Trung Nhật ký trước cử tọa cũng coi như các học viên, là các giáo sư đại học, trong đó
có GS Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần… Sau bài thuyết trình, họ buộc các giáo sư
phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi người ngỡ ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật
ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ kiện để thảo luận, thu hoạch? Các giáo sư bán cái, đùn
đẩy cho ông Mục “vì ông rành chữ Hán” lên tiếng.
Ông Mục tuy chỉ là lần đầu tiên nghe nói về Ngục Trung Nhật ký, nhưng với phản ứng
mau lẹ và với kinh nghiệm giảng dạy văn chương lâu năm, ông bắt ngay được những
khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết cuốn thơ đó có bốn khuyết điểm (Vì không đủ
thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ nêu lên hai khuyết điểm). Thứ nhất thể thơ trong đó
phần lớn là thơ bảy chữ bốn câu, thất ngôn tứ tuyệt. Thơ bảy chữ là thơ trang trọng,
nghiêm túc, còn thơ lục bát là thơ dân tộc, bình dân, nhưng dịch thất ngôn sang lục bát
dễ bị loãng, câu thừa, câu thiếu, tại sao lại dịch như thế? Diễn giả họ Hoàng ngẫm nghĩ
rồi trả lời: “Để thỉnh thị ý kiến ở “trên” sẽ trả lời sau”. Thấy cái lúng túng, e ngại, tránh
né của diễn giả là các GS miền Nam hiểu ngay được số kiếp văn nô miền Bắc đồng thời
hiểu được tương lai của mình.
Câu hỏi và là thắc mắc thứ hai: Trong bài thơ Thụy Bất Trươc (số 59) co câu:
“Mộng hồn hoàn nhiễm ngu tiêm tinh” (Không ngu được, nên dich là
Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh), tai sao lai dich là: Sao vàng
năm cánh mộng hồn quanh? Kể ra ông Mục đã uống thuốc liều, đã dám mó vào
dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là Hòang Xuân Nhị phải vội vàng
tránh né ngay, nói như vẹt là “sẽ trả lời sau khi thỉnh thị ý kiến ở trên. Đám văn nô, văn
thi sĩ cung đình biết là dịch gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng
là Bác tuy bị tù nhưng lúc nào cũng nghĩ đến non sông đất nước. Đó là do câu thành
ngữ Trung Quốc “ngũ tinh liên châu” (Cứ 60 năm thì 5 hành tinh Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ trong Thái Dương Hệ lại tụ về 1 phía) hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước,
chuyện xum họp vui vẻ giữa vợ chồng.
Đáp câu hỏi, giới văn học giáo dục có thường gặp giới giáo dục, văn học ngoài đó
không, GS Mục cho biết phần nhiều là “họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ”. Trong số
đó có nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Đổng Chi, Trần văn Giàu. Riêng ông Nguyễn
Công Bình nhiều lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với
giáo sư Nguyễn Đổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi nhớ
nhất. Ông Nguyễn Đổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn “Cổ Văn Học sử”, đã
từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội.
Ông Chi mời ông Mục đến nói chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành
riêng cho giáo sư. Sau nửa giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông
Mục hơi ngạc nhiên thấy ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa
khóc vừa bảo bạn:
- Anh Mục ơi, anh nên đi đi. Người ta không dùng anh đâu. Nên đi ra nước ngoài đi.
- Nếu không anh cũng sẽ phải đóng kịch với họ như tôi thôi. Trong bao nhiêu năm nay,
tôi đã phải đóng kịch với họ mãi rồi!
Còn gì đau khổ cho bằng một trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với
người, luôn luôn phải giả dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay
ông đã bị nhúng chàm, ông lỡ phải theo lao luôn.
Ông Mục cũng gặp nhà thơ Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu:
- Ngày xưa anh rất thành công, chúng tôi qúy mến anh lắm. Nhiều nữ sinh chép thơ của
anh học thuộc lòng. Chúng tôi trong này dạy thơ Xuân Diệu ở Đại học Văn khoa. Còn
bây giờ anh sáng tác ra sao?
Xuân Diệu lừng khừng đáp:
- Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa.
- Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!
- Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ.
Họ có trình độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi
được.
- Vây anh có tin những gì anh viết cho họ không?
Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói:
- Việc gì phải tin. Cần gì phải tin.
Qua cách trả lời của Xuân Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủa
xa xưa, đồng thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của
chế độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ được
đảng đối xử ra sao?
Ông Mục cũng tiếp Trần Văn Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dỗ. Sau
cơn địa chấn 30 - 4, ông Mục cũng như các GS đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng
cho các giáo sư đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động.
Không hiểu lấy tin tức ra sao ông Giàu lò mò kiếm được nhà. Ông vừa đến trước cửa
nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60,
còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nói ngay:
- Tôi biết ông sắp đi Ca-na- đa. Tôi đến mời ông ở lại cộng tác với chúng tôi.
- Tại sao cụ lại để ý đến tôi thế? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như
mọi người khác thôi.
- Tôi đã đọc sách của ông. Ông viết rất đạt. Ông khác người ta chứ, ông có đủ ba điều
kiện để làm một nhà nghiên cứu, giảng dạy. Một là phải thông hiểu Hán và Nôm, mới đi
vào văn hóa Việt Nam được, ưu điểm hai là biết hai sinh ngữ Pháp, Anh để hiểu phương
pháp luận và nghiên cứu rộng rãi hơn. Ba là phải có tài viết văn. Nhiều người nói và dạy
học thì được, nhưng không viết được.
- Tôi sang Ca-na-đa vì được gia đình bảo lãnh qua. Rất tiếc tôi không ở lại làm việc
chung với cụ và các ông được. Tôi thấy có giáo sư Nguyễn Văn Trung và giáo sư linh
mục Thanh Lãng dạy học rất giỏi.
