Top Banner
Mở Lời .............................................................................................. 2 Thanh Hiên Thi Tập .......................................................................... 4 Nam Trung Tp Ngâm .................................................................... 51 Bc Hành TpLc ......................................................................... 72
208

Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Nov 27, 2021

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Mở Lời .............................................................................................. 2Thanh Hiên Thi Tập.......................................................................... 4Nam Trung Tạp Ngâm.................................................................... 51Bắc Hành Tạp Lục ......................................................................... 72

Page 2: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Mở Lời

guyễn Du là tác giả lớn nhấttrong văn học Việt Nam. Truyện Kiều của ông không

những chỉ là một thi phẩm được toànthể ngưòi Việt Nam ưa chuộng mà cònlà một tác phẩm được giới văn học đối chiếu đặc biệt nghiên cứu và đồng ý làtác phẩm này, trên mặt văn học, vượt xa nguyên tác Trung Quốc và nhiều tác phẩm phỏng tác cùng nguyên tác của Nhật bản 1. Số đầu sách bàn về Nguyễn Du và Truyện Kiều ở Việt Nam, từ trước tới nay, nhiều đến mức khó có ai đọc hết xuể.

Nhìn qua Truyện Kiều, nhiều tác giả đãbàn về tâm sự Nguyễn Du. Chủ đề Nguyễn Du dùng hình ảnh Thúy Kiều để giãi bày tâm sự đã đi sâu vào lòngngưòi Viêt Nam sau gần một trăm năm qua, vì thi phẩm này đã được dùng làmsách giáo khoa tại các truờng trung học.

Đàng khác, Nguyễn Du còn để lại cho người đời sau ngoài hai trăm bài thơViệt Âm, chia làm ba cuốn:

1. Thanh Hiên Thi Tập,2. Nam Trung Tạp Ngâm3. Bắc Hành Thi Tập.

Cho tới nay chỉ có năm tác phẩm dịch và bình chú về ba tập thơ nói trên. Đólà:

1. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Kỷ, Nguyễn Khắc Danh, Văn Hóa, Hà Nội 1959, gồm 102 bài;

1Hatakéna Toshio (Hoàng Trung Mẫn

Lang) On Kim Vân Kiều – China, Viêt NamJapan, Tamkiang Review, vol #2, TeipeiOctober 1971.

2. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, LêThước & Trường Chính, Văn Học, Hà Nội, 1965, 249 bài;

3. Tố Như Thi Trích Dịch, Quách Tấn, An Tiêm, Saigon 1973, 92bài;

4. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, ĐàoDuy Anh, Văn Học, Hà Nội 1988, 249 bài

5. Nguyễn Du Toàn Tập, tập 1, Mai Quốc Liên, và Al, Văn Học HàNội, 1996, 238 bài.

Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim tin rằng lấy truyện Kiều mà xét tâm sự Nguyễn Du thì không lầm được. Ông cho rằng vìchữ mệnh oái oăm như bắt Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ, bắt Nguyễn Du phải quên nhà Lê mà theophù vua mới. Kiều vì gia biến phải bước chân ra đi, Nguyễn Du gặp khi nhà Lêbại vong phải ra làm quan với Nguyễn Triều, hai bên cũng một lòng cay đắng chua xót như nhau. Vì ý tưởng hoài Lêđó nên suốt đời làm quan Nguyễn Du buồn rầu, mà cũng không bàn bạc điều gì trước sân rồng.

Người đọc ngày nay phân vân về lời bình trên đây của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim. Bởi qua 238 bài thơ Việt Âm, khó tìm ra được một câu chứng tỏ Nguyễn Du có ý tưởng hoài Lê. Trái lại, trong nhiều bài Nguyễn Du coi sự triều đại đổi thay như một lẽ tự nhiên của đại hóa, và việc ra làm quan là một việc trái với thiên tính của ông.

Như vậy, nét buồn trong thơ Việt Âm của Nguyễn Du chưa có giải đáp.

Tìm một câu trả lời cho câu hỏi trên làmục đích của cảo luận này.

N

Page 3: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Khởi đầu là vắn tắt tiểu sử của Nguyễn Du. Theo Dương Quảng Hàm 2,Nguyễn Du (1765-1820) Tự Tố Như,hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng SơnLiệp Hộ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhiều đời làm quan với nhà Lê. Ông không ralàm quan với nhà Tây Sơn. Năm GiaLong nguyên niên ông được vua Gia Long vời ra làm quan. Năm 1813 thăngCần Chánh điện học sĩ, sung làm chánhsứ sang cống Trung Quốc. Khi về đưọc thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có lệnh sang sứ Trung Quốc, nhưng chưa đi thì

ông mất.

Theo Chính Biên Liệt Truyện, cái chết của Nguyễn Du là một cái chết bìnhthản, từ chối không uống thuốc khi bệnh nặng, từ trần không một lòi dặn dò việc sau .

Theo sách Chính Biên Liệt Truyện 3,trong thời gian làm quan tại triều đìnhHuế, đối với nhà vua, ông chỉ giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì. Có khi vua đã quở rằng; “ Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng,không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Ngươi đã làm đến chức á khanh, biết việc gì phải nói rõ để tỏ cái chức tráchcủa mình, có lẽ đâu cứ rụt rè, chỉ vâng vâng dạ dạ hay sao?”

Mấy lời trên cho thấy là, đúng với nhận xét của Trần trọng Kim, Nguyễn Du không tìm thấy niềm yên vui trên đường làm quan, để lập công danh.

Cảo luận này nhắm hai mục đích:

2Dương quảng hàm, Việt Nam Văn Học Sử

Yếu, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 3563Trích theo Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr.X

1. trình bày toàn bộ thơ dịch sang vần lục bát 238 bài thơ Việt Âm của Nguyễn Du và

2. theo dõi nếp sống của Nguyễn Du gửi gắm trong số thơ này.

Đã có nhiều người dịch và chú thích thơviệt Âm của Nguyễn Du. Hầu hết những bản dịch đều giữ nguyên thể thơ Đường Luật, nhằm đưa người đọc tới nguyênbản. Cảo luận này dịch sang vần lục bát, toàn bộ 237 bài thơ Việt Âm của Nguyễn Du đã được giới văn bản học hiện thời coi là toàn tập với ước mong đưa nguyên bản tới người đọc.

Kết quả việc theo rõi nếp sống của Nguyễn Du phản ánh trong ba tập thơViệt Âm, cho thấy cả ba tác phẩm Việt Âm của Nguyễn Dù có chung một đề tàivới toàn thể văn học Việt Nam. Đề tàiđó là đề tài của người lính thú than khổ trong bài ca dao Trấn Thủ Lưu Đồn qua bốn chữ hữu thân hữu khổ. Đề tài đó làđề tài của Cung Oán Ngâm Khúc với cái khổ làm người của nàng cung nữ. Đó cũng là đề tài của Chinh Phụ Ngâm với cái khổ làm người của người lính vàngười vợ lính và với Truyện Kiều với cái khổ làm người của tất cả mọi nhân vật trong truyện. Bỏ đề tài cái khổ làmngười này có lẽ khó thấy một đề tàikhác có tầm phổ quát tương tự trong toàn bộ văn học Việt Nam.

Do đó, người đọc cảm thấy là ba tâp thơViệt Âm của Nguyễn Du dường như batập nhật ký sâu kín của một người tu thân, đối mặt với cái khổ làm ngưòi,trên đường tìm an lạc cho chính mình.Đồng thời ba tập thơ đó là ba tác phẩm lớn trong dòng văn học cổ điển Việt Nam mà từ hơn một thế kỷ qua chưađược phổ biến xứng đáng trong trường học cũng như ngoài đặi chúng .

Ba tập thơ đó cho người đọc thấy làNguyễn Du đã thành công trên mặt tu thân noi theo mức vô danh, vô kỷ, vô

Page 4: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

công của đạo Lão Trang. để khéo nuôi cái sống và cũng là để khéo liệu cái chết cho chính ông.

Ông còn sống theo nếp buông bỏ của một Phật tử Tịnh Tông nhưng không vụ vào kinh sách mà dường như chỉ bằng trên kinh nghiêm bản thân để giữ được niềm an lạc cho tâm thân.

Ông cũng vui sống theo hình ảnh của một Trung Ẩn Sĩ, theo kinh nghiêm của một nhà nho lạc thiên an đạo như Bạch Cư Dị.

Ông đã chọn con đường riêng của ông: buông bỏ danh lợi, sống gần với thiênnhiên, lấy việc săn bắn làm vui, lấy văn thơ làm sự nghiệp dầu biết rằng trời đất không chuộng khách văn thơ, và nhất là không cả màng tới truyện lưu danhhậu thế. Trong suốt ba tập thơ ông luônluôn dùng hình ảnh những anh hùng liệt sĩ chết thảm vì danh thân nliệt vì lợi nhưđể tự nhắc mình đừng quên việc buông danh bỏ lợi; cũng như ông đề cao ông hình ảnh những danh nho Trung Quốc, bỏ đường danh lợi theo đường thơ vănđể lấy làm gương cho chính ông.

Điểm đặc biệt của Nguyễn Du là ôngkhông nhất thiết là một nhà nho thuần túy, không phải là một Phật Tử chân tu hay một người học đạo Lão Trang chântruyền. Giữa ba đạo Nho Phật Lão cónhiều điểm chung cho cả ba đạo. Nguyễn Du đứng vững chắc tại những điểm đó.

Bắt đầu là nguyên bản Việt Âm và bản dịch sang vần lục bát của của 78 bài thơtrong

青軒 詩 集

Thanh Hiên Thi Tập

Giới nghiên cúu văn bản cho biết la Nguyễn Du vốn có hai tập Thanh HiênTiền Hậu Tập. Nhưng hiện nay chua tìmđược đầy đủ, và chỉ tìm dược 78 bàidưói 67 đề mục. gọi chung là ThanhHiên Thi Tập.

Bắt đầu là bài:

瓊 海 元 宵Quỳnh Hải Nguyên Tiêu

元 夜 空 庭 月 滿 天Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên

依 依 不 改 舊 嬋 娟Y y bất cải cựu thiền quyên一 天 春 興誰 家 洛

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc萬 里 瓊 洲 此 夜 圓

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên鴻 嶺 無 家 兄 弟 散

Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán白 頭 多 恨 歲 時 遷

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên窮 途 憐 汝 遙 相 見

Cùng đồ liên nhữ dao tưong kiến海 角 天 涯 三 十 年

Hải giác thiên nhai tam thập niên.

dịch là:

Đêm Rằm Tháng Giêng TạiQuỳnh Hải

Tháng giêng vằng vặc trăng rằmY nguyên vẻ cũ gương hằng chẳng phai

Hứng xuân lạc xuống nhà aiQuỳnh Châu vạn dặm đêm này tròn trăng

Anh em Hồng Lĩnh ly tanBạc đầu nặng hận năm tàn tháng trôi

Đường cùng ta vẫn gặp ngươiChân trời góc biển ba mươi năm tròn.

Thanh Hiên Thi Tập mở đầu bằng bàiQuỳnh Hải Nguyên Tiêu. Nguyễn Dungắm trăng rằm tháng giêng, không córượu trong tay như Lý Bạch, nhưng vui

Page 5: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

cùng trăng tròn như gặp lại ngưòi quenbiết từ ba chục năm qua, trong cảnh anhem ông ly tán vì loạn lạc, bạn bè tri kỷkhông có một ai ở gần, tóc trên đầu ôngđã bạc, và năm tháng vội vã trôi qua. Bàithơ không chỉ ghi lại nỗi buồn củaNguyễn Du, mà còn cho ngưòi đọc thấynỗi cô độc của tác giả cùng lòng yêuthiên nhiên của ông. Nỗi buồn củaNguyễn Du là nỗi buồn của một conngười nghệ sĩ, thấy được cái đẹp, mặcdầu đang ở trong cảnh khó khăn của cuộcsống. Đúng như lời Julia Kristeva 4:

[...] la mélancholie, équilibrée par legénie, est coextensive à l’inquiétude del’homme dans l’Être.

Thế thì, phải chăng nỗi buồn củaNguyễn Du là nỗi buồn cho thân phậncon người?

Cũng trong mùa xuân ở Quỳnh Hải đó, Nguyễn Du có bài:

春 日 偶 興Xuân Nhật Ngẫu Hứng

患 氣 經 時 戶 不 開Hoạn khí kinh thời hộ bất khai

逡 巡 寒 暑 故 相 催Thoan tuần hàn thử cố tương thôi

他 鄉 人 與 去 年 別Tha hương nhân dữ khứ niên biệt

瓊 海 春 從 何 處 來Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai

南 浦 傖 心 看 綠 草Nam phố thương tâm khan lục thảo

東 皇 生 意 漏 寒 梅Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai

鄰 翁 奔 走 村 前 廟Thôn ông bôn tẩu thôn tiền miếu

斗 酒 雙 柑 醉 不 回Đẩu tửu song cam túy bất hồi.

dịch là:

4Julia Kristeva, Soleil noir: dépression et

melancholie, Paris, Gallimard, 1987, p. 17.

Ngày Xuân Ngẫu Hứng

Trời đông cửa đóng kín bưngRét qua nực tới ngập ngừng đổi thay

Quê người năm trước chia tayChốn đây Quỳnh Hải xuân nay lại về

Bến nam cỏ biếc não nềĐón xuân mai nở e dè tường đông

Quẩn quanh dọn miếu đầu thônRượu bầu cam ngọt lão ông quên về.

Trong hoàn cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du dường như mất nhậy cảm với thời gian. Ông chợt thấy tiết trời đổi từ rét sang nóng mới thấy như có sự đổi mùa sang xuân. Cảm tưởng đó dường như cảm tưởng một người đang sống trọng sự chờ đợi với một hy vọng mong manh. Cảnh chờ đợi kéo dài đã một năm kễ tù khi chia tay. Mùa xuân lại về hy vọng lại nhen nhóm, cái hiện tại như bãicỏ biếc bên bờ nam, cái hy vọng mongmanh như cánh hoa mai bên tường đông. Hai câu kết, khó biết nổi là câu ông tự trách, hay câu ông trách người mà ôngđặt hy vọng, vẫn lần chần chưa tới, vìcòn say rượu.

Tóm lại, bài Ngày Xuân Cảm Hứng trênđây cho thấy tâm trạng chờ đợi trong hy vọng lẫn thất vọng ngày Nguyễn Du sống trong cảnh tản cư thiếu thốn tại Quỳnh Hải.

Cũng trong hoàn cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du viết hai bài sau:

自 嘆二 首

Tự ThánNhị Thủ

其 一Bài I

生 未 成 名 身 已 衰Thân vị thành danh thân dĩ suy

蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹

Page 6: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy性 成 鶴 脛 何 容 斷

Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn命 等 鴻 毛 不 自 知

Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri天 地 與 人 屯 骨 相

Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng春 秋 還 汝 老 鬚 眉

Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi斷 蓬 一 片 西 風 急

Đoạn bồng nhất phiến tay phong cấp畢 竟 飄 零 何 處 歸

Tất cánh phiêu linh hà xứ quy

其 二Kỳ nhị

三 十 行 庚 六 尺 身Tam thập hành canh lục xích thân

聰 明 穿 鑿 損 天 真Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân

本 無 文 字 能 憎 命Bản vô văn tự năng tăng mệnh

何 事 乾 坤 錯 妒 人Hà sự kiền khôn thác đố nhân

書 劍 無 成 生 計 促Thư kiếm vô thành sinh kế xúc

春 秋 代 序 白 頭 新Xuân thu đại tự bạch đầu tân何 能 洛 髮 歸 林 去

Hà năng lạc phát quy lâm khứ臥 聽 松 風 響 半 雲

Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân

dịch là:

Tự Thán(Hai bài)

I

Thân suy danh vẫn chưa thànhTrời chiều tóc trắng dập dềnh gió bay

Cắt chân tính hạc chẳng thayLông hồng đầu gió nào hay mệnh trời

Gian truân tùy cốt tướng ngườiRâu mày năm tháng sớm rồi bạc phơ

Cánh bồng lìa gốc gió lùaRồi ra phiêu dạt đẩy đưa phương nào.

II

Thân sáu thưóc tuổi ba mươiThông minh cho lắm tội trời càng tăng

Mệnh dường ghen với thơ vănKiền khôn sao khéo ghét lầm riêng ai

Kiếm thư dang dở sinh nhaiBạc đầu cùng quẫn tháng ngày long đong

Vào rừng xuống tóc những mongNằm nhìn mây nổi nghe thông dạt dào.

Câu mở đầu bài Tụ Thán I cho biết hoàncảnh của tác giả : chua thành danh vàthân dã bắt đầu suy. Hình ảnh tấm thân suy nhược là mái tóc trắng bay trong gió chiều. Tác giả duòng như đứng trước một lựa chọn. Bài thơ không cho biết đối tượng của sự lựa chọn. Đó là điểm lôi kéo người đọc. Chỉ cho biết là sự lựa chọn này mang hình ảnh cắt chân hạc của sách Nam Hoa Kinh: đòi hòi một điều mang danh là tàn sinh tổn tính. Nguyễn Du đã không theo ngả lựa chọn đó mà kệ cho số mệnh an bài.

Sang bài Tự Thán II, tác giả cho biết rõ làđã đến tuổi nhi lập, nhưng vì trời sinh thông minh nên tội trời càng nặng. Chữ thiên chân tạm dịch là tội trời đây, làmngưòi đọc nghĩ đến cái tội trời sinh khi mới lọt lòng mẹ là tội phải phò vua thờ cha như Nguyễn Công Trứ đã nói rõ.

Nguyễn Du tin là nếu không bởi thông minh mà bị số mệnh hành hạ, thì sao trời đất lại ghét lầm người làm thơ văn. Hoàncảnh hiện tại của tác già là cả hai đường múa gươm đọc sách đều như vô vọng. Chỉ còn nẻo xuống tóc vào rừng, nằm nhìn mây bay, nghe thông reo.

Trong hoàn đó, Nguyễn Du đã có dịp đi qua trại quân Vị Hoàng và ghi lại cảm tưởng của ông như sau:

渭 潢 營Vị Hoàng Doanh

渭 湟 江 上 渭 湟 營

Page 7: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh樓 檜 參 差 接 太 清

Lâu cối sâm si tiếp thái thanh古 渡 斜 陽 看 飲 馬

Cổ độ tà dương khan ẩm mã荒 郊 靜 夜 亂 飛 螢

Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh古 今 未 見 千 年 國

Cổ kim vị kiến thiên niên quốc形 勢 空 留 百 戰 名

Hình thế không lưu bách chiến danh莫 向 清 華 村 口 望

Mạc hướng Thanh Hoa thôn khẩu vọng疊 山 不 改 舊 時 青

Điệp Sơn bất cải cựu thòi thanh.

dịch là

Đồn Quân Vị Hoàng

Vị Hoàng đầu bến quân doanhThấp cao sừng sững cây xanh bốn bề

Bến chiều ngựa uống thỏa thuêĐồng hoang đom đóm lập loè âm u

Triều nào đứng vững ngàn thuĐất này chiến trân oán thù lưu danh

Vời trông theo ngả vào ThanhNgọn đèo Ba Dọi núi xanh trùng trùng.

Vị Hoàng là tên nhánh sông Nhị chẩy ngang thành Nam Định. Dưới triều nhàLê, bên bờ sông có xây doanh trại lớn chống địch từ miền trong ra hay từ ngoàibiển vào. Nam 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn, đánh chiếm đồn Vị Hoàng, rồi tiến chiếm Phố Hiến, tức tỉnh lỵ Hưng Yên.

Nguyễn Du qua đây, nhìn cảnh cũ, nhớ lại chiến trận mấy năm trước, suy nghĩ về sự tồn vong của các triều đại, nhà Lê mất, chúa Trịnh cũng chấm dứt, Tây Sơn cònđang lùi bước trước quân nhà Nguyễn. Chẳng có triều đại nào đứng vững ngànnăm. Phải chăng, hưng vong là lẽ thường trong đại hóa, là điều ông nhìn thấy rõtrưóc cảnh hoang phế của doanh trại Vị Hoàng?

Hoàn cảnh khó khăn của Nguyễn Du khiến ông khó ngủ, như ông ghi rõ trongbài:

不 寐Bất Mị

不 寐 聽 寒 更Bất mị thính hàn canh

寒 更 不 肯 盡Hàn canh bất khẳng tận

關 山 引 夢 長Quan sơn dẫn mộng trường

砧 杵 催 寒 近Châm chử thôi hàn cận

廢 灶 聚 蝦 蟆Phế táo tụ hà mô深 堂 出 蚯 蚓

Thâm đường xuất khâu dẫn暗 誦 問 文 章

Ám tụng vấn văn chương天 高 何 處 問

Thiên cao hà xứ vấn.

dịch là:Mất ngủ

Canh khuya mất ngủ lạnh lùngĐêm dài chẳng hết thì thùng trống canh

Dặm trường dẫn giầc mộng xanhThì thùng chầy vải trạnh tình xa xôi

Bếp tàn cóc nhẩy vái trờiNhà xiêu nền mốc loi nhoi giun bò

Thân còn năng nghiệp văn thơTrời cao ướm hỏi nơi mô gặp trời.

Bốn câu đầu dưòng như là bốn câu quen thuộc trong thơ Việt Âm để mô tả cảnh đêm mùa thu se sắt với tiếng trống canh xen tiếng chầy giăt vải. Bốn câu sau làsáng tác riêng của tác giả, mô tả cái chua chát trong hiện cảnh của ông. Bếp nguội lạnh lâu ngày không nhóm lửa khiến cóc vào làm tổ. Nhà ở nền mốc vách xiêugiun bò ra loi nhoi. Thế mà thân ông cònnặng nghiệp văn thơ là điều ông muốn hỏi trời. Nhưng trời cao chẳng ai biết trời ở nơi đâu mà hỏi.

Page 8: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ngoài hiện cảnh thiếu thốn vật chất, Nguyễn Du còn thêm mối nhớ quêhưong, còn bận tâm về mối an nguy của các anh chị em ông phân tán mỗi người một nơi, từ lâu biệt tin, những lá thư ônghằng ngày mong đợi vẫn không thấy tới. Nỗi khắc khoải đó ông ghi lại trong bài:

山 居 漫 興Sơn Cư Mạn Hứng

南 去 長 安 千 里 餘Nam khứ Trường An thiên lý dư

群 峰 深 處 野 人 居Quần phong thâm xứ dã nhân cư

柴 門 晝 靜 山 雲 閉Sài môn trú tĩnh sơn vân bế藥 圃 春 寒 隴 竹 疏

Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ一 片 鄉 心 蟾 影 下

Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ經 年 別 戾 雁 聲 初

Kinh niên biệt lệ nhạc thang sơ故 鄉 弟 妹 音耗 絕

Cố hương đệ muội âm hao tuyệt不 見 平 安 一 紙 書

Nhất kiến bình an nhất chì thư.

dịch là:

Ở Nứi Cảm Hứng

Đế đô ngàn dặm trời namMái quê giữa chốn non lam ẩn mình

Cửa sài mây núi vờn quanhRét xuân vườn thuốc dập dềnh trúc thưa

Nhớ quê trăng tỏ thẫn thờBiệt ly tiếng nhạn lệ mờ bao năm

Chị em làng cũ biệt tămVắng thư chẳng biết làm ăn thế nào.

Thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Sơn Cư Cảm Hứng trên đây,gặp thời loạn lạc phải vào núi tạm ẩn, trong một đêm trăng sáng, chờ thư khôngđến, nhớ tới chị em nơi quê nhà nhắc người đọc nhớ tới bài ngụ ngôn của nhà

thơ Đường Đỗ Phủ 5 với cùng một thi cảnh và cùng một tâm cảnh:

月 夜 憶 舍 第Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ

戍 鼓 斷 人 行Thú cổ đoạn nhân hành

邊 秋 一雁 聲Biên thu nhất nhạn thanh

露 從 今 夜 白Lộ tòng kim dạ bạch月 是 故 薌 明

Nguyệt thị cố hương minh有 第 皆 分 散

Hữu đệ giai phân tán無 家 問 死 生

Vô gia vấn tử sinh寄 書 長 不 達

Ký thư trường bất đạt況 乃 未 休 兵

Huống nãi vị bãi binh.

dịch là

Đêm Trăng Nhớ Anh Em

Trống trận thúc người điTiếng nhạn thu biên giớiĐêm nay sương trắng rơiQuê nhà trăng sáng rọiAnh em người mỗi nơi

Sống chết không nơi hỏiThư gửi lâu chẳng tới

Chinh chiến mãi không thôi.

Hoàn cảnh tản cư tạm trú còn là thi hứng của Nguyễn Du trong hai bài dưới đây:

幽 居二 首其 一

桃 花 桃 葉 落 分 分Đào hoa đào diệp lạc phân phân

門 掩 斜 扉 一 院 貧

5 杜 甫 全 書, Kwong Chi book Co., HongKông, 張132.

Page 9: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Môn yểm tà phi nhất viện bần住 久 頓 忘 身 是 客

Trú cửu đốn vong thân thị khách年 深 更 覺 老 隨 身

Niên thâm cánh giác lão tùy thân異 鄉 養 拙 初 防 俗

Di hương dưỡng chuyết sơ phòng tục亂 世 全 生 久 畏 人

Loạn thế toàn thân cửu úy nhân流 落 白 頭 成 底 事

Lưu lạc bạch đầu thành để sự西 風 吹 倒 小 烏 巾

Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.

其 二

Bài II

十 載 風 塵 去 國 賒Thập tải phong trần khứ quốc xa

蕭 蕭 白 髮 寄 人 家Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia

長 途 日 暮 新 遊 少Trường đồ nhật mộ tân du thiểu

一 室 春 寒舊 病 多Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa

壞 璧 月 明 蟠 蜥 蜴Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch

荒 池 水 涸 出 蝦 蟆Hoang trì thuỷ hạc xuất hà mô

行 人 莫 誦 登 樓 賦Hành nhân mạc tụng đăng lâu phú

強 半 惷 光 在 海 涯Cường bán xuân quang tại hải nhai.

dịch là:

Ở Chốn U TịchHai bài

I

Cây đào tơi tả lá hoaCổng xiêu cánh lệch căn nhà xác xơ

Trọ lâu quen phận ở nhờNăm dài chợt thấy bơ vơ thân già

Dưỡng khờ thói lạ phòng xaGiữ thân giữa buổi can qua né người

Bạc đầu lưu lạc nổi trôiKhăn đen gió mới thổi rơi mất rồi.

II

Xa quê gió bụi mười nămBơ phờ tóc bạc cam tâm nương nhờ

Đường dài chiều xế bạn thưaRét đài nhà lạnh bệnh xưa lại hành

Mối leo vách nát trăng thanhAo hoang ếch nhái nhẩy quanh đục ngầu

Người đi quên phú Đăng LâuTuổi xuân góc biển bấy lâu phí hoài.

Câu thứ năm trong bài U Cư kỳ 1, Nguyễn Du viết:

Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục

dịch xuôi là:

Quê người giả khờ phòng thói đời

người đọc có thể hiểu là vì Nguyễn Du nghi ngại phong tục quê người mà giả khờ khạo để phòng thân. Nhưng dường như tại chốn u tịch đâu có cần phòng thâncẩn mật đến như vậy. Phải chăng Nguyễn Du tới chốn u tịch này, xử thế theo đúng lời Lão Tử dậy trong Chương XV 6:

若 畏 四 鄰nhược úy tứ lân

nghĩa là:

như sợ láng giềng bốn bên

bước đầu tiến tới chỗ đạt đưoc mức 7:

不 敢 為 天 下 先bất cảm vi thiên hạ tiên

nghĩa là :

không dám đặt mình trên thiên hạ

6 Lão Tử Đạo Đức Kinh, Bản dịch của Nghiêm Toản, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tập 1, tr. 80-81.

7Lão Tử Đạo Đúc Kinh, sách đã dẫn, tập 2,

tr. 290-291,

Page 10: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

để đạt tới mức vô danh, vô kỷ, vô côngcủa một chân nhân như trong sách TrangTử Nam Hoa Kinh 8.

Nguyễn Du ghi lại cảm nghĩ của ông trong những ngày tản cư, như thấy trong hai bài kế tiếp:

漫 興二 首

Mạn Hứngnhị thủ

其一kỳ nhất

百 年 身 世 委 風 塵Bách niên thân thế ủy phong trần

旅 食 江 津 又 海 津Lữ thực giang tân hựu hải tân

高 興 久 無 黃 閣 夢Cao hứng cửu vô hoàng các mộng

虛 名 未 放 白 頭 人Hư danh vị phóng bạch đầu nhân

三 春 積 病 貧 無藥Tam xuân tích bệnh bần vô dược

卅 載 浮 生 患 有 身Táp tải phù sinh hoạn hũu thân

遙 憶 家 薌 千 里 外Dao ước gia huơng thiên lý ngoại

澤 車 段 馬 愧 東 鄰Trạch xa đoạn mã quí đông lân.

其 二kỳ nhị

行 腳 無 根 任 轉 蓬Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng

江 南 江 北 一 囊 空Giang nam giang bắc nhất nang không

百 年 窮 死 文 章 裡Bách niên cùng tử văn chương lý

六 尺 浮 生 天 地 中Lục xích phù sinh thiên địa trung

萬 里 黃 冠 將 暮 景

8Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của

Nhượng Tống,

Vạn lý hoàng quang tương mộ cảnh一 頭 白 髮 散 西 風

Nhất đầu bạch phát tản tây phong無 窮 今 古 傷 心 處

Vô cùng kim cổ thương tâm xứ依 舊 青 山 夕 照 紅

Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.

dịch là:

Mạm Hứnghai bài

I

Trăm năm thân thế long đongĂn nhờ bãi biển bờ sông phong trần

Gác vàng mộng cũ đà tànBạc đầu chưa thoát nẻo đàng hư danh

Ba năm không thuốc bệnh lànhCó thân có khổ phù sinh nửa đời

Dăm ngàn quê cũ xa vờiNgựa gầy xe nhỏ thẹn người xóm đông.

II

Chân không bén rễ bông lôngBến nam bờ bắc tay không đi vềNghiệp văn sống chết chẳng nề

Tấm thân sáu thước mải mê vòng trờiMũ vàng muôn dặm chiều rơi

Trên đầu tóc trắng rối bời gió thuĐau lòng truyện cũ thật hư

Vừng hồng nắng tắt mịt mù non xanh.

Trong bài Mạn Hứng I, như ghi lại nỗi khó khăn của ông trong những năm tháng tản cư về miền bờ sông bãi biển. Giấc mộng gác vàng nay đã tàn, bệnh cũ ba năm không thuốc thang cũng lành, cóthân có khổ ai chẳng vậy, xa quê nhớ nhàcũng nguôi ngoai, nhưng dầu nay tóc đãbạc ông còn thấy mình bị giàng buộc với chữ hư danh. Bốn chữ trạch xa đoạn mãtrong câu chót, theo giới bình giảng thơNguyễn Du, thời ông đã trích lời MãThiếu Du, người em họ của Mã Viện, theo sách Hậu Hán Thư, nói với anh: “Kẻ sĩ sinh ra ở đời, chỉ cần đủ cơm ăn áomặc, ngồi xe nhỏ cưởi ngụa còm, làmviên lại ở quận, giữ được mồ mả ở làng,

Page 11: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

đủ là người tốt được rồi”, trái với MãViện có chí lớn lập công to, dầu phải chết ở chiến trường lấy da ngựa bọc thây. Nguyễn Du thẹn với người bên xóm đôngvui với cỗ xe nhỏ con ngựa gầy, phải chăng bởi chợt thấy mình chưa thoát khỏi chữ hư danh ?

Trong bài Mạn Hứng II, ông cũng ghi lại cảnh sống như cỏ bồng trốc rễ của ông, nhưng ông thấy mình hãy còn mê say với văn thơ. Ông thoáng thấy hình bóngmình với chiếc mũ vàng, tức trở thànhmột đạo sĩ, nhưng gió tây hiện còn thổi bù mái tóc trắng của ông. Những truyện đau lòng chỉ là những điều vô thưòng, cáithường hằng là núi xanh trong nắng nhạt chiều vàng trước mắt ông.

Tiếp theo là bài:

春 夜Xuân Dạ

黑 夜 韶 光 何 處 尋Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm

小 窗 開 處 柳 陰 陰Tiểu song khai xứ liễu âm âm

江 湖 病 到 經 時 久Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu

風 雨 春 隨 一 夜 深Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm

羈 旅 多 年 燈 下 淚Ky lữ đa niên đăng hạ lệ家 鄉 千 里 月 中 心

Gia hương vạn lý nguyệt trung tâm南 臺 村 外 龍 江 水

Nam Đài thôn ngoại Long giang thủy一 片 寒 聲 送 古 今

Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.

dịch là:

Đêm Xuân

Đêm xuân đen tối mịt mùDập dờn bóng liễu âm u song ngoài

Giang hồ đau ốm bấy nayXuân về mưa gió canh dài thâu canh

Xa quê năm tháng qua nhanhNhớ nhà nhớ ánh trăng thanh ngỡ ngàng

Xóm Nam Đài bến Long GiangTiễn đưa tiếng sóng giá băng tấc lòng.

Trong hiện cảnh một đêm xuân gió dập mưa vùi, trời tối đen như mực, lại thêmcảnh đau ốm kéo dài, Nguyễn Du nhỏ lệ nhớ lại những đêm sáng trăng nơi quênhà, nhớ xóm Nam Đài, nhớ bến Long Giang, với tiếng sóng bên tai những buồi tiễn đưa, như ông ghi trong mấy bài sauđây:

留 別 阮 大 郎Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang

西 風 歸 袖 柳 高 林Tây phong quy tụ liễu cao lâm

傾 盡 離 杯 話 夜 深Khunynh ntận ly bôi thoại dạ thâm

亂 世 男 兒 羞 對 劍Loạn thế nam nhi tu đối kiếm

他 鄉 朋 友 重 分 襟Tha hương bằng hữu trọng phân khâm

高 山 流 水 無 人 識Cao sơn lưu thủy vô nhân thức

海 角 天 涯 何 處 尋Hải giác thiên nhai hà xứ tầm

留 取 江 南 一 片 月Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt

夜 來 常 照 兩 人 心Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.

dịch là:

Lưu Biệt Anh Nguyễn

Gió về rừng liễu áo bayBiệt ly chén cạn tình đầy thâu canh

Ngắm gươm thời loạn hổ mìnhBạn bè đất khách nặng tình chia phôi

Chân trời góc biển đôi nơiNon cao nước chẩy ai người hiểu ta

Trời nam còn mảnh trăng ngàSoi chung đôi ngả đôi ta đêm dài.

Giới nghiên cứu không rõ Nguyễn Đại Lang trong bài thơ này là ai. Câu thứ ba đặt ra câu hỏi là tại sao tác giả giữa thời

Page 12: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

loạn nhìn guơm lại thẹn cho mình? Trongcả tám câu không có chữ nào giúp người đọc hiểu rõ hơn. Phải chăng cần phải đối chiếu với một số bài khác trong toàn bộ thơ của tác giả?

Bài tiễn biệt thứ hai là bài:

送 阮 士 友 南 歸Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam Quy

南 山 有 鳥 含 精 華Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa

飛 去 飛 來 輕 網 羅Phi khứ phi lai khinh võng la

鴻 嶺 有 人 來 做 主Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ

白 頭 無 賴 不 還 家Bạch đầu vô lại bát hoàn gia生 平 文 彩 殘 籠 鳳

Sinh bình văn thái tàn lung phượng浮 世 功 名 走 壑 蛇

Phù thế công danh tẩu hắc xà歸 去 故 鄉 好 風 月

Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt午 窗 無 夢 到 天 涯

Ngọ song vô mộng đáo thiên nhai.

dịch là:

Tiễn Nguyễn Sĩ Hữu Về Nam

Nam Sơn có con chim khônBay đi lượn lại coi nhờn lưới ngăn

Non Hồng rầy có chủ nhânBạc đầu đành vẫn gửi thân sống nhờ

Văn thơ lồng phượng nằm coCông danh mây nổi rắn bò về hang

Quay về trăng gió quê hươngTrưa hè đẫy giấc bên song quên đời.

Giới nghiên cứu chưa tìm ra được Nguyễn Sĩ Hữu là nhân vật nào. Nhưngtrong hai câu đầu, người đọc thấy nhưnhân vật này cũng là người đất Hồng Lĩnh như tác giả. Đất này đã có chủ mới, nhưng Nguyễn Du vẫn chưa quay về. Hai câu năm và sáu cho thấy tác giả coi việc

nhập thế và truyện công danh đều không đáng trọng. Hai câu cuối cùng với hai chữ quy khứ khiến người đọc cảm thấy như tác giả muốn nhắc tới việc lui về đồng ruộng tựa Đào Tiềm.

Ngày thu chí nhắc Nguyễn Du truyện thời gian trôi qua, cuộc tản cư ở nhờ kéo dài, ông ghi lại những cảm tưởng thươngthân trong hoàn cảnh đó như sau:

秋 至Thu Chí

四 時 好 景 無 多 日Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật拋 擲 如 梭 喚 不 回

Phao trịch như thoa hoán bất hồi千 里 赤 身 為 客 久

Thiên lý xích thân vi khách cửu一 庭 萬 葉 送 秋 來

Nhất đình vạn diệp tống thu lai簾 垂 小 閣 西 風 動

Liêm thùy tiểu các tây phong động雪 暗 窮 村 曉 角 哀

Tuyết ám cùng thôn hiểu giác mai惆 悵 流 光 催 白 髮

Trù trướng lưu quang thôi bạch phát一 生 幽 思 未 曾 開

Nhất sinh u tứ vị tằng khai.

dịch là:Thu Chí

Bốn mùa cảnh đep bao ngàyThoi đưa vùn vụt chẳng quay trỏ về

Thân già ngàn dặm xa quêVào thu vàng rụng não nề lá bay

Rèm nghiêng gác nhỏ gió tâyXóm nghèo tiếng ốc sớm mai não nùng

Ngày qua buồn tóc nhuốm sươngMột đời u uất không đưòng gỡ ra.

Cảnh thu còn gợi hứng cho Nguyễn Du viết hai bài dưới đây trong thi cảnh đêmvắng, tâm cảnh chĩu buồn hơn nữa vìbệnh tật hành hạ và ở trong cảnh nhớ thương cách biệt, lại thêm nổi thiếu thốn vật chất.

