Page 1
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
NGỘ ĐỘC THUỐC GÂY TÊ CỤC BỘ
BSNT. Nghiêm Huyền Trang1 , ThS. BS. Lương Quốc Chính
2
[1] Bác sĩ Nội trú (BSNT) K40 - Chuyên ngành Truyền nhiễm, ĐH Y Hà Nội
[2] Khoa Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai
Nguồn bài dịch: Local Anesthetic Toxicity - Medscape
A. TỔNG QUAN
I. NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT TRONG THỰC HÀNH
Trong hầu hết các trường hợp, gây tê cục bộ rất an toàn, tuy nhiên nó có thể
gây ngộ độc nếu được sử dụng không thích hợp. Và ngay cả khi đã được sử
dụng thích hợp nhưng vẫn có thể gây ra các phản ứng phụ không mong muốn.
Độc tính của thuốc gây tê cục bộ và thuốc gây tê thẩm thấu có thể có tác dụng
tại chỗ hoặc toàn thân. Phần lớn độc tính toàn thân của thuốc gây tê thường
ảnh hưởng tới hệ thần kinh trung ương hoặc hệ tim mạch.
1. Dấu hiệu và triệu chứng
Các biểu hiện điển hình của ngộ độc thuốc gây tê cục bộ xảy ra từ 1 đến 5
phút sau khi tiêm, nhưng có thể dao động từ 30 giây tới 60 phút[1]. Các biểu
hiện độc tính có thể được phân loại như sau:
+ Hệ thần kinh trung ương
+ Hệ tim mạch
+ Hệ tạo máu
+ Dị ứng
+ Mô tại chỗ
Biểu hiện thần kinh trung ương
Về kinh điển, ngộ độc hệ thống bắt đầu với các triệu chứng kích thích thần
kinh trung ương như:
+ Tê quanh miệng và/hoặc lưỡi.
+ Vị kim loại.
Page 2
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Đau đầu nhẹ.
+ Hoa mắt, chóng mặt, choáng váng.
+ Rối loạn thị giác và thính giác (khó tập trung và ù tai).
+ Mất định hướng.
+ Tình trạng ngủ gà.
Với liều cao hơn, thần kinh trung ương ở trạng thái bị kích thích nhanh chóng
chuyển sang trạng thái ức chế, có các biểu hiện sau:
+ Co quắp cơ.
+ Co giật.
+ Bất tỉnh.
+ Hôn mê.
+ Suy hô hấp, ngừng hô hấp.
+ Suy tuần hoàn, ngừng tuần hoàn.
Biểu hiện tim mạch
+ Đau ngực.
+ Khó thở.
+ Đánh trống ngực.
+ Đau đầu nhẹ.
+ Toát mồ hôi.
+ Hạ huyết áp.
+ Ngất xỉu.
Biểu hiện huyết học
Methemoglobin thường gặp ở các trường hợp sử dụng benzocain; tuy nhiên,
cũng có trường hợp sử dụng lidocain và prilocain. Ở mức độ thấp (1-3%),
methemoglobin có thể không có triệu chứng, nhưng mức độ cao hơn (10-
40%) có thể xuất hiện các triệu chứng như:
+ Tím
+ Đổi màu da (xám)
+ Thở nhanh
+ Khó thở
Page 3
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Suy giảm khả năng thực hiện bài tập thể dục (exercise intolerance)
+ Mệt mỏi
+ Hoa mắt, ngất xỉu
+ Yếu
Biểu hiện dị ứng
+ Ban đỏ
+ Mày đay
+ Sốc phản vệ (rất hiếm).
1.2. Chẩn đoán
Một bệnh nhân bị nghi ngờ ngộ độc thuốc gây tê cục bộ cần được đánh giá kĩ
càng trên lâm sàng. Có thể tiến hành đo nồng độ thuốc gây tê trong máu mặc
dù nồng độ trong máu có thể không tương quan với độc tính hoặc lấy máu
không đúng thời điểm.
Việc thực hiện các phương pháp chẩn đoán hình ảnh cần được chỉ định dựa
vào toàn bộ đặc điểm lâm sàng. Ví dụ, nếu một bệnh nhân co giật mà không
rõ nguyên nhân, cần cân nhắc cho bệnh nhân chụp cắt lớp vi tính sọ não.
1.3. Xử trí
Chú ý nguy cơ đe dọa đường thở, tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim và các tiền
triệu của co giật. Khi đã loại trừ được các nguyên nhân có thể gây ra những
triệu chứng mới của bệnh nhân, hãy bắt đầu tiến hành xử trí các triệu chứng
đặc hiệu.
Xử trí ngộ độc thuốc gây tê cục bộ có thể tiến hành như sau[1]:
+ Kiểm soát đường thở
+ Giảm co giật (benzodiazepin)
+ Xử trí các rối loạn nhịp tim
+ Liệu pháp lipid
Page 4
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Trong hầu hết các trường hợp, gây tê cục bộ rất an toàn, tuy nhiên nó có thể
gây ngộ độc nếu được sử dụng không thích hợp. Và ngay cả khi đã được sử
dụng thích hợp nhưng vẫn có thể gây ra các tác dụng không mong muốn. Các
tác dụng phụ thường xuất hiện khi nồng độ chất gây tê cao trong huyết thanh,
có thể do các nguyên nhân sau:
+ Vô tình tiêm thuốc vào mạch máu
+ Quá liều thuốc hoặc tốc độ tiêm
+ Thuốc thải trừ chậm
+ Tiêm vào tổ chức nhiều mạch máu
Các yếu tố về phía bệnh nhân cũng góp phần ảnh hưởng tới độc tính. Ví dụ,
lidocain chuyển hoá qua gan, vì vậy suy gan sẽ làm tăng nguy cơ gây độc.
Lidocain gắn với protein nên tình trạng protein máu thấp cũng làm tăng nguy
cơ. Toan chuyển hoá làm tăng nguy cơ vì góp phần thúc đẩy cho sự phân tách
lidocain ra khỏi protein huyết tương. Tương tác với các thuốc khác (như
cimetidin, chẹn beta giao cảm) cũng ảnh hưởng tới nồng độ lidocain trong
máu.
Độc tính của thuốc gây tê cục bộ và thuốc gây tê thẩm thấu có thể tác dụng tại
chỗ hoặc toàn thân. Tác dụng phụ của thuốc gây tê cục bộ bao gồm các biểu
hiện thần kinh-mạch máu như mất cảm giác kéo dài và dị cảm, thậm chí có
thể không phục hồi được.
Phần lớn độc tính toàn thân của thuốc gây tê thường ảnh hưởng tới hệ thần
kinh trung ương hoặc hệ tim mạch. Dùng đồng thời với các thuốc khác như
benzodiazepin có thể làm lu mờ các triệu chứng thần kinh trung ương, nhưng
vẫn có các triệu chứng tim mạch.
Trường hợp hiếm gặp (< 1%), thuốc gây tê cục bộ có thể ảnh hưởng tới hệ
thống miễn dịch, sinh ra phản ứng dị ứng qua trung gian IgE. Phần lớn các
trường hợp có liên quan tới sử dụng các chất amino este. Một số thuốc gây tê,
điển hình là benzocain, độc với hệ tạo máu, gây methemoglobin.
Page 5
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Độc tính trên hệ thần kinh trung ương có 2 pha. Pha sớm, thần kinh trung
ương bị kích thích với các triệu chứng như co giật. Pha sau có các biểu hiện
ức chế thần kinh trung ương như ngừng co giật và xuất hiện mất ý thức, suy
hô hấp hoặc ngừng thở.
Khi nồng độ thuốc gây tê cục bộ cao hơn một chút sẽ bắt đầu tác động tới hệ
tim mạch. Những tác động này có thể bao gồm cả rối loạn nhịp tim do vòng
vào lại. Nhịp nhanh thất có thể xảy ra trên các bệnh nhân có rối loạn nhịp nhĩ.
