Page 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-------------------------------------
TRẦN THỊ BÍCH HỒNG
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO PHỤ GIA GIẢM NHIỆT ĐỘ ĐÔNG
ĐẶC CHO DẦU MỠ BÔI TRƠN TRÊN CƠ SỞ COPOLYME
ACRYLAT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà nội - 2011
Page 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-------------------------------------
Trần Thị Bích Hồng
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO PHỤ GIA GIẢM NHIỆT ĐỘ ĐÔNG
ĐẶC CHO DẦU MỠ BÔI TRƠN TRÊN CƠ SỞ COPOLYME
ACRYLAT
Chuyên ngành: Hóa Hữu Cơ
Mã số: 60 44 27
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Phạm Ngọc Lân
Hà nội - 2011
Page 3
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN ...................................................................................................... 3
1.1. Phụ gia polyme giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu bôi trơn .......................................... 3
1.1.1. Cơ học chất lỏng và cơ chế hoạt động của PPD .................................................. 3
1.1.2. Ứng xử của chất lỏng Bingham ........................................................................... 4
1.1.3. Ứng xử nhớt cao .................................................................................................. 6
1.2. Chất giảm điểm đông PPD. Cơ chế tác dụng .............................................................. 6
1.2.1. Hóa học của PPD ................................................................................................. 7
Điều kiện thử nghiệm phụ gia PPD ............................................................................. 10
1.2.3. Nguyên lý chọn PPD và hiện tượng tăng nhiệt độ đông đặc ............................. 11
1.3. Tình hình nghiên cứu về PPD ở nước ngoài ............................................................. 13
1.4. Tình hình nghiên cứu về PPD ở trong nước ................................................................. 16
1.5. Phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc Polymetacrylat (PMA) .......................................... 17
Chương 2: THỰC NGHIỆM ............................................................................................... 20
2.1. Hóa chất, nguyên liệu ............................................................................................... 20
2.2. Thiết bị và các phương pháp phân tích ..................................................................... 21
2.3. Các qui trình tổng hợp monome và copolyme .......................................................... 24
2.3.1. Tổng hợp alkyl acrylat ....................................................................................... 24
Đồng trùng hợp alkyl acrylat ....................................................................................... 27
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................................... 29
3.1. Phản ứng chế tạo este từ ancol mạch dài với axit metacrylic ................................... 29
3.1.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ mol axit metacrylic đến hiệu suất phản ứng ..................... 30
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hiệu suất phản ứng ............................. 31
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến hiệu suất phản ứng ............................... 31
3.1.4. Nghiên cứu cấu trúc của các acrylat .................................................................. 32
3.1.5. Một số tính chất đặc trưng của các alkyl acrylat ............................................... 34
3.2. Nghiên cứu tổng hợp các copolyme acrylat ............................................................. 35
3.2.1. Khối lượng phân tử của copolyme acrylat ......................................................... 37
3.3. Thử nghiệm đánh giá khả năng phụ gia copolyme giảm nhiệt độ đông đặc của dầu
mỡ bôi trơn và các dầu khác ............................................................................................ 39
3.3.1. Thành phần phụ gia copolyme ........................................................................... 39
3.3.2. Nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT xác định trên máy Newlab 1300/1 và
bằng phương pháp thủ công ......................................................................................... 40
Page 4
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
2
3.3.3. Sự phụ thuộc của khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn vào thời
gian lưu giữ mẫu .......................................................................................................... 41
3.3.4. Ảnh hưởng của nồng độ phụ gia lên khả năng hạ nhiệt độ đông đặc của chúng
..................................................................................................................................... 42
3.3.5. Phân tích khí thải từ động cơ diesel sử dụng BDF có phụ gia 2P ..................... 44
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 48
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 50
Page 5
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
3
DANH SÁCH CÁC BẢNG
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Bảng 2.1: Một số tính chất đặc trưng của ancol …………………................
Bảng 3.1: Một số tính chất vật lý của các monome acrylat…………….......
Bảng 3.2: Độ nhớt tương đối và khối lượng phân tử (KLPT) của copolyme
2P………………...........................................................................................
Bảng 3.3: Thành phần phụ gia copolyme làm phụ gia hạ điểm đông cho
dầu bôi trơn…………………………………………………………...........
Bảng 3.4: Nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT xác định bằng 2
phương pháp………………………………………………………………...
Bảng 3.5: Sự phụ thuộc của khả năng hạ nhiệt độ đông đặc của dầu bôi
trơn vào thời gian lưu mẫu………………………………............................
Bảng 3.6: Sự phụ thuộc giảm khả năng điểm đông dầu bôi trơn TCT của
mẫu 2P vào thời gian phản ứng và thời gian lưu mẫu..................................
Bảng 3.7: Ảnh hưởng nồng độ các phụ gia lên nhiệt độ đông đặc của dầu
bôi trơn TCT, thời gian lưu mẫu: 20 ngày………………………….............
Bảng 3.8: Ảnh hưởng nồng độ phụ gia 2P lên nhiệt độ đông đặc của dầu
bôi trơn TCT, biodiesel và chất tuyển nổi quặng TQ – VH, thời gian lưu
mẫu: 20 ngày……………………………………………………..................
Bảng 3.9: Kết quả phân tích khí thải từ động cơ diesel sử dụng BDF có
phụ gia 2P……………………………………………………………….......
18
30
34
36
37
38
39
40
40
42
Page 6
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
4
DANH SÁCH CÁC HÌNH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Hình 1.1: Quan hệ giữa độ nhớt và nhiệt độ đối với dầu khoáng..............
Hình 1.2: Cấu trúc 3 chiều dạng hình kim của các platelete tinh
thể…............................................................................................................
Hình 1.3: Mạng lưới gel cấu trúc hình kim……………………................
Hình 1.4: Sơ đồ cấu trúc PPD polyme dạng hình lược……………..........
Hình 1.5: Mô tả cấu trúc ba chiều của một PPD………………................
Hình 1.6: Kết tinh của một PPD với một cấu trúc dạng hình kim…..........
Hình 1.7: PPD cản trở tạo thành gel mạng lưới……………….................
Hình 1.8: Ảnh hưởng của hàm lượng PPD lên điểm đông của một loại
dầu……………………………………………………................................
Hình 1.9: Tăng điểm đông do dùng quá nhiều PPD……………...............
Hình 1.10: Chất phụ gia copolyme PMA………………………...............
Hình 2.1: Thiết bị Newlab 1300/1 xác định nhiệt độ đông đặc của dầu
Hình 2.2: Sơ đồ thiết bị phản ứng tổng hợp monome alkyl
acrylat……..................................................................................................
Hình 3.1: Quan hệ giữa tỷ lệ axit metacrylic/ancol và hiệu suất phản
ứng………………………………………………………………………....
Hình 3.2: Quan hệ giữa thời gian và hiệu suất phản ứng……………......
Hình 3.3: Phổ IR của acrylat-C10..............................................................
Hình 3.4: Phổ 1H-NMR của acrylat-C14………………...........................
Hình 3.5: Sơ đồ phản ứng trùng hợp monome alkyl acrylat ………....
Hình 3.6: Phổ IR của homopolyme............................................................
Hình 3.7: Phổ 1H-NMR của homopolyme………………………............
3
4
4
7
8
9
9
11
11
16
21
22
26
27
29
30
31
32
33
Page 7
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
5
MỞ ĐẦU
Tất cả các loại động cơ cần dầu bôi trơn để hoạt động bình thường, không bị
mài mòn, ổn định với thời gian. Đối với các áp dụng dầu bôi trơn khác nhau, ví dụ
chất lỏng truyền động (ATF), dầu máy, chất lỏng thủy lực… thì dầu gốc sáp là loại
dầu bôi trơn được ưa chuộng nhiều hơn cả. Các loại dầu gốc sáp này cơ bản đi từ
dầu mỏ và bao gồm các hydrocacbon no không chứa vòng thơm. Dầu gốc sáp, còn
gọi là dầu gốc, là chất bôi trơn tốt nhất, vì chúng rất bền về mặt hóa học, bền với oxi
hóa và có chỉ số độ nhớt rất tốt. Tuy nhiên dầu gốc sáp, do bản chất của nó, chứa
chuôi phân tử mạch cacbon thẳng gồm từ 14 nguyên tử cacbon trở lên, thường được
gọi là vật liệu sáp, có thể gây rắc rối cho khả năng bơm ở nhiệt độ thấp, khi mà
chúng trở nên quá nhớt không thể chảy dễ dàng được hoặc có thể bị gel hóa và kết
quả là dầu sẽ khó chuyển động hoặc không thể chuyển động qua hệ thống máy cần
được bôi trơn. Một trong những phương pháp khắc phục có hiệu quả hiện tượng
“đông đặc” của dầu bôi trơn ở nhiệt độ thấp là cho thêm một lượng nhỏ chất phụ gia
giảm nhiệt độ đông đặc (Pour Point Depressant, PPD). Những phụ gia này còn được
gọi là chất cải thiện tính chảy hoặc chất biến tính tinh thể sáp, là những phân tử
polyme (copolyme) được cho vào dầu khoáng bôi trơn để cải thiện tính chảy ở nhiệt
độ thấp. Ở nước ta về mùa đông, nhiệt độ thường xuống thấp dưới 15oC, gây khó
khăn lớn cho dầu mỡ bôi trơn hoạt động bình thường. Hàng năm nước ta vẫn phải
sử dụng một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc cho
các loại dầu (dầu thô khai thác và dầu mỡ bôi trơn), nhiều khi không chủ động được
nguồn cung cấp. Do vậy đề tài nghiên cứu tìm ra công nghệ thích hợp chế tạo phụ
gia giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu bôi trơn, có giá cả hợp lý, chất lượng đảm bảo,
tiến tới giảm thiểu và thay thế lượng phụ gia phải nhập khẩu hàng năm là rất cần
thiết, có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa kinh tế và thực tiễn cao.
Page 8
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
2
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Phụ gia polyme giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu bôi trơn
PPD được dùng để biến tính và kiểm soát hiện tượng kết tinh của sáp
trong dầu khoáng. Khi nhiệt độ giảm xuống thấp các cấu tử sáp bắt đầu hình thành
các tinh thể nhỏ dạng vỉa. Các vỉa tinh thể thông thường cùng nhau phát triển, tạo
thành mạng lưới, khóa các phân tử lại với nhau, bẫy rất hiệu quả các phân tử chất
lỏng còn lại. Việc chảy của chất lỏng vì thế gặp trở ngại lớn hoặc bị ngừng lại, trừ
khi có một lực đủ mạnh phá vỡ được cấu trúc của sáp tinh thể. Kiểm soát quá trình
kết tinh trong dầu bôi trơn là ngăn cản tạo thành tinh thể, hệ quả là làm giảm nhiệt
độ đông đặc của dầu. PPD được dùng để duy trì tính lỏng của dầu bôi trơn ở các
điều kiện làm lạnh khác nhau, để nới rộng khoảng nhiệt độ làm việc của dầu bôi
trơn ở điều kiện môi trường lạnh hơn. Khoảng nhiệt độ làm việc có thể được nới
rộng đến bao nhiêu là một hàm số phức tạp của hóa học của sáp, của hàm lượng của
nó trong dầu, có hay không các phụ gia khác trong dầu, điều kiện làm lạnh, nhiệt độ
cuối cùng và tất nhiên là hóa học và nồng độ của PPD [11].
1.1.1. Cơ học chất lỏng và cơ chế hoạt động của PPD
Các dầu khoáng được hiểu là chất lỏng niutơn, có nghĩa là nó ứng xử theo
phương trình sau:
Ứng suất trượt = tốc độ trượt x độ nhớt (shear stress = shear rate x viscosity).
Thực nghiệm cho thấy rằng phương trình trên đúng cho dầu khoáng khi nhiệt độ cao
hơn điểm sương của dầu đó. Điểm sương là nhiệt độ tại đó một số cấu tử sáp của
dầu khoáng bắt đầu kết tinh và kết tủa khỏi dung dịch dẫn đến bề ngoài có dạng đục
mờ.
Đồ thị quan hệ giữa log – log độ nhớt và nhiệt độ được chỉ ra trên hình 1.1.
Page 9
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
3
Điểm sương
Log nhiệt độ,
oC
Hình 1.1. Quan hệ giữa độ nhớt và nhiệt độ đối với dầu khoáng
Theo dõi đồ thị trên hình 1.1 ta thấy cao hơn nhiệt độ tạo sương, độ nhớt
giảm tuyến tính với nhiệt độ. Ở nhiệt độ thấp hơn điểm sương, nhiệt độ càng thấp
thì độ nhớt tăng càng mạnh. Thấp hơn điểm sương không có gì lạ khi quan sát thấy
một trong hai ứng xử không niuton ở 2 kchất lỏng niuton này: Ứng xử của chất lỏng
Bingham hoặc/và ứng xử nhớt cao.
