188 NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN PHƢƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU THỐNG KÊ NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN Cấp đề tài Tổng cục Đơn vị thực hiện Vụ Thống kê Nông, lâm nghiệp và thủy sản Chủ nhiệm đề tài CN. Lƣu Văn Vĩnh Thời gian nghiên cứu 2008 MỞ ĐẦU Ở Việt Nam, thu thập số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thủy sản là một trong những công tác trọng tâm của ngành Thống kê từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng. Về phƣơng pháp luận và kinh nghiệm thực tế của hoạt động này trong thời gian qua đã đƣợc Vụ Thống kê nông lâm nghiệp và thuỷ sả n phối hợp với các vụ liên quan của Tổng cục Thống kê nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các phƣơng án điều tra, hệ thống chỉ tiêu tƣơng ứng phù hợp với yêu cầu thông tin của các đối tƣợng dùng tin và điều kiện cụ thể của ngành trong từng thời kỳ nhất định. Chế độ báo cáo và điều tra thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã đƣợc ban hành thống nhất áp dụng trong cả nƣớc nhiều năm qua. Ƣu điểm của các chế độ báo cáo và phƣơng án điều tra hiện hành là đơn giản, gọn nhẹ, phù hợp với trình độ cán bộ cơ sở, cũng nhƣ nguồn lực hiện có của Ngành thống kê. Các số liệu thu thập đã cơ bản đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của các cấp, các ngành trong công tác quản lý và xây dựng, kiểm tra kế hoạch. Tuy nhiên, những năm gần đây sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có nhiều thay đổi, số lƣợng đơn vị sản xuất hàng hóa quy mô lớn tăng nhanh, phƣơng thức sản xuất đa dạng, nhiều giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất, chất lƣợng cao đã đƣợc đƣa vào sản xuất. Sự chuyển đổi về cơ cấu kinh tế nội bộ tiểu ngành, giữa các tiểu ngành diễn ra thƣờng xuyên liên tục. Do vậy, nhu cầu thông tin của các đối tƣợng dùng tin cũng đã có sự thay đổi theo hƣớng ngày càng đa dạng và chi tiết hơn. ĐỀ TÀI KHOA HỌC SỐ 2.1.4-B08
26
Embed
NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN PHƢƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU …vienthongke.vn/attachments/article/2846/06. 2.1.4-B08.pdf · Các số liệu thu thập đã cơ bản đáp
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
188
NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN PHƢƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
THỐNG KÊ NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN
Cấp đề tài Tổng cục
Đơn vị thực hiện Vụ Thống kê Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Chủ nhiệm đề tài CN. Lƣu Văn Vĩnh
Thời gian nghiên cứu 2008
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, thu thập số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thủy sản là
một trong những công tác trọng tâm của ngành Thống kê từ Trung ƣơng đến
các địa phƣơng. Về phƣơng pháp luận và kinh nghiệm thực tế của hoạt động
này trong thời gian qua đã đƣợc Vụ Thống kê nông lâm nghiệp và thuỷ sản
phối hợp với các vụ liên quan của Tổng cục Thống kê nghiên cứu, bổ sung,
hoàn thiện các phƣơng án điều tra, hệ thống chỉ tiêu tƣơng ứng phù hợp với
yêu cầu thông tin của các đối tƣợng dùng tin và điều kiện cụ thể của ngành
trong từng thời kỳ nhất định. Chế độ báo cáo và điều tra thống kê nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản đã đƣợc ban hành thống nhất áp dụng trong cả nƣớc nhiều
năm qua. Ƣu điểm của các chế độ báo cáo và phƣơng án điều tra hiện hành là
đơn giản, gọn nhẹ, phù hợp với trình độ cán bộ cơ sở, cũng nhƣ nguồn lực hiện
có của Ngành thống kê. Các số liệu thu thập đã cơ bản đáp ứng đƣợc nhu cầu
thông tin của các cấp, các ngành trong công tác quản lý và xây dựng, kiểm tra
kế hoạch. Tuy nhiên, những năm gần đây sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản đã có nhiều thay đổi, số lƣợng đơn vị sản xuất hàng hóa quy mô lớn tăng
nhanh, phƣơng thức sản xuất đa dạng, nhiều giống cây trồng vật nuôi mới có
năng suất, chất lƣợng cao đã đƣợc đƣa vào sản xuất. Sự chuyển đổi về cơ cấu
kinh tế nội bộ tiểu ngành, giữa các tiểu ngành diễn ra thƣờng xuyên liên tục.