Xử trí ngộ độc thuốc gây tê cục bộ bao gồm[1]:
+ Kiểm soát đường thở
+ Giảm co giật
+ Xử trí các rối loạn nhịp tim
+ Liệu pháp lipid
III. CƠ CHẾ BỆNH SINH
Thời gian khởi phát, hiệu lực và thời gian tác dụng của thuốc gây tê cục bộ
được xác định bởi pKa của thuốc, độ hoà tan trong lipid, độ gắn với protein
và các tác dụng giãn mạch, cùng với pH mô. Tăng liều bằng việc sử dụng
nồng độ cao để rút ngắn thời gian khởi phát trong khi đó cũng làm tăng hiệu
lực và thời gian tác dụng, đồng thời cũng sẽ làm tăng khả năng tác dụng
phụ/phản ứng gây độc.
pKa của thuốc là yếu tố đầu tiên xác định thời gian khởi phát. pKa thấp làm
tăng độ thẩm thấu mô, rút ngắn thời gian khởi phát bởi độ hoà tan trong lipid
của các phân tử không ion hoá tăng lên. pKa gần với pH làm tối ưu hoá độ
thẩm thấu. Ngoài ra, sự viêm nhiễm trong khoảng gian bào có thể làm giảm
pH và làm chậm sự khởi phát tác dụng của thuốc. Vị trí tiêm cũng là một yếu
tố, thời gian khởi phát sẽ kéo dài hơn tại các vị trí mô dày hoặc vỏ dây thần
kinh dày.
Các yếu tố sau ảnh hưởng tới mức độ tác dụng của thuốc:
+ Hệ số phân tách cao (high partition coefficients) làm tăng tính ưa mỡ thúc
đẩy thuốc gây tê đi vào màng lipid của dây thần kinh, làm tăng hiệu lực thuốc.
Page 6
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Giãn mạch làm tăng tính thấm thành mạch, do đó làm giảm nồng độ thuốc
sẵn có tại chỗ và giảm tác dụng của thuốc.
+ Bổ sung thêm epinephrin (adrenalin) hoặc natri bicarbonat làm tăng pH, do
đó làm tăng các phân tử không ion hoá mà hòa tan trong lipid nhiều hơn.
+ Hầu hết các thuốc gây tê cục bộ có chứa chất bảo quản trộn với epinephrin;
trong hỗn hợp này, pH được điều chỉnh thấp để duy trì sự ổn định của
epinephrin và chất chống oxy hoá
Các yếu tố ảnh hưởng tới thời gian tác dụng:
+ Bổ sung epinephrin vào thuốc gây tê cục bộ làm kéo dài thời gian tác dụng
do tác dụng co mạch và giảm tính thấm hệ thống
+ Mức độ gắn protein chủ yếu ảnh hưởng tới thời gian tác dụng, gắn nhiều
với protein làm kéo dài thời gian tác dụng
+ Tăng pH (bằng natri bicarbonat) cũng kéo dài thời gian tác dụng
1. Nồng độ và độ pha loãng thuốc gây tê
Nồng độ thuốc được thể hiện bằng phần trăm (ví dụ, bupivacain 0,25%,
lidocain 1%). Phần trăm được đo bằng gam trên 100mL (ví dụ, 1% tức là
1g/100mL [1000mg/100mL], hoặc 10mg/mL).
Để tính nhanh nồng độ theo đơn vị mg/mL từ phần trăm, chỉ cần chuyển vị trí
dấu phẩy sang phải 1 đơn vị, theo ví dụ sau:
+ Bupivacain 0,25% = 2,5 mg/mL
+ Lidocain 1% = 10 mg/mL
Khi có epinephrin kết hợp trong dung dịch thuốc gây tê, kết quả được tính
bằng độ pha loãng (ví dụ, 1:100000), như sau:
+ 1:1000 nghĩa là 1 mg trên 1 mL (0,1%)
+ 1:10000 nghĩa là 1 mg trên 10 mL (0,01%)
+ 1:2000 nghĩa là 1 mg trên 2 mL (0,05%)
+ 1:20000 nghĩa là 1 mg trên 20 mL (0,005%)
+ 0,1 mL epinephrin nồng độ 1:1000 thêm vào 9,9 mL dung dịch thuốc gây tê
= epinephrin nồng độ 1:100000 hoặc 0,01mg/mL
Page 7
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Với độ pha loãng cao hơn, xem bảng 1 dưới đây.
Bảng 1. Ví dụ về nồng độ Epinephrin
Thể tích pha loãng 1:100,000 (1 mg/100 mL) 1:200,000 (1 mg/200 mL)
1 mL 0.01 mg 0.005 mg
5 mL 0.05 mg 0.025 mg
10 mL 0.1 mg 0.05 mg
20 mL 0.2 mg 0.1 mg
Ví dụ: 50 mL lidocain 1% với epinephrin 1:100000 chứa lidocain 500 mg và epinephrin
0,5 mg.
2. Cơ chế gây độc
Ngộ độc thần kinh trung ương do thuốc gây tê cục bộ khởi đầu có các biểu
hiện kích thích thần kinh trung ương và sau đó là các biểu hiện ức chế thần
kinh trung ương. Tác dụng hai pha này xảy ra bởi thuốc gây tê lúc đầu chặn
con đường thần kinh trung ương ức chế (gây kích thích) và sau đó chặn cả hai
con đường ức chế và kích thích (gây ức chế toàn bộ hệ thần kinh trung ương).
Tác dụng trên hệ tim mạch xảy ra do thuốc gây tê chẹn kênh natri theo cơ chế
vào-nhanh, ra-chậm, do đó ảnh hưởng sự dẫn truyền các xung động qua tim
và mô thần kinh. Tại tim, nó làm giảm Vmax (ví dụ: tốc độ khử cực trong pha
0 của điện thế hoạt động tim) và có thể dẫn tới rối loạn nhịp do vòng vào lại.
Ngoài ra, dẫn truyền qua nút xoang và nút nhĩ thất cũng bị chặn lại.
IV. NGUYÊN NHÂN
Thuốc gây tê cục bộ có thể được chia làm 2 nhóm: loại este và loại amide.
Xem bảng 2.
Nhiều trường hợp tử vong do độc tính bupivacain lên tim mạch đã dẫn tới
việc tìm kiếm loại thuốc gây tê cục bộ tác dụng kéo dài ít độc hơn. Và sự tìm
kiếm này đã mở ra hướng phát triển của levobupivacain và ropivacain.
Page 8
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Bảng 2. Các thuốc gây tê cục bộ thường dùng đường thẩm thấu
Các thuốc Thời gian tác dụng Hướng dẫn liều tối đa (Tổng liều
tiêm cộng dồn trong mỗi liệu trình*)
Ester
Procain(Novocain) Ngắn (15-60 phút) 7 mg/kg; không quá 350-600 mg
Chloroprocain (Nesacain) Ngắn (15-30 phút) Không có epinephrin: 11 mg/kg;
không quá 800 mg tổng liều
Có epinephrin: 14 mg/kg; không quá
1000 mg
Amide
Lidocain(Xylocain) Trung bình (30-60
phút)
Không có epinephrin: 4.5 mg/kg;
không quá 300 mg
Lidocain chứa epinephrin Dài (120-360 phút) Có epinephrine: 7 mg/kg
Mepivacain (Polocain,
Carbocain)
Trung bình (45-90
phút)
Dài (120-360 phút
chứa epinephrin)
7 mg/kg; không quá 400 mg
Bupivacain (Marcain) Dài (120-240 phút) Không có epinephrin: 2.5 mg/kg;
không quá 175 mg tổng liều
Bupivacain chứa
epinephrin
Dài (180-420 phút) Có epinephrin: Không quá 225 mg
tổng liều
Etidocain (Duranest)
Hiện không còn dùng ở
Mỹ
Dài (120-180 phút) Không có epinephrin: 0.4 mg/kg;
không quá 300 mg tổng liều
Có epinephrine: 8 mg/kg
Prilocain (Citanest) Trung bình (30-90
phút)
Trọng lượng < 70 kg: 8 mg/kg; không
quá 500 mg
Trọng lượng >70 kg: 600 mg
Ropivacain (Naropin) Dài (120-360 phút) 5 mg; không quá 200 mg cho khối
lượng nhỏ thần kinh
* Không sử dụng trong nha khoa, dùng liều nhỏ tăng dần, dùng liều nhỏ nhất và nồng độ
thấp nhất phù hợp để đạt được hiệu quả mong muốn, tránh tiêm nhanh.