1.1.2. Ứng xử của chất lỏng Bingham
Ứng xử của chất lỏng Bingham là chất lỏng không di chuyển trong điều
kiện trượt thấp, trừ khi có một số năng lượng được bổ sung vào hệ thống.
Phương trình sau đây mô tả ứng xử của chất lỏng Bingham:
Ứng suất trượt = (Tốc độ trượt - ứng suất dẻo) x độ nhớt.
[Shear stress = (Shear rate – Yield stress) x Viscosity]
Sự không chảy này của chất lỏng tương tự như ứng xử ban đầu quan sát
được khi mở một chai nước sốt cà chua. Khi một chai nước sốt cà chua được quay
ngược đầu và đáy chai, nước sốt cà chua không chảy ngay ra khỏi chai do sự kết tụ
yếu của một số thành phần phân tử của nước sốt cà chua. Tuy nhiên, cấp thêm năng
lượng cho hệ thống bằng cách vỗ vỗ vào đáy chai sẽ làm cho sốt cà chua chuyển
Log-log độ nhớt
Page 10
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
4
dịch. Tương tự như vậy, dầu khoáng ở nhiệt độ lạnh thường không chảy vì chúng có
chứa các phân tử có bản chất tinh thể ở nhiệt độ thấp. Đầu tiên, tinh thể 2 chiều
(platelete) được tạo ra và sau đó cấu trúc ba chiều dạng hình kim hình thành. Cấu
trúc dạng hình kim có chứa platelete được thể hiện trong hình 1.2.
Hình 1.2. Cấu trúc 3 chiều dạng hình kim của các platelete tinh thể
Các cấu trúc dạng hình kim xen lớp vào nhau, tạo thành một mạng lưới các tinh
thể giữ lấy các phân tử dầu không tinh thể trong mạng gel, cản trở dòng chảy của
dầu. (xem hình 1.3).
Hình 1.3. Mạng lưới gel cấu trúc hình kim
Page 11
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
5
Quá trình này được biết đến với tên gọi là sư ̣gel hóa và nguồn của ứng suất
dẻo (YS) trong phương trình trên là sáp nền dạng gel, trong đó các phân tử dầu
không tinh thể bị cố định.
Ngậm không khí là một ví dụ về việc có vấn đề trong ứng xử của chất lỏng
Bingham xảy ra trong một động cơ ô tô. Khi động cơ ở trạng thái nghỉ, dầu chảy ra
và thu gom vào một bộ phận hứng dầu. Ở nhiệt độ lạnh, các vật liệu chất sáp kết
tinh trong dầu tạo ra một mạng lưới gel. Khi động cơ hoạt động, có đủ năng lượng
được tạo ra bởi máy bơm dầu để phá vỡ các cấu trúc giòn của gel ngay ở bộ lọc dầu.
Một lượng nhỏ dầu được bơm vào động cơ để lại một khoảng rỗng không khí tại bộ
lọc. Có thể là dầu trong thiết bị hứng đã bị khoá bởi mạng tinh thể sáp đã hình
thành. Do đó tại thời điểm này, không khí sẽ được bơm vào động cơ và, như ta biết,
không khí lại là một chất bôi trơn rất kém, điều này có thể dẫn đến làm hỏng động
cơ.
1.1.3. Ứng xử nhớt cao
Ứng xử không Newton thứ hai thường quan sát thấy trong dầu khoáng
ở nhiệt độ dưới điểm sương của nó là độ nhớt cao đột xuất. Khi các phân tử sáp
trong dầu kết tinh, chúng sẽ đồng kết tinh nhưng có thể không tạo thành một mạng
bền vững có tổ chức. Trong trường hợp này, nhớt của dầu cao tới mức nó hoàn toàn
không được bơm vào động cơ, tạo ra một tình hình nghiêm trọng là động cơ chạy
mà không được bôi trơn.
Một điều quan trọng cần lưu ý rằng ứng xử hạn chế sự chảy có thể xảy
ra trong dầu do một lý do khác, không liên quan đến sáp tinh thể kết tủa và phát
triển. Đó là do, tất cả các chất lỏng sẽ trở nên nhớt hơn khi nhiệt độ giảm, cuối cùng
đạt đến một độ nhớt mà chất lỏng không thể bơm được nữa.
1.2. Chất giảm điểm đông PPD. Cơ chế tác dụng
PPD có thể giải quyết cả hai vấn đề của dầu bôi trơn: cản trở chức năng
bôi trơn do cấu trúc gel và do độ nhớt cao. PPD làm việc thông qua kiểm soát hiện
tượng sáp kết tinh bằng hai cách chính: trì hoãn sự hình thành của chất nền sáp - gel
Page 12
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
6
để hạ nhiệt độ thấp hơn đáng kể so với bình thường hoặc làm giảm sự tăng độ nhớt
của các hạt tinh thể sáp. PPD tác động bằng cách làm gián đoạn sự phát triển không
gian ba chiều của các tinh thể sáp.
1.2.1. Hóa học của PPD
Trước khi sử dụng PPD trong đầu những năm 1930, có rất ít lựa chọn cho
việc kiểm soát sự kết tinh của sáp. Có một phương pháp đã dùng là sử dụng nhiệt.
Ví dụ, đốt nóng bộ phận chứa dầu của một chiếc xe. Một kỹ thuật khác nhằm tăng
khả năng tan của chất lỏng bôi trơn là cho thêm dầu hỏa vào. Dầu hỏa sau đó sẽ bay
hơi trong quá trình sử dụng. Một lựa chọn thứ ba là sử dụng các vật liệu tự nhiên,
chẳng hạn như sáp vi tinh thể hoặc nhựa đường. Mặc dù các chất phụ gia tự nhiên
đã phần nào chứng tỏ có hiệu quả, chúng thường chỉ ứng dụng được cho những
trường hợp cụ thể.
Điều này đã thúc đẩy việc nghiên cứu các PPD tổng hợp với cấu trúc dựa
trên cấu trúc của hydrocacbon PPD của tự nhiên. Trong năm 1931, những nỗ lực
hóa học phân tử đã xác định được các naphtalen alkyl hoá là một trong những loại
PPD, và vào năm 1937, nghiên cứu hóa học polyme của Rohm và Haas đã thiết lập
được polymetacrylat là PPD polyme đầu tiên [10].
Kể từ đầu những năm 1930, các PPD tổng hợp khác đã được giới thiệu.
Tuy nhiên, PPD trùng hợp vẫn là lựa chọn tốt nhất cho khả năng thương mại và bao
gồm, nhưng không chỉ giới hạn, các acrylat, styren alkyl hoá, alpha olefin,
etylen/vinyl axetat, metacrylat, olefin/maleic anhydrit, styren/acrylat, styren/maleic
anhydrit và vinyl axetat/fumarat.
Tất cả những polyme này có cùng một nguyên tắc hoạt động. Cấu trúc
hóa học của một PPD giống như một cái lược, như chỉ ra trong hình 1.4. Các mạch
phụ sáp dài (Long waxy side chains) được gắn vào mạch chính polyme và xen vào
giữa các mạch phụ ngắn trung tính (mạch tương tác không sáp).
Page 13
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
7
Mạch chính của polyme
Mạch phụ dài chứa sáp Mạch phụ ngắn trung tính
Hình 1.4. Sơ đồ cấu trúc PPD polyme dạng hình lược
Các mạch phụ sáp dài tương tác với sáp trong dầu theo cách tỷ lệ với độ
dài của mạch phụ. Những mạch phụ này của PPD có thể là mạch thẳng hoặc mạch
nhánh và phải chứa ít nhất 14 nguyên tử cacbon để cho PPD tương tác với sáp trong
dầu. Các mạch phụ ngắn trung tính hoạt động với tư cách là cấu tử “pha loãng” trơ
và giúp kiểm soát mức độ tương tác của sáp. Việc phân bố các mạch phụ
hydrocacbon dài cũng giúp cho sự tương tác với sáp trong dầu tốt nhất bởi vì sáp
chứa các phân tử có độ dài mạch khác nhau. Khối lượng phân tử của PPD ở mạch
chính, nói chung, có thể thay đổi mà không ảnh hưởng nhiều lắm đến hiệu ứng giảm
điểm đông. Tuy nhiên, tồn tại một giá trị tối thiểu độ dài kích thước của PPD ở
mạch chính mà thấp hơn giá trị đó thì PPD sẽ trở nên không hoạt tính, nhưng bằng
và cao hơn giá trị đó sẽ đủ gây cản trở không gian đối với sự phát triển của tinh thể
sáp. Do đó trong nghiên cứu chế tạo PPD, ngoài việc phải tạo ra được loại polyme
(copolyme) có cấu trúc đa dạng thích hợp (gọi là gradient polyme), thì việc chế tạo
được PPD có kích thước thích hợp cho khả năng giảm tối đa nhiệt độ đông đặc của
các loại dầu nói chung cũng rất quan trọng.
Page 14
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
8
Hình 1.5 mô tả cấu trúc ba chiều của PPD. Cuộn dài biểu thị mạch chính
của PPD. Các đoạn ngắn hơn hình zig - zac gắn vào mạch chính biểu thị các mạch
phụ
Hình 1.5. Mô tả cấu trúc ba chiều của một PPD.
Hình 1.6 biểu thị các mạch phụ của PPD kết tinh với các tinh thể ở phía
đầu của các platelet. Quá trình kết tinh này sẽ cản trở về mặt không gian, không để
tạo thành mạng lưới ba chiều (xem thêm hình 1.7), nhờ vậy giữ cho sáp phân bố các
tinh thể bé và bảo đảm tính chảy hoàn toàn cho dầu. Như vậy, xu hướng thông
thường tạo thành cấu trúc ba chiều dựa trên các vẩy tinh thể không thực hiện được,
và các nền gel của sáp bị ngăn cản chí ít cũng tạm thời [15].
Page 15
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
9
Hình 1. 6. Kết tinh của một PPD với một cấu trúc dạng hình kim
Hình 1.7. PPD cản trở tạo thành gel mạng lưới
1.2.2. Điều kiện thử nghiệm phụ gia PPD
Thay đổi điều kiện nhiệt, bao gồm chu kỳ nhiệt độ và tốc độ làm lạnh đều
ảnh hưởng đến ứng xử chảy của dầu. Có nhiều phương pháp thử nghiệm khác nhau
đến nay đã được xây dựng để đánh giá dầu ở các điều kiện vận hành máy.
Một thử nghiệm có ý nghĩa để biết trước sự phát triển tinh thể của sáp bao
gồm ba yếu tố cơ bản: nhiệt độ cuối thấp, tốc độ làm lạnh nhỏ, và tốc độ trượt thấp.
Page 16
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
10
Thực ra sự phát triển của tinh thể sáp là một hiện tượng nhiệt độ thấp, do vậy đòi
hỏi nhiệt độ cuối thấp (low-temperature end point). Không phải tất cả phân tử sáp
trong một chất lỏng đều là tinh thể ở cùng một nhiệt độ, và thay đổi nhiệt độ cho
một phép đo sẽ ảnh hưởng lớn đến lượng sáp kết tinh, do vậy chọn nhiệt độ thử
nghiệm cuối cùng phù hợp là rất quan trọng. Tốc độ làm lạnh ảnh hưởng đến các
yếu tố mang tính cạnh tranh của sự phát triển tinh thể và tạo mầm tinh thể mới,
nghĩa là ảnh hưởng đến số lượng tinh thể được tạo thành và kích thước tương đối
của chúng. Sự tồn tại chu kỳ nhiệt độ trong quá trình làm nguội cũng ảnh hưởng đến
số lượng và kích thước của tinh thể sáp. Rõ ràng là tốc độ làm lạnh nhỏ là rất quan
trọng trong việc xác định tốc độ phát triển tinh thể của sáp. Cuối cùng, tốc độ trượt
nhỏ (low shear rate) cũng rất quan trọng trong việc nghiên cứu ứng xử nhiệt độ thấp
của dầu. Mạng lưới của sáp rất giòn và dễ bị phá gãy ở điều kiện tốc độ trượt cao.
Để biết được liệu mạng lưới tinh thể của sáp có hình thành hay không thì điều quan
trọng là nghiên cứu chất lỏng ở điều kiện tốc độ trượt thấp, bảo đảm không làm
hỏng mạng tinh thể của sáp được tạo ra.