Do vậy, nhu cầu thông tin của các đối tƣợng dùng tin cũng đã có sự thay đổi
theo hƣớng ngày càng đa dạng và chi tiết hơn.
ĐỀ TÀI KHOA HỌC SỐ 2.1.4-B08
189
Để đáp ứng các nhu cầu đó Tổng cục Thống kê đã triển khai một số đề tài
nghiên cứu về phƣơng pháp thu thập số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản nhƣ: “Hệ thống chỉ tiêu thống kê thuỷ sản”, “Hệ thống chỉ tiêu công nghiệp
hoá nông nghiệp, nông thôn”, “Nghiên cứu xây dựng nội dung chỉ tiêu và
phƣơng pháp thu thập số liệu một số loại cây ăn quả chủ yếu ở nƣớc ta”
(2005); “Nghiên cứu hoàn thiện thống kê dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản” (2003)
Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ dừng lại nghiên cứu ở một số nội dung cụ
thể, giải quyết từng phần nghiệp vụ của lĩnh vực thống kê nông lâm nghiệp và
thuỷ sản, chƣa nghiên cứu toàn bộ vấn đề thu thập số liệu thống kê của lĩnh
vực này.
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, công
tác phƣơng pháp chế độ chung toàn ngành đã có nhiều thay đổi, một số bảng
danh mục mới và phân ngành VSIC 2007 đã đƣợc ban hành và triển khai áp
dụng. Luật Thống kê đƣợc Quốc hội phê chuẩn năm 2003 và các văn bản
dƣới Luật cũng đã đƣợc Chính phủ ban hành. Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia, Chƣơng trình điều tra thống kê quốc gia đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ
ký Quyết định ban hành, đây là những căn cứ pháp lý quan trọng tác động
trực tiếp đến hệ thống chỉ tiêu và phƣơng pháp thu thập số liệu thống kê nông
lâm thuỷ sản. Bên cạnh đó, việc tính toán chỉ tiêu tổng hợp theo từng quý
cũng đƣợc triển khai và là yêu cầu cần thiết. Vì vậy, các số liệu chuyên ngành
cũng phải từng bƣớc thay đổi phục vụ cho công tác tính toán các chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp;
Ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, xử lý, tổng hợp và phân tích là
nhu cầu tất yếu, vì ngày nay khối lƣợng thông tin đầu vào nhiều, yêu cầu xử lý
nhanh.
Vì vậy, việc triển khai đề tài khoa học: Nghiên cứu hoàn thiện
phƣơng pháp thu thập số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
cho phù hợp với thực tiễn là rất cần thiết. Đề tài có ý nghĩa thực tế đối với
hoạt động thống kê và giá trị khoa học đối với phƣơng pháp luận thống kê
trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Mục tiêu tổng quát của Đề tài: Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu,
phƣơng pháp thu thập số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nhằm
phục vụ hệ thống chỉ tiêu thống kê Quốc gia, đáp ứng yêu cầu quản lý và chỉ
đạo các cấp, các ngành.
190
Tuy nhiên, vấn đề hệ thống chỉ tiêu rất rộng lại đã đƣợc nghiên cứu qua
một số đề tài khác nên trong phạm vi đề tài này, Ban chủ nhiệm đề tài xin trình
bày tóm tắt kết quả nghiên cứu, tập trung vào đề xuất hoàn thiện hệ thống chỉ
tiêu do Tổng cục thống kê chịu trách nhiệm, phƣơng pháp thu thập số liệu các
chỉ tiêu thống kê nông lâm thủy sản chủ yếu.