Page 13: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

秋 夜Thu Dạ二 首

Nhị Thủ

其 一

繁 星 歷 歷 露 如 銀Phồn tinh lịch lịch lô như ngân

東 壁 寒 虫 悲 更 辛Đông bích hàn trùng bi cánh tân

萬 里 秋 聲 催 落 葉Vạn lý thu thanh thôi lạc điệp

一 天 寒 色 掃 浮 雲Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân

老 來 白 髮 可 憐 汝Lạo lai bạch phát khả liên nhữ

住 久 青 山 未 厭 人Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân

最 是 天 涯 倦 遊 客Tối thị thiên nhai quyện du khách

窮 年 臥 病 劌 江 津Cùng niên ngọa bệnh Quế Giang tân.

其 二

白 露 為 霜 秋 氣 深Bạch lộ vi sương thu khí thâm

江 成 草 木 共 蕭 森Giang thành thảo mộc công tiêu sâm

剪 燈 獨 照 初 長 夜Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ

握 髮 經 懷 末 日 心Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm

千 里 江 山 頻 悵 望Thiên lý giang sơn tần trướng vọng

四時 湮 景 獨 時 吟Tứ thời yên cảnh độc thời ngâm

早 寒 已 覺 無 衣 苦Tảo hàn dĩ giác vô y khổ何 處 空 閨 催 暮 砧

Hà xứ không khuê thôi mộ châm.

dịch là:Đêm Thu

Hai bàiI

Đầy trời sao sáng bạc sươngNão nùng canh vắng ven tường dế than

Tiếng thu ngàn dặm lá vàngMây quang lạnh giá ngút ngàn trời trong

Sóm già thương tóc điểm sươngNon xanh chưa chán ngạ ngùng tình thơ

Bên trời mỏi mệt bơ phờSuốt năm nằm bệnh bên bờ Tuế Giang.

II

Trời thu trắng móc nhòa sươngXác xơ cây cỏ bên sông đầu thànhĐêm dài khêu ngọn đèn xanh

Ngày tàn vắt tóc thương mình long dongNon sông ngàn dặm ước mong

Bốn mùa mây phủ khói lồng âu loLạnh về thiếu áo co ro

Rộn ràng chầy vải lửng lơ bóng chiều.

Tạm bỏ bài Khất Thực, chỉ còn lại bốn câu, Thanh Hiên Tiền Hậu Tập chép tiếp bài:

雜 吟Tạp Ngâm

踏 遍 天涯 又 海 涯Đạp biến thiên nha hựu hải nha

乾 坤 隨 在 即 為 家Càn khôn tùy tại tức vi gia平 生 不 起 蒼 蠅 念

Bình sinh bất khởi thương dăng niệm今 古 誰 同 白 蟻 窩

Kim cổ thùy đồng bạch nghĩ oa寥 落 壯 心 虛 短 劍

Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm蕭 倏 旅 悶 對 時 歌

Tiêu điều lữ muộn đối thời ca閉 門 不 識 春深 淺

Bế môn bất thức xuân thâm thiển但 見 棠 蔾 落 盡 花

Đãn kiến đưòng lê lạc tận hoa.

dich là:Tạp Ngâm

Gót mòn biển rộng trời caoDọc ngang tròi đất ngả đâu cũng nhà

Truyện ruồi xanh đà bỏ quaSống chung tổ kiến lòng ta ngại ngùng

Tráng tâm tàn lụi thẹn gươmThời ca xiết chặt mối buồn buồn thêm

Page 14: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Chẳng hay sớm muộn tiết xuânGốc lê hoa rụng trắng ngần tả tơi.

Nỗi buồn vì hoàn cảnh cá nhân thiếu thốn trong hai bài Thu Dạ trên đây, nhường chỗ chố mối buồn vì thời cuộc trong thi hứng của Nguyễn Du trong bài Tạp Ngâm. Hai câu đầu ông nhắc lại hiện cảnh tản cư phải ở đậu nơi quê người,Hai câu tiếp cho thấy ông muốn bỏ qua hay đúng là chán nản cố quên nhưngtruyện nhỏ nhặt trong đời sống tạm bợ lúc này mà ông không thể bước ra khỏi đươc. Câu kế theo, ông nhìn thanh gươmngắn mà thẹn, ý thơ này lạp lại ý thơtrong câu thứ ba bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang. Lần này Nguyễn Du dường như nói rõ hơn đôi chút: bài thời ca làmtăng mối buồn của ông. Hai câu cuối cùng gợi cho người đọc hai câu 21-22trong bài Đào Nguyên Ký của ĐàoTiềm9:

雖 無 紀 歷 志Tuy vô kỷ lịch chí四 時 自 成 歲

Tứ thì tự thành tuế

nghĩa là: tuy không dùng lịch, bốn mùa tự thành năm, tỏ ý ngưòi dân lánh nạn Tần Thủy Hoàng vào ẩn tại Nguồn Đào,không dùng lịch của vua, nhìn bốn mùatrôi qua tự ghi thành năm. Trở lại hai câu kết bài Tạp Ngâm của Nguyễn Du, cho thấy lòng căm giận của ông với triều Tây Sơn, đã đốt phá làng ông, làm tan nát đại gia dình ông, sau khi ngưòi anh thứ tưcủa ông tức Nguyễn Quýnh nổi lên chống Tây Sơn, chẳng kém gì lòng người Trung Quốc xưa kia căm giận Tần Thủy Hoàng.

Nguyễn Du cố gắng xưa đuổi mối buồn này, nhưng dương như ông không mấy thành công, như ghi trong bài kế tiếp:

9 掏 淵 明 詩 選, 徐 巍 選 注, JointPublication, Hong Kong Co. 1982, p. 138.

撥 悶Bát Muộn

十 載 塵 埃 暗 玉 除Thập tải trần ai ám ngọc trừ百 年 城 俯 半 荒 墟

Bách niên thành phủ bán hoang khư么 麼 虫 鳥 高 飛 盡

Yêu ma trùng điểu cao phi tận滓 穢 乾 坤 血 戰 餘

Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư桑 梓 兵 前 千 里 淚

Tang tử binh tiền thiên lý lệ親 朋 燈 下 數 行 書

Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư魚 龍 冷 落 閒 秋 夜

Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ白 種 幽 懷 未 一 攎

Bạch chủng u hoài vị nhất sư

dịch là

Xua Nỗi Buồn

Mưòi năm thềm ngọc bụi dầyThành xưa phủ cũ giở đây hoang tàn

Côn trùng chim chóc tan đànĐất trời nhơ nhớp điêu tàn chiến chinh

Khóc quê vạn dặm đao binhAnh em bè bạn nghĩa tình trang thư

Cá rồng vắng lặng đêm thuĐau buồn trăm mối hận thù khôn nguôi.

Bốn câu đầu của bài Bát Muộn trên đây,ghi lại cảnh tàn phế của dinh cơ họ Nguyễn Tiên Điền sau khi bị quân Tây Sơn triệt hạ, thêm vào cảnh buồn đó lànỗi xa vắng anh em bè bạn của tác giả. Câu thứ bẩy là một câu trong bài ThuHứng, kỳ thất, của Đỗ Phủ, mà tác giả ngâm để xua đuổi nỗi buồn, nhưng hận thù còn mang nặng không nguôi.

Trong cảnh tản cư không có ngày mainày, những ước mong trong những đêmđau ốm khó ngủ, không có ai để tỏ bày,đó là thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài dưới đây:

Page 15: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

滯 客Trệ Khách

滯 客 淹 留 南 海 中Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung

寂 寥 良 夜 與 誰 同Tịch liêu lưong dạ dữ thùy đồng

歸 鴻 悲 動 天 河 水Thiên hà bi động thiên hà thủy

戍 鼓 寒 侵 夏 夜 風Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong

人 到 窮 途 無 好 夢Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng

天 回 苦 海 促 浮 蹤Thiên hồi khổ hải xúc phù tung

風 塵 隊 裡 留 皮 骨Phong trần đội lý lưu bì cốt客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬

Khách chẩm tiêu tiêu lương mấn bồng.

Người Khách Bê Trệ

Miệt nam bê trệ năm dàiĐêm thanh vắng lặng chẳng ai bạn cùng

Sông ngân xao động tiếng hồngCuối hè gió lạnh thì thùng trống canhĐường cùng ước mộng chẳng thành

Trời hành bể khổ lênh đênh không nhàKiếp gió bụi xương bọc da

Bơ phờ gối khách loà xòa tóc mai.

Nguyễn Du chua chát thay người khác viết thành bài dường như để khuyến cao những kẻ gặp thời đua sống xa hoa:

代 人 戲 筆Đại Nhân Hý Bút

錯 落 人 家 珥 水 濱Thác lạc nhân gia nhĩ thũy tân

居 然 別 占 一 城 春Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân

東 西 橋 閣 兼 天 起Đông tây kiều các kiêm thiên khởi

胡 漢 衣 冠 特 地 分Hồ Hán y quan đặc địa phân苜 蓿 秋 驕 金 勒 馬

Mục túc thu quan kim lặc mã匍 萄 春 醉 玉 樓 人

Bồ đào xuân túy ngọc lâu nhân

年 年 自 得 繁 華 勝Niên niên tự đắc phồn hoa thắng

不 筦 南 溟 幾 度 塵Bất quản nam minh kỷ độ trần.

dịch là:

Thay Người Viết Đùa

Nhấp nhô bến Nhị nhà dânRiêng ông chiếm trọn vẻ xuân một thành

Đông tay lầu gác lênh khênhÁo quần Hô Hán kiệu kênh khác người

Đai vàng ngựa kén rau tươiRượu nho lầu ngọc buổi trời xuân sang

Phồn hoa hưởng thụ tháng nămQuản chi gió bụi bờ nam mịt mờ.

Tiếp theo bài Đại Nhân Hý Bút, Thanh Hiên Thi Tập chuyển sang dòng thơ đề vịnh những địa điểm Nguyễn Du từng đi qua.

Bắt đầu là bài:

黃 梅 橋 晚 眺Hoàng Mai Kiều Vãn Thiếu

黃 梅 橋上 夕 陽 紅Hoàng Mai kiều thương tịch dương hồng

黃 梅 橋 下 水 流 東Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông

元 氣 浮 沉 滄 海 外Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại

睛 嵐 吞 吐 亂 流 中Tình lam thốn thổ loạn lưu trung

短 蓑 漁 枕 孤 舟 月Đoản thoa ngư chẩm co chu nguyệt

長 笛 童 吹 古 徑 風Trường địch đồng xuy cổ kính phong

大 地 文 章 隨 處 見Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến

君 心 何 事 太 匆 匆Quân tâm hà sự thái mang mang.

dịch là:

Cảnh Chiều Trên Cầu Hoàng Mai

Cầu Hoàng Mai xế bóng hồngDưới cầu nước cuốn về đông dạt dào

Page 16: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Biển xanh nguyên khí dâng caoKhói lam cuồn cuộn nao nao giữa dòng

Thuyền trăng gối áo thong dong Lối xưa tiếng sáo mục đồng gió đưa

Văn chương đất rộng tùy mơVội vàng chi để tình thơ rộn ràng

Bài Hoàng Mai Kiều Vãn Thiếu trên đâydường như đánh dấu một khúc rẽ trong tâm cảnh và thi cảnh của Nguyễn Du trong Thanh Hiên Thi Tập. Không còn những hình ảnh chinh biến, những bực dọc của những ngày dicư, ở nhờ. Người thơ duờng như cởi mở chàođón cảnh vật trong một chiều ngắm cảnh trêncầu Hoàng Mai. Đặc biệt là hình ảnh ông câu gối áo ngủ vùi trên chiếc thuyền trăng. Hìnhảnh này gợi cho người đọc bài Giang ThônTức Sự của nhà thơ Đuòng Tư Không Thư 10:

江 村 即 事Giang Thôn Tức Sự

罷 釣 歸 來 不 繫 船Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền

江 村 月 落 正 堪 眠Giang thôn nguyệt lạc chính kham miên

縱 然 一 夜 風 吹 去Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ

只 在 蘆 花 淺 水 猵Chỉ tại lô hoa thiển thủy biên.

Ngư ông gối áo tơi ngủ vùi trên chiếc thuyền câu dưói cầu Hoàng Mai, dươngnhư giống ngư ông trong bài tứ tuyệt Giang Thôn Túc Sự của Tư Không Thự, đã đồng nhất mình với dòng sông màđược thảnh thơi ngủ vùi không lo thuyền trôi.

Cũng trong cùng tâm cảnh đó, Nguyễn Du ghi lại cảm hứng lúc ông vời trông đền Càn như sau:

遙 望 乾 海 祠Dao Vọng Càn Hải Từ

茫 茫 海 水 接 天 樞Mang mang hải thủy tiếp thiên xu

10 Tư Không Thụ, Toàn Đường Thi,

隱 約 孤 祠 出 小 洲Ẩn ước cô từ xuất tiểu châu古 木 寒 連 鳧 渚 暮

Cổ mộc hàn liên phù chử mộ晴 煙 清 引 海 門 秋

Tình yên thanh dẫn hải môn thu號 天 相 將 丹 心 盡

Hào thiên tương tướng đan tâm tận撫 地 瓊 崖 塊 肉 無

Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô笑 爾 明 妃 長 出 塞

Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái琵 琶 杯 酒 勸 單 于

Tỳ bà bôi tửu khuyến Thiền Vu.

dịch là:

Vời Trông Đền Cờn

Mênh mông biển tiếp với trờiĐền xưa thấp thoáng chơi vơi bên cồn

Cây cao bóng xế chim vờnKhói thu se sắt chập chờn chiều rơiUổng công lưỡng tướng than trời

Quỳnh Nhai vỗ đất hết ngưòi khói hươngVề Hồ cười phi Chiêu Vương

Gẩy đàn chuốc rượu vui cùng Thiền Vu

Càn Hải Từ, tên nôm là đền Cờn là một ngôi đền nhỏ thuộc huyện Quỳnh Lưu,tình Nghệ An. Đền thờ bà Dương TháiHậu, vợ vua Tống Đô Tông. Theo tục truyền, khi nhà Tống mất nước, DươngThái Hậu, vợ vua Tống Đô Tông, do tướng võ Trương Thế Kiệt hộ tống, cùngcác con chạy ra Quỳnh Nhai, thuộc tỉnh Quảng Đông lên thuyền ra biển lánh nạn. Khi đó quân nhà Nguyên đưổi sát tới nơi,chỉ có Thái Hậu và hai con gái lên đưọc thuyền. Hoàng tử Đế Bính được quan văn Lục Tú Phú cõng cùng nhẩy xuống biển chết. Nhận được hung tín, Dương TháiHậu nói: sở dĩ bà chịu cảnh gian nan nàychỉ cốt giữ khối thịt ấy cho dòng họ Triệu Tống, nay sống mà không còn mong gìnữa. Sau đó, thuyền đắm, xác Thái hậu giạt vào cửa Cờn, dân địa phương chôncất và lập đền thờ.

Page 17: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Trước cảnh trời nước bao la, Nguyễn Du vời trông đền Cờn nhắc lại truyện DươngThái Hậu, chết lưu danh trung tiết, rồi liên tưởng tới Minh Phi tức Vương ChiêuQuân, cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, bị mang cống cho chúa Hồ, nàng vẫn đànhát chuốc rượu cho chúa Hồ là Thiền Vu khiến người đời chê cười. Đối chiếu Dương Thái Hậu với Vương Chiêu Quân,phải chăng Nguyễn Du muốn ghi lại nhưng điều ông suy nghĩ về hai chữ trungtrinh của đạo Khổng?

Bài thứ ba, trong Thanh Hiên Thi Tập, ghi lại cảm tưởng của Nguyễn Du trước những thắng cảnh của dất nước là bài:

再 踰 三 疊 山Tái Du Tam Điệp Sơn

雲 際 三 疊 山Vân tế Tam Điệp Sơn

天 涯 客 再 踰Thiên nhai khách tái du

眼 中 秋 大 地Nhãn trung thu đại địa

海 外 見 魚 舟Hải ngoại kiến ngư chu

瘴 靜 峰 鸞 瘐Chướng tĩnh phong loan sấu

天 寒 草 木 秋Thiên hàn thảo mộc thu

行 人 回 首 處Hành nhân hồi thủ xứ無 那 故 薌 心

Vô ná cồ hương tâm

dịch là:

Lại Qua Đèo Ba Dội

Đèo Ba Dội ngất mây ngànBên trời khách lại một lần trèo qua

Mắt nhìn mặt đất bao laThuyền câu mấy lá biển xa dập dềnh

Mù tan dáng núi chênh vênhCuói thu cây cỏ kém xanh dầu dầu

Ngoái nhìn lòng thách trạnh sầuQuê hương vời vợi biết bao giờ về.

Bài thơ ghi lại cảnh trời nước, núi biển nhìn từ đèo Ba Dội, một cái đèo nổi danh trong văn học Việt Nam, mà tác giả lại có dịp đi qua, trong một buổi cuối thu. Tác giả không cho biết lý do khiến ông thêmmột lần trèo qua đèo này. Riêng hai câukết, không chỉ cho thấy tác giả trạnh nhớ quê hương, mà còn gây cho người đọc cảm tưởng là chuyến đi này không phải làmột chuyến tiêu dao cùa Nguyễn Du.

Tiếp tới là bài:

渡 富 農 江 感 作Độ Phú Nông Giang Cảm Tác

農 水 東 流 去Nông thủy đông lưu khứ

滔 滔 更 不 回Thao thao cánh bất hồi

青 山 傷 往 事Thanh sơn thương vãng sự

白 髮復 重 來Bạch phát phục trùng lai

春 日 商 船 合Xuân nhật thương thuyền hợp

西 風 古 壘 開Tây phong cổ lủy khai

遊 人 無 限 感Du nhân vô hạn cảm芳 草 遍 天 涯

Phương thảo biến thiên nhai.dịch là:

Qua Sông Phú Nông Cảm Tác

Mông mênh sông nước Phú NôngMột dòng cuồn cuộn xuôi đông chẳng về

Non xanh việc cũ còn kiaBạc đầu lần lữa lại về nơi đâyThuyền buôn xuân tới họp đầy

Cổng thành rộng mở gió tây đón mừngQua đò hoài cảm vô cùng

Cỏ xanh xanh mướt một vùng chân mây.

Giới nghiên cứu chưa rõ Phú Nông làkhúc sông nào, nhưng qua bài trên đây,người đọc thấy Nguyễn Du qua sông này

Page 18: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

như về một chốn cũ, với một hoài cảm mang mầu xanh hy vọng như mầu xanh bãi cỏ chân mây.

Tiếp theo những bài ghi lại cảm tác trong những chuyến đi, Thanh Hiên Thi Tập chép hai bài thơ xướng họa giữa Nguyễn Du và anh vợ ông là Đoàn Nguyễn Tuấn như sau:

和 海 翁 段 阮 俊“甲 寅 奉 命入富 春 京登 程 留 垤 諸 友”之 作Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn

“Giáp Dần Phụng Mệnh Nhập Phú XuânKinh Đăng Trình Lưu Biệt

Chư Hữu” Chi Tác

黃 山 山 外 嶺 南 程Hoành Sơn sơn ngoại Lĩnh Nam Trình

琴 劍 相 隨 上 玉 京Đàn kiếm tương tùy thướng ngọc kinh

兔 髓 未 完 新 大 藥Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược

豹 皮 仍 累 舊 浮 名Báo bì nhưng lụy cựu phù danh

滄 溟 水 引 杯 中 綠Thương minh thủy dẫn bôi trung lục

故 國 蟾 隨 馬 後 明Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh

此 去 家 兄 如 見 問Thử khứ gia huynh như kiến vấn

窮 途 白 髮 正 星 星Cùng đồ bạch phát chính tinh tinh.

dịch là:

Họa Bài “Nam Giáp Dần Vâng Mệnh Vào Kinh Đô Phú Xuân

Lên Đường Làm Thơ Chia Tay Cùng CácBạn” Của Đoàn Nguyễn Tuấn

Từ Hoành Sơn vào Lĩnh NamDặm dài quảy gánh gươm đàn trẩy kinh

Thuốc tiên tủy thỏ chưa thànhVằn beo đà lụy phù danh mất rồiChén quỳnh gợn sóng biển khơi

Vó câu trăng giãi quê người nản bon

Nếu anh tôi có hỏi thămRằng nay bạc tóc gian nan cùng đường.

Đoàn Nguyễn Tuấn, tức Hải Ông, con Đoàn Nguyễn Thục, từng làm quan với nhà Lê, ra giúp nhà Tây Sơn, làm quantới chức tả thị lang bộ lại, tước Hải Phái Bá. Đi sứ Trung Quốc năm 1790, có Hải Ông Thi Tập để lại cho đời sau.

Giới nghiên cứu cho biết năm giáp dần lànăm 1794, năm đó Nguyễn Du 39 tuổi. Bài họa trên đây cho thấy, qua câu ba vàbốn, là Đoàn Nguyễn Tuấn, muốn tu tiênluyện thuốc trưòng sinh, nhưng vì tiếng tăm lừng lẫy mà mắc lưới phù danh, còntác giả, vẫn còn gian nan vùng ven biển, với nỗi buồn xa quê, hai câu kết là lời ông nhắn gửi anh ông là Nguyễn Nễ, khi đó đã ra giúp triều Tây Sơn.

Các bản Thanh Hiên Thi Tập đều ghi thêm bài nguyên tác của Đoàn Nguyễn Tuấn như sau:

附 錄 原 作Phụ Lục Nguyên Tác

琴 書 走 遍 北 南程Cầm thư tẩu biến Bắc Nam trình

又 附 公 車 上 帝 京Hựu phụ công xa thướng đề kinh

敢 向 畏 途 爭 捷 步Cảm hướng úy đồ tranh tiệp bộ

錯 將 小 藝 起 浮 名Thác tương tiểu nghệ tiệp phù danh

杯 中 天 地 奇 懷 闊Bôi trung thiên địa kỳ hoài khoát

馬 首 江 山 老 眼 明Mã thủ giang sơn lão nhãn minh

鄭 重 柳 亭 一 揮 手Trịnh trọng liễu đình nhất huy thủ

論 文 後 會 且 週 星Luận văn hậu hội thả chu tinh.

dịch là:

Phụ Chép Nguyên Tác

Page 19: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bắc Nam cặp sách túi đànCông xa rong ruổi dặm ngàn vào kinh

Dám đâu tranh lấy bước nhanhLầm khoe nghề mọn phù danh mắc rồi

Chén quỳnh rộng mở đất trờiMắt già đầu ngựa rạng ngời nuớc non

Chia tay sắc liễu héo honThơ văn bàn luận vẫn còn năm sau.

Tiếp theo hai bài xướng họa trên đây,Thanh Hiên Thi Tập chép bài vịnh một cảnh đẹp trên bờ sông Lam gần làng TiênĐiền, quê hương của tác giả.

江 亭 有 感Giang Đình Hữu Cảm

憶 昔 吾 翁 謝 老 時Ức tích ngô ông tạ lão thì飄 飄蒲 駟 此 江 湄

Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi仙 舟 激 水 神 龍 鬥

Tiên chu kích thủy thần long đấu寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛

Bảo cái phù không thụy hạc phi一 自 衣 裳 無 覓 處

Nhất tự y thường vô mịch xứ兩 堤 煙 草 不 勝 悲

Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi百 年 多 少 傷 心 事

Bách niên đa thiểu thương tâm sự近 日 長 安 大 已 非

Cận nhật Trường An đại dĩ phi.

dịch là:

Cảm Xúc Tại Bến Giang Đình

Cha xưa cáo lão từ quanXe bồ bốn ngựa thuyền sang bến này

Thuyền tiên rẽ sóng rồng bayTàn che phấp phới hạc quây đón chờ

Ấo xiêm từ độ phai mờBùi ngùi ngọn cỏ đôi bờ khói bay

Trăm năm bao truyện đổi thayĐế đô dâu biển thương thay kiếp người.

Bài Giang Đầu Hữu cảm trên đây là một bài Nguyễn Du ghi lại những cảnh huy hoàng của gia đình ông, trong ngày cha

ông vể hưu. Cha ông, Nguyễn Nghiễm, đậu tiến sĩ, năm Tân Mão, 1771 về hưu,được thăng Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh ban cho ba chiếc thuyền hải mã đưa về làng.Đó là cảnh Nguyễn Du ghi lại trong bốn câu đầu bài trên đây. Năm sau, Nguyễn Nghiễm lại đưọc chúa mời ra làm Tể Tướng. Năm Giáp Ngọ 1774 làm Tả Tướng Quân đem quân đánh chúaNguyễn, trên đưòng hành quân, tuổi giàmang bệnh và mất vào năm 1775. Trongcâu thứ hai Nguyễn Du dùng chữ bồ tứ, 蒲 駟, tức xe bốn ngựa bánh bọc cỏ bồ, để nói lên ý chúa Trịnh vinh danh cha ông như một bậc lão thần. Bốn câu tiếp theo ghi lại những đổi thay mau chóng tại kinh đô, theo thời thế. Đó là ý chính của bàithơ: tác giả như nói với chính mình về cảnh đổi thay trong đại hóa, mọi sự: nhất là chữ danh, thẩy là vô thường.

Tiếp theo bài Giang Đình Hữu Cảm trênđây, là một số bài ghi lại mối thân tìnhcủa tác giả với anh ông, với bà vợ ông, mất sớm.

Bắt đầu là bài:

憶 家 兄Ức Gia Huynh

六 塔 城 南 繫 一 官Lục Tháp thành nam hệ nhất quan

海 雲 夜 度 石 岏Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan

窮 陬嵐 瘴 三 年 戍Cùng xu lam chướng tam niên thú

故 國 煙 花 二 月 寒Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn

一 別 不 知 何 處 住Nhất biệt bất tri hà xứ trú重 逢 當 作 再 生 看

Trùng phùng đương tác tái sinh khan海 天 芒 渺 千 餘 里

Hải thiên mang diểu thiên dư lý神 魄 相 求 夢 亦 難

Hồn phách tương cầu mộng diệc nan.

dịch là:

Page 20: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Nhớ Anh

Buộc ràng Lục Tháp việc quanHải Vân đá dựng gian nan vượt đèo

Ba năm đồn thú đuổi đeoTháng hai lạnh giá khói quê nghẹn ngào

Chia tay chảng biết nơi naoGặp nhau dường tới kiếp sau không chừng

Mênh mông trời biển ngàn trùngGặp nhau trong mộng mọi đường khókhăn

Giới nghiên cứu cho hay trong bài nàyNguyễn Du tưởng nhớ tới người anh cùngmẹ, tên là Nguyễn Nễ, hiệu Quế Hiên, sinhnăm 1761. Khi vua Quang Trung ra bắc, ông đang giữ chức Hiệp Tán Quân Cơ đạo Tây Sơn. Năm 1787, vua Lê Chiêu Thống theo quân nhà Thanh rút về Trung Quốc, ông về trú tại quê mẹ ở huyện Đông Ngàntrấn Kinh Bắc. Sau đó được đề cử ra làmquan với nhà Tây Sơn, được bổ chức HànLâm Thị Thư, làm phó sứ sang cống Trung Quốc. Trở về thăng Tả Nghị Lang, tước Nghi Thành Hầu. Năm 1793 được coi việc văn thư ở Viện Cơ Mật. Năm 1794 thăng Tả Phụng Nghị Bộ Binh, rồi làm Hiệp Tán Nhung Vụ thành Quy Nhơn. Năm sau ônglàm Hành Khánh Sứ đi dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long cho con là Gia Khánh,về nước lại được thăng thưởng. Sau khivua Gia Long lên ngôi Hoàng Đế, ông ra trình diện, được bổ làm quan nhưng được vài năm rồi mất.

Lục Tháp là tên gọi thành Qui Nhơn, saunày là Bình Định, có sáu tháp Chàm.Trong bốn câu đầu, Nguyễn Du thươngghi lại mối thương nhớ người anh vất vả việc quan quân, trèo đèo vượt núi, trong chốn lam sơn chướng khí, trong khi ông được yên ổn nơi quê nhà. Bốn câu sau tác giả nói lên nỗi khó khăn được gặp lại anh, trong kiếp này, và cả ngay trong giấc mộng. Người đọc tự hỏi là nỗi khó khăn ấy là do tình hình nội chiến lúc đó, hay làdo khác biệt chính kiến giữa Nguyễn Nễ ra làm quan giúp Tây Sơn và Nguyễn Du căm thù nhà Tây Sơn, dầu lòng ông vẫn thương nhớ người anh?

Nếu Nguyễn Du không gặp được anh ông trong mộng, thời trong mộng ông lại được gặp bà vợ chính vắn số của ông, như ông ghi lại trong bài:

記 夢Ký Mộng

逝 水 日 夜 流Thệ thủy nhật dạ lưu遊 子 行 未 歸

Du tử hành vị quy經 年 不 相 見

Kinh niên bất tương kiến何 以 慰 相 思

Hà dĩ úy tương tư夢 中 分 明 見

Mộng trung phân minh kiến尋 我 江 之 湄

Tầm ngã giang chi mi顏 色 是 疇 昔

Nhan sắc thị trù tích衣 飭 多 參 差Y sức đa sâm si始 言 苦 病 患

Thì ngôn khổ bệnh hoạn繼 言 久 別 離

Kế ngôn cửu biệt ly帶 泣 不 終 語

Đái khấp bất chung ngữ仿 彿 如 隔 帷

Phảng phất như cách duy平 生 不 識 路

Bình sinh bất thức lộ夢 魂 還 是 非

Mộng hồn hoàn thị phi疊 山 多 虎 虒Điệp Sơn đa hổ ti藍 水 多 蛟 螭

Lam thủy đa giao ly道 路 險 且 惡Đạo lộ hiểm thả ác弱 質 將 何 依

Nhược chất tương hà y夢 來 孤 燈 清

Mộng lai cô đăng thanh夢 去 寒 風 吹

Mộng khứ hàn phong xuy

Page 21: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

美 人 不 相 見Mỹ nhân bất tưong kiến

柔 情 亂 如 絲Nhu tình loạn như ti空 屋 漏 斜 月

Không ốc lậu tà nguyệt照 我 單 裳 衣

Chiếu ngã đan thường y.

Dịch là:

Ghi Lại Giấc MộngNgày đêm dòng nước chẩy xuôiNgười đi mãi xa xôi không về

Bao năm cách trở sơn khêChẳng gì khuây khỏa nhớ kia mong này

Rõ ràng trong mộng đêm nayBên sông lận đận thân gầy tìm taDung nhan dường vẫn như xưa

Áo quân xốc xếch gió mưa bạc mầuThoạt đầu kể chuyện ốm đau

Rồi than xa cách bấy lâu bên trờiSụt sùi nói chẳng hết lời

Màn đâu thấp thoáng ngăn đôi đôi mìnhSuốt đời đường lối chẳng rành

Thực hư chẳng rõ mộng xanh chập chờnHùm beo Ba Dội đầy đường

Sông Lam sóng cả thuồng luồng cách ngănDặm dài hiểm trở khó khăn

Tay mềm chân yếu xa gần cậy aiMộng về đèn lụi đêm dài

Mộng đi lạnh lẽo song ngoài gió đưaTỏ mờ bóng dáng người xưaRối bời một mớ tơ vò lòng taKhắp nhà vàng ánh trăng tà

Soi trên tấm áo xót xa nỗi mình.

Giới nghiên cứu đồng ý rằng người trong giấc mộng của Nguyễn Du trong bài thơtrên đây là bà vợ chính của ông, em gáicủa Đoàn Nguyễn Tuấn. Hai chữ mỹ nhân trong câu thứ 21, đã có nhà nghiêncứu bàn rằng người trong mộng này làvua Lê Chiêu Thống, và vì lòng hoài Lê,Nguyễn Du đã được gặp vua trong mộng, viện lẽ rằng hai chũ mỹ nhân trong văn học Trung Quốc đôi lúc có nghĩa là nhàvua. Sau đó nhiều năm, nhà nghiên cứu này tự sửa sai và đồng ý cùng giới nghiên

cứu cho rằng người đó chính là bàNguyễn Du.

Câu thứ 12:

彷 彿 如 隔 帷Phảng phất như cách duy

dịch là:

Màn đâu phảng phất ngăn đôi đôi mình

cho ngưòi đọc thấy nỗi thương nhớ vợ của Nguyễn Du, chẳng kém nỗi thươngnhớ Dương Quý Phi của vua Đường Minh Hoàng, như Bạch Cư Dị mô tả trong bài Trường Hận Ca, khiến vua phải sai phương sĩ Lâm Cùng Hồng Đô Khách cưỡi mây đè gió kiếm quý phi cho vua. Khi phương sĩ tìm gặp được quý phi, nhàvua chỉ đưọc nhìn thấy quý phi thấp thoáng sau một tấm màn.

Thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Ký Mộng này còn đưa người đọc tới một bài từ của Tô Đông Pha 11

cũng vì thương nhớ bà vợ chính, mang cùng một đầu đề như sau:

記 夢Ký Mộng

江城子Giang Thành Tử

十年生 死 兩 茫 茫Thập niên sinh tử lưỡng mang mang

不 思 量Bất tư lượng

自 難 忘Tự nan vong

千 里 孤 墳Thiên lý cô phần

旡 處 話 淒 涼Vô xứ thoại thê lương

11Tô Đông Pha

Page 22: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

從 使 相 逢 應 不 識Tòng sứ tương phùng ứng bất thức

塵 滿 面Trần mãn diện

鬢 如 霜Mấn như sương

夜 來 幽 夢 忽 還 鄉Dạ lai u mộng hốt hoàn hương

小 軒 窗Tiểu hiên song

正 梳 妝Thượng sơ trang

相 顧 旡 言Tương cố vô ngôn唯 有 淚 千 行

Duy hũu lệ thiên hàng料 得 年 年 腸 斷處

Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ明 月 夜

Minh nguyệt dạ短 松 岡

Đoản tùng cang.

Dịch là:

Ghi Lại Giấc Mộng

Tô Thức

Điệu Gang Thành Tử

Mười năm sống chết những mang mangChẳng tính lườngRiêng khó quên

Ngàn dặm mồ hoangKể sao hết thê lương

Bằng được gặp nhau e khó nhậnBụi in mặt

Tóc nhuốm sương.

Đêm qua trong mộng về cố hưongThấy qua song Đang điểm trang

Nhìn nhau không lờiMà lệ nhỏ muôn hàng

Thương cảm năm năm nỗi đoạn trườngĐêm trăng sáng

Ngắn bóng thông.

Trở lại bài Ký Mộng của Nguyễn Du, hai câu 15 và 16 có hai địa danh: ĐiệpSơn và Lam Thuỷ làm người đọc thấy làkhi viết bài này Nguyễn Du đã trở vể quê nhà, bên đèo Ba Dội và trên bòsông Lam.

Tiếp theo bài Mộng Ký, Thanh HiênThi Tập chép bài dưới đây, ghi lại truyện Nguyễn Du bị hạ ngục. Giới nghiên cứu tham khảo gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền cho hay là mùađông năm Bính Thìn, 1796, Nguyễn Du tìm đường vào Gia Định theo phòNguyễn Ánh. Việc tiết lộ, ông bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam. Quận Công Thận là bạn thân của Nguyễn Nễ, người anh cùng mẹ vói Nguyễn Du, vì vậy ông chỉ bị giam trong vòng mươi tuần thì đưọc tha.

糜 中 漫 興Mi Trung Mạn Hứng

鍾 子 援 琴 操 南 音Chung Tử viện cầm thao Nam âm

莊 舄 病 中 猶 越 吟Trang tích bệnh trung do Việt ngâm

四 海 風 塵 家 國 淚Tứ hải phong trần gia quốc lệ

十 旬 牢 獄 子 生 心Thập tuần lao ngục tử sinh tâm

平 章 遺 恨 何 時 了Bình Chương di hận hà thì liễu

孤 竹 高 風 不 可 尋Cô Trúc cao phong bất khả tầm

我 有 寸 心 無 與 語Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ

鴻 山 山 下 桂 江 深Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm.

dịch là:

Mạn Hứng Trong Tù

Khúc nam Chung Tử tấu đànChàng Trang tiếng Việt ngâm tràn quên đau

Non sông gió bụi lệ sầuMười tuần sống chết ngục lao hỏi lòng

Page 23: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bao giờ tan hận Bình ChươngCao phong Cô Trúc noi gương mấy người

Tấc lòng không nói nên lờiNon Hồng sông Quế đời đời cao sâu.

Đọc bài Mi Trung Mạn Hứng trên đây,người đọc hiểu rõ thêm về hai chữ cùngđồ trong câu kết bài Nguyễn Du họa thơĐoàn Nguyễn Tuấn. Nhà nho có bốn chữ: dĩ cùng tắc biến, Nguyễn Du đến bước cùng đã lựa chọn: ông tìm đường vàoNam theo chúa Nguyễn Ánh, đứng vàophe đối lập với Nguyễn Nễ anh ruột ông và Đoàn Nguyễn Tuấn anh vợ ông, cả hai cùng làm quan với nhà Tây Sơn. Nhưngthời của Nguyễn Du chưa tới ông bị bắt, bị hạ ngục. Trong mười tuần bị giam trong ngục ông đã suy nghĩ nhiều về cái nợ tang bồng. Yêu nước hay đúng hơnthờ một chúa là tình cảm tự nhiên của con nguời. Như truyện Chung Tử tức Chung Nghi, chép trong Tả Truyên, vốn người nước Sở thời Xuân Thu, bị quân nhà Tấn bắt làm tù binh. Chàng vẫn đội mũ người nước Sỏ lại tài đánh đàn. Quannhà Tấn thấy vậy cho chàng mượn một cây đàn, chàng chỉ tấu những khúc nhạc phương Nam mà thôi. Lại có truyện Trang Tích, người nước Việt cũng thời Xuân Thu, làm quan ở nước Sở. Trong khi nằm bệnh, vua nuớc Sở hỏi: “Tích làngười nước Việt, lại vốn nghèo hèn, naylàm quan nước Sở, không biết còn nhớ nước Việt không?” Vua cho người theo dò, thấy trong khi đau ốm Tích hát tiếng Việt, tỏ rằng Tích vẫn nhớ nước Việt. Nhưng nay nước nhà đang cơn nội chiến, gió bụi bốn phương, khiến Nguyễn Du Đau lòng, và trong mười tuần qua ở trong lao thất, ông có dịp hỏi ông về cái chết vìchữ Trung. Ông tự đặt câu hỏi về mối hận của Bình Chương tức Trương Thế Kiệt, tướng võ nhà Tống thời Tống mạt, cùngtướng văn Lục Tú Phu bảo vệ DươngThái Hậu và hoàng tử Đế Bính chạy trốn quân Nguyên. Chẳng may Đế Bình khôngkịp lên thuyền; rồi thuyền tới chân núi Bình Chương thì gặp nạn đắm chết hết,

mối hận này không biết đến bao giờ tan. Lại còn tấm gương của hai anh em Bá Di Thúc Tề, người nước Cô Trúc, chư hầu nhà Ân, bị mất nước về tay nhà Chu, lênẩn tại núi Thú Dương, từ chối không ăn thóc nhà Chu mà chết đói. Tầm gương đótìm đâu ra được người noi theo? Mối suy tư đó ông không biết giãi tỏ cùng ai. Ôngđành quay về vui với cảnh thiên nhiênNúi Hồng sông Quế .