1.2.3. Nguyên lý chọn PPD và hiện tượng tăng nhiệt độ đông đặc
Sử dụng PPD để cải thiện điểm đông nghĩa là cho thêm vật liệu sáp vào
trong dầu bôi trơn. Nồng độ của một PPD cần phải tối ưu sao cho tự PPD không
gây ra sự kết tinh. Ảnh hưởng của hàm lượng PPD lên điểm đông của dầu được
biểu thị trên hình 1.8. Thêm PPD với hàm lượng 0,2% KL làm giảm điểm đông từ -
15oC đến -33
oC. Tăng gấp đôi hàm lượng PPD đến 0,4% cũng chỉ giảm điểm đông
được khoảng 3oC. Tiếp tục cho thêm PPD vào dầu hầu như không làm giảm điểm
đông hơn nữa. Đối với hệ nghiên cứu này thì hàm lượng PPD tối ưu là khoảng
0,2%.
Page 17
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
11
-40
-35
-30
-25
-20
-15
-10
-5
0
0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7
%KL của PPD
Nh
iệt đ
ộ đ
ôn
g đ
ặc,
oC
Hình 1.8. Ảnh hưởng của hàm lượng PPD lên điểm đông của một loại dầu
Tiếp tục tăng hàm lượng PPD sẽ gây ra hiện tượng tăng điểm đông. Việc cho
thêm hàm lượng PPD cao hơn hàm lượng tối ưu sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tạo
thành các tinh thể hoặc PPD-Polyme mạng lưới.
Một ví dụ cho thêm quá nhiều PPD vào dầu được chỉ ra trên hình 1. 9.
0 2 0 4 0 6 0 8 1 0 1 2 1 4,,,,,,,
0
10
15
20
25
30
35
40
45
% TL PPD
NhiÖt dé
®«ng ®Æc,0C
Hình 1.9. Tăng điểm đông do dùng quá nhiều PPD
Trên hình 1.9 ta thấy ở hàm lượng PPD khoảng 0,7% điểm đông bắt đầu
tăng. Ở nồng độ 1,2% điểm đông cao tương tự điểm đông của dầu bôi trơn ban đầu.
Page 18
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
12
1.3. Tình hình nghiên cứu về PPD ở nước ngoài
Cho đến nay có đến hàng ngàn công trình đăng tải trong lĩnh vực chế tạo
chất phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc của parafin trong dầu thô nói chung và trong
dầu, mỡ bôi trơn nói riêng. Các kết quả nghiên cứu công nghệ chế tạo chất phụ gia
chủ yếu được công bố dưới dạng patent. Trên cơ sở phân tích có hệ thống các tài
liệu, có thể chia các chất phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc của dầu (mỡ) làm bốn
nhóm chính:
- Loại phụ gia PPD dạng nhũ tương trên cơ sở hydrocacbon mạch dài được
khuyếch tán trong các dung môi khác nhau.
- Loại phụ gia PPD trên cơ sở các alkylphenol, trong đó nhóm alkyl là mạch
hydrocacbon dài.
- Loại phụ gia PPD “vinylic” trên cơ sở các copolyme (met)acrylat với 4-
vinylpyridin, (met)acrylamit và dialkylaminoalkyl-(met)acrylamit, copolyme
của etylen với vinyl cacboxylat hoặc blend của các polyme và copolyme kể
trên.
- Nhóm PPD phân hủy sinh học.
Các kết quả nghiên cứu của các trường phái khác nhau đã cho phép định tính
thành phần từng loại phụ gia PPD. Các công trình mới nhất chủ yếu tập trung
nghiên cứu tối ưu hóa các cấu trúc sơ cấp của phân tử PPD và qui trình công nghệ
chế tạo chúng. Chẳng hạn, để hạ thấp hơn nữa nhiệt độ đông đặc parafin người ta có
thể nâng tỷ lệ số nhóm phân cực, giảm độ dài mạch hydrocacbon không phân cực
trong copolyme đến một mức thích hợp, hoặc ngược lại. Trong nhiều công trình
công bố gần đây, để tăng độ bền của phụ gia PPD khi làm việc trong môi trường
khắc nghiệt, hoặc để duy trì chỉ số độ nhớt hiệu dụng, người ta thêm vào phụ gia
các chất chống oxi hóa, như dialkyl(diaryl)amin, hay các dẫn xuất thioancol,
thiophenol…
Tuy nhiên, mọi sự cải tiến đều xoay quanh 4 nhóm chất nền cơ bản trên.
Nhóm PPD dạng nhũ tương được nghiên cứu chế tạo trước tiên. Từ năm 1927,
trong công trình của mình, Davis và các cộng sự [16] đã chế tạo phụ gia PPD bằng
Page 19
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
13
cách khuấy parafin rắn với một lượng nhất định xà phòng rắn và xà phòng lỏng ở
nhiệt độ cao để parafin phân tán hoàn toàn, tạo hỗn hợp nhũ tương, sau đó hạ từ từ
nhiệt độ đến nhiệt độ phòng, thu được sản phẩm dạng phomat. Trong US patent
công bố năm 1962, Martinek đưa ra phương pháp chế tạo PPD nhũ tương bằng cách
đun nóng parafin với pha lỏng ở nhiệt độ thích hợp nhằm tạo dung dịch keo. Sau đó
phun dung dịch này dưới áp suất cao vào thùng có áp suất và nhiệt độ thấp hơn, ở
đó PPD được tạo thành nhờ tiếp xúc với một chất lỏng cũng được phun vào dưới áp
suất cao [17].
Tiếp theo, năm 1968 Lockhart và cộng sự đã chế tạo PPD dạng nhũ tương
từ parafin bằng cách vừa khuấy vừa đun nóng hỗn hợp sao cho parafin khuyếch tán
và nhũ hóa thành các hạt li ti. Sau khi đã làm lạnh đến nhiệt độ phòng, tiếp tục
khuấy mạnh và làm lạnh đến nhiệt độ thấp hơn điểm chảy của parafin. Để nguội và
đóng vào thùng [18]. Cũng bằng cách tương tự, năm 1984, House đã chế tạo PPD
dạng nhũ tương từ parafin, polyoxietyl alkylphenol, muối amoni bậc 4 và dung môi
hexylen glycol [19]. Dễ dàng nhận thấy PPD dạng nhũ tương có hiệu quả ức chế
đông đặc parafin kém, ít được sử dụng cho dầu thô, nhưng lại rất thích hợp cho các
loại dầu bôi trơn.
Nhóm PPD thứ hai được chế tạo từ các chất nền là alkylphenol có công
thức chung (R)a-Ar-(OH)b, trong đó R là nhóm hydroxyalkyl với số nguyên tử
cacbon từ 8 đến 39, Ar là nhóm phenyl, polyphenyl hoặc vòng aryl ngưng tụ.
Ví dụ:
C
OH
OR
H3
OH
R OH
CH3
C
CH3
H3CH3
CH3
OH
R
Page 20
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
14
Một trong các dạng PPD loại này là sản phẩm ngưng tụ giữa alkylphenol
với fomandehit, được Marella và công sự chế tạo năm 1991 – 1992 [20]. Chất nền
PPD này là hỗn hợp polyme có phân tử lượng trung bình trên 3000, độ phân bố khối
lương phân tử khoảng 1,5. Các gốc alkyl trong phân tử có số nguyên tử cacbon
trung bình từ 12 đến 26. Một trong những điều kiện để PPD “alkylphenol –
fomandehit” có tính năng tốt là, không quá 10% mol alkylphenol có gốc alkyl dưới
12 nguyên tử cacbon và dưới 10% mol alkylphenol với gốc alkyl có số nguyên tử
cacbon trên 26. Các chất phụ gia hạ nhiệt độ đông đặc trên cơ sở alkylphenol được
sử dụng nhiều vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước.
Đối với nhóm phụ gia PPD “Vinylic” được nghiên cứu và sản xuất vào
đầu những năm 50 và được phát triển, hoàn thiện liên tục. Vì dễ chế tạo và giá
thành hợp lý, hiện nay loại phụ gia này chiếm tới khoảng 70 – 80% thị phần phụ gia
giảm nhiệt độ đông đặc của parafin.
Một trong những phụ gia PPD thông dụng là loại được chế tạo từ
copolyme của alkyl (met)acrylat với maleic anhydrit [22]. Thực nghiệm khẳng định
loại này có khả năng giảm nhiệt độ đông đặc dầu rất tốt, nhưng nếu trong dầu có
nước thì nhóm anhydrit sẽ bị thủy phân, gây ăn mòn thiết bị. Có thể khắc phục
nhược điểm trên bằng cách amit hóa nhóm anhydrit bởi các dẫn xuất amin.
Nhóm PPD phân hủy sinh học được nghiên cứu chế tạo bằng cách phối
trộn glyxerit tổng hợp hoặc tách từ dầu, mỡ thực vật và động vật với một lượng nhất
định các chế phẩm PPD. Loại PPD này hiện nay đang được sử dụng chủ yếu cho
dầu, mỡ bôi trơn. Đây cũng là hướng tốt, mở ra triển vọng chế tạo phụ gia cho dầu
mỡ bôi trơn từ dầu thực vật, nguyên liệu mà Việt Nam có nhiều tiềm năng lớn.
Tất cả các loại phụ gia kể trên được bán trên thị trường. Giá bán trung
bình của các sản phẩm khoảng 4USD/kg. Nhược điểm nổi bật của chất phụ gia nhập
ngoại là chỉ phục vụ cho một loại dầu nhất định. Vì thế, khi thành phần dầu thay đổi
thì việc lựa chọn cần phải tiến hành lại từ đầu để có được mẫu phụ gia thích hợp.
Như vậy chúng ta phải phụ thuộc vào cả nguồn cung cấp và giá thành, rất bị động
trong sử dụng.
Page 21
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
15
1.4. Tình hình nghiên cứu về PPD ở trong nước
Việc nghiên cứu chế tạo PPD ở Việt Nam cho cả dầu thô và dầu mỡ bôi
trơn chưa phát triển. Một trong những nguyên nhân cơ bản là ngành công nghiệp
lọc dầu của Việt Nam mới ra đời, từ trước đến nay các sản phẩm xăng dầu, trong đó
có dầu mỡ bôi trơn hoàn toàn nhập từ nước ngoài dạng thành phẩm đã được xử lý
bằng phụ gia. Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp lọc dầu, các sản phẩm
dầu mỡ bôi trơn sẽ được xuất khẩu sang các nước khác, trong đó có các nước ở xứ
lạnh, khi nhiệt độ ngoài trời ở họ thường dưới 10oC thì việc chế tạo phụ gia chống
đông cho dầu mỡ bôi trơn là rất cần thiết.
Theo dõi tài liệu cho thấy chưa thấy có công trình nào nghiên cứu chế tạo
phụ gia PPD, chỉ có một vài công trình đăng trên tạp chí dầu khí và báo cáo hội
nghị. Trong các nghiên cứu của mình, một số tác giả sử dụng polyme nhập ngoại để
pha chế làm phụ gia. Tuy nhiên chất lượng và giá thành chưa đạt yêu cầu, nên chưa
được khách hàng chấp nhận rộng rãi. Vì vậy “Nghiên cứu công nghệ chế tạo phụ
gia giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu mỡ bôi trơn phục vụ xuất khẩu” là đề tài có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cao.
Những năm gần đây, nhóm nghiên cứu của PGS.TSKH. Lưu Văn Bôi,
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội, đã nghiên cứu
thành công chế tạo phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu thô giàu parafin của
Việt Nam. Đó là một thuận lợi rất lớn cho nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài
này, đặc biệt là cách tiếp cận đề tài và phương pháp nghiên cứu để giải quyết vấn đề
đặc thù cho dầu mỡ bôi trơn [1].
1.5. Phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc Polymetacrylat (PMA)
Polymetacrylat có nhiều ứng dụng khác nhau trong công nghiệp và cuộc
sống. Nó cũng là loại polyme được sử dụng nhiều cho mục đích giảm nhiệt độ đông
đặc cho dầu thô và dầu bôi trơn. Phân tích các tài liệu cho thấy có 2 cách sử dụng
loại polyme này làm PPD. Cách thứ nhất là sử dụng chúng dưới dạng copolyme của
các alkylacrylat có số nguyên tử cacbon khác nhau để có được một copolyme
Page 22
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
16
gradient thích hợp nhất. Cách thứ hai là sử dụng các đồng trùng hợp của metacrylat
có các mạch alkyl dài (từ C14 trở lên) với styren, maleic anhydrit hoặc 1-anken v.v.