A – Khuyến nghị của tổ chức nông, lƣơng Liên hợp quốc (FAO)
Tuỳ theo đặc điểm sản xuất nông lâm thuỷ sản mỗi nƣớc đối với nền kinh
tế, nhu cầu thông tin phục vụ quản lý, hệ thống tổ chức chính quyền và tổ chức
thống kê của mỗi nƣớc mà hệ thống chỉ tiêu cũng nhƣ phƣơng pháp thu thập số
liệu thống kê trong lĩnh vực này của các nƣớc có sự khác biệt. Tuy nhiên, để
đảm bảo tính so sánh quốc tế trên phạm vi toàn cầu cũng nhƣ từng khu vực, tổ
chức FAO đã xây dựng chƣơng trình chuẩn khuyến nghị về phƣơng pháp tính,
phƣơng pháp thu thập, theo đó các quốc gia vận dụng cho phù hợp với tình
hình cụ thể của nƣớc mình với từng nội dung cụ thể. Đó là các chƣơng trình
điều tra chuyên môn, điều tra mẫu và Tổng điều tra nông nghiệp cho từng khu
vực, áp dụng cho từng thời kỳ nhất định. Khuyến nghị chủ yếu của FAO về nội
dung và phƣơng pháp thu thập thống kê nông nghiệp là:
I. Thu thập số liệu qua các cuộc điều tra thƣờng xuyên
1. Điều tra diện tích, năng suất, sản lƣợng cây trồng
- Điều tra diện tích, năng suất, sản lƣợng cây trồng là một bộ phận hợp
thành hệ thống thu thập số liệu thống kê lƣơng thực và nông nghiệp, cung cấp
số liệu cần thiết phục vụ cho đánh giá, phân tích và sử dụng số liệu. Với mục
đích đó, phải rất chú ý đến khái niệm, định nghĩa, cách phân tổ, biểu mẫu để
đảm bảo số liệu so sánh đƣợc và có thể sử dụng cho việc lập kế hoạch phát
triển cũng nhƣ ra các quyết định kinh tế - xã hội.
- Trong xây dựng phƣơng án điều tra thống kê, mục đích phải rõ ràng, cụ
thể và quan tâm đến sai số điều tra. Để hạn chế sai số điều tra, toàn bộ các yếu
tố ảnh hƣởng đến kết quả điều tra cần đƣợc khảo sát cụ thể, tìm ra những
phƣơng pháp tƣơng ứng, xây dựng các quy trình làm giảm những sai số đó ở
tất cả các khâu của cuộc điều tra. Mặt khác phƣơng án điều tra phải có tính khả
thi phù hợp với những điều kiện và nguồn lực hiện có nhƣ: Trình độ phát triển
kinh tế xã hội, nguồn nhân lực sẵn có, tài chính và các nguyên vật liệu, sự
thuận tiện của hệ thống giao thông, liên lạc, trình độ nghiệp vụ của điều tra
viên và quan điểm của nhân dân. Đối với điều tra viên cần đƣợc trang bị tốt về
191
kiến thức tổ chức; kiến thức sử dụng kỹ thuật mẫu, có quan hệ tốt với đối
tƣợng cung cấp thông tin.
- Khi tổ chức điều tra diện tích, năng suất và sản lƣợng cần lựa chọn hình
thức, quy mô, phƣơng pháp phù hợp với trình độ phát triển thống kê và mức độ
quan trọng của cây trồng đối với kinh tế quốc gia. FAO khuyến nghị có thể sử
dụng một trong các phƣơng pháp sau đây:
+ Thăm đồng ƣớc tính hoặc báo cáo từ các địa phƣơng;
+ Điều tra toàn bộ hoặc điều tra mẫu thông qua phiếu điều tra gửi theo
đƣờng bƣu điện hoặc báo cáo từ hộ (báo cáo cây trồng từ hộ);
+ Điều tra toàn bộ hoặc điều tra mẫu hộ gia đình bằng phƣơng pháp
phỏng vấn trực tiếp chủ hộ;
+ Điều tra mẫu theo đơn vị diện tích và quan sát về cây trồng trong mẫu;
+ Điều tra mẫu với các cách đo lƣờng khách quan ở các điểm mẫu hoặc
các ruộng mẫu.
- Tập trung điều tra các cây trồng chính đƣợc trồng trong mỗi vùng sinh
thái hoặc những cây trồng có giá trị cao phục vụ xuất khẩu.
- Để thu thập số liệu các nƣớc đều tiến hành điều tra trên phạm vi quốc
gia và kết quả đƣợc tổng hợp và công bố theo địa phƣơng (nhƣ tỉnh hoặc các
đơn vị hành chính nhỏ). Thống kê diện tích, năng suất, sản lƣợng cây trồng cả
nƣớc và chia theo vùng sinh thái, các địa phƣơng tỉnh, huyện có tính phổ biến ở
hầu hết các nƣớc.
- FAO cũng đƣa ra những ƣu nhƣợc điểm của từng hình thức, phƣơng
pháp thu thập số liệu cũng nhƣ các điều kiện tiên quyết khi áp dụng cho từng
phƣơng pháp để các nƣớc lựa chọn.
