This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
1. Cho biết tác giả của văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”? Qua văn bản, hãy cho biết vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh là gì? - Tác giả Lê Anh Trà. - Vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa thanh cao và giản dị.
2. Qua văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”, tác giả Lê Anh Trà đã cho biết sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài của Hồ Chí Minh như thế nào? Qua văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài một cách có chọn lọc. + Không chịu ảnh hưởng một cách thụ động; + Tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay đồng thời với việc phê phán những hạn chế, tiêu cực; + Trên nền tảng văn hóa dân tộc mà tiếp thu những ảnh hưởng quốc tế (tất cả những ảnh hưởng quốc tế đã được nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được.
3. Ga-bri-en Gắc-xi-a Mac-két là nhà văn nước nào? Hoàn cảnh ra đời văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”? - Ga-bri-en Gắc-xi-a Mac-két là nhà văn nước Cô-lôm-bi-a. - Hoàn cảnh ra đời văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”: thánh 8 năm 1986, nguyên thủ sáu nước ấn Độ, Mê-hi-cô, Thụy Điển, Ác-hen-ti-na, Hi Lạp, Tan-da-ni-a họp lần thứ hai tại Mê-hi-cô, đã ra một bản tuyên bố kêu gọi chấm dứt chạy đua vũ trang, thủ tiêu vũ khí hạt nhân để đảm bảo an ninh và hòa bình cho thế giới.
4. Qua văn bản “Tuyên bố thế giới về sự sống còn , quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em” , hãy nêu tình trạng trẻ em trên thế giới. Tình trạng trẻ em trên thế giới. - Bị trở thành nạn nhân chiến tranh và bạo lực, của sự phân biệt chủng tộc, sự xâm lược, sự chiếm đóng của nước ngoài. - Chịu đựng thảm họa của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, tình trạng vô gia cư, bệnh dịch, mù chữ, môi trường xuống cấp. - Trẻ em chết do suy dinh dưỡng, bệnh tật.
36
II. CỤM TRUYỆN, THƠ TRUNG ĐẠI:
1. Tính cách của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” ? Tính cách của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” + Là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình: giữ gìn khuôn phép trước người chồng hay ghen, không từng để lúc nào vợ chồng phải bất hòa. + Đảm đang, tháo vát: ân cần dặn dò chồng, lo lắng cho gia đình thay chồng. + Là người mẹ hiền, dâu thảo: vừa nuôi con nhỏ, vừa lo cho mẹ chồng; lời trăng trối của mẹ chồng đã ca ngợi và ghi nhận công lao của nàng. + Là người vợ yêu chồng, hết lòng thủy chung với chồng: thương nhớ chồng theo tháng năm dài, không trang điểm, …
2. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, tác giả đưa vào nhiều yếu tố kì ảo nhằm thể hiện điều gì? Tác giả đưa vào nhiều yếu tố kì ảo nhằm: + Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương. + Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng. + Tăng thêm tính bi kịch và khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ; làm tăng thêm giá trị nhân đạo cho tác phẩm.
3. Giải thích nhan đề “Hoàng Lê nhất thống chí”? Thể loại của tác phẩm? - Giải thích nhan đề: Ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. - Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
4. Nội dung của “Truyện Kiều”? Nội dung của “Truyện Kiều”: - Giá trị hiện thực: Bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của phụ nữ. - Giá trị nhân đạo: Tố cáo, lên án những thế lực xấu xa; thương cảm trước số phận bi kịch của con người; khẳng định, đề cao, tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người.
5. “ Mai cốt cách thuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” a) Hai câu thơ trên trích trong tác phẩm (hoặc đoạn trích) nào? Cho biết tác giả? b) Nội dung, nghệ thuật hai câu thơ trên.
37
Trả lời: a) Hai câu thơ trên trích từ đoạn “Chị em Thúy Kiều” hoặc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. b) Nội dung: Giới thiệu vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của hai chị em Thúy Kiều và nét riêng từng người. Nghệ thuật: Ẩn dụ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”; bút pháp ước lệ tượng trưng, gợi tả.
6. Phân tích nội dung, nghệ thuật của bốn câu thơ sau: “ Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Vẻ đẹp của Thúy Vân. - Từ “Trang trọng” ◊ Vẻ đẹp cao sang, quí phái, đoan trang. - Liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói Kết hợp dùng từ “đầy đặn, nở nang, đoan trang” làm nổi bật vẻ đẹp riêng của Thúy Vân. - Ẩn dụ, nhân hóa, so sánh. ◊ Thể hiện vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, quí phái. “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang”. => Chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với thiên nhiên nên Thúy Vân có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
7. Phân tích vẻ đẹp về nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều. Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn. Tác giả khái quát đặc điểm của nhân vật: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” về tâm hồn. - Vẻ đẹp của Kiều: + Không như tả Thúy Vân một cách cụ thể, chi tiết, khi tả Kiều tác giả tập trung vào đôi mắt vì đôi mắt thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi. Đôi mắt tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Ẩn dụ: “làn thu thủy” đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. “nét xuân sơn” sự thanh tú trên gương mặt trẻ trung tràn đầy sức sống. + Vẻ đẹp mang tính cách, số phận; không hòa hợp, làm cho thiên nhiên phải ghen ghét, đố kị. Nhân hóa “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. + Vẻ đẹp làm người say đắm. Dùng điển cố, điển tích “một hai nghiêng nước nghiêng thành”. - Tài của Kiều: + Đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa. + Tài đàn là sở trường, năng khiếu “nghề riêng”, vượt lên trên mọi người “ăn đứt”. + Tài đã thể hiện cái tâm của nàng: một trái tim đa sầu, đa cảm.
38
=> Vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng, tâm hồn.
8. Phân tích bốn câu thơ: “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng của mùa xuân. - Hai câu thơ đầu: + Hình ảnh: “én đưa thoi” vừa gợi thời gian qua nhanh, vừa gợi cảnh những con chim én rộn ràng bay liệng giữa bầu trời trong sáng, rộng lớn. + Ánh sáng đẹp của ngày xuân “thiều quang” đã qua tháng ba. Đang ở trong xuân nhưng có tâm trạng tiếc xuân “đã ngoài”. - Hai câu cuối: + Hình ảnh: “cỏ non” sức sống tươi trẻ của mùa xuân; “hoa lê trắng điểm” ◊ sự mới mẻ, tinh khôi + Màu sắc: “xanh tận chân trời” xanh của cỏ, xanh của trời tạo sự khoáng đạt, trong trẻo; “trắng điểm” của hoa lê gợi sự nhẹ nhàng, thanh khiết. + Dùng từ “điểm” ◊ Sự vật trong cảnh như có hồn, sinh động chứ không tĩnh tại. => Tác giả chọn lọc hình ảnh tiêu biểu, vừa gợi vừa tả.
9. Phân tích sáu câu thơ đầu của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều: “ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.” - Ẩn dụ: “khóa xuân” ◊ Kiều đang bị giam lỏng. - Liệt kê kết hợp từ trái nghĩa: “non xa, trăng gần” ◊ Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. - Dùng từ ghép, từ láy: “bốn bề bát ngát” ◊ Sự rợn ngợp của không gian mênh mông. - Hình ảnh: “cát vàng, bụi hồng” vừa tả thực vừa mang tính ước lệ, cảnh nhiều đường nét, ngổn ngang như tâm trạng của Kiều. - Ần dụ: “mây sớm, đèn khuya” ◊ Thời gian tuần hoàn, khép kín; thời gian cùng với không gian như đang giam hãm con người. Kiều ở trong hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối. - So sánh: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.” ◊ Trước cảnh, Kiều càng buồn cho thân phận của mình.
11. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, với tư cách là người chịu ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ những nét đẹp tâm hồn
39
như thế nào? Nét đẹp tâm hồn của Kiều Nguyệt Nga. - Là cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức: qua lời nói, cách xưng hô với Lục Vân Tiên thật khiêm nhường: “quân tử”, “tiện thiếp”. - Cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước, trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết, đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân tiên: “Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào thơ”. - Thể hiện sự cảm kích, xúc động của mình dành cho Lục Vân tiên: “Trước xe quân tử tạm ngồi, Xin cho tiện thiệp lạy rồi sẽ thưa”. - Ý thức và chịu ơn rất trọng của Lục Vân Tiên, không chỉ cứu mạng mà cứu cả cuộc đời trong trắng ( còn quí hơn tính mạng) “ Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi” - Băn khoăn tìm cách trả ơn, dù hiểu rằng đền đáp đến mấy cũng không đủ: “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi” => Nét đẹp tâm hồn đó là đã làm cho hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
12. “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. a) Hai câu thơ trên trích trong tác phẩm (hoặc đoạn trích) nào? Cho biết tác giả? b) Nội dung hai câu thơ trên?