Việc sử dụng polyalkylacrylat làm PPD theo cách thứ hai được rất nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới quan tâm. Ví dụ, Pranab Ghosh và các cộng sự đã nghiên cứu chế
tạo copolyme metylmetacrylat với styren cũng như với 1-decene để sử dụng làm
phụ gia PPD [8, 9]. Cụ thể các homopolyme của alkylacrylat chứa C18, C20 và C22
và của các copolyme với styren, maleic anhydrit, alpha-olefin v.v. đã được thông
báo [14-16].
Copolyme của alkyl acrylat, metacrylat với vinylaxetat được nghiên cứu điều
chế và sử dụng làm phụ gia hạ nhiệt độ đông đặc trong bơm dầu thô, dầu bôi trơn và
dầu nhiên liệu [7].
B. Subrahamanyam và các cộng sự đã sử cho hỗn hợp của ba acrylat C18,
C20 và C22 đồng trùng hợp với nhau và tính tỷ lệ hoạt tính của chúng [23].
Sheng Han và các cộng sự đã đồng trùng hợp alkyl metacrylat (C14) với
maleic anhydrit rồi nghiên cứu quá trình kết tinh trong nhiên liệu diesel khi sử dụng
chúng làm phụ gia [24]. Rasha và các cộng sự cũng đã đồng trùng hợp maleic
anhydrit với các alkyl acrylat terpolyme với các tỷ lệ giữa chúng khác nhau và sử
dụng chúng làm phụ gia PPD, đánh giá hiệu quả giảm nhiệt độ đông đặc của chúng
cho các loại dầu khác nhau [20]. Còn có rất nhiều nghiên cứu khác liên quan đến
phụ gia copolyme của alkyl acrylat với các monome khác.
Đối với copolyme của acrylat loại một, cho thấy có ít nghiên cứu hơn. Tuy
nhiên cấu trúc hóa học của loại copolyme này hứa hẹn nhiều thành công trong
nghiên cứu tổng hợp và sử dụng chúng làm PPD cho các loại dầu.
Nguyên nhân của thành công liên quan đến cấu trúc phân tử như chỉ ra trên
hình 1.10, và độ mềm dẻo hóa học vốn có của nó do mạch polyme dài, nhưng quan
trọng hơn là khả năng có được các độ dài mạch khác nhau với các nồng độ khác
nhau.
Trên hình 1.10, R1 và R2 biểu thị hai độ dài khác nhau của mạch phụ alkyl,
một mạch tương tác với sáp, mạch kia là „trung tính” hoặc không tương tác với sáp.
Page 23
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
17
Tuy nhiên, các mạch phụ là hỗn hợp phức tạp của các nhóm alkyl cấu thành ngẫu
nhiên từ 1 đến hơn 20 nguyên tử cacbon. Các mạch phụ cacbon dài hơn có xu
hướng tương tác với sáp, để làm được như vậy, chúng phải là những mạch thẳng và
chứa ít nhất 14 nguyên tử cacbon. Sự tương tác này càng mạnh khi mạch phụ
polyme càng dài. Tuy nhiên, các mạch ngắn hơn sẽ bổ sung cấu tử tan và trơ, bảo
đảm mức độ tương tác có kiểm soát hoặc đóng vai trò cầu nối giữa các mạch dài
hơn để phù hợp tốt hơn với cấu trúc tinh thể của latex. Sự tương tác tối ưu với sáp
đòi hỏi có sự điều chỉnh các nhóm alkyl sáp cả về chủng loại và nồng độ.
CH2 C
CH3
COOR1
CH2 C
CH3
COOR2x y
Hình 1.10. Chất phụ gia copolyme PMA
Sử dụng copolyme acrylat theo phương pháp thứ hai này có những thuận lợi
không nhỏ. Thứ nhất, có thể tiến hành phản ứng đồng trùng hợp gốc, trong dung
dịch, một phản ứng dễ tiến hành, hóa chất nguyên liệu có sẵn, dễ mua. Phản ứng
thường cho hiệu suất cao, sản phẩm dễ tinh chế; không gặp nhiều khó khăn để đạt
được khối lượng phân tử mong muốn. Thứ hai, các tài liệu cho thấy, nếu có sự phối
hợp tốt, thích hợp giữa mạch cacbon dài và ngắn, tìm được khối lượng phân tử
copolyme thích hợp, nghĩa là có được copolyme gradient hợp lý, ta sẽ có phụ gia
copolyme làm PPD rất hiệu quả.
Xuất phát từ các phân tích ở trên, chúng tôi chọn phương án 2 để nghiên cứu
chế tạo copolyme làm PPD cho dầu mỡ bôi trơn, nghĩa là nghiên cứu chế tạo các
copolyme của các alkyl acrylat trong đó mạch alkyl có độ dài khác nhau.
Page 24
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
18
Chương 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất, nguyên liệu
Natri hydroxit, toluen, metanol của Trung Quốc, độ tinh khiết loại p, dùng
trực tiếp không tinh chế.
Axit p-toluen sulfonic, Hydroquinon của hãng Aldric, độ tinh khiết PA, dùng trực
tiếp không tinh chế.
Benzoyl peroxit của Aldric, tinh chế lại trong metanol trước khi dùng.
Các ancol mạch dài (C10-OH, C12-OH, C14-OH, C16-OH và C18-OH) mua của
hãng Aldric. Chúng được làm khan nước bằng chưng đẳng phí trong toluen. Một số
tính chất đặc trưng của chúng được nêu trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Một số tính chất đặc trưng của các ancol mạch dài
Tính chất Ancol
C10-OH
Ancol
C12-OH
Ancol
C14-OH
Ancol
C16-OH
Ancol
C18-OH
Tỷ trọng (g/cm3)
0,8250 0.8270 0,8290 0,8292 0,8295
Chỉ số axit
(mgKOH/g)
0,01 0,02 0,02 0,03 0,03
Chỉ số Iod
(mgI/100mg)
O,24 0,26 0,27 0,27 0,29
Chỉ số hydroxyl
(mgKOH/g)
145 144 142 141 139
Hàm lượng nước
(%IL)
0,02 0,02 0,03 0,02 0,03
Trạng thái vật lý Chất lỏng Chất lỏng Chất rắn Chất rắn Chất rắn
Page 25
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
19
Dầu bôi trơn TCT: Dầu bôi trơn sử dụng cho các nghiên cứu này là sản
phẩm từ dầu mỏ, được cung cấp bởi Công Ty Cổ Phần Phụ gia dầu mỡ APP, thuộc
Tổng Công Ty Hóa Chất Việt Nam, có nhiệt độ đông đặc là 15oC.
Biodiesel: Biodiesl là sản phẩm được sản xuất tại Khoa Hóa học, Trường
Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại Học Quốc gia Hà Nội, trên cơ sở mỡ cá Basa của
Việt Nam. Hiệu suất chuyển hóa là 99%. Nhiệt độ đông đặc là 16oC.
Hợp chất tuyển nổi quặng TQ-VH: Là sản phẩm sản xuất tại Viện Hóa
Học Công Nghiệp Việt Nam. Theo tài liệu được cung cấp, thành phần cơ bản của
hợp chất tuyển nổi quặng này là dầu thực vật biến tính, chiếm 90% phần trọng
lượng, có nhiệt độ đông đặc là 16oC.
2.2. Thiết bị và các phương pháp phân tích
- Phổ Hồng ngoại (FT-IR)
Phổ FT-IR đã được thực hiện với mẫu đo kẹp giữa hai viên KBr trên máy
phổ hồng ngoại Perkin Elmerr GXS spectrometer. Các phổ được quyét 32 lần, độ
phân giải 4cm-1
trong dải số sóng 400-4000 cm-1
.
- Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton được đo trên máy Brucker Avance
400MHz FT-NMR spectrometer. Dung môi là CDCl3 và DMSO. Tetrametyl Silan
(TMS) là chất chuẩn nội.
KLPT trung bình (Mw và Mn) được xác định bằng phương pháp GPC, trong THF ở
25oC. Dùng chất chuẩn là polystyren độ phân bổ phân tử lượng hẹp và bằng phương
pháp độ nhớt.
- Phương pháp xác định độ nhớt
Độ nhớt được xác định ở 25oC trong dung dịch toluen, dùng nhớt kế
Ubbelohde, thể tích phần phình ra là 3cm3, mao quản dài 11,3cm. Thời gian chảy
của dung dịch xác định bằng đồng hồ bấm giây. Cẩn thận không để dung môi bay
hơi.
Page 26
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
20
Trong nghiên cứu này khối lượng phân tử của các copolyme được biểu thị
qua độ nhớt rút gọn đặc thù (Reduced Specific Viscosity, RSV). Để xác định RSV
chuẩn bị dung dịch chứa 0,4g từng copolyme trong 100ml toluen ở 25oC, xác định
độ nhớt tương đối. RSV được tính theo công thức sau đây:
RSV= (Độ nhớt tương đối – 1)/Nồng độ
Thảo luận cụ thể về độ nhớt rút gọn đặc thù cũng như quan hệ của nó với
khối lượng phân tử của một polyme có thể tham khảo trong [3]. Khi xác định KLPT
theo độ nhớt, sử dụng K=0,00387 dl/g và a= 0,725 [13].
Xác định nhiệt độ đông đặc của các loại dầu có phụ gia.
Việc xác định nhiệt độ đông đặc của các loại dầu tuân thủ qui trình trong tiêu
chuẩn ASTM D97 [23]. Để xác định khả năng giảm nhiệt độ đông đặc các loại dầu
chứa phụ gia tổng hợp được, đã tiến hành chuẩn bị mẫu đo như sau: Cân chính xác
0,5g copolyme (phụ gia), hòa tan trong 5ml toluen, ta được dung dịch phụ gia trong
toluen.
Cân 50g dầu bôi trơn TCT (hay các loại dầu thử nghiệm khác) vào một cốc
100ml, gia nhiệt đến 50-60oC trong 10 phút trên bếp cách thủy.
Đổ dung dịch phụ gia chuẩn bị ở trên vào cốc chứa dầu, khuấy đều và tiếp tục gia
nhiệt ở 60oC thêm 10 phút nữa. Để cốc dầu nguội tự nhiên đến nhiệt độ phòng. Khi
nhiệt độ dầu trong cốc đạt nhiệt độ phòng, tiến hành đo nhiệt độ đông đặc của dầu.
Nhiệt độ đông đặc của dầu được xác định trên máy Newlab 1300/1 của Thụy
Sĩ (xem hình 2.1) đặt trong một phòng có nhiệt độ ổn định ở 25oC.
Để so sánh, nhiệt độ đông đặc của các loại dầu cũng được xác định bằng
phương pháp thông thường như sau: Phép đo được thực hiện trong một phòng
khống chế nhiệt độ ổn định ở 25oC. Cho hỗn hợp dầu cần đo chứa phụ gia vào cốc
đo cho đến vạch định mức. Khống chế nhiệt độ đến một nhiệt độ nhất định (thường
cao hơn nhiệt độ mong đợi 5 đến 8oC). Ổn định hỗn hợp dầu tại nhiệt độ đó 10 phút,
tiến hành quan sát trạng thái dầu bằng cách nghiêng cốc đo 45º so với mặt phẳng
Page 27
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
21
ngang. Nếu chưa thấy có sự đông đặc của hỗn hợp dầu trong cốc thì tiếp tục hạ
nhiệt độ, lặp lại qui trình đo như trên cho đến khi thấy dầu không chuyển động
trong cốc đo nghiêng 45º. Ghi lại nhiệt độ đó. Giá trị nhiệt độ vừa đo đó cộng thêm
3 độ nữa sẽ cho ta nhiệt độ đông đặc của dầu.
Hình 2.1. Thiết bị Newlab 1300/1 xác định nhiệt độ đông đặc của dầu
2.3. Các qui trình tổng hợp monome và copolyme
2.3.1. Tổng hợp alkyl acrylat
Phản ứng tổng hợp các este alkyl acrylat được biểu thị như sau:
R OH CH2 CH
COOH
CH2 CH
COOR
+ H2O[Xuc tac axit]
Page 28
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
22
R là gốc alkyl của các ancol với số nguyên tử cacbon: C10, C12, C14, C16
và C18 hoặc hỗn hợp của chúng theo tỷ lệ nhất định
Trước khi thực hiện phản ứng este hóa để chế tạo monome, tất cả các ancol
đều được làm khô cẩn thận bằng phương pháp tách nước đẳng phí trong toluen.