Mười tuần trong ngục này dường nhưmột khúc rẽ quan trọng trong nếp sống của Nguyễn Du: ông chuyển từ một nhànho hữu vi sang một chân nhân Lão Giáopha mầu Thiền. Ông tự họa hình bóngmình trong bài:

村 夜Thôn Dạ

青 草 村 前 臥 老 翁Thanh Thảo thôn tiền ngoạ lão ông

江 南 夜 色 上 簾 櫳Giang Nam dạ sac thướng liêm lung

滿 天 明 月一 池 水Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thủy

半 璧 寒 燈 萬 樹 風Bán bích hàn đăng vạn thụ phong

老 去 未 知 生 計 拙Lão khứ vị tri sinh kế chuyết障 消 時 覺 夙 心 空

Chướng tiêu thời giác túc tâm không年 年 結 得 魚 樵 侶

Niên niên kết đắc ngư tiều lữ笑 傲 湖 煙 野 草 中

Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.

dịch là:Xóm Đêm

Xóm Thanh Thảo có lão ôngBờ nam đêm xuống đầu sông rèm ngoài

Một trời trăng sáng ao đầyÁnh đèn leo lét ngọn cây gió đùa

Vụng lo sinh kế tuổi giàNghiệp duyên âu cũng chỉ là chữ không

Ngư tiều đánh bạn năm ròng

Page 24: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Khói hồ cỏ nội thoả lòng cười vang.

Bài thơ có hai hình ảnh mới. Một là bachữ chủ chốt của Phật Học: nghiệp, duyên và không trong câu thứ sáu vàtiềng cười trong câu kết xuất hiện lần đầu tiên trong Thanh Hiên Thi Tập. Phải chăng vì qua bài thơ này, Nguyễn Dukhông bàn tới vọng tưởng của ông, vàngoài ra dường như ông thoáng có một chút yên vui dầu chưa thấy ông nói tới sự tiến triển trong hoàn cảnh thực tế của ông.

Tiếp tới là lá thư ông viết gửi bạn:

寄 友Ký Hữu

漠 漠 塵 埃 滿 太 空Mạc mạc trần ai mãn thái không

閉 門 高 枕 臥 其 中Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung

一 天 明 月 交 情 在Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại

百 里 鴻 山 正 氣 同Bách lý Hồng Sơn chính khí đồng

眼 底 孚 雲 看 世 事Mãn để phù vân khan thế sự腰 間 長 劍 掛 秋 風

Yêu gian trường kiếm quải thu phong無 言 獨 對 庭 錢 竹

Vô ngôn độc đối đình tiền trúc霜 雪 消 時 合 化 龍

Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long.

dịch là:Gửi Bạn

Bụi hồng mờ mịt trần gianGối cao cửa đóng nằm khan một mình

Đầy trời trăng tỏ giao tìnhNon Hồng trăm dặm anh linh một lòng

Việc đời mây nổi coi thưòngGió thu lồng lộng bên lưng kiếm dài

Không lời ngắm trúc sân ngoàiTạnh sương tan tuyết bổng bay hoá rồng.

Giới nghiên cứu văn bản không rõ người nhận lá thư này là ai. Tác giả dùng ánh

trăng, một hình ảnh quen thuộc trong thơĐường, để mô tả mối giao tình của bạn với ông; lấy trăm dặm núi Hồng để so sánh với chính khi của bạn và ông. Câuthứ năm ông cho bạn hay là nay việc đòiông xem nhu mây nổi. Bạn ông, trước ngọn gió thu, còn đeo thanh trường kiềm bên lưng. Ông đứng một mình ngắm trúc trưóc sân, ông mường tượng thấy đến khi tuyết tan sương tạnh cành trúc đó sẽ hoá rồng.

Chuỗi hình ảnh trên đây cho ngưòi đọc cảm tưỏng như dẫu tình bạn còn đấy, chính khí chung còn đấy, nhưng nay ôngcoi việc đởi như mây nổi, và bạn ông cònmang kiếm dài bên lưng. Dường như ôngtrả lời bạn về một truyện gì đó mà ôngkhông cho biết, ông viết cho bạn hay làông suy nghĩ về truyện ấy và tin rằng cứ để mặc đại hóa, vì đến thời thì cành trúcsẽ hóa thành rồng. Có một điều đáng chú ý khác là, từ đầu Thanh Hiên Thi Tập đến đây, lần này lần thứ tư Nguyễn Du dùnghình ảnh một thanh gươm làm thi liệu, ba lần trước thanh gươm của ông nắm trongtrong tay, lần này thanh gươm bên lưngmột người bạn của ông đang đứng trước đầu gió.

Tiếp theo lá thư trên là hai lá thư ông viết gửi bạn là Huyền Hư Tử. Giới nghiêncứu không tìm ra Huyền Hư Tử là ai,nhưng hai chữ Huyền và chư Hư cho thấy là nhân vật này thuộc giới tu hành, chẳng là Lão thì cũng là Thiền. Bài thứ nhất là:

寄 玄 虛 子Ký Huyền Hư Tử

天 台 山 前 獨 閉 門Thiên thai sơn tiền độc bế môn

西 風 塵 垢 滿 中 元Tây phong trần cấu mãn trung nguyên

田 家 不 治 南 山 荳Điền gia bất trị Nam Sơn đậu

貧 戶 常 空 北 海 樽Bần hộ thường không Bắc Hải tôn

Page 25: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

野 鶴 浮 雲 時 一 見Bắc hạc phù vân thời nhất kiến

清 風 明 月 夜 無 言Thanh phong minh nguyệt dạ vô ngôn

遠 來 識 取 相 尋 路Viễn lai thức thủ tương tầm lộ

家 在 鴻 山 弟 一 村Gia tại Hồng Sơn đệ nhất thôn.

dịch là:Gửi Huyền Hư Tử

Núi Thiên Thai đáng cửa sàiTrung nguyên cát bụi gió tây mịt mùng

Đậu Nam Sơn người không trồngCảnh nghèo rượu Bắc vò không bao lần

Hạc mây gặp gỡ khó khănHỏi thăm trăng gió gió trăng kín lời

Xa xôi mách lối nhắn ngườiNon Hồng xóm nhất nhà tôi dễ tìm

Mở đầu bức thư, tác giả cho bạn hay mình đang trong cảnh ở ần bên chân núiHồng Sơn. Vùng trung nguyên còn chìmđắm trong cát bụi vì gió tây thổi mạnh. Chữ gió tây này, có nhà nghiên cúu chorằng dù dể ngầm chỉ nhà Tây Sơn.Trongcâu thứ ba, chũ Nam Sơn đâu, lấy từ diển người Dương Vận đời Hán Tuyên Đế thống trách triều đình không dùng mình,trong bài này nhiều nhà nghiên cúu cho làNguyễn Du muốn nói tới việc ông không cộng tác với nhà Tây Sơn và trong câuthứ tư tác giả nói tới hiện cảnh thanh bạch của mình, nhưng vẫn muốn được dón tiếp bạn tại nhà vì chữ Bắc Hải tôn lấy điển người Khổng Dung làm thái thúBắc Hải trong nhà lúc nào cũng có rượu đãi khách. Tiếp theo, ông cho hay là tuybạn ông hiện thòi nay đây mai đó, việc gặp nhau rất khó, tin tức thăm hỏi củng không, nhưng ông vẫn mong bạn ông tới chơi và chỉ lối tới nhà ông.

Bài tiếp theo cũng là thư gửi Huyền Hư,ở phía Bắc sông Lam, nên có nhiều nhànghiên cứu cho là Huyền Hư Tử lúc đó ở Bắc Hà.

寄 北 江 玄 虛 子

Ký Bắc Giang Huyền Hư Tử

長 安 去 不 息Trường An khứ bất tức

薌 思 在 天 涯Hương tứ tại thiên nhai

天 涯 不 可 見Thiên nhai bất khả kiến

但見 塵 與 沙Đãn kiến trần dữ sa西 風 脫 木 葉

Tây phong thoát mộc diệp白 露 損 黃 花

Bạch lộ tổn hoàng hoa珍 重 好 自 愛

Trân trọng hảo tự ái秋 高 霜 露 多

Thu cao sương lộ đa.

dịch là:

Gừi Huyền Hư Tử Bên Bờ Bắc

Dời kinh đi mãi chưa vềXa xăm nhắn gửi tình quê bên trời

Bên trời nào thấy bóng ngưòiChỉ toàn cát bụi tơi bời đó đây

Gió tây thổi rụng lá câySương rơi trắng soá cúc gầy xác xơ

Giữ gìn xin chớ thờ ơMuộn thu sương móc gió mưa càng nhiều

Nhiều nhà nghiên cứu đoán hai chữ Bắc Giang là bên bờ Bắc sông Lam, nơi quêtác giả. Hai câu đầu cho người đọc thấy là kể từ ngày xa kinh đô chưa có dịp quay về, nay ở chốn quê nhà có thư này gửi bạn. Chốn quê nhà vắng nhớ bạn, chốn quê nhà khắp nơi chỉ có gió bụi. Gió tây, như hình ảnh chỉ nhà Tây Sơn, làm câyrụng lá, móc trắng làm lụi khóm cúc vàng. Cuối thư tác giả nhắc nhở bạn nênbảo trọng vì thời tiết cuối thu sương giócàng nhiều, có thể hiểu là tác giả nhắc bạn bảo trọng vì tình hình càng ngàycàng thêm nguy hiểm.Sau mấy bức thư gửi bạn, Thanh hiên ThiTập ghi lại cảm hứng của tác giả ngàyqua sông Long Vĩ.

Page 26: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

渡 龍 尾 江Độ Long Vĩ Giang

故 國 回 頭 戾Cố quốc hồi đầu lệ西 風 一 路 塵

Tây phong nhất lộ trần纔 過 龍 尾 水

Tài qua Long Vĩ thủy便 是 異 鄉 人

Tiện thị dị hương nhân白 髮 沙 中 見

Bạch phát sa trung hiện離 鴻 海 上 聞

Ly hồng hải thượng văn親 朋 津 口 望

Tân bằng tân khẩu vọng為 我 一 沾 巾

Vị ngã nhất triêm cân.

dịch là:Sang Sông Long Vĩ

Ngoảnh nhìn quê cũ lệ tràoGió tây cuốn bụi nghẹn ngào đưòng xa

Bến sông Long Vĩ vùa quaĐã là nưóc lã đã là ngưòi dưng

Bên cồn hiện rõ tóc sươngTiếng hồng khắc khoải khơi trùng lẻ loi Bạn

bè trên bến trông vờiVì ta khăn ướt lệ rơi chân tình.

Giới nghiên cứu cho hay Long Vĩ là têngọi khúc sông Lam gần ra tới biển, chẩy qua làng Tiên Điền. Nhưng không ai rõ làNguyễn Du qua sông Long Vĩ để đi đâu và trong dịp nào. Qua những hình ảnh trong bài thơ, Nguyễn Du ra đi mà mới qua sông đã thấy mình tới nơi xa lạ, đãcảm thấy mình thêm già. Nhưng chuyến đi, có nhiều bạn bè bà con đưa tiễn đông đủ, hẳn là một chuyến đi xa và đã đưọc sửa soạn kỹ.Nguyễn Du còn ghi lại hình ảnh chuyến sang sông này trong ba bài sau đây:

別 阮 大 郎Biệt Nguyễn Đại Lang

三 首Tam Thủ

其 一Kỳ Nhất

我 且 浮 江 去Ngã thả phù giang khứ

送 君 歸 故 丘Tống quân quy cố khâu

乾 坤 餘 草 屋Càn khôn dư thảo ốc風 雨 宿 泒 舟

Phong vũ túc cô chu秋 夜 魚 龍 蟄

Thu dạ ngư long trập深 山 麋 鹿 遊

Thâm sơn mi lộc du休 期 不 甚 遠

Hưu kỳ bất thậm viễn相 見 在 中 洲

Tương kiến tại trung châu.

其 二Kỳ Nhị

送 君 歸 故 丘Tống quân quy cố khâu

我 亦 浮 江 漢Ngã diệc phù Giang Hán

千 里 不 相 聞Thiên lý bất tương văn

一 心 未 嘗 間Nhất tâm vị thưòng gian

夜 黑 豺 虎 驕Dạ hắc sài hổ kiêu月 明 鴻 雁 散

Nguyệt minh hồng nhạn tán兩 地 各 相 望

Lưỡng địa các tương vọng浮 雲 應 不 斷

Phù vân ưng bất đoạn.

其 三Kỳ Tam

君 歸 我 亦 去Quân quy ngã diệc khứ

各 在 亂 離 中Các tại loạn ly trung

Page 27: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

生 死 交 情 在Sinh tử giao tình tại存 亡 苦 節 同

Tồn vong khổ tiết đồng柴 門 開 夜 月

Sài môn khai dạ nguyệt殘 笠 走 秋 風

Tàn lạp tẩu thu phong千 里 不 相 見

Thiên lý bất tương kiến浮 雲 迷 太 空

Phù vân mê thái không.dịch là:

Từ Biệt Anh NguyễnBa Bài

Bài MộtThế nào tôi cũng ra đi

Anh về gò cũ ngập ngừng tiễn anhĐất trời còn mái nhà tranh

Gió mưa thuyền lẻ bập bềnh ruổi rongĐêm thu ẩn kín cá rồng

Rừng sâu chạy nhẩy thoả lòng hươu naiNgày vui sắp tới nay mai

Hẹn nhau gặp lại đàng ngoài trung châu.

Bài HaiAnh về gò cũ tiễn anh

Còn tôi tôi sẽ một mình sang sôngNgàn xa rồi bặt tin hồng

Nhớ nhau cách biệt bên lòng nào nguôiSói hùm tác quái đêm dài

Trăng trong tan tác cánh hồng lẻ đôiNhớ thương đôi ngả đôi người

Ngang trời bàng bạc mây trôi bềnh bồng.

Bài baTiễn anh về tôi ra đi

Đôi ta loạn lạc chia ly âu đànhĐinh ninh sống thác vẹn tình

Mất còn còn mất đôi mình khổ chungCửa sài then ngỏ giãi trăng

Gió thu nón rách lang thang quê ngưòiNgàn trùng ngăn cách xa xôi

Bầu trời mờ mịt mây trôi lững lờ.

Trong cả ba bài tiễn biệt trên, tác giả làngười sẽ sang sông, giã biệt người anh lúc người anh tiễn ông sắp quay về. Bốn câu cuối bài thứ nhất, cho thấy người sang sông tin chắc ở tương lai sáng láng,

và hẹn gặp lại người anh trong một ngàygần đó. Nhưng mối bịn rịn lúc chia tay, trong hai bài sau như thêm nồng nàn,ngưòi đi tiễn chưa muốn quay về, người sang sông chưa xuống thuyền. Hai người còn đứng bên nhau, nhưng dưòng cùngchia nhau nổi thương nhớ vì cảnh tươnglai bất chắc.

Tiếp theo ba bài Biệt Nguyễn Đại Lang, Thanh Hiên Thi Tập chép liền ba bàimang đậm mầu Thiền, Lão. Bài thứ nhất là bài:

道 意Đạo Ý

明 月 照 古 井Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh

井 水 無 波 濤Tỉnh thủy vô ba đào不 被 人 牽 扯

Bất bị nhân khiên xả此 心 終 不 搖

Thử tâm trung bất dao縱 被 人 牽 扯

Túng bị nhân khiên xả一 搖 還 復 止

Nhất dao hoàn phục chỉ湛 湛 一 片 心

Trạm trạm nhất phiến tâm明 月 照 古 井

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh.

dịch là:Giãi Ý

Giếng sâu giãi ánh trăng xuôngNước không gợnsóng như gương một làn

Không người khấy động tĩnh anTâm này tĩnh lặng bóng trăng in hình

Có người khuấy động thình lìnhThoáng qua dao động sóng dềnh lại yên

Giữ sao lòng tâm tĩnh một niềmĐể trăng lòng giếng vẹn tuyền như xưa.

Điểm đáng lưu ý là bài Đạo Ý này là bàithơ đầu tiên trong Thanh Hiên Thi Tập Nguyễn Du nói tới chữ tâm và sự tĩnh

Page 28: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

tâm, chữ chủ chốt của Thiền và Lão Học. Chủ ý của bài thơ rõ rệt là tác giả muốn giữ cho tâm của ông đưọc tĩnh, dầu có bị người khuấy động cũng chỉ giây lát lại trở lại tĩnh lặng.

Rồi tới hai bài:

行 樂 詞Hành Lạc Từ

二 首Nhị Thủ其 一

Kỳ Nhất

俊 犬 黃 白 毛Tuấn khuyển hoàng bạch mao

金 鈴 繫 秀 頸Kim linh hệ tú cảnh輕 衫 少 年 郎

Khinh sam thiếu niên lang牽 向 南 山 嶺

Khiên hưóng nam sơn lĩnh南 山 多 香 糜

Nam sơn đa hương mi血 肉 甘且 肥

Huyết nhục cam thả phì金 刀 切 玉 饌

Kim đao thiết ngọc soạn美 酒 累 百 卮

Mỹ tửu lũy bách chi人 生 無 百 載

Nhân sinh vô bách tải行 樂 當 及期

Hành lạc đương cập kỳ無 為 守 貧 賤

Vô vi thủ bần tiện窮 年 不 開 眉

Cùng niên bất khai mi夷 齊 無 大 名

Di Tề vô đại danh蹠 蹻 無 大 利

Chích Cược vô đại lợi中 壽 只 八 十

Trung thọ chỉ bát thập何 事 千 年 計

Hà sự thiên niên kế

有 犬 且 須 殺Hữu khuyển thả tu sát

有 酒 且 須 傾Hữu tửu thả tu khuynh眼 前 得 喪 已 難 認

Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận何 事 茫 茫 身 後 名

Hà sự mang mang thân hậu danh.

其 二Kỳ Nhị

山 上 有 桃 花Sơn thượng hữu đào hoa

綽 約 如 紅 綺Xước ước như hồng ỷ

清 晨 弄 春 妍Thanh thần lộng xuân nghiên

日 暮 著 泥 滓Nhật mộ trước nê chỉ好 花 無 百 日

Hảo hoa vô bách nhật人 壽 無 百 歲

Nhân thọ vô bách tuế世 事 多 推 移Thế sự đa suy di浮 生 行 樂 事

Phù sinh hành lạc sự席 上 有 妓 嬌 如 花

Tịch thượng hữu kỷ kiều như hoa壺 中 有酒 如 金 波

Hồ trung hữu tửu như kim ba翠 管 玉 簫 緩 更 急

Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp得 高 歌 處 且 高 歌Đắc cao ca xứ thả cao ca

君 不 見Quân bất kiến:

王 戎 牙 籌 手 自 捉Vương Nhung nha trù thủ tự chóc

日 日 會 計 常 不 足Nhật nhật cối kế thường bất túc

三 公 臺 傾 好 李 死Tam công đài khuynh hảo lý tử

金 錢 散 作 他 人 福Kim tiền tán tác tha nhân phúc

又 不 見

Page 29: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hựu bất kiến:

馮 道 晚 年 稱 極 貴Phùng Đạo vãn niên xưng cực quý

歷 朝 不 離 卿 相 位Lịch triều bất ly khanh tướng vị

鍾 鳴 鼎 食 更 還 空Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không

千 載 徒 留 長 樂 敘Thiên tải đồ lưu trường lạc tự

眼 前 富 貴 如 浮 雲Nhãn tiền phú quý như phù vân

浪 得 今 人 笑 古 人Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân

古 人 墳 塋 已 纍 纍Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy

今 人 奔 走 何 紛 紛Kim nhân bôn tẩu hà phân phân

古 今 賢 愚 一 邱 土Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ

生 死 關 頭 莫 能 度Sinh tử quan đầu mạc năng độ

勸 君 飲 酒 且 為 歡Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan

西 窗 日 落 天 將 暮Tây phong nhật lạc thiên tương mộ.

dịch là:

Hành Lạc TừHai bài

Bài I

Cầy tơ đốm trắng lông vàngCổ đeo một chiếc nhạc vàng thêm xinh

Chàng trai áo ngắn phong phanhNúi Nam ngắm hướng tênh tênh bước về

Núi Nam có lắm nai quêTiết thơm thịt béo khó chê mọi đàng

Món ngon bát ngọc dao vàngRượu tăm trăm chén nào màng tỉnh say

Đời người trăm tuổi mấy aiKíp thời hành lạc kẻo mai xuân tàn

Giữ chi nếp sống nghèo nànQuanh năm quần quật làm ăn ngập đầu

Di Tề nào có danh caoLại coi Chích Cược có giầu hơn ai

Tám mươi tuổi đà sống daiNgàn năm lo chuyện đưòng dài uổng công

Còn cầy còn miếng dồi ngonCòn be rượu trắng ta còn bữa say

Mất còn trước mắt nào hayNgàn năm danh lợi lão đây cóc cần.

Bài II

Non xanh rực rỡ hoa đàoLụa hồng một dải ngàn cao ngang trời

Sớm mai giỡn cợt hoa tươiĐầu hôm đã vội tả tơi khe lầy

Mùa hoa nào đủ trăm ngàySống lâu trăm tuổi đời nay mấy người

Vần xoay thay đổi truyện đờiPhù sinh một kiếp chẳng chơi cũng già

Tiệc hoa kỹ nữ như hoaRượu thơm lóng lánh sao sa sóng vàng

Nhặt khoan đàn sáo nhịp nhàngChung vui câu hát rộn ràng tiếng ca

Anh thấy chăng:Vương Nhung tay bấm thẻ ngà

Lo quanh tínhquẩn chẳng qua tham nhiềuQuan hết thời gốc mận xiêu

Bao nhiêu vàng bạc bấy nhiêu trả ngưòiLại thấy chăng:

Họ Phùng danh vọng cao vờiBốn triều khanh tướng chẳng dời đỉnh chung

Dỉnh chung rốt cuộc bằng khôngNgàn năm Trưòng Lạc một chưong để đời

Giầu sang mây nổi đầy vơiNgười nay ai lại dám cười người xưa

Người xưa đều chết yên mồNgười nay sao vẫn hồ đồ bôn ba

Hiền ngu chết cũng ra maAi người thát cảnh khiêng ra ngoài đồng

Mời anh vui chén rưỡu nồngTrời tây bóng xế ngoài song tối rồi.

Người đọc it ai không ngạc nhiên lần đầu đọc bài Hành Lạc Từ I. Thật vậy, người ta thường nói truyện ăn thịt chó, nhưngdường như không có một văn thi sĩ nàoviềt về việc ăn thịt chó như Nguyễn Du.

Hình ảnh bữa thịt chó, có bát ngọc dao vàng, có rưọu tăm trăm chén, đặt trong mạch thơ con người đối mặt với cái chết, cần gấp gáp tìm vui, khiến người đọc, qua mười hai câu đầu, nhớ tới câu tục ngữ:

Sống ở đời ăn miếng dồi chó

Page 30: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thế rồi trong mưòi câu sau, tác giả nói tới Di Tề, nói tới Chích Cược: Di Tề chết dói dưới Thú Dương vì chữ danh, ChíchCược chết bên gò Đông Lăng vì lợi, làhai truyện Trang Tử nhiều lần bàn tới trong sách Nam Hoa Kinh. Đời người lại nggắn ngủi, chẳng mấy ai sống đủ trăm tuổi, vậy thời còn cầy còn miếng dồi ngon, còn rưỡu còn bữa say. Danh vọng ngàn sau đâu lão có cần.

Bài Hành Lạc Từ II cũng cùng một ý thơ:đời sống con người ngắn ngủi chẳng khácgì bông hoa đào sớm nỏ tối tàn. Khôngchơi cũng già, vậy thời sao không vui cùng cầm kỳ tửu sắc.

Tác giả lấy điển Vương Nhung, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, suốt đời tính toán làm giầu lúc chết tiền bạc bao nhiêucũng trả đủ bấy nhiêu cho người. PhùngĐạo, ngưòi Ngũ Đại, làm quan to suốt bốn triều Đường Tấn Hán Chu, nhưng rốt cuộc lúc chết để lại không có gì ngoài tự truyện Trường Lạc của ông.

Hiền ngu đều phải chết, vậy mời anh vui chén rượu này, trời tây xế bóng một ngàylại qua.

Người đọc nhận ra rằng đây là lần thứ hai Nguyễn Du dùng hình ảnh cái chết trong thơ. Lần thứ nhất là lần ông xét lại cái chết vì chữ trung của võ tướng TrươngThế Kiệt và văn quan Lục Tú Phú tại núi Bình Chương và của Bá Di Thúc Tề tại núi Thú Dương, trong mười ngày bị giamtrong ngục, như ghi trong bài Mi TrungMạn Hứng. Câu hỏi là những điều Nguyễn Du tự hỏi trong mười tuần đó có liên quan gì tới nếp sống coi thường danh lợi, vui cái vui của bữa tiệc hoa như tronghai bài từ trên đây?

Tiếp theo hai bài hành trên đây, Nguyển Du ghi trong một bài ngũ ngôn mười vần, cảm nghĩ của ông, hay đúng hơn cảm nghĩ của con người nhỏ bé đứng trước

cảnh nước lớn bên dòng sông Lam, tiêubiểu cho sức mạnh thiên nhiên và cái bất nhân của con tạo :

藍 江Lam Giang

清 晨 望 藍 江Thanh thần vọng Lam Giang

藍 江 漲 秋 水Lam Giang trướng thu thủy

魚 鱉 遊 丘陵Ngư miết du khâu lăng

魚 馬 迷 涯 涘Ngư mã mê nhai sĩ圯 岸 崩 暴 雷

Di ngạn băng bạo lôi鴻 濤 見 奇 鬼

Hồng đào kiến kỳ quỷ危 險 勝 人 心

Nguy hiểm thắng nhân tâm傾 覆 亦 天 意

Khuynh phúc diệc thiên ý我 望 藍 江 頭

Ngã vọng Lam Giang đầu寸 心 常 惴 惴

Thốn tâm thường chúy chúy常 恐 一 失 足

Thường khủng nhất thất túc汩 沒 無 底 止

Cốt một vô để chỉ如 何 世 間 人

Như hà thế gian nhân乘 險 不 知 畏

Thừa hiểm bất tri úy去 者 何 滔 滔

Khứ giả hà thao thao來 者 尚 未 已

Lai giả thượng vị dĩ帝 德 本 好 生

Đế đức bản hảo sinh那 得 長 如 是

Na đắc trường như thị擬 驅 千 仞 山

Nghĩ khu Thiên Nhận Sơn填 平 五 百 里

Điền bình ngũ bách lý.dịch là:

Sông Lam

Page 31: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Sớm mai ra ngắm sông LamMùa thu nước lớn dòng Lam đục ngầu

Nưóc dâng giải vượt cồn caoĐồng sâu ngập trắng ngựa trâu lạc đường

Ầm ầm đất lỡ bờ sôngHiện hình qủy dữ sóng hồng nhấp nhô

Hiểm nguy dạ luống sững sờLong trời lở đất hẳn do ý trời

Nhìn dòng Lam những bồi hồiMối lo ngơm ngớp phận người nhỏ thay

Sa chân sẩy bước nơi đâyChìm sâu mất tích phút giây tức thì

Thế mà người thế coi khiLiều thân xông xáo hiểm nguy chẳng sờn

Kẻ trước cuồn cuộn bước rồnNgười sau nối gót gian nan chẳng ngừng

Hiếu sinh trời đất lẽ thườngCảnh này để vậy dửng dưng chẳng màng

Chẳng xẻ dẫy Thiên Nhận SanLấp bằng trăm dặm Lam Giang giúp đời.

Tám câu đầu trong bài Lam Giang trênđây là tám câu tả cảnh nước lớn bên bờ sông Lam, với cảnh đồng lúa ngập trắng nước, đất bên bờ sông lở ầm ầm, mà tácgiả cho đó là do ý trời tạo nên. Trưóccảnh đó Nguyễn Du nhìn ra cái nhỏ bé của kiếp người so với sức mạnh của thiênnhiên. Nhưng dường như thế nhân không nhận ra điều đó, cứ theo nhau lao mìnhvào chốn nguy hiểm. Điều đó khiến tác giả tự hỏi về đức hiếu sinh của lòng Trời. Cớ sao thiên nhiên không san bằng núi Thiên Nhận lấp đầy năm trăm dặm sông Lam để cứu đời?

Tự đăt câu hỏi đó phải chăng Nguyễn Du đã có câu trả lời:

Thiên địa bất nhân

trong chương V sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử?

Theo một hướng khác, trước cảnh thế nhân nối gót nhau lao vào vòng nguyhiểm, bất chấp cả mạng sống, người đọc dường như thấy Nguyễn Du thương chothế nhân lấy cái hữu hạn của con người

chạy theo cái vô hạn của thiên nhiên, màthương cho nhưng nguòi liều chết chạy theo hai chữ lưu danh đời sau. Trongmạch thơ đó, Thanh Hiên Thi Tập chép tiếp bài:

寧公 城,Ninh Công Thành,

獨 上 高山 眼 界 新

Độc thướng cao sơn nhãn giới tân

英 雄 往 事 掛 江 津

Anh hùng vãng sự quải giang tân

一 城 上 下 盡 喬 木

Nhất thành thượng hạ tậnn kiều mộc

十 里 威 風 見 古 人

Thập lý uy phong kiến cổ nhân

此 地 北 南 歸 一 軸

Thủ địa bắc nam quy nhất trục

當 時 井 灶 駐 三 軍

Đương thì tỉnh táo trú tam quân

十 年 未 泄 男 兒 恨

Thập niên vị tiết nam nhi hận

彈 劍 長 哥 對 白 雲

Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.

dịch là:

Thành Ông Ninh

Lên cao cảnh mới như tranhBến sông truyện cũ lưu danh anh hào

Tưòng thành cây mọc thấp caoOai phong mười dặm thủa nào còn đây

Bắc nam một mối nơi nàyGiếng khô bếp cũ dấu ngày đóng quân

Lòng trai tiết hận mười xuânNhìn mây vỗ kiếm thành vần nghêu ngao

Ông Ninh là tên dân gian goi Tinh Ninhhay Trịnh Toàn, em chúa Trịnh Tráng,làm trấn thủ Nghệ An. Thời Trịnh Nguyễn chiến tranh, ông cho đắp nhiều lũy đất ở vùng núi Dũng Quyết, và ở trênbờ sông Lam, gần Bến thủy, nay vẫn còndi tích. Khi Trịnh Tạc nối ngôi Trịnh

Page 32: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tráng, có y nghi ngờ Trịnh Toàn, gọi về Thăng Long và giết chết trong ngục.

Nguyễn Du qua thành Ông Ninh, thấy thành xưa cây cỏ mọc dầy, tuy vết ngàyoanh liệt ngày xưa còn đó, mà thươngcảm cho Trịnh Toàn, chỉ vì chữ danh màchết thảm trong ngục. Liên tưởng tới hiện cảnh của mình, ông vổ gươm ngâm vangvần thơ vừa viết xong.

Tiết tới là bài:

開 窗Khai Song

門 前 煙 景 近 如 何Môn tiền yên cảnh cận như hà

閒 日 開 窗 生 意 多Nhàn nhật khai song sinh ý đa

六 月 培 風 鵬 徙 地Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa

一 庭 積 雨 蟻 移 窩Nhất đình tích vũ nhĩ di oa青 氈 舊 物 苦 珍 惜

Thanh chiên cựu vật khổ trân tích白 髮 雄 心 空 咄 嗟

Bạch phát hùng tâm không đốt ta再 病 尚 須 調 攝 力

Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực不 知 秋 思 到 誰 家

Bất tri thu tứ đáo thùy gia.

dịch là:Mở Song

Khói mây trước cửa dâng caoMở song sinh ý dạt dào dạ trong

Nửa năm cỡi gió cánh bằngỨng mưa dời tổ kiến càng bò nhanh

Vật xưa gìn giữ chăn xanhHùng tâm đầu bạc cũng đành thở than

Dưỡng bồi bệnh cũ thuốc thangÝ thu chẳng biết ẩn tàng nhà ai.

Dường như khá lâu rồi tác giả chưa mở cửa sổ nhìn ra ngoài, bỗng hôm nay mở song ông thấy nẩy ra trong lòng nhiều sinh ý. Điểm đặc biệt là ông dùng hai chữ

bằng tỷ của sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, chương tiêu Dao Du, để mô tả sụ đổi dời, trong sáu tháng qua. nhưngdương như với ông thì dưòng như cảnh kiến bị úng mưa dời tổ. Ông vẫn chưaquên được nếp xưa, như Vương Hiến Chi giữ chiếc chăn xanh, tiêu biểu cho cảnh nho sinh gìn giữ nề nếp nhà nho. Tóc ôngđã bạc chẳng còn biết làm gì hơn thở than. Bệnh cũ tái phát ông phải lo lắng thuốc thang lấy lại sức. Chẳng biết ý thu, hay hứng thơ mùa thu ần náu tại nhà ai?

Nguyễn Du còn ghi lại tâm cảnh trên đâytrong bài kế tiếp:

對 酒Đối Tủu

趺坐 閒 窗 醉 眼 開Phù tọa nhàn song túy nhỡn khai

落 花 無 數下 蒼 苔Lạc hoa vô số hạ thương đài生 前 不 盡 樽 中 酒

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu死 後 誰 澆 墓 上 杯

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi春 色 漸 遷 黃 鳥 去

Xuân sắc tiệm thiên hoàng diểu khứ年 光 暗 逐 白 頭 來

Niên quang ám trục bạch đầu lai百 期 但 得 終 朝 醉

Bách kỳ đãn đắc chung triêu túy世 事 浮 雲 真 可 哀

Thế sự phù vân chân khả ai.

dịch là:

Nhắp Rượu Một Mình

Bên song vừa tỉnh hơi menTả tơi hoa rụng đầy thềm rêu xanh

Sống nay chẳng uống cạn bìnhChết mai rượu tưới mộ mình cậy ai

Mầu xuân biến đổi oanh bayNăm trôi tháng chẩy tóc mai bạc rồi

Say sưa mong được trọn đờiSự đời mây nổi thương người trần ai.

Page 33: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Cũng như trong bài Hành Lạc II, Nguyễn Du so sánh đòi người ngắn ngủi như kiếp hoa mau tàn. Thế nên, rượu phải uống tới cạn bầu bằng không cái chết ập đến khó tìm ngưòi tưới rượu lên mộ cho mình.Việc đời như mây nổi, thật đáng thươngcho kiếp người.

Tiếp theo, Nguyễn Du ghi lại hình ảnh một Xóm Núi, trong đó người dân làngsống ngoài vòng kiểm soát của triều đình,tựa như trong áng thơ Đào Nguyên Kýcủa Đào Tiềm (365-427) đời Tấn, Trung Quốc:

山 村Sơn Thôn

萬 山 深 處 絕 風 塵Vạn sơn thâm xú tuyệt phong trần

錯 落 柴 門 閉 暮 雲Thác lạc sài môn bế mộ vân長 者 衣 冠 蕕 是 漢

Trưởng giả y quan do thị Hán山 中 甲 子 迥 非 秦

Sơn trung giáp tý quýnh phi Tần牧 兒 角 搥 巟 郊 暮

Mục nhi giác trủy hoang giao mộ汲 女 筒 連 玉 井 春

Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân那 得 跳 離 孚 世 外

Na đắc khiêu ly phù thế ngoại長 松 樹 下 最 宜 人

Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.

dịch là:Xóm Núi

Ngàn cao xa lánh bụi trầnCủa sài lác đác mây vần chiểu buông

Ông già áo Hán còn dùngGhi năm lịch khác lịch chung đời Tần

Gõ sùng trẻ hát vang ngânNước trong giếng ngọcgái xuân kéo gầu

Ngoài vòng phù thế ưóc saoGốc tùng nằm khểnh thú nào thú hơn.

Người đọc tụ hỏi trong bài thơ trên đây,Nguyễn Du ghi lại hình ảnh một xóm núi

mà ông đi qua và thấy muốn ở lại đó, hay đó là một ước ao một hy vọng của tác giả.

Xóm núi ở trong một vùng núi cao, dâncư thưa thớt, bô lão trong xóm còn mặc áo đội mũ kiểu đời Hán. Dân xóm ghi năm tháng theo một cuốn lịch khác với lịch nhà Tần, trai gái trẻ tuổi đều sống thoải mái sung sướng. Các nhà nghiêncứu chú thích về áo mũ kiểu Hán bằng điển Hán Quang Vũ khôi phục cơ nghiệp nhà Hán sau khi bị Vương Mãng cướp ngôi, ngày tiến quân vào Lạc Dương thấy phụ lão còn mang y phục kiểu ngưòi Hán,để tỏ lòng còn tưởng nhớ triều cũ. Về việc dùng lịch khác với lịch nhà Tần, làmột điển rút từ bài Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, mô tả một số người lánh Tần di tản vào Nguồn Đào, sống cách biệt với đời sống bên ngoài, ăn mặc kiểu xưa,không biết đến mọi thay đổi thời thế ngoài đời.

Đằng khác, hình ảnh xóm núi trong bàithơ trên đây gợi cho ngưòi đọc hình ảnh một tiểu quốc, theo mẫu mực của Lão Tử, trong chương 80 sách Đạo Đức Kinh, chủ trương có bậc Thánh thực thi phép sửa trị không làm để săn sóc bao bọc trăm họ theo lối vô tri vô dục.

