MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN TỚI LAO ĐỘNG VÀ AN SINH XÃ HỘI TRONG CHỐNG ĐẠI DỊCH COVID-19 * Nhóm nghiên cứu, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân ** I. TÌNH HÌNH CHUNG 1.1. Diễn biến đại dịch trong đợt 4 (từ 27/4 đến nay) Tính đến ngày 20/9/2021, tổng số ca nhiễm COVID-19 ở Việt Nam là gần 702 ngàn người. Từ khi bắt đầu đợt dịch thứ tư (từ ngày 27/4/2021) tới ngày 20/9/2021, cả nước đã có thêm hơn 697.000 ca nhiễm, chiếm khoảng 99% tổng số ca của cả nước kể từ khi đại dịch xuất hiện vào ngày 23/1/2020. Tính đến ngày 20/9/2021, chỉ riêng năm tỉnh/thành phố phía Nam là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An và Tiền Giang đã có tổng số ca nhiễm lên tới gần 614,6 ngàn ca (chiếm 87,5% tổng số ca nhiễm của cả nước). Tính tích lũy tới ngày 20/9/2021, tổng số ca tử vong của năm tỉnh/thành phố này đã là 16.359 ca (chiếm 93,4% tổng số ca tử vong trên cả nước). (Hình 1) Để chống sự lây lan nhanh chóng của chủng Delta, từ ngày 19/7/2021 trở lại đây, đã có 19/22 tỉnh/thành phố ở khu vực phía Nam đã áp dụng Chỉ thị 16, trong khi đó một số tỉnh/thành phố khác trên cả nước áp dụng các biện pháp thấp hơn. Khi đại dịch được kiểm soát trong một thời gian nhất định, nhiều tỉnh/thành phố đã nới lỏng các biện pháp chống dịch để đưa cuộc sống trở lại bình thường; trong đó, từ ngày 20/9/2021, có 25 tỉnh đã cho các công sở, trường học, các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh … quay trở lại hoạt động bình thường, trong khi một số tỉnh vẫn tiếp tục thực hiện mở cửa trở lại chậm hơn để tránh dịch bùng phát. Riêng các tỉnh/thành phố như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An… vẫn là những điểm nóng khi chiếm đa số số ca mắc hàng ngày ở mức khoảng 10.000 ca nên vẫn áp dụng những quy định chặt chẽ trong phòng, chống đại dịch ở một số địa bàn. (Hình 2) 1.2. Tình hình lao động – việc làm Trong thời gian thực hiện giãn cách, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất, thậm chí giải thể. Hàng trăm ngàn công nhân, người lao động phải nghỉ việc, giãn việc, làm việc luân phiên do doanh nghi ệp ngừng hoạt động, bị nhiễm COVID-19 nên phải cách ly và điều trị, sống trong khu bị phong tỏa… Ví dụ, theo báo cáo của BQL khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, tính đến ngày 15/9/2021, có 558 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động (với 491.725 lao động) gồm 81 doanh nghiệp da giày; 76 doanh nghiệp dệt; 34 doanh nghiệp * Bài viết chuẩn bị cho tham luận tại Hội thảo của Ủy ban Kinh tế, Quốc hội khóa XV ngày 27/9/2021. ** Nhóm nghiên cứu gồm có: PGS.TS. Phạm Hồng Chương (Hiệu trưởng), PGS.TS. Giang Thanh Long (Giảng viên cao cấp, Khoa Kinh tế học), PGS.TS. Bùi Huy Nhượng (Phó Hiệu trưởng) và PGS.TS. Tô Trung Thành (Trưởng phòng, Phòng quản lý khoa học). Tác giả liên hệ: Giang Thanh Long – [email protected]
15
Embed
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN TỚI NG VÀ AN …
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN TỚI
LAO ĐỘNG VÀ AN SINH XÃ HỘI TRONG CHỐNG ĐẠI DỊCH COVID-19*
Nhóm nghiên cứu, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân**
I. TÌNH HÌNH CHUNG
1.1. Diễn biến đại dịch trong đợt 4 (từ 27/4 đến nay)
Tính đến ngày 20/9/2021, tổng số ca nhiễm COVID-19 ở Việt Nam là gần
702 ngàn người. Từ khi bắt đầu đợt dịch thứ tư (từ ngày 27/4/2021) tới ngày
20/9/2021, cả nước đã có thêm hơn 697.000 ca nhiễm, chiếm khoảng 99% tổng
số ca của cả nước kể từ khi đại dịch xuất hiện vào ngày 23/1/2020. Tính đến ngày
20/9/2021, chỉ riêng năm tỉnh/thành phố phía Nam là TP. Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai, Long An và Tiền Giang đã có tổng số ca nhiễm lên tới gần
614,6 ngàn ca (chiếm 87,5% tổng số ca nhiễm của cả nước). Tính tích lũy tới ngày
20/9/2021, tổng số ca tử vong của năm tỉnh/thành phố này đã là 16.359 ca (chiếm
93,4% tổng số ca tử vong trên cả nước). (Hình 1)
Để chống sự lây lan nhanh chóng của chủng Delta, từ ngày 19/7/2021 trở lại
đây, đã có 19/22 tỉnh/thành phố ở khu vực phía Nam đã áp dụng Chỉ thị 16, trong
khi đó một số tỉnh/thành phố khác trên cả nước áp dụng các biện pháp thấp hơn.