Ví dụ, monome acrylat-C10, được chế tạo như sau:
Phản ứng được thực hiện trên thiết bị phản ứng mô tả trên hình 2.2.
Hình 2.2. Sơ đồ thiết bị phản ứng tổng hợp monome alkyl acrylat
31,6g (0,2 mol) C10-ancol và 21,6g (0,3mol) axit acrylic cho vào một bình cầu ba
cổ dung tích 500ml, có lắp cánh khuấy và bẫy tách nước đẳng phí Dean và Stark để
loại bỏ nước sinh ra trong quá trình phản ứng. Phản ứng được thực hiện trong
150ml toluen, ở 110oC. Axit P-toluensulfonic (0,8g) được dùng làm xúc tác và
hydroquinon (0,6g) – làm chất ức chế phản ứng trùng hợp. Sau khi đủ thời gian
phản ứng, chưng hỗn hợp phản ứng để loại bỏ toluen ở áp suất chân không. Phần
còn lại được rửa năm lần bằng nước cất, mỗi lần 100ml. Tiếp theo dung dịch sản
Page 29
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
23
phẩm được trung hòa bằng 30ml dung dịch 40% NaHCO3. Rửa nhiều lần bằng nước
cất ấm (400C) cho đến khi đạt được môi trường trung tính. Tiếp đến, sản phẩm được
làm khan nước bằng 30g Na2SO4 khan (để qua đêm). Sản phẩm được lọc bằng phễu
xốp số 2, sấy trong tủ sấy chân không trong 6 giờ ở 40oC.
Trong nghiên cứu này qui trình tương tự được áp dụng để chế tạo các acrylat
cũng như metacrylat từ các ancol độ dài mạch C10, C12, C14, C16 và C18 cũng
như các hỗn hợp của chúng theo những tỷ lệ nhất định.
2.3.2. Đồng trùng hợp alkyl acrylat
Phản ứng đồng trùng hợp các alkyl acrylat được biểu diễn một cách tổng
quát như sau:
CH2 CH
COOR1
CH2 CH
COOR2
CH2 CH
COOR3
m n x+ +
[PBO]CH2 CH
COOR1
CH2 CH
COOR2
CH2 CH
COOR3m n x
Trong đó R1, R2 và R3 là các gốc alkyl của các ancol khác nhau.
Ví dụ: R1 là C10H21-; R2 là C12H25-; R3 là C14H29- v.v.
Hỗn hợp các alkyl acrylat với tỷ lệ mol nhất định và dung môi toluen được
cho vào bình cầu có lắp máy khuấy, sinh hàn hồi lưu, nhiệt kế và ống dẫn khí nitơ.
Trong 10 phút đầu sục khí nitơ, chưa gia nhiệt. Sau đó tiến hành gia nhiệt (đun qua
nồi cách thủy) đến 90-95oC và duy trì nhiệt độ đó trong suốt quá trình phản ứng.
Benzoyl peroxit (0,5% khối lượng monome) được hòa tan trong toluen (0,2g
benzoyl peroxit hòa tan trong 15ml toluen) và cho vào bình phản ứng 3 lần lượng
bằng nhau, cách nhau 30 phút. Phản ứng được tiến hành trong thời gian cần thiết.
Sau khi phản ứng kết thúc, sản phẩm copolyme được kết tủa trong metanol. Lọc kết
tủa, tinh chế sản phẩm hai lần bằng cách hòa tan trong toluen và kết tủa lại trong
metanol. Sản phẩm được sấy khô ở nhiệt độ 40oC, dưới áp suất chân không trong 6
giờ.
Hiệu suất của phản ứng được xác định bằng phương pháp trọng lượng. Phân
tử lượng của copolyme được xác định bằng phương pháp gel xuyên thấm (GPC) và
phương pháp độ nhớt. Trong phương pháp GPC thời gian lưu là 24 phút, dung môi
là tetrahydrofuran, chất chuẩn là polystyren.
Page 30
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
24
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phản ứng điều chế este từ ancol mạch dài với axit acrylic
Như đã biết trong phần thực nghiệm, este alkyl acrylat được điều chế trên
cơ sở phản ứng este hóa axit acrylic với các ancol: C10H21OH, C12H25OH,
C14H29OH, C16H33OH, C18H37OH và hỗn hợp của chúng. Ví dụ, ancol C10H21-OH
phản ứng với axit acrylic xảy ra theo sơ đồ sau:
CH2 CH
COOH
+ C10H21OHXóc t¸c axit
CH2 CH
COOC10H21
+ H2O
Ở đây đã dùng axit p-toluensulfunic làm xúc tác, vì nó vừa là một axit mạnh,
vừa tránh xảy ra sự oxi hóa các tác nhân và sản phẩm tạo thành. Toluen được sử
dụng làm dung môi, vì để hòa tan các chất tham gia phản ứng, nhất là rượu có gốc
hidrocacbon dài. Mặt khác toluen tạo hỗn hợp đẳng phí, do đó nước được tách khỏi
phản ứng, làm cho cân bằng chuyển dịch về phía tạo sản phẩm este. Do axit acrylic
và alkyl acrylat tạo thành sau phản ứng chứa liên kết đôi, dễ bị trùng hợp, nên phải
sử dụng hydroquinon làm chất ức chế polyme hóa. Sau khi phản ứng kết thúc,
toluen được cất lại dưới áp suất thấp. Hỗn hợp được rửa bằng nước cất ấm nhiều lần
để loại bỏ hydroquinon và axit acrylic dư. Phần axit acrylic dư còn lại được trung
hòa bằng natri bicacbonat. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu suất phản ứng (Tỷ lệ
mol axit acrylic/ancol, thời gian phản ứng, nhiệt độ phản ứng…) được khảo sát cụ
thể.
Page 31
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
25
3.1.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ mol axit acrylic/ancol đến hiệu suất phản ứng
80
82
84
86
88
90
92
94
0.8 1 1.2 1.4 1.6 1.8
Axit Acrylic/Ancol, mol/mol
Hiệ
u s
uấ
t p
.u., %
Hình 3.1. Quan hệ giữa tỷ lệ axit acrylic/ancol và hiệu suất phản ứng
Trong thí nghiệm này hiệu suất phản ứng được xác định bằng phương pháp
trọng lượng. Đã tiến hành các phản ứng este hóa C10- ancol với axit acrylic ở nhiệt
độ 110oC, trong thời gian 6 giờ, sử dụng các tỷ lệ axit/ancol khác nhau. Các điều
kiện khác như mô tả trong phần thực nghiệm. Kết quả được biểu diễn trên hình 3.1.
Nhận thấy rằng lúc đầu hiệu suất phản ứng tăng lên cùng với sự tăng tỷ lệ mol giữa
axit acrylic và ancol C10, đạt giá trị cực đại tại tỷ lệ mol 1.2/1 – 1.3/1. Tiếp tục tăng
tỷ lệ mol axit/ancol hầu như không làm thay đổi hiệu suất phản ứng. Các thí nghiệm
khác với các ancol mạch dài khác nhau và axit acrylic cho ta kết quả tương tự. Tỷ lệ
mol axit/ancol này được sử dụng để cho các nghiên cứu tiếp theo.
Page 32
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
26
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến hiệu suất phản ứng
70
75
80
85
90
95
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thời gian phản ứng, giờ
Hiệ
u s
uất,
%
Hình 3.2. Quan hệ giữa thời gian và hiệu suất phản ứng
Trong thí nghiệm này, các điều kiện phản ứng như nêu trong phần thực
nghiệm. Tỷ lệ mol axit/ancol là 1,3/1. Hiệu suất phản ứng được xác định sau các
khoảng thời gian khác nhau. Kết quả được trình bày bằng đồ thị trên hình 3.2. Ta
thấy rằng hiệu suất phản ứng tăng lên cùng thời gian phản ứng. Sau 6 giờ hiệu suất
phản ứng hầu như không tăng nữa, có nghĩa phản ứng gần như đã kết thúc. Chúng
tôi chọn thời gian phản ứng là 6 giờ.
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến hiệu suất phản ứng
Rượu bậc cao có cản trở không gian rất lớn ảnh hưởng đến tốc độ phản
ứng, cùng lúc đó cần tránh hiện tượng quá nhiệt xảy ra, vì vậy chúng tôi tăng nhiệt
độ theo từng bước trong thí nghiệm này để giữ cho nhiệt độ phản ứng ở khoảng
nhiệt độ hồi lưu bình thường (xung quanh 110oC) và để đảm bảo rằng nhiệt độ phản
ứng không vượt quá 140oC là nhiệt độ sôi của axit acrylic. Thực nghiệm cho thấy
rằng, nhiệt độ phản ứng thấp hơn 110oC, dung dịch phản ứng hầu như không sôi,
nước tách ra với tốc độ rất chậm. Do vậy dù thời gian phản ứng kéo dài đến hơn 8
giờ, hiệu suất phản ứng vẫn rất thấp, khoảng 60-65%. Mặt khác sản phẩm monome
có màu nâu sẫm thay vì màu nâu sáng như thường có, có lẽ thời gian phản ứng kéo
Page 33
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
27
dài dẫn đến tạo thành một số dime, trime không mong đợi. 110oC là nhiệt độ được
chọn để điều chế các monome khác.
3.1.4. Nghiên cứu cấu trúc của các acrylat
Như vậy, chúng tôi đã điều chế được các alkyl acrylat từ các ancol mạch
dài có số lượng nguyên tử cacbon C10, C12, C14, C16, C18 hoặc từ các hỗn hợp
của các ancol mạch dài đó. Cấu trúc của 6 alkyl acrylat tổng hợp được được khẳng
định bằng phổ hồng ngoại và cộng hưởng từ hạt nhân proton. Cho thấy rằng phổ
hồng ngoại của các monome acrylat điều chế được hầu như giống nhau, vì chúng
có cấu trúc giống nhau (dạng mạch của chúng giống nhau), chúng chỉ khác nhau về
số nguyên tử cacbon trong mạch alkyl. Phổ hồng ngoại acrylat-10 được chỉ ra trong
hình 3.3, trong đó dao động kéo C-H của nhóm CH3- và CH2- hấp thụ rất mạnh ở
giải sóng 2923-2854 cm-1
. Nhóm cacbonyl C=O của nhóm este xuất hiện bởi giải
hấp thụ mạnh ở 1725cm-1
và sự có mặt của nhóm este còn được khẳng định bổ sung
bởi dải hấp thụ của dao động kéo C-O ở 1162cm-1
. Dao động kéo đặc trưng của liên
kết C=C xuất hiện ở 1636cm-1
, trong khi đó, dao động biến dạng trong mặt phẳng
của nhóm C-H của các monome xuất hiện ở 1322cm-1
và 1274cm-1
. Dao động biến
dạng của nhóm C-H xuất hiện ở 1457cm-1
. Dải hấp thụ mạnh của dao động gập của
(CH2)n-C của mạch alkyl dài của este xuất hiện tại 722cm-1
. Ta thấy rằng các dao
động đặc trưng của tất cả các nhóm của các monome acrylat đều được chỉ ra rất rõ
trên phổ hồng ngoại. Các kết quả về phổ hồng ngoại của các monome trên rất phù
hợp với các kết quả trong nghiên cứu của I.M.El-Gamal và cộng sự [20].
Page 34
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
28
Hình 3.3. Phổ IR của acrylat-C10
Cấu trúc của monome alkyl acrylat C12 được nghiên cứu và khẳng định bằng
phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton (1H-NMR). Phổ
1H-NMR của monome acrylat-
C12 được chỉ ra trong hình 3.4.
Hình 3.4. Phổ 1H-NMR của acrylat-C12
Page 35
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
29
Trên phổ cộng hưởng từ hạt nhân ở hình 3.4, pic xuất hiện tại 0,87 –
0,89ppm đặc trưng cho nhóm CH3 của nhóm alkyl, còn tại 1,26 – 1,30ppm – cho
nhóm CH2- cũng của nhóm alkyl. Pic xuất hiện tại 4,08 – 4,16 ppm thuộc về nhóm
CH2 cạnh nhóm biên COO-. Các vạch phổ đặc trưng cho các liên kết đôi là như sau:
6,07 – 6,14 ppm (1, CH=CH2-); 5,78 – 5,83 ppm (2, CH=CH2-); 6,37 – 6,41 ppm
(3. CH=CH2-).