Tiếp theo, Thanh Hiên Thi Tập dẫn người đọc trở về đời sống thực của Nguyễn Du vói bài:

吊 羅 城 歌 者Điếu La Thành Ca Giả

一 枝 濃 艷 下 蓬 瀛Nhất chi nùng diễm hạ bồng doanh

春 色 嫣 然 動 六 城Xuân sắc yên nhiên động lục thành

天 下 何 人憐 薄 命Thiên hạ hà nhân liên bạc mênh

塚 中 應 自 悔 浮 生Trủng trung ưng tự hối phù sinh

胭 脂 不 洗 生 前 障

Page 34: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng風 月 空 留 死 後 名

Phong nguyệt không lưu tử hậu danh想 是 人 間 無 識 趣

Tưởng thị nhân gian vô thức thú九 泉 去 伴 柳 耆 卿

Cử tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh.

dịch là:

Viếng Ca Nương Ở La Thành

Bồng Doanh xa xuống một cànhSắc xuân tươi thắm sáu thành chuyển rung

Thương người mệnh mỏng cánh chuồnĐáy mồ hối đã lạc đường trầm luân

Sống chưa sạch nợ phấn sonGió trăng đến chết vẫn còn lưu danh

Ngán đời chẳng hiểu nổi mìnhSuối vàng tìm Liễu Kỳ Khanh bạn cùng.

Bài thơ viết ra để viếng ca nương tại Nghệ An.Nguyễn Du sánh nhan sắc ca nương với nhan sắc một tiên cô Bồng Đảo Doanh Châu giáng xuống trần. Ông sót thương nàng mệnh mỏng lạc đường trầm luân. Sống không sòng nợ phấn son, chết còn mang tiếng trăng gió. Ở đời không ai hiểu cho nàng, nên vội chết màxuống chín suối làm bạn vói Liễu Kỳ Khanh, một ông tiến sĩ đời Tống, chuyênsoạn ca phổ để chị em truyền tụng. Ngàyông chết, chị em xóm Bình Khang góptiền mai táng lập ‘hội viếng Liễu’ hàngnăm.

Tiếp theo là hai bài:

雜 詩Tạp Thi

二 首Nhị Thủ其 一

Kỳ nhất

壯 士 白 頭 悲 向 天Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên

雄 心 生 計 兩 芒 然Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên

春 蘭 秋 菊 成 虛 事Xuân lan thu cúc thành hư sự

夏暑 冬 寒 奪 少 年Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên

黃 犬 追 歡 鴻 嶺 下Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ

白 雲 臥 病 桂 江 邊Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên

村 居 不 厭 頻 沽 酒Thôn cư bất yếm tần cô tửu尚 有 囊 中 三 十 錢

Thượng hữu mang mang tam yhập tiền

其 二

Kỳ Nhị

鴻 山 一 色 臨 平 渠Hồng sơn nhất sắc lâm bình cừ

清 寂 可 為 寒 士 居Thanh tịnh khả vi hàn sĩ cư千 里 白 雲 生 几 席

Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch一 窗 明 月 上 琴 書

Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư笑 啼 殉 俗 干 戈 際

Tiếu đề tuẫn tục can qua tế緘 默 藏 生 老 病 餘

Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư葉 落 花 開 眼 前 事

Nguyệt lạc hoa khai nhãn tiền sự四 時 心 鏡 自 如 如

Tứ thời tâm kính tữ như như.

dịch là:Tạp Thi

Hai bài

IBạc đầu tráng sĩ nhìn trời

Hùng tâm sinh kế cả đôi lỡ làngXuân lan thu cúc chẳng màng

Rét đông nực hạ bẽ bàng lòng traiNon Hồng đuổi chó nguôi ngoai

Quế Giang nằm bệnh nhìn mây trắng vềQuên buồn chẳng ngại rượu quêNửa quan tiền lẻ túi kia hãy còn.

II

Page 35: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Nước cừ in bóng non HồngNho nghèo cảnh tĩnh yên lòng náu nưong

Ngàn trùng mây kéo quanh giườngTúi đàn kệ sách đầu tường trăng soi

Loạn ly tùy tục khóc cườiPhòng hờ già bệnh kín lời giữ thân

Lá hoa trước mắt rụng dần Lòng gương coi truyện xoay vần nhẹ tênh.

Trong bài tạp thi thứ nhất, suốt sáu câu đầu, Nguyễn Du mô tả hiện cảnh đãkhiến ông như đứng trước cảnh cùng cực trên cả hai ngả hùng tâm và sinh kế. Truyện xuân lan thu cúc thành thơ bâygiờ ông chẳng màng, nhưng đông qua hètới làm ông buồn phải chăng vì thời gian trôi qua mà hiện cảnh của ông không đổi. Trong cảnh tuyệt vọng đó, ông vẫn cònhai điểm để vui, một là cái thú dắt chó vàng đi chơi, cái thú mà Lý Tư, lúc lâmhình tiếc nuối, nhớ lại ngày chưa bước vào vòng kiềm tỏa của công danh. Và hailà cái thú uống rượu quê, chẳng mấy đắt tiền và trong túi ông lúc này vẫn còn bachục đồng tiền lẻ.

Sang bài thứ hai, trong hiện cảnh thiếu thốn đó, ông vẫn cảm thấy yên lòng vìhiện có nơi nương náu yên tịnh, ông vẫn còn túi đàn cặp sách, tuy phải giữ lời kín miệng, tuy còn đang dưỡng bệnh, tuy hoa lá truớc mắt ông đang rụng dần, nhưngông coi tất cả mọi truyện đó là những truyện đổi thay của đại hóa. Tâm kính của ông soi mà không cầm giữ khiến mọi biến đổi đó nhẹ tênh.

Mạch thơ của hai bài tạp thi trên đây cònkéo dài sang bài dưới đây:

漫 興Mạn Hứng

龍 尾 洲 邊 有 白 鷗Long Vĩ châu biên hữu bạch âu

藍 江 堂 上 有 寒 儒Lam Giang đường thượng hữu hàn nho

一 生 詞 賦 知 無 益Nhất sinh từ phú tri vô ích

滿 架 琴 書 徒 自 愚Mãn giá cầm thư đồ tự ngu百 歲 為 人 悲 瞬 息

Bách tuế vi nhân bi thuấn tức暮 年 行 樂 惜 須 臾

Mộ niên hành lạc tích tu du寧 知 異 日 西 陵 下

Ninh tri dị nhật tây lăng hạ能 飲 重 陽 一 滴 無

Năng ẩm trùng dương nhất trích vô.

dịch là:Mạn Hứng

Bãi Long Vĩ có đàn còBến Lam có lão đồ nho thân vờ

Một đời vô dụng thi thưNgu ngu dại dại ngẩn ngơ sách đàn

Trăm năm ngắn chẳng tầy gangDối già hành lạc bẽ bàng tiếc xuân

Gò tây mai mốt gửi thânTrùng dương rượu tưới mộ phần há say.

Trong thời gian về sống tại quê nhà, bênbờ sông Lam, nhìn sang bãi Long Vĩ thấy đàn cò trắng, chợt nhớ hiện cảnh thiếu thốn của mình, Nguyễn Du thấy đàn sáchlà vô dụng, thi thư chỉ làm con ngưòithành ngu dại. Thế rồi Nguyễn Du bứt ra khỏi hiện cảnh đó. Ông nhận ra là đời sống ngắn ngủi, để đến già mới đi tìmmua vui thì chỉ thấy tiếc nuối tuổi xuân. Biết được ngày nào mãn số, đáy mồ cònuống được giọt rượu nào nữa không.

Người đọc dưòng như thấy là Nguyễn Du đã dùng men say để xua đuổi mối buồn vìnhững mong ưóc chưa tới, mối buồn đó ngăn cách ông với niềm yên tịnh của ông. Thế nên vui cái vui nho nhỏ hiện tại làđiều cần thiết để dập tắt mối buồn vì hyvọng chẳng thành, để lấy lại cân bằng cho niềm yên tịnh trong lòng.

Mạch thơ đó nối dài trong hai bài cùngmột đề dưới đây:

臥 病Ngọa Bệnh

Page 36: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

二 首Nhị Thủ其 一

Kỳ Nhất

多 病 多 愁 氣 不 舒Đa bệnh đa sầu khí bất thư十 旬 困 臥 桂 江 居

Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư癘 神 入 室 吞 人 魄

Lệ thần nhập thất thôn nhân phách饑 鼠 緣 床 喫 我 書

Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư未 有 文 章 生 孽 障

Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng不 容 塵 垢 雜 清 虛

Bất dung trần cấu tạp thanh hư三 蘭 窗 下 吟 聲 絕

Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt點 點 精 神 遊 太 初

Điểm điểm tinh thần du thái sơ.

其 二Kỳ Nhị

春 寒 夏 暑 故 相 侵Xuân hàn hạ thử cố tương xâm

一 臥 鴻 山 歲 月 深Nhất ngọa Hồng Sơn tuế nguyệt thâm

明 鏡 曉 寒 開 老 瘐Minh kính hiểu hàn khai lão sấu

柴 扉 夜 靜 閉 呻 吟Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm十 年 夙 疾 無 人 問

Thập niên túc tật vô nhân vấn九 轉 還 丹 何 處 尋

Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm安 得 玄 關 明 月 見

An đắc huyền quan minh nguyệt hiện陽 光 下 照 破 群 陰

Dương quang hạ chiếu phá quần âm.

dịch là:Nằm Bệnh

Hai Bài

I

Bệnh sầu sầu bệnh cả loBên bờ sông Quế nằm co mười tuần

Thần ôn tới bắt thần hồn

Leo giường gặm sách chuột con trêu ngườiVăn chương há hại nghiệp trời

Sạch trong chẳng lấm bụi đời nhớp nhơBên song ngâm trọn vần thơ

Tinh thần bay bổng thái hư nhẹ nhàng.

II

Xuân sang hạ tới đổi thayNon Hồng một rặng ốm dài mấy năm

Soi gương thấy thẹn cho thânCửa cài đêm vắng nằm than chán chường

Mười năm bệnh cũ bi thưongChín lần thuốc luyện không đường kiếm ra

Cửa huyền đợi ánh trăng ngàPhá tan u ám gần xa cõi này.

Nằm dưỡng bệnh thưòng là hứng thơ của nhiều nhà thơ. Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho hay là ông nằm dưỡng bện bên bờ sông Quế đã nhiều tháng qua. Cũng có đôi lúc nguy kịch, khiến bệnh tật làm ông buồn. Sang câu thứ năm và thứ sáu, người dọc thấy như ông có phần phấn khỏi hơn: ông đoan quyết với ông lànghiệp văn không làm hại nghiệp trời. Ông giũ cho mình trong sạch không vẩn bụi đời. Nhìn qua song ông thấy mấy giòlan, và vần thơ ông ngâm cũng vừa dứt, ông thấy tnh thần nhẹ nhõm bổng bay tới cõi hư vô.

Sang bài thứ hai, Nguyễn Du cho hay làông nằm dưỡng bệnh cả mùa xuân nămqua, nay mùa hè đã tới. Sáng dậy soi gưong thấy mình gầy yếu mà thưongthân, cửa ngoài đóng kín, ông nằm dưỡng bệnh cũ, chẳng biết than thân cùng ai.Thuốc thang tìm kiếm không ra đủ. Nhưng niềm lạc quan của ông không xútkém, ông chờ trăng lên phá tan cái u tối quanh ông.

Người đọc dường như thấy, dầu bị bệnh hành cả nhiều tháng trong cảnh thiếu thốn, Nguyễn Du vẫn lấy cái thú ngắm một giò lan, ngâm một câu thơ làm niềm vui để giữ được niềm bình thản trong tâm.

Page 37: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thanh Hiên Thi Tập, không cho biết chi tiết về chuyến đi này của Nguyễn Du, nhưng ghi lại cảm xúc của tác giả nhưsau trong chuyến đi trong đêm tối đó nhưsau:

夜 行Đi Trong Đêm Tối

老 衲 安 眠 鴻 嶺 雲Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân

涪 鷗 靜 宿 煖 沙 津Phù âu tĩnh túc noãn sa tân南 溟 殘 月 涪 千 里

Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý古 陌 寒 風 共 一 人

Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân黑 夜 何 其 迷 失 曉

Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu白 頭 無 賴 拙 藏 身

Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân不 愁 久 露 霑 衣 袂

Bất sầu cửu lộ triêm y duệ且 喜 鬚 眉 不 染 塵

Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần.

dịch là:

Chuyến đi đêm

Non Hồng yên giấc sư giàCo chân cò trắng bãi xa ngủ vùi

Biển nam trăng lặn chân trờiĐường xưa gió lạnh ghẹo người quan san

Đêm dài dằng dặc chẳng tànBạc đầu vụng dại ẩn thân kiếm đưòng

Chẳng lo áo uớt gió sươngMày râu mừng nỗi bụi đường chẳng phai.

Tiếp nối ý thơ vui truyện hiện tại, dầu lànhò nhoi, để tạm quên những khó khăn trong viễn ành tương lai, trong bài Dạ Hành này, Nguyễn Du tạm quên nhưngkhó nhọc trong chuyến đi này: chẳng lo sương sa ướt áo mà mừng vì râu màychưa nhiễm bụi đường.

Rồi tới ba bài cùng một đề:

雜 吟Tạp Ngâm

三 首Tam Thủ

其 一Kỳ Nhất

秋 聲 一 夜 渡 藍 河Thu thanh nhất da độ Lam Hà

無 影 無 形 入 我 家Vô ảnh vô hình nhập ngã gia萬 里 西 風 來 白 髮

Vạn lý tây phong lai bạch phát一 窗 秋 色 在 黃 花

Nhất song thu sắc tại hoàng hoa百 年 哀 樂 何 時 了

Bách niên ai lạc hà thời liễu四 壁 圖 書 不 厭 多

Tứ bích đồ thu bất yếm đa庭 植 孤 松 高 百 尺

Đình thực cô tùng cao bách xích不 知 青 帝 柰 人 何

Bất tri thanh đế nại nhân hà.

其 二Kỳ Nhị

龍 尾 江 頭 屋 一 間Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian

幽 居 愁 極 忽 知 歡U cư sầu cực hốt tri hoan達 人 心 境 光 如 月

Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt處 士 門 前 青 者 山

Xử sĩ môn tiền thanh giả san枕 畔 束 書 扶 病 骨

Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt燈 前 斗 酒 起 衰 顏

Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan灶 頭 終 日 無 煙 火

Táo đầu chung nhật vô yên hoả窗 外 黃 花 秀 可 餐

Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.

其 三Kỳ Tam

漠 漠 秋 光 八 月 深Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm

Page 38: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

茫 茫 天 氣 半 晴 陰Mang mang thiên khí bán thì âm

受 風 高 竹 鳴 天 籟Thụ phong cao trúc minh thiên lại

零 雨 黃 花 布 地 今Linh vũ hoàng hoa bố địa câm

遠 岫 寒 侵 遊 子 夢Viễn tụ hàn xâm du tử mộng澄 潭 清 共 主 人 心

Trùng đàm thanh cộng chủ nhân tâm出 門 徐 步 看 秋 色

Xuất môn từ bộ khán thu sắc半 在 江 頭 楓 樹 林

Khán tại phong đầu phong thụ lâm.

dịch là:Tạp Ngâm

Ba bài

I

Tiếng thu đêm vuợt dòng LamKhông hình không ảnh tới lầm nhà ta

Gió tây nhuộm tóc trắng raMầu thu khóm cúc nở hoa song ngoài

Buồn vui hết kiếp nào hayĐồ thư bốn vách kệ đầy còn hamTrồng thông trăm thước trước sânChẳng hay trời sẽ xoay vần ra sao.

I I

Đầu Long Vĩ nhà một buồngẨn nơi u tịch đãi buồn làm vui

Lòng người khoáng đạt trăng soiTrước nhà xử sĩ cao vời núi xanhGối đầu chồng sách bệnh hành

Rượu vào cặp má như hình đỡ nhănSuốt ngày bếp lạnh khói tàn

Muốn ăn cả đóa hoa vàng ngoài song.

I I I

Mênh mang tháng tám muộn thuNửa râm nửa nắng âm u cảnh trời

Gió đưa cành trúc sáo trờiĐược mưa khóm cúc rực tươi hoa vàng

Mộng du tử gửi non ngànĐầm sâu nưóc lặng như hồn người thơ

Của ngoài ngon mắt sắc thuRừng phong nửa rõ nửa mờ đầu sông.

Ba bài Tạp Ngâm trên đây, tuy cùng lấy mùa thu làm thi cảnh, nhưng ghi lại ba tâm cảnh khác biệt của tác giả. Bài thứ nhất qua bốn câu đầu cho thấy thi cảnh làmột cảnh thu muộn, khiến ngưòi thơdưòng như thấy mình già hơn tuổi. Ông đã chợt nhìn thấy cái chết luẩn quất đâu đó, tuy nhiên ông còn thấy ham sách, tuy sách đã chất đầy quanh bốn bức tường. Ông dường như còn muốn học hỏi xa hơnnữa, như lấy cái hữu hạn của cái hiểu biết của con người mà đo cái vô cùng của trời đất. Ông muốn trồng một cây thông cao trăm thước trước sân, chẳng cần biết trời xanh sẽ đối xử với ông ra sao. Người đọc chợt thấy hình ảnh Nguyễn Du tự họa tựa như hình ảnh André Compte-Sponville12

tự họa:

Je désire ce que je fais, ici et maintenant,je fais ce que je désire!

để rồi đưa kết luận:

C’est pourquoi nous pouvons êtreheureux, c’est pourquoi nous le sommes,parfois: parce que nous faisons ce quenous désirons, parce que nous désironsce que nous faisons!

Bài thứ hai, qua câu thứ nhất Nguyễn Du cho thấy hiện cảnh thiếu thốn của ông, trong căn nhà đầu bến Long Vĩ. Nhưng trong lòng ông thanh thản, sáng như ánh trăng, tuy ông còn đang dưỡng bệnh. Ông gối đầu lên chồng sách, mượn chút rượu làm hồng đôi má nhăn của ông. Câu thứ bẩy, một lần nữa cho thấy cảnh đói, thiếu thốn của gia đìnhông, rồi sang câu thứ tám ông thấy muốn ăn cả cụm cúc vàng ngoài song.Một lần nữa thơ Nguyễn Du đưa ngườiđọc về với André Comte-Sponville:

12 André Compte-Sponville, Le Bonheur,désespérément, Librio, Éditions Pleins Feux,Paris 2000, p.34

Page 39: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

La faim est un manque, une souffrance,une faiblesse, un malheur; l’apétit, unepuissance et un bonheur.

Sang bài thứ ba, cả tám câu đều tả cảnh thu trước mắt. Nguyễn Du, không có một lời về quá khứ, không một chữ về tương lai. Chỉ có cảnh thu hiện tại trước mắt, không có mảy may ước vọng, chỉ còn cái tĩnh lặng trong tâm tác giả. Nguời đọc nhớ tới một câu của Jules Renard 13:

Je ne désire rien du passé. Je ne compteplus sur l’avenir . Le présent me suffit.Je suis un homme heureux, car j’airenoncé au bonheur.

Phải chăng trong bài Tạp Ngâm III này,Nguyễn Du đã buông bỏ việc chạy theo hạnh phúc. Phải chăng cách sống an lạc duy nhất là buông bỏ đến cả hy vọng? Phải chăng như vậy ba bài Tạp Ngâm trên đây là những kinh nghiêm thực tế của ông trên đưòng đi tìm an lạc, màNguyễn Du muốn trao lại cho người đọc ông ngày nay?

Tiếp theo ba bài Tạp Ngâm trên đây,Thanh Hiên Thi Tập chép hai bài thơgửi Thực Đình. Ông này là ai, giới nghiên cứu chưa tìm rõ đưọc tung tích. Bài thứ nhất như sau:

贈 實 亭Tặng Thực Đình

天 鶴 潭 魚 何 處 尋Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm

羅 城 一 別 十 年 深La Thành nhất biệt thập niên thâm

同 年 對 面 隔 天 壤Đồng niên đối nghiệp cách thiên nhưỡng

往 事 回 頭 成 古 今Vãng sụ hồi đầu thành cổ kim

白 髮 消 磨 貧 士 氣

13Jule Renard, Journal,9 Avril 1895, in

André Comte-Sponvil, ibid. p.49.

Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí綈 袍 珍 重 古 人 心

Đề bào trân trọng cố nhân tâm莫 愁 僻 地 無 佳 客

Mạc sầu tịch địa vô giai khách藍 水 鴻 山 足 詠 吟

Lam thủy Hồng Sơn túc vị ngâm

dịch là:

Tặng Thực Đình

Cá đầm chim hạc biệt tămLa Thành giã biệt mười năm qua rồi

Bạn bè đôi ngả đôi noiChuyện xưa nhìn lại xa vời cổ kim

Bạc đầu chí khí tan chìmÁo thêu người cũ còn tìm trọng ai

Chớ sầu hẻo lánh thôn ngoàiLam Giang Hồng Lĩnh còn dài vịnh ngâm.

Giới nghiên cứu chưa tìm ra đươc Thực Đình là nhân vật nào. Trong câu thứ ba có hai chữ đồng niên, nguòi đọc biết ông là bạn cùng khóa với Nguyễn Du. Hai người có thời quen biết nhau tại Nghệ An. Chữ đề bào, nghĩa là áo bào thêu,Nguyễn Du dùng trong câu thứ năm làđiển lấy từ truyện Phạm Thư, Thái Trạch trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên 14,truyện của hai nhà du thuyết thời Xuần Thu. Phạm Thư là người nước Ngụy. Khởi nghiệp Thư phải giúp việc chu Tu Giả, đi sứ sang nưóc Tề. Dịp đó Phạm Thư được vua Tề cho vàng bạc và rượu thịt. Tu Giả, giận lắm, chỉ cho Pham thưnhận rưọu thịt và bắt trả lại vàng bạc. Về nưóc, Phạm Thư bị hạch tội, phạt đánh roi, gẫy xương rụng răng. Thư giả chết, trốn thoát cải tên đổi họ thành TrươngLộc tiếp tục làm nghề thuyết khách, sau làm tưóng quốc nưóc Tần. Tu Giả đi sứ sang Tần. Phạm Thư giả làm thường dân tới thăm. Tu Giả nhận ra Phạm Thư,nhưng không biết Phạm Thư là tướng quốc nước Tần, ban cho Phạm Thư một

14 Tư Mã Thiên, Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành, nhà xuất bản Văn Hóa, Hà nội 1988,tr. 471 ff.

Page 40: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

tấm áo thêu. Sau đó Tu Giả biết Phạm Thư là tướng quốc nước Tần, sợ hãi xintạ tội. Phạm Thư nói: ‘ban cho một tấm áo thêu đủ tỏ lòng ông còn quyến luyến nhớ tói bạn xưa, và bỏ qua hết truyện cũ’

Rồi tới lá thư thứ hai:

復 實 亭Phúc Thực Đình

冬 寒夏 暑 故 侵 尋Đông hàn hạ thử cố xâm thầm

老 大 頭 顱 歲月 深Lão đại đầu lô tuế nguyệt thâm

京 國 鶯 花 千 里 外Kinh quốc oanh hoa thiên lý ngoại

江湖 蓑 笠 十 年Giang hồ thoa lạp thập niên kim

聚 頭 難 得 常 青 目Tụ đầu nan đắc thường thanh mục

理 髮 當 知 未 白 心Lý phát đương tri vị bạch tâm

藍 水 鴻 山 無 限 勝Lam thủy Hồng Sơn vô hạn thắng

憑 君 收 拾 助 清 吟Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.

Dịch là:Trả Lời Thực Đình

Hạ đông nóng lạnh đổi thayCái già chồng chất tháng ngày trôi qua Kinh

kỳ ngàn dặm anh hoaÁo tơi nón lá nay đà mười năm

Mắt xanh gặp gỡ khó khănCảnh như tóc rối bạch tâm khó bầy

Lam Hồng sông núi chốn đâyChờ anh thâu lượm vơi đầy túi thơ.

Thanh Hiên Thi Tập không chép lá thưThực Đình gừi Nguyễn Du. Tut nhiênnếu chỉ bằng vào lá thư trên đây, người đọc thấy qua câu thứ sáu, dường nhưtrong hoàn cảnh đương thời, Nguyễn Du thấy gặp khó khăn nên không muốn trả lời trực tiếp trong thư, và chỉ có ý muốn mời Thức Đình về chơi Hồng Lĩnh ngâm vịnh.

Bài tiếp theo là bài cuối cùng Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan với triều Nguyễn. Đó là bài:

獵Liệp

衣 冠 達 者 志 青 雲Y quan đạt giả chí thanh vân吾 亦 樂 吾 糜 鹿 群

Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần解 釋 閒 情 安 在 獲

Giải thích nhàn tình an tại hoạch屏 除 異 類 不 妨 仁

Bình trì dị loại bất phương nhân麝 眠 淺 草 香 猶

Xạ miên thiển thảo hương do thấp犬 渡 重 山 吠 不 聞

Khuyển phệ trùng sơn hệ bất văn浮 世 為 歡 各 有 道

Phù thế vi hoan các hữu đạo驅 車 擁 蓋 是 何 人

Khu xa ủng cái thị hà nhân.dịch là:

Đi SănThanh vân mũ áo cân đai

Ta vui với lũ hươu nai đủ rồiCốt khuây khỏa lợi kệ người

Giết loài khác giống chẳng dời chữ nhânXạ hương thơm mát cỏ non

Biệt tăm tiếng chó sau hòn núi xanhThú vui trần thế tùy mình

Xe đưa lọng đón dập dình mặc ai.

Bài thơ như biểu thị cùng một tâm cảnh của tác giả hệt như ba bài Tạp Ngâm trênđây. Thanh vân, nghĩa nôm là mây xanh,là hình ảnh chỉ những người hiển đạt cómũ áo cân đai. Nguyễn Du thích vui với bầy hươu nai, và đã chạy đuổi săn hươunai, chẳng phải để kiếm lợi, cũng chẳng lo sát sinh hại đến chữ nhân. Ông hưởng mùi thơm bãi cỏ non, ông lắng chờ nghe tiếng chó sủa bên kia hòn núi. Ông tự nhủ là thú vui ở cõi trần thế này ai thích cái gìtùy người đó. Nhưng xe long đón đưa thìông kệ người.

Page 41: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thú săn hươu nai là cái thú ông nhắc nhỏ tới trong bài thơ gửi bạn sau khi ông đãra Bắc Hà lam quan với triều nhàNguyễn.

寄 友Kỳ Hữu

鴻 山 山 月 一 侖 明

Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh

千 里 長 安此 夜 情

Thiên lý trường An thử dạ tình

太 璞 不 全 真 面 目

Thái phác bất toàn chân diện mục

一 州 何 事 小 功 名

Nhất châu hà sự tiểu công danh

有 生 不 帶 公 侯 骨

Nhất sinh bất đái công hầu cốt

無 死 終 尋 家 鹿 盟

Vô tử chung tầm gia lộc minh

羨 殺 北 窗 高 臥 者

Tiển sát bắc song cao ngọa giả

平 居 無 事 到 虛 靈

Bình cư vô sự đáo hư linh.

dịch là:Gửi Bạn

Nhớ non Hồng Lĩnh tròn trăngKinh kỳ ngàn dặm ngổn ngang dạ này

Chẳng còn thái phác từ nayCông danh chức nhỏ không ngoài một châu

Sinh không có tướng công hầuSống mơ cái thú bạn bầu hươu nai

Những mong song bắc nằm dàiHư linh tìm nẻo dở hay mặc người.

Qua câu thứ tư, giới nghiên cứu cho rằngNguyễn Du viết lá thư này khi ra Bắcnhiệm chức Tri Huyện Phù Dung (PhủCừ) Hưng Yên. Điểm đáng để ý là từ nayông tự coi mình, theo nhiều nhà nghiêncứu, như không còn nguyên vẹn tính tháiphác. Hai chữ này Nguyễn Du tríchChiến Quốc Sách lấy từ lời Nhan Xúc từ

chối lời mời của Tề Vương: “Ngọc sinhtừ trong núi. Muốn lấy ngọc phải phá núi,không phải là không quý, nhưng khôngtoàn vẹn tính thái phác” vì lẽ ông đã ralàm quan với triều nhà Nguyễn. Ông tựcho mình không có tướng công hầu, hayđúng hơn là ông không muốn ra làmquan, vẫn còn nhớ cái thú đi săn, ướcmong đời sống ần dật như Đào Tiềm nằmbên song bắc, và tìm lối về hư linh, mọithế sự bỏ ngoài tai.

Người đọc có thể coi thái độ trên đây làmột thái độ thiếu thành tâm, nhưng nhìnchung trong văn học Đông Á, nhiều nhànghiên cứu đã cho thái độ này là nếpsống của nhà nho đứng trước cái đối đãigiữa tính hữu vi của nho học và tính vô vicủa Lão và Phật học. Đó là nếp sống củanhững nhà nho xử trong khi xuất, nóitheo Bạch Cư Di, như sẽ trình bày trongđoạn sau.

Những ngày ông mới ra làm quan vàsống bên sông La Phù, Nguyễn Du lấyniềm nhớ quê làm thi hứng, trong hai bàikế tiếp . Một là bài:

羅 浮 江 水閣 獨 坐La Phù Giang Thủy Các Độc Tọa

水閣 閣 下 江 水 深

Thủy các các hạ giang thủy thâm

水 閣 閣 上 人 沉 吟

Thủy các các thượng nhân trầm ngâm

悠 悠 雲 影 變 晨 夕

Du du vân ảnh biến thần tịch

滾 滾 浪 花 浮 古 今

Cổn cổn lãng hoa phù cổ kim

塵 世 百 年 開 眼 夢

Trần thế bách niên khai nhãn mộng

鴻 山 千 里 倚 欄 心

Hồng Sơn thiên lý ỷ lan tâm

徘 徊 對 景 獨 無 語

Page 42: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ

白 髮 數 莖 垂 我 襟

Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm.

dịch là:

Một Mình trên Thủ Các Sông La Phù

Dưới chân thủy các nước sâuĐứng trên thủy các trĩu sầu lòng ai

Mây chiều nắng sớm đổi thayCổ kim sóng cuốn sông dài chẩy xuôi

Trăm năm mắt mở mộng đờiNhớ về Hồng Lĩnh xa xôi tựa cầu

Nín lời đối cảnh nao naoXổ tung tóc trắng trên đầu áo vương.

Hai là bài:

初 月Sơ nguyệt

吸 得 陽 光 纔 上 天

Hấp đắc dương quang tài thướng thiên

初 三 初 四 未 團 園

Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên

嫦 娥 庄 鏡 微 開 匣

Thường nga trang kính vi khai hạp

壯 士 彎 弓 不 上 弦

Tráng sĩ loan cung bất thuớng huyền

千 里 關 山 無 改 數

Thiên lý quan sơn vô cải sắc

一 庭 霜 露 共 愁 眠

Nhất đình sương lộ cộng sầu miên

徘 徊 正 憶 鴻 山 夜

Bồi hồi chính ức Hồng Sơn dạ

卻 在 羅 浮 江 水 邊

Khước tại La Phù giang thủy biên.

dịch là:Trăng Non

Ló chân trời ngậm ánh dươngMùng ba mùng bốn nõn nường liềm trăng

Vành gưong hé nắp chị Hằng

Dây cung chưa mắc há giăng anh hùngQuan san một vẻ dặm trường

Giấc sầu giục giấc móc sương đầy thềmĐêm nao Hồng Lĩnh trắng đêm

Mà nay nấn ná thủy biên La Phù.

Thi tứ trong cả hai bài trên đây đều giãitỏ niểm nhớ quê hương, nhớ những ngàyvui của tác giả tại Hồng Lĩnh, khiến ôngthấy như mình già hơn, tóc rụng nhiềuhơn, mà cơ hội ông chờ đợi dường nhưđang tới, nhưng chính trong thâm tâmông chưa sẵn sàng, như người tráng sĩ cócung trong tay mà chưa mắc dây cung.

Tâm cảnh đó dưòng như đưa Nguyễn Duvề với kinh sách Lão Học, như ông ghilại trong bài sau đây:

偶 興Ngẫu Hứng

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

初 更鼓 角 五更 雞

Sơ canh cổ giác ngũ canh kê

終 夜 徘 徊 思 轉 迷

Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê

明月 滿 天 何 故 故

Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố

西 風 吹 我 正 淒 淒

Tây phong xuy ngã chính thê thê

傖 殘 物 性 悲鳧 脛

Thương tàn vật tính bi phù hĩnh

刻 雒 天 真 失 馬 蹄

Khắc lạc thiên chân thất mã đề

若 遇 山 中 糜 鹿 友

Nhược ngộ sơn trung mi lộc hữu

煙 霞 舊 話 不 堪 提

Yên hà cựu thoại bất kham đề.

Page 43: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

其 二

Kỳ Nhị

一 淚 天 涯洒 斷 蓬

Nhất lệ thiên nhai sái đọan bồng

羅 浮 江 上 起 秋 風

La Phù giang thượng khởi thu phong

黃 雲 白 水 兩 相 照

Hoàng vân bạch thủy lương tương chiếu

急 管 悲 絲 萬 不 同

Cấp quản bi ty vạn bất đồng

六 尺 拘 糜 長 役 役

Lục xích câu mi trường dịch dịch

四 時 拋 躑 太 匆 匆

Tứ thời phao trịch thái thông thông

征 鴻 影 裡 家 何 在

Chinh hồng ảnh lý gia hà tại

隱 隱 瓊 雲 三 兩 風

Ẩn ẩn quỳnh vân tam lưõng phong.

dịch là:Ngẫu Hứng

Bài IỐc vào canh gà tàn canh

Suốt đêm tính quẩn lo quanh bồi hồiTrăng ngà vằng vặc một trờiGió tây heo hút dạ tôi bộn bề

Hại tính vật nối chân leĐổi thiên chân sót mã đề đớn đau

Hưou nai bạn cũ non sâuTruyện xưa khói ráng từ lâu chẳng bàn.

Bài II

Lệ bên trời tưới cánh bồngGió thu chợt nổi bên sông La Phù

Mây vàng nước bạc mịt mùTơ trùng sáo gấp tiềng thu nghẹn ngào

Tấm thân sáu thước dịch laoBốn mùa vùn vụt khác nào thoi đưa

Cánh hồng giục nhớ nhà xưaMây quỳnh cuồn cuộn tỏ mờ núi xa.

Hình ảnh nối chân le, gọt móng ngựa, lấytừ hai thiên Biền Ngẫu và Mã Đề sáchTrang Tử Nam Hoa Kinh, dùng trong hai

câu năm và sáu bài Ngẫu Hứng I, lànhững hình ảnh tác giả đã dùng trong bàiTự Thán I. Trong bài Ngẫu Hứng II, hìnhảnh cỏ bồng lìa gốc, và tấm thân bẩythưóc cũng là hình ảnh tác giả đã dùng đểtự họa trong bài Tụ Thán II. Có điểmkhác nhau là trong hai bài Tự Thán, trongnhững ngày tản cư, tác giả lo sợ chotương lai, ước ao vào rừng xuống tóc ởẩn, và trong hai bài Ngẫu Hứng trên đâytác giả chỉ giãi bầy tâm cảnh nhớ nhà củaông, nhớ những ngày sống trong cảnhđưòng cùng, mà bây giờ ông lại thấy làcảnh vui đáng sống lại. Phải chăng tâmcảnh đó là phản ảnh của đời sống lúc này,ông ra làm quan trái nược với bẩm tínhcủa ông?

Tâm cảnh trên còn là hứng thơ củanguyễn Du trong hai bài kế tiếp đưói đây:

暮 春 漫 興Mộ Xuân Mạn Hứng

一 年 春 色 九 十 日

Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật

拋 擲 春 光 殊 可 憐

Phao trịch xuân quang thù khả liên

浮 世 功 名 看 鳥 過

Phù thế công danh khán điểu quá

閒 庭 節 序 帶 鶯 遷

Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên

側 身 不 出有 影 外

Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại

千 歲 長 憂 未 死 前

Thiên tuế trường ưu vị tử tiền

浮 利 榮 名 終 一 散

Phù lợi vinh danh chung nhất tán

何 如 及 早 學 神 仙

Hà như cấp tảo học thần tiên.

dịch là:

Mạn Hứng Cuối Xuân

Page 44: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Một năm chín chục ngày xuânThương ai phung phí nắng xuân bấy chầy

Công danh dường cánh chim bayTùy mùa thời tiết vần xoay đổi dờiHình ngoài ràng buộc thân ngưòi

Chết kề câu chuyện ngàn đời còn loLợi danh rồi cũng thành tro

Thần tiên sao chẳng học cho kịp thời.

Đi tìm yên vui là truyện con người ai aicũng đuổi đeo. Qua bài Mộ Xuân MạnHứng trên đây, Nguyễn Du thương nhữngai phung phí nắng xuân, đuổi đeo côngdanh, mà chẳng biết là cuộc đời ngắnngủi, sắp kề miệng lỗ còn lo truyện ngànnăm. Lợi lớn danh cao, rồi cũng tan biến.Ý thơ này Nguyễn Du đã viết trong bàiHành lạc Từ I. Riêng ông không màngdanh lợi. Trong bài này ông đặt câu hỏilà sao không kíp thời theo học đạo LãoTrang.

Rồi tới bài:

清 明 偶 興Thanh Minh Ngẫu Hứng

東 風 晝 夜 動 江 城

Đông phong trú dạ động giang thành

人 自 悲 悽 草 自 青

Nhân tự bi thê thảo tự thanh

春 日 有 身非 少 壯

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng

天 涯 無 酒 對 清 明

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh

村 哥 初 學 桑 痲 語

Thôn ca sơ học tang ma ngữ

野 哭 時 聞 戰 伐 聲

Dã khốc thời văn chiến phạt thanh

客 舍 含 愁 已 無 限

Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn

莫 教 茅 草 近 階 生

Mạc giao mao thảo cận giai sinh.

dịch là:

Thanh Minh Mạn Hứng

Đêm qua gió động giang thànhNgười buồn não nuột cỏ xanh ranh rờn

Ngày xuân quá lứa thương thânThanh minh không rượu ngày xuân bên trời

Câu ca học nói theo ngườiĐồng ngoài tiếng khóc oán thời đao binh

Ngậm sầu quán khách nhủ mìnhCỏ săng chớ để mọc quanh bên thềm.