Khi đại dịch được kiểm soát trong một thời gian nhất định, nhiều tỉnh/thành phố
đã nới lỏng các biện pháp chống dịch để đưa cuộc sống trở lại bình thường; trong
đó, từ ngày 20/9/2021, có 25 tỉnh đã cho các công sở, trường học, các cơ sở hoạt
động sản xuất, kinh doanh … quay trở lại hoạt động bình thường, trong khi một
số tỉnh vẫn tiếp tục thực hiện mở cửa trở lại chậm hơn để tránh dịch bùng phát.
Riêng các tỉnh/thành phố như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long
An… vẫn là những điểm nóng khi chiếm đa số số ca mắc hàng ngày ở mức khoảng
10.000 ca nên vẫn áp dụng những quy định chặt chẽ trong phòng, chống đại dịch
ở một số địa bàn. (Hình 2)
1.2. Tình hình lao động – việc làm
Trong thời gian thực hiện giãn cách, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng
hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất, thậm chí giải thể. Hàng trăm ngàn công nhân,
người lao động phải nghỉ việc, giãn việc, làm việc luân phiên do doanh nghiệp
ngừng hoạt động, bị nhiễm COVID-19 nên phải cách ly và điều trị, sống trong
khu bị phong tỏa… Ví dụ, theo báo cáo của BQL khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai,
tính đến ngày 15/9/2021, có 558 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động (với 491.725
lao động) gồm 81 doanh nghiệp da giày; 76 doanh nghiệp dệt; 34 doanh nghiệp
* Bài viết chuẩn bị cho tham luận tại Hội thảo của Ủy ban Kinh tế, Quốc hội khóa XV ngày 27/9/2021. ** Nhóm nghiên cứu gồm có: PGS.TS. Phạm Hồng Chương (Hiệu trưởng), PGS.TS. Giang Thanh Long
(Giảng viên cao cấp, Khoa Kinh tế học), PGS.TS. Bùi Huy Nhượng (Phó Hiệu trưởng) và PGS.TS. Tô Trung Thành (Trưởng phòng, Phòng quản lý khoa học). Tác giả liên hệ: Giang Thanh Long – [email protected]
2
may mặc; 57 doanh nghiệp cơ khí; 47 doanh nghiệp chế biến gỗ; 40 doanh nghiệp
điện-điện tử; và 275 doanh nghiệp có dưới 100 lao động. Báo cáo của Sở Công
thương tỉnh Bình Dương cho biết, tính đến ngày 15/9/2021, có 284 doanh nghiệp
với 80.657 lao động vẫn tạm ngừng sản xuất và chưa khởi động lại do có ca nhiễm.