Page 9
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Bupivacain là một hỗn hợp racemic tỉ lệ 50:50 của một R-(+)-enantiomer
quay phải và một S-(-)-enantiomer quay trái. Các nghiên cứu lâm sàng cho
thấy S-(-)-enantiomer, levobupivacain có ít khả năng gây độc cho hệ thần
kinh trung ương và hệ tim mạch hơn. Đặc biệt, liều gây chết khi tiêm tĩnh
mạch của levobupivacain cao hơn gần 78% so với liều gây chết của R-(+)-
enantiomer.
Một số thử nghiệm lâm sàng khác vào những năm 90 dẫn tới sự ra đời của
ropivacain vào năm 1996, một chất S-(-)-enantiomer đơn thuần. Ropivacain,
như bupivacain, có khả năng phong bế thần kinh khác nhau nhưng có sự phân
ly cảm giác-vận động tốt hơn ở liều thấp hơn. Loại amid tác dụng kéo dài này
là loại thuốc gây tê cục bộ đầu tiên được phát triển với các nghiên cứu độc
tính rộng rãi ban đầu trước khi sử dụng trên lâm sàng. Mặc dù ropivacain có
khả năng gây độc tính cấp trên thần kinh trung ương và tim mạch, nhưng tỉ lệ
xảy ra rất thấp.
Độc tính của thuốc gây tê cục bộ có thể xảy ra do vô tình tiêm vào lòng mạch
hoặc sai liều. Tiêm vào lòng mạch cũng có thể gây ngộ độc kể cả khi liều
thuốc gây tê trong khoảng liều khuyến cáo.
Liều tối thiểu thuốc gây tê gây ra tác dụng phụ được liệt kê trong Bảng 3 dưới
đây.
Bảng 3. Liều gây độc tối thiểu của thuốc gây tê cục bộ trên người theo đường
tĩnh mạch[2]
Thuốc Liều gây độc tối thiểu (mg/kg)
Procain 19.2
Tetracain 2.5
Chloroprocain 22.8
Lidocain 6.4
Mepivacain 9.8
Bupivacain 1.6
Etidocain 3.4
Page 10
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Ngoài liều cao, tốc độ tiêm quá nhanh cũng tăng nguy cơ gây tác dụng phụ
của thuốc gây tê cục bộ. Các yếu tố bệnh nhân cũng làm tăng nguy cơ như:
+ Tổn thương thận hoặc gan
+ Toan chuyển hoá hoặc toan hô hấp
+ Có block tim hoặc bệnh lý tim trước đó.
+ Mang thai
+ Tuổi
+ Giảm oxy máu
V. DỊCH TỄ
Tần suất ngộ độc thuốc gây tê cục bộ rất khó xác định bởi chúng được sử
dụng rộng rãi trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng phần lớn các tác dụng
phụ không được báo cáo. Ngộ độc toàn thân thuốc gây tê cục bộ xảy ra với tỉ
lệ 1:1000 trường hợp chẹn thần kinh ngoại vi, tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân
chỉ có các triệu chứng nhẹ mang tính chủ quan.[1]
Tại Mỹ năm 2013, theo Hiệp hội các trung tâm chống độc Mỹ (AAPCC),
1238 trường hợp ngộ độc do lidocain được báo cáo cùng với 3849 trường hợp
tiếp xúc với các loại thuốc gây tê cục bộ và/hoặc dạng bôi không rõ khác.[3]
Trong số các trường hợp ngộ độc lidocain được AAPCC báo cao, có 514
trường hợp trẻ dưới 6 tuổi.
VI. TIÊN LƯỢNG
Nếu đảm bảo cung cấp đủ oxy, thông khí và cung lượng tim tốt, bệnh nhân sẽ
hồi phục hoàn toàn mà không có di chứng nào. Nếu không điều trị, ngộ độc
thuốc gây tê cục bộ có thể dẫn tới co giật, suy hô hấp/ngừng thở, tụt huyết áp,
suy tuần hoàn, ngừng tuần hoàn và tử vong. Theo báo cáo thường niên về Hệ
thống dữ liệu Chống độc Quốc gia của AAPCC năm 2013, trong số các
trường hợp tiếp xúc với lidocain có 150 ca nhẹ, 67 ca trung bình, 14 ca nặng
và 5 ca tử vong.[3]
Page 11
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
VII. GIÁO DỤC BỆNH NHÂN
Tư vấn cho bệnh nhân về tác dụng phụ của một loại thuốc gây tê cụ thể để họ
tránh loại thuốc đó sau này và để họ cảnh báo với các nhân viên y tế về các
phản ứng đó. Nếu một bệnh nhân đã từng có tác dụng phụ với một nhóm
thuốc gây tê (este hoặc amide), nguy cơ gặp các phản ứng phụ sẽ cao hơn ở
tất cả các chất trong nhóm đó. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân bị co giật ở một lần
ngộ độc nào đó, hãy trấn an họ rằng điều này không làm tăng nguy cơ gây ra
co giật trong những lần sau.
B. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
I. BỆNH SỬ/DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG CHỦ QUAN
Các biểu hiện điển hình của ngộ độc thuốc gây tê cục bộ xảy ra từ 1 đến 5
phút sau khi tiêm, nhưng khởi đầu có thể dao động từ 30 giây tới 60 phút.[1]
Các biểu hiện ban đầu cũng có thể rất đa dạng. Điển hình bệnh nhân có các
triệu chứng kích thích thần kinh trung ương như sau:
+ Tê quanh miệng và/hoặc lưỡi
+ Vị kim loại
+ Đau đầu nhẹ
+ Hoa mắt, chóng mặt, choáng váng
+ Rối loạn thị giác và thính giác (khó tập trung và ù tai)
+ Không định hướng
+ Tình trạng ngủ gà
Mặc dù các biểu hiện độc tính trên thần kinh thường xảy ra trước rồi mới đến
các biểu hiện trên tim mạch, nhiều trường hợp đã được mô tả về các độc tính
trên tim mạch mà không có các biểu hiện thần kinh đi trước. Trong những
trường hợp này, các triệu chứng khởi phát bị chậm lại 5 phút hoặc hơn.[1]
II. KHÁM LÂM SÀNG/DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ
Sau khi sử dụng thuốc gây tê cục bộ cần phải quan sát và theo dõi các dấu
hiệu hoặc triệu chứng mới vì chúng có thể là dấu hiệu ngộ độc. Biểu hiện ngộ
Page 12
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
độc phụ thuộc vào cơ quan hoặc hệ cơ quan bị ảnh hưởng. Các biểu hiện ngộ
độc được phân loại như sau:
+ Hệ thần kinh trung ương
+ Hệ tim mạch
+ Hệ tạo máu
+ Dị ứng
+ Tổ chức tại chỗ
2.1. Biểu hiện thần kinh trung ương
Với liều cao hơn, thần kinh trung ương bị kích thích sau đó nhanh chóng
chuyển sang trạng thái ức chế, có các đặc điểm sau:
+ Co quắp cơ
+ Co giật
+ Bất tỉnh
+ Hôn mê
+ Suy hô hấp, ngừng thở
+ Suy tuần hoàn, ngừng tuần hoàn
Theo tiến triển của bệnh, bệnh nhân có thể bị co giật kiểu giật cứng-giật rung,
thậm chí mất ý thức và hôn mê. Các triệu chứng thần kinh có thể bị che giấu
nếu bệnh nhân đã sử dụng thuốc chống co giật trước đó như benzodiazepin
hoặc barbiturate. Ở những bệnh nhân này, dấu hiệu đầu tiên của ngộ độc có
thể là ngừng tuần hoàn.[4]
Khi nồng độ thuốc gây tê đủ cao trong máu, cả hai con đường kích thích và ức
chế thần kinh đều bị chẹn, bệnh nhân ngừng co giật và tiếp theo có thể bị
suy/ngừng hô hấp và suy tuần hoàn. Nếu tiêm một liều lớn có thể tăng nồng
độ thuốc gây tê lên tới đỉnh điểm mà tại đó hệ thần kinh và hệ tim mạch đều
chịu ảnh hướng cùng lúc.
