MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HUYỀN THOẠI GIÁNG SINH Charlie Nguyễn Trải qua 20 thế kỷ, tất cả những gì chúng ta biết về con ngƣời Jesus – đƣợc mệnh danh là Chúa Cứu Thế hoặc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời – đều do 4 cuốn sách mỏng đƣợc viết bằng tiếng Hy Lạp trong thế kỷ I gọi là Phúc Âm (Gospels = Tin Mừng). Nhƣng trong số 4 cuốn sách đó thì chỉ có hai cuốn của Matthew và của Luke viết về sự ra đời của Jesus mà thôi. Sách của Matthew đƣợc viết vào đầu thập niên 80, sách của Luke đƣợc viết sau đó khoảng 10 năm. Nhƣ vậy, cả hai sách Phúc Âm viết về sinh nhật của Jesus đều đã đƣợc viết ra sau khi Jesus đã sinh ra 80 – 90 năm. Điều đó cho thấy các sự kiện liên quan đến sự ra đời của Jesus đều đã do các tác giả Phúc âm bịa đặt hoặc chỉ ghi lại theo các lời tuyền khẩu vô căn cứ mà thôi. Điều đáng chú ý là cả hai sách Phúc âm này đã đƣa ra những chi tiết về năm sinh, nơi sinh của Jesus và các sự kiện liên hệ mâu thuẫn nhau, nhƣng ngƣời ta đã tổng hợp tất cả các mâu thuẫn đó để tạo nên huyền thoại Giáng Sinh nhƣ ta thấy hiện nay. Hàng năm, trong phần lớn các nƣớc Âu Mỹ, ngƣời ta kỷ niệm "Mùa Giáng Sinh" trong 40 ngày, kéo dài từ 20 ngày trƣớc đến 20 ngày sau 25 tháng 12. Họ thƣờng bày cây thông trong nhà, làm giả hang đá Bethlehem bằng giấy bồi và đặt ở trong đó bộ tƣợng Sinh Nhật gồm có máng cỏ với Chúa Hài Đồng, bà Maria và ông Joseph chắp tay quì lạy đứa con mới sinh của mình. Sát cạnh hang đá có vài con bò và lừa đang hà hơi sƣởi ấm cho Chúa. Ngoài cửa hang đá lấp ló 3 ông vua phƣơng Đông đến thờ lạy Ngài. Trên không trung lúc ấy có nhiều thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dƣới thế cho ngƣời thiện tâm"... Đó là đại cƣơng về những hoạt cảnh thƣờng thấy trong dịp lễ Giáng Sinh của Chúa Ki-tô (Christmas). Chúa theo niềm tin của ngƣời Công giáo chính là vị Thƣợng đế đã tạo dựng vũ trụ, nhƣng vì quá thƣơng loài ngƣời nên Ngài đã hạ mình xuống thế mặc xác phàm để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Có thể coi những điều này là bản tóm tắt về "Niềm tin Ki-tô" (Christian faith).
138
Embed
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HUYỀN THOẠI GIÁNG»˜T SỐ VẤN ĐỀ VỀ HUYỀN THOẠI GIÁNG... · dụng nhất thế giới, nhƣng trong thực tế thì đa số dân
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
HUYỀN THOẠI GIÁNG
SINH
Charlie Nguyễn
Trải qua 20 thế kỷ, tất cả những gì chúng ta biết về con ngƣời Jesus – đƣợc
mệnh danh là Chúa Cứu Thế hoặc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời –
đều do 4 cuốn sách mỏng đƣợc viết bằng tiếng Hy Lạp trong thế kỷ I gọi là
Phúc Âm (Gospels = Tin Mừng). Nhƣng trong số 4 cuốn sách đó thì chỉ có hai
cuốn của Matthew và của Luke viết về sự ra đời của Jesus mà thôi. Sách của
Matthew đƣợc viết vào đầu thập niên 80, sách của Luke đƣợc viết sau đó
khoảng 10 năm. Nhƣ vậy, cả hai sách Phúc Âm viết về sinh nhật của Jesus đều
đã đƣợc viết ra sau khi Jesus đã sinh ra 80 – 90 năm. Điều đó cho thấy các sự
kiện liên quan đến sự ra đời của Jesus đều đã do các tác giả Phúc âm bịa đặt
hoặc chỉ ghi lại theo các lời tuyền khẩu vô căn cứ mà thôi. Điều đáng chú ý là
cả hai sách Phúc âm này đã đƣa ra những chi tiết về năm sinh, nơi sinh của
Jesus và các sự kiện liên hệ mâu thuẫn nhau, nhƣng ngƣời ta đã tổng hợp tất cả
các mâu thuẫn đó để tạo nên huyền thoại Giáng Sinh nhƣ ta thấy hiện nay.
Hàng năm, trong phần lớn các nƣớc Âu Mỹ, ngƣời ta kỷ niệm "Mùa Giáng
Sinh" trong 40 ngày, kéo dài từ 20 ngày trƣớc đến 20 ngày sau 25 tháng 12. Họ
thƣờng bày cây thông trong nhà, làm giả hang đá Bethlehem bằng giấy bồi và
đặt ở trong đó bộ tƣợng Sinh Nhật gồm có máng cỏ với Chúa Hài Đồng, bà
Maria và ông Joseph chắp tay quì lạy đứa con mới sinh của mình. Sát cạnh hang
đá có vài con bò và lừa đang hà hơi sƣởi ấm cho Chúa. Ngoài cửa hang đá lấp ló
3 ông vua phƣơng Đông đến thờ lạy Ngài. Trên không trung lúc ấy có nhiều
thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dƣới thế cho ngƣời
thiện tâm"...
Đó là đại cƣơng về những hoạt cảnh thƣờng thấy trong dịp lễ Giáng Sinh của
Chúa Ki-tô (Christmas). Chúa theo niềm tin của ngƣời Công giáo chính là vị
Thƣợng đế đã tạo dựng vũ trụ, nhƣng vì quá thƣơng loài ngƣời nên Ngài đã hạ
mình xuống thế mặc xác phàm để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Có thể coi những
điều này là bản tóm tắt về "Niềm tin Ki-tô" (Christian faith).
Vào đầu thế kỷ 20, thi sĩ Anh giáo Sir John Betjeman đã làm bài thơ
"Christmas", trong đó có những câu nói lên nỗi thắc mắc của ông đối với niềm
tin truyền thống này:
And is it true? And is it true?
This most tremendous tale of all
Seen in a stained – glass window‟s hue
A baby in an ox‟s stall
The Maker of stars anh sea
Become a child on earth for me?
(The Oxford Book of prayer)
Xin tạm dịch:
Có thật không? Có thật không?
Đây là chuyện đáng sợ vô cùng
Tôi thấy hình trên kính cửa nhà chung.
Một chú bé trong chuồng bò máng cỏ
Là ngƣời sinh ra sao trên trời và biển cả mênh mông
Chú nhóc cũng chuộc tội tổ tông cho tôi hả?
Các tín đồ Ki-tô giáo trong đế quốc La mã bắt đầu làm lễ kỷ niệm Sinh Nhật
của Chúa từ năm 336 do lệnh của hoàng đế Constantine. Hoàng đế đã thống
nhất các giáo phái Ki-tô thời đó để lập ra đạo Công giaó nhƣng chính hoàng đế
không tin đạo. Bản thân hoàng đế là giáo chủ của Đa Thần Giáo La mã (Roman
Paganism). Ông ấn định ngày lễ Noel là 25 tháng 12 vì ngày này là ngày mừng
Sinh nhật Thần Mặt Trời Vạn Thắng của Đa Thần Giáo La mã.
Ngày nay, các tín đồ Ki-tô (Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo) kỷ niệm
sinh nhật của Chúa Jesus thực chất là kỷ niệm sinh nhật thần Mặt Trời Vạn
Thắng của Đa Thần Giáo La mã (The Explorer‟s Guide to Chiristianity – by
Marcus Braybrooke – London 1998 - p. 36).
Qua hơn một ngàn năm sống dƣới ách thống trị của đế quốc La mã và đế quốc
Vatican, hầu hết dân chúng các nƣớc Âu châu đã mặc nhiên chấp nhận những
ngày lễ của Ki-tô Giáo nhƣ những tục lệ xã hội. Từ đầu thế kỷ 16 đến đầu thế
kỷ 20, Âu châu bành trƣớng thế lực ra khắp thế giới qua chủ nghĩa thực dân đế
quốc. Ảnh hƣởng văn hóa của họ cũng nhờ đó đã chiếm đƣợc một địa vị trên thế
giới. Dù tin hay không tin Jesus, hiện nay hầu hết các dân tộc trên thế giới đều
xử dụng Dƣơng lịch đƣợc san định bởi tu sĩ Công giaó Dionysius Exiguus vào
thế kỷ 6. Năm sinh của Jesus là cái mốc của Dƣơng lịch. Năm 2000 đã đƣợc cả
thế giới tƣng bừng đón chào nhƣ buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba. Tất
nhiên đó chỉ là một điều qui ƣớc. Nói đúng hơn thì đó chỉ là một hành vi bá
quyền văn hóa của Tây phƣơng (a function of Western cultural hegemony).
Nhân dịp lễ Noel năm nay, chúng ta thử đem ra bàn luận một số vấn đề liên
quan đến thân thế của Jesus. Vấn đề ngôi sao lạ xuất hiện trong đêm Noel đầu
tiên có thật không? Đa số dân Mỹ hiện nay nghĩ gì về Noel? Những biểu tƣợng
về lễ Noel từ xƣa đến nay đã biến chuyển nhƣ thế nào?
Về thân thế của Jusus, hai vấn đền đƣợc nêu lên là Jesus đã thật sự sinh ra năm
nào và tại đâu.
Theo phúc âm của Matthew thì Jesus sinh ra hai năm trƣớc khi vua Herod qua
đời (Matt 2:15). Sử sách Do Thái ghi nhận vua Herod băng hà năm 4 TCN. Nhƣ
vậy, Jesus đã sinh ra năm 6 trƣớc Công Nguyên. Trái lại, Phúc âm của Luke
viết: Jusus đã sinh vào năm có cuộc điều tra dân số và đúng vào thời Qurinius
làm quan toàn quyền ở xứ Syria (Luke 2:2). Sử gia Do Thái sống trong thế kỷ I
là Josephus đã ghi nhận hai sự kiện nêu trên xảy ra năm thứ 7 sau Công
Nguyên. Hai sách Phúc âm đƣa ra hai năm sinh khác nhau của Chúa cách nhau
13 năm. Vì thế ngày nay chúng ta không thể nào quyết đoán đƣợc năm sinh thật
của Ngài. Do đó, năm 2001 không có nghĩa là năm Jesus 2001 tuổi!
Vấn đề thứ hai về thân thế là Jesus đã sinh ra tại đâu? Matthew viết: Chúa đã
đƣợc sinh ra trong nhà (in the house). Ngôi sao lạ đã dẫn đƣờng cho ba vua
phƣơng Đông đến thờ lạy Ngài tại căn nhà này ở Nazareth.
Phúc âm của Luke viết: Chúa sinh ra trong máng cỏ nuôi súc vật (manger) ở
hang núi Bethlehem. Từ Nazareth đến Bethlehem cách nhau 90 dặm (tƣơng
đƣơng 135 km). Luke không nói gì tới ngôi sao lạ và ba vua phƣơng Đông!
Hiện tƣợng Ngôi Sao lạ đêm Noel đƣợc khoa học giải thích nhƣ thế nào?
Năm 1606, nhà thiên văn học trứ danh Johannes Kepler đã trình bày hiện tƣợng
3 hành tinh gồm Sao Thổ (Saturn) Sao Mộc (Jupiter) và Sao Hỏa (Mars) nằm
trên một đƣờng thẳng với trái đất. Hiện tƣợng này bắt đầu từ tháng 5 đến tháng
12 năm 7 trƣớc Công Nguyên. Chu kỳ của hiện tƣợng thiên văn này (The
threefold conjunction of planets) là một lần trong 805 năm. Vì cả 3 hành tinh
nằm trên một đƣờng thẳng với trái đất nên từ trái đất nhìn lên bầu trời ta có cảm
tƣởng cả ba sao là một. Do ánh sáng tỏa chiếu khiến sự tụ hội của ba vì sao đã
tạo thành một khối sáng lớn lạ thƣờng trên bầu trời. Lịch sử Ba Tƣ ghi nhận: Sự
kiện "sao lạ" này đã khiến cho dân chúng khắp nơi xôn xao lo sợ vì họ cho đó là
dấu hiệu của ngày tận thế.
Matthew thấy chuyện "Sao lạ" hấp dẫn nên đem vào Phúc âm để biến sự ra đời
tầm thƣờng của Jesus thành sự giáng sinh của một vị "thần thánh siêu phàm".
Cũng nhờ cái tài phịa chuyện của Matthew nên ngày nay ngƣời ta thƣờng làm
đèn ngôi sao nơi hang đá Noel hoặc giăng đủ thứ đèn màu ở quanh nhà trong
mùa Giáng Sinh (Christmas season).
Đa số ngƣời Mỹ hiện nay nghĩ gì về sự ra đời của Jesus?
Có lẽ phần đông chúng ta nghĩ rằng dân Mỹ là những ngƣời có tinh thần thực
dụng nhất thế giới, nhƣng trong thực tế thì đa số dân Mỹ hiện nay vẫn còn tin
vào Phúc âm (Thánh kinh Tân ƣớc). Đối với các tín đồ Phật Giáo thì sự đản
sinh của Đức Phật chỉ đơn thuần có nghĩa là sự ra đời của Đức Thích Ca mà
thôi. Trái lại, đối với tín đồ Ki-tô giáo – kể cả Công giáo lẫn Chính thống và Tin
Lành – thì sự ra đời của Chúa Jesus chỉ là bƣớc đầu trong chƣơng trình thiêng
liêng của Thiên Chúa. Bƣớc thứ hai là sự tái lâm (sinh ra lại) của Chúa Jesus
trong ngày tận thế, rồi sau đó Nƣớc Chúa sẽ "trị đến" trên toàn địa cầu cho đến
muôn đời.
Để trình bày vấn đề này, tôi xin mƣợn ý và tài liệu trong bài viết nhan đề "Sự
Giao Ƣớc trong lễ Giáng Sinh" (The Christmas Covenant) đăng trên tạp chí US
News & World Report, December 19-1994 pages 62-71). Ý niệm về "Sự Giao
Ƣớc" giữa Thiên Chúa và loài ngƣời là một ý niệm đặc biệt của Do Thái giáo và
Ki-tô giáo.
Khoảng năm 1250 TCN, Moises lập đạo Do Thái đã đặt đạo này trên căn bản
một giao ƣớc giữa dân tộc và Thiên Chúa: "Dân tộc Do Thái chỉ tôn thờ một
Thiên Chúa là Jehovah. Ngƣợc lại Jehovah sẽ chọn Do Thái làm dân riêng của
Ngài". Khi Ki-tô giáo đƣợc hình thành vào thế kỷ I, những ngƣời sáng lập đã
đƣa ra một giao ƣớc bịa đặt mới giữa toàn thể loài ngƣời và Thiên Chúa: "Chúa
Jesus là con một của Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời và chịu chết chuộc tội
thiên hạ. Ai tin Ngài sẽ đƣợc cứu rỗi, ai không tin sẽ bị sa hỏa ngục đời đời".
Ngƣời Ki-tô giáo gọi sự giao ƣớc của đạo Do Thái là Cựu Ƣớc (Old Covenant/
Old Testament) và gọi giao ƣớc mới của đạo Ki-tô là Tân Ƣớc (New Covenant/
New Testament).