Thông tin của UBND tỉnh Tiền Giang cho biết, tính đến ngày 15/9/2021, chỉ có
12 doanh nghiệp với 3.013 lao động (chiếm tương ứng 6% tổng số doanh nghiệp
và chưa tới 3% tổng số lao động trong khu công nghiệp của tỉnh) đang hoạt động
theo phương thức “ba tại chỗ”. Phần lớn trong số 19 tỉnh phía Nam có chỉ số sử
dụng lao động vào tháng 8/2021 thấp hơn tháng 7/2021 và rất thấp so với cùng kỳ
(8/2020). (Bảng 1)
Theo báo cáo tình hình lao động - việc làm của Tổng cục Thống kê (2021),
lực lượng lao động trong quý II/2021 giảm so với quý IV/2020 và tăng không
đáng kể so với quý I/2021 trong quý II/2021 (Hình 3). Báo cáo này cũng chỉ ra
rằng có tới 12,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên tiếp tục bị ảnh hưởng tiêu cực bởi
COVID-19. Đặc biệt, làn sóng đại dịch lần thứ 4 đã tác động nghiêm trọng hơn
tới người lao động: 0,5 triệu người mất việc làm; 4,1 triệu người tạm nghỉ/tạm
dừng sản xuất kinh doanh; 4,3 triệu người giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân
phiên và có 8,5 triệu người bị giảm thu nhập. Tỷ lệ lao động phi chính thức trong
quý II/2021 là 57,4%, cao nhất trong ba năm gần đây (Hình 4). Tỷ lệ thất nghiệp
của quý II/2021 là 2,6%, trong đó tới 48% người thất nghiệp là do tác động của
đại dịch. Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên (15-24 tuổi) là gần 7,5% và tỷ lệ thanh niên
không có việc làm và không tham gia đào tạo lên tới 16,7%. Tình hình đại dịch
vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt ở các tỉnh phía Nam, nơi tập trung
trên 60% doanh nghiệp dệt may, da giày, chế biến gỗ… là những ngành thâm
dụng lao động, nên việc phong tỏa, giãn cách xã hội khiến nhiều doanh nghiệp
tiếp tục phải tạm ngừng, hạn chế hoạt động và vì thế mà số công nhân, người lao
động bị tác động tiêu cực không ngừng tăng lên. Một số địa phương cho phép
doanh nghiệp tiếp tục sản xuất, kinh doanh nếu thực hiện đúng “ba tại chỗ” (ăn,
ngủ, làm việc tại doanh nghiệp), “một cung đường – hai địa điểm” (cung đường
đi lại giữa nơi làm việc và nơi ở tập trung của người lao động do doanh nghiệp bố
trí bên ngoài phạm vi nhà máy). Tuy nhiên, việc phục hồi sản xuất, đặc biệt là ở
các doanh nghiệp thâm dụng lao động, còn chậm nên còn rất nhiều thách thức
trong thực hiện “mục tiêu kép”.
1.3. Chính sách an sinh xã hội
Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp, người lao động và người dân nói chung. Các tỉnh/thành phố đã triển
khai Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg
ngày 7/7/2021 với 12 chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động
gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Đặc biệt, gói hỗ trợ lần thứ hai theo Nghị
quyết 68/NQ-CP được thiết kế với mục tiêu kép, đó là tập trung hỗ trợ phát triển
kinh tế trong điều kiện bình thường mới cùng lúc với đảm bảo an sinh xã hội cho
3
các đối tượng yếu thế (như gói hỗ trợ lần thứ nhất theo Nghị quyết số 42/NQ-CP
ngày 09/4/2020). Nội dung gói hỗ trợ hướng đến phục hồi sản xuất, kinh doanh,
giảm thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch, ổn định sản xuất, kinh doanh
(như giảm đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tạm dừng đóng vào
quỹ hưu trí, tử tuất; hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động; cho doanh
nghiệp vay để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất…). Tính cho tới
ngày 20/9/2021, có khoảng 50 chính sách khác nhau được ban hành để cụ thể hóa
việc thực hiện gói hỗ trợ này.