Tết thanh minh là ngày người Đông Á đithăm mồ mả ông cha. Thanh Minh này,Nguyễn Du trú trong một khách xá,không ghi rõ ở đâu, nhưng chắc xa quênhà. Ông thoáng buồn vì xuân về mà ôngđã quá tuổi xuân, thêm nỗi xa nhà thiếurượu. Tiếng nói địa phương ông còn họcqua những câu đồng dao, đôi khi ông cònnghe thấy tiếng khóc than vì chiến binhngoài đồng nội. Ông mang mối buốn đóvà ông nhủ mình là chớ để mối buồn đókhuấy động niềm yên vui trong lòng.

Người đọc dưòng như thấy Nguyễn Dugiữ được niềm yên vui trong tâm cảnhsuốt mấy bài sau đây:

清 決 江 晚 眺Thanh Quyết Giang Vãn Diểu

浮 橋 盡 處 出 平田

Phù kiều tận xứ xuất đồng bằng

歷 歷 青 山 在 眼 前

Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền

古 徑 樵 歸 明 月 擔

Tiểu kính tiều quy minh nguyệt đảm

潮 門 漁 送 夕 陽 船

Triều môn dương tống tịch dương thuyền

茫 茫 遠 水 三 春

Mang mang viễn thũy tam xuân thụ

落 落 人 兩 岸 煙

Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên

Page 45: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

極 目 鄉 關 在 何 處

Cực mục hương quan tại hà xứ

征 鴻 數 點 白 雲 邊

Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên.

dịch là:

Cảnh Chiều Bên Sông Thanh Quyết

Qua cầu nổi tới đồng bằngChắn ngang tầm mắt núi dăng xanh rờn

Tiều về trăng giãi đường mònThuyền câu tách bến chiềuhôm thẫm dần

Cây xanh nước biếc mầu xuânNhá ai lác đác khói vần bến sông

Quê hương xa thẳm vời trôngBên làn mây trắng cánh hồng nản bay.

Giới nghiên cứu cho biết là sông ThanhQuyết, còn gọi là sông Gián Khẩu, là mộtkhúc sông Đáy, khoảng giữa đường từNinh Bình đi Phủ lý. Toàn thể bài thơ làmột cảnh chiều bên sông, có hình ảnh chútiều phu và chiếc thuyền câu, tiêu biểucho nhưng nguời ở ngoài vòng cưong tỏa.Hình ảnh cây xanh nước biếctrong mầu sắc mùa xuân và một xóm nhỏxa xa gợi cho tác giã niềm nhớ nhà, tronghiện cảnh xa quê. Người đọc dường nhưđược cùng tác giả chia xẻ niềm thanhthản trước cảnh đẹp bên sông.

Tiếp theo là cảnh:

同 籠 江Đồng Lung Giang

同 籠 江 水 去 悠 悠

Đồng Lung giang thủy khứ du du

今古 閒 愁 不 住 流

Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu

沙 嘴 殘 蘆 飛 白 鷺

Sa chủy tàn lô phi bạch lộ

隴 頭 落月 臥 寒 牛

Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu

亂 山 翠 接 泒 城 暮

Lọan sơn thúy tiếp cô thành mộ

水 竹 寒 生 小 店 秋

Thủy trúc hàn sinh tiểu điếm thu

羨 爾 野 鷗 隨 水 去

Tiễn nhĩ dã âu thùy thũy khứ

浮 生 勞 碌幾 時 休

Phù sinh lao lực kỷ thời hưu?

dịch là:Sông Đồng Lung

Đồng Lung nước chẩy về đâuNước trôi trôi cà mối sầu ngày qua

Cồn lau cò trắng la đàĐầu ghềnh trâu tắm trăng tà thảnh thơi

Thành liền núi biếc chiều rơiBờ tre quán gió chơi vơi thu tàn

Nhìn âu bơi lượn một đànBao giờ hết cảnh gian nan kiếp người.

Giới nghiên cứu hiện chưa biết sôngĐồng Lung là khúc sông nào. Cho đếnhết câu thứ bẩy, toàn thể là cảnh đẹp mộtbuổi chiều bên sông. Trong cảnh đó tácgiả, như quên đuợc mối sầu đằng đẵngtrong quá khứ. Cảnh hiện trước mắt ônglà đàn cò trên cồn lau, là con trâu tắm đầughềnh, là liềm trăng tà, là bức thành cổliền với trời, với quán gió với đàn âu tựdo bơi lội. Tất cả đều tĩnh lặng, nhưngtrong lòng ông dường như chưa thực tĩnhlặng: ông còn tự hỏi bao giờ thì kiếpngười mới thoát cảnh gian nan. Rồi tớibài:

同 廬 路 上 遙 見 柴山Đồng Lư Lộ Thượng Dao Kiến Sài Sơn

柴山山上多浮 雲

Sài Sơn sơn thượng đa phù vân

柴 山 山 下 石 磷 磷

Sài Sơn sơn hạ thạch lân lân

同 廬 路 上 西 翹 首

Đồng Lư lộ thượng tay kiều thủ

Page 46: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

秀 色 蒼 然 來 照 人

Tú sắc thương nhiên lai chiếu nhân

歷 歷 樓 臺 天 外 見

Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến

微 微 鍾 鼓 月 中 聞

Vi vi chung cổ nguyệt trung văn

青 杉 走 遍 紅 塵 路

Thanh lam tẩu biến hồng trần lộ

猿鶴 何 從 認 舊 人

Viện hạc hà tòng nhận cựu nhân.

dịch là:Trên Đường Đồng LưNgoái Nhìn Núi Thầy

Núi Thầy mây quấn ngàn tầngĐá đây lởm chởm dọc ngang ai bầyĐường Đồng Lư ngoảnh về tây

Long lanh đá biếc ngất ngây lòng ngườiLâu đài sừng sững cuối trời

Trống chuông văng vẳng trăng soi một vừngÁo xanh lạc lõng bụi hồng

Bạn xưa vượn hạc khó lòng nhận ra.

Núi Thầy tên chữ là Sài Sơn, thuộc huyệnQuốc Oai, tỉnh Sơn Tây, có chùa thờ nhàsư Từ Đạo Hạnh. Tác giả ghi lại cảmhứng khi ngoái nhìn về núi Thầy, vớiphong cảnh lạ mắt, rồi chợt thấy thươngthân mình đang trên đường ngàn dặm,dưới lớp áo xanh , tiêu biểu cho người đãra làm quan, và e ngại vượn hạc, hay bạnbè xưa thời còn lả ẩn sĩ khó lòng nhận raông vốn là bạn cũ.

Tiếp theo, Thanh Hiên Thi Tập chép bài:

諒山 道 中Lạng Sơn Đạo Trung

萬 木 山 前 可 卜 居

Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư

白 雲 在 岫 水 通 渠

Bạch vân tự tại thủy thông cừ

山 僧 對 竹 兩 無 恙

Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng

牧 豎 騎 牛 一 不 如

Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như

影 裡 鬚 眉 看 老 矣

Ảnh lý tu mi khan lão hỹ

夢 中 松 匊 憶 歸 與

Mộng trung tùng cúc bất quy dư

坐 家 村 叟 多 閒 事

Tọa gia thôn tẩu đa nhàn sụ

只 未 平 生 不 讀 書

Chỉ thị bình sinh bất độc thư

dịch là:Trên Đường Lạng Sơn

Ven rừng chân núi ẩn cưCó hang mây trắng có cừ nước trong

Sơn tăng cùng trúc chay lòngLưng trâu mục tử thong dong ai tầy

Cái già hiện rõ râu màyNhững mơ tùng cúc nào hay ngày về

Sướng thay ông lão đống quêSuốt đời sách vở không hề liếc qua.

Giới nghiên cứu, cho là Nguyễn Du viếtbài thơ trên đây, trong dịp ông được cửlên Trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ thầnTrung Quốc, vào mùa đông năm 1803.Lãnh việc quan trọng đại, nhưng qua bàithơ này, người đọc thấy dường như ôngchỉ để tâm đến niềm an lạc của riêng ông.Nhìn cảnh hang mây, suối nước bênđường ông nghĩ đến truyện về đó ẩn cư.Nhìn thấy nhà sư bên giậu trúc ông nghĩtới công quả chay lòng như thân trúc rỗngcủa nhà sư. Nhìn thấy trẻ chăn trâu ôngthấy chúng được thong dong hơn ônghiện đang trên đường lo việc quan. Ôngchợt thấy râu mày ông bày cái già củaông ra. Việc quay về cùng tùng cúc chỉ làgiấc mơ không biết đến ngày nào mớithành sự thật. Ông chợt thấy làm ông lãođồng quê, không mắc nợ sách đèn, có lẽđược nhàn thân hơn ông.

Tiếp theo là ba bài Nguyễn Du ghi lạinhững thắng cảnh bên đường. Một là:

Page 47: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

望 夫 石Vọng Phu Thạch

石 耶 人耶 彼 何人

Thạch gia nhân gia bỉ hà nhân

獨 立 山 頭 千 百 年

Độc lập sơn đầu thiên bách niên

萬 劫 杳 無 雲 雨 夢

Vạn kiếp yểu vô vân vũ mộng

一 貞 留 得 古 今 身

Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân

戾 痕 不 絕 三 秋 雨

Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ

苔 篆 長 銘 一 段 文

Đài triện trường minh nhất đoan văn

四 望 連 山 渺 無 際

Tứ vọng liên sơn diểu vô tế

獨教 而 女擅 彝 倫

Độc giao nhi nữ thiện di luândich là:

Hòn Vọng Phu

Ai đây là đá là ngườiVạn năm đàu núi chơi vơi đúng chờ

Sắt son đánh đổ mây mưaChữ trinh kim cổ chẳng mờ tấm thân

Mưa ngâu lệ ngấn sâu hằnRêu ghi chữ triện đọan văn muôn đời

Núi xanh lớp lớp chân trờiLuân thường gương tỏ người người soi chung

Việt Nam có ba hòn Vọng Phu: một ởLạng Sơn, Một ở Bình Định và một ởvùng Thanh Hóa. Giới nghiên cứu chorằng trong bài trên đây Nguyễn Du môtả hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn, nhân dịpông đi đón tiếp sứ thần nhà Thanh vàonăm Quí Hợi, 1804. Hòn Vọng Phu nàyđã bị quân Trung Quốc bắn xập, nhânvụ đụng độ tại biên giới năm cuối thếkỷ XX, vùng đất này nay cũng mất vềtay Trung Quốc.

Hai là bài:

題 二 青 洞Đề Nhị Thanh Động

盤 古 初 分 不 記 年

Bàn Cổ sơ phân bất ký niên

\山 中生 窟 窟 生 泉

Sơn trung sinh quật quật sinh tuyền

萬 般 水 石 擅 大 巧

Vạn bàn thủy thạch thiện đại xảo

一 粒 乾 坤 開 小 天

Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên

滿 埂 皆 空 何 有 相

Mãn cảnh giai không hà hữu tướng

此 心 常 定 不 離 禪

Thử tâm thiền định bất ly thiền

大 師 無 意 亦 無 盡

Đại sư vô ý diệc vô tận

俯 嘆 城 中 多 變 遷

Phủ thán thành trung đa biến thiên.

dịch là:

Đề Động Nhị Thanh

Từ bàn cổ chẳng ghi nămTạo hang tạo núi tạo ngàn suối trong

Đá khe khéo xếp hóa côngCàn khôn một hạt mở toang một vùng

Sắc không không sắc vô cùngLòng này thường định hằng nương về thiền

Đại sư vô lượng diệu huyềnĐoái than chuyển biến triền miên trong thành

Động Nhị Thanh ở phía Bác thị xã LạngSơn, cùng hai động Nhất Thanh và TamThanh là ba thắng cảnh nổi tiếng ở vùngnày. Ngô Thì Sĩ, khi làm quan ở vùngnày có lập bàn thờ Tam Giáo trong động.Trong bốn câu đầu Nguyễn Du mô tả vẻđẹp của động Nhị Thanh. Ba câu sau ôngnhận định về Phật Pháp và tỏ ý muốnhướng về Thiền Học, ông nhìn lại trongthành thấy mọi biến chuyển mà than chokiếp người.

Page 48: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bài thứ ba là bài:

鬼 門 道 中Qủy môn Đạo Trung

鬼 門 石 徑 出 雲 根

Quỷ Môn thạch kính xuất vân căn

征 客 南 歸 欲 斷 魂

Cinh khách nam quy dục đoạn hồn

樹 樹 東 風 吹 送 馬

Thụ thụ đông phong xuy tống mã

山 山 落 月 夜 啼 猿

Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên

中 旬 老 太 逢 人 懶

Trung tuần lão thái phùng nhân lãn

一 路 寒 威 仗 酒 溫

Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn

山 塢 何 家 大 貪 睡

Sơn ổ hà gia đại tham thụy

日 高 猶 自 掩 柴 門

Nhật cao do tự yểm sài môn.

dịch là:

Trên Đường Quỷ Môn

Mây tuôn từ gốc Quỷ MônXuôi nam đối cảnh dạ buồn xót xa

Gió bay bờm ngựa tiễn đưaVượn than đêm vắng trăng tà đầu non

Sớm già thù tiếp lười quenĐường dài rét mướt nhờ men sưởi lòng

Nhà ai xóm núi kín bưngMặt trời vòi vọi còn dường ngủ ngon.

Giới nghiên cúu cho biết Quỷ MônQuan là ải Chi Lăng. Có người chobiết là Chữ Qủy Môn Quan của ngườiTrung Quốc trong câu:

Quỷ Môn Quan. Qủy Môn Quan,Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn

ghi lại những lần tàn quân Trung Quốctrở về nước sau những cuộc xâm lăngViệt Nam. Nguyễn Du viết bài thơ trêntrên đường từ Ản Nam Quan trở về Nam.Người đọc cảm thấy nỗi mệt nhọc của tácgiả sau chuyến việc quan. Ông cảm thấythèm được ngủ một giấc như ai đó trongcăn nhà trong xóm núi, lúc này mặt trờiđã lên cao.

Theo Lê Thước & Trương Chính,Nguyễn Du ở Lạng Sơn từ mùa đôngGiáp Tý 1804, đến mùa xuân Quý Hợi1805, nên ông có bài sau đây ghi lại cảnhđêm xuân ở trong quán khách, tại nhàcông quán Lạng Sơn, nhân ngày đầunăm, tưởng nhớ anh em nơi quê nhà, giãibày tâm sự người ra làm quan không cònmuốn rong ruổi, cùng cái cảnh cười ranưóc mắt trên nẻo đường bon chen danhlợi:

春 宵 旅 次Xuân Tiêu Lữ Thứ

蕭 蕭 蓬 鬢 老 風 塵

Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần

暗 裡 偏 驚 物 候 新

Ám lý thiên kinh vật hậu tân

池 草 未 闌 千 里 夢

Trì thảo vị lan thiên lý mộng

庭 梅 已 換 一 年 春

Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

英 雄 心 事 荒 馳 騁

Anh hùng tâm sự hoang trì sính

名 利 營 場 累 笑 顰

Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần

人 自 蕭 倏 春 自 好

Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

團 城 城 下 一 沾 巾

Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.

dịch là:Quán Khách Đêm Xuân

Page 49: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Rối tung mái tóc phong trầnĐoái nhìn cảnh vật xoay vần sắt se

Mộng ao cỏ cách sơn khêĐổi năm mai nở xuân về bên hiên

Anh hùng nản bước bon chenLợi danh ghen ghét đòi phen khóc cười

Người buồn cảnh vẫn xanh tươiTấm khăn đẫm lệ ven trời Lạng Sơn.

Giới nghiên cứu cho hay, hai chữ trìthảo, dịch là ao cỏ lấy từ truyện hai anhem Tạ Huệ Liên và Tạ Linh vận, ngườiđời nhà Tấn. Huệ Liên mười tuổi đã biếtlàm thơ. Linh Vận thưòng nói : “GặpHuệ Liên thường làm được câu thơ hay.”Một hôm Linh Vận ngồi bên bờ ao,không nghĩ ra được câu thơ nào, đến đêmmơ thấy Huệ Liên, làm được câu: ‘Trìđường sinh xuân thảo’ nghĩa là ‘bờ aomọc cỏ xuân’. Nguyễn Du mượn điểnnày để nói chiêm bao thấy anh em nơiquê nhà.

Nguyễn Du mô tả cảnh bon chen trêndường danh lợi rõ rệt hơn trong bài ngũngôn dưới đây:

孔 雀 舞Khổng Tước Vũ

孔 雀 俯 懷 毒

Khổng tước phủ hoài độc

誤 服 不 可 醫

Ngộ phục bất khả y

外 露 文 章 體

Ngoại lộ văn chương thể

中 藏 殺 伐 機

Trung tàng sát phạt ky

人 侉 容 止 善

Nhân khoa dung chỉ thiện

我 惜 羽 毛 奇

Ngã tích vũ mao kỳ

海 鶴 亦 會 舞

Hải hạc diệc hội vũ

不與 世 人 知

Bất dũ thế nhân tri.

dịch là:

Con Công Múa

Mật công độc chẳng gì bằngĂn lầm chạy chữa thuốc thang chẳng lành

Mẽ ngoài văn vẻ tươi xinhGiết người dấu độc trong mình nào hay

Người xem công múa khen tàiRiêng ta khen bộ mã ngoài của công

Múa hay hạc biển chẳng nhườngNgười đời chẳng biết coi thường coi khinh.

Giới nghiên cứu rằng bốn câu đầu bàiingũ ngôn trên đây ngầm chỉ người hamcông danh ra làm quan, ngoài thì phô vẻđẹp và tài khéo léo múa may để chiềuđời, nhưng trong lòng thì vô cùng hiểmđộc. Nguyễn Du chỉ riêng nói tới mãngoài của công. Theo ông thì hạc biểnmúa cũng chẳng kém gì công, nhưngkhông được người đời biết đến mà còn bịngười đời coi thuòng coi khinh. Có nguờicho rằng hình ảnh hạc biển trong bài thơtrên đây chỉ người có tài năng và đi ở ẩn.

Liền trong mấy bài trên đây, người đọcdương như thấy cảnh sống làm quan củaNguyễn Du, như ông đã nhìn thấy trongnhưng ngảy tản cư lận đận, chính là việccắt chân hạc, gọt móng ngựa làm hạithiên chân của ông. Bản thân ông lúc nàocũng chỉ muốn vui cùng bầy hươu nai,hay chồng sách cổ của ông. Thú mê đọcsách này khởi hứng cho ông viết bài:

蝶 死書 中Điệp Tử Thư Trung

芸 窗曾 几 染 書 香

Vân song tàng kỷ nhiễm thư hưong

謝 卻 風 流 未 是 狂

Tạ khước phong lưu vị thị cuồng

Page 50: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

薄 命 有 緣 留 簡 籍

Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch

殘 魂 無 戾 哭 文 章

Tàn hồn vô lệ khốc văn chương

蠹 魚 易 醒 蘩 花 夢

Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng

螢 火 難 灰 錦 繡 腸

Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường

聞 道 也 應 甘 一 死

Văn đạo dã ưng cam nhất tử

婬 書 蕕 勝 為 花 忙

Dâm thư do thắng vị hoa mang.

dịch là:Sác Bướm Ép Sách

Phòng văn hương sách ngạt ngàoPhong lưu buông bỏ phải đâu ương gàn

Mệnh duyên lòng sách gửi thânHồn tàn khô lệ khóc văn thơ rồi

Phồn hoa mọt sách xa dờiLửa huỳnh nào đốt nổi lời gấm thêu

Được nghe đạo chết cũng liềuMải mê mê sách tránh điều mê hoa.

Giới nghiên cứu cho hay chữ vân, viết bộthảo đầu là một thứ cỏ thơm dùng đểchống mọt sách. Thế nên vân song đồngnghĩa với thư song, là bức cửa sổ phòngvăn thòi xua. Ngồi tại phòng văn, Nguyễndu nhận định ràng buông bỏ phong lưuchẳng phải là một hành động diên dại. Tấtcả cũng đều do duyên mệnh đưa đẩy, nhưcon bướm khô ép trong lòng sách. Hồn tàn,không còn nước mắt khóc thơ văn. Đờingười ngắn ngủi, như bắt đom đóm đọcsách, làm sao đọc hết nổi lời lời châu ngọchàng hàng gấm thêu. Ông kết luận bằng lờisách Luận Ngữ:

Triêu văn dạo tịch tử khả hĩ

nghĩa là sáng được nghe đạo, chiều chếtđược rồi, đê thấy là sách còn đáng mêhơn hoa.

Bài cuối cùng chép trong Thanh Hiên ThiTập là bài:

讀 小 青 記Độc Tiểu Thanh Ký

西 湖 花 苑 藎 成 墟

Tây Hồ hoa uyển tận thành khư

獨 吊 窗 前 一 紙 書

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

脂 粉 有 神 憐 死 後

Chi phấn hữu thần liên từ hậu

文 章 無 命 累 焚 餘

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

古今 恨 事 天 難 問

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

風 韻 奇 冤 我 自 居

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

不 知 三 百 餘 年 後

Bất tri tam bách dư niên hậu

天 下 何 人 泣 素 如

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

dịch là:

Đọc Truyện Nàng Tiểu Thanh

Vườn Tây Hồ hóa bãi hoangĐọc trang sách cổ thương nàng xót xa

Hữu thần lắng đắng hồn maVăn thơ không mệnh nửa ra tro rồi

Hận muôn thủa khó hỏi trờiRiêng ta một hội kiếp người khổ đau

Ba trăm năm lẻ về sauKhóc Tố Như biết còn bao nhiêu người.

Bài Độc Tiểu Thanh Ký này, là bài chóttrong Thanh Hiên Thi Tập nhưng lại làbài được nhiều nhà nghiên cứu lưu ýđến nhất. Tiểu Thanh là một phụ nữ tàisắc thời nhà Minh, người quận MinhGiang, lấy lẽ một ngưòi họ Phùng.Phùng sinh người Hàng Châu, giỏi thơphú. Vợ cả Phùng sinh ghen tuông rấtmực, khiến Tiểu Thanh phải ra ở nhàriêng ở Côn Sơn trên tây Hồ, sau buồnbực mà chết năm nàng 18 tuổi. Tiểu

Page 51: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thanh để lại một tập thơ, ngưòi vợ cảlấy đốt đi. Chỉ còn sót mấy tờ nay gọi làPhần Dư Tập. Truyện nàng Tiểu Thanhcòn chép trong sách Tình Sử hay NữLiêu Trai Chí Dị.

Hai chữ Hữu Thần, Nguyễn Du dùngtrong câu thứ ba, lấy từ truyện của TiểuThanh. Truyện rằng, trưóc khi chết, TiểuThanh cho người vẽ chân dung truyềnthần của nàng. Xem bức thứ nhất nàngnói: “Hình thì giống, nhung chưa lột hếtthần.” Xem bức thứ hai, nàng nói: “Thầnthì được rồi, nhưng bóng thiếu linhđộng”. Đến bức thứ ba nàng khen “Đượcrồi đấy”. Rồi nàng để bức tranh ở dầugiường, đốt hương khấn: “Tiểu Thanh!Tiểu Thanh! Chốn này không phải duyênphận của mi đâu.” Nói xong nước mắtchan hòa nấc lên một tiếng rồi chết.

Bốn câu sau Nguyễn Du dường như tựnói với ông. Cái hận của nàng TiểuThanh phải mang hỏi trời mới ra, nhưngkhó là làm sao hỏi nổi trời. Riêng lòngông tri kỷ với Tiểu Thanh, và ông cho lànỗi khổ đau của Tiểu Thanh là nỗi khổđau của con nguời. Rồi ông tự hỏi rồi đâytới ngoài ba trăm năm nữ, còn mấy aikhóc Tố Như, còn mấy ai tri kỷ với TốNhư trước nỗi khổ đau của con người.

Hai câu cuối bài thơ, thời đầu thập niênthứ hai thế kỷ trước, có nhiều nhà bìnhluận tên tuổi đã cho là lời khẩu chiếm củaông trước khi ông từ trần. Sau đó, nhiềungười thắc mắc về luật niêm giũa chữthứ nhì câu thứ sáu, (chữ vận) vần trắc vàchữ thứ hai câu bẩy (chữ tri) vần bằngnên bài thơ thất niêm, khiến nên coi haicâu này là người đời sau tự ý thêm vàobài thơ sáu câu dở dang của Nguyễn Du.

南 中 雜 吟

Nam Trung TạpNgâm

Nam Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài thơdưới 27 đề mục, Nguyễn Du sáng táctrong bẩy năm làm quan ở Huế và thờigian ông làm Cai Bạ ở Quảng Bình, và vềlàm quan tại Huế.

Bài đầu tiên là:

鳳凰 路 上 早 行Phượng Hoàng Lộ Thượng Tảo Hành

征 夫 懷 往 路

Chinh phu hoài vãng lộ

夜色 尚 濛 濛

Dạ sắc thượng mông mông

月 落 猿 聲 外

Nguyệt lạc viên thanh ngoại

人 行 虎 跡 中

Nhân hành hổ tích trung

力 衰 常 畏 露

Lực suy thường úy lộ

髮 短 不 禁 風

Phát đoản bất câm phong

野 宿 逢 樵 者

Dã túc phùng tiều giả

相 憐不 在 同

Tương liên bất tại đồng.

dịch là:

Sớm Mai Trên ĐườngNúi Phượng Hoàng

Người đi người biết dường dàiNửa đêm về sáng lòng ai lạnh lùng

Trăng tà tiếng vượn não nùngĐưòng đầy vết hổ ngập ngừng bước chân

Gió sương sức yếu ngại ngầnGió vờn tóc ngắn thương thân tiêu điều

Quán quê trọ gặp bác tiều

Page 52: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thương nhau chẳng được mọi điều cùng nhau.

Theo Lê Thước và Trương Chính, nămgiáp tý 1804, Nguyên Du bị bệnh, từchức tri phủ Thuờng Tín về quê; it lâusau lại có chỉ triệu vào kinh. Có thể bàithơ này ông làm trên đưòng PhuợngHoàng, khoảng từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vàoTrung và có quán Phương Hoàng. Hìnhảnh người tiều phu thường là hình ảnhmột ẩn sĩ. Hai câu kết cho thấy dưòngnhư nghỉ đêm tại quán quê, Nguyễn Duđã gặp được người bạn ẩn sĩ mà tronghoàn cảnh lúc đó, dầu hai ngưòi có thânthiết với nhau, cũng không được cùng ởmột chốn với nhau.

Cuộc sống ở kinh đô, dường như lôi cuốnNguyễn Du vào một lối sống mới, màngười đọc nhìn thấy qua năm bài dưóiđây:

夢 得 採 連Mộng Đắc Thái Liên

五 首

Năm Bài

其 一

Kỳ Nhất

緊 束 蚨 蝶 裙

Khẩn thúc phù điệp quần

採蓮 棹 小 艇

Thái liên trạo tiểu đĩnh

湖 水 何 衝 融

Hồ thuỷ hà xung dung

水 中 有 人 影

Thuỷ trung hữu nhân ảnh

其 二

Kỳ Nhị

採 採 西 湖 連

Thái thái Tây Hồ liên

花實 俱 上 船

Hoa thực câu thướng thuyền

花 以 贈 所 畏

Hoa dĩ tặng sở úy

實 以 贈 所 憐

Thực dĩ tặng sở liên

其 三

Kỳ Tam

今 晨 去 採 連

Kim thần khứ thái liên

乃 約 東 鄰 女

Nãi ước đông lân nữ

不 知 來 不 知

Bất tri lai bất tri

隔 花 聞 笑 語

Cách hoa văn tiếu nữ

其 四

Kỳ Tứ

共 知 憐 蓮 花

Cộng tri liên liên hoa

誰 者 憐 蓮 榦

Thùy giả liên liên cán

其 中 有 真 絲

Kỳ trung hữu chân ti

牽 連 不可 斷

Khiên liên bất khả đoạn.

其 五

Kỳ Ngũ

蓮 葉 何 青青

Liên diệp hà thanh thanh

蓮 花 嬌 盈盈

Liên hoa kiều doanh doanh

採 之 勿 傷 藕

Thái chi vật thương ngẫu

Page 53: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

明 年 不 復 生

Minh niên bất phục sinh.

dịch là:Mộng Hái Sen

Năm bài

Bài I

Quần nàng cánh bướm xắn caoHái sen thuyền nhỏ sóng chao dập dềnh

Nước hồ lai láng mông mênhGưong soi mặt nước nàng xinh miệng cười

Bài II

Hồ Tây thư thả hái senGương hoa hái cả một thuyền đầy khoang

Hoa về tặng chốn nể nangCòn gương để tặng cô nàng mười thương

Bài III

Sớm nay hò hẹn hái senCùng cô hàng xóm mới quen hôm rầy

Đến không không đến nào hayCách hoa khúc khích tiếng ai đang cười.

Bài IV

Yêu sen người thế thường tìnhAi người yêu cuống mới tinh hơn đời

Cuống sen trong có tơ trờiTơ bền cuống gẫy chẳng dời còn vương.

Bài V

Lá sen mướt mát rờn xanhHoa sen mơn mởn dập dềnh tỏa hương

Hái sen thưong ngó sen cùngBằng không năm tới sen hồng còn đâu.

Hình ảnh những buổi đi hái sen len sâuvào giấc mộng của Nguyễn Du. qua nămbài Thái Liên trên đây, khiến người đọcnhớ lại hình ảnh Nguyễn Du trong nhữngbuổi hát phường vải, khi còn trai trẻ ởquê nhà.

Mùa hè qua, thu về trên đế đô, gợi hứngcho Nguyễn Du viết bài dưới đây với

những hình ảnh tiêu biểu cho đời làmquan trong triều:

秋 至Thu Chí

香 江 一 片月

Hương Giang nhất phiến nguyệt

今 古 許 多 愁

Kim cổ hứa đa sầu

往 事 悲 青 塚

Vãng sữ bi thanh chủng

新 秋 到 白 頭

Tân thu đáo bạch đầu

有 形 徒 役 役

Hữu hình đồ dịch dịch

無 病 故 拘 拘

Vô bệnh cố câu câu

回 首藍 江 浦

Hồi thủ Lam Giang phố

閒 心 謝 白 鷗

Nhàn tâm tạ bạch âu

dịch là:Vào Thu

Sông Hương một mảnh trăng caoKhơi trong lòng khách mối sầu cổ kim

Mồ xanh chuyện cũ lắng chìmChớm thu tóc bạc trạnh niềm quan san

Có thân vất vả lo thânBệnh không mà bắt gian truân lưng khòm

Ngoảnh đầu nhìn bến sông LamTạ đàn âu trắng tâm nhàn bâng khuâng.

Người đọc lưu ý tới hình ảnh nấm mồxanh mà tác giả coi là câu chuyện cũ đãlắng chìm, không thấy giới nghiên cứunói là mộ của ai. Nhớ lại bài Ký Mộngtrong Thanh HIên Thi Tập, Nguyễn Dungủ mê thấy bà vợ chính lặn lội từ xa vềtrong mộng với ông, phải chăng ngườiđọc có thể nghĩ rằng ông đã vợi quênđược mối buồn này? Cái buồn trước mắthiện tiền là mối lo thân hàng ngày, không

Page 54: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

phải còn là mối lo đói những ngày tản cưmà mối lo giữ gìn lời ăn tiếng nói, nhất làviệc phải khom lưng quỳ gối tại sân rồng.Ông lại nhớ về sông Lam, thèm cái tâmnhàn của đàn âu trắng.

Nỗi cực nhọc trong cảnh làm quan triều,một hoạt động không thích hợp với ông,đã được ông ghi rõ bài trong bài ngũngôn sau đây:

悼 犬Điệu Khuyển

駿 馬 不 老 死

Tuấn mã bất lão tử

烈 女 無 善 終

Thiện nữ vô thiện chung

凡 生 負 奇 氣

Phàm sinh phụ kỳ khí

天 地 非 所 容

Thiên địa phi sở dung

念 爾 屬 土 畜

Nhiệm nhĩ thuộc thổ súc

與 人 毛 骨 同

Dữ nhân mao cốt đồng

貪 進 不 知 止

Tham chiến bất tri chỉ

隕 身 寒 山 中

Vẫn thân hàn sơn trung

隕 身 勿 嘆 惋

Vẫn thân vật thán uyển

數 試 無 全 功

Sổ thí vô toàn công.

dịch là:

Thương Con Chó Chết

Ngựa hay ngựa chẳng chết giàMấy ai liệt nữ tài hoa chết lànhPhàm người khí phách bẩm sinh

Đất trời ghen ghét thường tình chẳng tha

Thân ngươi làm chó giữ nhàXương lông chẳng khác làm ra khác thưòng

Chỉ biết tiến chẳng biết ngừngHang sâu núi lạnh bỏ xương rối đời

Bỏ xương chớ có trách trờiUổng công thử thách thiệt thòi cho ngươi.

Không thể bảo bài trên đây là một bàingụ ngôn, lấy chó để răn người, dầu ýchính nói về nếp sống tri túc tri chỉ, biếtđủ biết ngừng. Nguyễn Du lấy tên hiệu làHồng Sơn Liệp Hộ, tức người Hồng Sơnthích săn bắn, hẳn ông yêu bầy chó săncủa ông. Truyện trò cùng chó nhiều khicó thể là lởi mình tự nhủ mình. Phải biếtđủ phải biết ngừng là lời ông tụ nhủ trênbước đường làm quan, để tránh cái chếtvô nghĩa bỏ xương thiệt thân trong núilạnh.

Tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài ĐiệuKhuyển trên đây còn là thi hứng của ôngtrong ba bài:

偶書 公 館 璧Ngẫu Thư Công Quán Bích

三 首

Tam Thủ

其 一

Kỳ Nhất

朝 餐 一 盂 飯

Triêu xan nhất vu phạn

募 浴 一 盆 水

Mộ dục nhất bồn thuỷ

閉 門 謝 知 交

Bế môn tạ tri giao

開 窗 見 荊 杞

Khai song kiến kinh kỷ

窗 外 荊 杞 蔓 且 長

Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường

美 人 悠 悠 隔 高 牆

Mỹ nhân du du cách cao tường

Page 55: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

杜 宇聲去 矣

Đỗ vũ thanh khứ hĩ

魂兮 歸 來 悲 故 鄉

Hồn hề quy lai bi cố hương.

其二

Kỳ Nhị

閶 闔 門 前 春 色 闌

Xương hạp môn tiền xuân sắc lan

隔 江 遙 對 御 屏 山

Cách giang dao đối Ngự Bình san

春 從 江 上 來 何 處

Xuân tòng giang thượng lai hà xứ

人 倚 天 涯 滯 一 官

Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan

滿 地 繁 聲聞 夜 雨

Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ

一 床 泒 悶 敵 春 寒

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn

桃 花 莫 仗 東 君 意

Đào hoa mạc tượng đông quân ý

傍 有 風 姨 性 最 酸

Bằng hữu phong di tính tối toan.

其三

kỳ Tam

東望 江 頭 望 故 郊

Đông vọng giang đầu vọng cố giao

浮 雲 無 定 水 滔 滔

Phù vân vô định thủy thao thao

風 吹 古 塚 浮 榮 盡

Phong xuy cổ trủng phù vinh tận

日 落 平 沙 戰 骨 高

Nhật lạc bình sa chiến cốt cao

山 月 江 風 如 有 待

Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi

岩 棲 谷 飲 不 辭 勞

Nham thê cốc ẩm bất từ lao

平 生 已 絕 雲 霄 夢

Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng

怕 見 傍 人 問羽 毛

Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.

dịch là:

Ngẫu Nhiên Đề ThơTrên Vách Công Quán

Ba Bài

I

Sớm mai ăn một lưng cơmChiều về tắm mát một bồn nước trong

Cổng cài tạm lánh bạn lòngCành kinh cây kỷ ngoài song vươn dài

Ngoài song kinh kỷ vươn dàiMỹ nhân đằng đẵng tưòng dầy vách cao

Xuân tàn tiếng cuốc khơi sầuƠi hồn nhớ nước ở đâu sớm về.

II

Trước thềm xuân đã hồ tànCách sông núi Ngự ngút ngàn mây cao

Cảnh xuân nước cuốn về đâuPhận quan lần lữa buộc nhau bên trời

Đêm dài nghe tiếng mưa rơiLạnh lùng gối chiếc lẻ đôi sớm chiều

Hoa đào chớ cậy xuân yêuCả ghen dì gió lắm điều kề bên

III

Ngoái nhìn quê cũ đầu sôngMây trôi nước cuốn bềnh bồng bao la

Vinh hoa hão nấm mồ xaĐống xương tử sỉ chiều tà cồn hoang

Hẹn hò sông núi gió trăngGian lao uống suối ở hang chẳng sờn

Công danh mộng cũ tiêu mònE người gạn hỏi mất còn cánh lông.

Giới nghiên cứu cho biết công quán làngôi nhà công tại Huế, triều đình cấp chocác quan, có gia đình vẫn còn ở quê.

Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho thấycảnh ở công quán ăn cơm trọ, tắm nướcbồn, không có bè bạn, ngoài cửa sổ chỉ

Page 56: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

cây dại mọc dài, người đẹp kín cống caotường, chỉ còn nghe tiếng cuốc kêu khêunỗi nhớ nhà. Trong câu thứ sáu có haichữ mỹ nhân đã gây tranh cãi trong giớinghiên cúu. Phe chủ trương Nguyễn Ducó chí phò Lê, cho hai chữ này chỉ nhàvua; giới đối nghịch lại giảng hai chữ nàylà ngưòi đẹp. cả hai phe cùng không đưara một bằng chứng nào khác và để ngỏ đểngười đọc phán đoán.

Bài thứ hai tác giả tả cảnh một mìnhmột bóng ở nhà công quán, thêm nỗibuồn vì phận làm quan bó buôc, khúmnúm trước sân rồng, lại còn e sợ bị gièmpha.

Bài thứ ba, tác giả đón nhìn về quê nhàcách sông cách núi xa xăm, mộng vinhhoa ngày nay chôn xâu dưói nấm mồ,như đống xương vô định. Ngoài kia núisông gió trăng vẫn còn chờ đợi. Giấcmộng bình sinh đã dứt, bay bổng tậnmây xanh, mà truyện lông cánh ông vẫncòn e ngại người đời hỏi tới.