2. Điều tra thủy sản: FAO khuyến nghị nên áp dụng hai hình thức thu thập số
liệu
a - Thu thập số liệu thông qua điều tra thƣờng xuyên
Theo hƣớng dẫn của FAO, để tính đƣợc sản lƣợng thủy sản cho một
quốc gia thì phải điều tra toàn bộ kết hợp điều tra chọn mẫu, phƣơng pháp
chọn mẫu và tính toán suy rộng qui định riêng cho từng lĩnh vực sản xuất
thủy sản: khai thác thủy sản (bao gồm khai thác biển, khai thác ven bờ và
nội địa), nuôi trồng thủy sản.
192
- Đối với khai thác thủy sản: Sản lƣợng thuỷ sản đƣợc ƣớc tính dựa vào
việc ƣớc tính năng suất khai thác và cƣờng lực khai thác theo từng nghề cụ
thể trong một thời gian nhất định, thƣờng là một tháng. Chỉ tiêu thu thập bao
gồm: Sản lƣợng khai thác theo loài, giá bán lần đầu tại bến, kích thƣớc trung
bình từng loài thuỷ sản khai thác, Thời gian thực hiện một chuyến đi biển.
Để có số liệu thuỷ sản đánh bắt cần ƣớc tính sản lƣợng cá trên một đơn vị
cƣờng lực khai thác. Tổng thể điều tra là tập hợp tất cả các lần xuống cá của
tất cả các tàu thuyền tại địa phƣơng trong một tháng. Cuộc điều tra này đƣợc
tiến hành tại các cảng cá/ điểm lên cá - nơi các tàu thuyền khai thác thƣờng
đƣa cá lên bờ.
- Đối với nuôi trồng: Chỉ tiêu thu thập là khối lƣợng sản phẩm theo từng
loại thủy sản theo các loại diện tích mặt nƣớc nuôi nhƣ ao hồ nhỏ, nuôi ruộng,
nuôi lồng bè, hồ lớn và đập thủy lợi, nuôi mặt nƣớc biển…Phƣơng pháp điều
tra: điều tra chọn mẫu, đơn vị mẫu đƣợc lấy ra từ tổng điều tra. Cỡ mẫu đƣợc
tính toán tối thiểu là 32 mẫu cho mỗi loài, mỗi loại hình sản xuất và mỗi loại
mặt nƣớc. Phƣơng pháp suy rộng sản lƣợng sản phẩm theo diện tích điều tra
hoặc thể tích lồng nuôi.
b. Thu thập số liệu thủy sản thông qua Tổng điều tra nông nghiệp
- Tổng điều tra thủy sản tiến hành 5 hoặc 10 năm 1 lần, có thể kết hợp với
Tổng điều tra nông nghiệp với phạm vi toàn bộ các cơ sở sản xuất thủy sản.
- Các chỉ tiêu thu thập chủ yếu là các thông tin cơ bản nhƣ tàu thuyền,
ngƣ cụ, hộ, lao động, các cơ sở sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
diện tích mặt nƣớc nuôi trồng thủy sản… Kết quả Tổng điều tra thủy sản là cơ
sở quan trọng cho việc định hình và tổ chức thực hiện các chính sách trong lĩnh
vực thủy sản phù hợp với tình hình thực tiễn. Ngoài ra còn làm dàn chọn cho
các cuộc điều tra chọn mẫu. Phƣơng pháp điều tra chủ yếu là phỏng vấn trực
tiếp các chủ cơ sở, qua thƣ hoặc dựa vào sổ ghi chép của chủ tàu thuyền.
II. Thu thập số liệu qua Tổng điều tra nông nghiệp
1. Phƣơng pháp thực hiện tổng điều tra
Để giúp các nƣớc tiếp cận đến những phạm vi số liệu thu thập thêm từ
TĐT NN trong điều kiện kinh phí hạn chế, các nƣớc đƣợc khuyến nghị sử
dụng cách tiếp cận theo mô đun.
- Một mô đun chính, đƣợc tiến hành trên cơ sở điều tra toàn bộ, sẽ cung
cấp những nội dung chủ yếu về cơ cấu ở phạm vi hẹp sử dụng cho các nhà lập
193
chính sách vĩ mô của quốc gia, thực hiện so sánh quốc tế, xây dựng dàn chọn
mẫu, và phân tích số liệu theo vùng địa lý.