Trả lời: a) Hai câu thơ trên trích từ đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” hoặc từ tác phẩm “Lục Vân Tiên”. b)Nội dung: Thể hiện quan niệm thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng (làm việc nghĩa như là bổn phận, một lẽ tự nhiên).
40
III. CỤM THƠ HIỆN ĐẠI:
1. Chủ đề của bài thơ “Đồng chí”? Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
2. a) Chép lại 6 câu thơ đầu của bài thơ “Đồng chí”. b) Cho biết tác giả? Nội dung chính của 6 câu thơ trên.
Trả lời: a) “Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” b) Tác giả: Chính Hữu. Nội dung của 6 câu thơ: Cơ sở hình thành tình đồng chí.
3. Phân tích ba câu thơ cuối bài “Đồng chí”. Bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của những người lính, là biểu tượng đẹp của về cuộc đời người chiến sĩ. - Hoàn cảnh thực khắc nghiệt của thời tiết “sương muối”, với ba hình ảnh gắn kết nhau: “người lính, khẩu súng, ánh trăng” ◊ Sức mạnh của tình đồng chí giúp họ vượt qua gian khổ, sưởi ấm họ để cùng nhau chiến đấu. - Hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn: “Đầu súng trăng treo” ◊ Sự liên tưởng phong phú. + Súng và trăng vừa gần vừa xa; vừa thực tại vừa mơ mộng; vừa có chất chiến đấu vừa trữ tình; vừa chiến sĩ vừa là thi sĩ. => Đây là biểu tượng của thơ ca kháng chiến.
4. a) Chép lại khổ thơ đầu trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật. b) Phân tích nội dung, nghệ thuật.
Trả lời: a) “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.” b) Hình ảnh những chiếc xe không kính. - Một hình ảnh chân thực. Dùng hàng loạt từ phủ định “không” để
41
khẳng định. - Hoàn cảnh rất thực. Điệp từ “bom” kết hợp động từ “giật, rung” ◊ nguyên nhân: những chiếc xe phục vụ chiến trường, luôn đối diện với hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. - Tư thế hiên ngang của những người lính lái xe. Dùng từ láy: “ung dung”. - Tinh thần anh dũng, xem thường khó khăn. Điệp từ: “nhìn”. => Qua hình ảnh những chiếc xe không kính, tác giả làm nổi bật lên hình ảnh những người lái xe ở tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm.
5. a) Cho biết tác giả và hoàn cảnh sáng tác bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá”. b) Nêu nội dung của bài thơ.
Trả lời: a) Tác giả: Huy Cận. Sáng tác trong chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh giữa năm 1958. b) Nội dung: Khắc họa nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
6. a) Chép lại khổ thơ đầu bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá”. b) Phân tích nội dung và nghệ thuật.
Trả lời: a) Chép đoạn thơ: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát cùng buồm cùng gió khơi.” b) Cảnh đoàn thuyền ra khơi - Cảnh biển về đêm. + So sánh: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” ◊ Biển đẹp rực rỡ. + Nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” ◊ Vũ trụ như ngôi nhà lớn, gần gũi. - Hình ảnh người lao động. + Dùng từ: “lại” ◊ Công việc thường xuyên. + Sự gắn kết ba sự vật: “cánh buồm, gió khơi, câu hát” ◊ Hình ảnh khỏe, lạ. + Đối lập, tương phản: sự nghỉ ngơi của vũ trụ - con người lại ra khơi. Niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như có sức mạnh vật chất, góp với sức gió, giúp con thuyền ra khơi nhanh hơn.
7. a) Chép lại khổ thơ cuối bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá”. b) Phân tích nội dung và nghệ thuật.
42
Trả lời: a) “Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” b) Hình ảnh đoàn thuyền trở về. - Lặp lại hình ảnh ba sự vật: “cánh buồm, gió khơi, câu hát” ◊ Niềm vui, sự phấn chấn khi đánh cá trở về. - Nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” ◊ Sự khẩn trương của người lao động. Thề hiện tầm vóc, vị thế kì vĩ của người lao động. - Nhân hóa: “Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. - Ca ngợi thành quả lao động , niềm tin vào tương lai. => Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, phân tích vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển. Vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển giữa biển đêm trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình. - Con thuyền trở nên kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ: “Lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển, dàn đan thế trận, …” - Niềm vui, sự lạc quan trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. “Ta hát bài ca gọi cá vào, …” - Lao động khẩn trương: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. => Niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình.
8. a) Chép lại ba câu thơ đầu của bài thơ “Bếp lửa”. Cho biết tác giả? b) Phân tích ba câu thơ trên.
Trả lời: a) “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Tác giả: Bằng Việt. b) Sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. + Điệp ngữ: “Một bếp lửa”, từ láy: “chờn vờn” ◊ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc. + Từ láy: “ấp iu” ◊ Gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu nhớ về bà, càng thương bà vất vả.
9. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
43
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? …” Tình cảm và suy nghĩ của người cháu dành cho bà. - Liệt kê: “ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” ◊ Cháu sống trong điều kiện đầy đủ, sung túc. - Dùng phó từ: “vẫn chẳng” ◊ Khẳng định tâm trạng, nỗi nhớ không nguôi của cháu. - Câu hỏi tu từ: “- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” ◊ Nhớ về bà, về sự gian khổ của bà qua việc nhóm bếp. => Đi xa, dù sống trong hoàn cảnh có đủ tiện nghi, người cháu luôn nhớ đến bà, một tình cảm chân thành, sâu sắc.
10. a) Chép lại hai khổ thơ đầu bài “Ánh trăng”. b) Cho biết tác giả, năm sáng tác.
Trả lời: a) “Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa b) Tác giả: Nguyễn Duy. Năm sáng tác: 1978.
11. Nêu chủ đề của bài thơ “Ánh trăng”. Chủ đề của bài thơ. - Nhắc nhở về thái độ tình cảm đối với năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa; đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. - Nhắc nhở về thái độ với những người đã khuất và ngay cả chính mình. - Gợi lên đạo lí sống có thủy chung “Uống nước nhớ nguồn”.
12. Phân tích khổ thơ: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng” Tâm trạng và sự xúc động của con người. - Ẩn dụ: “mặt” ◊ Bắt gặp lại quá khứ, như gặp lại chính mình. - Từ láy: “rưng rưng” ◊ Niềm xúc động dâng cao. - So sánh: “như là đồng là bể như là sông là rừng”
44
Những kỉ niệm của một thời hồn nhiên, tươi mát sống lại trong lòng người. => Vầng trăng đã gợi lại quá khứ, khiến cho con người nhớ lại trong niềm xúc động dâng cao.
45
IV. CỤM TRUYỆN HIỆN ĐẠI:
1. a) Cho biết tác giả và năm sáng tác của truyện ngắn “ Làng” b) Chủ đề của truyện ngắn “Làng”? a) Tác giả: Kim Lân. Năm sáng tác: 1948. b) Chủ đề của truyện ngắn “Làng”: tình yêu làng và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
2. Qua truyện ngắn “Làng”, hãy làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai? Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai. Khi nghe tin dữ về làng: - Đột ngột, sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tên rân rân”. - Cố trấn tĩnh, cố không tin, hỏi lại với hy vọng là có sự nhầm lẫn: “một lúc lâu ông mới rặn è è. … -Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. - Được khẳng định rành rọt, ông đau đớn, xấu hổ như chính mình mắc lỗi: “Cúi gằm mặt xuống mà đi về”. => Tình yêu làng của của ông Hai thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.
3. Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, hãy nêu những nét đẹp của nhân vật anh thanh niên? Những nét đẹp của nhân vật anh thanh niên. - Hoàn cảnh sống: một mình trên đỉnh núi cao; công việc: “đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết”. - Ý thức về công việc và lòng yêu nghề. - Hạnh phúc khi thấy công việc của mình có ích cuộc sống, cho mọi người. - Có những suy nghĩ thật đúng và thật sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con người. “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được”. - Tổ chức, sắp xếp cuộc sống ngăn nắp, chủ động: Ngôi nhà, trồng hoa; thích đọc sách. - Cởi mở, chân thành rất quí trọng tình cảm, quan tâm đến mọi người. - Khiêm tốn, thành thực.
4. a) Cho biết tác giả và năm sáng tác truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. b) Tóm tắt và nêu chủ đề của truyện.