Bảng 2 so sánh nội dung của gói hỗ trợ lần thứ hai (Nghị quyết số 68/NQ-
CP ngày 1/7/2021) so với gói hỗ trợ lần thứ nhất (Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày
09/4/2020). Các chính sách hỗ trợ của gói hỗ trợ thứ hai đa dạng và thiết thực; cụ
thể, so với gói hỗ trợ thứ nhất: (i) có thêm 5 chính sách mới nhằm hỗ trợ doanh
nghiệp và người lao động chịu ảnh hưởng của COVID-19, hướng đến phục hồi
sau đại dịch; (ii) có các chính sách ưu tiên hỗ trợ bổ sung cho người lao động
mang thai, nuôi con nhỏ dưới 6 tuổi và tre em và hỗ trợ tiền ăn cho đối tượng F0
và F1; và (iii) các chính sách hỗ trợ đã bao phủ gần như toàn bộ lao động khu vực
chính thức.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH
2.1. Về thực hiện các quy định giãn cách và tác động đến người lao động
Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn,
nhiều lao động, khi thực hiện “ba tại chỗ” và “một cung đường – hai địa điểm” đã
gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện vật chất đáp ứng “ăn” và “nghỉ” không được
thiết kế từ đầu; việc kéo dài thời gian lao động “ba tại chỗ” ảnh hưởng lớn tới đời
sống tâm lý, sức khỏe của người lao động, nhất là lao động có bố mẹ già, con
nhỏ… Đã có lao động chấp nhận bỏ việc thay vì làm việc theo cách này. Chưa kể,
do khác nhau về đặc thù hàng hóa, cách thức sản xuất nên việc thực hiện các hoạt
động này với các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau và gây ra không ít tốn
kém (như xét nghiệm hàng tuần cho hàng trăm/ngàn công nhân, di chuyển lao
động, phải tăng trợ cấp bữa ăn hàng ngày và các ưu đãi khác để khuyến khích
công nhân, người lao động ở lại…).
Điều kiện sinh hoạt, môi trường lao động của người lao động cũng bị ảnh
hưởng khi thực hiện “ba tại chỗ”, “một cung đường, hai địa điểm” dẫn đến nguy
cơ không đảm bảo các yêu cầu của khách hàng về an toàn vệ sinh lao động, khiến
các nhà máy có nguy cơ bị khách hàng yêu cầu đánh giá lại về tính tuân thủ và
điều kiện làm việc cho người lao động.
Để tránh đứt gãy chuỗi cung ứng, đảm bảo giao hàng kịp thời, đúng thời gian
theo hợp đồng với đối tác, nhiều doanh nghiệp đứng trước sức ép phải tăng giờ
làm cho số lao động tự nguyện hoặc đủ điều kiện sức khỏe (với số lượng ít hơn
nhiều số lượng khi chưa có đại dịch hoặc đại dịch không nghiêm trọng như hiện
nay) và có nguy cơ vi phạm số giờ tăng ca theo quy định của Bộ luật Lao động
4
(số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng; không quá
300h/năm).
Việc thực hiện “một cung đường – hai địa điểm” để vận chuyển lao động
hoặc cho phép lao động di chuyển cũng gặp không ít khó khăn do các quy định
chặt chẽ về lưu thông liên tỉnh/thành phố.
2.2. Về thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho người lao động
Việc thực thi các chính sách an sinh xã hội cho người lao động còn nhiều
hạn chế, bất cập và chưa kịp thời với một số đối tượng.
Về đối tượng thụ hưởng
Điều kiện người lao động có thể nhận hỗ trợ là phải có biên bản thỏa thuận
về việc dừng, tạm hoãn hợp đồng lao động, doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt
động theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, quyết toán BHXH
của doanh nghiệp; hướng dẫn viên du lịch phải có chứng chỉ hành nghề; lao động
tự do phải có đăng ký tạm trú, xác nhận chưa nhận hỗ trợ tại quê quán… Tuy
nhiên, do phải tuân thủ giãn cách để phòng, chống đại dịch nên nhiều người lao
động và người sử dụng lao động không kịp chuẩn bị các giấy tờ cần thiết cũng
như hoàn thành các minh chứng cho hoàn cảnh (như mang thai, nuôi con nhỏ dưới
6 tuổi…) qua công chứng hoặc chính quyền sở tại theo quy định tại Điều 15 của
Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg nên họ không có khả năng tiếp cận đến các chính
sách hỗ trợ hoặc mất nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện hồ sơ xin hỗ trợ
kịp thời.