Bài thứ ba cho thấy rõ là giấc mộng vinhhoa của Nguyễn Du đã thật sự tàn. Nênkhó bảo rằng ông còn ý chí phò Lê. Cóchăng là ông còn giấc mộng vui cùng giótrăng sông núi. Thế nên, quyết đoán rằngNguyễn Du thật thà theo nhà Nguyễn, erằng không giả thích đưọctại sao NguyễnDu không hăng say trên hoạn lộ. Bảorằng vì bẩm tính Nguyễn Du tự do phóngkhoáng không muốn ra làm quan thìdường như trái ngược với sự kiện ông ralàm quan, ngoài tỉnh trong triều, trướcsau tròn mười chín năm.

Trả lời những thắc mắc này dường nhưkhông có cách nào khác hơn là đọc trọnvẹn ba tập thơ của Nguyễn Du.

Nam Trung Tạp Ngâp chép tiếp:

送 人

Tống Nhân

香 芹 官 道 柳 青 青

Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh

江 北江 南 無 限 情

Giang bắc giang nam vô hạn tình

上 苑 鶯 嬌 多妒 色

Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc

故 鄉 蓴 老 尚 堪 羹

Cố hương thuần lão thượng kham canh

朝 庭 有 道 成 君 孝

Triều đình hữu đạo thành quân hiếu

竹 石 多 慚 負 爾 盟

Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh

惆 悵 深 宵 孤 對 影

Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh

滿 床 滯 雨 不 戡 聽

Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh.

dịch là:

Tiễn Bạn

Hương Cần quan đạo liễu xanhĐôi bờ nam bắc một tình chứa chan

Vườn vua ghen sắc oanh thanTình quê đạm bạc canh thuần vẫn ngon

Vua thương chữ hiếu anh trònLỗi thề trúc đá thẹn lòng phận tôiĐèn khuya đối bóng bồi hồi

Lắng nghe tí tách mưa rơi bên giường.

Giới nghiên cứu cho biết Hương Cần làmột làng cách Huế chừng bốn cây số vềphiá bắc, năm bên đường thiên lý. Cóngười cho rằng hình ảnh liễu xanh trongcâu thứ nhất mô tả cảnh chia tay giũatác giả và ngưòi về đường ngoài. Câuthứ ba với hình ảnh ghen sắc của bầychim oanh trong vườn thượng uyển môtả cảnh ghen đua tại sân rồng. Đối với

cảnh ghen đua đó là bát canh ngó sen,tiếng chữ là canh thuần tương trưngcảnh yên vui ở nhà. Người bạn của tácgiả giữ tròn chữ hiếu nhờ ơn triều đìnhtrọng đạo, riêng ông lỗi thề mà thẹn với

Page 57: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

trúc đá. Đêm về khuya, một mìnhNguyễn Du ngồi bên đèn nghe mưa Huếtí tách rơi.

Nam Trung Tạp Ngâm ghi thêm nỗilòng của tác giả trong những năm thánglàm quan xa nhà ở Huế trong năm bàikế tiếp:

偶 興Ngẫu Hứng

五 首

Ngũ Thủ

其 一

Kỳ Nhất

三月春 時 長 豆 苗

Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu

黃 狐 肥 滿 白 狐 驕

Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu

主 人 在 旅 不 歸 去

Chủ nhân tại lữ bất quy khứ

可 惜 鴻 山 屬 晚 樵

其 二

Kỳ Nhì

蘆 花 初 白 菊 初 黃

Lô hoa sơ lục cúc sơ hoàng

千 里 鄉 心 夜 共 長

Thiên lý hương tâm dạ cộng trưòng

彊 起 推 窗 望 明 月

Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt

綠 陰 重 疊 不遺 光

Lục di trùng hợp bất di quang

其 三

Kỳ Tam

一 帶 芭 焦 綠 覆 階

Nhất đái ba tiêu lục phúc giai

半 間 煙 火 雜 塵 埃

Bán gian yên hỏa tạp trần ai

可 憐 庭 草 芟 除 盡

Khả liên đình thảo sam trù tận

他 日 春 風 何 處 來

Tha nhật xuân phong hà xứ lai

其 四

Kỳ Tứ

故 鄉 亢 旱 久 妨 農

Cố hương kháng hạn cửu phương nông

十 口 孩 兒 采 色 同

Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng

譬 似 蓴 鱸 最 關 切

Thí tự thuần lư tối quan thiết

懷 歸 原 不 待 秋 風

Hoài quy nguyên bất đãi thu phong.

其 五

Kỳ Ngũ

有 一 人 焉 良 可 哀

Hữu nhất nhân yên lương khả ai

破 衣 殘 笠 色 如 灰

Phá y tàn lạp sắc như hôi

避 人 但 覓 道 傍 走

Tị nhân đãn mịch dạo bàng tẩu

知 是 昇 龍 城 裡 來

Tri thị Thăng Long thành lý lai.

dịch là:Ngẫu Hứng

Năm bài

ITháng ba đậu lúa cỏn non

Cáo vàng hồ trắng béo tròn chạy chơiChủ nhân đất khách bên trời

Non Hồng để mặc tay người tiều phu.

II

Lau chớm bạc cúc chớm vàngĐêm dài dằng dặc dặm ngàn nhớ quê

Bên song gượng đón trăng vềCây xanh rậm rạp bốn bề vắng trăng.

Page 58: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

III

Rợp hè tầu chuối xanh rờnMịt mù tro bụi khói vòn nửa gian

Rẫy vòm cỏ dại đầu sânXuân về chẳng biết gió xuân ngả nào.

IV

Quê nhà hạn hán trời hànhNhà mười miệng trẻ mặt xanh võ vàng

Uớc mong thuần vực từ quanSớm ra phải đợi thu sang mới về.

V

Có người đói rét lang thangRách bươm áo nón vỏ vàng mầu da

Gặp ngưòi khép nép lánh xaTừ Thăng Long đến mà ra cảnh này.

Năm bài Ngẫu Hứng trên đây ghi lại nămtâm cảnh của Nguyễn Du. Bài thứ nhấtnhư một giấc mơ của Hồng Sơn Liệp Hộ:ông nhớ lại việc trồng lúa đậu, cùngnhững kinh nghiệm về loài hồ loài cáovào dịp tháng hai. Ông tiếc cho ông đangsống tại nơi công quán xa quê, thú vuisăn bắn ở cả trong tay người bạn tiều phucủa ông.

Bài thứ hai cũng lại là tâm cảnh nhớ nhàmột đêm thu ở nhà công quán. Ông chờtrăng lên một mình, nhưng cành lá câykinh cây kỷ rậm rạp, như ông viết trongbài Ngẫu Thư Công Quán Bích kỳ nhất,ngoài song khiến ông không nhìn thấytrăng.

Bài thứ ba ông viết về tàu lá chuối bênthềm nhà và nửa gian nhà bụi bậm. Ôngtiếc cho sân cỏ đã bị dẫy sạch mà lo chomùa xuân tới không biết gió thổi từphương nào về. Bài thứ hai, và bài thứ bacùng cho người đọc không những thấyniềm nhậy cảm của Nguyễn Du với ngoạicảnh thiên nhiên liền vói ông, đồng thờilại thấy như ông muốn dùng cành lá cây

kinh cây kỷ hay tàu lá chuối để mã hóanhững truyện ông không tiện ghi rõ hơn.

Bài thứ tư ông ghi lại tin quê ông bị hạnhán. Mười miệng trẻ, con ông đã bị thiếuăn. Giới nghiên cúu cho biết là NguyễnDu có ba vợ. Bà cả họ Đoàn Nguyễn,sinh một con trai và mất sớm, bà kế họVõ, cũng sinh một con trai. Bà thiếp sinhđưọc mười trai sáu gái ở lại quê nhà,không vào kinh theo ông. Với một gánhnặng gia đình như vậy dầu tha thiết muốntừ quan về hưu, nay lại gặp cảnh hạn hán,phải chăng dưòng như ông phải lui truyênxin nghỉ việc quan tới mùa thu?

Bài chót ông ghi hình ảnh một người gặpcảnh đói rét, áo nón xơ xác, mặt màyxanh xao, mà ông đoán là người ThăngLong mới đến kinh kỳ. Có nhà bình giảicho bài này là bài ông tự họa ngày mớitới Huế. Nhưng nhiều người khác bác bỏý kiến này.

Hình ảnh mười miệng con đói nơi quênhà đang bị hạn hán còn đến với NguyễnDu trong bài:

偶 題Ngẫu Đề

白 地 庭 墀 夜 色 空

Bạch địa đình trì dạ sắc không

深堂 悄 悄 下 簾 櫳

Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm lung

丁東砧 杵 千 家 月

Đinh đông châm chử thiên gia nguyệt

簫 索 芭 蕉 一 院 風

Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong

十 口 啼 饑 橫 嶺 北

Thạp khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc

一 身 臥 病 帝 城 東

Nhất thân ngoạ bệnh đế thành đông

知 交 怪 我 愁 多 夢

Page 59: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tri giao quái ngã sầu đa mộng

天 下 何 人 不 夢 中

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.

dịch là:

Ngẫu Đề

Thềm ngoài vắng lặng đêm trongGian nhà tĩnh mịch nửa song rủ mành

Trăng suông chầy vải thình thìnhTầu tiêu gió đập dập dềnh đầu sân

Quê ngoài mưòi miệng thiếu ănThành đông đau ốm một thân bên trời

Người cưòi mơ mộng một đòiHỏi trong thiên hạ ai người không mơ.

Tác giả dẫn nguòi đọc từ ngoài thềm,trong đêm vắng vào trong nhà. Từ ngoàinhà tiếng chầy vải, từ xa, tới tiếng tàu láchuối bên thềm lọt vào gian nhà. Rồi tácgiả cho hay bày con nơi quê nhà cònđang đói ăn, riêng ông ở mé đông thànhmột mình vẫn đau yếu. Bạn bè chế cuờiông suốt đời mộng mơ. Ông hỏi ngượclại ai là nguời không bao giờ mơ trongthiên hạ này? Điểm đánh ghi nhận là câuchuyện nhà mười miệng thiếu ăn đeođẳng ông từ bài Ngẫu Hứng IV, lại trở lạivới ông trong bài Ngẫu Đề này. Hai câukết cho biết là bạn bè cười ông suốt đờisầu mộng. Quay lại bài Ngẫu Hứng IV,dường như trước cành thiếu thốn vật chấtcủa mười đứa con ông đã có hành độngthích đáng: lui ngày ông xin từ quan tớisang thu.

Giấc mộng mà Nguyễn Du nói tới tronghai câu kết trên đây còn len vào giấc ngủcủa ông như ghi trong bài:

水 連 道 中 早 行Thủy Liên Đạo Trung Tảo Hành

悲莫 悲兮 行 道 難

Bi mạc bi hề hành đạo nan

草 頭 露 宿 犯 衰 顏

Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan

百 年 古 道 皆 成 壑

Bách niên cổ đạo giai thành hác

一 帶平 林 不 見 山

Nhất giải bình lâm bất kiến san

多 病 一 身 供 道 路

Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ

五 更 殘 夢 續 鄉 關

Ngũ canh tàn mộng tục hương quan

偶 逢 歸 客 向 余 話

Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại

昨 歲 朝 天乍 放 還

Tạc tuế triều thiên sạ phóng hoàn.

dịch là

Sớm Mai Trên Đường Thủy Liên

Buồn cho đường lối gian nanMàn sương nệm cỏ dung nhan thêm sầu

Trăm năm đường lở thành hàoRừng dầy che rặng núi cao cuối trờiĐường trường đau ốm quê người

Tàn năm canh mộng trông vời quê xaTình cờ gặp khách ngược ra

Vào chầu tròn một năm qua được về.

Giới nghiên cứu đoán chừng là NguyênDu viết bài này trong chuyến di hành vàoQuảng Bình nhận chức Cai Bạ. Dầu đượcra làm quan tỉnh, nhẹ bớt cảnh khúm númtrước sân rồng, giấc mộng về cố hưongvẫn không dời ông. Một tia hy vọng làông gặp dưọc người khách đường xa chohay là năm ngoái vào chầu vua, năm nayđã đưọc cho về.

Tiếp theo là bài:

新 秋 偶 興Tân Thu Ngẫu Hứng

江城 一 臥 閲 三 周

Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu

北 望 家 鄉 天 盡 頭

Page 60: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bắc vọng gia hương thiên tận đầu

麗 水 錦 山 皆 是 客

Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị khách

白 雲 紅 樹 不 勝 秋

Bạch vân hồng thụ bất thăng thu

此 身 已 作 樊 籠 物

Thử thân dĩ tác phàn lung vật

何 處 重 尋 汗 漫 遊

Hà xứ trùng tầm hãn mạn du

莫 向 天 涯 嘆 淪 落

Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc

河 南 今 是 帝 王 州

Hà nam kim thĩ đế vương chu.

dịch là:

Ngẫu Hứng Đầu Thu

Ba năm nằm cõi Giang ThànhVời trông trời bắc quê mình xa xôi

Cẩm Sơn Nhật Lệ đất ngườiVào thu cây đỏ mây trôi bềnh bồng

Thân này chim nhốt trong lồngTìm đâu ra cảnh thong dong mà tìm

Chớ than lưu lạc nổi chìmBờ nam nay cũng là miền đất vua.

Giới nghiên cứu cho biết Giang Thành làthành Đông Hải, tức Đồng Hới, bên sôngNhật Lệ, tỉnh Quảng Bình. Câm Son làtên núi, Lệ Thủy là tên sông, hai địa danhthuộc Quảng Bình. Trời Quảng Bình đãvào thu, mây trắng cây đỏ, mà tác giả chỉthấy mình như bị giam trong lồng, khôngbiết tìm đâu ra thú giải trí. Nhưng rồi ôngtụ an ủi, là nơi ông đang nhậm chúc chưaphải là chốn chân trời, vì đất bên bờ namNhật Lệ nay đã là đất của nhà vua rồi.

Cái mơ ước từ quan cũa Nguyễn Dudương như luôn luôn đi đôi với cái nợ áocơm. Cái giàng co này dường như làmnhà thơ nhiều đêm thức trắng, như ôngghi trong bài:

夜 坐

Dạ Tọa

四 壁 蛩 聲 鬧 夜 眠

Tứ bích cùng thanh náo dạ miên

矮 床 移 向 曲 欄 邊

Ải sàng di hướng khúc lan biên

微 風 不 動 霜 垂 地

Vi phong bất động sương thùy địa

斜 月 無 光 星 滿 天

Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên

今 古 閒 愁 來 醉 後

Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu

蓴 鱸 鄉 思 在 秋 先

Thuần lô hương tứ tại thu tiên

白 頭 所 計 惟 衣 食

Bạch đầu sở kế duy y thực

何 得 狂歌 似 少 年

Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên.

dịch là:

Ngồi Trắng Đêm

Dế than phá giấc bốn bênĐẩy giường ra tận đầu hiên ta nằm

Gió im sương đất giăng mànĐầy trời sao tỏ trăng tàn hết đêm

Hả say buồn truyện cổ kimĐầu thu thuần vược trạnh niềm phân vân

Bạc đầu nặng nợ áo cơmTiếc ngày niên thiếu thơ ngâm như cuồng.

Câu thứ bẩy trong bài trên đây, tác giảcho hay là ông đã bạc đầu rồi mà còn chỉnghĩ đến truyện áo cơm. Chác hẳn khôngphải truyện áo cơm cho riêng chính ông,vì dầu lương một vị đường quan, cấp caibạ, dầu có đạm bạc đến đâu chắc cũng dưcho việc cơm áo cho cá nhân người làmquan, vậy câu truyện áo cơm này hẳn làcâu truyện áo cơm cho đàn con gần haichục miệng ở quê nhà. Phải chăng vì vậymà việc xin từ quan của ông làm ông phảisuy đi tính lại.

Page 61: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ý muốn từ quan Nguyễn Du thấy rõtrong bài ông viết tặng ông bạn đã rangoài vòng cương tỏa như sau:

贈人Tặng Nhân

盈 盈 一 水 界 孤 村

Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn

中 有 高 人 不出 門

Trung hữu cao nhân bất xuất môn

蕉 鹿 夢 場 心 不競

Tiêu lộc mộng trưòng tâm bất cạnh

秦 隋 往 事 口 能 言

Tần Tùy vãng sự khẩu năng ngôn

春 雲 滿 徑 群 糜 麓

Xuân vân mãn kính quần mi lộc

秋 稻 登 場 督 子 孫

Thu đạo đăng trường đốc tử tôn

我 欲 掛 冠 從 此 逝

Ngã dục quải quan tòng thử thệ

與 翁 壽 歲 樂 琴 樽

Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.

dịch là:

Tặng NgườiSông đầy nước bạc bên thôn

Không ra khỏi của cao nhân hơn đờiMộng tiêu lộc chẳng đua đòi

Tần Tùy việc cũ đôi lời đúng saiNgày xuân vui với hươu nai

Sang thu gặt hái đứng ngoài nhắc con Nhữngmong treo mũ từ quan

Cùng ông năm tháng rượu đàn vui chung.

Giới nghiên cứu cho biết mộng tiêu lộclà chữ rút từ sách Liệt Tử, chép truyệnngười hái củi giết được con hươu, dấuxuống hốc, lấy là chuối phủ lên; sau đókhông nhớ đã dấu con hươu ở đâu, ngờ làmình ngủ mơ bắt được hươu. Nghĩa rộnglà những cái có ngoài thân như danh lợi,có đó mất đó, như thật như mơ. Đời sống

của người bạn của Nguyễn Du dườngnhư là đời sống ông thuờng mong ước màchưa đạt được.

Cảnh sống của ông bạn ngoài vòngcương tỏa, như ghi lại trong bài trên đâydường như tô một nét đậm trên ước mongtreo mũ từ quan, chưa đạt của NguyễnDu, khiến ông viết lần thứ hai, giữnguyên vận bài trên :

再 次 原 韻Tái Thứ Nguyên Vận

湛 源 流 水 發 山 村

Trạm nguyên lưu thủy phát sơn thôn

陶日 麗 潮 頭 涌 海 門

Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn

清 渭 濁 涇 同 不 息

Thanh Vị trọc Kinh đồng bất thức

黃 花 綠 竹 兩 忘 言

Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn

歲 收 秫 米 堪 供 客

Tuế thu thuật mễ kham cung khách

天 假 松 年 及 抱 孫

Thiên giả tùng niên cập bão tôn

浮 世 幾 經 桑 鹵 變

Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến

床 頭 依 舊 酒 盈 撙

Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn.

dịch là:Bài Thứ Hai Nguyên Vận

Nguồn sông Trạm từ non caoCửa sông Nhật Lệ dạt dào triều dâng

Vị trong Kinh đục đôi đàngQuên lời trúc biếc cúc vàng ung dung

Nếp thơm đãi khách đủ dùngCháu bồng tuổi thọ bách tùng trời cho

Dòng đời dâu biển chẳng loĐầu giuờng be rượu sẵn chờ đầy vơi.

Page 62: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hai câu đầu Nguyễn Du, theo Đào DuyAnh, tả cảnh sông Trạm, hay sông BìnhGiang, bắt nguồn từ núi Bang Môn, qua18 thác và vực, rồi chẩy qua Hạt Hải đổvào sông Nhật Lệ và tuôn ra biển ở phíađông thành Quảng Bình. Câu thứ ba ônggọi lai cảnh hai nhánh sông Kinh sôngVị, một đục một trong, đổ vào sôngHoàng Hà, Trung Quốc. Đó cũng là điểnngụ ý thói đời trong đục, đời nào nơi nàocũng có. Câu thứ tư là một câu thẫm mầuThiền sắc Đạo. Trong ngôn ngữ Thiền,trúc xanh cúc vàng là bốn chữ chỉ Phậtpháp và Phật thân. Hai chữ vong ngôn làhai chữ quan trọng trong thi ca Đông Á.Hai chữ đó là hai chữ ở trong câu kết bàithơ ngũ ngôn Ẩm Tửu Đệ Ngũ Thủ củaĐào Tiềm, bài thơ được coi là tiêu biểucho thi ca Đông Á. Hai câu đó như sau:15:

此 中 有 真 意

Thử trung hữu chân ý

欲 辨 已 忘 言

Dục biện dĩ vong ngôn

dịch là:

Cảnh này chân ý nẩy raGiãi bày muốn nói mà ta quên lời.

Trong thi ca Việt Âm, Nguyễn Trải có bàiDu Son Tự, với hai câu kết:

箇 中 真 有 意

Cá trung chân hũu ý

欲 語 忽 還 忘

Dục ngữ hốt hoàn vong

dịch là:Lòng riêng ý thật sáng lòa

Kiếm lòi những muốn nói ra quên lời

Hai chữ vong ngôn, truyền từ Đào Tiềm,qua Nguyễn Trãi tới Nguyễn Du, vẫn giữ

15 陶 淵 明 詩 選, ibid. 張67.

nguyên một ý. Ý đó nằm gọn trong haichữ kiệm ngôn, duy trì ý của Đệ Nhất Tổtừ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền đạovới chủ trương:

不 立 文 字

bất lập văn tự.

Hai câu tiếp theo, tác giả mừng người bạnông cao tuổi thọ, có cháu ãm trên tay.Trong cảnh đầm ấm đó, cuộc thế này chỉlà cõi phù sinh, mọi truyện dâu biểndường đều như không đáng để ý tới vànhất là be rượu luôn luôn đầy bên đầugiường.

Tiếp theo Nguyễn Du ghi lại cảnh chớmthu ở Lệ Thành:

雜 吟Tạp Ngâm

白 雲 初 起 麗 江 成

Bạch vân sơ khỏi Lệ Giang thành

暑 氣 纔 秋 天 氣 清

Thử khí tài thu thiên khí thanh

城 外 山 山皆 暮 色

Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc

江 頭 樹 樹 各 秋 聲

Giang đầu thụ thụ các thu thanh

他 鄉 白 髮 老 不 死

Tha hương bạch phát lão bất tử

咋 歲 黃 花 今 更 生

Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh

為 我 鴻 山謝 松 石

Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch

再 [無]面 目 見 同盟

Tái vô diện mục kiến đồng minh.

dịch là:Tạp Ngâm

Mây về phủ trắng Lệ ThànhKhí thu dịu nóng trong xanh vòm trời

Page 63: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thành ngoài sắc núi sẫm rồiXạc xào cây bến bồi hồi tiếng thu

Quê người già chẳng chết choCúc vàng năm ngoái còn chờ nở hoa

Thông núi Hồng tạ giùm taTưởng ngày giáp mặt bạn xưa thẹn thùng.

Câu thứ tám chép trong nguyên bản chỉcó bẩy chữ, giới nghiên cứu đồng ý thêmvào chữ vô để giữ cùng ý thơ trong trọnbài. Người đọc thơ dường nhu thấyNguyễn Du bắt đầu thấy cảnh vật LệThành dễ chịu hơn: cái nóng gió Lào đãdịu bớt, nhưng trận mưa dường đã tạnh,ông đã lại nghe thấy tiếng th trong hàngcây đầu sông. tóc ông bạc hơn, nhưngdường sức khỏe lại khá hơn.

Đám cúc ông trồng lại năm ngoái lại sắpnở hoa. Ông gửi lời chào thông đá HồngLĩnh, tại quê nhà, và khác mọi bài thơ đãviết trước đây, trong bài này dường nhưông không còn nôn nóng nghĩ đến chuyệntừ quan, nhưng vẫn còn cảm thấy nhưmình lỗi hẹn với thông với đá Hồng Lĩnh.

Người đọc còn nhận ra ý thơ trên đâytrong hai bài kế tiếp:

江 頭 散 步Giang Đầu Tản Bộ

二 首

Hai Bài

其 一

散 髮 狂 歌 恣所 之

Tản phát cuồng ca tứ sở chi

綠 頻 風 起 夕 陽 微

Lục tần phong khởi tịch dương vi

白 雲 流 水 同 無 盡

Bạch vân lưu thủy đồng vô tận

漁 父 浮 鷗 兩 不 疑

Ngư phủ phù vân lưõng bất nghi

無 累 未 應 招鬼 責

Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách

不 才 多 恐 速 官 非

Bất tài đa khủng tốc quan phi

年 年 秋 色 渾 如 許

Niên niên thu sắc hồn như hứa

人 在 他 鄉 不 自 知

Nhân tại tha hương bất tự tri.

其 二

Kỳ Nhị

促 歌 聲 短 漫 聲 長

Xúc ca thanh đoản mạn thanh trưòng

白髮 蕭 蕭古 道 旁

Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng

細 澗 水 聲 流 積 雨

Tế giản thủy thanh lưu tích vũ

平 沙 人 影 在 斜 陽

Bình sa nhân ảnh tại tà dương

涓 埃 莫 報 生 何 補

Quyên ai mạc báo sinh hà bổ

兒 女 成 群 死 不 妨

Nhi nữ thành quần tử bất phương

回 首 故 鄉 秋 色 遠

Hồi thủ cố hưong thu sắc viễn

橫山 雲 樹 正 蒼 蒼

Hoành sơn vân thụ chính thương thương.

dịch là:

Tản Bộ Đầu SôngHai Bài

I

Dạo chơi sổ tác nghêu ngaoChiều tà gió thoảng nao nao bãi tần

Bao la nước chẩy mây vầnQuen rồi chim biển kết thân ông chải

Chẳng vương quỵ lụy trách aiViệc quan e lẫn sợ sai e dè

Năm năm vẻ cũ thu vềLòng người lữ khách bộn bề nào hay.

Page 64: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

II

Nghêu ngao nhặt ngắn khoan dàiLối mòn tóc trắng gió bay bơ phờ

Lòng khe róc rách tiếng mưaCồn xa trong nắng chiều mờ bóng ai

Ơn vua đền đáp bấy nayĐầy đàn con cái chết rày cũng yên

Quê nhà xa lắc đoái nhìnTrời thu cây cỏ đắm chìm hoàng sơn.

Những lúc tản bộ thường là thời gian đểngười đi tản bộ suy nghĩ về những câutruyện thường ngày người ta không cónhiều thì giờ nghĩ tói. Trong bài thứ nhất,Nguyễn Du dùng hình ảnh đàn chimtrắng tới làm thân với lão chài dường nhưđể mô tả việc cộng tác giữa ông và nhalại nơi ông làm việc dường như đã cóphần nào thân thiện hơn. Đối với thưọngcấp của ông, vì không màng danh lợi, nênông như ngưòi vô lụy không còn sợ machê quỷ trách. Đối với công việc hàngngày, ông tự coi là mình bất tài nên phảicẩn trọng e dè. Năm này sang năm khácmùa thu lại về, nhưng lòng ông trăm mốibộn bề nên ông không biết đến.

Thi cảnh trong bài thứ hai cũng là mộtcảnh chiều, nhưng ông sổ tóc nghêu ngaongâm thơ, mặc cho gió thổi bù mái tóc,nghe tiếng nước chẩy trong lòng khesuối, nhìn bóng ngưòi xa ngoài cồn cát.Ông tin rằng công việc ông đang đảmnhiệm đã đủ đền đáp ơn vua, đàn con củaông cũng đã khôn lớn, cái chết có đến lúcnày cũng tạm yên. Ông không còn ray rứtnhớ quê, quay đầu hướng vế quê ông chỉthấy cây cối chìm trong bóng núi HoànhSơn.

Niềm thanh thản của Nguyễn Du gửi gắmtrong bài Giang Đầu tản Bộ II chợt tới rồichợt đi như ông ghi trong bài dưới đây:

偶 得Ngẫu Đắc

孤 城 日 暮 起 音 雲

Cô thành nhạt mộ khởi âm vân

青 草 漫 漫 到 海 瀕

Thanh thảo man man đáo hải tần

曠 野 遍 埋 無 主 骨

Khoáng dã biến mai vô chủ cốt

殊 方 獨 托 有 官 身

Thù phương độc thác hữu quan thân

事 來 徒 隸 皆 驕 我

Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã

老 去 文 章亦 避 人

Lạo khứ văn chương diệc tỵ nhân

妄 外 鴻 山 三 百 里

Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lý

相 從 何 處 問 前 鄰

Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.

dịch là:Ngẫu Đắc

Chiều về mây phủ cô thànhMột mầu tới biển cỏ xanh xanh rờn

Vùi nông vô chủ nắm xưongLàm quan sống chết tha phương đành liều

Sai nha tới việc làm kiêuVề già chữ nghĩa nhiều điều nhớ quên

Non Hồng cách biệt hai miềnXóm giềng thăm hỏi bốn bên nhắn lời.

Cũng như trong bài Giang Đầu Tản Bộ II,hình ảnh cái chết tha phương lại về trongcâu thứ ba và thứ tư trong bài Ngẫu Đắctrên đây. Nguyễn Du như cảm thấy nhalại dưới quyền ông lúc có việc làm kiêuvói ông, ông cảm thấy mình già đi, nhiềuđiều nhớ quên quên nhớ. Điểm đáng nóilà ông lại nhớ về núi Hồng Lĩnh ờ miềnngoài, nhưng không nhớ tới gia đình, haythú săn bắn như trong nhiều bài khác, màông muốn nhắn lời gởi thăm đôi bên hàngxóm cũ của ông.

Ý thơ trong hai bài tới, chép trong NamTrung Tạp Ngâm, dường như đổi hướng.Không còn những nhớ tiếc thời xa xưa,

Page 65: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

mà trái lại là những ghi nhận về cảnh tháibình của đất nước sau mấy trăm năm nộichiến. Điều đáng để ý là Nguyễn Dukhông ca ngợi chiến thắng của nhàNguyễn, nhưng ông mừng vì chiến tranhđã chấm dứt, chém giết không còn làmột hành động đáng ghi công. Thanhbình đã trở về với đất nước.

Bắt đầu là bài:

炮 臺Pháo Đài

南 北 車 書 慶 大 同

Nam bắc xa thư kháng đại đồng

炮 臺 虛 設 土 成 東

Pháo đài hư thiết thổ thành đông

山 崩 石 裂 城 猶 壯

Sơn băng thạch liệt thành do tráng

漢 奪 秦 爭 事 已 空

Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không

昨 者 大 虧 生 物 德

Tạc giả đại khuy sinh vật đức

邇 來不 貴 殺 人 功

Nhĩ lai bất quý sát nhân công

清 平 時 節 無 爭 戰

Thanh bình thời tiết vô tranh chiến

牛犢 耰 耡 正 重 農

Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.

dịch là:Pháo Đài

Mừng nay thống nhất bắc namThành đông đài pháo bỏ hoang điêu tàn

Thành còn vững núi đá tanHết rồi truyện cũ Hán Tần chiến chinh

Tránh hại vật trọng hiếu sinhGiết người chẳng được tôn vinh hơn đời

Thanh bình gặp hội vận trờiTrâu bò cầy cấy đến thời trọng nông.

Niềm vui dưòng như là một niềm vuichân thật của tác giả. Vui mừng vì nam

bắc nay một nhà, Những thành trì pháođài đều bỏ hoang điêu tàn. Truyện chiếnchinh đã hết. Nêu cao đức hiếu sinh,tránh giết tróc. Coi trọng việc nông tang,tất cả đều là những hình ảnh mới mẻkhông hề thấy trong Thanh Hiên Thi Tậpvà trong cả hai mươi tám bài trong NamTrung Tạp Ngâm trên đây.

Tiếp theo là bài:

城 下 棄 馬Thành Hạ Khí Mã

誰 家 老 馬 棄 城 陰

Thùy gia lão mã khí thành âm

毛 暗 皮 乾 瘐 不 禁

Mao ám bì can sấu bất câm

石壘 秋 寒 徑 草 短

Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản

沙 場 日 暮 陣 雲 深

Sa trường nhật mộ trận vân thâm

饑 來 不 作 求 人 態

Cơ lai bất tác cầu nhân thái

老 去 終 懷 報 國 心

Lão khứ chung hoài báo quốc tâm

耐 得 風 霜 全 爾 性

Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính

莫 教 羇 縶 再 相 侵

Mạc giao ky trập tái tương xâm.

dịch là:Ngựa Hoang Chân Thành

Ngựa già ai bỏ chân thànhDa khô lông trụi thân mình xác xơ

Cỏ cằn lũy đá cuối thuCồn xa bảng lảng mây mờ chiều buông

Đói lòng chẳng cậy ngưòi thươngVề già nợ nước sắt son vẫn bềnGió sương giữ tính vẹn tuyền

Yên cương tránh chẳng đóng lên lưng gầy.

Hình ảnh con ngựa hoang dưới chânthành là hình ảnh Lão Tử dùng để mô tả

Page 66: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

cảnh cuộc chiến đã tàn, chiến mã thànhvô dụng. Trong bốn câu đầu, hình ảnhcon ngựa già gặm cỏ khô dưới chân thànhmột chiều thu, dương như là hình ảnhngười lính già sau cuộc chiến, thiếu thốnmà không nhờ vả vào ngưòi khác, dầu nợnước còn sắt son giữ bền, nhưng giờ đâydường muốn giữ vẹn tuyền bẩm tính,chẳng muốn bị đóng ngàm bịt móngtháng yên cương lên lưng một lần nữa.Dường như Nguyễn Du đã thuyên chuyểnvề Huế, nên thi cảnh trong mười bài cuốiNam Trung Tạp Ngâm không còn là hìnhảnh Quảng Bình.

Bắt đầu là bài:

望 天 台 寺Vọng Thiên Thai Tự

天 台 山 在 帝 城 東

Thiên Thai sơn tại đế thành đông

隔 一 絛 江 似 不 通

Cách nhất điều giang tự bất thông

古 寺 秋 埋 黃 葉 裡

Cổ tự thu mai hoàng diệp lý

先 朝 僧 老 白 雲 中

Tiên triều tăng lão bạch vân trung

可 憐 白 髮 供 驅 役

Khả liên bạch phát cung khu dịch

不 與 青 山 相 水 終

Bất dữ thanh sơn sơn thủy chung

記 得 年 前 曾 一 到

Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo

景 興 猶 掛 舊 時 鐘

Cảnh Hưng do quải cựu thời chung

dịch là:

Ngắm Cảnh Chùa Thiên Thai

Thành đông có núi Thiên ThaiCách ngăn một nhánh sông dài khó sang

Vào thu chùa cổ lá vàng

Có sư triều trưóc có ngàn mây caoThương thân khu dịch bạc đầu

Thủy chung hẹn với non sâu lỡ làngNhớ hồi năm truớc ghé sang

Cảnh Hưng ngày đúc chuông vàng còn ghi.

Núi Thiên Thai là một trái núi nhỏ ở phíađông thành Huế.Trên núi có chùa gọi làchùa Thiên Thai. Câu năm câu sáu tác giảtỏ ý thương thân bề bộn việc quan, khiếnlỗi hẹn cói núi xanh. Tác giả cũng cònnhớ tới quả chuông đúc từ đời CảnhHưng làn trước thăm chùa ông đã đượcxem.

Tiếp theo là hai bài Nguyễn Du viết gửiÔng Thiêm Sự bộ Công, người họ Trần.

柬 工 部 詹 事 陳Giản Công Bộ Thiêm Sự Trần

二 首

Hai Bài

其 一

Kỳ nhất

青 山 外 有 不 歸 人

Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân

山北 山 南 盡 白 雲

Sơn bắc sơn nam tận bạch vân

七 月 又 逢 秋 到 眼

Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn

天 涯 空 帶 老 隨 身

Thiên nhai vô đái lão tùy thân

百 年 古 壘 煙 霞 合

Bách niên cổ lũy yên hà hợp

一 帶 寒 沙草 澍 分

Nhất đái hàn sa thảo thụ phân

倚 遍 欄 干 無 與 語

Ỷ biến lan can vô dữ ngữ

幾 回 驚 坐 憶 陳 遵

Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân

Page 67: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

其 二

Kỳ nhị

清 風 裊 裊 自 江 津

Thanh phong niểu niểu tự giang tân

明 月 青 山 上 海 瀕

Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần

難 得 相 逢 如 此 夜

Nan đắc tương phùng như thử dạ

可 憐 同 是 未 歸 人

Khả liên đồng thị vị quy nhân

陰 符 歲 晚 生 仙 蠹

Âm phù tuế vãn sinh tiên đố

幽 室 秋 寒 現 鬼 憐

U thất thu hàn hiện quỷ lân

夜 櫝 明 明 招 隱 賦

Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn phú

鴻 山 慚 負 一 山 雲

Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn vân.

dịch là:

Gửi Trần Thiêm Sự Bộ CôngHai Bài

I

Ngoài non xanh người chưa vềNúi nam núi bắc đôi bề trắng mây

Tiết thu tháng bẩy heo mayCái già đeo đẳng bấy nay bên trời

Lũy trăm năm ráng đầy vơiCồn dài cát trắng cắt dời rặng cây

Khắp lan can không một aiBao lần kinh động nhớ hoài Trần Tuân.

II

Gió hiu hắt nổi bên sôngTrăng lên núi biếc biển đông rõ dần

Gặp được nhau bao gian truânĐôi ta một cảnh khó khăn nẻo về

Âm Phù mọt nhấm long bìaCăn nhà thu lạnh lập loè đóm bay

Phú Chiêu Ẩn chẳng dời tayThẹn mình chót phụ làn mây non Hồng.

Căn cứ vào câu thú tám bài I, giới nghiêncứu đoán chừng ông Thiêm Sự Họ Trầnnày là ông Trần Văn Tuân tham tri bộ Lạidưới triều vua Gia Long, cùng thời vóinguyễn Du, dường như không để ý tớiđầu đề bài thơ ghi rõ ông bạn Nguyễn Dulà thiêm sự bộ Công. Theo câu thứ tưtrong bài II thì rõ là Nguyễn Du và ôngbạn cùng muốn về hưu mà chưa đượcnhư ý. Sách đọc của hai nguời là kinhÂm Phù của Đạo Giáo, và vì say mê bàiphú Chiêu Ẩn Sĩ của Hoài Nam TiểuSơn, chép trong phần sau của Sỡ Từ, đạiý kêu goi cao ẩn sĩ ra giúp Hoài NamVưong, theo Đào Duy Anh, Nguyễn Duđã ra giúp nhà Nguyễn, khiến ngày naythẹn với mây núi Hồng Lĩnh.