Trả lời:a) Tác giả: Nguyễn Quang Sáng. Năm sáng tác: 1966 b) Tóm tắt : Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. mãi đến khi con gái lên tám tuổi, , ông mới có địp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra ba vì vết sẹo trên mặt làm ba em không còn giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. em đối xử với ba như người xa lạ. đến lúc Thu nhận ra ba thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. ở không căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quí , nhớ thương đứa con vào việc là chiếc lược ngà để tặng cô con gái bé nhỏ. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho
46
người bạn. Chủ đề: Ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Tình cảm ấy có giá trị nhân bản sâu sắc, càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn.
5. Sau khi đọc xong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, em có suy nghĩ gì? - Thương cảm cho bé Thu. Một em bé ngây thơ, hồn nhiên lớn lên trong chiến tranh bị thiếu thốn, mất mát nhiều về tình cảm gia đình, tình cha con. Nhất là hoàn cảnh éo le của em. - Qua bé Thu, chúng ta hiểu thêm hoàn cảnh của những trẻ em Việt Nam trong chiến tranh. - Cảm nhận sâu sắc tình cha dành cho con. Hiểu thêm nỗi đau mà người chiến sĩ cách mạng phải chịu đựng, ngoài sự hy sinh. - Qua tác phẩm, ta thấy được cuộc sống, tình cảnh của nhân dân miền Nam trong chiến tranh.
47
B.PHẦN II: TIẾNG VIỆT
Câu 1: Các từ ngữ: nói trạng; nói nhăng; nói cuội; nói có sách, mách có chứng; nói dối; nói mò; nói hươu, nói vượn; các cách nói liên quan đến phương châm hội thoại nào? Vì sao? Phương châm về chất:Vì phương châm về chất yêu cầu nội dung nói phải đúng như mình nghĩ và phải xác thực.
Câu 2:Truyện cười “Mất rồi”. Thuộc phương châm hội thoại nào? Phân tích. Truyện “Mất rồi” thuộc phương châm quan hệ. -Phân tích: Trong truyện cười người khách hỏi thằng bé: “Bố đi đâu?”. Thằng bé (nó nghĩ đến tờ giấy bị cháy) đáp: “Mất rồi!”. Ông khách hoảng hốt hỏi: “Vì sao mà mất?”. Thằng bé vẫn nghĩ đến tờ giấy bị cháy: “Cháy!”. phương châm quan hệ: Khi giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp tránh nói lạc đề.
Câu 3:Trong giao tiếp có phải lúc nào cũng phải tuân thủ phương châm hội thoại không? Vì sao? Trong giao tiếp, không nhất thiết lúc nào cũng phải tuân thủ tát cả các phương châm hội thoại. Có thể ưu tiên cho một phương châm hội thoại mà phải vi phạm 1 hoặc 1 số phương châm hội thoại nào đó; hoặc cũng có thể vì lí do muốn nhấn mạnh, muốn lịch sự, tế nhị,…
Câu 4: ChoVD trường hợp không tuân thủ phương châm hội thoại và phân tích nguyên nhân. VD: Bác sĩ khám bệnh cho Lan và nói rằng mười phần không được một, nhưng Linh thông báo cho Lan lại nói rằng mười phần đỡ được chín phần rồi. Linh đã vi phạm phương châm về chất.
Câu 5: Khi xưng hô với người đối thoại, người nói cần căn cứ vào đâu cho thích hợp? VD? Khi xưng hô với người đối thoại, người nói cần căn cứ vào đối tượng và những đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp. VD: Căn cứ vào tuổi tác,vào địa vị xã hội, vào quan hệ mật thiết hoặc xã giao.
Câu 6: Giải thích nghĩa các cách xưng hô của Tố Hữu với Lượm trong bài thơ “Lượm”. “Cháu” (Cháu cười híp mí), “Lượm” ( Thôi rồi, Lượm ơi!), “Chú đồng chí nhỏ” (Chú đồng chí nhỏ- Bỏ thư vào bao), “Chú bé” (Ca lô chú bé- Nhấp nhô trên đầu). -Tố Hữu xưng hô với Lươm theo các từ ngữ xưng hô với nhau: +Cháu: xưng hô theo tuổi tác và quan hệ giữa hai người. +Lượm: Là cách gọi trực tiếp và thân mật. +Chú đồng chí nhỏ: là xưng hô thân mật nhưng tôn trọng vì Lượm đã thành chiến sĩ liên lạc.
48
+Chú bé: Là cách xưng hô trung tính, chỉ Lượm là một chú bé.
Câu7: “Chợt đứa con nói rằng: -Cha Đản đến kia kìa.” Đó là lời nói dẫn trực tiếp hay gián tiếp? Dẫn lời nói hay ý nghĩ?
*Trả lời: - Đứa con nói rằng: “Cha Đản đến kia kìa” đó là trường hợp dẫn trực tiếp lời của Đản. Đây là dẫn lời nói chứ không phải ý nghĩ nhân vật.
Câu8: “Nhưng khi nhận được chiếc thoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói: -Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi’’. Hãy chuyển lời nói trực tiếp của Trương Sinh thành lời dẫn gián tiếp. *Trả lời: Chuyển lời trực tiếp của Trương Sinh sang lời dẫn gián tiếp: Nhưng khi nhận được chiếc thoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói rằng đó chính là vật mà vợ chàng đã mang đi.
Câu9: Một từ có thể có nhiều nghĩa hay không? Cho VD về nghĩa khác nhau của một từ. -Một từ có thể có nhiều nghĩa khác nhau. VD: Nghĩa khác nhau của từ “ăn”. +Đưa thức an vào cơ thể: là ăn cơm. +Ăn uống nhân dịp nào đó: ăn cưới, ăn cơm liên hoan. +Nhận lấy để hưởng: ăn hoa hồng, ăn chênh lệch giá. +Khớp với nhau: ăn ý, ăn ảnh. +Làm tiêu hao, mất đi: ăn mòn kim loại.
Câu10: Có mấy phương thức phát triển nghĩa của từ vựng? VD? - Phương thức phát triển nghĩa của từ vựng: + Ẩn dụ. + Hoán dụ. VD: -Sự phát triển nghĩa theo phương thức ẩn dụ: đầu người, đầu súng, đầu ruồi, đầu đạn. - Sự phát triển nghĩa theo phương thức hoán dụ: Chân người đi làm đá mòn. Anh ta có chân trong ban chấp hành.
Câu11: Tìm ba từ mới trong tiếng Việt được mượn trong tiếng nước ngoài: -Ti vi, internet, computer.
Câu12: Trình bày những cách làm tăng vốn từ vựng tiếng Việt? -Thêm nghĩa mới cho những từ đã có: “ăn” có các nghĩa mới: phối hợp tốt với nhau: ăn ý; làm tiêu hao dần: ăn mòn; không trả lại những thứ vay mượn: ăn quỵt. -Tăng số lượng từ bằng cách vay mượn tiếng nước ngoài: ti vi,
49
computer, internet. -Tạo các từ ngữ mới trên có sở đã có: quản trị mạng, ngân hàng đề, kinh tế tri thức, thí nghiệm ảo.
Câu13: Thuật ngữ có đặc điểm gì? -Đặc điểm của thuật ngữ: +Tính chính xác: mỗi thuật ngữ chỉ biểu thị một khái niệm và ngược lại. Do đó thuật ngữ có tính chính xác cao. Thuật ngữ không đa nghĩa như các từ thông thường. +Tính hệ thống: thuật ngữ không đơn lẻ mà bao giờ cũng nằm trong một hệ thống, trông một lĩnh vực khoa học nhất định. +Tính quốc tế: các khái niệm khao học là một kết quả nhận thức chung của một nhân loại, vì vậy thuật ngữ khoa học mang tính quốc tế, phổ biến toàn thế giới.
Câu14: Tìm 5 VD về thuật ngữ trong lĩnh vực khoa học ngữ văn, 5 VD toán học: -Thuật ngữ ngữ văn: đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, chi tiết. -Thuật ngữ toán học: góc, phân giác, đường cao, đường chéo, tam giác.
Câu 15: Có mấy cách trau dồi vốn từ? Muốn sử dụng tốt tiếng Việt phải chú ý gì đối với phần từ vựng? -Có 2 cách trau dồi vốn từ: +Biết đầy đủ chính xác nghĩa và cách dùng từ. +Biết thêm những từ mới để vốn từ của cá nhân ngày càng giàu có.