Ngƣời Mỹ da trắng đều có nguồn gốc Âu châu, có lẽ vì vậy đa số dân Mỹ đã bị
ảnh hƣởng văn hóa Ki-tô giáo từ lâu đời. Theo báo US News anh World Report
thì hiện nay có tới 61% dân Mỹ tin rằng: Sự giáng sinh của Chúa Ki-tô gắn liền
với lời tiên tri huyền nhiệm, đó là sự phục lâm của Chúa Ki-tô. Đây chính là
biến cố của ngày tận thế và mở đầu cho Nƣớc Chúa trên trái đất này. (61% of
Americans believe that Jesus Christ will return to earth... The comforting
images of the Christmas season are linked to another more mysterious
prophecy: that of the apocalyptic Second Coming of Christ, a cataclysmic event
that will end history and inaugurate a divine kingdom on Earth – page 62).
Vào năm 1000, toàn thế giới Ki-tô giáo sống trong hồi hộp lo sợ vì đa số tín đồ
tin rằng ngày Phục lâm của Chúa Ki-tô đã đến. Sử gia Henri Focillon viết rằng:
hầu nhƣ mọi sinh hoạt ở Âu châu bị ngƣng lại vào cuối năm 999 vì mọi ngƣời
nghĩ rằng mình đang sống trong "buổi chiều của thế giới" (an evening of the
World). Điều đáng ghi nhận là ngày 1-1-1000 toàn thể dân chúng trên đảo
Ieeland vì sợ ngày tận thế đã kéo nhau xin rửa tội theo đạo hết.
Trong những năm cuối thế kỷ 20, rất nhiều giáo phái Ki-tô lại ồn ào tuyên
truyền về ngày tận thế vì ngày tận thế gắn liền với sự phục lâm của Jesus và
niềm hy vọng về "Nƣớc Chúa trị đến".
Giáo phái cuồng tín nhất là The Seventh – Day Adventists (Giáo phái Cơ Đốc
Phục lâm). Những vụ tự sát tập thể ở Waco Texas, Hoa Kỳ của nhóm Branch
Davidians năm 1993, nhóm Solar Temple ở Thụy Sĩ và Canada năm 1994 và
nhóm Heaven Gate ở San Diego California, Hoa Kỳ... đều có liên quan đến giáo
phái Cơ Đốc Phục lâm nói trên.
Rất nhiều giáo sĩ thuộc các giáo phái Ki-tô viết sách, viết báo hoặc rao giảng tại
nhà thờ để tiên đoán về ngày tận thế. Tất cả đều đã bị thất bại ê chề nhục nhã vì
ngày tận thế mà họ ồn ào rao giảng và quả quyết đã không xảy ra. Tuy vậy, giáo
lý về sự Phục lâm của Chúa Ki-tô vẫn là một niềm tin quan trọng trong đạo
Công giaó cũng nhƣ trong các giáo phái Tin Lành.
Trong tác phẩm Deceptions and Myths of the Bible (p. 423), Sử gia Mỹ Lloyd
M. Graham đã phải than rằng: "Trải qua 2000 năm, ngƣời Tây phƣơng vẫn chƣa
có đủ sự hiểu biết thực tế để nhận ra niềm tin của mình là sai trái"(For two
thousand years, Western man has not sufficient knowledge of reality to know
that it is false).
Đó cũng là một điều lạ nhƣng có thực đối với một quốc gia đƣợc gọi là văn
minh.
Ngay cả sau ngày New York và Ngũ Giác Đài bị khủng bố, bà H. Clinton, vợ
của cựu tổng thống Bill Clinton hát bài God Bless America (Chúa ban phúc
lành cho nƣớc Mỹ). Chúa ban phúc lành cách sao mà Chúa không cứu đƣợc, để
hai tòa lâu đài và lầu Năm Góc bị khủng bố làm sập và nhiều ngàn ngƣời vô tội
chết.
Những biểu tƣợng của ngày lễ Giáng sinh đã biến chuyển nhƣ thế nào?
Mặc dầu hiện nay sống trong thời đại văn minh nhƣng vẫn còn tới 61% dân Mỹ
có niềm tin Ki-tô (*) . Báo West Coast Times, California. 24-5-1996, ký giả
Paul Recer tƣờng thuật, "cuộc thăm dò căn bản về khoa học, cho thấy rằng 75%
dân Hoa Kỳ dốt nát về khoa học và tài chánh, không quá 50% lớp tuổi trƣởng
thành biết rằng quả đất quay quanh mặt trời hằng năm" (75% get dunce caps in
US, quizzoes on science, finance, by Paul Recer, Washington. Less than half of
American adults understand that the earth or bits the sun yearly, according to a
basic science survey).
Vào thời kỳ nƣớc Mỹ lập quốc cách đây trên 200 năm, chắc chắn số dân Mỹ có
niềm tin Ki-tô còn cao hơn nhiều. Nhƣng không phải vì thế mà nƣớc Mỹ lọt vào
tay các nhà lãnh đạo cuồng tín. Từ vị tổng thống tiên khởi là Washington đến
nay, hầu hết các vị lãnh đạo tối cao của nƣớc Mỹ đều là hội viên bí mật của Hội
Tam Điểm (Free Masonry). Chủ trƣơng của hội này là Chủ nghĩa Nhân Đạo
Thế Tục (Human Secularism) hoặc còn gọi là chủ nghĩa Nhân Đạo Tự Do
(Liberal Humanism). Những ngƣời lãnh đạo Hoa Kỳ thấm nhuần tƣ tƣởng của
các triết gia thuộc Phong Trào khai sáng (Enlightenment) thế kỷ 18 ở Âu Châu
và kinh nghiệm đau thƣơng về các cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới nên đã
áp dụng chính sách tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị. Điều này đƣợc ghi rõ
trong Tu Chính Án 1 và 14. Chính quyền Mỹ không cấm đạo, nhƣng họ khôn
khéo giáo dục và chuyển hóa tâm lý quần chúng bằng nhiều phƣơng cách hòa
bình. Ngày nay, thay vì đi nhà thờ mừng lễ Phục Sinh (Easter), ngƣời ta chỉ cần
bày trƣớc cửa nhà mấy trái trứng nhuộm đủ màu. Thay vì nộp tiền cho Cha cố
để xin lễ cầu hồn trong dịp Lễ Các Thánh và Lễ Các Linh Hồn (31/10 và 1/11),
ngƣời ta chỉ cần trƣng bày vài trái bí đỏ (pumpskin) hay treo vài cái màng nhện,
vài bộ xƣơng ngƣời giả trƣớc cửa nhà cho vui.
Ở các nƣớc Công giáo nghèo và lạc hậu, biểu tƣợng của ngày lễ Noel thƣờng là
đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng giấy bồi có bộ tƣợng Noel.
Ở nƣớc Mỹ này chúng ta không thấy đèn ngôi sao và hang đá Noel làm bằng
giấy bồi với những bộ tƣợng sinh nhật trong dịp lễ Noel. Đi đâu chúng ta cũng
chỉ thấy những cây thông thật và giả, những con nai giả kéo xe trƣợt tuyết và
những ông già Noel bụng phệ... Tất cả những thứ này chẳng có liên hệ gì đến
Jesus. Cũng nhƣ ở các nhà thờ Mỹ chúng ta không thấy hang núi đá Lộ Đức vì
hang đá này là biểu tƣợng cho hai tín điều Công giáo: "Tín Điều Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội" và "Tín Điều Giáo Hoàng không thể sai lầm"! Nhƣng hai
tín điều này chỉ còn là niềm tin mà thôi. Còn thực tế thì đã có quá sai lạc, tôi sẽ
trình bày trong một dịp khác.
Biểu tƣợng thật sự cho Lễ Giáng Sinh ở Mỹ là mùa thu hoạch lợi tức của giới
thƣơng gia (businessmen‟s harverst), là kỳ nghỉ dài ngày để những ngƣời đi làm
xa về thăm gia đình hoặc để vui chơi trong các cuộc truy hoan say sƣa túy lúy.
Nói rõ hơn Noel hay lễ Giáng sinh chỉ là một ngày lễ truyền thống và mùa Tết
đƣợc nghĩ nhiều ngày, hơn là mang ý nghĩa tôn giáo.
Tại nhiều quốc gia khác cũng thế, ngay cả Nhật Bản nơi chỉ có 1% Tin Lành,
Công giáo không đáng kể, số còn lại là Phật giáo nhƣng họ cũng tổ chức mùa
Noel rầm rộ để bán hàng.
Còn tại Việt Nam, thanh niên nam nữ cũng có dịp đổ ra đƣờng trƣớc đêm Noel
để vui chơi, và trong các vùng có nhiều tín đồ Công giáo thì đó là ngày đau khổ
nhất cho loài chó, vì bị giết để ăn tiệc (reveillon).
Một điều không ai muốn nhƣng vẫn luôn luôn xảy ra là trong dịp lễ tạ ơn
(Thanksgiving) của Mỹ là ngày đau thƣơng nhất cho hàng chục triệu con gà tây
bị giết và dịp lễ Giáng sinh là hàng ngàn tai nạn lƣu thông với nhiều xác ngƣời
trên xa lộ. Phải chăng đó là một biểu tƣợng thực tế của mùa Giáng sinh tại đất
nƣớc văn minh số một của thế giới?
Charlie Nguyễn
(*) Tại Anh Quốc, cuộc thăm dò (năm 2000) của tiến sĩ Peter Brieley về tín đồ
Công giáo và Tin Lành hằng năm đi lễ nhà thờ (Church Attendance Survey) chỉ
còn 7.5%. Ông tiên đoán khoảng 40 năm nữa con số này chỉ còn 0.5% nghĩa là
Công giáo và Tin Lành không còn hiện hữu ở Anh Quốc
IN GOD WE TRUST
Charlie Nguyễn
Theo bản tin đăng trên Giao Điểm số 42 (trang 77-79) thì vụ biến động của
ngƣời Thƣợng ở Pleiku đầu năm 2001 cho thấy có âm mƣu ngoại bang xử dụng
chiêu bài tôn giáo phá hoại an ninh xã hội và sự vẹn toàn lãnh thổ nƣớc ta.
Những ngƣời Thƣợng Tin Lành nổi loạn này hầu nhƣ không màng tới việc làm
ăn mà chỉ lo sẵn sàng khăn gói để chờ một thế lực nào đó từ Mỹ sẽ đến bốc họ
đi, rồi sau đó sẽ đƣa họ về giải phóng quê hƣơng miền cao để thành lập một
Quốc Gia Tin Lành!
Sau khi đọc bản tin này, tôi không khỏi lo ngại liên tƣởng đến những vụ nội
chiến vì lý do tôn giáo ở Đông Timor thuộc Indonesia và Basilan thuộc
Philipines.
Indonesia, còn gọi là Nam Dƣơng, có 228 triệu dân, khoảng 91% theo đạo Hồi
và khoảng 9% (tức 20 triệu dân) theo đạo Công giáo La Mã. Đầu thế kỷ XVI,
song song với ngƣời Tây Ban Nha giảng đạo ở Việt Nam thì ngƣời Bồ Đào Nha
vào giảng đạo ở Nam Dƣơng. Đa số tín đồ Công giáo định cƣ ở phía đông đảo
Timor. Sau khi Nam Dƣơng trở thành một nƣớc độc lập vào năm 1945, những
ngƣời Công giáo ở Đông Timor bắt đầu nổi dậy và phát động một cuộc nội
chiến đẫm máu chống chính quyền trung ƣơng Hồi giáo. Sau hơn 40 năm chiến
tranh gây thiệt mạng cho trên một triệu binh sĩ và dân lành, cuối cùng chính phủ
Nam Dƣơng đã phải chấp thuận cho Đông Timor tách rời để trở thành một nƣớc
độc lập từ tháng 8/99 vừa qua.
Trƣờng hợp của Philippines thì ngƣợc lại: Philippines có 74 triệu dân. Khoảng
92% theo đạo Công giáo La Mã, khoảng 6 triệu dân theo đạo Hồi, qui tụ tại đảo
Mindanao và đảo Basilan. Những ngƣời Phi này có tổ tiên theo đạo Hồi từ thế
kỷ XIV, tức hai thế kỷ trƣớc khi đạo Công giáo xâm nhập nƣớc này. Trải qua
nhiều thế kỷ bị đàn áp tàn bạo bởi chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha và giáo
quyền Công giáo La Mã, những ngƣời Phi Hồi giáo đã kiên cƣờng bảo vệ tôn
giáo của họ cho tới ngày nay. Cuộc chiến tranh đòi tự trị của những ngƣời Phi
Hồi giáo chống chính phủ đã khởi đầu từ nhiều chục năm qua đến nay vẫn tiếp
diễn. Để đạt những mục tiêu chính trị, những ngƣời Phi Hồi giáo đã áp dụng
chiến thuật du kích, phá hoại và khủng bố, đặc biệt là họ thƣờng bắt cóc con tin.
Tôn giáo là một sản phẩm văn hóa. Khi xâm nhập một lãnh thổ nào đó nó
thƣờng bƣớc vào bằng những bƣớc đi nhẹ nhàng êm ái. Nhƣng khi số tín đồ của
tôn giáo đạt tới mức có thể tạo thành một lực lƣợng chính trị áp đảo thì hậu quả
của nó thật khó lƣờng.
Chỉ với mấy cuốn sách Thánh Kinh, Vatican đã trải rộng đế quốc của nó gần
khắp thế giới với hơn một tỷ tín đồ và đã duy trì đế quốc của nó gần 2000 năm.
Với cuốn Thánh Kinh Koran, những đoàn quân Hồi giáo Ả Rập đã chiếm toàn
bộ bán đảo Ả Rập rộng lớn, chiếm Irag, Syria, Palestine, Ai Cập và Iran vỏn
vẹn trong vòng 10 năm. Một thế kỷ sau khi giáo chủ Mohamét qua đời, Hồi
giáo trở thành một đế quốc trải dài từ Bắc Phi, qua Cận Đông, miền Nam châu
Âu qua Trung Á đến Bắc Ấn.
Đầu thế kỷ IV, đế quốc La Mã có tham vọng dùng Công giáo để chinh phục
toàn cầu. Đế quốc La Mã không ngờ đạo Hồi xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ VII
với Thánh Kinh Koran đã phá tan tham vọng toàn cầu của họ. Số tín đồ đạo Hồi
ngày nay lên tới 1 tỷ 200 triệu, vƣợt trội số tín đồ Công giáo La Mã (khoảng 1
tỷ).
Mặc dầu Hồi giáo và Ki-tô giáo đều có chung cội nguồn là Kinh Thánh Cựu
Ƣớc Do Thái, cùng chung ông tổ Abraham và cùng thờ một Thiên Chúa (God)
nhƣng hai đạo này đã quan niệm về Thiên Chúa hoàn toàn khác nhau.
Ki-tô giáo tin Thiên Chúa có ba ngôi. Thiên Chúa Cha sinh ra Thiên Chúa Con
(Jesus). Jesus là ngƣời thƣờng lại đƣợc Ki-tô giáo suy tôn làm Thiên Chúa. Bà
Maria, mẹ của Jesus, đƣợc Ki-tô giáo tôn lên làm Mẹ Thiên Chúa!
Tất cả các giáo lý nói trên đều bị kinh Koran thẳng thừng bác bỏ.
Kinh Koran ghi rõ: “Bà Maira chẳng bao giờ nhận rằng bà ta là Mẹ Thiên Chúa
hoặc con của bà ta là Chúa”. (She never claimed she was Mother of God or her
son was God – Koran 5:75). Kinh Koran kết án những ngƣời Ki-tô giáo là nhục
mạ Thiên Chúa khi nói Thiên Chúa chỉ là một trong ba ngôi. (They do
blaspheme who say God is one of three – Koran 5:75) “Thiên Chúa là một ngôi
duy nhất. Thiên Chúa chẳng sinh ra đứa con nào và cũng chẳng do ai sinh ra”.