Nhiều người lao động mắc bệnh COVID-19 phải nghỉ làm việc và tự cách ly
sau khi có kết quả âm tính. Thời gian điều trị và nghỉ cách ly chính là thời gian
nghỉ ốm. Tuy nhiên, không phải tất cả lao động tham gia BHXH đều được chi trả
trợ cấp mất giảm thu nhập do ốm đau trong trường hợp này, trong đó có nguyên
nhân là do không thể hoàn thiện hồ sơ liên quan khi thực hiện giãn cách theo Chỉ
thị 16.
Điều kiện hộ kinh doanh nhận được hỗ trợ là phải có đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, trên thực tế thì rất nhiều hộ kinh doanh lao đao vì đại dịch và cần hỗ
trợ nhưng lại không tiếp cận được vì họ không đăng ký kinh doanh.
Nhiều lao động chưa tham gia BHXH đầy đủ hoặc có tham gia nhưng doanh
nghiệp vẫn nợ đóng BHXH nên khi bị hoãn hợp đồng lao động hay nghỉ việc
không lương thì không được coi là đối tượng hỗ trợ của Nghị quyết 68 và Quyết
định 23.
Các chính sách trong Nghị quyết số 68/NQ-CP đã bỏ sót một nhóm lao động
có giao kết hợp đồng lao động, tham gia đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội trong
cơ sở kinh doanh vì Quyết định 23/2021/QĐ-TTg không quy định đối tượng làm
việc trong các hộ kinh doanh cá thể. Cùng lúc đó, nhiều lao động không ký kết
hợp đồng lao động và không tham gia BHXH (hay còn gọi là lao động phi chính
5
thức, tự do) đã hoàn toàn mất sinh kế khi các tỉnh/thành phố thực hiện Chỉ thị 16/
16+ nhưng họ không là đối tượng trong các quy định hỗ trợ hiện nay. Số liệu Điều
tra lao động-việc làm quý II/2021 của Tổng cục Thống kê cho thấy, có tới 57,4%
lao động có việc làm phi chính thức (tương đương với 20,9 triệu người). Những
diễn biến khó lường của đại dịch đã làm mất cơ hội có việc làm của 1,8 triệu lao
động và đẩy 1,4 triệu lao động khác rơi vào trạng thái dễ bị tổn thương do không
có việc làm chính thức. Đặc biệt, khoảng 25-30% lao động ở TP.Hồ Chí Minh,
Đồng Nai và Bình Dương, khoảng 50% lao động ở Đồng Tháp, Bến Tre… là lao
động phi chính thức. Theo vùng kinh tế - xã hội, vùng có số lượng người di cư
đến nhiều nhất là Đông Nam Bộ, hiện chiếm gần một nửa trong tổng số người di
cư 15 tuổi trở lên (47,8%), trong đó, riêng TP. Hồ Chí Minh có gần 280.000 người
(chiếm 32% tổng số người di cư) và phần lớn đều là lao động phi chính thức. Mất
sinh kế và không được trợ giúp kịp thời về điều kiện sống tối thiểu sẽ gây nguy
cơ lớn trong việc không thực hiện giãn cách xã hội, mang lại những bất ổn tiềm
ẩn về xã hội.
Mặc dù công tác tổ chức thực hiện đã áp dụng công nghệ thông tin để thống
kê số lượng đối tượng, kinh phí phê duyệt, kinh phí chi trả… nhưng trên thực tế thì
không ít địa phương vẫn lập danh sách đối tượng thụ hưởng một cách thủ công qua
hệ thống nhân lực từ cấp tổ dân phố, cấp phường, quận tổng hợp nên việc bỏ sót
đối tượng hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt là đối tượng lao động di cư, làm tự do.
Về mức hưởng và thời gian hưởng
Các mức hỗ trợ của cả hai gói đều thấp và không đáp ứng mức sống tối thiểu.
Mức phổ biến cho lao động có hợp đồng là 3.710.000 đồng/người; đối với chủ hộ
kinh doanh cá thể là 3.000.000 đồng/hộ; đối với lao động không có giao kết hợp
đồng lao động mức hỗ trợ là 50.000 đồng/người/ngày (hay 1.500.000
đồng/người/tháng) thực sự không đáp ứng mức sống tối thiểu hoặc thấp hơn tiền
lương tối thiểu theo quy định của Nhà nước.