50
C. PHẦN THỨ BA: TẬP LÀM VĂN
VĂN THUY ẾT MINH: Một số đề bài tham khảo:
Đề 1: Giới thiệu một di tích lịch sử ở quê hương em
Làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nôi có đền Chèm là một trong những ngôi đền cổ nhất nước, đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia. Hàng ngàn năm nay, đền Chèm vẫn vững vàng tọa lạc trong một khu đất rộng cây cối xanh tươi ven sồng Hồng. Quy mô ngôi đền xứng đáng với tài đức của người anh hùng Lí Thân đã có nhiều công lao trong việc dẹp giặc ngoại xâm trong buổi đầu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tương truyền rằng, ông đã được An Dương Vương phong tước Đại Vương. Sau khi ông qua đời, nhân dân trong vùng lập đền thờ, tôn ông như một vị thánh. Du khách đến thăm, từ xa nhìn lại đã thấy bốn cây cột trước mặt đền sừng sững in bóng trên nền trời xanh. Mái đền được lợp bằng ngói vảy cá, thời gian đã phủ lên một lớp rêu phong cố kính. Các đầu đao cong vút nhẹ nhàng, thanh thoát tựa dáng rồng bay. Trên nóc tam quan, đôi rồng được cẩn bằng sứ rất đẹp được đặt ở thế lưỡng long chầu nguyệt, trông sinh động vô cùng! Bên trong đền, hệ thống cột và xà ngang, xà dọc được chạm trổ khéo léo, tinh vi. Có thể nói các nghệ nhân xưa đã dồn cả tâm huyết của mình vào đó. Trên bàn thờ, chính giữa là chiếc lư đồng cồ ngàn tuổi, chứng minh cho kĩ thuật đúc đồng đạt tới trình độ cao của tổ tiên tự xa xưa. Trước bàn thờ là cặp hạc rất lớn đứng chầu. Đi sâu vào gian sau, ta sẽ thấy có hai bức tượng sơn son thếp vàng dung mạo và tư thế uy nghi, đường bệ. Đó là tượng của Thượng Đẳng Thiên Vương Lí Thân và phu nhân là công chúa nước Tần tôn là Bạch Tinh Dư. Giai thoại kể rằng, sau khi giúp vua Tần phương Bắc đánh tan giặc Hung Nô, Lí Thân đã được vua Tần gả con gái cho và nàng đã theo chồng về phương Nam xa xôi, trở thành nàng dâu hiền thảo của đất Đại Việt. Đền Chèm nổi tiếng linh thiêng nên mùa lễ hội năm nào cũng vậy, khách hành hương đổ về đây đông nườm nượp, dâng hương tưởng nhớ tới vị anh hùng cứu nước và cầu xin Ngài ban cho những điều tốt lành, may mắn. Đây cũng là biểu hiện truyền thống tốt đẹp Uống nước nhớ nguồn của dâu tộc ta.
51
Đề 2: Cây lúa Việt Nam (cây tre, cây hoa mai . ..)
Từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người,làng quê Việt nam.Và
đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh-nền văn minh lúa
nước.Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong
đời sống văn hóa và tinh thần.hạt lúa và người nông dân cần cù,mộc mạc là
mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay
và mãi mãi về sau.
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới.
Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương
thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới “bát cơm”,”hạt
gạo”.Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay.
Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng
hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng
lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị
trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong
những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được
những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ
hai trên thế giới.
Đối với người Việt nói riêng hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây
lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức
gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi
còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa
cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một
biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về
gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi
sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con
người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ
trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng
của những người hai sương một nắng.
52
Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng
thì buổi chiều mộng “ngồi” được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn
đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống
được trong môi trường mới, đích thực của nó.
Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người
ta bảo là mạ đã “xanh đầu”. Mạ cũng có “gan”. “Gan mạ nằm ở thân non, dễ
bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập “gan” thì dảnh mạ sẽ “chết”.
Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay “đứng
chân”. Cũng như chữ “ngồi” ở trên, chữ “đứng chân” rất chính xác, rất hình
tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu
vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã “đứng chân”
được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã
chắc chắn bám trên mặt đất.
Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách “đẻ nhánh”. Nhánh
“con” nhánh “cái” thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng
hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm
mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó
chính là lúc cây lúa “đang thì con gái”, thời đẹp nhất của đời lúa, đời người.
Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra
bát ngát, đẹp tựa bức tranh.
Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn “tròn mình”, “đứng
cái” rồi “ôm đòng”. Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác.
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Nếu mưa thuận
gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trỗ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì
đòng không trỗ lên được, người ta bảo bị “nghẹn”. “Nghẹn” là cực lắm rồi, là
có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng…
Ngoài ra cũng có thể bị “ngã”, bị “nằm” lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà
ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu
chẳng may bị “ngã” non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa
“nằm” dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy
mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với
nhau, thóc nhà tôi “nhe răng cười” ông ạ!
53
Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn
vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm
lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có
thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa
lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông
qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.
Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi
vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng
nàn hoà quyện thân thương.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công
nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt,
hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.
54
Đề 3: Viết bài văn thuyết minh về quê hương, thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Du.
Viết bài văn thuyết minh về quê hương, thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Du Lưu ý chung: Thuyết minh kết hợp các yếu tố (biện pháp nghệ thuật, miêu tả . . .)
ĐÃ IN RA GIẤY
55
VĂN TỰ SỰ: Một số đề luyện tập tham khảo:
Để 1: Tưởng tượng 20 năm sau khi tốt nghiệp THCS, em trở về thăm trường cũ vào một ngày hè. Hãy viết thư cho một người bạn học hồi ấy để kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó.
Nam Hải thân mến ! Đã lâu rồi không gặp lại cậu . Thời gian vun vút như thoi đưa, mới gặp nhau kỳ Tết vậy mà bây giờ hè đã sang. Hải có khỏe không? Cuộc sống gia đình bạn thế nào? Thùy và hai cháu vẫn ổn cả chứ ? Còn gia đình mình vẫn bình thường. Hai cháu Anh Dũng và Đỗ Uyên vẩn khỏe, ngoan và học giỏi. Nam Hải à! Thời gian này bạn hay về quê không? Bạn có biết tin gì về tập thể lớp 9E ngày xưa không? Tháng trước, sau khi đã chuẩn bị xong công việc cho buổi hội thảo ngày mai ở công ty, mình bật Ti-vi theo dõi chương trình buổi tối, mình vô cùng ngạc nhiên khi mình thấy chuyên mục Văn hóa - Xã hội đang giới thiệu về trường THCS Hòa Phú, nơi chúng mình học ngày xưa. Vẫn còn những quang cảnh ấy nhưng khi ngắm nhìn trên màn ảnh nhỏ, mình thấy vừa quen vừa lạ. Kỷ niệm cũ bỗng được đánh thức sau một thời gian dài ngủ yên trong tiềm thức. Vừa qua, sau khi bàn bạc với gia đình, mình quyết định cùng người thân về thăm quê và trên hết là để thăm lại mái trường thân yêu mà ngày nào chúng mình đã học. Những tia nắng rực rỡ của mùa hè như theo bước mình tới trường. Trường nằm cạnh đường quốc lộ, nhưng cổng lại cách trường khá xa. Con đường rải đá vụn đến cổng trường ngày xưa nay đã được rải nhựa. Thấp thoáng sau những rặng cây um tùm, ngôi trường thân yêu sừng sững như một vị thần khổng lồ hiện ra trước mắt người học trò cũ. Trước cổng trường, hàng cây hoa sữa vẫn còn đó, trang nghiêm như nhũng người gác cổng trung thành với ngôi trường mến yêu. Khi đi dưới hàng hoa sữa mùi hương của nó làm mình buâng khuâng, cái mùi bùi bùi khiến mình nhớ lại rất nhiều kỷ niệm của tuổi học trò đầy ước vọng và khao khát đó. Nhưng nay hàng cây này đã lớn dần theo năm tháng và nó cũng mang theo bao ước mơ của chúng mình Hải nhỉ! Phía sau dãy hoa sữa là hai cột cổng khá cao, được xây vững chắc, đỡ tấm biển màu trắng với hàng chữ ngay ngắn, sắc nét : "Trường trung học cơ sở Hòa Phú". Nam Hải à! Bước vào sân, điều gây ấn tượng với mình đầu tiên đó là dãy bàng ngày xưa tụi mình trồng nhân ngày khai trường , giờ đã xòe tán rộng giữa sân giang tay chào đón bạn bè xưa trở lại. Phía hai đầu sân là những cây phượng, với từng chùm hoa đỏ thắm khoe sắc giữa vòm trời xanh biếc. Màu hoa phượng, màu sắc của tuổi học trò. Nó làm mình nhớ khi ngày xưa tụi mình thi nhau trèo lên bứt nhụy của hoa phượng để chơi trọi gà. À mà này! Hải ơi, trên một cành phượng mình vô tình phát hiện ra một tổ ong với những chú ong thợ tất tả bay đi bay lại, chăm chỉ làm việc. Đó cũng là một kỉ niệm đẹp phải không? Khi mình bị ong đốt vào má sưng vù lên, còn bạn thì bị đốt vào cổ trông to như cái bướu. Chẳng lẽ thời gian trôi nhanh vậy sao? Mình không khỏi chạnh lòng khi nhớ lại kỷ niệm của ngày xưa. Vậy mà giờ đây mỗi người mỗi ngã với những số phận, những công việc, những môi trường