(God is one. He begot none nor was he begotten – Koran 112:1-4). Khi trình
bày những điều nói trên, tôi không có ý bài bác những giáo lý Ki-tô giáo. Tôi
chỉ có ý làm sáng tỏ một sự thật lịch sử: không phải sức mạnh quân sự của Hồi
giáo đã chận đứng khả năng bành trƣớng của Ki-tô giáo mà chính sức mạnh văn
hóa của Hồi giáo đã phá tan mộng ƣớc toàn cầu hóa của đạo Ki-tô. Một bài học
lịch sử khác đã chứng tỏ rằng: Sức mạnh quân sự thuần túy nếu không kèm theo
sức mạnh văn hóa hỗ trợ thì sớm muộn sẽ bị tiêu diệt. Đó là trƣờng hợp Mông
Cổ.
Đầu thế kỷ XIII, Genghis Khan thống nhất các bộ lạc Mông Cổ rồi xua quân đi
chinh phục thế giới. Chỉ trong mấy năm, quân Mông Cổ đã tạo nên một đế quốc
rộng lớn bao gồm Trung Quốc, qua Trung Á và phía Nam nƣớc Nga, qua Thổ
Nhĩ Kỳ tới các nƣớc Cận Đông. Nhƣng quân Mông Cổ hoàn toàn chỉ có sức
mạnh quân sự chứ không có một sản phẩm văn hóa nào. Kết quả là chỉ sau vài
thế hệ, đoàn quân chiến thắng Mông Cổ ở Trung Quốc đã bị Hán hóa. Cuối thế
kỷ XIII, những vua chúa Mông Cổ ở Bắc Ấn đã theo đạo hồi và tạo nên các
triều đại Hồi giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Dần dần, các ngƣời Mông
Cổ đã bị hoàn toàn đồng hóa vào dân địa phƣơng.
Những ngƣời Tây-phƣơng trƣớc đây đã hiểu rõ sức mạnh của văn hóa nên họ đã
xâm lăng nƣớc ta bằng văn hóa Ki-tô trƣớc rồi mới xâm lăng bằng súng đạn
sau.
Ngày nay, mặc dầu không còn bóng quân xâm lƣợc trên lãnh thổ Việt Nam
nhƣng vẫn còn tồn tại một đạo quân thứ năm không nhỏ của địch, dƣới hình
thức một giáo hội nô lệ ngoại bang nằm vùng thƣờng trực trong lòng dân tộc.
Đại họa này chƣa dứt thì một đại họa khác đang nhen nhúm trên miền cao
nguyên Trung Phần Việt Nam. Đó là những hành động đầy tham vọng của một
số những giáo phái Tin Lành lớn tại Mỹ đang muốn trở thành những thế lực của
chủ nghĩa đế quốc tinh thần (spiritual imperialism). Những nhóm này hoạt động
ráo riết từ giữa thế kỷ XX đến nay trên phạm vi toàn thế giới. Giáo phái Baptist
đã tung ra trên 3000 nhân viên truyền giáo hoạt động trong 94 quốc gia. Tổ
Chức Thanh Niên Tin Lành (International Youth for a Mission) hiện có trên
12.000 nhân viên giảng đạo trên khắp thế giới. Tổ Chức Thập Tự Quân Tin
Lành (The Giant Campus Crusade) có nhiều ngàn nhân viên truyền giáo hoạt
động trên 130 quốc gia từ 1960. Hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều bị các
toán quân truyền đạo Tin Lành xâm nhập từ lâu. Riêng nƣớc Nga, sau khi mở
cửa tự do năm 1991, chẳng những bị xâm nhập bởi nhiều đoàn truyền giáo Tin
Lành mà còn tiếp nhận 232 tấn sách Thánh Kinh Tin Lành bằng Nga ngữ in tại
Hoa Kỳ! Trên đây chỉ là hoạt động truyền giáo của một số ít giáo phái Tin Lành
tiêu biểu, ngoài ra còn nhiều giáo phái khác cũng rất lƣu tâm đến việc truyền
giáo để bành trƣớng thế lực của họ.
Qua những hiện tƣợng tôn giáo ở Đông Timor và Mindanao (Philippines) chúng
ta nhận thấy ở những vùng đảo này có nhiều sắc dân và nhiều thổ ngữ khác
nhau. Nhƣng cuối cùng họ đã liên kết với nhau thành một khối duy nhất rất chặt
chẽ trong niềm tin tôn giáo. Những dân tộc thiểu số ở Cao Nguyên Trung Phần
cũng tƣơng tự nhƣ vậy. Mặc dầu họ thuộc nhiều sắc tộc và ngôn ngữ khác nhau,
nhƣng một khi đa số cùng theo một tôn giáo thì họ sẽ liên kết thành một khối và
tình trạng nội chiến sẽ rất có thể xảy ra nhƣ ở Đông Tomor hay Mindanao!
Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải lo phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nếu thiếu
cảnh giác để nhúm lửa đó bốc lên thành đám cháy lớn e rằng sau này dù cho có
dập tắt đƣợc đám cháy thì nhà cửa cũng tan hoang! Vậy chúng ta hãy thử tìm
hiểu xem những ngƣời truyền giáo đã dùng cách nào để dụ dỗ những ngƣời
Thƣợng và cả ngƣời Kinh theo đạo Tin Lành? Thông thƣờng, họ luôn luôn
tuyên truyền rằng nƣớc Mỹ giàu mạnh nhất thế giới và Tin Lành là quốc giáo
của nƣớc Mỹ. Do đó, ai chịu cải đạo theo Tin Lành chắc chắn sẽ đƣợc giúp đỡ
về mọi mặt, tinh thần cũng nhƣ vật chất, nhất là sẽ đƣợc dễ dàng nhập cƣ Hoa
Kỳ để sống một cuộc đời giàu sang hạnh phúc...!
Nhiều ngƣời nhẹ dạ và hám lợi dễ dàng nghe lời dụ dỗ đã trở thành những tín
đồ Tin Lành. Một số không lo làm ăn mà chỉ ngóng trông các đồng đạo Tin
Lành Hoa Kỳ đến bốc họ sang Mỹ!
Thật ra, tất cả các luận điệu tuyên truyền nói trên đều là lừa dối bịp bợm vì từ
xƣa đến nay Hoa Kỳ chƣa từng có quốc giáo (national religion). Nhất là Tin
Lành lại càng không thể là một quốc giáo vì Tin Lành không phải là một tôn
giáo thuần nhất. Hiện nay tại Mỹ khoảng 200 giáo phái Tin Lành lớn nhỏ không
đều nhau. Vậy chẳng lẽ Hoa Kỳ có 200 quốc giáo Tin Lành sao?
Ngoài 200 giáo phái Tin Lành, Hoa Kỳ hiện có khoảng 53 triệu ngƣời Công
giáo, 7 triệu ngƣời Hồi giáo, 5 triệu ngƣời Do Thái giáo, vài triệu ngƣời Anh
giáo. Xét theo danh xƣng thì có nhiều tôn giáo khác nhau, nhƣng thực ra đều là
các đạo độc thần, tức thờ cùng một Chúa (monotheistic religions) và cùng
chung ông tổ Abraham (Abrahamic religions). Do đó, mặc dầu khác tôn giáo về
danh xƣng nhƣng tất cả đều đồng ý tôn vinh Thƣợng đế (hoặc Thiên Chúa) mà
họ gọi là GOD. Bài ca phổ thông nhất là “God bless America”. Tòa án Tối Cao
Pháp Viện khai mạc phiên họp với lời cầu nguyện “Xin Chúa cứu nƣớc Mỹ và
tòa án này” (God saves the United States and the honorable court). Từ năm
1950, do nhu cầu chống lại chủ thuyết vô thần của Cộng sản, nƣớc Mỹ có thêm
lời Tuyên Thệ Trung Thành với Quốc Gia, trong đó có cụm từ “một quốc gia
dƣới sự che chở của Chúa” (a nation under God). Mặc dù cùng nói đến God
nhƣng mỗi tôn giáo nghĩ về God theo một cách khác nhau, chẳng ai giống ai.
Một điều rất cần phải nêu lên ở đây là những ngƣời Việt Nam ở Mỹ - Công giáo
cũng nhƣ Tin Lành - cứ tƣởng rằng chữ “God” mà ngƣời Mỹ thƣờng nhắc tới là
Thiên Chúa của Ki-tô giáo (Christian God). Sự thật không phải nhƣ vậy. Chúng
ta hãy lấy tờ One Dollar ra coi sẽ thấy: Kim tự tháp tƣợng trƣng cho Trật Tự
Thế Tục Mới (Novus Ordo Seclorum). Trên đỉnh Kim tự tháp là Con Mặt
Thƣợng đế (All-seeing Deity) tƣợng trƣng cho Đấng Toàn Năng của Lý Trí
(God of Reason) hoặc còn đƣợc gọi là Thƣợng Đế của Tự Nhiên (Nature‟s
God). Bên phải huy hiệu Kim tự tháp là hàng chữ IN GOD WE TRUST biểu lộ
lòng tin tƣởng của giới lãnh đạo Hoa Kỳ vào Lý Trí để xây dựng một trật tự xã
hội thế tục. Trong xã hội thế tục, con ngƣời là trung tâm phục vụ chứ không
phải là Thiên Chúa. Con ngƣời không có bổn phận phải tôn thờ Thiên Chúa trên
hết mọi sự. Lòng sùng tín tôn giáo là sự một đạo riêng tƣ (Religion is private
devotion) không thể đƣợc coi là khuôn vàng thƣớc ngọc để áp đặt lên cả quốc
gia đƣợc.
Một số trí thức Công giáo thuộc xu hƣớng “Khôi phục tinh thần Ngô Đình
Diệm” thƣờng hay giảng thuyết trên báo chí hay trên đài phát thanh luận điệu
tuyên truyền rằng: Sở dĩ ngƣời Mỹ trở nên văn minh giàu có là nhờ họ biết đặt
lòng tin nơi Thiên Chúa (Ý muốn nói Thiên Chúa Ba Ngôi của Công giáo).
Phần lớn ngƣời Mỹ đặt nền tảng đời sống đạo đức của họ trên Kinh Thánh Tân
Ƣớc và Cựu Ƣớc. Điều này có thể đúng về phƣơng diện biểu kiến, vì quả thực
đại đa số dân Mỹ là những ngƣời Ki-tô hữu (Christians). Tuy nhiên, hoàn cảnh
của nƣớc Mỹ rất đặc biệt là ngay từ những ngày đầu lập quốc đến nay, những vị
lập quốc và những vị thật sự lãnh đạo nƣớc Mỹ lại không hẳn là những ngƣời
Ki-tô hữu. Trái lại, họ là những ngƣời có tinh thần khai sáng và thuần lý
(enlightened and reasonable men), hậu duệ của John Locke, Voltaire, Jean
Jacques Rousseau, Thomas Paine... Đó là những ngƣời công khai phủ nhận giáo
lý Ki-tô giáo. Dƣới sự lãnh đạo khôn khéo và kín đáo của họ, Ki-tô giáo chẳng
những không bao giờ trở thành quốc giáo mà trái lại đang đi vào con đƣờng mỗi
ngày một suy thoái. Bề ngoài có vẻ nhƣ hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa thay
đổi nhau lên nắm chính quyền cai trị đất nƣớc. Trong thực tế, luôn luôn có một
siêu-quyền-lực bao trùm trên cả hai đảng. Siêu-quyền-lực này làm trọng tài cho
mọi tranh chấp chính trị và giữ cho đƣờng lối chính sách của Hoa Kỳ có tính
nhất quán trải qua các giai đoạn lịch sử.
Cũng trên phƣơng diện hình thức, nƣớc Mỹ theo đuổi chính sách đa văn hóa
(multicultural) nhƣng trên thực tế thì chủ nghĩa nhân đạo thế tục (secular
humanisme) mới thật sự chi phối đời sống văn hóa chính trị của mọi ngƣời dân
Hoa Kỳ.
Trên khắp nƣớc Mỹ, đi đâu chúng ta cũng thấy san sát những giáo đƣờng lớn
nhỏ và ở mọi nơi mọi lúc ngƣời ta thƣờng nói nhiều đến Thƣợng Đế (GOD).
Nhƣng vấn đề quan trọng không phải ở số đông. Vấn đề chủ yếu là những ngƣời
lãnh đạo ở thƣợng tầng nƣớc Mỹ quan niệm thế nào về Thƣợng Đế. Đó là
những vấn đề chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây:
I. Là một quốc gia đa-văn-hóa (multicultura) Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận
một quốc giáo.
Đầu thế kỷ XVI, những ngƣời đầu tiên đến Mỹ là những kẻ có óc phiêu lƣu làm
giầu. Sau đó là những làn sóng ngƣời tỵ nạn tôn giáo: Những ngƣời Puritams
(Thanh giáo) và Quakers bị ngƣợc đãi tại Anh quốc, những ngƣời Tin Lành nhƣ
Lutherans, Calvinists bị Công giáo bách hại tại Âu châu. Cho đến khi Hoa Kỳ
tuyên bố độc lập năm 1776, dân số Mỹ là 2 triệu rƣỡi, 60% là ngƣời Anh – đa
số theo tin lành, còn lại là Anh giáo – 12% là những ngƣời Tô Cách Lan, Hòa
Lan và Đức, đa số cũng theo Tin Lành – 28% còn lại là những ngƣời nô lệ da
đen, không có quyền công dân. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX,
nhiều làn sóng di dân từ Đông và Nam Âu Châu sang Mỹ, đa số là Công giáo và
Do Thái. Dân Mỹ Tin Lành phản đối bằng cách lập ra đảng khủng bố Ku-Klux-
Klan nhắm vào Do Thái, Công giáo và ngƣời da đen. Nhiều nhà thờ Công giáo
và Do Thái bị đốt, nhiều ngƣời da đen bị sát hại. Chính quyền trung ƣơng chủ
trƣơng theo đuổi chính sách đa văn hóa nên đã áp dụng chính sách trấn áp đảng
khủng bố Ku-Klux-Klan. Trong thập niên 1870, chính phủ Mỹ cho nhập cƣ rất
nhiều dân các nƣớc Ả Rập theo đạo Hồi và trong thập niên 1960 cho nhập cƣ ồ
ạt các di dân thuộc Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh, đa số theo đạo Hồi. Hiện
nay, số tín đồ Hồi giáo tại Mỹ lên tới 7 triệu ngƣời.
Trƣớc đây, ngƣời Mỹ thƣờng tự nhận nền văn minh của họ có truyền thống Do
Thái – Ki-tô (Judeo – Christian tradition). Trong dịp lễ nhậm chức của tân tổng
thống Bush vào đầu năm 2001, giáo sƣ Stephen Prothero thuộc Đại Học Boston
đã đề nghị sửa lại cho đúng với thực tế là “Judeo-Christian – Islamic tradition”
vì công dân Mỹ theo đạo Hồi hiện nay đông hơn ngƣời Mỹ Do Thái giáo! Ngoài
ra, nƣớc Mỹ hiện có đủ các sắc dân trên thế giới với đủ mọi tôn giáo thuộc mọi
nguồn gốc văn hóa. Do đặc tính đa chủng và đa văn hóa, xã hội Mỹ không thể
có một sự đồng thuận để chấp nhận bất cứ một tôn giáo nào là tôn giáo chính
thức của quốc gia. Các giáo phái Tin Lành, mặc dầu đã chiếm đa số từ ngày lập
quốc đến nay, vẫn chƣa bao giờ và sẽ không bao giờ trở thành quốc giáo tại Hoa
Kỳ.
II. Chủ nghĩa nhân đạo thế tục (Secular Humanism) luôn luôn thống lãnh đời
sống văn hóa chính trị Hoa Kỳ.
Các nhà lập quốc Hoa Kỳ là những bộ óc sáng suốt thấu triệt những hậu quả tai
hại của tôn giáo tại Âu châu. Do đó, ngay từ đầu họ đã theo đuổi chủ nghĩa nhân
đạo thế tục mà yếu tố chủ chốt là sự phân chia rõ rệt giữa tôn giáo và nhà nƣớc
(Strict separation of religion and government). Đó chính là nguyên tắc bảo đảm
không cho phép bất cứ một tôn giáo nào có thể áp đặt giáo điều của mình lên
đời sống toàn dân. Đó cũng là nguyên tắc chiến đấu cho con ngƣời đƣợc tự do
sử dụng lý trí của mình để hƣớng dẫn cuộc sống của chính mình và chống lại
bọn cuồng tín làm công cụ cho các thế lực thần quyền đen tối.