Huế vào thu, gợi hứng cho Nguyễn Duviết bài:

秋 日 寄 興Thu Nhật Ký Hứng

西 風 再 到 不 歸 人

Tây phong tái đáo bất quy nhân

頓 覺 寒 威 已 十 分

Đốn giác hàn uy dĩ thập phân

故 國 河 山 看 落 日

Cố quốc hà sơn khan lạc nhật

他 鄉 身 世 托 浮 雲

Tha hương thân thế thác phù vân

忽 驚 老 景 今 朝 是

Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị

何 處 秋 聲 昨夜 聞

Hà xứ thu thanh tạc dạ văn

自 哂 白 頭 欠 收 拾

Tự thẩn bạch dầu khiếm thu thập

滿 庭 黃 葉 落 紛 紛

Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.

dịch là:

Ghi Hứng Ngày Thu

Page 68: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Gió thu tới chưa được vềChợt nghe rét mướt sắt se gấp mưòi

Chiều tà non nước trông vờiQuê người thân thế nổi trôi không nhà

Sáng nay chợt sợ cảnh giàTiếng thu xào xạc đêm qua chốn nào

Trách mình vụng tính bạc đầuLá vàng lả tả xạc xào dầy sân.

Gió thu lại về, nhưng tác giả chưa đượcnghỉ hưu. Cái lạnh như lạnh thêm gấpmưòi. Niềm nhớ quê làm người xa quêthấy mình như mây nổi, thấy sợ cảnh già,chẳng còn biết tiếng thu ẩn náu nơi nào.Chỉ còn trách mình vụng tính. Đầy sân lávàng rơi lả tả.

Tiếp tới, trong cùng một mạch thơ, là bài:

山 中 即 事Sơn Trung Tức Sự

疊疊 層 巒 石 作 堆

Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi

煙 蘿 布 地 密 難 開

Yên la bố địa mật nan khai

忽 逢 駭 獸 樹 間 出

Hốt phùng giã thú thụ gian xuất

知 有 樵 夫 林 下 來

Tri hữu tiều phu lâm hạ lai

燒 野 新 痕 青 草 盡

Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận

倚 山 舊 徑 白 雲 催

Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi

山 靈 故 絕 輕 肥 路

Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ

遍 列 危 岡 與 險 崖

Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai.

dịch là:

Tức Sự Trong Núi

Núi trùng điệp đá ngổn ngang

Cỏ lan mờ lối dọc ngang đặc dầyThú rùng sợ lủi lùm cây

Biết ngưòi hái củi đâu đây bên rừngĐốt nưong cỏ cháy bừng bừng

Núi xa mây trắng từng từng dâng caoSơn linh phú quý cấm vào

Cách ngăn vách dốc vực sâu đặt bày.

Tác giả nhân dịp leo núi, ghi lại cảnh núinon trùng điệp, cỏ dại ngăn lối; thú rùngsợ hãi lùi trốn, khi có ngưòi hái củi tớigần; vết cỏ cháy vì đốt cỏ làm nương;ngọn núi xa nhả mây trắng. Thần núidường như muốn ngăn lối kẻ giầu sang,áo lông ngựa béo, mà bầy dặt vách dốcvực sâu hiểm trở.

Trong tỉnh Quảng Bình, nơi Nguyễn Dugiữ chức Cai Bạ, có sông Gianh, một consông đã từng là ranh giới hai miền ĐàngNgoài và Đàng Trong suốt cuộc chiếntranh Nam Bắc. Dòng sông này đem lạicho Nguyễn Du thi hứng để viết bài sauđây:

渡 靈 江Độ Linh Giang

平 沙 藎 處 水 天 浮

Bình sa tận xứ thủy thiên phù

浩 浩 湮 波 古 渡 秋

Hạo hạo yên ba cổ độ thu

一 望 津 涯 通 巨 海

Nhất vọng thiên nhai thông cự hải

歷 朝 彊 界 在 中 流

Lịch triều cương giới tại trung lưu

三 軍 舊 壁 飛 黃 葉

Tam quân cựu bích phi hoàng diệp

百 戰 殘 骸 臥 綠 蕪

Bách chiến tàn hài tọa lục vu

北 上 土 民 莫 相 避

Bắc thượng thổ dân mạc tương tỵ

卅 年 前 是 我 同 州

Page 69: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Táp niên tiền thị ngã đồng châu.

dịch là:Qua Sông Danh

Cồn xa nước tiếp với trờiThu về bến cũ chiều rơi khói lồng

Bến sông ra biền mênh môngMấy triều cương giới giữa dòng chia đôi

Lá vàng lũy cổ rơi rơiCỏ xanh xương trắng chôn vùi vạn quân

Chớ nghi bờ bắc tình dânBa mươi năm trước người thân cùng làng.

Không những chỉ có sông Danh mà cảsông Di ở phiá bắc Quảng Bình, cũng làmôt thắng cảnh gọi hứng cho NguyễnDu, như ông ghi lại trong bài:

瀰 江 口鄉 望Di Giang Khẩu Hương Vọng

望 望 家 鄉似 日 遍

Vọng vọng gia hương tự nhật biên

橫 山 只 隔 一 山 顛

Hoành sơn chỉ cách nhất sơn điên

可 憐 歸 路纔 三 日

Khả lân quy lộ tài tam nhật

獨 抱 鄉 心 已 四 年

Độc bão hương tâm dĩ tứ niên

燕 島 秋 寒 青 入 海

Yến đảo thu hàn thanh nhập hải

瀰 江 潮 漲 白 函 天

Nễ giang triều trướng bạch hàm thiên

外 州 今 與 吾 州 別

Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt

看 看 人 風 不 似 前

Khán khán nhân phong bất tự tiền.

dịch là:

Từ Cửa Ròn Ngóng Về Quê

Bên trời quê cũ cách ngănHoành Sơn một giải dặm ngàn xa xôi

Đường về ba bửa tới nơiBốn năm đằng đãng đôi tròi nhó thương

Thu tàn Hòn Én mờ sươngChiều về sông Nễ sóng lồng bóng mây

Châu nhà khác với châu đâyThói xưa tục cũ đổi thay hết rồi.

Sông Di, còn tên là sông Nễ, đổ ra biển ỏcửa Cảnh Dương hay còn gọi là cửa Ròn,nhìn ra Hòn Én. Nguyễn Du ngắm cảnhở cửa Ròn mà nhớ về quê ông ỏ bên kiaĐèo Ngang, đưòng đi thời đó chỉ mất bangày, mà thấy như xa xăm tự bên trời.Chỗ ông đang ở là Châu Ngoài, thói tụckhác hẳn với thói tục nơi quê ông. Phảichăng vì vậy mà tình quê càng thêm nồngnàn?

Sau hai bài ghi lại thắng cảnh ở vùngQuảng Bình, Nam Trung Tạp Ngâmchép tiếp hai bài thơ thù tạc giữa NguyễnDu và hai người bạn.

Một là bài:

依 元 韻寄Y Nguyên Vận Ký

青 威 吳 四 元Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên

一 夜 西 風 到 海 湄

Nhất dạ tây phong đáo hải my

童 年 交 誼 尚依 偯

Đồng niên giao nghị thượng y y

代 耕 有 舌 生 常 足

Đại canh hữu thiệt sinh thường túc

去 國 何 心 老 不 歸

Khứ quốc hà tâm lão bất quy

消 渴 日 增 司 馬 病

Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh

夢 魂 夜 入 少 陵 詩

Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi

Page 70: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

臨 江 未 敢 題 鸚 鵡

Lâm Giang vị cảm đề Anh Vũ

還 有 中 原 一 大 兒

Hoàn hữu trung nguyên nhất đại nhi.

dịch là:

Y Theo Nguyên Vận GửiÔng Ngô Tứ Nguyên ở Thanh Oai

Gió tây đêm lộng biển đôngTình ta từ nhỏ vẫn không đổi dời

Lưỡi thay cầy đủ sống rồiGià về quê cũ ai ngưòi không mong

Bệnh Tư Mã ngày một tăngMộng hồn vẫn nhớ Thiếu Lăng đêm trường

Đề thơ Anh Vũ xin nhưòngTrả người lão luyện nhất vùng trung nguyên.

Giới nghiên cứu không tìm ra Ngô TứNguyên là ai. Có người cho là chữ TứNguyên phải là người đỗ đầu bốn khoa:thi đầu xứ, thi hương, thi hội và thi đình.Có người tìm trong gia phả họ Ngô tạiThanh Oai, một người khoảng cùng tuổivới Nguyễn Du, thì chỉ thấy Ngô ThìHoàng, em ruột Ngô Thì Nhậm và đoánrằng ông Ngô Thì Hoàng là người bạnxưóng họa cùng Nguyễn Du. Nhưng ôngNgô Thì Hoàng chỉ đậu tú tài và ở nhàdậy học không ra làm quan. Thế nên câuhỏi Ngô Tứ Nguyên là ai vẫn bỏ ngỏ.

Đây là một bài thơ Nguyễn Du dùngnhiều điển tích cầu kỳ. Bệnh tiêu khát làbệnh tiểu đường và Tư Mã Tương Nhưmắc bệnh này cũng như Ngô Tứ Nguyên.

Thiếu Lăng tức Đỗ Phủ vốn là nhà thơmà Nguyễn Du tâm phục.

Thơ Anh Vũ trong câu thứ bẩy nhắc tớibài Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng trong TòanĐưòng Thi của Thôi Hiệu và thoại LýBạch đọc thơ Thôi Hiệu đề trên váchHoàng Hạc Lâu, thán phục Thôi Hiệu vàkhông đề thơ ở đó nữa. Dùng điển này và

câu thứ tám, Nguyễn Du khen ngợi thi tàicủa ông bạn.

Bài thơ thù tạc thứ hai chép trong NamTrung Tạp Ngâm là bài:

送 吳 汝 山Tống Ngô Nhữ Sơn

公出鎮 乂 安Công Xuất Trấn Nghệ An

錦 羅 江 上 扣 征 鞍

Cẩm La giang thượng khấu chinh an

拜 會 非 難 惜 別 難

Bái hội phi nan tích biệt nan

八 大 奇 文 花 兩 國

Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc

一 車 膏 雨潤 全 驩

Nhất xa cao vũ nhuận toàn hoan

人 從 淡 泊 斯 為 正

Nhân tòng đạm bạc tư vi chính

天 為 黔 犁 不 放 閒

Thiên vị kiềm le bất phóng nhàn

北 望 鴻 山 開 德 耀

Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu

天 涯 舉 酒 慶 鄉 關

Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.

dịch là:

Tiễn Ngô Nhữ Sơn Ra LàmHiệp Trấn Nghệ An

Dừng cương bên bến Cẩm LaGặp nhau chẳng khó khó là xa nhau

Lừng danh hai nước văn hàoƠn vua reo rắc dân châu Hoan mừng

Lấy đạm bạc lo việc quanBởi trời việc nước muốn nhàn chẳng xong

Đức cao chùm cả núi HồngBên trời nâng chén tôi mừng quê tôi.

Page 71: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ngô Nhữ Sơn, tên thật là Ngô Nhân Tỉnh,gốc người Minh Hương, cư ngụ tại GiaĐịnh, thủa trẻ theo học Võ Trường Toản,nổi tiếng hay chữ. Làm quan với triềNguyễn. Đi sứ sang Trung Quốc hai lần(1802 và 1807). Tháng giêng năm GiaLong thứ mười, ong thuyên chuyển làmHiệp Trấn Nghệ An. Bài thơ trên đây,theo giới nghiên cứu, Nguyễn Du viếttrong dịp này.

Theo Đào Duy Anh, trong câu thứ nhất,bến Cẩm La tức bến đò Hàn trên sôngNhật Lệ, ở phía nam thành Quảng Bình.Câu thứ hai dẫn người đọc về một câuthơ Đưòng nổi tiếng của Lý Thương Ẩn,mở đầu bài Vô Đề 16:

相 見 時 難別 亦 難

Tương kiến thì nan biệt diệc nan

Chữ bát đại trong nguyên bản chỉ támnhà văn lón của Trung Quốc: Hàn Dũ,Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, TôTuân, Tô Thúc, Tô Triệt, Tăng Củng vàVương An Thạch. Nguyễn Du dùng haichũ này để nhác lại truyện Ngô NhânTĩnh thủa đi học cùng Trịnh Hoài Đức,và Lê Quang Định cũng nổi tiếng là GiaĐịnh Tam Gia. Câu thứ tư, theo LêThước và Trương Chính, Nguyễn Dunhắc tới việc Ngô Nhân Tĩnh xin vuahoãn thu thuế cho dân châu Hoan, tứcNghệ An vì năm đó vùng này bị nạn đóikém. Câu thứ năm tác giả ca tụng đứcđạm bạc của Ngô Nhân Tĩnh trong việclàm quan. Nay Ngô Nhân Tĩnh ra nhậmchức tại Nghệ An nơi quê hương củaNguyễn Du, khiến ông mừng cho dântỉnh ông.

Hai bài cuối chép trong Nam Trung TạpNgâm là hai bài Nguyễn Du viết thayngười đi thú lâu năm mong được về quê

16 唐 詩 三 百 首. 退士 編訂. 新生出版社. 香港. 章二二二

quán, để giãy bày niềm mong ước củaông được về quê huơng.

代 作 久 戌 思 歸Đại Tác Cửu Thú Tư Quy

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

關 外 秋 風 送 笛 吹

Quan ngoại thu phong tống địch xuy

班 超 頭 白 未 成 歸

Ban Siêu đầu bạch vị thành quy

十 年 許 國 君 恩 重

Thập niên hứa quốc quân ân trọng

千 里 離 家 旅 夢 遲

Thiên lý ly gia lữ mộng trì

夜 繡 榮 花 身 外 幻

Dạ tú vinh hoa hân njgoại huyễn

朝 雲 名 利 眼 前 非

Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi

隴 阡 歲 歲 瓜 田 熟

Lũng niên tuế tuế qua điền thục

苦 盡 甘 來 尚 有 期

Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ.

其 二

Kỷ Nhị

千 仞 橫 山一 帶 河

Thiên nhẫn Hoành Sơn nhất đái hà

白 雲 回 扌 隔 天 涯

Bạch vân hồi thủ cách thiên nhai

新 秋 氣 候 催 寒 杵

Tân thu khí hậu thôi hàn chử

故 國 關 山 寄 夜 笳

Cố quốc giang sơn ký dạ già

天 地 一 身 忠 易 孝

Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu

Page 72: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

風 塵 萬 里國 忘 家

Phong trần vạn lý quốc vong gia

月 中 橫 笛 太 無 賴

Nguyệt trung hoành địch thái vô lại

半 夜 江 城 吹 落 花

Bán dạ giang thành xuy lạc hoa.dịch là:

Viết Thay Ngưòi Đi ThúLâu Năm Nhớ Nhà

Hai bài

I

Ải xa tiếng sáo gió đưaChàng Siêu đầu bạc vẫn chưa được về

Mười năm việc nước nặng nềĐêm dài tàn mộng nhớ quê bàng hoàng

Hão huyền vinh hiển nào màngLợi danh trưóc mắt mây vàng sương mai

Bao năm dưa chín hẹn saiHạn qua rồi cũng tới ngày về quê.

IISông ngănThiên Nhẫn Hoành San

Chân trời trắng xóa mây ngàn bốn phươngThu về chẩy vải nện sương

Kèn đêm gợi mối đoạn trưòng nhớ quêLấy trung thay hiếu trọn bề

Quên nhà vì nưóc chẳng nề gió mưaDưới trăng tiếng sáo vẳng đưa

Lạc Hoa réo rắt canh khuya bên thành.

Thanh Hiên Thi Tập có chép bài ĐạiNhân Hý Bút của Nguyễn Du, thay ngườiviết đùa để mô tả cảnh sống sa sỉ của mộtngười giầu có phung phí không nghĩ tóicảnh gió bụi ỏ biển Nam. Hai bài cuốiNam Trung Tạp Ngâm trên đây, NguyễnDu cũng viết thay người lính thú xa nhàđã lâu, mơ về bản quán.

Hình ảnh tiêu biểu người lính thú xa nhàlâu năm trong bài thứ nhất là hình ảnhcủa Ban Siêu, quen thuộc trong văn họcViệt Nam qua câu Chinh Phụ Ngâm:

Chàng Siêu tóc đã điểm sương chưa về.

Ban Siêu là một ông Tướng đới ĐôngHán đi chinh phục các nước vùng TâyVực, hơn ba chục năm, ngày về thì đãgià.

Người lính thú trong thơ xa nhà cũng đãmười năm. Trong mộng vẫn mo về bảnquán. Vinh hiển là hão huyền, danh lợikhác nào nắng chiều sương mai. Đã baolần hẹn về mà chua được về. Nhưng chắcrồi một mai sẽ có ngày về.

Bài thứ hai ghi lại cảnh người lính thúđóng đồn ở miền Hoành Sơn và ThiênNhẫn, hai địa điểm ở hai bên bờ sôngGianh. Thi cảnh là cảnh trời vào thu,khiến ngưòi lính thú nhớ nhà, nhưng tựnhủ lấy trung thay hiếu, vì nước chẳngngại gió mưa, và bên tai còn nghe tiếngsáo não nuột tấu bài Lạc Hoa.

Người đọc, qua hai bài trên đây, dườngnhư thấy Nguyễn Du không còn nônnóng muốn về Hồng Lĩnh như trongnhiều bài khác. Trong những đêm nhớnhà người tha hương không còn màngvinh hiển, không còn ước vọng lợi danh,nhưng vẫn đặt phép công trên niềm riêng,và vững tin là rồi ra sẽ đưọc về bản quán.

北 行 雜 錄

Bắc Hành Tạp Lục

Tập Bắc Hành Tạp Lục gồm 120 bài dưói110 đề mục, gồm những bài Nguyễn Dusáng tác trong chuyến đi sứ sang triềuđình nhà Thanh (1813-1814).

Ông mở đầu tập thơ bằng một bài ca dàinăm mươi câu, kèm theo một tiểu dẫn,ghi lại cuộc tái ngộ giữa ông và một tayđàn lão luyện trong đội nũ nhạc triếu nhàLê mà ông đã được gặp, ngoài hai chục

Page 73: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

năm trước, tại nhà anh ông, lúc đó làmquan cho nhà Tây Sơn , và ông hãy còn làmột thư sinh. Đó là bài:

Bài Ca Tay Đàn Long Thành17

Tiểu Dẫn:

Tay đàn Long Thành ấy, không rõ tênhọ là gì. Nghe nói thủa nhỏ nàng học đàn nguyệt trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cổ kẻ chết, người bỏ đi. Nàng lưulạc ở các chợ, ôm đàn hát rong. Nhưngbài nàng gẩy đều là những khúc cung phụng trong cung cấm, người thường không ai được nghe, khiến tài đàn của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.

Hồi còn trẻ, đến kinh thành thăm anhtôi, ở gần hồ Giám. Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có tới vài chục người. Nàng sở trường đàn nguyệt, hát cũng hay và khéo nóikhôi hài. Mọi người say mê, đua nhauban thưởng từng chén rượu lớn, nàngcạn chén ngay, tiền và lụa thưởng nhiều vô kể, chống chất đẩy mặt đất. Lúc đó tôi nấp trong bóng tối, không được thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi.Nàng người thấp, má bầu trán gô, mặt gẫy, không đdẹp lắm, nhưng nước da trắng trẻo thân hình đẫy đà, khéo trangdiểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo mầu hồng, quần lụa cánh trả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bải, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không để tâm. Sau đó vài năm tôi dời nhà về nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành.

17Theo bản dịch của Đào Duy Anh. Thơ

Chữ Hán Nguyễn Du, Văn Học, Hà Nội 1988, tr.189.

Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, trên đường đi qua Long Thành. các quan mỏ tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên Phủ, gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên.Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn nguyệt trong trẻo nổi lên,khác hẳn nhũng khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gẩy đànthì thấy một chị gầy gò, vẻ tiểu tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như qủy, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều miếng trắng, ngồi im ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dung thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thìdường như đã từng quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính làngười trước kia đã gặp.

Than ôi! người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúixuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay.Người ta trong cõi trăm năm, nhưng sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sauđể ghi lại mối cảm hứng.

龍 城 琴 者 歌Long Thành Cầm Giả Ca

Long Thành giai nhân姓 氏 不 記 清Tính thị bất ký thanh獨 擅 阮 琴Độc thiện Nguyễn cầm舉 城 之 人 以 琴 名Cử thành chi nhân dĩ cầm danh學 得 先 朝 宮 中 供 奉 曲5Học đắc tiên triều trung cung phụng khúc自 是 天 上 人 間 第 一 名Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất danh余 憶 少 時 曾 一 見Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến鑑 湖 湖 遍 夜 開宴

Page 74: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Giám hồ hồ biên dạ khai yến其 時 三 七 正 芳 年Kỳ thời tam thất chính phương niên紅 妝 奄 曖 桃 花 面10Hồng trang yểm ái đào hoa diện酡 顏 憨 態 最 宜Đà nhan hám thái tối nghi nhân

歷 亂 五 聲 隨 手 變Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến緩 如 疏 風 渡 松 林Hoãn như sơ phong độ tùng lâm清 如 雙 鶴 鳴 在 陰Thanh như song hạc minh tại âm烈 如 薦 福 碑 頭 碎 霹 靂15Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch哀 如 莊 舄 病 中 為 越 吟Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm聽者 靡 靡 不 知 倦Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện便 是 中 和 大 內 音Tiện thi Trung Hòa đại nội âm西 山 諸 臣 滿 座 盡 傾 捯Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo徹 夜 追 歡 不 知 飽20Triệt dạ truy hoan bất tri bão左 拋 友 擲 爭 纏 頭Tả phao hữu trịch tranh triền đầu泥 土 金 錢 殊 草 草Nê thổ kim tiền thù thảo thảo豪 花 意 氣 凌 王 候Hào hoa ý khí lăng vương hầu五 陵 少 年 不 足 道Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo并 將 三 十 六 宮 春25Tinh tương tam thập lục cung xuân活 做 長 安 無 價 寶Hoạt tố Trường An vô giá bảo此 席 回 頭 二 十 年Thử tịch hồi đầu nhị thập niên西 山 敗 後 余 南 遷Tây Sơn bại hậu dư nam thiên咫 尺 龍 城 不 復 見Chỉ xích Long Thành bất phục kiến何 況 城 中 歌 舞 筳30Hà huống thành trung ca vũ diên宣 撫 使 君 為 余 重 買 笑Tuyên phủ sú quân vị dư trùng mãi tiếu席 中 歌 妓 皆 年 少Tịch trung ca kỷ giai niên thiếu席 末 一 人 髮 半 花Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa

顏 瘦 神 枯 形 略 小Nhan sấu thần khô hình lược tiểu狼 射 殘 眉 不 飾 妝Lang tạ tàn my bất sức trang誰 知 就 是 當 時 成 中 第 一 妙35Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu 舊 曲 聲 聲 暗 淚 垂Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy耳 中 靜 聽 心 中 悲Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi猛 然 憶 起 二 十 年前 事Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự鑑 湖 席 中 曾 見 之40Giám hồ tịch trung tằng kiến chi城 郭 推 移 人 事 改Thành quách suy di nhân sự cải幾 處 桑 田 變 滄 海Kỷ xứ tang điền biến thương hải西 山 基 業 盡 消 亡Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong歌 舞 空 遺 一 人 在Ca vũ không di nhất nhân tại瞬 息 百 年 能 幾 時45Thuấn tức bách niên năng kỷ thì傖 心 往 事 淚 沾 衣Thương tâm vãng sự lệ triêm y南 河 歸 來 頭 盡 白Nam hà quy lai đầu tận bạch怪 底 佳 人 顏 色 衰Quái để giai nhân nhan sắc suy雙 眼 瞪 瞪 空 想 像Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng可 憐 對 面 不 相 知50Khả liện đối diện bất tương tri.

dịch là

Bài Ca “Tay Đàn Long Thành”

Có người đẹp đất Long ThànhChẳng ai biết rõ tính danh là gìNguyễn cầm nổi tiếng một thìThiên tài đàn nguyệt kinh kỳ gọi tên5Học đàn triều trưóc chân truyền

Một chương Cung Phụng tài riêng hơn đờiNhớ ngày trai trẻ xa vờiTiệc bên hồ Giám gặp người tài danhTuổi vừa hăm mốt xuân xanh10Áo hồng ghen thắm nét thanh hoa đào

Page 75: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Men tô cặp má đỏ auNăm cung réo rắt năm đầu ngón tayKhoan như gió thoảng thông gầyTrong như tiếng hạc ngang mây gọi đàn15Mạnh như sét đánh bia tànBuồn như tiếng mẹ mớ tràn trong mơNgười nghe sửng sốt sững sờRõ là tiếng nhạc điện vua Trung HòaQuan Tây Sơn chiếu tiệc hoa20Mải vui quên cả canh gà tàn đêmTranh nhau gieo thưởng say mèmCoi như bùn đất bạc tiền vãi vungHào hoa nào kèm đế vuơngKể chi bọn trẻ ngông cuồng Ngũ Lăng25Dường ba mươi sáu cung xuânĐúc nên vật báu Trường An đêm nàyHai mươi năm ấy đến nayTây Sơn suy xụp ta rày về NamLong Thành gang tấc cách ngăn30Huống chi câu hát tiếng đàn năm xưaNặng tình sứ bộ tiễn đưaTiệc hoa kỹ nữ tuổi vừa tròn trăngTóc sương cuối chiếu một nàngThân hình nhỏ bé khô khan bơ phờ35Mày thô lâu chẳng điểm tôThiên tài đàn nguyệt ai ngờ nổi trôiKhúc xưa từng tiếng nhạc trờiTai nghe ruột xót lệ rơi ròng ròngTruyện xưa hai chục năm tròn40Tiệc bên hồ Gián riêng lòng chưa quênCảnh đời dâu biển nào bềnThành xiêu quách đổ mấy phen đổi dờiTây Sơn nghiệp cả đâu rồiMà làng ca vũ còn người ngồi đây45Trăm năm chớp mắt chưa đầyCảm thương truyện cũ đắng cay lệ tràoVào nam ra bắc bạc đầuTrách gì nhan sắc pha mầu gió sươngNgỡ ngàng đôi mắt trừng trừngQuen mà hóa lạ xót thương nên lòi.

Đọc hết Long Thành Cầm Giả Ca người đọc thơ chợt liên tưởng tới bài Tỳ BàHành của Bạch Cư Dị, dài tám mươitám câu. Cả hai bài cùng dùng tiếng đànnối kết cầm giả với người thơ. Nhưngdường như sự tương đồng giữa hai ángthơ ngừng tại đây. Tỳ Bà Hành ghi lại cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tay đàn vàngười thơ. Tay đàn đã về già, rơi vàocảnh cùng khốn, tiếc nuối lại thời son trẻ của mình. Người thơ đang bị biếm đi

vùng đất nghèo khổ, bởi đó có sự thông cảm qua tiếng đàn, giữa ngưòi đàn vàngưòi thơ, và người thơ vì nguời đànviết thành bài thơ dài. Long Thành Cầm Giả Cả kể lại cuộc tái ngộ giữa tay đànvà người thơ, nhân dịp quan tổng trấn Bắc Thành mở tiệc tiếp đón sứ bộ, do ngưòi thơ hướng dẫn, dừng chân tại Thăng Long. Tiếng đàn khiến người thơnhớ lại cuộc hội ngộ đầu tiên giữa ông và cầm giả hai chục năm về trưóc tại một bữa tiệc của các quan Tây Sơn, màông không được dự, bên hồ Giám. Hai chục năm đó là thời gian diễn tiến của một cuộc đại hóa. Mọi sự đều vô thường: thành xiêu quách đổ, triều chính thay đổi vài ba lần. Trong đại hóa đó, thời gian đã làm cả cẩm giả và nhàthơ cùng già đi, nhưng cả hai vẫn cònsống nổi qua cuộc đại hóa. Cuộc đại hóa như một ngọn sóng, đưa cầm giả từ đỉnh sóng xuống sâu lòng sóng, vàngược lại đưa ngưòi thơ từ lòng sónglên ngọn sóng. Lên hay xuống âu làmệnh trời. Người thơ và cầm giả cùngnhận ra nhau, nhưng không một lời trao đổi. Nhà thơ vì cầm giả và cũng vì đại hóa viết thành áng thơ dài.

Nhân vụ sứ bộ tạm nghỉ tại Thăng Long, Nguyễn Du viết ba bài dưới đây. Một là:

昇 龍Thăng Long

二 首

Nhị Thủ

傘 嶺 瀘 江 歲 歲 同

Tản lỉnh Lô giang tuế tuế đồng

白 頭 猶 得 見 昇 龍

Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long

千 年 巨 室 成 官 道

Thiên niên cự thất thành quan đạo

Page 76: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

一 片 新 城 沒 故 宮

Nhất phiến tân thành một cố cung

相 識 美 人 看 抱 子

Tương thức mỹ nhân khán bão tủ

同 遊 俠 少 盡 成 翁

Đồng du hiệp thiếu tận thành ông

關 心 一 夜 苦 無 睡

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy

短 笛 聲 聲 明 月 中

Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung

二 首

Nhị Thủ

古 時 明 月 照 新 成

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành

猶 是 昇 龍 舊 帝 京

Do thị Thăng Long cựu đế kinh

衢 巷 四 開 迷 舊 跡

Cù hạng tứ khai mê cựu tích

管 弦 一 變 雜 新 聲

Quản huyền nhất biến tạp tân thanh

千 年 富 貴 供 爭 奪

Thiên niên phú quý cung tranh đoạt

早 歲 親 朋 半 死 生

Tảo tuế thân bàng bán tủ sinh

世事 浮 沉 休 嘆 息

Thế sụ phù trầm hưu thán tức自 家 頭 白亦 星 星

Tự gia dầu bạch diệc tinh tinh.

dịch là:

Thăng Long

Hai Bài

I

Lô chưa cạn Tản chưa mònBạc đầu lại thấy Thăng Long tủi mừng

Nhà xưa nay phá làm đườngThành đây xóa cảnh cổ cung huy hoàng

Giai nhân con bế con bồng

Bạn chơi ngày trước nên ông cả rồiSuốt đêm thao thức không thôi

Vẳng nghe tiếng sáo khắp trời sáng trăng

I I

Trăng soi thành mới lung linhThăng Long đất cũ đế kinh bao đời

Dọc ngang đường mới đổi dờiSáo đàn nhịp điệu khác thời trước xa

Ngàn năm phú quý tranh đuaBạn bè quá nửa thân sơ mất rồi

Há than chìm nổi việc đờiTrên đầu mái tóc rối bời trắng tinh.

Giới nghiên cứu tính ra là Nguyễn Du trở lại Thăng Long sau khoảng muòinăm. Làn sóng đại hóa, mà ông ghi lại trong bài Long Thành Cầm Giả Ca, cũng thấy rõ tại cảnh Thăng Long: nhàxưa phá mở đưòng, thành mới xóa cảnh cung điện cũ, người đẹp nay con bế con dắt, bạn chơi thành ông già. Suốt đêmngười thơ không ngủ, nằm nghe tiếng sáo nhìn trăng sáng.

Sang bài thứ hai, ông cũng ghi lại những chuyển biến tại Thăng Long: sau cả ngàn năm là đất đế kinh, nay triều đình đã dời vào Huế. Đường phố khác xưa, cả nhịp đàn tiếng sáo, tượng trưngcho hoạt động văn hóa, cũng thay đổi khác trước. Bạn bè nửa mất nửa còn.Ông tụ nhủ chẳng nên than thở vì thế sự. Trên đầu ông mái tóc cũng trắng hết rồi.

Bài thứ hai là bài Nguyễn Du ghi lại tình người trong chuyển biến của đại hóa:

遇 家 弟 舊 歌 姬Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ

繁 華 人 物 亂 來 非

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi

玄 鶴 歸 來 幾 個 知

Huyền hạc quy lai kỷ cá tri

Page 77: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

紅 袖 曾 聞 歌 宛 轉

Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển

白 頭 相 見 哭 流 離

Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly

覆 盆 已 矣 難 收 水

Phúc bồn dĩ hĩ nam thu thuỷ

斷 藕 傷 哉 未 絕 絲

Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti

見 說 嫁 人 已 三 子

Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử

可 憐 猶 著 去 時 衣

Khả liên do trước khứ thời y.

dịch là:

Gặp Nàng Hầu Cũ Của Em

Tình ngưòi loạn lạc khác xưaHạc đen trở lại trước giờ nhớ quên

Áo hồng tiếng hát nghe quenBạc đầu gặp gỡ khóc niềm nổi trôi

Bồn nghiêng nước đổ đành thôiCuống sen dầu gẫu tơ trời còn vương

Lấy chồng nay đã ba conThuơng cho áo cũ hãy còn mầu xưa.

Giới nghiên cứu cho rằng ngưòi emNguyễn Du trong bài trên đây làNguyễn Ức, em cùng mẹ với ông.Nguyễn Ức tập ấm làm quan võ trongcung vua Lê Chiêu Thống. Dưới triềuvua Gia Long được triệu vào Huế làmthiêm sự bộ Công, phụ trách việc xâydựng miếu điện.

Loạn lạc, lòng nguời đổi khác, nayNguyễn Du như cánh hạc đen, trở lạichốn cũ, kẻ nhớ người quên. Ông nghetiếng hát quen mà nhận ra người ca từnglà nàng hầu của em ông, gặp nhau màrớt nước mắt vì thời thế. Bồn nghiêngnưóc đổ làm sao vớt lại được. Cuốngsen dầu gẫy nhưng tơ mành còn vương.Giờ nàng lấy chồng đã có ba con. Tấmáo mặc trên ngưòi vẫn là tấm áo năm

xưa. Phải chăng đó là hình ảnh của tìnhngười trong đại hóa?

Trên đường ngược Bắc sang TrungQuốc, năm nay (1813) Nguyễn Du lại điqua Ải Chi Lăng và thành Lạng Sơn,những địa điểm ông đã qua nhân dịp điđón sứ bộ nhà Thanh sang phong vươngcho vua Gia Long (1802) mười mộtnăm về trước.

Trước khi tới Ải Chi Lăng, ông đi quaMiếu Mã Viện và đề lại bài:

夾 城 馬 伏 波 廟Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu

六 十 老 人 筋 力 衰

Lục thập lão nhân cân lực suy

據 鞍 被 甲 疾 如 飛

Cứ yên bị giáp tật như phi

殿 庭 只 博 君 王 笑

Điện đình chỉ bác quân vương tiếu

鄉 里 寧 知 兄 弟 悲

Hương lý ninh tri huynh đệ bi

銅 柱 槿 能 欺 越 女

Đồng trụ cẩn năng khi Việt nữ

珠 車 畢 竟 累 家 兒

Châu xa tất cánh lụy gia nhi

姓 名 合 上雲 薹 畫

Tính danh hợp thưọng Vân Đài họa

猶 向 南 中 索 歲 時

Do hướng Nam trung sách tuế thì.

dịch là:

Miếu Phục Ba Ở Giáp Thành

Sáu mươi suy yếu chuyện thưòngRiêng ông binh giáp yên cương hơn đời

Sân rồng mong đưọc vua cưòiAnh em thương sót tình người dửng dưng

Gái Nam nạt nộ cột đồngXe châu để lụy cả dòng gia nhi

Page 78: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Vân Đài tên họ chẳng ghiHướng Nam sách nhiễu đòi gì nữa đây.

Theo giới nghiên cứu, Giáp Thành, ởphía nam ải Chi Lăng. Phục Ba Miếu làmiếu thờ tướng nhà Hán Mã Viện đãmang quân sang đánh Hai Bà Trưng.Theo Hậu Hán Thư, khi ngoài sáu chụctuổi còn xin vua cho đi đánh dẹp ở ManĐộng Ngũ Khê, trong tỉnh Hồ Nam,Trung Quốc. Vua Hán không cho, MãViện mặc áo giáp, nhẩy lên lưng ngựatỏ sức mạnh của mình. Vua cười vàphán rằng: ‘Ông còn quắc thước lắm’.Em họ Mã Viện là Thiếu Du lo cho MãViện mà nói rằng: “Kẻ sĩ chỉ cần lo đủcơm áo, làm nguời dân lành trong làng,đi xe nhỏ cưỡi ngựa gầu, lo giữ mồ mảtổ tiên, cần chi phải khổ thân đi kiếmcông danh.” Câu thứ năm Nguyễn Dunhắc tới truyền thuyết về câu đồng trụtriến Giao Chỉ diệt, của Mã Viện saukhi thắng quân Hai Bà Trưng. Tiếp theolà tích Mã Viện quen ăn ý dĩ để chốngchướng khí ở miền Nam, khi trở vềnước cũng tải về một xe. Rồi đếnchuyện vua Hán cho tạc tượng hai mươitám công thần ở Vân Đài mà không chotạc tưọng Mã Viện. Khi Mã Viện chết,có người tâu vua là Mã Viện chở về mộtxe hạt trai, làm vua Hán nổi giận, vợcon không dám mang xác về quê, vảphải chôn ở phía tây thành Hồ Nam.

Ba chử Hương lý ninh trong câu thứnăm bài Giáp Thành Mã Phục Ba Miếugợi cho người đọc bốn chữ trạch xađoạn mã trong câu kết bài Mạn Hứng I,Thanh Hiên Thi Tập. Cả hai cùng tríchdẫn lời Thiếu Du, em họ của Mã Việnbàn về lòng ham danh vọng của MãViện. Điểm đáng chú ý khác là NguyễnDu viết bài Mạn Hứng I trong thòi giantản cư ăn nhờ ở đậu thiếu thốn vật chất,và lần thứ hai lúc đang hướng dẫn sứ bộsang triều đình nhà Thanh. Người đọckhông khỏi tự hỏi là phải chăng hìnhảnh Thiếu Du trong bài Mạn Hứng giúpNguyễn Du yên lòng trong cảnh khó

khăn; trái lại hình ảnh Thiếu Du trongbài Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu nóilên cái vô nghĩa của hai chữ danh vọng.Hai chữ này trói buộc ông gần hai chụcnăm qua mà ông cố gỡ không ra.