56
khác nhau. Ngoài dãy lớp học ba tầng cũ, trường xây thêm hai dãy lớp ba tầng nữa được xếp theo hình chữ U ôm lấy chiếc sân được đổ bê tông. Giữa sân là cột cờ cao chót vót với lá quốc kỳ uốn mình trong gió. Trường vừa được sơn lại màu hồng phấn còn mới. Dọc theo hành lang trước các phòng học ở tầng một vẫn là những bồn hoa, được bao bọc bởi hàng tóc tiên, bên trong là những đám hoa mười giờ xen lẫn với những đám bông nhỏ như những chiếc cúc áo sặc sỡ. Trước mỗi lớp học đều có bảng ghi tên lớp với nền màu xanh và chữ trắng. Tầng ba của khu mới xâycó những phòng vi tính, phòng thiết bị, thư viện, căng-tin...cửa kính sáng choang. Tất cả tạo nên khung cảnh vừa hiện đại vừa cổ kính. Và mình cũng biết được thầy hiệu trưởng năm xưa dìu dắt lớp mình, trước khi về hưu đã cố gắng xây dựng được một ngôi trường khang trang và đầy đủ tiện nghi như bây giờ cho các học sinh thân yêu của mình được học tập trong một môi trường tốt đẹp nhất. Sân trường vắng lặng và yên tĩnh khiến cho mình nhớ đến khi xưa khoảng cuối tiết ba bỗng ba tiếng trống vang lên không khí ồn ào bắt đầu nổi lên từ các lớp. Rồi từng đợt, từng đợt học sinh chạy ra như ong vỡ tổ. Sân trường im lặng bổng trở nên nhộn nhịp, giá như bây giờ tụi mình được trở về thời học trò ngày xưa thì tốt biết mấy nhỉ ? Nam Hải à! Khi lên phòng hiệu trưởng, mình nói chuyện với thầy Minh hiệu trưởng mới. Nghe thầy nói, mình mới biết phần lớn các thầy cô dạy chúng mình ngày xưa giờ đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển trường. Cô chủ nhiệm lớp mình đã chuyển về quê cùng gia đình.Hải à! Bây giờ nhớ lại những kỷ niệm về cô thì mình lại ân hận vì đã nhiều lần làm cô buồn, nhưng cô không một lời trách mắng mà còn ân cần như một người mẹ hiền nhắc nhở con của mình đừng nên mắc lỗi nữa, mà hãy cố gắng học tập để không phụ lòng thầy cô và cha mẹ. Cũng vì những lời đó mà mình đã cố gắng học tập và có được như ngày hôm nay. Ước gì bây giờ được gặp lại cô, mình sẽ cảm ơn cô rất nhiều vì đã rộng lượng bỏ qua nhưng lỗi lầm trước đây của mình. Mặc dù không gặp được cô nhưng mình mong cô có một cuộc sống hạnh phúc và an dưỡng tuổi già bên người thân của mình.Sau một hồi trò chuyện, thầy Minh cho mình biết, nhiều năm qua trường mình đứng đầu toàn thành phố về kết quả học tập và còn được công nhận là lá cờ đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Mặc dù trường mình chỉ là trường ven thành phố nhưng cũng đã có nhiều anh chị đi trước thi đỗ vào những trường danh giá của tỉnh như: trường chuyên Nguyễn Du, THPT Buôn Ma Thuột, trường thực hành Cao Nguyên...Cậu có thấy tự hào không ? Tạm biệt ngôi trường để trở về với cuộc sống và công việc thường ngày, mình luôn nhớ lại những kỷ niệm đẹp về nó. Trong cuộc đời mỗi con người, thời học trò là quãng đời đẹp nhất và trong sáng nhất. Vì vậy chúng mình cần nâng niu và trân trọng nó Hải nhé! Cuối thư, mình mong bạn và gia đình gặp nhiều điều tốt lành trong cuộc sống. Nhớ hồi âm cho mình sớm nhé.
57
Đề 2: Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ trò chuyện đó. Nhân một chuyến đi thăm nghĩa trang liệt sĩ,tôi gặp người sĩ quan đang đứng thắp hương cho người đồng đội đã mất.Tôi và người sĩ quan đó trò chuyện rất vui vẻ và thật tình cờ tôi biết được người sĩ quan này chính là anh lính lái xe trong "Bài Thơ Về Tiểu Ðội Xe Không Kính" của Phạm Tiến Duật năm xưa. Người sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt,những con đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc lại là nơi ác liệt nhất.Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm dội xuống những con đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện của miền Bắc cho miền Nam.Trong những ngày tháng đó anh chính là người lính lái xe làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực,vũ khí,đạn dược...trên con đường TS này.Bom đạn của giặc Mỹ đã biến cho những chiếc xe của các anh không còn kính nữa.Nghe anh kể,tôi mới hiểu rõ hơn về sự gian khổ ác liệt mà những người lính lái xe phải chịu đựng ngày đêm.Nhưng không phải vì thế mà họ lùi bước,họ vẫn ung dung lái những chiếc xe không kính đó băng băng đi tới trên những chặn đường.Họ nhìn thấy đất,nhìn thấy trời,thấy cả ánh sao đêm,cả nhưng cánh chim sa,họ nhìn thẳng về phía trước,phía ấy là tương lai của đất nước được giải phóng,của nhân dân được hạnh phúc,tự do.Người sĩ quancòn kể với tôi rằng không có kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn lái những chiếc xe đó,bụi ùa vào làm những mái tóc đen xanh trở nên trắng xóa như người già,bọn họ cũng chưa cần rửa rồi nhìn nhau cất tiếng cười ha ha.Ôi! tiếng cười của họ sao thật nhẹ nhõm.Gian khổ ác liệt,bom đạn của kẻ thù đâu có làm họ nãn chí,sờn lòng.Những chiếc xe không kính lại tiếp tục băng băng trên những tuyến đường ra trận,gặp mưa thì phải ướt áo thôi.Mưa cứ tuôn cứ xối nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cứ ráng lái thêm vài trăm cây số nữa,vượt qua những chặng đường ác liệt,đảm bảo an toàn cho những chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng,gió sẽ lùa vào rối áo sẽ khô mau thôi.Khi được học "Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính" tôi cứ luôn suy nghĩ rằng những khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có nhân vật trong bài thơ mới vượt qua được nhưng đó là những suy nghĩ sai lầm của tôi bởi được gặp,được trò chuyện với người chiến sĩ lái xe năm xưa,tôi mới hiếu rõ hơn về họ.Họ vẫn vui tươi,tinh nghịch.Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm nổ sát bên tai phá hủy con đường,cái chết luôn rình rập bên họ nhưng họ vẫn là những con người lạc quan,yêu đời.Anh sĩ quan lại kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó anh luôn được gặp những người bạn,những người đồng đội của anh.Có những người còn,có những người đã hy sinh...Trong những giây phút gặp gỡ hiểm hoi đó,cái vắt tay qua ô cửa kính vỡ đã làm cho tình đồng đội của họ thấm thiết hơn rồi những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát,đôi đũa dùng chung,quây quần bên nhau như một đại gia đình của những người lính lái xe TS.Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa,kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi qua.Sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt.Đúng là con đường của họ đang đi,nhiệm vụ của họ đang làm vô vùng nguy hiểm.Bom đạn Mỹ hạ xuống bất cứ lúc nào,cả ngày lẫn đêm.Anh sĩ quan còn nói cho tôi biết những chiếc xe ấy không chỉ mất
58
kính mà còn mất cả đèn,rồi không có mui xe,thùng xe rách xước,những thiếu thốn này không ngăn cản được những chiếc xe vẫn chạy băng băng về phía trước,phía trước ấy là miền Nam ruột thịt.Nghĩ đến hình ảnh những chiếc xe băng băng về phía trước tôi lại nghĩ đến những người lính lái xe.Họ thật dũng cảm,hiên ngang,đầy lạc quan,có chút ngang tàng nhưng họ sống và chiến đấu vì Tổ Quốc,vì nhân dân.Những chuyến hàng của họ đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc ta:chiến thắng mùa xuân năm 1975,giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước. Tôi và anh sĩ quan chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ và nói chuyện rất vui.Tôi khâm phục những người lính lái xe bởi tình yêu nước,ý chí kiên cường của họ và tôi hiểu rằng thế hệ chúng tôi luôn phải ghi nhớ công ơn của họ,cần phải phấn đấu trở thành công dân gương mẫu,nắm vững khoa học,kĩ thuật để xây dựng một đất nước văn minh,hiện đại.DÀN BÀI: Mở bài: Tình huống để các nhân vật gặp gỡ: - Có thể đến thăm gia đình thương binh, thăm Bảo tàng quân đội, thăm Nghĩa trang liệt sĩ . . .được gặp người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn năm xưa. - Hoặc tưởng tượng đến Trường Sơn trong chiến tranh chống Mĩ và gặp các chiến sĩ lái xe. (Lưu ý: tình huống cần tự nhiên, có tác dụng làm rõ tính cách người lính lái xe) Thân bài: - Người lính lái xe kể chuyện. - Nhân vật “tôi” giữ vai trò gợi chuyện, đánh giá làm rõ ý nghĩa câu chuyện. Cần làm rõ những ý sau: + Những gian khổ mà người lính lái xe phải chịu đựng: sự khốc liệt của chiến tranh, kính xe vỡ, xe bị tàn phá nặng nề. . . + Những phẩm chất cao đẹp của người lính: dũng cảm, hiên ngang, lạc quan và có chút ngang tàng của nghề nghiệp, trẻ trung nhưng sống có lý tưởng, có trách nhiệm với Tổ quốc. + Sự khâm phục, yêu mến, kính trọng của nhân vật “tôi” Kết bài: Kết thúc cuộc nói chuyện - Chia tay với người lính lái xe. - Ấn tượng của nhân vật “tôi” - Suy nghĩ về người lính lái xe, về thế hệ cha anh kháng chiến
59
Đề 3: Nhân ngày 20 tháng 11, kể cho các bạn nghe về một kỷ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy, cô giáo cũ.