Chính vì vậy, Hiến pháp Hoa Kỳ và Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã minh thị
ngăn cấm chính quyền thiết lập một quốc giáo và ngăn cấm tôn giáo xen vào
chính trị. Từ ngày lập quốc đến nay đã hơn hai thế kỷ, nƣớc Mỹ vẫn luôn luôn
trung thành với chủ nghĩa Nhân Đạo Thế Tục. Đó là chủ nghĩa coi trọng những
lợi ích, ƣớc vọng và giá trị của con ngƣời hơn là niềm tin tôn giáo. (Secular
humanism = A philosophy that elevates human interests, desires and values over
religious beliefs). Trong ý nghĩa đó, quyền tự do ngôn luận (Freedom of speech)
và quyền tự do báo chí (Freedom of Press) đƣợc coi trọng hơn tự do tín ngƣỡng
(Religious Freedom) nhƣ ta thấy trong vụ phim The last Temptation of Christ
(Cơn cám dỗ cuối cùng của chúa Ki-tô). Cuốn phim này đƣợc mô phỏng theo
cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzaki, xuất bản năm
1951. Nhà đạo diễn Mỹ Martin Scarsese dựng thành phim năm 1988. Theo giáo
lý Ki-tô thì Jesus có hai bản tính: bản tính con ngƣời và bản tính Thiên Chúa.
Tác giả cốt truyện cũng nhƣ nhà làm phim bỏ qua tính Thiên Chúa của Jesus để
chỉ mô tả về tính “ngƣời” của Jusus mà thôi. Tất nhiên, với tƣ cách là con
ngƣời, Jesus cũng có những đau khổ, những thèm muốn và cũng bị cám dỗ nhƣ
mọi ngƣời chúng ta. Đó cũng là lẽ thƣờng trong đời sống thật của Jesus. Tuy
nhiên, những ngƣời cuồng tín Công giáo cũng nhƣ Tin Lành đều không muốn
nhìn thấy sự thật vì nó làm giảm đi sự kính trọng của họ đối với Jesus vốn đã
đƣợc thần thánh hóa quá mức. Tài tử Willem Dafoe đóng vai Jesus. Cuốn phim
đã làm cho những ngƣời Ki-tô giáo tức giận vì đã mô tả giấc mơ của Jesus khi
Ngài bị treo trên thập giá. Trong cơn đau đớn cùng cực, Jesus ƣớc muốn đƣợc
làm một ngƣời bình thƣờng chứ không muốn làm đấng cứu thế. Jesus muốn trở
về đời thƣờng, cƣới Mary Magdelene làm vợ và có con với nàng. Magdelene
nguyên là một cô gái điếm nhƣng đã tha thiết yêu Jesus từ lâu. Hầu nhƣ Jesus đi
đâu cũng có mặt nàng ở đó. Nàng luôn luôn chăm sóc Jesus nhƣ một ngƣời vợ
đảm đang yêu chồng. Trong cơn hấp hối, Jesus cảm thấy yêu nàng vô cùng.
Jesus chẳng tha thiết gì với cái trò cứu chuộc và cũng chẳng màng tới việc trở
về với Đức Chúa Cha nhƣ ngƣời ta gán ép. Niềm khát khao lớn nhất của Jesus
là làm tình với Magdelene. Cuốn phim trình bày cảnh Jesus làm tình với
Magdelene nhƣ một cặp vợ chồng bình thƣờng.
Nhiều ngƣời Ki-tô giáo bảo thủ kịch liệt kết án cuốn phim là nhục mạ Thiên
Chúa của họ. Các rạp chiếu bóng trên khắp nƣớc Mỹ bị những ngƣời biểu tình
bao vây ngăn chặn không cho khán giả vào rạp coi phim “The last Temptation
of Christ”. Nhiều tổ chức Ki-tô giáo vận động với chính quyền tiểu bang hay
thành phố ra lệnh cấm lƣu hành cuốn phim này. Nội vụ đƣợc đƣa lên Tối Cao
Pháp Viện. Kết quả, Tối Cao Pháp Viện xác định quyền làm phim là quyền tự
do phát biểu tƣ tƣởng (freedom of expression), do đó mọi việc ngăn cản chiếu
phim nói trên đều vi hiến.
Tu chính án 14 còn đi xa hơn nữa: chính sách của chính phủ phải theo đuổi mục
tiêu thế tục hoặc vô tôn giáo (a government policy must have a secular or non –
religious purpose). Do đó, trong thập niên 1960, Tối Cao Pháp Viện Mỹ đã cấm
các trƣờng công lập không đƣợc tổ chức đọc kinh cầu nguyện và không đƣợc
đọc Thánh kinh trong trƣờng. Ngoài ra, Tu Chính án 14 còn ngăn cấm các cơ
quan chính quyền không đƣợc hỗ trợ một tôn giáo nào (A government policy
must neither inhibit nor advance religion to any significant degree). Do những
qui định của luật pháp và hiến pháp Hoa Kỳ rất chặt chẽ nhằm ngăn chặn mọi
sự lạm dụng của tôn giáo, thiết tƣởng những hoạt động truyền giáo Tin Lành
hiện nay ở Việt Nam chỉ là những hoạt động tƣ nhân mà thôi. Nếu phát hiện có
một cơ quan nào của chính phủ hỗ trợ cho các việc truyền giáo nói trên ở Việt
Nam hiện nay, chúng ta cần lên tiếng tố cáo trƣớc dƣ luận . Những cơ quan đó
có thể bị truy tố vì họ đã vi phạm Hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ.
III. Ý nghĩa đích thực của phƣơng châm “IN GOD WE TRUST”
Năm 1814, Francis Scott Key sáng tác bài thơ “The Star-sprangled Banner”.
Câu thứ tƣ của bài thơ này là: “In God is our trust”. Năm 1864, Bộ Trƣởng
Ngân Khố Salmon P. Chase sửa lại thành IN GOD WE TRUST và xin chính
phủ cho phép in câu này trên các đồng coins (tiền kẽm). Chính phủ chấp thuận
nên câu này đƣợc in trên các đồng coins từ đó. Năm 1956, Quốc hội Mỹ công
nhận câu “IN GOD WE TRUST” là phƣơng châm chính thức của nƣớc Mỹ (the
US Motto) và phƣơng châm này đƣợc in trên các đồng tiền giấy cũng nhƣ các
đồng coins của Mỹ.
Nhân tiện cũng xin nói thêm về tiền giấy của Mỹ: Mặc dầu gọi là tiền giấy
(paper money) nhƣng thực sự là vải, vì nó gồm có: 75% bông, 20% nylon-
polyester và 5% hóa chất. Công ty CRANE độc quyền chế tạo tiền có nam châm
(magnetic ink) đƣợc chế tạo theo một công thức bí mật của Bureau of
Engraving and Printing ở Washington D.C. Hình thức và khuôn khổ của tờ giấy
bạc Mỹ nhƣ ta thấy hiện nay đã bắt đầu từ 1862.
Nhƣ ta đã biết, trên tờ giấy bạc và đồng coins nào cũng có phƣơng châm IN
GOD WE TRUST, nhƣng chỉ trên tờ ONE DOLLAR mới có sự giải thích ý
nghĩa của nó mà thôi.
Kim Tự Tháp là biểu tƣợng cho nền tảng vững chắc của sự phát triển nƣớc Mỹ
trong tƣơng lai (the strong base of future growth). Kim tự tháp chƣa có đỉnh
hàm ý sự kiến tạo chƣa hoàn thành. Chân kim tự tháp có hàng số La mã
MDCCLXXBVI (1776) mang ý nghĩa đời sống chính trị văn hóa và sự phát
triển nƣớc Mỹ đặt trên căn bản là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm
1776. Jefferson là ngƣời soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và đóng vai trò
trọng yếu trong thời kỳ Cách Mạng Hoa Kỳ. Quan điểm triết học và chính trị
của Jefferson chịu ảnh hƣởng sâu đậm tác phẩm Law of Nature (Luật Thiên
Nhiên) của triết gia Anh Quốc John Locke (1632-1704), tƣ tƣởng của Locke đã
đi vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và đã trở thành yếu tố quan trọng trong truyền
thống trí thức (the inellectual tradition) của giới lãnh đạo Mỹ. Locke quan niệm
Thƣợng Đế là Thiên Nhiên (God is Nature‟s God). Luật của Thiên Nhiên là luật
của Thƣợng Đế. Trong tác phẩm Essays On The Law and Nature xuất bản năm
1663, Locke viết: “Trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi ngƣời đều tự do và bình
đẳng” (In a state of Nature, all men are free and equal). Tƣ tƣởng trên của
Locke đã gợi ý cho Jefferson viết một câu nổi tiếng thế giới trong Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập: “Mọi ngƣời sinh ra bình đẳng và đƣợc Tạo Hóa [1] phú cho
những quyền không thể chuyển nhƣợng, đó là quyền sống, quyền tự do và
quyền theo đuổi hạnh phúc” (All men are created equal that they are endowed
by the creator (Nature) with certain inalienable rights, among these are life,
liberty and the persuit of happiness).
Sau John Loke là các triết gia thuộc phong trào khai sáng ở Pháp nhƣ J.J.
Rousseau, Voltaire và Montesquieu. Các triết gia này đều nổi tiếng là những
ngƣời chống Ki-tô giáo và đều có ảnh hƣởng sâu đậm đến tƣ tƣởng của
Jefferson. Trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Jeffuson viết: “Mọi ngƣời đƣợc tự
do bày tỏ và bằng sự tranh luận để duy trì ý kiến của mình về tôn giáo (All men
shall be free to profess and by argument to maintain their opinions of religion)”.
Riêng về Thánh Kinh Ki-tô giáo, Jefferson đã phê phán nhƣ sau: “Tôi đọc sách
Khải Huyền của Tân Ƣớc và tôi coi nó chỉ là những lời điên dại của kẻ mất trí”
(I read the Apocalypse and I then considered it merely the ravings of a maniac).
Sau hết, ngƣời có ảnh hƣởng lớn và trực tiếp đến Jefferson cùng những nhà lập
quốc Hoa Kỳ là Thomas Paine (1737-1809) với tác phẩm Common Sense xuất
bản tháng 1/1776 với 120.000 bản. Đây cũng là một tác phẩm kịch liệt chống
Ki-tô giáo.
Tất cả những điều trình bày trên chứng tỏ rằng: trật tự thế tục của xã hội Mỹ
đƣợc đặt trên nền tảng của bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1776, trong đó có nói tới
Tạo Hóa nhƣng đó là Tạo Hóa Thiên Nhiên chứ tuyệt đối không có nghĩa là
Thƣợng Đế của Ki-tô giáo.
Mặt trƣớc của tờ One Dollar là hình vị tổng thống tiên khởi George
Washington. Ông không thuộc một đảng hoặc một giáo phái nào. Khi ông lãnh
đạo nƣớc Mỹ dành độc lập từ tay ngƣời Anh thì ông là thủ lãnh của Hội Tam
Điểm Mỹ (trụ sở đặt tại Alexandria thuộc tiểu bang Virginia). Mặc dầu lúc đầu
lập quốc, tuyệt đại đa số dân chúng Mỹ theo đạo Tin Lành nhƣng đạo này đã
không thể trở thành quốc giáo. Cũng nhƣ trong hơn hai thế kỷ qua, hai đảng
Dân Chủ và Cộng Hòa luân phiên nhau lãnh đạo nƣớc Mỹ nhƣng không một
đảng nào có thể đi tới độc tài. Đó là nhờ Hội Tam Điểm có những bậc minh triết
(dấu mặt) điều khiển nƣớc Mỹ nhƣ một siêu chính phủ (Super-government).
Hội Tam Điểm (Freemasonry) là một hội huynh đệ (fraternal order) lâu đời nhất
và lớn nhất thế giới. Hội này xuất phát từ những nghiệp đoàn các thợ xây đá
(unions of stone masons) là những ngƣời thợ nề chuyên xây các đại thánh
đƣờng và các dinh thự lâu đài khắp Âu châu trong thời Trung cổ. Ngày xƣa, họ
đã đem hết tài năng trí tuệ để dựng nên những thánh đƣờng vĩ đại và những dinh
thự nguy nga tráng lệ. Ngày nay họ quyết tâm xây dựng những giá trị luân lý và
đạo đức ở tầm mức cao nhất. Họ là những ngƣời thấu triệt các thủ đoạn nham
hiểm và các tội ác kinh khủng của Giáo hội Công giáo và những chế độ chính trị
phi nhân bản. Ngày nay họ quyết tâm xây dựng một Trật Tự Thế Tục Mới.
(NOVUS ORDO SECLORUM). Những hội viên Tam Điểm đƣợc tự do di
chuyển khắp nơi trên thế giới (to travel freely), do đó chữ FREE đƣợc dùng làm
tiếp đầu ngữ trƣớc chữ MASON để trở thành FREE MASON (Hội viên Tam
Điểm).
Hội đƣợc thành lập vào thế kỷ XVI với quy định đầu tiên là chỉ thu nhận những
ngƣời thợ xây đá (stone mason). Từ đầu thế kỷ XVII, hội thu nhận những ngƣời
ƣu tú xuất sắc trong xã hội, không phân biệt quốc tịch và nghề nghiệp. Hội chú
trọng huấn luyện hội viên về triết lý đạo đức (normal philosophy) hơn là về kỹ
thuật. Hội xác nhận không phải là một tôn giáo và không thuộc tôn giáo nào.
Hội xác nhận Công giáo là thù địch.
Theo đặc san “Avoice Crying In The Wilderness” số 2 của Tu viện Thánh Gia
thuộc Giáo Phận New York (4425 Sneider Road, Fillmore NY14735) thì các
thủ lãnh Tam Điểm đã vạch ra đƣờng lối để tiêu diệt giáo hội Công giáo từ năm
1819 (P. 43).
Phần lớn các tổng thống Mỹ từ trƣớc đến nay là hội viên Tam Điểm. Phần lớn
các nhà lập quốc ký tên trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền đều là Hội Viên Tam Điểm.
Thiên tài âm nhạc Áo quốc Mozart (1756-1791) cũng là hội viên Tam Điểm, đã
sáng tác bản đại nhạc kịch Tiếng Sáo Thần (The Magic Flute) mô tả nữ thần của
màn đêm – tƣợng trƣng cho các thế lực đen tối của tội ác – sẽ bị đánh bại và
biến mất trên thế gian. Sau đó, hoàng tử của Công lý sẽ xuất hiện để báo hiệu sự
hình thành của một Trật Tự Thế Tục Mới (Novus ordo seclorum).
Cũng theo đặc san của Tu Viện Thánh Gia New York thì giáo hoàng Gioan
XXIII, Giáo hoàng Paul VI và giáo hoàng John Paul II đều là những ngƣời của
Tam Điểm cài vào để phá giáo hội Công giáo.
Ngày 25/9/59, Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập cộng đồng Vatican II để khởi
đầu cuộc hủy diệt hoàn toàn giáo hội Công giáo. Từ sau Vatican II, giáo hội chỉ
còn cái vẻ bề ngoài đồ sộ, thật sự bên trong đã bị sụp đổ tan hoang vì nạn mất
đức tin. Giáo hoàng Paul VI nhiều lần công khai tự nhận là bạn của Tam Điểm.