2.2. Biểu hiện tim mạch
Page 13
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Nguy cơ độc trên tim mạch sẽ lớn hơn phần nào nếu sử dụng thuốc gây tê cục
bộ tan trong lipid như bupivacain. Nguy cơ độc trên tim là lớn nhất khi bệnh
nhân có rối loạn dẫn truyền tim hoặc sau nhồi máu cơ tim.
Tuỳ thuộc liều thuốc gây tê, các biểu hiện ngộ độc có thể là suy cơ tim
(tetracain, etidocain, bupivacain), rối loạn nhịp tim (bupivacain) và độc tính
trên phụ nữ có thai. Một số loại thuốc gây tê (như lidocain) làm thay đổi
trương lực thành mạch, liều thấp làm co mạch, liều cao hơn làm giãn cơ trơn
thành mạch, có thể dẫn tới hạ huyết áp.
Các dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc tim mạch là:
+ Đau ngực
+ Khó thở
+ Đánh trống ngực
+ Đau đầu nhẹ
+ Toát mồ hôi
+ Hạ huyết áp
+ Ngất xỉu
Ảnh hưởng trên dẫn truyền tim bao gồm khoảng PR kéo dài, phức hợp QRS
giãn rộng, nhịp nhanh xoang, ngừng xoang, và phân ly nhĩ thất một phần hoặc
hoàn toàn. Ngừng tim cũng được báo cáo sau khi tiêm lidocain vào niệu đạo.
Độc tính trên tim cũng có thể gây toan chuyển hoá, tăng carbonic máu và hạ
oxy máu, làm cho tình trạng suy tuần hoàn tồi tệ hơn và tăng khả năng rối
loạn nhịp tim. Điều này rất quan trọng, cần theo dõi sát bởi co giật có thể tăng
nguy cơ rối loạn chuyển hoá.
2.3. Biểu hiện huyết học
Methemoglobin thường gặp ở các trường hợp sử dụng benzocain; tuy nhiên,
cũng có trường hợp sử dụng lidocain và prilocain. O-toluidin, sản phẩm
chuyển hoá tại gan của prilocain, là một chất oxy hoá mạnh hemoglobin thành
methemoglobin. Ở nồng độ thấp (1-3%), methemoglobin có thể không có
triệu chứng, nhưng nồng độ cao hơn (10-40%) có thể có các triệu chứng:
Page 14
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Tím
+ Đổi màu da (xám)
+ Thở nhanh
+ Khó thở
+ Suy giảm khả năng thực hiện bài tập thể dục (exercise intolerance)
+ Mệt mỏi
+ Hoa mắt, ngất xỉu
+ Yếu
2.4. Biểu hiện dị ứng
Amino este là dẫn xuất của para-aminobenzoic acid (PABA), có liên quan tới
các phản ứng dị ứng cấp tính. Các nghiên cứu trước đây cho thấy 30% các
phản ứng dị ứng với procain, tetracain và chloroprocain. Amino amid không
liên quan tới PABA và không gây ra các phản ứng dị ứng tương tự. Tuy
nhiên, việc sử dụng thuốc gây tê amid có chứa methylparaben, cấu trúc tương
tự như PABA, có thể gây ra các phản ứng dị ứng.
Các biểu hiện dị ứng của thuốc gây tê tại chỗ bao gồm ban đỏ và mày đay.
Sốc phản vệ do thuốc gây tê tại chỗ rất hiếm nhưng cần theo dõi nếu bệnh
nhân bắt đầu thở rít hoặc có dấu hiệu suy hô hấp sau tiêm thuốc gây tê. Bệnh
nhân nào có dị ứng với lidocain cũng có thể dị ứng với chất bảo quản
methylparaben. Lidocain không chứa chất bảo quản có thể được lấy từ ống
tiêm lidocain cá nhân hoặc từ các sản phẩm lidocain được sử dụng bởi các bác
sĩ tim mạch hoặc bác sĩ gây mê.
2.5. Biểu hiện tại chỗ
Ngoài các biểu hiện tê bì và dị cảm với liều thông thường của thuốc gây tê
cục bộ, bệnh nhân còn có các biểu hiện ức chế dẫn truyền không hồi phục
trong 5 phút với liều rất cao. Ngộ độc thần kinh ngoại vi như giảm cảm giác
và vận động kéo dài cũng đã được ghi lại. Một giả thuyết đưa ra rằng sự kết
hợp pH thấp và natri bisulfit trong hỗn hợp phần nào dẫn tới những thay đổi
này. Tổn thương cơ xương có hồi phục cũng được báo cáo.
Page 15
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
2.6. Các tác dụng phụ của các thuốc bôi
Thuốc gây tê có sẵn có nhiều loại, dạng bôi, niêm mạc (như tetracain,
benzocain, lidocain). Các tác dụng phụ của những loại này xảy ra khi bôi vào
các vùng da hở, từ đó thuốc được hấp thu toàn thân và có nồng độ cao trong
máu. Tương tự, thuốc uống lidocain dạng nhày có thể hấp thu gây độc toàn
thân, đặc biệt được sử dụng nhiều lần ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Các phản ứng toàn thân có thể xảy ra khi sử dụng thuốc gây tê dạng bôi:
+ CNS: Nồng độ cao thuốc gây tê trong máu ban đầu gây kích thích thần kinh
trung ương (co giật), sau đó là ức chế thần kinh trung ương (ngừng hô hấp);
tác dụng kích thích thần kinh có thể không xuất hiện ở một số bệnh nhân, đặc
biệt khi sử dụng loại amid (ví dụ tetracain); dung dịch gây tê chứa epinephrin
có thể có tác dụng kích thích thần kinh trung ương.
+ Tim mạch: Điển hình, thuốc gây tê có nồng độ cao trong máu gây suy tim;
các tác dụng có thể là chậm nhịp tim, rối loạn nhịp tim, hạ huyết áp, suy tuần
hoàn và ngừng tim; thuốc gây tê có chứa epinephrin có thể gây tăng huyết áp,
tăng nhịp tim và thiếu máu cơ tim.
+ Ức chế phản xạ nôn với đường uống.
Một số tác dụng phụ khác bao gồm:
+ Cảm giác bỏng rát, nhức nhối tại chỗ dai dẳng
+ Thay đổi màu sắc da
+ Sưng phù
+ Viêm thần kinh
+ Hoại tử và bong mô
+ Methemoglobin với prilocain
Tác dụng phụ của cocain như một loại thuốc gây tê dạng bôi
Có nhiều hỗn hợp thuốc gây tê có chứa cocain, sử dụng dạng bôi để khâu các
vùng rách da nhỏ, đặc biệt trên mặt và da đầu. Một loại hỗn hợp như vậy được
các nhà thuốc trong bệnh viện chuẩn bị tạm thời bao gồm tetracain 0,5%,
epinephrin (adrenalin) 1:2000, và cocain 11,8% (thường được gọi là dung
dịch “TAC”). TAC được sử dụng đặc biệt ở những bệnh nhân không thích/sợ
Page 16
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
tiêm hoặc những bệnh nhân khó thực hiện theo hướng dẫn hay ngồi không
vững (như trẻ nhỏ, những người có vấn đề về tâm thần).