Trong cuộc đời mỗi con người ai cũng có những kỷ niệm đáng nhớ không thể nào quên. Quãng đời học sinh của bạn và tôi cũng vậy, một khi đã trải qua thì không khỏi ghi lại trong lòng những dấu ấn sâu sắc. Nhưng đấy không nhất thiết phải là kỷ niệm ngập tràn niềm vui và tiếng cười. Đôi khi đó lại là một câu chuyện buồn cứ khiến lòng ta phải ray rứt mãi như câu chuyện tôi sắp kể cho các bạn sau đây. Giờ ra chơi hôm ấy, tôi được phân công trực nhật cùng Liên. Tôi bảo Liên cứ xuống căn tin ăn sáng, để một mình tôi trực được rồi. Hình như Liên chỉ chờ có thế, cô bạn gật đầu rối rít rồi phóng như bay xuống sân. Trong lớp giờ chỉ còn lại mình tôi. Tôi câm giẻ định lau bảng nhưng tâm trạng lo âu, thấp thỏm đã kéo tôi ngồi xuống ghế giáo viên. Chuyện là tiết đầu tiên hôm nay tôi đã nghịch ngợm trong lớp, không chịu nghe cô Toán giảng bài. Điều đó khiến cô Toán khó chịu lắm, bèn phạt tôi đứng suốt cả hai tiết và ghi hẳn tên tôi vào sổ đầu bài, đề nghị mời phụ huynh. Tôi run run giở cuốn sổ đầu bài đặt ngay trên bàn giáo viên. Đây, giấy trắng mực đen đây, bằng chứng tội lỗi của tôi đây! Thế nào cô chủ nhiệm cũng mời gặp mẹ tôi cho xem. Có lần đạt điểm kém, tôi phải đối diện với khuôn mặt buồn rười rượi của mẹ. Mẹ tôi luôn phải làm việc vất vả để kiếm từng đồng lương ít ỏi nuôi tôi ăn học. Nếu mẹ biết tin này sẽ thất vọng về tôi biết nhường nào. Ôi, tôi thật là một đứa con bất hiếu. Chợt, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ. Tôi đã tìm ra cách giải quyết vấn đề rồi. Chỉ cần cô chủ nhiệm không đọc được lời phê này thì sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa. Nghĩ được là làm ngay, tôi liền dùng bút xóa xóa đi dòng chữ của cô Toán trong sổ đầu bài. Thận trọng, tôi đặt sổ đầu bài vào vị trí cũ rồi thở phào nhẹ nhõm vì đã trút được nỗi muộn phiền trong lòng. Reeng… reeng… Tiếng chuông báo hiệu hết giờ ra chơi. Tôi xóa vội bảng, quơ vài nhát chổi rồi vào học như bình thường. Mọi việc vẫn diễn ra bình thường cho đến cuối tuần ấy. Giờ sinh hoạt, cô chủ nhiệm xem xét sổ đầu bài. Cô đưa mắt nhìn thật kỹ vào trang giấy, đôi mày cô nhíu lại, rồi bất chợt cô ngước lên, nhìn quanh lớp. Tôi hoảng hốt, bối rối, không dám đối diện với ánh mắt của cô. Hai bàn tay tôi xiết chặt vào nhau, tim tôi đập thình thịch. Hình như cô đã quan sát được thái độ của tôi. Thôi rồi, tôi biết mình sắp bị cô mắng vì tội tày đình này. Thật xấu hổ quá! Trong đầu tôi lúc ấy có biết bao nhiêu nỗi lo sợ, sợ bị hạ hạnh kiểm, sợ mẹ buồn, sợ bạn bè chê cười, … Nhưng sao đến cuối giờ cô chẳng hề đả động gì đến chuyện sổ đầu bài. Lạ thật! Trong tôi đặt ra hàng trăm câu hỏi tại sao và tại sao. Dù vẫn cảm thấy bất an nhưng lòng tôi đã nhẹ nhõm hơn. Và tôi mong rằng sai lầm ấy của mình sẽ được chôn giấu mãi mãi dưới lớp bụi thời gian.Khoảng hai tuần sau đó, vào ngày Giáng sinh, chẳng hiểu vì sao cô chủ nhiệm dành tặng riêng tôi một tấm thiệp vào cuối giờ. Tôi cảm ơn cô rồi vội chạy về nhà, vui mừng mở tấm thiệp ra đọc. Những dòng chữ tròn trịa của tôi khiến cô ngỡ ngàng, sững sờ.“Giáng sinh năm nay, cô chúc em ngày càng học giỏi và ngoan ngoãn. Cô mong em sẽ là một cô bé can đảm hơn để đối mặt với hiện thực, để tìm được
60
cách giải quyết đúng đắn nhất cho mọi khó khăn trong cuộc sống. Trong đời người ai cũng phải phạm sai lầm. Nhưng điều quan trọng là ta rút ra được kinh nghiệm để sống tốt hơn, chứ không phải là che giấu sai lầm đó đến suốt đời. Hãy dũng cảm lên, em nhé!” Tôi sững người, chẳng nói được nên lời. Vậy là cô đã biết hết mọi chuyện rồi ư. Da mặt tôi tê rân rân và nóng dần lên vì xấu hổ với cô và với chính bản thân mình. Cảm ơn cô vì đã bao dung, cảm ơn cô vì đã cho tôi những lời khuyên đầy ý nghĩa ấy.
61
Đề 4: Một đêm thức giấc, em tình cờ nghe được những tâm sự của lọ mực qua câu chuyện của nó với bạn bè. Em hãy thuật lại câu chuyện ấy.