Giáo hoàng John Paul II công khai nhìn nhận thuyết Big Bang, tức đã mặc
nhiên phủ nhận việc Chúa dựng nên vũ trụ trong 7 ngày. Ngài công nhận thuyết
Darwin tức đã mặc nhiên phủ nhận Adam-Eve là tổ tiên loài ngƣời, phủ nhận tội
tổ tông và Chúa chẳng còn lý do gì để xuống thế cứu chuộc. Điều quan trọng
hơn cả là Giáo hoàng John Paul II phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Đàng và
Hỏa Ngục. Nhƣ vậy, việc các linh mục nhận tiền xin lễ của giáo dân đã trở
thành một chuyện lừa bịp vì làm sao có thể cầu nguyện cho linh hồn thân nhân
giáo dân lên thiên đàng khi giáo chủ đã xác nhận thiên đàng không có?
Xét cho kỹ, chúng ta nhận thấy cái công phá đạo của Giáo hoàng Paul II không
phải là nhỏ và sự tố giác của Tu Viện Thánh Gia New York (Most Holy Family
Monastery) không phải là điều vô căn cứ.
Cái Kim Tự Tháp NOVUS ORDO SECLORUM hiện chƣa hoàn thành vì nó
chƣa có đỉnh. Chúng ta tự hỏi một khi cái kim tự tháp đó hoàn thành thì liệu cái
sào huyệt tội ác lớn nhất của loài ngƣời là Vatican có còn không? Câu trả lời
khẳng định là KHÔNG!
Có lẽ những ngƣời Hồi giáo cực đoan đã hiểu rõ nƣớc Mỹ không có quốc giáo
và Đấng Toàn Năng Lý Trí (GOD của Mỹ không phải là Allah. Chính vì vậy
mà Osama Bin Laden đã gọi nƣớc Mỹ là “vô thần”. Thật sự, Hoa Kỳ là một
nƣớc Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới thế tục hóa. Sự thế tục hóa đƣợc thể hiện
bằng những điều khoản phân định rõ rệt giữa thần quyền tôn giáo và thế quyền
chính trị trong hiến pháp. Sự thế tục hóa là một nỗ lực của giới lãnh đạo Hoa Kỳ
chủ yếu nhằm chống lại những áp lực của Ki-tô giáo. Do đó, “God” trong
phƣơng châm “In God We Trust” dứt khoát không phải là “Christian God” tức
Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki-tô.
Giáo lý Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki-tô chẳng những là một quái thai tƣ
tƣởng, một quái vật ba đầu (gồm có đầu bò El, đầu ngƣời Jesus và đầu chim bồ
câu) mà còn là một thứ Thiên Chúa loạn luân mất nết. Trong cuốn sách “Chứng
Nhân Hy Vọng”, trang 293, tác giả là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận viết: “Là nữ
tử của Thiên Chúa Cha, Đức Mẹ Maria trở thành mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể và
hiền thê của Chúa Thánh Thần”.
Chúng ta đã biết giáo lý Ki-tô giáo dạy rằng cả ba ngôi Thiên Chúa là một Đức
Chúa Trời. Nhƣ vậy, Đức Mẹ Maria cùng một lúc vừa là nữ tử vừa là hiền thê
của một Thiên Chúa. Rõ ràng là Thiên Chúa Cha đã làm cho nữ tử kiêm hiền
thê mang bầu vào lúc nàng 16 tuổi để đẻ ra Chúa Con là Jesus! Tính chất loạn
luân của Thiên Chúa Ba Ngôi là điều không thể chối cãi đƣợc. Thƣợng Đế Lý
Trí (God of Reason) của những bậc đại trí nhƣ John Locke, Voltaire, J.J.
Rousseau, Jefferson, Thomas Paine, Washington... hiển nhiên không phải là thứ
Thiên Chúa quái thai loạn luân bệnh hoạn mà Nguyễn Văn Thuận tôn thờ. God
trong châm ngôn IN GOD WE TRUST cũng dứt khoát không phải là Thiên
Chúa của Ki-tô giáo bao gồm Công giáo và các giáo phái Tin Lành. God trong
châm ngôn của Mỹ tƣơng tự nhƣ quan niệm về ĐẠO của Lão Tử hoặc quan
niệm về Thƣợng Đế của Spinoza (1631-1677). Học giả Stephen Mitchell viết về
Thƣợng Đế của Spinoza nhƣ sau: “Thƣợng Đế là tổng thể của mọi vật hiện hữu
trong thời gian và không gian hoặc nhƣ chúng ta có thể nói tại Huê Kỳ ngày
nay: Đó là Đạo” (God is the totality of all things that exist in time space... or as
we might say today in America: The Tao – The Enlightened Minds – page 142).
PHẦN KẾT
Qua tất cả những điều đã trình bày ở trên, chúng ta nhận thấy nền trật tự xã hội
thế tục có tính chất biến định đã không cho phép chính phủ Hoa Kỳ hình thành
một quốc giáo và mọi hành vi của chính phủ nhằm hỗ trợ cho công cuộc truyền
giáo ở nƣớc ngoài đều là bất hợp pháp. Tất cả các giáo hội Tin Lành dù lớn đến
đâu thì cũng chỉ là những hiệp hội tƣ nhân mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận rõ một điều là tại Hoa Kỳ có nhiều hiệp hội
tƣ nhân rất giầu và hoạt động rất mạnh. Một số giáo phái Tin Lành tuy hoạt
động trong lãnh vực tƣ nhân nhƣng cũng có tham vọng rất lớn. Chẳng hạn nhƣ
tổ chức Tin Lành TBN, do mục sƣ Pat Roberson lãnh đạo, có tham vọng dùng
hệ thống truyền thanh và truyền hình giảng đạo bằng đủ mọi ngôn ngữ và rộng
khắp hoàn cầu trong một kế hoạch mệnh danh là: “Chƣơng trình Thay Đổi Thế
Giới” (Programs to Change the World). Từ nhiều năm qua, các hệ thống truyền
thanh và truyền hình của tổ chức này đã chủ yếu nhắm vào Trung Quốc và Nhật
Bản. Hiện nay, trong 10 tỉnh miền Hoa Nam (Trung Quốc) đã có 16 giáo hội
Tin Lành đang hoạt động. Ở Nhật trong mấy thập niên qua đã mọc lên hàng
trăm nhà thờ Tin Lành (xin đọc Salvation For Sale của Gerard Thomas Straub –
Prometheus Book 1986).
Một số giáo phái Tin Lành khác nhƣ Episcopal, nhân chứng Jehorah, Mormon
đã đào tạo nhiều mục sƣ ngƣời Việt và đồng thời huấn luyện nhiều nhân viên
truyền giáo ngƣời Mỹ trẻ tuổi nói thông thạo tiếng Việt. Phải chăng họ đã chuẩn
bị cho công cuộc truyền giáo Tin Lành vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới?
Xét về bản chất, Tin Lành cũng nhƣ Công giáo đều là những sản phẩm của nền
văn hóa du mục Ả Rập, Do Thái. Cả hai cùng thuộc Ki-tô giáo và đều không
phù hợp với truyền thống văn hóa nhân bản Việt Nam. Trong hiện tình Việt
Nam, nếu chúng ta để cho Tin Lành tự do truyền đạo trên miền Cao Nguyên
chắc chắn sẽ bị bọn chính trị lƣu manh lợi dụng để gây thêm phe cánh. Nếu
không kịp thời ngăn chặn, một khi số tín đồ Tin Lành trở thành một lực lƣợng
chính trị đông đảo thì nguy cơ nội chiến theo kiểu Đông Timor sẽ có thể xảy ra.
Để đối phó với những làn sóng truyền đạo Tin Lành vào Việt Nam, thiết tƣởng
chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc:
1/ Bài học sáng giá nhất về việc này có lẽ là bài học Do Thái. Năm 1978, Quốc
Hội Do Thái (The Israel Knesset) đã ban hành Luật Cấm Truyền Giáo (Anti-
missionary Laws). Theo luật này thì bất cứ ai đến Do Thái truyền đạo Tin Lành
sẽ bị tòa án tuyên phạt 5 năm tù và 3200 đô la Mỹ.
2/ Bài học thứ hai ít nghiêm khắc hơn nhƣng xét ra cũng rất hữu hiệu. Đó là bài
học của Indonesia. Chính phủ Indonesia buộc mọi ngƣời ngoại quốc nhập cảnh
Indonesia đều phải khai báo về nghề truyền giáo (Missionary). Nếu khai là
ngƣời truyền giáo thì họ chỉ đƣợc sở ngoại vụ cấp phép di trú không quá 6
tháng. Thời gian 6 tháng này thiết nghĩ quá lâu. Đề nghị chỉ nên cho phép
những ngƣời truyền đạo lƣu trú tại Việt Nam không quá một tháng và ít nhất
phải 3 năm sau mới đƣợc trở lại Việt Nam.
3/ Bài học của Nga có tính cách quyết liệt đối với cả Công giáo lẫn Tin Lành.
Tháng 8/1997, Quốc Hội Nga đã biểu quyết luật về Tự Do Tôn Giáo. Theo luật
này thì mọi tôn giáo – kể cả đạo Phật, đạo Hồi, đạo Bà-la-môn – đều đƣợc tự do
truyền đạo và hành đạo. Ngoại trừ Công giáo và Tin Lành bị đặt ra ngoài vòng
pháp luật và bị cấm hoạt động tại Nga. Đây một là một gƣơng can đảm và sáng
suốt của những ngƣời đã có kinh nghiệm xƣơng máu với các tà đạo Ki-tô. Ƣớc
mong rằng những đạo luật có nội dung tƣơng tự sẽ đƣợc hình thành trên đất
nƣớc Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Charlie Nguyễn
[1] chữ Tạo Hóa ở đây có nghĩa là Thiên Nhiên (Nature) chứ không có nghĩa là
God (Thƣợng Đế) nhƣ bị lạm dụng.
Quan niệm “Ông Trời” của ngƣời Việt
Charlie Nguyễn (Bùi văn Chấn)
Từ ngàn xƣa, dân tộc Việt Nam đã có nhiều ý niệm về “Ông Trời”. Những ý
niệm đó đã đƣợc bộc lộ qua các câu ca dao tục ngữ hoặc trong thi phú của giới
trí thức nho học uyên thâm mà ta thƣờng gọi là “văn chƣơng bác học”. Tuy
nhiên, muốn hiểu ý nghĩa thật sự của Ông Trời Việt Nam chúng ta cần phải
khảo sát văn chƣơng bình dân vì chỉ trong văn chƣơng bình dân tâm hồn chất
phác của nông dân Việt Nam mới đƣợc thể hiện trọn vẹn và trung thực. Đối với
các nhà nho chịu ảnh hƣởng văn hóa Trung quốc thì Ông Trời là “Ngọc Hoàng
Thƣợng Đế” mà ngƣời Hoa thƣờng lập bàn thờ để thờ, hoặc có thể là “Hoàng
Thiên” nhƣ trong câu “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Điểm khác biệt giữa
quan niệm của ngƣời Tàu về Ngọc hoàng Thƣợng đế (hoặc Hoàng Thiên) với
quan niệm về “Ông Trời” của ngƣời Việt Nam là ngƣời Việt không tôn trọng
Ông Trời. Ngay cách gọi Trời bằng “Ông” cũng đã là một cách diễu cợt. Ngƣời
Việt Nam coi Trời không hơn ông hàng xóm: “Bắc thang lên hỏi ông trời!”.
Có lẽ chỉ có ngƣời Việt nam “dám” gọi Trời bằng Ông mà thôi vì chúng ta
không hề thấy một cách gọi tƣơng đƣơng trong các ngôn ngữ khác. Chúng ta
không hề thấy ngƣời Tàu gọi “Ngọc hoàng Thƣợng đế” là Ngọc hoàng tiên sinh,
Thƣợng đế tiên sinh hoặc Hoàng thiên tiên sinh.... Chúng ta cũng không hề thấy
ngƣời Anh hoặc ngƣời Pháp gọi Thiên Chúa là Mr. God! Monsieur Dieu!....
Hơn thế nữa, ngƣời Việt Nam còn tỏ thái độ xem thƣờng ông Trời qua cách gọi
Trời là “Con Tạo” hoặc “Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu ông
trời!
- “Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” (Ca dao)
- “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)
- “Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong” (Nguyễn Công Trứ)
Đối với ngƣời Việt Nam bình dân, “Ông Trời” cũng tƣơng tự nhƣ “Ông Trăng”
“Ông Sao” mà thôi, tuyệt nhiên không hề có ý nghĩa là Đấng Tối Cao hoặc
Đấng Toàn Năng theo quan điểm của Kitô giáo.
Một sĩ phu nổi tiếng trong Phong trào Cần Vƣơng là Trần cao Vân đã lột tả
quan niệm của ông về “Ba Ngôi” trong vũ trụ là: Trời, Đất, Ngƣời (Thiên - Địa
–Nhân) có mối tƣơng quan đồng cảm và đồng dẳng qua bài thơ sau đây:
Trời đất sinh ta có ý không?
Chƣa sinh trời đất, có Ta trong
Ta cùng Trời Đất, ba Ngôi sánh
Trời đất sinh ta một chữ Đồng
Đất nứt ta ra, Trời chuyển động
Ta thay trời mở đất mênh mông
Trời che đất chở, ta thong thả
Trời, Đất, ta đây đủ hóa công.
Đối với Hồi giáo, Do thái giáo và Ki tô giáo, các tín đồ đều đƣợc gọi là “những
kẻ kính sợ Chúa” (God-fearers). Trái lại, ngƣời Việt Nam bình dân không hề
“sợ Trời”. Họ tin rằng nếu con ngƣời cố gắng phấn đấu cũng có thể “thắng trời”
nhƣ thƣờng:
- Xƣa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!
hoặc cứ liều làm theo ý mình và mặc cho trời muốn làm gì thì làm:
- Cũng liều nhắm mắt đƣa chân
Thử xem Con tạo xoay vần đến đâu. (Nguyễn Du)
Ý niệm thông thƣờng nhất của ngƣời Việt Nam về “Ông Trời” chính là bầu trời
xanh vật chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi trƣờng thiên nhiên của mọi biến
chuyển về thời tiết nhƣ mƣa nắng, gió bão v.v... thể hiện nổi bật ý niệm này là
bài thơ “Vịnh Ông Trời” của Nguyễn Khuyến (1835-1909):
Cao cao muôn trƣợng ấy là Tao
Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo dƣới trần cho chúng biết
Tháng ba, tháng tám tớ mƣa rào.
Khi ngƣời Việt nam nói “trời mƣa”, “trời nắng” thì chỉ có nghĩa là thời tiết mƣa
hay nắng chứ không hề có nghĩa là “Đức Chúa Trời mƣa” hay “Đức Chúa Trời
nắng”!
Nguyễn Bính có hai câu thơ rất hay:
Nắng mƣa là bệnh của trời
Tƣơng tƣ là bệnh của tôi yêu nàng
Trời của Nguyễn Bính trong câu thơ trên cũng chỉ là thời tiết mà thôi. Trong
những trƣờng hợp khác, Trời đƣợc hiểu là Luật thiên nhiên trong vũ trụ nhƣ:
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính
- Trời sinh, trời dƣỡng
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ
Ngƣời Việt nam bình dân cũng quan niệm “Ông Trời” nhƣ số mệnh của con
ngƣời hoặc số phận đƣợc quyết định bởi những yếu tố vuợt quá tầm kiểm soát
của con ngƣời, chẳng hạn nhƣ:
Ngẫm hay muôn sự tại trời (số mệnh !)
Trời kia đã bắt làm ngƣời có thân
Bắt phong trần phải phong tràn
Cho thanh cao mới đƣợc phần thanh cao
Nguyễn Du
hay:
Trời sao ăn ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết, ngƣời lần chẳng ra
Ông Trời cũng có thể đƣợc hiểu là luật Nhân Quả, nếu ta cố gắng tu thân và có
lòng nhân ái, chắc chắn sẽ gặt kết quả tốt:
Trời sinh, trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Có trời mà cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan (Nguyễn Du)
Trên đây là những ý niệm của ngƣời Việt nam về ông Trời đã đƣợc thể hiện qua
ca dao, tục ngữ và văn chƣơng bác học, tuyệt nhiên không có ý nghĩa là Đấng
Tòan Năng hoặc Thiên Chúa của đạo Kitô. Ông Trời trong tâm thức của ngƣời
Việt nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và rất hiền hòa, hòan tòan trái ngƣợc
với Thiên Chúa trong Kinh thánh Cựu ƣớc là một ác thần hay đúng hơn là một
ác quỷ.