Nhận xét: Ta thấy rằng, cũng như phổ hồng ngoại, phổ cộng hưởng từ hạt
nhân proton đã giải thích trọn vẹn cấu trúc hóa học của các monome acrylat tổng
hợp được. Hai loại phổ này cũng cho thấy phản ứng este hóa điều chế các acrylat đã
xảy ra hầu như hoàn toàn và các monome điều chế được có độ tinh khiết hóa học
khá cao.
Phổ hồng ngoại cũng như phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton (1H-NMR) của
các monome acrylat điều chế được giống nhau vì chúng có cấu trúc giống nhau
(dạng mạch của chúng giống nhau), chúng chỉ khác nhau về số nguyên tử cacbon
trong mạch alkyl.
Page 36
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
30
3.1.5. Một số tính chất đặc trưng của các alkyl acrylat
Một số tính chất vật lý cũng như hiệu suất của các monome acrylat đã
được xác định và trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Một số tính chất vật lý của các monome acrylat
TT TTMonome Hiệu
suất, %
23
Dn Tỷ trọng
(20oC,
g/cm3)
Độ nhớt
TĐ, giây,
25oC
Trạng
thái vật
lý
1 Acrylat-C10 90 1,4460 0,8350 07,31 Lỏng
2 Acrylat-C12 91 1,4462 0,8371 10,10 Lỏng
3 Acrylat-C14 88 1,4463 0,8393 15,37 Lỏng
4 Acrylat-C16 93 1,4464 0,8394 17,30 Lỏng
nhớt
5 Acrylat-C18 87 1,4466 0,8396 18,90 Lỏng
nhớt
6 Acrylat-
mix*)
89 1,4464 0,8395 15,70 Lỏng
*) Acrylat điều chế từ hỗn hợp các ancol khác nhau. Tỷ lệ mol:
C10/C12/C14/C16/C18=1/1/1/0,5/0,5.
Từ bảng 3.1 ta thấy tăng số nguyên tử cacbon trong gốc alkyl của ancol làm
tăng chỉ số khúc xạ và độ nhớt tương đối của các monome acrylat. Hiệu suất các
phản ứng đạt khoảng 90%.
3.2. Nghiên cứu tổng hợp các copolyme acrylat
Các PPD là những hợp chất được thiết kế đặc biệt, chứa hợp phần kỵ
nước để thay đổi tính lưu biến của dầu bôi trơn và tạo thuận lợi cho sự chảy của
chúng thường bị gây khó bởi sự kết tinh của parafin [3]. Trong mối tương quan này,
như đã trình bày ở trên, các monome acrylat chứa các gốc alkyl mạch dài dã được
Page 37
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
31
chế tạo bằng cách cho các ancol mạch dài khác nhau (từ C10 đến C18 hoặc hỗn hợp
của chúng) phản ứng với acrylic axit.
Phản ứng đồng trùng hợp các monome alkyl acrylat khác nhau được tiến
hành trong dung dịch, dung môi được dùng là toluen khan, chất khơi mào là
benzoyl peroxit, ở nhiệt độ 88-90oC, thời gian phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào
mục đích nghiên cứu của từng thí nghiệm. Phản ứng đồng trùng hợp xảy ra theo cơ
chế gốc và được mô tả theo sơ đồ trong hình 3.5.
CH2 CH
COOR1
CH2 CH
COOR2
CH2 CH
COOR3
+ + CH2 CH
COOR1
CH2 CH
COOR2
CH2 CH
COOR3
m n e
R1, R2 và R3 là các gốc alkyl khác nhau
Hình 3.5. Sơ đồ phản ứng trùng hợp monome alkyl acrylat
Kết quả của thực nghiệm cho thấy rằng, hiệu suất của các phản ứng đồng
trùng hợp đạt khá cao: 70-85%. Phản ứng xảy ra thuận lợi và cho hiệu suất cao khi
monome acrylat điều chế ra trước đó có độ tinh khiết hóa học cao, có hàm lượng ẩm
thấp và khí nitơ cho vào bình phản ứng cũng như nhiệt độ dung dịch phản ứng được
duy trì tốt.
Phổ IR của homopolyme (xem hình 3.6) cho ta đỉnh pic ở 1725cm-1
do dao động
kéo của nhóm este cacbonyl. Pic dao động tại 1241 cm-1
là do dao động kéo C-O
của este, cùng với vạch phổ rộng 938cm-1
(C-H gập) và khoảng 2923-2854 cm-1
(C-
H dao động kéo). Ta cũng thấy rằng dải hấp thụ đặc trưng cho dao động của nhóm
C=C (1636 cm-1
) của các monome (xem hình 3.6) chỉ còn lại dưới dạng cái vai nhỏ,
chứng tỏ rằng phản ứng đồng trùng hợp đã xảy ra hầu như hoàn toàn.
Page 38
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
32
Hình 3.6. Phổ IR của homopolyme.
Cấu trúc hóa học của copolyme được khẳng định bằng phổ NMR (Hình 3.7).
Trong phổ 1H-NMR của copolyme cho thấy có sự hiện diện của nhóm –OCH2 của
acrylat ở 3,9 ppm. Sự vắng mặt của vạch phổ hấp thụ đặc trưng cho nhóm vinyl
(liên kết đôi) cho thấy phản ứng đồng trùng hợp đã xảy ra hoàn toàn hoặc sản phẩm
copolyme thu được có độ tinh khiết cao, không còn chứa các vết monome dư không
phản ứng [26]. Các kết quả nghiên cứu này đã được công bố trên “Tạp Chí Hóa
Học”, số 49, 2011 [2].
Page 39
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
33
Hình 3.7. Phổ 1H-NMR của homopolyme
3.2.1. Khối lượng phân tử của copolyme acrylat
Quá trình biến đổi độ nhớt tương đối trong dung môi toluen theo thời gian
phản ứng chế tạo mẫu 2P (về thành phần hóa học mẫu 2P xem mục 3.3.1.) đã được
nghiên cứu. Khối lượng phân tử của các copolyme theo phương pháp độ nhớt được
tính theo phương trình Mark-Houwinks: [η] = KMa, trong đó K= 0,00387 và a =
0,725 [23]. Khối lượng phân tử của các copolyme cũng được xác định bằng phương
pháp GPC, trong dung môi THF. Kết quả được trình bày trong bảng 3.2.
Page 40
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
34
Bảng 3.2. Độ nhớt tương đối và KLPT của copolyme 2P
T.gian
p.ư.,
giờ
Độ nhớt tương
đối
Khối lượng phân tử
Phương Pháp
độ nhớt
Phương Pháp GPC
Mn K=Mw/Mn
1 1,300 3300 7800 1,3
2 1,304 10.120 15700 1,2
4 1,330 17.050 38400 1,2
7 1,343 20.140 73000 1,3
9 1,344 21.225 75.040 2,5
Theo bảng 3.2 khối lượng phân tử của các copolyme xác định theo hai
phương pháp độ nhớt và GPC có giá trị khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì bản
chất của hai phương pháp và ứng xử của polyme trong môi trường của hai phương
pháp là khác nhau. Tuy nhiên, số liệu thu được từ hai phương pháp này bổ sung tốt
cho nhau khi ta xét về quy luật biến đổi khối lượng phân tử của copolyme theo thời
gian phản ứng. Cũng theo bảng 3 ta thấy rằng độ nhớt dung dịch copolyme tăng
theo thời gian phản ứng cho đến 7 giờ. Sau đó độ nhớt tăng lên không đáng kể. Quy
luật này cũng đúng khi xem xét khối lượng phân tử của các copolyme theo thời gian
phản ứng. Sau 7 giờ phản ứng, khối lượng phân tử cũng tăng lên không đáng kể.
Trong phần thử nghiệm khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của các phụ gia copolyme
(Mục 3.3), ta sẽ thấy rằng, khi thời gian phản ứng đạt 7 giờ, sản phẩm phụ gia
copolyme có khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu tốt nhất, đối với dầu bôi
trơn TCT là -2oC, biodiesel là -1
oC và đối với hợp chất tuyển nổi quặng TQ-VH là -
5oC. Ta nhớ lại rằng một trong hai yếu tố để phụ gia copolyme đạt hiệu quả giảm
nhiệt độ đông đặc của dầu tốt nhất là khối lượng phân tử của chúng. Copolyme cần
đạt đến một khối lượng phân tử phù hợp, gọi là giá trị khối lượng phân tử tới hạn,
tại đó khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu là tốt nhất. Thực nghiệm cho thấy
trong trường hợp hệ copolyme nghiên cứu, khối lượng phân tử khoảng 20.000 (theo
Page 41
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
35
phương pháp độ nhớt) là phù hợp nhất, phụ gia copolyme có khả năng giảm nhiệt
độ đông đặc các loại dầu tốt nhất.
3.3. Thử nghiệm đánh giá khả năng phụ gia copolyme giảm nhiệt độ
đông đặc của dầu mỡ bôi trơn và các dầu khác
3.3.1. Thành phần phụ gia copolyme
Như đã phân tích trong phần tổng quan, cấu trúc hóa học của một PPD giống
như một cái lược. Các mạch phụ sáp dài được ghép vào mạch chính polyme và xen
vào giữa các mạch phụ ngắn trung tính (mạch tương tác không sáp).
Các mạch phụ sáp dài tương tác với sáp trong dầu bôi trơn. Những mạch phụ
này có thể là mạch thẳng hoặc mạch nhánh và phải chứa ít nhất 14 nguyên tử
cacbon để cho PPD tương tác với sáp trong dầu. Các mạch phụ ngắn trung tính hoạt
động với tư cách là cấu tử “pha loãng” trơ và giúp kiểm soát mức độ tương tác của
sáp. Việc phân bố các mạch phụ hydrocacbon dài cũng giúp cho sự tương tác với
sáp trong dầu tốt nhất bởi vì sáp chứa các phân tử có độ dài mạch khác nhau. Với
cách tiếp cận đó, đã sử dụng các ancol với mạch alkyl dài khác nhau (từ C10 đến
C18) cũng như hỗn hợp của chúng để điều chế hỗn hợp alkyl acrylat. Hỗn hợp
ankyl acrylat này với tỷ lệ thành phần nhất định được đồng trùng hợp với nhau cũng
như với metylmetacralat để thu được sản phẩm đồng trùng hợp khác nhau làm phụ
gia giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu bôi trơn và một số loại dầu khác
(Metylmetacrylat, MMA) đóng vai trò mạch phụ ngắn trong copolyme). Thành
phần các copolyme được trình bày trong bảng 3.3 dưới đây :
Page 42
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
36
Bảng 3.3. Thành phần phụ gia copolyme làm phụ gia
hạ điểm đông cho dầu bôi trơn
Mẫu
Este của các ancol
C10
(Mol)
C12
(Mol)
C14
(Mol)
C16+C18 (1/1)
(Mol)
MMA (Mol)**
1P* 1 1 1 0 0
2P 0,5 1 1 1 0,5
3P 1 0,5 1 1 0,5
4P 1 1 0,5 1 0,5
5P 1 1 1 0,5 0,5
*) P: viết tắt của từ “phụ gia”; **):MMA là viết tắt của “ Metylmetacrylat”
Theo dõi bảng 3.3 ta thấy phần mol của các alkyl acrylat chứa các mạch dài
từ C10 đến C18 lần lượt được thế bằng một phần mol của metylmetacrylat (MMA).
3.3.2. Nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT xác định bằng máy Newlab
1300/1 và bằng phương pháp thủ công
Mục đích của thí nghiệm này là so sánh kết quả nhiệt độ đông đặc của dầu
TCT không có và có phụ gia, xác định bằng hai phương pháp: bằng máy Newlab
1300/1 (phương pháp I) và bằng thủ công (phương pháp II). Các mẫu dầu TCT có
các phụ gia khác nhau đều có nồng độ 1000ppm, được giữ trong chai đậy bằng nút
nhám, để trong phòng có nhiệt độ 25oC, độ ẩm 60-65%. Sau ngày thứ 20 tiến hành
đo nhiệt độ đông đặc.
Kết quả được trình bày trong bảng 3.4.
Page 43
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
37
Bảng 3.4. Nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT xác định bằng
hai phương pháp
Phương
pháp
Nhiệt độ đông đặc (oC)
Không
phụ gia
Có phụ gia, 1000ppm
1P 2P 3P 4P 5P
Phương
pháp I*
16 4 -1 -1 0 5
Phương
pháp II**
16,5 3 -2 -1 0 4
*) Đo bằng máy Newlab 1300/1
**) Đo bằng phương pháp thủ công
Từ bảng 3.4 ta thấy hai phương pháp đo cho ta kết quả rất gần nhau. Cần chú
ý một điều là do người đo mẫu phải quan sát khả năng chảy của dầu trong cả hai
phương pháp, nên một người đo mẫu phải tự đo cả hai phương pháp để so sánh với
nhau.