Tuy nhiên, các độc tính nghiêm trọng (ví dụ co giật, tử vong do tim) sau khi
sử dụng cocain dạng bôi đã được mô tả, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Vì
độc tính này, cũng như chi phí và các vấn đề pháp lý khác, cocain không còn
được khuyến cáo sử dụng để gây tê cục bộ.
Hỗn hợp mới ra đời đã thay thế cocain trong dung dịch lidocain 4% (lidocain,
epinephrin, tetracain) bởi tính an toàn vượt trội của nó khi sử dụng cho vết
thương da hở. Tuy nhiên, không sử dụng những dung dịch này cho vết thương
với nguồn cấp máu là tiểu động mạch tận.
C. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
+ Sốc phản vệ
+ Rối loạn lo âu
+ Ngộ độc cocain
+ Rối loạn tâm thần
D. TIẾP CẬN BỆNH NHÂN
Một bệnh nhân bị nghi ngờ ngộ độc thuốc gây tê cục bộ cần được đánh giá
cẩn thận trên lâm sàng. Đo nồng độ thuốc gây tê trong máu mặc dù nồng độ
trong máu có thể không tương quan với độc tính hoặc không lấy được mẫu
máu đúng thời điểm.
Việc thực hiện các phương pháp chẩn đoán hình ảnh cần được chỉ định dựa
vào bức tranh lâm sàng toàn cảnh. Ví dụ, nếu một bệnh nhân co giật mà
không rõ nguyên nhân, cần cân nhắc cho bệnh nhân chụp cắt lớp vi tính sọ
não.
Đặt đường truyền tĩnh mạch. Kiểm soát đường thở, có thể cần đặt nội khí
quản.
Page 17
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
E. ĐIỀU TRỊ VÀ THEO DÕI
I. TIẾP CẬN BỆNH NHÂN
Với bệnh nhân bị nghi ngờ bị ngộ độc thuốc gây tê cục bộ, bước đầu tiên là
ổn định các chức năng sống. Nếu các dấu hiệu và triệu chứng tiến triển khi
đang tiêm truyền thuốc gây tê cục bộ, ngừng tiêm truyền ngay lập tức và
chuẩn bị xử trí các tình huống xảy ra. Cung cấp đủ oxy bằng cách cho bệnh
thân thở mask hoặc thở qua nội khí quản.
Chú ý đường thở, hạ huyết áp, rối loạn nhịp tim và các tiền triệu của co giật.
Khi các triệu chứng mới của bệnh nhân đã loại trừ được các nguyên nhân có
thể xảy ra thì bắt đầu tiến hành xử trí các triệu chứng đặc hiệu.
Benzodiazepin là một lựa chọn trong kiểm soát co giật. Propofol cũng có thể
điều trị co giật nhưng có nguy cơ gây độc trên tim mạch. Nếu co giật kéo dài
cần dùng thuốc ức chế thần kinh cơ (ví dụ thuốc chứa succinylcholin).
Những trường hợp nặng, cần kiểm soát tốt tuần hoàn, truyền tĩnh mạch và
dùng thuốc co mạch nếu cần. Có thể dùng thêm liều nhỏ epinephrin. Không
khuyến cáo sử dụng vasopressin.
Thiếu oxy máu và toan chuyển hoá có thể làm tăng độc tính trên tim mạch của
lidocain và các thuốc gây tê cục bộ khác. Kiểm soát sớm co giật và hỗ trợ
đường thở tích cực để điều trị thiếu oxy máu và toan chuyển hoá, như vậy có
thể phòng ngừa ngừng tim. Cân nhắc sử dụng natri bicarbonat để điều trị toan
chuyển hoá nặng.
Ngừng tim do ngộ độc thuốc gây tê cục bộ là biến chứng hiếm gặp nhưng dễ
nhận thấy, xảy ra trong những trường hợp quá liều số lượng lớn, đặc biệt khi
vô tình tiêm vào lòng mạch. Bệnh nhân có tiên lượng tốt nếu kiểm soát tốt
tuần hoàn trước khi xảy ra thiếu oxy máu. Vì vậy cần hồi sức tích cực trong
hầu hết các trường hợp. Tim phổi nhân tạo rất có hiệu quả trong điều trị
ngừng tim do ngộ độc thuốc gây tê cục bộ.[5]
Page 18
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho rằng truyền tĩnh mạch nhũ tương
lipid có thể đảo ngược tác dụng của thuốc gây tê cục bộ trên tim mạch và thần
kinh. Mặc dù không có nghiên cứu mù nào trên người nhưng có nhiều nghiên
cứu trên động vật và ca lâm sàng được báo cáo có kết quả khả quan. Thật vậy,
những ca lâm sàng này đã hỗ trợ cho việc sử dụng lipid sớm khi bệnh nhân có
những dấu hiệu ban đầu nghi ngờ ngộ độc thuốc gây tê cục bộ như rối loạn
nhịp tim, co giật kéo dài và những biểu hiện ngộ độc tiến triển khác.[1]
Những biểu hiện ngộ độc ít gặp hơn có thể là phản ứng dị ứng và tác dụng
trên hệ tạo máu. Có thể điều trị dị ứng bằng diphenhydramin, epinephrin hoặc
corticoid với những trường hợp nặng. Methemoglobin ban đầu cần được xử
trí theo triệu chứng. Hướng xử trí tiếp theo tuỳ thuộc nồng độ methemoglobin
trong máu; sử dụng xanh methylen và thở oxy nồng độ cao trong những ca
nặng.
Độc tính thiếu máu cục bộ hoặc độc tính thần kinh cục bộ có thể xuất hiện,
điển hình là trên các chi với thuốc gây tê kéo dài hoặc có chứa epinephrin.
Nghi ngờ tổn thương thần kinh cần hội chẩn chuyên khoa thần kinh cấp cứu.
Nếu có tổn thương mạch máu, chẳng hạn thiếu máu chi, cần hội chẩn bác sĩ
phẫu thuật mạch máu ngay lập tức. Liệu pháp thoát mạch (extravasation) (ví
dụ chườm ấm, phentolamin, kem nitroglycerin) nên được sử dụng ban đầu khi
có độc tính mạch máu cục bộ.
Bệnh nhân có các phản ứng kéo dài hoặc chưa giải quyết được cần được nằm
tại giường và theo dõi sát, đánh giá sâu hơn và điều trị. Những bệnh nhân ổn
định, có các phản ứng phụ nhẹ, dễ kiểm soát có thể ra viện và theo dõi ngoại
trú.
Cuối cùng, phòng ngừa ngộ độc thuốc gây tê cục bộ luôn luôn là vấn đề được
quan tâm đầu tiên. Mặc dù tất cả các phản ứng phụ không thể lường trước
được, nhưng các biến chứng có thể giảm thiếu tối đa bằng cách tuân thủ
nghiêm ngặt các hướng dẫn sử dụng liều thuốc gây mê, xác định nhưng bệnh
nhân có nguy cơ cao và thực hiện các thủ thuật gây mê đúng cách để tránh
tiêm nội mạch không cẩn thận.
Page 19
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Hướng dẫn (Guideline)
Hướng dẫn xử trí ngộ độc thuốc gây tê cục bộ đã được công bố bởi các tổ
chức sau:
+ Hội Gây tê vùng và Y học Đau Mỹ (American Society of Regional
Anesthesia and Pain Medicine [ASRA])[1]
+ Hiệp hội Bác sĩ gây mê Anh và Ireland (Association of Anaesthetists of
Great Britain and Ireland [AAGBI])[6]
+ Hội đồng Hồi sức Anh (Resuscitation Council of the UK)[7]
II. ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC THẦN KINH TRUNG ƯƠNG
Điều trị biến chứng và ngộ độc hệ thần kinh trung ương vẫn còn đang bàn cãi.