Quan trọng hơn, phần lớn các chính sách chỉ hỗ trợ một lần, tính linh hoạt
và kịp thời chưa cao khi trong bối cảnh dịch bệnh kéo dài và diễn biến phức tạp.
Quy định “một đối tượng chỉ hưởng một lần trong một chính sách hỗ trợ” với mức
hưởng thấp có thể khiến cho sự phù hợp của mức hưởng (hay sức mua của mức
hỗ trợ) giảm đi khi thời gian giãn cách kéo dài và nguy cơ lạm phát do hàng hóa
khan hiếm. Báo cáo của CAF (2021) cho thấy, người lao động di cư đã không còn
khả năng chống chịu sau khi TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam tăng cường
thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 từ ngày 09/7/2021 đến nay và có thể dự
kiến tiếp tục giãn cách xã hội. Kết quả khảo sát online về thời gian bị mất việc
làm của người lao động do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV)
thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ với
hơn 69 nghìn người (đến từ khối cơ quan nhà nước, cơ quan sự nghiệp, doanh
nghiệp và lao động tự do) cho thấy, trong số hơn 42.700 người bị mất việc làm thì
19% là người mất việc dưới 1 tháng; 50% bị mất việc từ 1- 3 tháng và 15% bị mất
6
việc trên 6 tháng. Gần 50% số người lao động bị mất việc có nguồn tiền tích lũy
chỉ đủ để đảm bảo cho cuộc sống dưới 1 tháng; 37% người lao động bị mất việc
chỉ đủ đảm bảo cho cuộc sống dưới 3 tháng; 8,6% người lao động bị mất việc chỉ
đủ đảm bảo cho cuộc sống dưới 6 tháng là 8,6%; và chỉ có 4,4% số người lao
động đã mất việc làm có nguồn tiền tích lũy đủ đảm bảo cho cuộc sống trên 6
tháng (Chu Thanh Vân 2021).
Về nguồn tài chính thực hiện chính sách
Do không có hướng dẫn khung về định mức hỗ trợ nên việc hỗ trợ người lao
động yếu thế ở các địa bàn khác nhau sẽ rất khác nhau vì nó phụ thuộc vào năng
lực tài chính của các địa phương và điều này có thể gây ra rào cản tiếp cận chính
sách khi người lao động di chuyển từ địa bàn này sang địa bàn khác. Đặc biệt,
việc hỗ trợ người lao động lao động tự do (hay không có hợp đồng lao động),
nhóm lao động chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động ở nhiều tỉnh/thành phố
(Hình 5), đang để mở và phụ thuộc vào điều kiện cụ thể và khả năng ngân sách
của địa phương nên có thể tạo ra gánh nặng lớn cho các tỉnh nghèo (có ngân sách
eo hẹp) và làm cho tính khả thi và kịp thời của chính sách này có thể không cao.
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Duy trì hoạt động sản xuất cần được coi là chủ trương thống nhất, xuyên suốt
từ Trung ương đến địa phương, là giải pháp duy trì nền kinh tế và sau đó là phục
hồi nền kinh tế khi đại dịch được kiểm soát tốt hơn. Duy trì sản xuất cũng là để
đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động và gia đình, giảm bớt gánh nặng
về an sinh xã hội cho các địa phương. Tuy nhiên, việc duy trì sản xuất phải gắn
liền với đảm bảo các điều kiện, yêu cầu về phòng chống đại dịch, an toàn và sức
khoe của người lao động và gia đình. Nói cách khác, thực hiện các chính sách an
sinh xã hội chủ động với vai trò là cầu nối giữa duy trì sản xuất với phòng, chống
đại dịch là cách tiếp cận bền vững về cả kinh tế-xã hội và y tế. Trong bối cảnh
hiện nay và từ kinh nghiệm và hậu quả thấy rõ từ đợt dịch thứ tư, mục tiêu “Zero
COVID-19” đã chuyển sang “sống chung với COVID-19” và vì thế mà các chính
sách, trong đó có chính sách an sinh cho người lao động và những nhóm yếu thế,
cần phải có sự thay đổi.