Ông Trần Văn Giàu lắc đầu:
- Ông Trung chưa phải là nhà nghiên cứu văn học, ông ấy chỉ là một ký giả khá thôi.
Còn ông Thanh Lãng thì chỉ nên giảng đạo trong nhà thờ hơn là giảng ở trường đại học.
Sau đó ít lâu họ có mời giáo sư Thanh Lãng tiếp tục giảng dạy. Ông Mục nói: “Nghĩ
cũng tức cười, một người thì giục đi đi, một người thì kèo nài nên ở lại”. Sau đó ông có
dịp đọc những tài liệu do ông Thanh Lãng viết, giảng, nói chuyện sau này và nói: “Tôi
thấy tội nghiệp, ái ngại cho ông ta quá. Ông Thanh Lãng đã phải nói, phải viết những gì
về tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông viết”. Nghe nói sau này khi
tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ đánh thuốc độc chết.
Để trả lời câu hỏi của giáo sư Trần Công Thiện là do động cơ nào thúc đẩy mà giáo sư
Lê Hữu Mục đã viết cuốn “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật ký”,
tác giả cho biết:
“Chính là do bài thuyết trình của ông Hoàng Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến
cuốn thơ nhật ký đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà
là tôi đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn
Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân chúng và
nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Đúng như nhà thơ, nhà văn Vi Khuê ở
Washington DC đã nhận xét: “Chẳng có giá trị gì để chúng ta phải chú ý tới nó’.
“Sau nữa là khi tôi bị tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký
đó, tôi mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc)
đọc xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ này là của người Tàu, không phải
lối viết, lối nói của người Việt, chúng tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi
càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ ràng trong sách có tên ông già Lý người Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch này mới là tác giả đích thực của tập thơ? “Kịp đến khi tôi sang đến Gia nã đại, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở
hải ngoại. Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm, có nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn,
có nhà văn Trà Lũ, tức giáo sư Trần Trung Lương đồng nghiệp với tôi… Anh em giục
giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn chương và tư
tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận vơ, chuyện Hồ Chí
Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền
thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa lớn quốc tế
do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào “No HO” nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên
dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này
đăng trên tạp chí Làng Văn của nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà
báo Nguyên Hương.
“Tôi viết chưa xong thì ông giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông
bay qua Montréal gặp tôi ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy một phần rồi cùng với
bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳ, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ Văn Ái dịch sang Pháp văn.
Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO ở Âu Châu nên tranh đấu rất
thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng
suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì Hồ Chí Minh không biết làm thơ, cũng chẳng
phải là nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông ta chỉ là kẻ ăn cắp thơ.
“Cũng chuyện ma giáo, lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo luật sư Trường thì Hồ
Chí Minh mánh khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn A'i Quốc. Trong khi đó những nhà
cách mạng miền Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất
Pháp, đều ký bút hiệu là Nguyễn A'i Quấc, đánh vần theo miền Nam. Đó là một bút hiệu
chung của nhiều tác giả các bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có giá
trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn A'i Quấc. Còn bài dở thì ông ta sẽ cãi là
tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu!
“Khi cuốn sách của tôi ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại
dương cũng đọc. Họ bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những
lụận lý vững chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn
sách của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau
gì cũng giấu đầu hở đuôi.
“Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói
sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng
từng kỳ trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn
sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
“Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký”. Tại
sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời
chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã “cường
điệu”, mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo
một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình
dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
“Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận
là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố
bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29
– 8 - 1932 đến 10 – 9 - 1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và
cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942 - 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời. Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất. “Ngay giáo sư Đặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về sọan niên
cuốn nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu
đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi thẳng với Hồ Chí Minh; Hỏi ai dám đề năm tháng kỳ
quặc là năm 1932 - 1933, đây là tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước? Hồ Chí Minh
không trả lời. Sau này bí thế quá, ViệnVăn Học trả lời vắn tắt rằng: Đề năm 1932 - 33 là
sai, phải là năm 1942 - 43 mới đúng. Cách trả lời rất vắn tắt, không có lời giải thích
minh bạch, thỏa đáng.
“Nói chung tập “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật ký” có đến sáu phần mười đồng ý với
tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm, chỉ có ý
xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai
dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó trả lời
trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi: Sao nghe nói thơ đó không phải là thơ của bác?
“Cũng nhờ vậy, sau vụ tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng
thơ thẩn của Hồ Chí Minh nữa”
Họ ở thế bị động, phải đấu dịu với GS Lê Hữu Mục. Ông nói: “Tôi thuộc lòng câu kết
tập sách dày cộm của họ: Người ta nói: Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phao lồ
khi cầm gươm là kẻ thù của Thiên chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên chúa
giáo. Tác phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi
không biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì
hơn”. GS Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng một câu đủ
gói ghém câu chuyện khi được hỏi là: Ôâng nghĩ gì về cái gọi là Tư tưởng Hồ Chí
Minh, họ thường rêu rao?
- “Tôi không thể nào cho rằng Hồ Chí Minh có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết, sát triết thuyết đó. Hồ Chí Minh không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là tư tưởng được. Chính Hồ Chí Minh không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có làm được nhiều thơ thế đâu!” Thực đúng như nhiều người đã khẳng định: Hồ Chí Minh không có tư tưởng, chỉ có
khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu đó ai cũng có thể nói được, chế ra được: Đoàn kết là
sống, chia rẽ là chết; Không có gì qúy hơn độc lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất
định thua thì đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. Hồ Chí Minh còn “đỡ nhẹ” câu
“Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” của Tầu ngày xưa.
Như thế hiển nhiên là không thể khoác cho Hồ Chí Minh chiếc áo huyền thoại được, chỉ