Điều trị thành công co giật với benzodiazepin hoặc barbiturat (ví dụ:
phenobarbital); các báo cáo trường hợp chỉ ra rằng tiêm tĩnh mạch 1mg/kg
propofol (Diprivan) và 2mg/kg thiopental (Pentothal) thành công trong việc
cắt cơn giật do thuốc gây tê cục bộ và co quắp cơ.
Hội Gây tê vùng và Y học Đau Mỹ (ASRA) khuyến cáo benzodiazepin là lựa
chọn đầu tiên điều trị co giật do thuốc gây tê cục bộ vì những thuốc này ít gây
suy tim. Nếu vẫn còn co giật dù đã sử dụng benzodiazepin, ASRA khuyến cáo
dùng liều nhỏ succinylcholin hoặc loại thuốc ức chế thần kinh cơ tương tự để
giảm thiểu tối đa tình trạng toan hoá và thiếu oxy máu.[1] Khi sử dụng thuốc
ức chế thần kinh cơ cần đặt nội khí quản.
Nếu không sẵn có benzodiazepin, ASRA cân nhắc sử dụng propofol hoặc
thiopental thay thế nhưng chú ý cần sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả bởi
chúng có khả năng làm hạ huyết áp hoặc ngừng tim.[1] Đặc biệt, propofol
không nên sử dụng ở những bệnh nhân huyết động không ổn định bởi nó có
thể làm chậm nhịp tim.
III. ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC TIM MẠCH
PR, QRS và QT kéo dài gây nhịp nhanh do vòng vào lại với đường dẫn truyền
bất thường có thể báo trước độc tính trên tim mạch. Hồi sức tim ở những bệnh
Page 20
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
nhân này khó và kéo dài (30-45 phút) vì một số loại thuốc gây mê tan nhiều
trong lipid và đòi hỏi thời gian phân bố lại dài. Tuy nhiên một số bệnh nhân
được điều trị thành công với đúng quy trình hồi sức tim phổi (CPR).
Nếu có ngừng tim, ASRA khuyến cáo sử dụng Phương pháp hỗ trợ tim nâng
cao chuẩn hoá cùng với các thay đổi sau:
+ Nếu sử dụng epinephrin, dùng liều nhỏ ban đầu (thêm 10-100 μg ở người
lớn)
+ Không khuyến cáo sử dụng vasopressin
+ Tránh sử dụng chẹn kênh calci và chẹn beta giao cảm
+ Nếu rối loạn nhịp thất tiến triển, sử dụng amiodarone
Ở các bệnh nhân ngộ độc tim, tránh sử dụng lidocain và thuốc chống loạn
nhịp nhóm IB (ví dụ mexiletin, tocainid) là điều cốt yếu vì có thể làm nặng
tình trạng bệnh. Lidocain sử dụng thành công cho các trường hợp rối loạn
nhịp do bupivacain nhưng độc tính phụ trên thần kinh trung ương vẫn còn là
một mối quan tâm lớn.
Ở những bệnh nhân không đáp ứng với phương pháp hồi sức tiêu chuẩn, một
số trường hợp chỉ ra rằng sử dụng máy điều chỉnh nhịp tim và tim phổi nhân
tạo có thể cải thiện tình hình.[2] Tim phổi nhân tạo được sử dụng như là một
liệu pháp điều trị cầu nối cho tới khi nồng độ thuốc gây tê cục bộ trong mô
không còn nữa.[1]
Trong một nghiên cứu của Hàn Quốc, bolus kết hợp glucose, insulin và kali
đã đạt được thành công trong việc đảo ngược tình trạng suy tuần hoàn do
bupivacain.[8] Tuy nhiên, liều 2 đơn vị/kg insulin sử dụng trong protocol này
là một thách thức trên lâm sàng do sự do dự của các bác sĩ về liều cao bất
thường này. Tại Trung Quốc, shenfu, một dẫn xuất của các loại thảo dược
truyền thống của Trung Quốc, được chứng minh là có tác dụng giảm độc tính
của bupivacain trên thần kinh trung ương và tim mạch ở chuột.[9]
Page 21
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
IV. LIỆU PHÁP NHŨ TƯƠNG LIPID
Truyền tĩnh mạch dung dịch nhũ tương lipid 20% (ví dụ Intralipid 20%) là
một phần không thể thiếu trong điều trị ngộ độc toàn thân do thuốc gây tê cục
bộ, và đặc biệt trong trường hợp ngừng tim không đáp ứng với liệu pháp điều
trị tiêu chuẩn. ASRA khuyến cáo sử dụng liệu pháp nhũ tương lipid (lipid
emulsion therapy) ngay khi có các dấu hiệu đầu tiên của ngộ độc toàn thân do
thuốc gây tê cục bộ, sau khi đã xử trí tốt đường thở.[1]
Hình 1. Cơ chế hồi sức lipid. Xem chi tiết: lipid sink hypothesis
Người ta cho rằng truyền lipid đã tạo ra một giai đoạn lipid kéo các phân tử
hòa tan trong lipid ra khỏi huyết tương (giả thuyết gột rửa lipid [lipid sink
hypothesis]). Việc kích thích chuyển hoá năng lượng cũng có thể đóng vai trò
nhất định.[10] Một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chứng minh rằng
một số thành phần thuốc gây tê tan nhiều trong lipid và có khả năng gắn
cao.[11]
Page 22
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
Trong một nghiên cứu trên động vật, Weinberg và cộng sự chứng minh tác
dụng hiệu quả của truyền lipid trong hồi sức ngừng tim do bupivacain.[12, 13]
Rosenblatt và đồng nghiệp là những người đầu tiên báo cáo việc truyền lipid
20% để hồi sức những bệnh nhân ngừng tim kéo dài sau chẹn vùng gian cơ
bậc thang (interscalene block) bằng bupivacaine và mepivacaine.[14]
Một số ca lâm sàng sau đó được các nhà nghiên cứu báo cáo thành công trong
việc sử dụng lipid điều trị độc tính trên tim mạch và thần kinh bao gồm vô
tâm thu, suy tuần hoàn và co giật. Các thuốc gây tê cục bộ sử dụng trong
những ca này là ropivacain, mepivacain, prilocain, và levobupivacain.[15-20]
Marwick và đồng nghiệp cũng báo cáo một ca thành công khi sử dụng liệu
pháp lipid điều trị ngộ độc toàn thân tái phát sau 40 phút. Nếu không có sẵn
lipid, có thể sử dụng amiodaron điều trị cho những trường hợp rối loạn nhịp
tim tái phát. Điều này chỉ ra rằng tầm quan trọng của một lượng đủ lipid có
sẵn (1000mL) khi tiến hành gây tê cục bộ.[21]
Weinberg và đồng nghiệp đã sử dụng mô hình động vật quá liều bupivacain
cho thấy liệu pháp lipid làm tăng cường và hồi phục huyết động và chuyển
hoá sau ngừng tim do bupivacain hơn epinephrin hay vasopressin.[22, 23] Cả
hai thuốc co mạch này đều gây những hậu quả bất lợi.