- Một hoặc nhiều mô đun bổ sung, đƣợc tiến hành trên cơ sở điều tra mẫu
cùng thời điểm và, hoặc ngay sau mô đun chính, nhằm cung cấp số liệu chi tiết
hơn hoặc số liệu không yêu cầu tại cấp đơn vị hành chính thấp. Mẫu cho những
mô đun bổ sung này sẽ đƣợc chọn trên cơ sở dàn mẫu từ mô đun chính.
2. Nội dung gồm:
a. Mô đun chính gồm 16 nhóm chỉ tiêu
(1) Đặc điểm và vị trí của cơ sở nông nghiệp;
(2) Tƣ cách pháp nhân của ngƣời quản lý;
(3) Giới tính của ngƣời quản lý;
(4) Độ tuổi của ngƣời quản lý;
(5) Qui mô hộ;
(6) Ngành sản xuất chính của cơ sở nông nghiệp;
(7) Diện tích đất của cơ sở theo các loại hình sử dụng đất;
(8) Tổng diện tích đất của cơ sở;
(9) Các loại hình sở hữu đất;
(10) Công tác thuỷ lợi;
(11) Cây hàng năm trồng ;
(12) Cây lâu năm trồng ;
(13) Số lƣợng các loại vật nuôi;
(14) Diện tích mặt nƣớc nuôi trồng thuỷ sản ;
(15) Đất lâm nghiệp và đất trồng cây lấy gỗ;
(16) Các hoạt động sản xuất khác của các doanh nghiệp có đất nông nghiệp.
Những chỉ tiêu này đƣợc FAO khuyến nghị các nƣớc có thể có nhiều chỉ
tiêu chính hơn đáp ứng yêu cầu của ngƣời dùng tin hoặc sử dụng trong xây
dựng dàn chọn mẫu cho các mô đun bổ sung hoặc cho các cuộc điều tra mẫu
sau này.
b. Mô đun bổ sung gồm 11 nhóm chỉ tiêu:
(1) Đất sử dụng đƣợc; đất bị sói mòn;
194
(2) Công tác thuỷ lợi theo từng loại đất; phƣơng pháp tƣới tiêu; diện tích
một số cây trồng đƣợc tƣới tiêu; nguồn nƣớc tƣới; thuỷ lợi phí; các hình
thức quản lý mặt nƣớc;
(3) Sản lƣợng cây trồng; diện tích cây trồng; phân bón sử dụng cho từng loại
cây; nguồn giống cây trồng; loại giống; diện tích vƣờn ƣơm;
(4) Chăn nuôi: Sử dụng các dịch vụ thú y; gia súc lấy sữa; số lƣợng gia súc
dùng làm sức kéo; loại giống;
(5) Quá trình sản xuất nông nghiệp: sử dụng các loại thuốc hoá học; nông
sản hàng hoá; kết cấu hộ sản xuất nông nghiệp; cây trồng chuyển đổi
gen; ngƣời bán sản phẩm nông nghiệp;
(6) Dịch vụ nông nghiệp; nguồn thông tin trong nông nghiệp; dịch vụ
khuyến nông; tiếp cận đến thị trƣờng nông sản;
(7) Các đặc tính nhân khẩu học và xã hội học: Quốc tịch/dân tộc; cấu trúc
hộ gia đình;
(8) Lao động trong hộ nông nghiệp: Hoạt động của các thành viên trong
hộ; công việc làm thuê của các thành viên trong hộ; thời gian làm việc
của các thành viên trong hộ đối với công việc chính và các các công
việc nông nghiệp; các hình thức trả công cho ngƣời lao động; hoạt
động của các cơ sở dịch vụ nông nghiệp;
(9) An ninh lƣơng thực của hộ.
(10) Nuôi trồng thuỷ sản: các loại vị trí nuôi; các điều kiện SX; loại mặt
nƣớc nuôi, nguồn nƣớc nuôi ; các loại hình tổ chức nuôi;
(11) Lâm nghiệp: Các loại rừng theo mục đích sử dụng.