62
Để 5: Kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu đã làm cho em cảm động. Một mái nhà hạnh phúc luôn là mong muốn của nhiều ngừoi, và thật sung sứong biết bao khi tôi đang lớn lên trong tình yêu thưong của ngừoi thân. Tôi yêu ba, yêu mẹ, yêu anh, yêu em, nhưng yêu nhất là ngừoi bà đã khuất của tôi- ngừoi luôn yêu thưong và quan tâm tôi từ ngày còn bé.Bà hiện lên trong kí ức tôi với gưong mặt hiền từ và đôi mắt sâu lõm bên dứoi vầng trán cao đã có nếp nhăn hằng lên trên đấy, lộ rõ sự khắc khổ qua năm tháng. Mái tóc bạc trắng đựoc bà búi lên trông thật gọn gàng. Bà tôi rất hay cừoi. Nụ cừoi của bà làm sáng lên vẻ phúc hậu và nét đẹp lão cho khuôn mặt dù tuổi đã ngoài tám mưoi. Làn da nhăn nheo với những đốm đồi mồi vì tuổi tác. Tay chân bà không còn khỏe như trứoc nữa. Ôi! Sao mà thấy thưong bà thế! Tôi vẫn nhớ như in cái ngày còn nhỏ, cùng bà đi trên con đừong làng vắng vẻ. Ánh nắng ban mai ôm ấp lấy hai bà cháu, bóng tre xanh bên đừong như đang mở lối, còn những chú chim thì ngân nga đâu đó khúc hát chào ông mặt trời. Tôi vui vẻ trong vòng tay yêu thưong của bà, cùng bà cất những bứoc chân đến ngôi trừong mẫu giáo ở cuối xóm. Thích lắm những khi đựoc bà trao cho cái kẹo, cái bánh. Bà là vậy đấy! Luôn dành những thứ ngọt ngào nhất cho tôi! Và hạnh phúc nhất là vào những đêm trăng sáng! Bà hay dẫn tôi ra trứoc thềm nhà, đặt tôi tựa đầu trong vòng tay bà rồi kể tôi nghe những câu chuyện cổ tích dưói ánh trăng sáng mờ và bóng hàng dừa trứoc nhà. Lời bà ấm áp, nhẹ nhàng đưa tôi vào giấc ngủ ngon nhất giữa cảnh trăng và tiếng gió thổi vi vu trên những tàu dừa cao chót vót giữa sự tĩnh lặng của mọi vật. Bàn tay bà nhẹ nhàng vuốt lên tóc tôi thật trìu mến. Tôi thấy sao mà ấm áp quá! Bà yêu tôi, luôn quan tâm tôi từ ngày còn bé như thế đấy! Bà chẳng khi nào giận dữ với tôi cả. Khi tôi vui hay làm điều gì tốt thì bà luôn cừoi và động viên tôi tiếp tục cố gắng. Còn khi tôi làm sai việc gì thì bà nhẹ nhàng nhắc nhở, rồi cũng cừoi với tôi- nụ cừoi của bà đầy khích lệ và niềm tin vào tôi.Tôi nghĩ đến bà trong cuộc sống. Cứ mỗi lần vấp ngã hay thất vọng, tôi lại nhìn về nụ cừoi của bà trong ảnh là lại có thêm nghị lực để vưon lên và vựot qua tất cả. Ánh mắt bà nhìn tôi như ẩn chứa điều gì đấy. làm cho tôi lại chợt nhớ đến những lời động viên, khích lệ của bà ngày trứoc để tiếp tục cố gắng và hình ảnh của bà luôn bên tôi như ngày còn bé. Tôi đã gặp bà trong mơ, bà nhìn tôi và vẫn nở nụ cừoi như ngày trứoc. Mai này lớn lên, tôi vẫn sẽ không quên những kỉ niệm bên bà. Dù thời gian có trôi xa đến đâu, dù mọi vật có đổi thay như thế nào thì tôi vẫn yêu bà, tình cảm đó là vĩnh cửu và sẽ không mờ nhạt. Hình ảnh của bà và nụ cừoi mà bà dành cho tôi sẽ mãi trở thành động lực để tôi vưon lên trong những khó khăn vô vàng của cuộc sống, vẫn là hình ảnh mà tôi yêu nhất. Mong sao ở thế giới bên kia bà sẽ luôn vui vẻ dù không có tôi ở cạnh. Bà bây giờ đã ở thế giới rất xa, đã không còn bên tôi như ngày trứoc nữa. Với tôi, bà như bà tiên trong truyện cổ tích. Bà đã đem đến cho tôi những điều kì diệu và những phút giây tuyệt vời trong suốt một thời tuổi thơ. Trong cuộc sống, có lẽ khi ngưòi mà ta yêu quí nhất ra đi thì ngừoi ta rất dễ gục ngã! Nhưng tôi thì không! Tôi tin rằng bà ở trên thiên đàng đang nhìn theo tôi, dõi theo bứoc tôi trên cuộc đời. Tôi sẽ luôn học thật giỏi để bà đựoc vui lòng nơi
63
phưong trời xa kia. Tôi muốn kêu lên thật to: "Bà ơi! Cháu nhớ bà!" để gió mang những tình cảm của tôi đến với bà- ngừoi tôi yêu nhất.
64
Đề 6. Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12). Trong buổi gặp gỡ đó,em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ của thế hệ mình về thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Nhân kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), trường tôi mời các cựu chiến binh về dự lễ. Tôi được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ của thế hệ mình về thế hệ cha anh đã chiếc đấu, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Trước khi bữa lễ bắt đầu, khoảng 7 giờ 30 phút thầy cô cứ chạy tới chạy lui để tập họp và sắp xếp chỗ ngồi cho chúng tôi. Sau khi đã ổn định, có một chiếc xe “Zýp” chạy tới và đậu trước cổng trường tôi. Trên đó có 3 người đàn ông từ từ bước xuống xe, tôi đoán ngay là các chú bộ đội vì tóc ai cũng đã bạc hơn một nữa, ai cũng ăn vận bộ đồ lính, đầu độ nón cối, chân đi dép lốp. Hai bác khoảng năm mươi năm tuổi, một bác người cao lớn, lực lưỡng và giọng nói ôn tồn, trên mặt đầy vết sẹo chắc hẵn bác phải bị giặc hành hạ và tra tấn rất nhiều. Còn bác kianhỏ con chỉ một chân. Khi di chuyển, bác phài chống nạp mà đi. Nhưng bác còn yêu đời lắm vì tôi thấy bác luôn nở nụ cười từ khi bước xuống xe. Tôi thấy thương các bác quá vì các bác đã cống hiến cho đất nước một phần xác thịt của mình. Tiếp đó là một anh chiến sĩ, bước đi dứt khoác. Hình như anh là người mới, đi để học hỏi thêm. Anh và hai bác vào bước vào chỗ ngồi dưới sự hướng dẫn của thầy giám thị. Sau lời giới thiệu mở đầu của thầy Hiệu trưởng, bác có thân hình lực lưỡng lên phát biểu ý kiến của mình. Bác kể cho chúng tôi nghe về nhiều chuyện lắm, kể cả chuyện về lịch sử ra đời ngày 22/12.Giờ thì chúng tôi đã biết: Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12 /1944. Ngay sau đó đội đánh thắng 2 trận liên tiếp tại Phăy Khắt,Nà Ngần…Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.Và từ đó lấy ngày 22/12 làm ngày truyền thống. Bây giờ thì tôi đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22/12,hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta.Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức đển nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường…Chúng tôi còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng, hào hùng của những người lính cụ Hồ, về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược, những gian khổ hy sinh không thể diễn tả bằng lời. Đến thời bình, bộ đội đâu đã hết nguy nan: Những đêm tuần tra lạnh run người khi truy bắt tội phạm chống lại những lực lượng thù địch phá hoại từ bên ngoài, những lúc giúp dân chống thiên tai,lụt lội...Chúng tôi say mê theo dõi, im lặng, hồi hộp nói không nên lời. Tôi nhìn lên khuôn mặt đầy vết sẹo nhưng gắn bó tình người ấy, tôi không khỏi bồi hồi và xúc động. Đến phiên tôi lên đọc, những suy nghĩ và cảm súc của tôi dân trào: - Kính thưa các bác, các chú ,chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng. Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay, dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều, bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hy sinh cho Tổ quốc. Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đối với cha anh, chúng cháu hứa sẽ cố gắn học tập, rèn
65
luyện bản thân để trở thành những công dân có ích, góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng đất nước. Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quí cuả dân tộc ta, xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ ông cha.- Vừa dứt lời tràn vỗ tay lớn vang lên. Anh và hai bác cùng các thầy cô có vẻ hài lòng vói ý kiến của tôi. Tôi ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn còn run,trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì . Bác nói nhỏ bên tai tôi rằng tôi hãy cố gắn làm những gì tôi đã nói và bác mong nó sẽ thành hiện thực. Sau khi giao lưu khoảng hai tiếng đồng hồ, có tiếng chuông thông báo đã hết giờ. Chúng tôi luyến tiếc nhìn anh và các bác bộ đội bước lên xe “ Zýp”, họ vẫy tay chào tạm biệt chúng tôi với đôi mắt kì vọng. Có thể đôi mắt ấy muốn nói rằng các bác luôn kì vọng vào chúng tôi.Sau buổi hôm đó, tôi luôn nghĩ đến những gì bác đã đã nói với tôi. Tôi tự hứa với lòng mình rằng: “Mình sẽ cố gắng trở thành một người công dân tốt, luôn biết hi sinh vì đất nước như bác đã từng làm”.