3.3.3. Sự phụ thuộc của khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi
trơn TCT vào thời gian lưu giữ mẫu
Để làm thí nghiệm này chúng tôi sử dụng các mẫu copolyme sau 7 giờ phản
ứng và xác định khả năng giảm điểm đông của chúng. Nồng độ các phụ gia được
dùng là 1000ppm.
Kết quả được trình bày trong bảng 3.5.
Page 44
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
38
Bảng 3.5. Sự phụ thuộc của khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT
vào thời gian lưu giữ mẫu
Lưu mẫu
Mẫu
Nhiệt độ đông đặc (oC)
1h 1ngày 3ngày 5ngày 7 ngày 10 ngày 20ngày 25ngày
1P 9 9 8 5 3 3 3 3
2P 5 5 4 3 2 0 -2 -2
3P 8 5 4 4 3 0 -1 0
4P 8 6 5 5 4 3 0 0
5P 8 7 6 6 5 4 4 4
Từ bảng 3.5 ta thấy hiệu quả giảm điểm đông của các phụ gia thử nghiệm
phụ thuộc rất lớn vào thời gian lưu mẫu sau khi chuẩn bị. Càng để lâu thì hiệu quả
giảm nhiệt độ đông đặc càng tăng. Thực nghiệm cho thấy giữ lâu 20 ngày các phụ
gia giảm điểm đông với hiệu quả cao nhất. Sau 20 ngày khả năng giảm điểm đông
hầu như không tốt hơn. Thời gian lưu mẫu trong dầu dài như thế có thể là do phụ
gia cần có đủ thời gian để hòa tan và trở thành đồng nhất trong dầu. Ta cũng thấy
mẫu 2P là mẫu có khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT tốt nhất.
Cụ thể, sau 20 ngày chuẩn bị mẫu, phụ gia này có thể giảm nhiệt độ đông đặc loại
dầu bôi trơn TCT đang thử nghiệm xuống đến -2oC, khi sử dụng nồng độ là
1000ppm.
Bảng 3.6 nêu lên kết quả về khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi
trơn phụ thuộc vào thời gian phản ứng và thời gian lưu mẫu 2P. Ta thấy rằng với
mẫu 2P thì thời gian phản ứng 7 giờ và thời gian lưu mẫu 20 ngày là thích hợp nhất.
Page 45
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
39
Bảng 3.6. Sự phụ thuộc khả năng giảm điểm đông dầu bôi trơn TCT của mẫu 2P
vào thời gian phản ứng và thời gian lưu giữ mẫu
Nhiệt độ đông đặc (oC)
T.gian p.ư, giờ
T.gian lưu mẫu
1 2 4 7 9
1 giờ 5 5 5 5 5
1 ngày 5 5 5 5 5
3 ngày 5 5 4 4 4
5 ngày 5 4 3 3 3
7 ngày 4 4 2 2 2
10 ngày 4 3 1 0 0
20 ngày 4 3 1 -2 -2
25 ngày 4 3 1 -2 -2
3.3.4. Ảnh hưởng của nồng độ phụ gia lên khả năng hạ nhiệt độ đông đặc
của chúng
Độ ổn định pha của dầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nhiệt độ, áp
suất và cấu tử, đặc biệt là parafin mạch dài và phân đoạn asphalt có cực [26]. Sự kết
tủa của parafin khỏi dầu là do sự tan hạn chế tạo nên kết tủa parafin-dầu. Để khắc
phục vấn đề này của các nồng độ sáp khác nhau trong dầu, các phụ gia đã được
thêm vào dầu thử nghiệm. Nồng độ của phụ gia PPD phụ thuộc vào đặc tính của
dầu. Sự tương tác giữa PPD và parafin trong dầu là rất quan trọng và các phụ gia
làm việc tốt khi chúng phù hợp tốt với sự phân bố của parafin trong dầu [13].
Trong nghiên cứu này, loại dầu bôi trơn TCT của Công Ty dầu và Phụ gia
thuộc Tổng Công Ty Hóa Chất Việt Nam cung cấp được dùng để đánh giá tính chất
của các phụ gia tổng hợp được. Sự thay đổi nồng độ của các PPD hữu hiệu cho dầu
bôi trơn được chi phối bởi thành phần parafin trong dầu (n-parafin, isoparafin và
naphten). Người ta biết rằng n–parafin có điểm nóng chảy tương đối cao và sự hiện
Page 46
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
40
diện của chúng làm cho sáp có cấu trúc rắn khỏe. Mặt khác isoparafin có điểm chảy
thấp và tan tốt hơn trong dầu và do vậy duy trì sự tan cho đến nhiệt độ thấp.
Việc nữa, khi isoparafin kết tủa thì không tạo ra tinh thể chắc khỏe. Để
nghiên cứu tính hữu dụng của các copolyme tổng hợp được, chúng được thêm vào
các mẫu dầu với lượng 250 – 2000ppm so với dầu. Ảnh hưởng của nồng độ
copolyme lên nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn được nêu trong bảng 3.7.
Bảng 3.7. Ảnh hưởng nồng độ các phụ gia lên nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn
TCT, thời gian lưu mẫu: 20 ngày
Mẫu
Polyme
Nhiệt độ đông đặc (oC) tại nồng độ (ppm)
Không
P.G.*
250 500 1000 2000
1P 16 16 14 3 2
2P 16 16 9 -2 -3
3P 16 16 9 -1 -2
4P 16 16 11 0 0
5P 16 16 13 4 3
Ghi chú: *) : Không phụ gia
Từ bảng 3.7 trên ta thấy các phụ gia ở nồng độ 250ppm không có hiệu ứng
giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT. Hiệu ứng giảm nhiệt độ đông đặc của
dầu TCT biểu hiện rõ nhất ở nồng độ 1000ppm. Nồng độ cao hơn (2000ppm) hầu
như không cải thiện nhiều khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của dầu bôi trơn TCT.
Đối với Biodiesel và chất tuyển nổi quặng TQ-VH, đã nghiên cứu khả năng giảm
nhiệt độ đông đặc của mẫu phụ gia 2P. Kết quả được trình bày trong bảng 3.8.
Page 47
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
41
Bảng 3.8. Ảnh hưởng nồng độ của phụ gia 2P lên nhiệt độ đông đặc của dầu bôi
trơn TCT, biodiesel và chất tuyển nổi quặng TQ-VH,
thời gian lưu mẫu: 20 ngày
Mẫu Dầu Nhiệt độ đông đặc (oC) tại nồng độ (ppm)
Không
P.G.*
250 500 1000 2000
Dầu TCT 16 16 9 -2 -3
Biodiesel 16 16 9 -1 -2
TQ-VH 16 16 7 -5 -6
Ghi chú: *): Không phụ gia
Từ bảng 3.8 ta thấy mẫu 2P với nồng độ 1000ppm có khả năng giảm nhiệt độ
đông đặc hiệu quả nhất đối với cả ba loại dầu. Điều này có thể được giải thích, ví
dụ, đối với đầu bôi trơn TCT thì 1000ppm là nồng độ thích hợp tại đó có sự tương
hợp tốt giữa chuôi alkyl acrylat trong polyme mạch chính và số cacbon trung bình
của sáp trong dầu. Tất nhiên, như đã giải thích ở trên, khả năng giảm nhiệt độ đông
đặc có hiệu quả của phụ gia còn phụ thuộc rất lớn vào cấu trúc gradient của chúng
nữa.
Số liệu ở bảng 3.8 còn cho thấy khả năng mẫu phụ gia 2P giảm nhiệt độ đông
đặc của Biodiesel và dầu tuyển quặng TQ-VH cũng rất tốt, xuống đến -1oC và -5
oC
tương ứng. Đây là những kết quả rất ấn tượng, có ý nghĩa ứng dụng cao và cũng là
những kết quả đầu tiên đạt được ở Việt Nam trong nghiên cứu chế tạo phụ gia giảm
điểm đông cho ba loại dầu này.
3.3.5. Phân tích khí thải từ động cơ diesel sử dụng BDF có phụ gia 2P
Trong thí nghiệm này phụ gia 2P cho vào biodiesel với nồng độ 300ppm và
1000ppm, dùng 2 mẫu diesel có phụ gia này chạy động cơ diesel của một máy phát
điện. Nhiệt độ nơi thử nghiệm là 17oC. Để so sánh, một mẫu diesel không có phụ
gia và một mẫu petrodiesel được thử nghiệm đều ở 17oC. Một mẫu biodiesel không
Page 48
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
42
Hình 3.8: Phân tích khí thải từ động cơ máy phát điện chạy bằng
biodiesel chứa phụ gia 2P
có phụ gia khác được đun nóng lên đến 40oC, khuấy đều trong 10 phút rồi đưa vào
thử nghiệm. Hàm lượng các khí thải ra từ động cơ diesel được phân tích trực tiếp
bằng máy “Gas Analyzer" (Kane International Ltd., UK) (Xem hình 3.8). Kết quả
xác định các loại khí thải được trình bày trong bảng 3.9.
Bảng 3.9. Kết quả phân tích khí thải từ động cơ diesel
sử dụng BDF có phụ gia 2P
TT Mẫu thử CO,
% Vol.
CO2,
% Vol.
NO,
ppm
Nhiệt độ môi
trường, oC
1 Petrol Diesel 0,14 3,3 88 17
2 BDF không phụ gia 0,1 3,5 91 17
3 BDF + phụ gia 2P (300ppm) 0,07 3,3 78 17
4 BDF + phụ gia 2P (1000ppm) 0,07 3,3 90 17
5 BDF không phụ gia (Đun nóng
40oC, 10 phút)
0,07 3,4 80 40
Page 49
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
43
Từ bảng 3.9 ta thấy ở nhiệt độ lạnh 170C, dầu petrodiesel thải khí CO cao
nhất (0,14%Vol.), BDF thải ít hơn (0,10%Vol.), thải ít nhất là mẫu BDF có phụ gia
2P (300ppm và 1000ppm) bằng lượng CO do BDF được đun nóng (40oC, 10 phút)
thải ra. Ở nhiệt độ lạnh, 17oC, BDF đốt cháy thải ra CO tương đối cao (0,10%Vol.),
nhưng vẫn ít hơn petrodiesel, là điều dễ hiểu, do độ nhớt của BDF tăng lên, nó cháy
không hoàn toàn trong động cơ. Mẫu BDF (mẫu 5) khi được đun nóng, có độ nhớt
thấp, cháy hoàn toàn trong động cơ, nên thải ra lượng CO rất thấp (0,07%Vol.). Tác
dụng của phụ gia 2P được nhìn thấy rõ ngay ở mẫu 3 (300ppm), đã làm giảm độ
nhớt của BDF xuống đến mức BDF được đốt cháy hoàn toàn, vì thế thải ra lượng
CO cũng thấp nhất (0,07%Vol).
Page 50
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
44
KẾT LUẬN
1. Đã nghiên cứu và xác định được các điều kiện cho phản ứng tổng hợp 6
monome alkyl acrylat từ 5 ancol với axit acrylic:
CH2 CH
COOR
Trong đó R là C10H21-, C12H25-, C14H29-, C16H33-, C18H37- và hỗn hợp các gốc
alkyl của 5 ancol trên. Các điều kiện đó là:
- Nhiệt độ 110oC, thời gian phản ứng: 6 giờ.
- Tỷ lệ mol axit acrylic/ancol = 1,3/1.
- Nồng độ xúc tác axit p-toluensulfonic: 1,4%KL so với ancol,
- Hydroquinon: 1,6%KL so với ancol.
- Dung môi: toluen.
Cấu trúc của các monome alkyl acrylat thu được được khẳng định bằng phổ
hồng ngoại và phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton. .
2. Đã tổng hợp 5 copolyme (1P, 2P, 3P, 4P và 5P) bằng phản ứng đồng trùng
hợp gốc các alkyl acrylat và hỗn hợp của chúng với metylmetacrylat theo các
tỷ lệ khác nhau.
Cấu trúc hóa học cũng như các tính chất về độ nhớt, khối lượng phân tử của
các copolyme thu được đã được nghiên cứu và khẳng định.
3. Đã thử nghiệm khả năng giảm nhiệt độ đông đặc của các loại dầu (dầu bôi
trơn TCT, biodiesel, chất tuyển nổi quặng TQ-VH) bằng các phụ gia
copolyme tổng hợp được.