B – Đánh giá ƣu nhƣợc điểm của hệ thống chỉ tiêu và các phƣơng pháp
thu nhập số liệu hiện hành
I. Ƣu điểm
1. Hệ thống chỉ tiêu quốc gia về NLTS do Tổng cục thống kê thực hiện
- Hệ thống chỉ tiêu thu thập khá toàn diện và đã bao gồm những thông
tin cơ bản nhất từ điều kiện sản xuất đến kết quả sản xuất, bao gồm cả chỉ tiêu
hiện vật và giá trị nên đã đáp ứng đƣợc yêu cầu thông tin của nhiều đối tƣợng
sử dụng. Số liệu đƣợc thu thập, tổng hợp theo hƣớng dẫn thống nhất từ Trung
ƣơng đến địa phƣơng nên có sự thống nhất về khái niệm, phạm vi, nội dung,
phƣơng pháp tính. Đảm bảo đƣợc tính so sánh theo thời gian, theo các vùng
lãnh thổ và nhiều thông tin đã đáp ứng đƣợc yêu cầu so sánh quốc tế.
195
- Các chỉ tiêu đƣợc qui định rõ ràng về khái niệm, nội dung, phƣơng
pháp thu thập, tính toán, nguồn số liệu hoặc đơn vị cung cấp thông tin đƣợc
xây dựng tƣơng đối chặt chẽ và logic, sự sắp xếp theo trình tự khoa học (từ các
chỉ tiêu tổng hợp, khái quát đến các chỉ tiêu cụ thể, từ những chỉ tiêu về điều
kiện sản xuất đến các chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả sản xuất, sự kết hợp và bổ
sung lẫn nhau giữa các chỉ tiêu về hiện vật và các chỉ tiêu về giá trị,...), sự
thống nhất về phạm vi và các phân tổ.
- Thông tin thống kê đƣợc công bố vào nhiều thời điểm khác nhau nhƣ:
ƣớc tính, sơ bộ, số liệu chính thức.
2. Các cuộc điều tra thƣờng xuyên
- Những phƣơng án mới đƣợc xây dựng hoặc cải tiến đều khá đơn
giản, dễ hiểu và cơ bản phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam;
- Đã sử dụng đa dạng các phƣơng pháp thu thập thông tin từ thu thập
thông tin trực tiếp tại các đơn vị điều tra hoặc gửi phiếu để các đơn vị điều
tra tự ghi phiếu. Có sự kết hợp hài hoà và bổ sung cho nhau giữa điều tra
toàn bộ và điều tra mẫu, điều tra chuyên môn định kỳ hàng năm và Tổng
điều tra;
- Phƣơng pháp thu thập số liệu đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ và cụ thể hơn
thông qua việc sửa đổi các phƣơng án cũ hoặc bổ sung thêm các phƣơng án
mới. Trong thống kê năng suất, sản lƣợng cây trồng, nếu nhƣ trƣớc kia chỉ
có một “Phƣơng án điều tra năng suất, sản lƣợng cây trồng” trong đó, chủ
yếu là hƣớng dẫn về điều tra năng suất, sản lƣợng lúa và có hƣớng dẫn đơn
giản về điều tra năng suất một số cây ngắn ngày, thì hiện tại, đã xây dựng
các phƣơng án riêng: “Phƣơng án điều tra năng suất, sản lƣợng lúa”;
“Phƣơng án điều tra năng suất, sản lƣợng cây hàng năm khác”; và “Phƣơng
án điều tra năng suất, sản lƣợng cây lâu năm”. Việc bổ sung thêm các
phƣơng án điều tra cho từng nhóm cây trồng đã tạo điều kiện để các địa
phƣơng triển khai thực hiện thuận lợi hơn, khắc phục đƣợc tình trạng
không thống nhất khi triển khai điều tra ở các địa phƣơng.
- Không chỉ bổ sung thêm một số phƣơng án điều tra, mà ngay trong
các phƣơng án đó đã có những qui định rất cụ thể về phƣơng pháp điều tra
cho từng nhóm cây trồng, từng vùng miền, nhóm huyện. Ngoài ra, số kỳ
điều tra, trong chăn nuôi, trồng trọt và thuỷ sản đã tăng lên nhằm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu thông tin của các cấp, các ngành. Cụ thể nhƣ sau:
196
+ Chăn nuôi: Hiện nay đã qui định việc thu thập thông tin về số lƣợng
và sản phẩm gia cầm, sản lƣợng thịt lợn hơi xuất chuồng đều đƣợc thực
hiện cả hai kỳ 1/4 và 1/10. Do vậy, sẽ có đầy đủ thông tin hơn phục vụ cho
đánh giá kết quả sản xuất 6 tháng và cả năm;
+ Thuỷ sản trƣớc chỉ điều tra 1 lần/ năm; hiện nay, đối với những địa
phƣơng trọng điểm thì điều tra 2 lần/năm (có qui định riêng các khu vực
trọng điểm về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản);
+ Trồng trọt đã bổ sung kỳ điều tra vụ đông đối với các tỉnh miền Bắc
và lúa vụ thu đông/vụ 3 đối với các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.