Tuy nhiên một vài câu hỏi nghiên cứu đặt ra về hiệu quả điều trị bằng lipid
rescue. Mayr và cộng sự nghiên cứu độc tính của bupivacain trên mô hình
lợn, chỉ ra rằng vasopressin kết hợp với epinephrin có áp lực tưới máu mạch
vành cao hơn trong hồi sức tim phổi và tỉ lệ sống sót trong thời gian ngắn tốt
hơn nhũ tương lipid.[24] Harvey và cộng sự thấy rằng nhũ tương lipid/ACLS
có áp lực tưới máu mạch vành thấp hơn và tỉ lệ tuần hoàn tự phát thấp hơn so
với ACLS đơn thuần trên mô hình thỏ bị ngừng tim do ngạt.[25]
Liều khuyến cáo
Liệu pháp nhũ tương lipid được thực hiện bằng dung dịch lipid 20%.[7] Ban
đầu, tiêm liều lớn 1,5mL/kg trong 1 phút.[26, 6, 27, 1] Sau đó truyền với tốc
độ 0,25 mL/kg/phút trong 20 phút,[6] 30-60 phút,[26] hoặc cho tới khi huyết
Page 23
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
động ổn định.[27] Một khi huyết động ổn định, nên truyền tiếp trong ít nhất
10 phút nữa.[1]
Nếu liều như trên không đáp ứng được, có một vài lựa chọn khác. Lặp lại liều
lớn 2 lần, khoảng cách giữa 2 lần có thể là 5 phút,[6] hoặc cứ lặp lại 5
phút/lần cho tới khi mạch ổn định.[27] Cách khác là truyền tốc độ tăng lên (ví
dụ tới 0,5mL/kg/phút trong 10 phút[6]). Giới hạn trên của dung dịch nhũ
tương lipid khuyến cáo là xấp xỉ 10 mL/kg trong 30 phút đầu tiên.[1]
Lưu ý propofol không phải là một thành phần trong lipid nhưng có trong dung
dịch nhũ tương lipid 10%, vì vậy cần sử dụng liều nhũ tương lipid thích hợp
để tránh quá liều propofol (theo gram), bởi propofol là chống chỉ định khi có
độc tính trên tim mạch.
V. ĐIỀU TRỊ PHẢN ỨNG DỊ ỨNG
Mặc dù phản ứng dị ứng hiếm xảy ra nhưng cần phải điều trị những trường
hợp nặng. Phản ứng da nhẹ chỉ cần uống hoặc tiêm tĩnh mạch
diphenhydramin (Benadryl, 25-50 mg cho người lớn, 1 mg/kg cho trẻ em).
Với những trường hợp dị ứng nặng hơn, tiêm dưới da enpinephrin (0,3ML
pha loãng 1:1000) và theo dõi sát. Trường hợp dị ứng nghiêm trọng (ví dụ suy
hô hấp, hạ huyết áp), nên sử dụng corticosteroid (tiêm tĩnh mạch 125 mg
methylprednisolon hoặc uống 60 mg prenison).
VI. DỰ PHÒNG
Những gợi ý sau có thể giúp tránh khỏi các biến chứng liên quan việc sử dụng
thuốc gây tê cục bộ, đặc biệt với những bệnh nhân ở khoa cấp cứu:
+ Chú ý hỏi và ghi chép những thông tin về tiền sử phản ứng với thuốc gây tê
+ Ghi lại số lượng và loại thuốc gây tê sử dụng trong thủ thuật
+ Luôn luôn hỏi về tiền sử và khám để xác định các nguy cơ và dị ứng
+ Không sử dụng thuốc chống loạn nhịp tim nhóm IB (kể cả phenytoin) điều
trị co giật hay chống loạn nhịp vì khả năng gây ngộ độc cocain
Page 24
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Để ý các dấu hiệu thần kinh hoặc các triệu chứng có thể cho là ngộ độc
thuốc gây tê
+ Những bệnh nhân có triệu chứng nặng cần được nhập viện và theo dõi.
Cần biết về liều độc của thuốc gây tê cục bộ. Sử dụng nồng độ và lượng thuốc
gây tê cục bộ thấp nhất mà vẫn có tác dụng. Thêm epinephrin với tỉ lệ
1:200000 nhằm giảm hấp thu thuốc qua mạch máu qua cơ chế co mạch.
Mô tả các triệu chứng sớm của quá liều thuốc gây tê cục bộ cho bệnh nhân,
hướng dẫn họ thống báo cho bác sĩ nếu họ đã từng có các triệu chứng đó. Cần
chắc chắn rằng bệnh nhân có thể hiểu được các tác dụng của thuốc và nói với
bác sĩ nếu chúng xảy ra.
Kỹ thuật tiêm cẩn thận cũng giúp phòng tránh phản ứng gây độc. Với liều lớn,
cần tiêm chậm (> 5 mL), cứ tiêm 3 mL/lần, dừng tiêm và hút kiểm tra xem có
máu trong xi lanh sau tiêm mỗi 3 mL. Tiêm thuốc gây tê theo kĩ thuật này có
thể giảm một lượng lớn thuốc tiêm vào tĩnh mạch.
Luôn giao tiếp với bệnh nhân khi thực hiện thủ thuật để phát hiện các triệu
chứng sớm như rối loạn ngôn ngữ cùng các triệu chứng khác nặng hơn, chẳng
hạn thay đổi tình trạng ý thức.
Benzodiazepin làm tăng ngưỡng biểu hiện triệu chứng thần kinh trung ương
nhưng không ảnh hưởng tới sự biểu hiện của tim mạch, vì vậy nếu sử dụng
benzodiazepin liều cao có thể trực tiếp dẫn tới sự tiến triển của độc tính tim
mạch mà không có biểu hiện báo trước nào của thần kinh trung ương.
Hướng dẫn liều
Nồng độ thuốc gây tê cục bộ thấp thường sử dụng loại thẩm thấu.
Sự khác nhau về liều thuốc gây tê cục bộ phụ thuộc vào từng thủ thuật, mức
độ gây tê cần thiết và hoàn cảnh từng bệnh nhân. Giảm liều cần chỉ định cho
các bệnh nhân sau:
+ Bệnh nhân suy nhược hoặc cấp tính
Page 25
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
+ Trẻ nhỏ hoặc người già
+ Bệnh gan, xơ vữa động mạch hoặc bệnh động mạch tắc nghẽn
F. THUỐC
I. TÓM TẮT VỀ THUỐC
Mục đích sử dụng thuốc với bệnh nhân ngộ độc thần kinh do thuốc gây tê cục
bộ là ngừng các biểu hiện của não và thần kinh cơ.
1.1. Thuốc chống co giật, Barbiturate
1.1.1. Tóm tắt
Được sử dụng để cắt cơn co giật.
1.1.2. Pentobarbital (Nembutal)
Pentobarbital là loại barbiturate tác dụng ngắn có tác dụng an thần, gây ngủ,
chống co giật, pentobarbital có thể tạo ra tất cả các mức độ thay đổi tâm thần
hệ thần kinh trung ương.
1.1.3. Phenobarbital (Luminal)
Phenobarbital can thiệp vào đường truyền xung động thần kinh từ đồi thị lên
vỏ não. Trong trường hợp cấp cứu, phenobarbital được sử dụng để cắt cơn
giật nếu benzodiazepin thất bại.
1.2. Thuốc giải lo âu, Benzodiazepin
1.2.1. Tóm tắt
Được sử dụng để cắt cơn giật bằng cách gắn với vị trí thụ thể đặc hiệu, làm
tăng hiệu quả của gamma-aminobenzoic acid (GABA), giảm chất dẫn truyền
ức chế GABA và các chất dẫn truyền ức chế khác.
Page 26
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
1.2.2. Diazepam (Valium, Diastat, Diastat AcuDial)
Diazepam giảm chức năng tất cả các chặng của thần kinh trung ương (ví dụ
hệ viền và hệ lưới), có thể do diazepam làm tăng hoạt động của GABA.
Diazepam làm giảm cơn giật hoặc cắt cơn giật. Liều phụ thuộc từng bệnh
nhân và cần chú ý khi tăng liều để đề phòng các tác dụng phụ.
1.2.3. Midazolam
Midazolam giảm chức năng tất cả các chặng của thần kinh trung ương (ví dụ
hệ viền và hệ lưới), có thể do midazolam làm tăng hoạt động của GABA.