Thứ nhất, Chính phủ cần yêu cầu các địa phương khi thành lập Tổ tư vấn
phục hồi kinh tế hoặc Tổ chống đại dịch thì phải có sự tham gia đại diện của các
doanh nghiệp chủ chốt trên địa bàn để có thể có thông tin chính xác, kịp thời về
các hoạt động/khả năng đáp ứng của doanh nghiệp để từ đó điều chỉnh chính sách
kịp thời với tình hình thực tế. Đặc biệt, các địa phương cần báo cáo với Chính phủ
hoặc Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng chính phủ cũng như phối hợp với các
tỉnh/thành phố khác lên kế hoạch ứng phó kịp thời khi tiến hành phong tỏa diện
rộng trên địa bàn, đặc biệt hoạt động phong tỏa có ảnh hưởng tới doanh nghiệp,
người lao động và người dân trên địa bàn tỉnh/thành phố.
7
Thứ hai, xem xét nâng mức hỗ trợ cho người lao động bị mất việc làm khi
giãn cách xã hội kéo dài. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2021), mức hỗ
trợ trung bình của mỗi đối tượng hỗ trợ (chuẩn hóa theo GDP bình quân đầu
người) ở Việt Nam cao hơn so với tất cả các quốc gia khác trong khu vực (trừ
Mông Cổ và Thái Lan) nhưng các khoản trợ giúp xã hội cho lao động mất việc
làm và trợ cấp tiền lương còn khiêm tốn so với mức thu nhập của họ: mức hỗ trợ
cố định 1 triệu đồng đối với lao động mất việc làm và 1,8 triệu đồng đối với trợ
cấp tiền lương chỉ chiếm tương ứng 17% và 30% mức thu nhập bình quân hàng
tháng ở Việt Nam trong Quý II/2020. Mức trợ cấp thất nghiệp cao hơn với mức
trợ cấp bình quân hàng tháng là 3 triệu đồng/người. Trợ cấp tiền lương được hỗ
trợ ở mức cố định, không xem xét mức lương của người được hưởng, trong khi
các khoản vay chỉ được tối đa 50% tiền lương tối thiểu vùng đối với từng người
lao động.
Thứ ba, cần xem xét tiếp tục hỗ trợ các nhóm đối tượng trợ giúp xã hội vì
phạm vi hỗ trợ trong gói thứ hai không còn hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối
tượng bảo trợ xã hội (mà chủ yếu là người cao tuổi, người khuyết tật, tre em). Vì
đây là những nhóm yếu thế nhất do ít có khả năng tự ứng phó trước các cú sốc
đặc biệt nghiêm trọng và dài hạn như COVID-19. Nghiên cứu gần đây của Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB 2021) cho thấy, với tác động của COVID-19 tới
thu nhập của hộ gia đình, các nhóm người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu
số, người sống ở nông thôn và người cao tuổi là những người có nguy cơ bị nghèo
hóa nhiều hơn những nhóm tương ứng. Cũng như thế, khảo sát của Viện Nghiên
cứu Y-Xã hội học và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (ISMS & UNDP
2020) cho thấy, việc thực hiện giãn cách và đóng cửa biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc đã khiến cho nhiều hộ gia đình sống dọc biên giới hai nước bị mất
sinh kế và những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất là người cao tuổi, tre em trong
các hộ gia đình này. Vì thế, những nhóm dân số này cần là đối tượng ưu tiên hàng
đầu để bảo đảm mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Thứ tư, việc xác định lao động tự do bị mất việc là đối tượng hỗ trợ là hết
sức đúng đắn. Tuy nhiên, đây là đối tượng rất khó xác định hoặc thiếu căn cứ để
xác định nên nhiều người không tiếp cận được với chính sách, dẫn đến xác định
nhầm hoặc bỏ sót. Vì thế, ngoài việc tăng cường rà soát ở địa phương thì cần tăng
cường sử dụng mã số định danh cá nhân (qua the căn cước công dân) để người
dân tự đăng ký nhận gói an sinh qua các ứng dụng công nghệ phổ biến để vừa xác
định đúng đối tượng vừa thực hiện giãn cách xã hội hiệu quả. Kinh nghiệm của
Thái Lan, Ấn Độ cho thấy, việc tự đăng ký sẽ giảm gánh nặng cho chính quyền
địa phương cũng như cơ quan lao động - xã hội trong việc xác nhận đối tượng và
tránh tính trùng, bỏ sót (ví dụ: ở Thái Lan, chỉ trong một tuần đã có 28 triệu đăng
ký và chỉ còn 14 triệu đăng ký hợp lệ sau khi đã loại bỏ tính trùng do đã nhận các
chương trình an sinh khác và chỉ trong ba ngày là người dân nhận được tiền qua
tài khoản).