Vả lại, nƣớc ta vốn là một nƣớc nông nghiệp, truyền thống dân giả Việt nam
vốn tin vào Trời nhƣ sự tuần hoàn tự nhiên của vũ trụ thiên nhiên. Ngƣời nông
dân luôn luôn phải quan sát thiên nhiên để đoán trƣớc các biến chuyển về thời
tiết hầu ứng dụng vào công cuộc trồng cấy:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mƣa, trông gió, trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng
Khi thấy ngƣời dân Việt nam hay nói đến Trời, các mục sƣ Tin lành và các tu sĩ
Công giáo mừng khấp khởi nhƣ bắt đƣợc vàng. Các vị này đã hết sức trổ tài
hùng biện để chứng minh rằng: Mỗi khi ngƣời Việt nam kêu “Trời ơi!” chính là
lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang làm chủ trên vòm trời xanh!
Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt nam có
một giá trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các mục sƣ Tin lành và các
linh mục Công giáo truyền đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam vào ý
niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. Đây là một thủ đoạn gian trá nhằm vào mục
đích xiềng xích trì trệ chất phác của ngƣời dân quê Việt nam vào những cái
khung cứng ngắc của niềm tin giả tạo vào Thiên Chúa của họ.
Những hành động này hoàn toàn tƣơng phản với tâm hồn chất phác của ngƣời
dân Việt vốn chỉ tin tƣởng vào Thiên Nhiên và Định Mệnh con ngƣời mà thôi.
Có nhiều trí thức và tu sĩ Công giáo khai thác ý niệm Ông Trời Việt nam để
truyền đạo. Chúng ta có thể nêu lên một số trƣờng hợp điển hình sau đây:
1. Linh mục (Lm) Trần cao Tƣờng: Trên báo “Thế kỷ 21” số 125 tháng 9/99 có
đăng bài “Đạo kính tổ tiên, điểm gặp gỡ chung cho các tín ngƣỡng Việt” của
Lm Trần cao Tƣờng. Trong bài này, Lm Tƣờng cố ý xuyên tạc đạo hiếu và Ông
Trời để phục vụ cho mục tiêu truyền đạo. Lm Tƣờng viết: “Có thể nói, niềm tin
vào ông Trời đã có sẵng trong tâm thức ngƣời Việt trƣớc cả khi các tôn giáo du
nhập...” Cuối cùng, Lm Tƣờng cố ý gán ghép ý niệm Ông Trời (tức Thiên
Nhiên) của dân tộc Việt với ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô (The Christian
God). Khi gán ghép nhƣ vậy, Lm Tƣờng đã tự tố cáo sự hiểu biết nông cạn của
mình vì thực sự ông ta không hiểu gì về sự khác biệt nhƣ nƣớc với lửa giữa Ông
Trời Việt nam và Thiên Chúa ba ngôi của đạo Kitô. Tôi sẽ phân tích rõ về sự
khác biệt ở phần cuối bài này.
2. Trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai: Ông lai là một trí thức Công giáo sinh
trƣởng tại Hà nội. Cuối thập niên 1920 ông du học tại Paris và đậu tiến sĩ luật
năm 1935. Trong đầu thập niên 1930, ông viết sách “La Tradition Religieuse
Spirituelle Sociale au Vietnam” (Truyền thống Tôn giáo Tâm linh Xã hội tại
Việt nam) nhƣng đến năm 1981 sách này mới đƣợc xuất bản lần đầu tại Pháp.
Ông Lai qua đời năm 1992 tại VN, thọ 84 tuổi.
Báo Đất mẹ (số 103, tháng 2/2003, trang 23) trích dịch một phần sách của ông
Lai, trong đó có đoạn viết: “Ông Trời đƣợc ngƣời Việt nam tôn kính không phải
là một ông thần hộ mệnh mà là một Thiên Chúa Ngôi vị (Dieu personnel / Thiên
Chúa Ba ngôi) ngự trị trên các tầng trời”. Trƣờng hợp của trí thức Công giáo
Nguyễn huy Lai cũng nhƣ Linh mục Trần cao Tƣờng nói trên, cả hai đều không
nhận ra sự khác biệt sâu xa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa của đạo
Kitô (tức Thiên Chúa Ba ngôi). Đây là sự khác biệt nhƣ hai thái cực tƣơng phản
khiến cho không một ai có thể đồng hóa đƣợc.
3. Linh mục Giuse Trƣơng đức Kỷ tức Cao phƣơng Kỷ, giáo sƣ môn thần học
tại nhiều chủng viện Việt nam và Hoa kỳ, tác giả sách “Thiên Chúa giáo và
Tam giáo”, 536 trang, xuất bản tại Mỹ năm 2000. Đây là một cuốn sách triệt để
khai thác và xuyên tạc ý niệm Ông Trời để phục vụ cho nhu cầu truyền đạo
Kitô.
Trong Lời giới thiệu, Lm Trần công Nghị (thuộc Hội đồng Chỉ đạo Liên tôn) đã
viết về tác giả của cuốn sách nhƣ sau: “Sọan giả nêu ra những chân lý chung
làm nền tảng mà bất cứ giáo phái nào cũng công nhận... mẫu số chung cho các
tín ngƣỡng của ngƣời Việt nam là niềm tin ở Ông Trời, tức Đấng Siêu Việt”.
Rõ ràng một điều là cả Lm Trần công Nghị lẫn Lm Cao phƣơng Kỷ đã cƣơng ẩu
vì trong ca dao tục ngữ cũng nhƣ trong thi phú Việt nam chẳng có câu nào ca
ngợi Ông Trời là “Đấng Siêu Việt” cả. Ngay danh xƣng “Ông Trời” cũng đã
hàm ý - phủ nhận cái ý nghĩa “Đấng Siêu Việt” rồi, vì liệu Lm Cao phƣơng Kỷ
có thể gọi Đấng Siêu Việt là “Ông Siêu Việt” đƣợc không? Nếu coi Trời là
Đấng Siêu Việt thì tại sao ngƣời Việt nam lại gọi Trời là Con Tạo, Trẻ Tạo Hóa,
con cóc là cậu ông Trời? Chẳng lẽ con cóc là cậu của Đấng Siêu Việt?
Nơi trang 4 sách dẫn chiếu, Lm Cao phƣơng Kỷ ca ngợi cố đạo Alexandre de
Rhodes là ngƣời am trƣờng tín ngƣỡng đặc biệt của Việt nam: “Cha Đắc Lộ đề
cao niếm tin cổ truyền ở một Vị Thần Siêu Việt mà dân chúng thƣờng kêu xin là
Ông Trời.”
Quả thật, Đắc Lộ đã sáng tác ra danh từ “Đức Chúa Trời” và y là ngƣời đầu tiên
xử dụng danh từ này trong nhiều trƣờng hợp:
- Đắc Lộ lập ra hội “Nhà Đức Chúa Trời” có mục tiêu đào tạo các thầy giảng
cho giáo hội Việt nam.
- Đắc Lộ dịch sách giáo lý bằng tiếng La-tinh “Cathéhismes” ra tiếng Việt, đó là
sách “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh
Đức Chúa Trời.”
- Đắc Lộ thay thế tiếng “Chúa Dêu” phiên âm từ tiếng La-tinh “DEUS” bằng
danh từ “Đức Chúa Trời” trong các bài kinh nguyện của Việt nam. Thí dụ nhƣ
kinh Kính Mừng trƣớc kia đƣợc phiên âm từ tiếng La-tinh nhƣ sau: “Ave Maria,
đầy ga-ra-xi-a, Đức Chúa Dều ở cùng bà...”.
Đắc Lộ là ngƣời đầu tiên đƣa đạo Công giáo hội nhập vào văn hóa Việt nam
bằng cách mô phỏng danh từ “Ông Trời” để sáng chế ra danh từ “Đức Chúa
Trời” đã trở thành rất thông dụng trong quần chúng Công giáo Việt. Nhƣng Đắc
Lộ đã thất bại khi gò ép chứng minh Ông Trời là “Vị Thần Siêu Việt” mà Linh
mục Cao phƣơng Kỷ muốn chúng ta hiểu là Thiên Chúa của đạo Kitô (Christian
God).
Trong thực tế, Matteo Ricci ở Trung-Quốc và cố đạo Đắc Lộ tại Việt nam đều
không dám đề cập đến Thiên Chúa của đạo Kitô là Thiên Chúa Ba ngôi
(Christian Gos is Trinity God) trong các sách giáo lý của họ. Bởi lẽ Thiên Chúa
Ba ngôi là một thứ “toán học kỳ quặc”: Ba là Một, Một là Ba. Jesus là Ngôi Hai
Thiên Chúa xuống thế làm ngƣời, đồng thời cũng là Đức Chúa Cha tạo thành vũ
trụ vạn vật và cũng là Đức Chúa Thánh thần, chồng của mẹ ông. Nói đúng hơn,
Thiên Chúa Ba ngôi là một quái thai tƣ tƣởng mà bản thân Matteo Rici và
Alexandre de Rhodes cũng không hiểu nổi và cũng không thể giảng giải cho
ngƣời khác hiểu đƣợc. Vì thế họ đành phải câm miệng. tuy nhiên, Alexandre de
Rhodes nhận thấy ngƣời Việt có phong tục ăn mừng suốt ba ngày trong dịp tết
Nguyên đán nên y thực hiện quỉ kế là khuyên giáo dân dành ba ngày tết để tôn
thờ Thiên Chúa Ba ngôi: Ngày mồng một tết tôn thờ Đức Chúa Cha, ngày mồng
hai tôn thờ Đức Chúa Con (tức Jeus) và ngày mồng ba tôn thờ Đức Chúa Thánh
thần. Trải qua trên ba thế kỷ, nhiều giáo xứ Công giáo Việt nam hiện vẫn còn
giữ tập tục tôn thờ Thiên Chúa Ba ngôi trong ba ngày tết. Hành động này đã
khiến cho giáo dân Việt nam mặc nhiên chấp nhập tín điều Thiên Chúa Ba ngôi
mà không cần phải dùng lý trí để phân biệt đúng sai.
Tiếp tục tán láo trong chiều hƣớng gò ép nhằm cƣỡng chế ngƣời đọc phải hiểu
Ông Trời là Thiên Chúa, Linh mục Cao phƣơng Kỷ viết: “Theo truyền thống cố
hữu của dân tộc Việt nam thì niềm tin vào một Đấng Bề Trên đã đƣợc biểu lộ
trong nghi lễ tế tự, ca dao tục ngữ, văn thơ và đặc biệt trong lời kêu cứu cầu xin
chân thành đặt hết ƣớc vọng của cuộc đời vào sự quan phòng của Ông Trời
(sđd, Thiên Chúa giáo và Tam giáo, trang 387); “con ngƣời hƣớng tâm linh lên
một Quyền lực Thiêng liêng làm chủ tể muôn loài.... đầy tình thƣơng xót, có thể
lắng nghe những lời cầu kinh:
Lạy Trời mƣa xuống
Lấy nƣớc tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy dầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.”
(sđd, trang 392)
Linh mục Cao phƣơng Kỷ đã trắng trợn cƣỡng đoạt bài ca dao Việt nam “Lạy
Trời mƣa xuống” và biến nó thành một bài kinh nguyện (prayer) của đạo Công
giáo!
Linh mục Kỷ nên nhớ rằng: tuyệt đại đa số dân Việt là những nhà nông, chuyện
nắng mƣa là vấn đề sinh tử đối với họ. Bài ca dao nói trên chỉ mô tả ƣớc vọng
của nông dân Việt nam mong sao cho mƣa thuận gió hòa để họ đƣợc mùa và có
gạo mà ăn. Đơn giản chỉ có vậy thôi! Khi ngƣời nông dân Việt nam nói: “Lạy
Trời mƣa xuống, lấy nƣớc tôi uống, lấy ruộng tôi cày...” họ không hề quì gối
chấp tay với nét mặt thẩn thờ mất trí nhƣ khi ngƣời Công giáo đọc kinh cầu
Chúa. Vậy không thể nói ngƣời nông dân Việt nam “cầu kinh” với ông Trời!
Trong suốt cuốn sách dầy trên 500 trang, Linh mục Cao phƣơng Kỷ luôn luôn
bẻ cong ngòi bút để viết những lời cƣờng điệu thô bỉ khiến ngƣời đọc phải “lợm
giọng”. Tôi thật sự phải “lợm giọng” khi đọc những dòng sau đây:
“Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử Cứu Độ, vì tất cả mọi sự hiện
hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế thì không có
vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại, nhân sinh.” (Sách đã dẫn, trang
113)
Tôi không biết trình độ trí thức của Linh mục Cao phƣơng Kỷ tới mức nào mà
viết lời ca ngợi Jesus nhƣ lời của một kẻ mê sảng: “Tất cả mọi sự hiện hữu đều
do Jesus mà có”. nếu quả thật nhƣ vậy thì chuyện Jesus chết trên thập giá chỉ là
một trò hề vì cây thập giá và đoàn quân La mã đóng đinh y trên núi Sọ đều là
những sản phẩm do y tạo ra, tất cả đều do Jesus sinh ra và do y hoàn toàn làm
chủ. Vậy làm sao y có thể là một nạn nhân phải chịu cực hình để chuộc tội thiên
hạ? Ngay cả mẹ của Jesus cũng do Jesus đẻ ra hay sao?
Tôi mong Linh mục Cao phƣơng Kỷ và Linh mục Trần công Nghị (cả hai đều là
tiến sĩ thần học) hãy bình tâm coi lại Thánh kinh Tân ƣớc, chỉ cần tìm ra vài câu
nói điển hình của Jesus cũng đủ thấy Jesus là một kẻ khùng:
Nếu không phải là kẻ khùng thì tại sao Jesus lại dạy tín đồ: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”? Cái giá trị cao nhất khiến con ngƣời “linh ƣ vạn vật” là trí tuệ,
vậy muốn xứng đáng làm ngƣời thì phải biết xử dụng trí tuệ suy xét mọi việc
trƣớc khi tin vào bất cứ điều gì. Jesus dạy tín đồ vứt bỏ cái giá trị quí báu nơi
con ngƣời là trí tuệ để nhắm mắt tin bừa vào những điều y nói. Vậy y chẳng
phải là một kẻ khùng hay sao?
Phải chăng hai tiến sĩ thần học Cao phƣơng Kỷ và Trần công Nghị đã vâng theo
“Lời u mê” mà vất bỏ trí tuệ của mình để viết nên cuốn sách “Thiên Chúa giáo
và Tam giáo” và viết lời giới thiệu cho cuốn sách “cỏ rác” này?
Truyền thống cao quí của dân tộc Việt nam từ xƣa đến nay là Đạo Hiếu. Nói
đúng hơn, đó là truyền thống biết ơn các đấng sinh thành, các bậc tổ tiên và còn
nới rộng ra tới các vị anh hùng dân tộc nữa. Vì thế mới có bàn thờ gia tiên trong
mỗi gia đình, có đền thờ tổ, đền thờ Hai Bà Trƣng, đền thờ Đức Thánh Trần
v.v... Nhƣng Jesus hoàn toàn không biết đến đạo hiếu là gì. Jesus đã công khai
dạy các tín đồ của y nhƣ sau: “Bất cứ kẻ nào đến với ta mà không thù ghét cha
mẹ vợ con và anh chị em, thậm chí không ghét bỏ cuộc sống của chính nó, thì
không thể là môn đệ ta” (If any man comes to me and hate not his father, and
mother, and wife, and children, and brother, and sisters, yea, even his own life,
he can not be my discipline – Luke 14:26).