Midazolam làm giảm cơn giật hoặc cắt cơn giật. Tác dụng của midazolam
ngắn hơn và mạnh hơn so với diazepam. Liều phụ thuộc từng bệnh nhân và
cần chú ý khi tăng liều để đề phòng các tác dụng phụ.
1.3. Thuốc chẹn thần kinh cơ, khử cực
1.3.1. Tóm tắt
Được sử dụng để ngừng các biểu hiện thần kinh cơ của co giật.
1.3.2. Succinylcholin (Anectine, Quelicin)
Succinylcholin gây liệt cơ hô hấp và đường thở; do đó bệnh nhân sẽ ngừng
thở. Vì vậy duy trì sự thông thoáng đường thở và thông khí là điều kiện cần
thiết và tiên quyết.
Tài liệu tham khảo
1. [Guideline] Neal JM, Mulroy MF, Weinberg GL. American Society of
Regional Anesthesia and Pain Medicine checklist for managing local
anesthetic systemic toxicity: 2012 version. Reg Anesth Pain Med. 2012 Jan-
Feb. 37(1):16-8. [Medline]. [Full Text].
Page 27
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
2. Goldfrank LR, Flomenbaum NE, Lewin NA, et al. 1507-17. Goldfrank's
Toxicologic Emergencies. 6th ed. New York: McGraw-Hill; 1998. 897-903.
3. Mowry JB, Spyker DA, Cantilena LR Jr, McMillan N, Ford M. 2013
Annual Report of the American Association of Poison Control Centers'
National Poison Data System (NPDS): 31st Annual Report. Clin Toxicol
(Phila). 2014 Dec. 52(10):1032-283. [Medline]. [Full Text].
4. Chang YY, Ho CM, Tsai SK. Cardiac arrest after intraurethral
administration of lidocaine. J Formos Med Assoc. 2005 Aug. 104(8):605-
6. [Medline].
5. Soltesz EG, van Pelt F, Byrne JG. Emergent cardiopulmonary bypass for
bupivacaine cardiotoxicity. J Cardiothorac Vasc Anesth. 2003 Jun. 17(3):357-
8. [Medline].
6. [Guideline] The Association of Anaesthetists of Great Britain and Ireland.
Guidelines for the Management of Severe Local Anaesthetic Toxicity.
2007. [Full Text].
7. Leskiw U, Weinberg GL. Lipid resuscitation for local anesthetic toxicity: is
it really lifesaving?. Curr Opin Anaesthesiol. 2009 Oct. 22(5):667-
71. [Medline].
8. Kim JT, Jung CW, Lee KH. The effect of insulin on the resuscitation of
bupivacaine-induced severe cardiovascular toxicity in dogs. Anesth Analg.
2004 Sep. 99(3):728-33, table of contents. [Medline].
9. Wang Q, Liu Y, Lei Y, et al. Shenfu injection reduces toxicity of
bupivacaine in rats. Chin Med J (Engl). 2003 Sep. 116(9):1382-5. [Medline].
10. Weinberg GL. Lipid infusion therapy: translation to clinical
practice. Anesth Analg. 2008 May. 106(5):1340-2.[Medline]. [Full Text].
Page 28
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
11. Mazoit JX, Le Guen R, Beloeil H, Benhamou D. Binding of long-lasting
local anesthetics to lipid emulsions.Anesthesiology. 2009 Feb. 110(2):380-
6. [Medline].
12. Weinberg GL, VadeBoncouer T, Ramaraju GA, Garcia-Amaro MF, Cwik
MJ. Pretreatment or resuscitation with a lipid infusion shifts the dose-
response to bupivacaine-induced asystole in rats. Anesthesiology. 1998 Apr.
88(4):1071-5. [Medline].
13. Weinberg G, Ripper R, Feinstein DL, Hoffman W. Lipid emulsion
infusion rescues dogs from bupivacaine-induced cardiac toxicity. Reg Anesth
Pain Med. 2003 May-Jun. 28(3):198-202. [Medline].
14. Rosenblatt MA, Abel M, Fischer GW, Itzkovich CJ, Eisenkraft JB.
Successful use of a 20% lipid emulsion to resuscitate a patient after a
presumed bupivacaine-related cardiac arrest. Anesthesiology. 2006 Jul.
105(1):217-8. [Medline].
15. Litz RJ, Roessel T, Heller AR, Stehr SN. Reversal of central nervous
system and cardiac toxicity after local anesthetic intoxication by lipid
emulsion injection. Anesth Analg. 2008 May. 106(5):1575-7, table of
contents. [Medline].
16. Litz RJ, Popp M, Stehr SN, Koch T. Successful resuscitation of a patient
with ropivacaine-induced asystole after axillary plexus block using lipid
infusion. Anaesthesia. 2006 Aug. 61(8):800-1. [Medline].
17. Foxall G, McCahon R, Lamb J, Hardman JG, Bedforth NM.
Levobupivacaine-induced seizures and cardiovascular collapse treated with
Intralipid. Anaesthesia. 2007 May. 62(5):516-8. [Medline].
18. Zimmer C, Piepenbrink K, Riest G, Peters J. [Cardiotoxic and neurotoxic
effects after accidental intravascular bupivacaine administration. Therapy
with lidocaine propofol and lipid emulsion]. Anaesthesist. 2007 May.
56(5):449-53. [Medline].
Page 29
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
19. Ludot H, Tharin JY, Belouadah M, Mazoit JX, Malinovsky JM.
Successful resuscitation after ropivacaine and lidocaine-induced ventricular
arrhythmia following posterior lumbar plexus block in a child. Anesth Analg.
2008 May. 106(5):1572-4, table of contents. [Medline]. [Full Text].
20. Warren JA, Thoma RB, Georgescu A, Shah SJ. Intravenous lipid infusion
in the successful resuscitation of local anesthetic-induced cardiovascular
collapse after supraclavicular brachial plexus block. Anesth Analg. 2008 May.
106(5):1578-80, table of contents. [Medline]. [Full Text].
21. Marwick PC, Levin AI, Coetzee AR. Recurrence of cardiotoxicity after
lipid rescue from bupivacaine-induced cardiac arrest. Anesth Analg. 2009
Apr. 108(4):1344-6. [Medline]. [Full Text].
22. Weinberg GL, Di Gregorio G, Ripper R, et al. Resuscitation with lipid
versus epinephrine in a rat model of bupivacaine overdose. Anesthesiology.
2008 May. 108(5):907-13. [Medline].
23. Di Gregorio G, Schwartz D, Ripper R, et al. Lipid emulsion is superior to
vasopressin in a rodent model of resuscitation from toxin-induced cardiac
arrest. Crit Care Med. 2009 Mar. 37(3):993-9. [Medline].
24. Mayr VD, Mitterschiffthaler L, Neurauter A, et al. A comparison of the
combination of epinephrine and vasopressin with lipid emulsion in a porcine
model of asphyxial cardiac arrest after intravenous injection of
bupivacaine. Anesth Analg. 2008 May. 106(5):1566-71, table of
contents. [Medline].
25. Harvey M, Cave G, Kazemi A. Intralipid infusion diminishes return of
spontaneous circulation after hypoxic cardiac arrest in rabbits. Anesth Analg.
2009 Apr. 108(4):1163-8. [Medline].
26. Weinberg G. LipidRescue: resuscitation for cardiac toxicity. Available
at http://www.lipidrescue.org/.
Page 30
BSNT. Nghiêm Huyền Trang, ThS. BS. Lương Quốc Chính
http://bacsinoitru.vn
27. Resuscitation Council (UK). Cardiac arrest or cardiovascular collapse
caused by local anaesthetic. Available
at http://www.resus.org.uk/pages/caLocalA.htm. Accessed: July 2008.
28. Hiller DB, Gregorio GD, Ripper R, Kelly K, Massad M, Edelman L, et al.
Epinephrine impairs lipid resuscitation from bupivacaine overdose: a
threshold effect. Anesthesiology. 2009 Sep. 111(3):498-505.[Medline].