4. Lần đầu tiên ở Việt Nam đã chế tạo được mẫu phụ gia copolyme 2P với tỷ lệ
thành phần cấu trúc thích hợp, với nồng độ 1000ppm, có thể giảm nhiệt độ
đông đặc dầu bôi trơn TCT đến -2oC, dầu biodiesel đến -1
oC và chất tuyển
nổi quặng TQ-VH đến -5oC.
5. Khả năng giảm độ nhớt dầu biodiesel của phụ gia 2P cũng được gián tiếp
khẳng định bằng kết quả phân tích hàm lượng khí CO thải ra rất thấp từ động
cơ sử dụng biodiessel có phụ gia 2P, nồng độ 300ppm.
Page 51
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lưu Văn Bôi, Nguyễn Thị Sơn (2008), “Tổng hợp các copolime ankyl
acrylat-anhidrit maleic amit hóa làm chất phụ gia gỉam nhiệt độ đông đặc của
dầu thô giàu parafin”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, 24, tr. 187-191.
2. Phạm Ngọc Lân, Lưu Văn Bôi, Trần Thị Bích Hồng, Nguyễn Thị Phương
Thu và Lê Minh Ngân (2011), “Tổng hợp và nghiên cứu tính chất của
copolyme trên cơ sở Alkyl(meth)acrylat và axit acrylic làm phụ gia giảm
nhiệt độ đông đặc cho dầu và mỡ bôi trơn”, Tạp Chí Hóa Học, 49, tr. 440-445
Tiếng Anh
3. Ashbaugh H.S, Fetters L.J, Admson D.H, Prud Home R.K, J. Rheol, (2002) 46,
pp. 763.
4. Barthell E, Capelle A, Chmelir M and Dahman K, Brit. Pat, (1982) 2082604.
5. Chmelir M and Dahman K, Brit. Pat, (1982) 208, pp. 2604.
6. El-Gamal. I.M., Atta. A.M and Sabbagh. A.M, Fuel, (1997) Vo.76, No 14/15,
pp. 1471-1478.
7. Englehardt. F, Rigel. U, Bicker. R, Heier. K. H and Boem. R., Ger. Pat., (1984),
3, pp, 237-308.
8. Ghosh. P, Pantar. AV, Sarma. AS, Chem. J. Tech, (1998), Ind, 5, pp. 371-375.
9. Ghosh . P, Nandi. D, Das. T, Chem . J. Pharm. Res. (2010), “Synthesis and
Characterization and viscosity studies of homopolymer of methylmethacrylate
and its copolymer with styrene and 1-decene”, J. Chem. Pharm. Res., 2(4), pp.
122-133.
10. Hochheiser. M. S, (1986), Rohm and Haas: History of a Chemical Company.
Philadelphia, PA: University of Pennsylvania Press.
Page 52
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
46
11. Kinker. B.G, (2000), “Fluid viscosity and viscosity classification”. In G.
Totten, ed., Handbook of Hydraulic Fluid Technology. New York: Marcel
Dekker, pp. 318–329.
12. Kurata. MT, Sunashima.Y, Polymer Handbook,Wiley, (1999), New York
13. Manka. J. S., Zigler. K. L., (2000), World Oil, pp. 222.
14. Miler . K.D and Parker. L.C, Pat. US., (1974), 3, pp. 853-497.
15. Oh Max, (1996), Publication RM-96 1202, Pour point depressants, a treatise on
performance and selection, Horsham, PA.
16. Pat. U.S, (1927) No. 1,637,475, Davis et al., Aug., 2.
17. Pat. U.S, (1962), No. 3,061,544, Martinek, Oct. 30.
18. Pat. U.S, (1968), No. 3,393,078, Lockhart et al, Jul. 16.
19. Pat. U.S, (1984), No. 4,435,309, House, Mar. 6.
20. Pat. U.S. (1991), No, 5039437, Martella et al.,
21. Pat. U.S, (1992), No.5082,470, Martella et al.
22. Rasha A. El-Ghazawy, Reem K. Farag, (2010), “Synthesis and characterization
of new Depressants based on maleic anhydride- alkyl acrylate Terpolymers”, J.
of Appl. Polym. Sci., Vol.115, pp. 72-78.
23. Subrahamanyam. B, Baruah. S. D, Rahman. M, Das .N. N, Polym . J. (1992),
Sci., Part A: Polymer Chemistry, Vol. 30,pp. 2273-2276.
24. Sheng Han, Yuping Song, Tianhui Ren, (2009), “Impact of alkyl Methacrylate
– Maleic anhydride Copolymers as Pour Point Depressat on Crystallization
Behavior of Diesel Fuel”, Energy & Fuels, 23, pp. 2576-2580.
25. Toho. Chem. Ind. Co., Jpn. Pat., (1981), 81, pp. 120-795.
26. Yen T.F., Chilinaring G.V., (1994), “Asphaltenes and Asphalt”, Elsevier, New
York, Chapter 1, pp. 476-479..
Page 53
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
47
PHỤ LỤC
Page 54
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
48
THÔNG TIN VỀ LUẬN VĂN THẠC SĨ
1. Họ và tên: Trần Thị Bích Hồng
2. Giới tính: Nữ
3. Ngày sinh: 04/11/1981
4. Nơi sinh: Hưng Đông – Thành phố Vinh – Tỉnh Nghệ An
5. Quyết định công nhận học viên cao học theo quyết định số 3568/QĐ-
CTSV ngày 31/12/2009
6. Các thay đổi trong quá trình đào tạo: ( không )
7. Tên đề tài luận văn: Nghiên cứu chế tạo phụ gia giảm nhiệt độ đông
đặc cho dầu mỡ bôi trơn trên cơ sở copolime acrylat
8. Chuyên ngành: Hóa hữu cơ
9. Mã số: 60 44 27
10. Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Ngọc Lân
11. Tóm tắt luận văn:
-Đã nghiên cứu và xác định được các điều kiện cho phản ứng tổng hợp
các monome alkyl acrylat bằng phản ứng este hóa các alkyl ancol có số
nguyên tử cacbon khác nhau với axit acrylic.
-Đã tổng hợp các copolyme bằng phản ứng đồng trùng hợp gốc các
alkyl acrylat và hỗn hợp của chúng với metylmetacrylat.
-Đã thử nghiệm khả năng giảm nhiệt độ đông đặc cấu trúc hóa học
cũng như các tính chất về độ nhớt, khối lượng phân tử của các
copolyme đã được nghiên cứu và khẳng định.ủa các loại dầu (dầu bôi
trơn TCT, biodiesel, chất tuyển nổi quặng VH) bằng các phụ gia
copolyme tổng hợp được. Lần đầu tiên ở Việt Nam đã chế tạo được
mẫu phụ gia copolyme 2P với tỷ lệ thành phần cấu trúc thích hợp, nồng
độ 1000ppm, có thể giảm nhiệt độ đông đặc dầu bôi trơn TCT đến -
2oC, dầu biodiesel đến -1
oC và chất tuyển nổi quặng đến -5
oC.
- Giới thiệu suất sứ, thành phần của dầu bôi trơn, dầu gốc sáp và những
vấn đề khó khăn, thường gặp của dầu gốc sáp khi nhiệt độ môi trường
xuống thấp như: Dầu trở nên quá nhớt không thể chảy dễ dàng hoặc có
Page 55
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
49
thể bị gel hóa kết quả là dầu khó chuyển động hoặc không thể chuyển
động qua hệ thống máy cần được bôi trơn.
- Phương pháp khắc phục hiệu quả hiện tượng trên của dầu bôi trơn ở nhiệt
độ thấp là cho thêm một lượng nhỏ chất phụ gia để cải thiện tính chảy
và chất biến tính tinh thể sáp trong dầu bôi trơn.
- Chất phụ gia là những phân tử polyme (copolyme) dùng để biến tính và
kiểm soát hiện tượng kết tinh của sáp trong dầu.
- Các qui trình để tổng hợp chất phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc và hiệu
suất phản ứng ảnh hưởng như thế nào khi thay đổi các thành phần, cấu
trúc, nhiệt độ phản ứng.
- Đã thử nghiệm chất phụ gia này trên dầu bôi trơn, dầu biodiesel và
hợp chất tuyển nổi quặng đều cho kết quả tốt. Cụ thể làm cho nhiệt độ
đông đặc của dầu bôi trơn giảm từ 15oC xuống -2
oC, của dầu Biodiesel
từ 16oC xuống -3
oC và chất tuyển nổi quặng từ 16
oC xuống -5
oC.
12. Khả năng ứng dụng thực tiễn: Có thể hỗ trợ cho nhiều loại dầu mỡ bôi
trơn của nhiều loại máy móc, có thể được sản suất rộng rãi vì nguyên
vật liệu rẻ, dễ tìm
13. Những hướng nghiên cứu tiếp theo ( không)
14. Các công trình đã công bố có liên quan đến luận văn:
Bài báo “ Tổng hợp và nghiên cứu tính chất của copolime trên cơ sở
ankyl - ( met ) acrylat và axit acrylic làm phụ gia giảm nhiệt độ đông
đặc cho dầu mỡ bôi trơn ”
PGS.TS Phạm Ngọc Lân, PGS. TSKH Lưu Văn Bôi, Trần Thị Bích
Hồng. Tạp chí hóa học ( 2ABC ) – 2011
Ngày 21 tháng 11 năm 2011
Học viên
Trần Thị Bích Hồng
Page 56
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
50
INFORMATION ON MASTER IS THESIS
1. Full name: Tran Thi Bich Hong.
2. Sex: Female.
3. Date of birth: 04 – 11 – 1981
4. Place of birth: Hung Dong – Vinh – Nghe An
5. Admission decision number: 3568/QD – CTSV Date 31 - 12 – 2009
6.Changes in academic process: ( no changes )
7. Official thesis title: Research and manufacture of additives for reducing the
freezing temperature lubricants based on copolime acrylat.
8. Major: Organic Chemistry
9. Code: 60 44 27
10. Supervisors: Prof. Dr. Pham Ngoc Lan
11. Summary of the findings of the thesis:
-Has research and determine the conditions for fusion acrylat alkyl monomers by
esterification reaction of alkyl ancol have different numbers of carbon atoms with
acrylic acid.
-the copolymers were synthesized by co-polymerization reaction of alkyl acrylat
origin and mixtures thereof with metylmetacrylat.
-The chemical structure and properties of viscosity, molecular weight of the
copolymers were investigated and confirmed.
-Have the ability to reduce test freezing temperature of the oil (TCT lubricants,
biodiesel, quality ore flotation VH) by the additive copolymers synthesized. For the
first time in Vietnam have made copolymers form 2P admixture at the rate of
appropriate structural components, the concentration of 1000ppm, can reduce the
freezing temperature lubricants TCT to-2 ° C, oil and biodiesel to-1 ° C and quality
ore flotation to-5oC.
Page 57
Trần Thị Bích Hồng Hóa hữu cơ
51
- Introduce the origin and composition of lubricating oil, wax oil and common
difficulties of wax oil when the ambient temperature is low, such as the oil becomes
too viscous that it can not flow easily or is gelled. As the result, it is difficult for oil
to move or the oil can not move through the system of the machine which needed to
be lubricated.
- The effective method to overcome the above phenomenon of lubricating oil at low
temperature is adding the small amount of additives to improve the flow and
substance which denatures the crystalline wax in the oil.
- The additives are polymer molecules used to denature and control the
phenomenon of crystallization of wax in the oil.
- How are the processes of synthesizing additives to reduce the freezing temperature
and reaction performance influenced when changing the compositions, structure and
reaction temperature?
- Testing the additives upon lubricating oil, bio-diesel oil and compound of ore
floatation was given good results. In detail, it made the freezing temperature of
lubricating oil, bio-diesel oil, and compound of ore floating reduce from 150
C to -20
C, 160C to -3
0 C, 16
0C to -5
0 C respectively.
12. Practical applicability: Can support a variety of lubricants of various types of
machines, production may be largely because the materials are cheap, easy to find
13. Further research directions: ( No)
14. Theis – related publications:
The article "Synthesis and properties of copolime research based ankyl - (meters)
acrylat and acrylic acid as an additive to lower the freezing temperaturelubricants"
Prof. Dr. Pham Ngoc Lan, Prof. Dr. Luu Van Boi, Tran Thi Bich Hong
Journal of Chemical Sciences (2ABC) - 2011
Date: 1 – 12 – 2011
Signature
Full name: Tran Thi Bich Hong