- Nội dung điều tra có tính thống nhất trên phạm vi cả nƣớc, chi tiết đến
đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện và tƣơng đƣơng. Do đó đáp ứng đƣợc các
yêu cầu thông tin phục vụ công tác quản lý điều hành của chính quyền và
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn các cấp trong cơ chế mới;
- Nhiều chỉ tiêu và phƣơng pháp điều tra phù hợp với thông lệ quốc tế và khu
vực nên đảm bảo khả năng so sánh với chỉ tiêu cùng loại của các nƣớc trong khu
vực;
- Về cơ bản phù hợp với hệ thống tổ chức và trình độ cán bộ thống kê
nông nghiệp các cấp và nhất là điều kiện cơ sở vật chất kinh phí eo hẹp của
ngành.
3. Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2006
- Tổng điều tra năm 2006 đã có những thay đổi quan trọng về nội dung theo
hƣớng kế thừa nhiều nội dung đƣợc thu thập trong Tổng điều tra năm 2001 và
năm 1994, đồng thời có bổ sung nhiều nội dung mới phù hợp với yêu cầu của các
cấp, các ngành và đã vận dụng tối đa khuyến nghị của FAO cho chu kỳ Tổng điều
tra 2006-2015. Tổng điều tra năm 2006 đã bổ sung các thông tin về hiệu quả sản
xuất một số nông sản, thuỷ sản chủ yếu: lúa, lợn thịt, cà phê, chè, cá tra/cá ba sa,
tôm sú là nội dung chƣa đƣợc đề cập trong các lần Tổng điều tra trƣớc. Nhiều
thông tin về nông thôn cũng đƣợc bổ sung để phản ánh toàn diện hơn về bức tranh
nông thôn hiện nay nhƣ: Kết quả thực hiện một số chƣơng trình mục tiêu quốc gia
về hỗ trợ ngƣời nghèo, sử dụng nƣớc sạch, vệ sinh môi trƣờng, xử lý chất thải trên
địa bàn nông thôn,…và các thông tin cơ bản khác về cơ sở hạ tầng, hệ thống các
hoạt động dịch vụ, môi trƣờng sống và hệ thống khuyến nông, lâm, ngƣ từ cấp
thôn đến cấp xã.
197
- Tổng điều tra năm 2006 không chỉ đổi mới về nội dung mà còn đổi mới
cả phƣơng pháp, trong đó, rõ nhất là việc xây dựng và hoàn thiện các quy trình
áp dụng trong Tổng điều tra. Những thay đổi lớn tập trung vào phƣơng pháp
thu thập thông tin, phƣơng pháp nghiệm thu, bàn giao tài liệu (bổ sung thêm
những qui định về tỷ lệ sai sót khi nghiệm thu và đánh giá chất lƣợng chung
các loại phiếu).
II. Những hạn chế, nhƣợc điểm
Bên cạnh những ƣu điểm hệ thống chỉ tiêu và phƣơng pháp thu thập số
liệu nông lâm nghiệp và thuỷ sản hiện hành có một số hạn chế, nhƣợc điểm
sau:
1. Hạn chế của hệ thống chỉ tiêu NLTS
- Thiếu các chỉ tiêu phản ánh chất lƣợng, hiệu quả của quá trình sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn; ứng dụng các biện pháp
canh tác mới, giống mới, những sản phẩm mới; một số chỉ tiêu phản ánh những
chủ trƣơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc (Nghị quyết Trung ƣơng 7
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn).
+ Về nông nghiệp: thiếu các chỉ tiêu sản xuất hàng hoá tập trung phục
vụ xuất khẩu/nguyên liệu cho công nghiệp chế biến; các chỉ tiêu phản ánh trình
độ cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, sinh học hoá; chi phí sản xuất một số
nông sản; sản xuất giống cây trồng vật nuôi, các chỉ tiêu thuỷ lợi;…
+ Về lâm nghiệp: thiếu các chỉ tiêu diện tích rừng hiện có; diện tích rừng