Dàn ý: Mở bài: - Lịch sử Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12. - Ngày 22-12 năm vừa rồi, trường em đã tổ chức một chuyến đi thăm các chú bộ đội ( quân khu thủ đô,biên phòng,công binh…) Thân bài: - Không khí náo nức, hào hứng phấn chấn chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi. - Trên đường đi và niềm vui gặp gỡ: + Dọc đường: hát hò, hồi hộp… + Đến nơi: _Các chú, các anh bộ đội: vui vẻ, thân thiện, đón tiếp nồng nhiệt. _Sau màn chào hỏi tưng bừng, tất cả cùng đi tham quan nơi ăn, nơi ở, phòng truyền thống, khu vực luyện tập… của đơn vị. - Trên hội trường diễn ra cuộc gặp gỡ: + Tất cả trở lại hội trưởng để nghe các chú, các anh nói chuyện ( phần trọng tâm ). + Giới thiệu người nói chuyện. + Nội dung câu chuyện: Kể về ai, về việc gì? Xảy ra ở đâu,trong hoàn cảnh nào? Nhân vật trong chuyện là người đang kể chuyện hay đồng đội, còn sống hay đã hi sinh?... + Trong câu chuyện có những tình huống gay cấn, những chi tiết bất ngờ nào? - Kết thúc cuộc gặp gỡ, đại diện HS lên phát biểu: + Thay mặt thầy cô và các bạn cảm ơn sự đón tiếp, cảm ơn người nói chuyện. + Phát biểu cảm xúc: cảm động, tự hào, biết ơn… + Hứa hẹn: học tập và rèn luyện tốt, xứng đáng với thế hệ cha anh; sẵn sàng tiếp bước cha anh xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Kết bài: - Hiểu biết hơn về hình ảnh anh bộ đội và ngày 22-12. - Cảm xúc dạt dào, mong có nhiều dịp gặp gỡ, giao lưu nữa để nâng cao hiểu biết và đời sống tâm hồn thêm phong phú. ( Hết )
66
ĐỀ KIỂM TRA HK I (Tham khảo)
67
Đề 1: Câu 1 - Chuyển đoạn văn sau từ cách dẫn trực tiếp sang cách dẫn gián tiếp. Nêu cách chuyển?(2đ) Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?” (Lão Hạc- Nam Cao) Câu 2 (Tập làm văn) (5 đ) Kể lại một câu chuyện đáng nhớ của bản thân, trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận và miêu tả nội tâm.
Đề2 Câu 1: ( 3,0 điểm ) Xác định biện pháp tu từ của đoạn thơ sau và phân tích giá trị biểu đạt của biện pháp tu từ đó:
68
Mặt trời xuống biển như hòn lửa. Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Câu 2 : ( 5 điểm ) Suy nghĩ về tình cha con trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Thuật ngữ Là từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học, công nghệ thường được dùng trong các văn bản khoa học, công nghệ bán kính, bánh đà,...
Biệt ngữ xã hội Là từ ngữ dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định cớm (công an), phao (tài liệu), trúng tủ (học trúng bài thi)Từ tượng hình Là từ ngữ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ trạng thái của sự vật lom khom, ngoằn ngoèo, tí xíu,...Từ tượng thanh Là từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người róc rách, đì đùng, khe khẽ,...So sánh Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt hiền như đất, nặng như chì, khôn như cáoẨn dụ Là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm Uống nước nhớ nguồn; Ăn cây nào rào cây ấy...Nhân hóa Là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật... bằng những từ ngữ vốn
69
được dùng để tả con người, làm cho thế giới loài vật trở nên gần gũi Từ đó, lão miệng, bác tai, cô mắt, cậu tay, cậu chân lại thân mật sống với nhauNói quá Là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm Cây đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng càyNói giảm, nói tránh Là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề, thô tục, thiếu lịch sự... Các từ đi, về, qua đời, mất, khuất núi, từ trần... nói về cái chết, tránh gây cảm giác đau buồnLiệt kê Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn đạt được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế, tư tưởng, tình cảm Chiều chều lại nhớ chiều chiều Nhớ nồi cơm nguội nhớ niêu nước chèĐiệp ngữ Là biện pháp lặp lại từ ngữ (hoặc cả câu) để làm nổi bậc ý, gây cảm xúc mạnh Một canh, hai canh, lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lànhChơi chữ Là lợi dụng đặc điểm về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước... làm cho câu văn hấp dẫn, thú vị Con cá đối nằm trong cối đá
* Phương châm hội thoại về lượng (Đủ)- Khi giao tiếp, cần nói có nội dung (đủ thông tin cần thiết), không thừa, không thiếu*VD: A: Cậu có biết bơi không?B: Có chứ, bơi giỏi là đằng khácA: Cậu học ở đâu vậy? => Muốn địa điểmB: Dĩ nhiên là ở dưới nước chứ còn ở đâu => Trả lời thiếu thông tin* Phương châm hội thoại về chất- Trong giai tiếp, ta cần nói đúng, không nói những điều sai sự thật*VD: - Cái nồi đồng to bằng cái đình làng => Nói sai, không đúng sự thật* Phương châm hội thoại về quan hệ- Trong giao tiếp, cần nói đúng đề tài, tránh lạc đề*VD: Ông nói gà, bà nói vịtNgười này nói một đằng, người kia nói một nẻoKhông hiểu nhau* Phương châm hội thoại về cách thức- Cần nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu*VD: - Lúng búng như ngậm hột thị => Nói không rõ ràng- Dây cà ra dây muống => Nói dài dòng* Phương châm lịch sự- Trong giao tiếp cần biết tôn trọng lịch sự, tinh tế, khiêm tốn*VD: An và Bình đang ăn khoaiAn: Khoai này ngon nhỉ?Bình: Ừ ngon, ở quê tớ toàn cho lợn ănAn: !?=> Bình vô ý, không khéo**GHI NHỚ:- Để tuân thủ các phương châm hội thoại, người nói phải nắm được các đặc
70
điểm của tình huống giao tiếp (Nói với ai? Nói khi nào? Nói ở đâu? Nói nhằm mục đích gì?)- Những trường hợp không tuân thủ các phương châm hội thoại thường là do:+ Người nói vô ý, vụng về, thiếu văn hóa giao tiếp+ Người nói phải ưu tiên cho một phương châm hội thoại hoặc một yêu cầu khác quan trọng hơn+ Người nói muốn gây sự chú ý, hướng người nghe hiểu câu nói theo một nghĩa hàm ẩn nào đó- Tóm tắt "Lặng lẽ Sa Pa".Trích:Trên chuyến xe từ Hà Nội đến Lào Cai, bác lái xe, ông họa sĩ lão thành và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ vui vẻ trò chuyện. Chiếc xe dừng lại 30 phút để hành khách nghỉ ngơi. Nhân dịp đó, bác lái xe giới thiệu với mọi người anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn.Anh thanh niên mời ông họa sĩ và cô gái lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Mặc dù chịu nhiều gian khổ nhưng anh vẫn tích cực làm việc góp phần vào công việc lao động sản xuất và chiến đấu. Ông họa sĩ cảm nhận được nét đẹp của người lao động mới qua hình ảnh anh thanh niên. Ông định vẽ chân dung anh nhưng anh từ chối và giới thiệu 2 người khác xứng đáng hơn, đó là ông kĩ sư trồng rau và người cán bộ nghiên cứu sét. Ông họa sĩ và cô gái chia tay anh để tiếp tục cuộc hành trình với bao tình cảm lưu luyến.Chủ đề bài "ánh trăng" của Nguyễn Duy.Trích:Trên chuyến xe từ Hà Nội đến Lào Cai, bác lái xe, ông họa sĩ lão thành và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ vui vẻ trò chuyện. Chiếc xe dừng lại 30 phút để hành khách nghỉ ngơi. Nhân dịp đó, bác lái xe giới thiệu với mọi người anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn.Anh thanh niên mời ông họa sĩ và cô gái lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Mặc dù chịu nhiều gian khổ nhưng anh vẫn tích cực làm việc góp phần vào công việc lao động sản xuất và chiến đấu. Ông họa sĩ cảm nhận được nét đẹp của người lao động mới qua hình ảnh anh thanh niên. Ông định vẽ chân dung anh nhưng anh từ chối và giới thiệu 2 người khác xứng đáng hơn, đó là ông kĩ sư trồng rau và người cán bộ nghiên cứu sét. Ông họa sĩ và cô gái chia tay anh để tiếp tục cuộc hành trình với bao tình cảm lưu luyến.