Vậy những kẻ tự xƣng là tín đồ đạo Kitô (Christians) phải là những kẻ đại bất
hiếu vì nếu không thù ghét cha mẹ thì không thể là môn đệ của Jesus! Chẳng
những thế, họ còn phải thù ghét vợ con (bất nghĩa) và ghét cả anh chị em họ
hàng (bất nhân) nữa! Thiên Chúa của đạo Kitô dạy các tín đồ những điều vô
giáo dục nhƣ vậy sao? Vậy chính Jesus là tác giả của lời dạy đó là ngƣời nhƣ
thế nào, nếu không phải là một ngƣời vô giáo dục? Theo tôi, nếu Jesus quả thực
đã thốt ra những lời nhƣ vậy thì ông là một kẻ khốn nạn.
Ngoài ra, Jesus còn tuyên bố: “Ta không đem hòa bình cho thế gian nhƣng chỉ
mang gƣơm giáo mà thôi” (I came not to send peace to the world, but a sword –
Revelation 22:11). Riêng về điều này thì Jesus nói đúng vì từ ngày có đạo Kitô
đến nay, trên 200 triệu ngƣời đã bị giết chết bởi những dàn hỏa, các cuộc thập
tự chinh và các cuộc chiến tranh do Kitô giáo trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra
(Deceptions and Myth of the Bible – Lloyd M. Graham, p. 463).
Jesus đã hiển nhiên là một kẻ khùng, và là một kẻ gieo tai họa cho nhân loại nhƣ
lời tự thú của chính hắn. Vậy Jesus có đáng đƣợc chúng ta tôn thờ hay chỉ đáng
cho chúng ta “phỉ nhổ”?
Tôi yêu cầu Linh mục Cao phƣơng Kỷ hãy lên tiếng trả lời câu hỏi này. Nếu
linh mục khẳng định “Jesus đáng cho chúng ta tôn thờ” thì ông là một ngƣời đã
mất hết lý trí và niềm tin của ông chỉ là một đức tin mù (a blind faith) ! Thật sự
ông chỉ là một kẻ đáng thƣơng hại mà thôi. Dầu sao chăng nữa tôi cũng nhận
thấy Lm Cao phƣơng Kỷ là một “trí thức” rất thông thạo Anh ngữ vì ông đã
từng là giáo sƣ thần học tại nhiều chủng viện Công giáo Hoa kỳ nên tôi khuyên
ông hãy tìm đọc cuốn sách best-seller của sử gia nổi tiếng Lloyd M. Graham, đó
là cuốn Deceptions and Myths of the Bible. Mong ông hãy bình tâm suy nghĩ về
những lời khuyên chí lý và chí tình của tác giả:
- “Hiểu đúng là do biết đúng chứ không do lòng tin” (Right understanding
comes from knowing, not just believing. Page 419).
- “Cái gọi là Đức Tin chỉ là niềm tin vào cái không biết. Cái không biết cũng là
cái không có thật. Đức tin vào cái không biết và không thật là sự điên rồ. Đó chỉ
là niềm tin vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của kẻ khác” (Faith is belief in
the unknown. But since the unknown is likely the unreal also. Faith in the
unknown is foolishness, only belief in other believers‟ ignorant asumptions –
page 413).
Nếu ông còn chút lƣơng tri, chắc chắn ông sẽ nhận ra Lloyd M. Graham là vị
thầy dạy về Đức Tin Thông Minh (Intelligent Faith) còn Jesus là một “kẻ khốn
nạn” đã dậy các tín đồ và tông đồ của nó một thứ Đức Tin Mù (Blind Faith):
“Phúc cho ai không thấy mà tin”!
(Web GĐ lƣợc bỏ hai trang viết tay, độc giả có thể tìm đọc trong bài viết Công
giáo là Đạo Thờ Bò Cải Biến trong cuốn “ Thực Chất Đạo Công giáo và các
Đạo Chúa” do GĐ xuất bản, Xuân 2003 - từ các trang 89-111; hoặc trên
websites GĐ trong tháng 6/2003 -Giao Điểm).
Lịch sử đã chứng minh: Thiên Chúa Ba Ngôi là sản phẩm của công đồng Nicea
nhằm tôn Jesus lên làm Ngôi Hai Thiên Chúa. Chính cái tín điều quái gở này đã
phát sinh ra hai hệ quả sau đây:
1. Về ngoại hình, Thiên Chúa là một “quái vật ba đầu” gồm có đầu bò El (Chúa
Cha) đều Jesus (Chúa Con) và đầu con chim bồ câu (Chúa Thánh Thần).
2. Về đức hạnh, tín điều Thiên Chúa Ba ngôi đã biến Jesus thành một đứa con
loạn luân với mẹ ruột y. Chẳng cần phải tìm bằng cớ ở đâu xa: Trong sách
Chứng nhân Hy Vọng (trang 293) tác giả là Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã viết
về mối tƣơng quan giữa bà Maria với ba ngôi Thiên Chúa nhƣ sau:
“Là nữ tử của Thiên Chúa Cha, Đức Mẹ đã trở thành mẹ của Ngôi Lời Nhập
Thể (Jesus / Chúa Con) và là hiền thê của Chúa Thánh Thần”. Vì cả ba ngôi chỉ
là một Thiên Chúa Duy Nhất (Tam Vị Nhất Thể) nên cùng một lúc bà Maria là
con gái, mẹ, và vợ của Jesus. Ngƣợc lại Jesus cùng một lúc vừa là Cha, là Con
và là chồng của bà Maria. Nếu đã tin vào tín điều Thiên Chúa Ba ngôi thì đƣơng
nhiên phải tin Jesus là một thằng con mất dạy vì y đã loạn luân với mẹ ruột của
y. Tôi thách đố toàn giáo hội Công giáo Việt nam phản bác lại điều này.
Ngoài ra, theo đúng tinh thần của Cựu ƣớc thì Chúa Cứu Thế phải là ngƣời
thuộc dòng dõi của vua David. Nếu Jesus là Chúa Cứu Thế thuộc dòng dõi
David thì không thể là Con của Chúa Thánh Thần. Nếu thuộc dòng dõi vua
David thì Jesus phải là con ruột của Giuse và nhƣ vậy thì bà Maria đã bị mất
“chữ trinh đáng giá ngàn vàng” !
Ngƣợc lại, nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì y không thể là Chúa Cứu
Thế vì y không thuộc dòng David. Và nhƣ vậy Jesus cũng chẳng phải là Thiên
Chúa mà chỉ là ngƣời thƣờng nhƣ chúng ta. Vậy tại sao phải tôn thờ Jesus?
Tục ngữ Việt nam có câu “dấu đầu hở đuôi” để lột tả cái hậu quả đƣơng nhiên
của những kẻ chuyên môn dối trá bịp bợm. Dù sớm hay muộn, những điều dối
trá cuối cùng cũng bị lật tẩy mà thôi.
Công cuộc lật tẩy mọi dối trá bịp bợm của Kitô giáo - gồm cả Công giáo lẫn Tin
lành – là nhiệm vụ hàng đầu của mọi chiến sĩ văn hóa chân chính của dân tộc
Việt nam trong giai đoạn hiện tại. Phơi bày bộ mặt thật, bỉ ối của Kitô giáo
trƣớc công luận rộng rãi trong và ngoài nƣớc là một phƣơng cách hữu hiệu để
cứu nguy dân tộc và bảo vệ tiền đồ văn hóa của Tổ quốc.
Một trong những thái độ cần thiết của ngƣời chiến sĩ văn hóa là phải tự coi mình
nhƣ một ngƣời lính gác giặc, luôn luôn đề cao cảnh giác để kịp thời phát hiện
mọi tên gián điệp văn hóa của địch. Trong số các chiến sĩ văn hóa hàng đầu
trong lãnh vực này, chúng ta phải kể đến nhà nghiên cứu văn hóa chính trị Lê
trọng Văn qua nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những
Con Thò Lò Chính Trị”, 455 trang, do tác giả xuất bản tại hải ngoại năm 1991.
Tác giả đã dành ra 100 trang sách để lột mặt nạ tên gián điệp đội lốt thầy tu là
Linh mục Lƣơng kim Định trong nhiệm vụ thực hiện y khuôn sách lƣợc lừa bịp
của Vatican. Tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái thủ đoạn rất quen thuộc của
bọn gián điệp là “tìm cách hòa đồng để rồi đồng hóa”. Điểm mặt những tên gián
điệp văn hóa theo những tiêu chuẩn nói trên, tôi nhận thấy có hai tên đáng chú ý
là:
1. Linh mục Cao phƣơng Kỷ thuộc Dòng Đồng Công ở Carthage, bang
Missouri, Mỹ, tác giả cuốn “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” mà tôi đã trình bày
sơ lƣợc ở phần trên của bài viết này. Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm vài điều về
Dòng Đồng Công. Dòng tu này đƣợc thành lập tại Bùi Chu vào đầu thập niên
1940 do lệnh của Giáo hoàng Pio XII. Chúng ta đã biết Pio XII đã nối tiếng là
tên tội phạm chiến tranh đứng hàng thứ hai sau Hitler. Tên giáo hoàng phát xít
này rất muốn công bố tín điều: “Đức Mẹ Đồng Công cứu cuộc” (the dogma of
Co-Redemtrix) nhƣng y đã không thực hiện đƣợc vì gặp phải những phản ứng
mãnh liệt của Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành. Họ lý luận
rằng: Chỉ một mình Jesus Christ có tƣ cách Thiên Chúa cứu chuộc loài ngƣời và
Chúa không cần tới sự cộng tác của bất cứ ai, kể cả bà Maria, để hoàn thành
công cuộc Cứu độ. Tín điều “Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc” đã làm hạ giá
Chúa Jesus và là “chiếc đinh cuối cùng đậy nắp hòm của sự hòa giải giữa các
giáo phái Kitô” (Newsweek số ra ngày 25-8-1997).
Do đó, Vatican đã phải tạm hoãn việc công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công
nhƣng đồng thời tìm nhiều phƣơng cách chuận bị dƣ luận để sẽ công bố tín điều
đó khi có cơ hội. Một trong những phƣơng cách chuẩn bị dƣ luận là Vatican chỉ
thị cho địa phận Bùi Chu lập ra dòng tu mang danh hiệu “Đức Mẹ Đồng Công
Cứu chuộc”, gọi tắt là dòng Đồng Công – Pio XII và đồng bọn tại Vatican trong
thời kỳ Đệ nhị Thế chiến đa số là ngƣời Đức rất hiếu chiến và cuồng tín cực
đoan.
Tập đoàn phe cực đoan của Pio XII đã bị Gioan XXIII loại trừ khỏi giai cấp
lãnh đạo chóp bu ở Vatican trong Công đồng Vaticano II năm 1962. Dòng Đồng
Công là cặn bã của phe Pio XII còn rơi rớt lại đến ngày nay. Mặc dầu nhƣ rắn
mất đầu nhƣng những thày tu của dòng này vẫn giữ nguyên bản chất cuồn tín
cực đoan rất nguy hiểm trong nghề gián điệp văn hóa. Tôi thiết nghĩ việc loại
trừ mọi sinh hoạt của dòng Đồng Công dƣới bất cứ hình thức nào tại Việt nam
là điều cần thiết. Cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của Cao phƣơng
Kỷ là một sản phẩm văn hóa của dòng tu phản động này.
2. Linh mục Trần công Nghị là ngƣời viết Lời giới thiệu cho cuốn sách của Cao
phƣơng Kỷ nói trên. Nghị sinh tại Phát Diệm, đƣợc gửi đi du học tại Rome năm
1967, thụ phong linh mục năm 1971 cũng tại Rome và đƣợc gửi đi du học tiếp
tại Mỹ, sau đó trở lại Rome để lấy bằng Tiến sĩ Thần học. Trong thập niên
1990, Lm Nghị đƣợc cử làm đại diện cộng đồng Công giáo Việt nam tại địa
phận Los Angeles. Từ 1997, Lm Nghị trở thành chủ nhiệm báo Dân Chúa kiêm
Giám đốc VietCatholic Network (vietcatholic.net) với sự cộng tác của trên 200
linh mục và trí thức Công giáo (báo Công giáo Viet Tide số 55 tháng 8/2002,
trang 20).
Để kết thúc bài viết này, tôi xin minh xác với quí vị độc giả về ba điều sau đây:
Điều thứ nhất: Xác định vấn đề ngôn từ và sự thật
Nhƣ đã nói ở đoạn trên, chiến sĩ văn hóa Lê trọng Văn đã chỉ cho chúng ta thấy
thủ đoạn quen thuộc của bọn gián điệp văn hóa của Vatican là “Tìm Cách Hòa
Đồng Để Rồi Đồng Hóa”. Linh mục Cao phƣơng Kỷ đã áp dụng đúng thủ đoạn
này trong cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của y: Trƣớc hết, y vận
dụng và xuyên tạc ca dao tục ngữ Việt nam để ngụy biện cho rằng Ông Trời
Việt nam là Đấng Siêu Việt. Bƣớc kế tiếp, y xử dụng môn thần học nhảm nhí
của Vatican để chứng minh Jesus chính là Đấng Siêu Việt đó:
- “Tất cả vạn sự vạn vật đều vận chuyển theo một chiều hƣớng là quy tụ lại nơi
Chúa Cứu Thế (tức Jesus) nhƣ tâm điểm và tuyệt đỉnh của vũ trụ”, trang 168.
- “Chỉ nhờ vào đời sống và sự chết của Chúa Jesus mà nhân loại đƣợc tha tội và
hy vọng đƣợc hƣởng phúc trƣờng sinh”, trang 171.
- “Nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản vị hóa và đang đồng qui
vào ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu thế (tức Jesus)”, trang 351.
- “Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử cứu độ vì tất cả mọi sự hiện
hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế (tức không
có Jesus) thì không có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại”, trang 113.
Tất cả những lý luận thần học ngu xuẩn nói trên chỉ là những lời nói vu vơ và
hoàn toàn rỗng tuếch vì không có một cơ sở lý luận nào cả và tuyệt nhiên không
có bằng cớ nào để chứng minh.
Có gì chứng minh là “vạn sự vạn vật đều qui tụ vào Chúa Cứu Thế Jesus nhƣ
tuyệt đỉnh của vũ trụ”? Liệu có gì chứng minh là Jesus hiện đang còn sống để
cho “vạn vật qui tụ” vào y nhƣ tâm điểm? Lịch sử khách quan chứng minh rằng:
Tất cả các tử tội do La mã xử tử bằng cách đóng đinh trên thập giá đều bị vứt
xác cho kên kên, ác thú và chó rừng ăn thịt. Tuyệt đối không có một xác tử tội
nào đƣợc trao cho ngƣời nhà đem về chôn. Việc chôn xác Jesus trong hang đá
rồi sau đó vài ngày Jesus sống lại lên trời để rồi sẽ xuống thế gian lần thứ hai
trong ngày tận thế ... là chuyện hoang đƣờng tồi tệ và khốn nạn nhất trong lịch
sử văn hóa của nhân loại.
Cái tƣ tƣởng ngu xuẩn cho rằng “vạn vật đều qui tụ vào Jesus nhƣ tâm điểm vũ
trụ” hoặc “nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản-vị-hóa và đang
đồng qui vào Ngội Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu Thế Jesu”.... chỉ có thể có
trong những đầu óc thần học nhƣ Cao phƣơng Kỷ, Trần công Nghị. Đầu của
bọn ngu xuẩn này chẳng khác gì đầu tôm vì không có óc mà chỉ có phân mà
thôi.
Bọn gián điệp ngu xuẩn này chẳng có một mục tiêu nào khác hơn là xử dụng
các ngôn từ thần học hoang tƣởng nhằm lƣờng gạt những đồng bào ngờ nghệch
dại khờ để xiềng xích trí tuệ của họ vào niềm tin Jesus là Đấng Siêu Việt và
cũng là Ông Trời Việt nam.