8
Thứ năm, các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động
đã được mở rộng (như giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động; cho vay trả lương phục
hồi sản xuất kinh doanh…) và rất thiết thực trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đang
phải chịu nhiều chi phí cho việc vừa chống dịch vừa duy trì sản xuất cũng như
chống nguy cơ thiếu hụt lao động sau khi đại dịch được kiểm soát (vì người lao
động có thể di chuyển đi nơi khác, tìm kiếm công việc khác). Để giảm gánh nặng
cho doanh nghiệp cũng như vẫn đảm bảo quyền an sinh của người lao động, cần
cân nhắc giảm mức đóng hơn là tạm dừng hoặc đóng chậm vì việc phục hồi sản
xuất cần có thời gian trong khi gánh nặng đóng vẫn như cũ nếu chỉ tạm dừng hoặc
đóng chậm.
Thứ sáu, tăng cường việc chăm lo sức khỏe tinh thần và theo dõi sức khỏe
thể chất cho người lao động. Cần xem xét triển khai hỗ trợ tư vấn tâm lý cho lao
động đang thực hiện “ba tại chỗ” tại các doanh nghiệp qua hệ thống công tác xã
hội ở địa phương và trong hệ thống y tế. Cùng lúc đó, đẩy mạnh hoạt động tư vấn,
chăm sóc tại nhà cho người dân có nguy cơ hoặc bị nhiễm COVID-19. Triển khai
rộng hơn, hiệu quả hơn mạng lưới bác sỹ gia đình, đặc biệt tại những tỉnh/thành
phố có tình trạng đại dịch căng thẳng như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương… Cần
tăng cường hoạt động khám và tư vấn chữa bệnh qua Telehealth cho người dân
nói chung và S-Health cho người cao tuổi nói riêng.
Thứ bảy, sử dụng quyền mà Quốc hội trao cho Chính phủ trong xử lý tình
trạng khẩn cấp để tạm thời sử dụng các quỹ an sinh xã hội đang kết dư (như Quỹ
bảo hiểm thất nghiệp; Quỹ khám, chữa bệnh…) để hỗ trợ các đối tượng cần. Chỉ
đạo các Bộ, ngành liên quan (đặc biệt là Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội, Bộ Tài chính, cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam) triển khai các chính
sách tới đúng đối tượng và đủ mức hỗ trợ. Ví dụ: Quỹ bảo hiểm thất nghiệp để
dùng hỗ trợ người lao động mất việc làm hoặc bị giãn, dừng việc làm cũng như
hỗ trợ doanh nghiệp tạo việc làm. Đề xuất sử dụng Quỹ công đoàn hỗ trợ người
lao động có chỗ ăn, ở an toàn khi tiếp tục tham gia sản xuất trong điều kiện “ba
tại chỗ” và tùy theo sự phục hồi của các doanh nghiệp thì xem xét tiếp tục lùi thời
điểm đóng kinh phí công đoàn cho các doanh nghiệp khó khăn do COVID-19 sau
cả thời điểm 31/12/2021 như đã đề nghị trong Công văn 2059/TLĐ ngày
28/5/2021 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
9
Tài liệu tham khảo
- Asian Development Bank (ADB). 2021. An ex-ante assessment on
poverty and social assistance benefits in Vietnam under the COVID-19
(monograph).
- Cục Công nghiệp, Bộ Công thương. 2021. Báo cáo tình hình sản xuất công
nghiệp 8 tháng đầu năm 2021.
- Chu Thanh Vân. 2021. Người lao động trong bối cảnh đại dịch COVID-
19: Bài 2 - Cần sự hỗ trợ từ nhiều phía. Xem bài ngày 15/9/2021 tại