Để đập tan luận điệu thần học vu vơ hoang tƣởng của tên gián điệp Cao phƣơng
Kỷ, tôi đã chứng minh ca dao tục ngữ Việt nam không có một câu nào nói Ông
Trời là “Đấng Siêu Việt”. Đồng thời tôi cũng chứng minh rằng: Jesus chẳng bao
giờ là Đấng Siêu Việt, trái lại Jesus chỉ là một kẻ khùng, một kẻ khốn nạn, một
kẻ mất dạy loạn luân với mẹ của y, một kẻ ngu nhƣ bò và y cũng là một kẻ gieo
tai họa lớn nhất cho nhân loại.
Bọn linh mục ngu xuẩn làm gián điệp văn hóa cho Vatican xử dụng tòan những
ngôn từ trống rỗng và vô nghĩa để lừa gạt những ngƣời nhẹ dạ cả tin. Trái lại,
tôi xử dụng những ngôn từ thoạt đầu nghe chói tai nhƣng nghĩ cho kỹ sẽ thấy
những ngôn từ đó phản ảnh sự thật:
- Phúc âm Tân ƣớc Mattew 1:18-24 nói về thiên thần Gabriel đến báo tin về
việc giáng sinh của Jesus: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sẽ sinh ra một con
trai và sẽ đƣợc đặt tên là Emmanu-El” (Behold, a vurgin shall be with child and
shall bring forth a son and they shall call his name Emmanuel).
Theo ngôn ngữ tiếng Hebrew thì Emmanuel có nghĩa là “Con bò El ở cùng
chúng ta” (El with us – xin đọc thêm “Công giáo là đạo thờ bò cải biến” trên
trang nhà GĐ tháng 6/2003). Chính Kinh thánh của đạo Kitô đã xác nhận Jesus
là một con bò . Dù là bò đực, bò cái, bò mộng hay bò thần thì cũng là bò. Vậy
tôi nói “Jesus là một thằng ngu „nhƣ bò‟ vẫn còn nhẹ hơn là „một con bò ở cùng
chúng ta : Emmanu-El)!
- Khi trình bày về mối tƣơng quan giữa bà Maria và Thiên Chúa Ba ngôi ở đoạn
trên, chúng ta đã thấy Jesus cùng một lúc vừa là cha, vừa là con và cũng là
chồng của bà Maria! Vậy, theo đúng giáo lý Kitô giáo, Jesus đích thị là một
đứa mất dạy loạn luân với mẹ. Nếu tín đồ Kitô giáo nào muốn phủ nhận cái sự
thật đáng xấu hổ này thì họ chỉ có một con đƣờng duy nhất là phủ nhận Thiên
Chúa giáo ba ngôi và phủ nhận tính cách Thiên Chúa của Jesus, ngoài ra họ
không còn con đƣờng nào khác!
- Tôi đã căn cứ vào những lời của Jesus ghi trong Tân ƣớc nhƣ: “Phúc cho ai
không thấy mà tin”, “Ai không thù ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình thì
không xứng đáng là môn đệ ta....” Tôi khẳng định những lời trên đây đã thốt ra
từ một thằng khốn nạn, một đứa vô giáo dục hoặc nhẹ nhất là thằng khùng! Tôi
thách thức bất cứ ai không đồng ý với những ngôn từ tôi xử dụng để phản ảnh
những thuộc tính của Jesus theo “Thánh kinh” hoặc giáo lý của đạo Kitô... thì
xin hãy lên tiếng. Tôi thật sự cầu mong có một cuộc tranh luận rộng rãi về vấn
đề này để mọi sự thật về Kitô giáo, cũng nhƣ về cá nhân Jesus, sẽ đƣợc sáng tỏ
hơn nữa trong dƣ luận quần chúng trong và ngoài nƣớc.
Điều thứ hai: Xác định giới hạn cho công việc truyền đạo của các ngƣời truyền
giáo Kitô.
Khi nói “các ngƣời truyền giáo Kitô” là tôi muốn nói đến tất cả các tu sĩ Công
giáo, các mục sƣ và các ngƣời làm công tác truyền giáo của đạo Tin lành
(missionaries). Chúng ta cần nói cho họ biết: mọi ngƣời đều có quyền tự do tín
ngƣỡng nghĩa là muốn tôn thờ ai thì thờ, nhƣng tự do tín ngƣỡng không có
nghĩa là tự do truyền đạo. Rất nhiều nƣớc đã ban hành những đạo luật nhằm hạn
chế việc truyền đạo, nhất là đối với Công giáo và Tin lành. Chẳng hạn nhƣ ở
Nga thời Yelsin đã có đạo luật cấm truyền đạo Công giáo và Tin lành. Do thái
cấm truyền đạo Kitô với hình phạt dành cho ngƣời vi phạm là 5 năm tù và 4200
đôla tiền phạt. Mới đây nhất, tại Ấn độ là nƣớc có đa số dân theo Ấn giáo, mới
ban hành đạo luật cấm cải đạo sang Kitô giáo (New anti-conversion laws in
Hindu – majority India – Houston Chronicle, Saturday April 19, 2003, page
6E).
Các ngƣời Công giáo hay Tin lành muốn đƣa Jesus lên Ngôi Hai Thiên Chúa
hoặc đấng Siêu Việt, đấng Toàn Năng v.v... là quyền của họ. Nhƣng những
ngƣời truyền đạo Ktiô không có quyền bóp méo, xuyên tạc ý niệm Ông Trời của
ngƣời Việt nam để cuối cùng gán ghép Ông Trời với Thiên Chúa Siệu Việt của
đạo Kitô. Các ngƣời không đƣợc phép xử dụng những ngôn từ thần học mập
mờ, huênh hoang, lƣơn lẹo để lừa gạt đồng bào và lôi kéo họ vào bóng tối tâm
linh để cuối cùng biến họ thành tay sai mù quáng cho ngoại bang. Tất cả các âm
mƣu đen tối của các ngƣời đều sẽ bị các chiến văn hóa yêu nƣớc theo dõi, phát
hiện và sẽ giáng trả bằng những đòn đích đáng.
Điếu thứ ba: Xác định thái độ kiên quyết, không khoan nhƣợng đối với bọn gián
điệp văn hóa lƣu manh và ngoan cố.
Luôn luôn đề cao cảnh giác để sớm phát hiện những âm mƣu phá hoại của bọn
gián điệp là điều cần thiết tiên quyết nhƣng sau đó chúng ta lại ngập ngừng hay
e dè chẳng làm gì cả hoặc chỉ hành động hời hợt thì kết quả cũng chỉ là con số
không. Chúng ta cần phải khẳng định rằng: bọn gián điệp văn hóa của Vatican
hay của đế quốc Tin lành đều là bọn Việt gian cuồng tín, vọng ngoại, chuyên
dùng các thủ đoạn lƣu manh lừa gạt đồng bào để mở rộng nƣớc Chúa, thực chất
là mở rộng lãnh thổ của đế quốc. Bọn chúng đều là những kẻ thù nguy hiểm của
dân tộc Việt nam. Do đó, thái độ thích hợp nhất đối với kẻ thù là chúng ta phải
đấu tranh với chúng một cách kiên quyết không khoan nhƣợng nhằm mục đích
cuối cùng là loại trừ hết mọi thứ “độc tố văn hóa” mà bọn chúng đã gieo rắc
trên đất nƣớc ta từ trƣớc tới nay.
Chúng ta không nên nhẹ tay đối với bọn gián điệp văn hóa, bởi lẽ chúng tuy rất
lƣu manh trong hành động nhƣng lại là những kẻ ngủ mê trên phƣơng diện tâm
linh. Nếu chúng ta đối xử với chúng bằng thái độ lịch sự nhẹ nhàng thì chẳng
khác nào gãi ngứa cho chúng và chúng sẽ ngủ mê hơn nữa. Muốn đánh thức
chúng dậy trong cơn ngủ mê chúng ta phải xối một thùng nƣớc lạnh vào mặt
chúng hoặc đập vào ngƣời chúng một cú thật mạnh nhƣ trời giáng thì may ra
chúng mới tỉnh ngủ để nhìn thấy sự thật dƣới ánh sáng mặt trời.
Câu hỏi trƣớc nhất đƣợc đặt ra là: Làm thế nào để nhận diện một tên gián điệp
văn hóa lƣu manh và nguy hiểm? Đó là những tên đã đƣợc bọn đại lƣu manh
quốc tế ở Rome huấn luyện nhồi sọ và cấp cho học vị “tiến sĩ thần học”. Điển
hình là những tên nhƣ Linh mục Cao phƣơng Kỷ và Lm Trần công Nghị. Bọn
này thực hiện đúng theo sách lƣợc xâm lăng văn hóa Á châu của Vatican (Tông
huấn Ecclesia in Asia của John Paul II).
Trong sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”, Cao phƣơng Kỷ lƣơn lẹo ca ngợi
Ông Trời là Đấng Siêu Việt, và dùng lý luận thần học nhảm nhí chứng minh
Đấng Siêu Việt đó là Thiên Chúa Ba ngôi của đạo Kitô. Mục tiêu cuối cùng của
họ là tạo cho đồng bào nhẹ dạ có ảo tƣởng rằng: Thiên Chúa của đạo Kitô chẳng
phải là ai xa lạ mà chính là “Ông Trời Siêu Việt” của mình và Đạo Kitô cũng
không phải là một món hàng ngoại nhập mà là một niềm tin đã tiềm ẩn từ lâu
đời trong lòng dân tộc Việt nam.
Đây là một thủ đoạn vô cùng thâm độc của Vatican do bọn tham mƣu đại lƣu
manh nghiên cứu từ lâu và chỉ thị cho bọn gián điệp văn hóa thi hành.
Ngoài việc khai thác ý niệm Ông Trời phục vụ cho nhu cầu truyền đạo, Cao
phƣơng Kỷ còn xuyên tạc Tam giáo (Phật, Khổng, Lão) là các đạo đều có niềm
tin vào Đấng Tối Cao nhƣ Kitô giáo. Việc đánh lận con đen Tam giáo với Kitô
giáo là một chuyện hàm hồ đáng bị vạch mặt: Trƣớc hết, cả ba đạo Phật,
Khổng, Lão đều là những đạo của lý trí, nói đúng hơn thì đó là ba triết lý sống
hoặc ba cách sống (ways of life). Cả ba không hẳn là ba tôn giáo vì không có
giáo hội, không có giáo đồ và nhất là không có giáo điều (tín điều). Cả ba đạo
Phật, Khổng, Lão đều coi trọng lý trí và khuyên mọi ngƣời phải vận dụng lý trí
để suy xét mọi điều trƣớc khi tin vào điều đó. Sở dĩ có “tam giáo đồng lƣu” tại
nƣớc ta vì ngƣời dân Việt nam đã vận dụng lý trí để phân biệt những giá trị
chung của cả ba tôn giáo để dung nạp vào văn hóa dân tộc và để cuối cùng làm
thăng hoa đời sống của dân tộc.
Khác hẳn với đặc tính căn bản của Kitô giáo là loại bỏ lý trí (Phúc cho ai không
thấy mà tin - lời của Jesus).
Toàn bộ hệ thống giáo lý của Kitô giáo là hàng loạt các tín điều đƣợc đƣa ra để
buộc các tín đồ phải chấp nhận vô điều kiện. Do đó, cái gọi là Đức Tin Kitô
hoàn toàn chỉ là Đức Tin Mù. Trái hẳn với đức tin Tam giáo là đức tin sáng suốt
vì là sản phẩm của lý trí.
Hậu quả của đức tin mù là các tín đồ Kitô luôn luôn phải sống trong mặc cảm
tội lỗi, luôn luôn tự xƣng là kẻ có tội nên cần có Chúa và bọn tu sĩ lƣu manh
cứu giúp!
Bọn lãnh đạo Kitô giáo trở thành những kẻ ngạo mạn kiêu căng, lúc nào cũng
nghĩ rằng tôn giáo của mình là độc tôn và là duy nhất đúng. Điều này hàm ý
rằng các tôn giáo khác với mình đều phải chết.
Trong thực tế của lịch sử dân tộc, Tam giáo đã góp phần củng cố nền độc lập
của nƣớc nhà, trong khi đó Kitô giáo đã đƣa dân tộc vào vòng nô lệ thực dân
Pháp hơn 80 năm và hiện nay một bộ phận của dân tộc (Công giáo) vẫn là
những kẻ nô lệ tinh thần của đế quốc Vatican. Các vụ nổi loạn của những ngƣời
thiểu số Tin lành ở miền cao nguyên chứng tỏ những tín đồ Kitô giáo luôn luôn
làm nội tuyến cho ngoại bang và đi ngƣợc lại quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc.
Tất cả những tai họa đó đều do bọn gián điệp văn hóa gây ra. Cho nên thái độ
cần thiết và cấp bách của các chiến sĩ văn hóa yêu nƣớc là phải cƣơng quyết
chiếm lãnh thế chủ động trên diễn đàn văn hóa để giáng trả bọn kẻ thù của dân
tộc những đòn đích đáng, buộc chúng phải câm miệng, cúi mặt gục đầu và
không dám ngóc đầu dậy.
Charlie Nguyễn
Tháng 6.2003
MÀN KỊCH BỊP BỢM “PHÉP LẠ LỘ ĐỨC” DO VATICAN VÀ HOÀNG
GIA PHÁP DÀN DỰNG NĂM 1858 ĐÃ NÔ LỆ HÓA NHỮNG LINH HỒN
MÊ MUỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Charlie Nguyễn
Để trình bày chuyện bịp “hang đá Lộ Đức” một cách rành rẽ và để qúi vị độc
giả dễ nắm bắt các tình tiết hết sức phức tạp của câu chuyện này, tôi phải bắt
đầu kể chuyện hầu qúi vị bằng những khám phá mới nhất của Nhân Chủng Học
(Anthropology) mới đƣợc công bố và đƣợc các tuần báo lớn nhất của Mỹ loan
báo trong tháng 6-2003 vừa qua. Sau đó tôi sẽ đối chiếu với khoa thần học
hoang tƣởng của St. Augustine để tố cáo thủ đoạn lừa bịp của Vatican qua các
tín điều do họ công bố nhằm mục đích đầu độc và nô lệ hóa con ngƣời. Cuối
cùng là vạch trần âm mƣu của Vatican cấu kết với chính quyền hoàng gia Pháp
giữa thế kỷ 19 trong việc dàn dựng màn kịch bịp bợm “hang đá Lộ Đức” nhƣ
thế nào. Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của giáo hội
Công giáo Việt Nam là giáo hội luôn luôn chỉ biết cúi đầu vâng phục Vatican
một cách mù quáng hèn hạ nên đã đạt kỷ lục xây cất nhiều “hang đá Lộ Đức”
vƣợt trội tất cả các giáo hôi công giáo khác trên khắp thế giới !
Đây là một hiện tƣợng bất bình thƣờng trong sinh hoạt chung của cộng đồng
Công Giáo hoàn vũ. Hiện tƣợng bất thƣờng này đã vô tình hé mở cánh cửa bí
mật của lịch sử để chúng ta thấy đƣợc một phần nào của sự thật đã bị che khuất
về vai trò gián điệp của nhân vật Nguyễn Trƣờng Tộ. Có một điều mà toàn dân
Việt Nam nên nhớ: Cả hai soạn giả kiêm đạo diễn của vở kịch bịp bợm “Phép lạ
Lộ Đức” là Giáo Hoàng Pio IX và hoàng đế Pháp Napoléon III đã luôn luôn sát
cánh với nhau trong chủ trƣơng xâm chiếm Đông Dƣơng để mở rộng thuộc địa
và nƣớc Chúa. Cả hai nhân vật chóp bu về thần quyền và thế quyền này đều có
quan hệ mật thiết với các giáo sĩ Pháp nổi tiếng ở Việt Nam thời đó là giám mục