Qua ải Chi Lăng, Nguyễn Du viết bài:

鬼 門 關Quỷ Môn Quan

連 峰 高 插 入 青 雲

Liên phong cao sáp nhập thanh vân

南北 關 頭 就 此 分

Nam bắc quan đầu tựu thử phân

如 此 有 名 生 死 地

Như thử hữu danh sinh tử địa

可 憐 無 數 去 來 人

Khả liên vô số khú lai nhân

塞 途 叢 莽 藏 蛇 虎

Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ

布 野 煙 嵐 聚 鬼 神

Bố dã yên lam tụ qủy thần

終 古 寒 風 吹 白 骨

Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt

奇 功 何 取 漢 將 軍

Kỳ công hà thủ Hán tướng quân.

dịch là:Ải Quỷ Môn

Núi non vòi vọn mây xanhĐôi bờ Nam Bắc phân ranh chốn này

Hiểm nghèo sống chết nơi đâyĐi mưòi về một bỏ thây thương người

Hang hùm tổ rắn khắp nơiMa thiêng khí độc đầy trời chướng lam

Gió đùa xương trắng ngàn nămKỳ công tướng Hán hỏi làm sao khen.

Đối chiếu bài Quỷ môn Quan trên đâyvới bài Quỷ Môn Đạo Trung, chéptrong Thanh Hiên Thi Tập, mà tác giảlàm ngoài mười năm trước, ngưòi đọcthấy rõ là lần qua ải Chi Lăng nàyNguyễn Du không còn bận tâm vì nỗi

Page 79: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

nhớ nhà, không thèm một giấc ngủ yênổn trong một buổi sáng lạnh trời; trái lạiông ông ghi lại chi tiết cảnh bên đường,bình tĩnh bàn về cái chết phi lý của hàngvạn quân, để một ông tướng lập đượckỳ công, danh ghi sử xanh.

Tiếp theo là bài:

諒 城 道 中Lạng Thành Đạo Trung

群 峰 湧 浪 石 鳴 濤

Quần phong dũng lãng thạch ming đào

蛟 有 幽 宮 鵑 有 巢

Giao hữu u cung quyên hữu sào

泉 水 合 流 江 水 闊

Tuyền thuỷ hợp lưu giang thuỷ khoát

子 山 不 及 母 山 高

Tử sơn bất cập mẫu sơn cao

團 城 雲 石 夕 相 候

Đoàn thành vân thạch tịch tương hậu

鴻 嶺 親 朋 日 漸 遙

Hồng lĩnh thân bằng nhật tịiệm dao

怪 得 柔 情 輕 割 斷

Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn

筐 中 攜 有 筆 如 刀

Khuông trung huề hữu bút như đao.

dịch là:

Trên Đường Lạng Sơn

Gió dưòng sóng vỗ núi caoẦm ầm hang giải xạc xào tổ quyên

Sông sâu hòa nưóc trăm nguồnNgọn con ngọn mẹ trùng trùng núi xanh

Đá mây hò hẹn Đoàn ThànhBạn bè Hồng Lĩnh ngày xanh xa dần

Tình riêng đứt đoạn nhẹ thânTháp còn bút sắc chẳng cần đến dao.

Đối chiếu bài Lạng Thành Đạo Trung trên đây với bài Lạng Sơn Đạo Trung

trong Thanh Hiên Thi Tập, người đọc không khỏi ngạc nhiên trước sự thay đổi giũa hai hình ảnh của tâm cảnh Nguyễn Du . Trong bài Lạng Sơn Đạo Trung, tâm cảnh Nguyễn Du nghiên về lẽ vô vi: trước cảnh đẹp bên đường, Nguyễn Du ước về đó tìm chỗ ẩn cư, vui với cảnh thiền, thấy mình không được bằng một chú bé chăn trâu, thấy mình giànua, ước mơ từ quan, chán cả việc đọc sách. Trái lại, trong bài Lạng ThànhĐạo Trung, trên cùng một khúc đường, trước cùng một cảnh đẹp,ông chợt thấy như tình cảm với bạn bè nơi quê nhànhư dần dần lắng xuống, đến mức dường như đã bị cắt đứt khiến ông nhưthấy nhẹ mình. Trong tráp ông cònnhiều ngọn bút sắc chẳng cần đến dao, là câu kết của bài thơ. Ông chưa chobiết ông dùng cái sắc của ngọn bút làmgì. Người đọc không có cách nào hơn làđọc tiếp tập Bắc Hành Tạp Ngâm của ông để tìm câu trả lời cho câu hỏi này.

Bắc Hành Tạp Ngâm chép tiếp bài thùtạc sau đây:

溜 別 舊 契 黃Lưu Biệt Cựu Khế Hoàng

卅 年 故 友重 逢 日

Táp niên cố hữu trùng phùng nhật

萬 里 前 途 一 蹴 初

Vạn lý tiền đồ nhát xúc sơ

道 路 日 來 情 未 竟

Đạo lộ nhật lai tình vị cánh

雲 山 別 後 意 何 如

Vân sơn biệt hậu ý hà như

悵 然 分 手 重 關 外

Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại

老 矣 全 身 百 戰 餘

Lão hĩ toàn thân bách chiến dư

他 日 南 歸 相 會 訪

Tha nhật nam quy tương hội phỏng

Page 80: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

六 頭 江 上 有 樵 漁

Lục Đầu giang thượng hữu tiều ngư.

dịch là:

Từ Biệt Bạn Cũ Họ Hoàng

Ba mươi năm gặp lại nhauChuyến đi vạn dặm khởi đầu từ nay

Truyện qua ngày ngắn tình dàiTruyện sau mây núi chia tay khó lường

Ải ngoài tiễn biệt buồn vươngToàn thân trăm trận xin mừng cho anh

Về Nam nối lại thân tìnhLục Đầu bến nước đôi mình hẹn nhau.

Giới nghiên cứu không tìm ra ông bạnhọ Hoàng này của Nguyễn Du là ai.Qua thơ, rõ là hai người quen biết nhauđã ba mươi năm. Gặp lại nhau truyệnngày qua nói không bao giờ hết. Truyệnngày sau chuyến chia tay này khó biếttrước được. Giờ đây dạ buồn vì chia ly,nhưng mừng vì bạn từng xông pha trămtrận mà còn toàn thân. Hẹn chuyến vềgặp nhau ở bến Lục Đầu nối lại thântình.

Điểm người đọc lưu ý là tâm trạng tác giả không muốn dài lời về quá khứ, cùng nói lên nỗi bất trắc của tương lai.Vui buồn là niềm vui buồn hiện tiền. Đólà tâm cảnh khác hẳn tâm cảnh trong những bài đặt trước bài này trong cả ba tập thơ Việt Âm của Nguyễn Du. Nguyễn Du cùng sứ bộ vào Trung Quốc qua:

鎮 南 關Trấn Nam Quan

李 陳 舊 事 杳 難 尋

Lý Trần cựu sự yểu nan tầm

三 百 年 來 直 到 今

Tam bách niên lai trực dáo kim

兩 國 平 分 孤 壘 面

Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện

一 關 雄 鎮 萬 山 心

Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm

地 偏 每 為 傳 聞 誤

Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ

天 近 纔 知 降 澤 深

Thiên cận tài tri giáng trạch thâm

帝 闕 回 頭 碧 雲 表

Đế quốc hồi đầu bích vân biểu

鈞 韶 耳 畔 有 餘 音

Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.

dịch là:

Ải Trấn Nam

Lý Trần vết tích khó tìmTruyện qua rầy đã ba trăm năm dài

Một thành đôi nước ngăn haiGiữa muôn ngọn núi ải đây vẫn còn

Cõi xa lầm hiểu lẫn đồnGần trời mưa móc đội ơn sâu dầyNgoái nhìn cửa khuyết biếc mây

Quân thiều nghe vằng bên tai oai hùng.

Ải Trấn Nam là tên người Trung Quốc gọi Ải Nam Quan. Có nghĩa là cửa ải trấn giữ phía Nam. Trong hai câu đầu, qua ải Nam Quan, Nguyễn Du nhắc tới truyện thời nhà Lý nhà Trần, phải chăng là muốn nói tới truyện Lý Thường Kiệt đánh quân nhà Tống, truyện Hưng Đạo Vưong thắng quân Nguyên, và truyện gần hơn nữa, mới trải ba trăm năm làtruyện Lê Lợi đuổi quân nhà Minh?Giữa vạn ngọn núi, cửa quan hùng vĩchia đôi hai nước. Bốn câu sau dường như phản ảnh ngôn ngữ ngoại giao của triều vua Gia Long với triều đình nhàThanh.

Qua ải Trấn Nam, sứ bộ vào đường:

南 關 道 中Nam Quan Đạo Trung

Page 81: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

玉 書 捧 下 五 雲 端

Ngọc thư phủng hạ ngũ vân đoan

萬 里 單 車 渡 漢 關

Vạn lý đan xa độ Hán Quan

一 路 偕 來 惟 白 髮

Nhất lộ giai lai duy bạch phát

二 旬 初 見 但 青 山

Nhị tuần sơ kiến đãn thanh san

君 恩 似 海 毫 無 報

Quân ân tự hải hào vô báo

春 雨 如 膏骨 自 寒

Xuân vũ như cao cốt tự hàn

王 道 蕩 平 休 問 訊

Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn

明 江 北 上 是 長 安

Minh Giang bắc thướng thị Trường An.

dịch là:

Trên Đường Nam Quan

Mây năm sắc chiếu vua banMột xe vượt ải Hán Quan dặm trưòng

Rối bươm tóc trắng dọc đườngHai tuần điệp điệp trùng trùng núi xanh

Ơn vua báo đáp chưa thànhMưa xuân như mỡ rét hành buốt xương

Đường vua thẳng khỏi hỏi đườngQua Minh Giang là đến Trường An rồi.

Sứ bộ đã vào đất Trung Quốc, bài thơnày của Nguyễn Du bỗng có nhiều chữ mang mầu sắc Trung Hoa. Trong hai câu đầu, chữ ngọc thư dùng để chỉ chiếu vua ban; chữ ngũ vân nghĩa là mây nămsắc chỉ triều đình, Hán Quan là ải Nam Quan gọi theo người Trung Quốc.Câu thử ba mang hình ảnh Nguyễn Du với mái tóc trắng. Đối với cảnh núi xanh, xuốt hai tuần du hành qua, trongcâu thứ tư. Câu thứ năm cho thấy mối lo đền đáp ơn vua của tác giả trong khi mưa xuân rét mướt thấu xương hành hạ thân ông. Có một điều phấn khỏi là đãtới đưòng cái quan bằng phẳng khỏi phải hỏi thăm đường lối: đến sông Minh

Giang rồi thẳng đường tới kinh đô Bắc Kinh.

Tiếp tới là bài:

幕 府 即 事Mạc Phủ Tức Sự

徹 夜 鑼 聲 不 暫 停

Triệt da la thanh bất tạm đình

孤 燈 相 對 到 天 明

Cô đăng tương đối đáo thiên minh

經 旬 去 國 心 如 死

Kinh tuần khứ quốc tâm như tử

一 路逢 人 面 賮 生

Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh

山 麓 積 泥 深 沒 馬

Sơn mộc tích nê thâm một mã

谿 泉 伏 怪 老 成 精

Khê tuyền phục quái lão thành tinh

客 情 至 此 已無 限

Khách tình dĩ thử dĩ vô hạn

又 是 燕 山 萬 里 行

Hựu thị Yên Sơn vạn lý hành.

dịch là:

Mạc Phủ Tức Sự

Inh tai tiếng kẻng suốt đêmMột thân chờ sáng bên đèn nhớ mong

Nước xa chết lặng tấc lòngGặp toàn người lạ bên đưòng quan san

Bùn sâu ngựa nản chân bonBê khe yêu qiái chập chờn thành tinh

Nơi đây đằng dẵng mối tìnhYên Sơn thăm thẳm hành trình còn xa.

Mạc phủ đồng nghĩa vói tướng phủ lànơi làm việc tạm thời của quan võ.Nguyễn Du ghi lại trong bài này nhưngđiều tai nghe mắt thấy trong mấy tuầnqua. Ông không còn nhớ quê mà ôngnhớ nước. Không còn gặp được những

Page 82: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

khuôn mặt quen thuộc của người đồnghương, đường xá lại khó đi, và đích tớilà Yên Kinh thì còn xa vạn dặm.

Rồi sứ bộ lên thuyền tại bến MinhGiang, như dự trù.

明 江 舟 發Minh Giang Chu Phát

簫 鼓 鼕 鼕 初 出 門

Tiêu cổ đông dông sơ xuất môn

萬 山 中 斷 一 槎 奔

Vạn sơn trung đoạn nhất tra bôn

浮 雲 乍 散 石 容 瘐

Phù vân sạ tán thạch dung sấu

新 潦 初 生 江 水 渾

Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn

別 後 關 山 思 弟 妹

Biệt hậu quan san tư đệ muội

望 中 岩 袖見兒 孫

Vọng tung nham tụ kiến nhi tôn

日 斜 莫 向 華 山 過

Nhật tà mặc hướng hoa sơn quá

怕 有聲聲 腸 斷 猿

Phạ hữu thanh thanh trường đoạn viên

Page 83: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Dời Bến Minh Giang

Trống kèn dời bến thì thùngThuyền đi núi dựng trùng trùng bên sông

Tan mây trơ đá trời trongĐục ngầu nước lũ một dòng cuốn trôi

Anh em cách biệt xa xôiNhìn non lởm chởm bồi hồi nhớ con

Chiều tà ngại vượt Hoa SanThan van tiếng vượn quan san não lòng.

Sứ bộ lên thuyền nguợc bắc, dời bếntrong tiếng trống tiếng sáo tiễn đưa. Trêntrời mây quang, dưới sông nước lũ, haibên bờ núi dựng trùng trùng điệp điệp.Nhìn cảnh sông núi Minh Giang,Nguyễn Du lại thấy nhớ anh em nơi quênhà và nhớ cả đàn con nhỏ của ông, vớitiếng vượn than van trên bờ, trong cảnhchiều rơi.

Dưới chân núi Hoa San, bên bờ sôngMinh Giang có di tích một chỗ đóngquân của Hoàng Sào. Nơi đó gợi hứngcho Nguyễn Du viết bài:

黃 巢 兵 馬Hoàng Sào Binh Mã

大 小 花 山 數 里 分

Đại tiểu Hoa Sơn sổ lý phân

黃 巢 遺 蹟 在 江 津

Hoàng Sào di tích tại giang tân

豈 知 金 統 秦 中 帝

Khởi tri Kim Thống Tần Trung Đế

乃 出 孫 山 榜 外 人

Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân

誤 國 每 因 拘 限 量

Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng

窮 時 自 可 變 風 雲

Cùng thời tự khả biến phong vân

遠 來 擬 問 天 然 事

Viễn lai nghĩ vấn thiên nhiên sự

舡 戶 搖 頭 若 不 聞

Hang hộ dao đầu nhược bất văn.

dịch là:

Binh Mã Hoàng Sào

Hoa San lớn nhỏ gần nhauBên sông còn dấu Hoàng Sào đóng quân

Khi nên Kim Thống Trung TầnDẫu là ngoài bảng Tôn Sơn một người

Tuyển người giúp nước hẹp hòiLúc cùng có thể đổi dời gió mâyKhách xa ướm hỏi chuyện này

Nhà thuyền giả điếc giả ngây lắc đầu.

Hoàng Sào là người đời Đường, quê ởTào Châu, tỉnh Sơn Đông. Vào thi đình,tuy văn thơ hơn đời, nhưng ttướng mạoxấu xí, nên không đậu. Sau đó HoàngSào dấy loạn, từ Sơn Đông, tiến chiếmHà Nam, Giang Tây, Phúc Kến, TriếtGiang và cả vùng Kinh Tương LưỡngQuảng, rồi chiếm cả Trưòng An. VuaĐường Huy Tông bỏ chạy vào đất Thục.Hoàng Sào tự xưng Hoàng Đế, đặt quốchiệu là Đại Tề, trị vì trong mười năm(875-884), sau bị quân Lý Quốc Dungđánh bại và bị giết.

Trên bờ sông Minh Giang, trong huyệnMinh Ninh, tỉnh Quảng Tây, có di tíchchỗ Hoàng Sào đóng quân.

Trong câu thứ ba, Nguyễn Du dùng chữKim Thống Tần Trung để chỉ việc HoàngSào tự xưng hoàng đế,vì lẻ Thiểm Tâyxưa là đất của nhà Tần. Trong câu sauông dùng chữ Tôn Sơn bảng ngoại, đểtóm tắt truyện hoàng Sào thi trượt vìngười Tôn Sơn đời Tống, đi thi đỗ cuốibảng, bạn bè hòi thăm thì tự an ủi là saumình còn nhiều tên ở ngoài bảng. Giớiphê bình có người cho rằng Nguyễn Dumuốn phê bình vì chính sách tuyểnngười của triều đình nhà Đường hẹp hòi,đã đẩy Hoàng Sào vào đường cùng đilàm loạn. Ông gợi truyện cùng nhàthuyền về việc này, nhưng nhà thuyềnkhông hưởng ứng.

Page 84: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tiếp theo Nguyễn Du viết một bài thơdài dưới đề tựa:

寧 明 江 舟 行Ninh Minh Giang Chu Hành

粵 西 山 中 多 澗 泉

Việt tay sơn trung đa giản tuyền

千 年 合 注 成 一 川

Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên

自 高 而 下 如 潑 天

Tự cao nhi hạ như phát thiên

灘 上 何 所 聞

Than thượng hà sở văn

應 龍 激 怒 雷 田 田5Ứng long kích nộ lôi điền điền

灘 下 何 所 見

Than hạ hà sở kiến

弩 機 劇 發 水 離 絃

Nỗ cơ kịch phát thủy ly huyền

一 瀉 萬 里 無 停 堙

Nhất tả vạn lý vô đình nhân

高 山 夾 岸 如 牆 垣

Cao sơn giáp ngạn như tường viên

中 有 怪 石 森 森 然10Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên

有 如 龍 蛇 虎 豹 牛馬 羅 其前

Hữu như long xà hổ báo ngưu mã la kỳ tiền

大 者 如 屋 小 如 拳

Đại giả như ốc tiểu như quyền

高 者 如 立 低 如眠

Cao giả như lập đê như miên

直 者 如 走 曲如 旋

Trực giả như tẩu khúc như tuyền

千 形 萬 狀 難 盡 言15Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn

蛟 螭 出 沒 成 重 淵

Giao ly xuất một thành trùng uyên

湧 濤 噴 沫 日 夜 爭豗 喧

Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên

夏 潦 初 漲 沸 如 煎

Hạ lạo sơ trướng phí như tiên

一 行 三 日 心 懸 懸

Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền

心 懸 懸 多 所 畏20Tâm huyền huyền đa sở uý

危 乎 殆 哉 汩 沒 無 底

Nguy hồ đãi tai cốt một vô để

共 道 中 華 路 坦 平

Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình

中 華 道 中 夫如 是

Trung Hoa đạo trung phù như thị

窩 盤 屈 曲 似 人 心

Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm

危 亡 傾 覆 皆 天 意25Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý

高 才 每 被 文 章 妒

Cao tài mỗi hộ văn chương đố

人 肉 最 為 魑 魅 喜

Nhân nhục tối vi ly mỵ hỷ

風 波 那 得 盡 能 平

Phong ba na đắc tận năng bình

忠 信 到 頭 無 足 恃

Trung tín đắc đầu vô túc thị

不 信 出 門 皆畏 途30Bất tín xuất môn giai ý đồ

試 望 滔 滔 此 江 水

Thí vọng thao thao thử giang thủy.

dịch là:

Thuyền Đi Trên Sông Ninh Bình

Việt Tây muôn suối ngàn kheNghìn năm cuồn cuộn dồn vể một sông

Từ cao nuớc đổ mênh môngNghe thấy chăng

5Đầu ghềnh sấm động phi long chuyển mìnhThấy chăng mờ mịt cuối ghềnhÀo ào nỏ máy vô hình nhả tên

Dặm ngàn nước cuốn triền miênĐôi bờ vách đá thành liền ngút cao

Page 85: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

10Đá nhô chi chít chen nhauDường như rồng rắn ngựa trâu một bày

Lớn tầy nhà nhỏ nắm tayCao sừng sững thấp nằm đầy ngổn ngang

Thẳng như chạy cong xoáy vòng15Ngàn hình muôn vẻ nói không hết lời

Giảo ly vùng vẫy vực khơiNgày đêm sóng vỗ chẳng nguôi ầm ầm

Mùa hè nước lụt sôi trànThuyền đi ba bữa muôn vàn sợ lo

20Muôn bề nan hiểm khôn dòChìm sâu đáy vực khốn to không chừngĐồn đường Trung Quốc phẳng bằngNào ngờ hiểm trở gian nan hại đờiHiểm nguy nào khác lòng người

25 Nguy vong nghiêng đổ ý trời sui nênTài cao chữ nghĩa ganh ghen

Thịt người ma quỷ vẫn thèm xưa nayThoát cơn sóng gió sao đây

Tín trung giữ đủ lúc này vẫn lo30 Xểnh nhà đưòng lối khó đo

Chẳng tin gió cả sóng to thử nhìn.

Cảnh thuyền vượt ghềnh thác trên sôngNinh Minh trong ba ngày hè nước lũ làmNguyễn Du suy nghĩ. Ông cho rằng cáihiểm nguy của con đường đi sứ khôngđáng sợ bằng cái hiểm nguy khôn dò củalòng người. Ý trời gây nghiêng đổ, lòngghanh ghen của con người trong rừngvăn trận bút chẳng khác gì ma quỷ thèmthịt người. Làm sao ra thoát khỏi cơnsóng gió này. Trung tín cũng không đửgiữ cho con người an lòng. Hai câu kếtông nói ngược ý của Đường Giới, ngườiđời Tống:

Bình sinh thuọng trung tínKim nhật nhiệm phong ba.

nghĩa là:

Suốt đời trọng trung tínNgày may mặc sóng gió

Thiuyền sứ qua khúc sông Ninh Minhhiểm nghèo, Nguyễn Du lấy lại đượcmối bình tâm như ông ghi trong bài kếtiếp:

望 觀 音 廟Vọng Quan Âm Miếu

伊 誰 絕 境 構亭 薹

Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài

伐 盡 松 枝 墜 鶴 胎

Phạt tận tùng chi trũy hạc thai

石 穴 何 年 初 鑿 破

Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá

金 身 前 夜 卻 飛 來

Kim thân tiền dạ khước phi lai

停 雲 處 處 僧 眠 定

Đình vân xứ xứ tăng miên định

落 日 山 山猿 叫 哀

Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai

一 炷 檀 香 消 慧 業

Nhất chú đàn hưong tiêu tuệ nghiệp

回 頭 已 隔 萬 重 涯

Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.

dịch là:

Ngắm Miếu Quan Âm

Xây đài chọn cảnh ai ngườiĐốn cành thông trứng hạc rơi nơi nào

Cửa hang đục tự năm naoPhật vàng đêm trước từ đâu bay về

Sư già yên giấc mây cheBóng chiều tiếng vượn bốn bề than van

Khói hương tuệ nghiệp tiêu tanNgoái trông ngăn cách muôn vàn núi cao.

Trong câu thứ tư, Nguyễn Du dùng tíchcổ, tóm tắt trong ba chữ phi lai thạch, vềcùa tương Sơ, có hòn đá từ Quảng chaubay về, duợc dùng tạc thành tượng Phật.Điều đáng ghi nhận là thi cảnh tịnh lặngtrong bài thơ, cũng như trong cảnh miếuQuan Âm dưong như phản ảnh niềm tĩnhlặng trong tâm cảnh Nguyễn Du sau mấyngày liền dao động khi thuyền sứ bộvưọt khúc sông Ninh Minh dưói chânnúi Hoa San.

Page 86: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Niềm tĩnh lặng trong tâm cảnh NguyễnDu còn thấy trong mấy bài tiếp theo. Bắtđầu là bài:

三 江 口 塘 夜 泊Tam Giang Khẩu Đường Dạ Bạc

西 粵 重 山 一 水 分

Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân

兩 山 相 對 石 磷 峋

Lưỡng sơn tương đối thạch lân phân

猿 啼 樹 杪 若 無 路

Viện đề thụ diểu nhược vô lộ

犬 吠 林 中 知 有 人

Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân

四 妄 雲 山 人 獨 老

Tứ vọng vân sơn nhân độc lão

同 舟 胡 越 各 相 親

Đồng chu Hồ Việt các tương thân

十 年已 失 還 鄉 路

Thập niên dĩ thất hoàn hưong lộ

那 得 家 鄉 入 夢 頻

Na đắc tha hương nhập mộng tần.

dịch là:Đêm Đậu Thuyền

Tại Cửa Sông Tam Giang

Núi Việt Tây nước chia haiNgọn cao đối mặt đá bày chon von

Vượn than cây lấp lối mònRừng sâu chó sủa biết còn người qua

Núi mây chợt thấy mình giàCùng thuyền Hồ Việt dần dà nên quen

Đường vê quê cũ ngỡ quênVẫn còn trong mộng đêm đêm bồi hồi.

Cảnh bên sông vẫn là cảnh núi cao sôngrộng, vẫn còn nghe thấy tiếng vượn kêutiếng chó sủa. Nhưng dưòng như tácbỗng cảm thấy mìnhn già hơn, dẫu trênthuyền người Hồ nguòi Việt như dần dàthân thiên với nhau. Nguyễn Du ngỡ làđã dẹp được nỗi nhớ quê, nhưng ông tụthú là hình ảnh quê hương vẫn còn hiện

ra trong giấn mơ đêm đêm, làm daođông niềm tĩnh lặng trong tâm cảnh củaông.

Cảnh nhớ nhà trong chuyến đi sứ khôngphải là tâm cảnh riêng của Nguyễn Dumà là tâm cảnh của cả hai mưoi bẩyngười trong sứ bộ lúc nghe thấy tiếngsáo gợi tình nhớ quê, như ông ghi trongbài:

太 平 城 下 聞 吹 笛Thái Bình Thành Hạ Văn Xuy Địch

太 平 城 外 西 風 起

Thái Bình thành ngoại tây phong khởi

吹 皺 寧 明 一 江 水

Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thủy

江 水 皺 兮 江 水 寒

Giang thủy trứu hề giang thủy hàn

誰 家 橫 笛憑 欄 杆

Thùy gia hoành địch bằng lan can

二 十 七 人 共 回 首

Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ

故 鄉 已 隔 萬 重 山

Cố hương dĩ cách vạn trùng san.

dịch là:

Nghe Tiếng Sáo Dưới Thành Thái Bình

Gió thu lộng bến Thái BìnhHắt hiu gợn sóng Ninh Minh một dòng

Lung linh mặt sóng trăng trongNhà ai tiếng sáo não lòng chơi vơi

Quay đầu hăm bẩy con ngưòiNgàn non cách trở xa vời quê hương.

Tiếp theo là bài:

舟 行 即 事Chu Hành Tức Sự

西 粵 山 川 多 險 巇

Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi

Page 87: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

行 行 從 此 向 天 涯

Hành hành tòng thử hướng thiên nhai

崩 崖 怪 石 怒 相 向

Băng nhai quái thạch nộ tưong hướng

水 鳥 沙 禽 狎 不 飛

Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi

天 地 扁 舟 浮 似 葉

Thiên địa biên chu phù tự diệp

文 章 殘 息 弱 如 絲

Văn chương tàn tức nhưọc như ti

為 憐 上 國 風 光 好

Vị liên thương quốc phong quang hảo

關 鎖 鄉 情 未 放 歸

Khai tỏa hương tình vị phóng quy.

dịch là:

Đi Thuyền Tức Cảnh

Núi sông Tây Việt hiểm nghèoThuyền đi đi mãi gieo neo cuối trời

Đá trồng vách lở khắp nơiChim trời chim bãi dạn người không bay

Thuyền như chiếc lá chân mâyThơ văn cạn sức tựa dây tơ mành

Trung Hoa cảnh đẹp sinh tìnhMộng về quê đáy lòng thành tạm quên.

Cảnh trời cao sông rộng đất Quảng Tâydần dần quến rũ con người nghệ sĩ củaNguyễn Du, giống như đàn chim trờichim bãi dạn người không vội bay trốn.Ông say sưa với cảnh đẹp trước mắt, tạmquên cả ước muốn về quê cũ ấp ủ suốt cảchục năm.

Cảnh thiên nhiên hùng vĩ lôi cuốnNguyễn Du, thì thực cảnh con ngườiTrung Quốc làm ông xúc động như ghitrong áng thơ dài:

太 平 賣 歌 者Thái Bình Mại Ca Giả

太 平 瞽 師 粗 佈 衣

Thái bình cổ sư thô bố y

小 兒 牽 晚 行 江 湄

Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi

云 是 城 外 老 乞 子

Vân thị thành ngoại lão khất tử

賣 歌 乞 錢 供 晨 炊

Mại ca khất tiền cung thần xuy

鄰 舟 時 有 好 音 者5Lân chu thì hữu hiếu âm giả

牽 手 引 上 船 窗 下

Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ

此 時 船 中 暗 無 燈

Thử thì thuyền trung ám vô đăng

棄 飯 潑 水 殊 狼 藉

Khí phạn bát thủy thù lang tạ

摸 索 引 身 向 坐 隅

Mô sách dẫn thân huớng tọa ngung

再 三 舉 手 稱 多 謝10Tái tam cử thủ xưng đa tạ

手 挽 弦 索 口 作 聲

Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh

且 彈 且 歌 無 暫 停

Thả đàn thả ca vô tạm đình

聲 音 殊 異 不 得 辨

Thanh âm thù dị bất đắc biện

但 覺 嘹 喨 殊 可 聽

Đãn giác liêu lượng thù khả thính

舟 子 寫 字 為 余 道15Chu tử tả tự vi dư đạo

此 曲 世 民 與 建 成

Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành

觀 者 十 數 並 無 語

Quan giả thập số tịnh vô ngữ

但 見 江風 蕭 蕭 江 月 明

Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệtminh

口 噴 白 沫 手 酸 縮

Khẩu phún bạch mạt thủ toan súc

卻 坐 斂 弦 告 終 曲

Page 88: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

20Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc

彈 盡 心 力 幾 一 更

Đàn tận tâm lực cơ nhất canh

所 得 銅 錢 僅 五 六

Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục

小 兒 引 得 下 船 來

Tiểu nhi dẫn đắc hạ thuyền lai

猶 且 回 顧 禱 多 福

Do thả hồi cố đảo đa phúc

我 乍 見 之 悲 且 辛

Ngã sả kiến chi bi thả tân

凡 人 愿 死 不 愿 貧

Phàm nhân nguyện tữ bất nguyện bần

只 道 中 華 盡 溫 飽

Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão

中 華 亦有 如 此 人

Trung Hoa diệc hữu như thử nhân

君 不 見

Quân bất kiến

使 船 朝 來 供 頓 例

Sứ thuyền triều lai cung đốn lệ

一 船 一 船 盈 肉 米

Nhất thuyền nhất thyền doanh nhục mễ

行 人 飽 食 便 棄 餘

Hành nhân bão thực tiện khí dư

殘 肴 冷 飯 沉 江 底

Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.

dịch là:

Người Hát Rong Bến Thái Bình

Có lão mù bến Thái BìnhCha già con cọc ngoài thành dắt nhau

Trắng tay mà tuổ đã caoBên sông hát dạo cháo rau lần hồi

Thích nghe hát có mấy ngườiThuyền bên dắt lão cho ngồi bên song

Không đèn tối mịt trong khoangCơm thừa canh dở ngổn ngang sạp thuyền

Lảo ngồi khép nép một bênChắp tay kính cẩn tạ ơn mấy lần

Miệng ca tay nắn cung đànĐiệu đàn tiếng hát nhịp nhàng chơi vơi

Thổ âm lạ chẳng hiểu lờiÊm tai réo rắt bổng thôi lại trầmChủ thuyền viết thảo bảo rằng

Đây là tích cổ Thế Dân Kiến ThànhNgười nghe chú ý lặng thinh

Mặt sông trăng tỏ bồng bềnh trôi xuôiMiệng khô tay mỏi dã dời

Cất đàn khúm núm xin lui cúi chàoCố công suốt trống canh đầu

Tiền người gieo thưởng được đâu sáu tiềnTheo con dò buóc xuống thuyềnLão còn ngoái lại cám ơn hết lời

Trạnh lòng cám cảnh thương ngườiSống nghèo thì chết cho rồi còn hơn

Trung Hoa no ấm hằng đồnNào ngờ cùng khó hãy còn nơi đây

Lại thấy chăngSứ đoàn cung ứng bấy nay

Thuyền này thuyền khác cơm đầy thịt dưMột ăn còn đến hai thừa

Cơm lành canh ngọt đổ bừa xuống sông.

Bài thơ dài ba mươi câu là một bức tranhhiện thực, tác giả ghi lại với nhiều chitiết về cảnh cùng khốn của người hát dạomù lòa, rất lễ phép, trình diễn bản hát kểlại cuộc tranh chấp giữa anh em NguyênCát và Thế Dân, để lên ngôi vua, dưòitriều nhà Đưòng. Ngưòi hát dạo cố gắngsống bằng tiền thưởng cũa người nghehát, dầu tiền thưởng chẳng được baonhiêu.

Tác giả như tụ hỏi mình: sống nghèo thìchết cho rảnh thân thỉ hơn. Đồng thờiông ngạc nhiên là điều ông nhìn thấykhác vói lời đồn đại là Trung Quốckhông còn nghèo khổ. Ông còn thấy bấtmãn trước sự phí phạm thứ ăn trên cácthuyền sứ bộ.

Sau bến Thái Bình, thuyền sứ bộ ghébến Sơn Đường. Giới nghiên cứu khôngchắc bến Sơn Đường thực có ở trên lộtrình sứ bộ hay không.

Nguyễn Du ghi lại cảm hứng đêm neothuyền tại bến Sơn Đường chép trongBắc Hành Tạp Lục như sau:

Page 89: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

.

山 塘 夜 泊Sơn Đường Dạ Bạc

午 夢 醒 來 晚

Ngọ mộng tỉnh lai vãn

斜 日 掩 窗 扉

Tà nhật yểm song phi

風勁 維 船 早

Phong kinh duy thuyền tảo

山 高 得 月 遲

Sơn cao đắc nguyệt trì

倚 篷 千 里 望

Ỷ bồng thiên lý vọng

合 眼 隔 年 思

Hợp nhãn cách niên tư

莫 近 蒼 崖 宿

Mạc cân thương nhai túc

啼 猿 澈 夜悲

Đề viên triệt dạ bi.

dịch là:

Đêm Neo Thuyền Bến Sơn Đường

Giấc trưa tỉnh dậy bóng tàTrời tây nắng quái chói lòa khép song

Thuyền neo sớm tránh cơn giôngNúi cao chậm thấy mây lồng ánh trăng

Dựa mui bồng ngóng dặm ngànNhẩm ra chớp mắt một năm đăng trình

Sao neo gần vách núi xanhĐêm nay tiếng vượn thâu canh gợi buồn.

Năm câu đầu, Nguyễn Du tà tỷ mỉ mộtbuổi xế chiều ông chợt tỉnh sau một giấcngũ trưa đẫ mắt. Ánh mằt trời chiều thấpgần tới chân trời, lọt qua của sổ thuyềnvào trong khoang, khiến ông phải khépcánh của sổ. Ông ghi lại chi tiết thuyềnneo sớm tránh cơn giông, ông thấy núicao khiến thấy như trăng mọc trễ. Ra tựamui thuyền nhìn ra xa, cái quá khứ gầntrong một năm qua lóe hiện, dường nhưmuốn xua đuổi những hình ảnh đó, ông

lưu tâm đến con thuyền neo gần váchnúi, và e tiếng vưọn sẽ phá giấc ngủ củaông xuốt đêm nay.

Rồi tới thuyền sứ đi qua Đại Than, vàNguyễn Du viết bài:

題 大 灘 馬 伏 波 廟Đề Đại Than Mã Phục Ba Miếu

鑿 通 嶺 道 定 炎 墟

Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư

蓋 世 功 名 在 史 書

Cái thế công danh tại sử thư

向 老 大 年 矜 钁 鑠

Hướng lão đại niên căng quắc thước

除 衣 食 外 盡 贏 餘

Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư

大 灘 風 浪 留 前 烈

Đại Than phong lãng lưu tiền liệt

古 廟 松 杉 隔 故 閭

Cổ miếu tùng sam cách cố lư

日 暮 城 西 勁 棘 下

Nhật mộ thành tây kinh cức hạ

淫 潭 遺 悔 更 何 如

Dâm đàm di hối cánh hà như

dịch là:

Đề Miếu Phục Ba Tại Đại Than

Mở đường núi đánh Viêm bangHơn đòi sự nghiệp sử vàng còn ghi

Tuổi cao quắc thuóc ra uyNgoại trừ cơm áo điều chi cũng thừa

Đại Than lưu dấu công toTùng sam miếu cổ quê cha xa vời

Thành tây gai cỏ nơi nơiDâm Đàm hối lại chậm rồi biết sao.

Đây là lần thú ba Nguyễn Du dùngtruyện Mã Viện cùng nguời em họ tên làThiếu Du làm thi liệu. Hai câu đầu ôngnhắc lại quân công của Mã Viện mởđường núi tràn xuống miền Nam đánh

Page 90: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

quân Hai Bà Trưng. Câu thứ ba kể lại lờivua Hán khen Mã Viện ngày ông mặc áogiáo nhẩy lên mình ngựa, năm tuổi ngoàisáu chục, tại sân rồng. Câu thứ tư là lờilập luận của Thiếu Du: “Kẻ sĩ ngoài cơmáo, thì ở quê hương, trông nom mồ mảruộng vườn, chứ đâu cần đi kiếm côngdanh cho nhọc thân.” để chối bỏ ý nghĩlo công danh của Mã Viện. Câu năm vàsáu mô tả cảnh miếu thờ Mã Viện tại ĐạiThan, ngày Nguyễn Du qua đó, nhưngkhi Mã Viện lìa đời sác không đượcmang về quê hương an táng. Câu kếtnhắc lại truyện Mã Viện trong cuộcchinh chiến với Hai Bà Trưng, đóngquân tại Hồ Dâm Đàm, gặp kỳ nóng nực,quân tướng mỏi mệt, hối đã không nghelời Thiếu Du.

Người đọc dường như thoáng thấyNguyễn Du muốn tự hỏi ông về truyệnlập danh và nếp sống thanh thản của conngười. Hăng hái lập danh rồi thành đạtvẻ vang, để lúc chết sác không đượcmang về chôn cất tại quê nhà, như MãViện phải chăng cũng là truyện chẳngnên. Ngược lại, hỏi có nên sống theo nếpsống của Thiếu Du để đạt được niềm yênvui cho con người hay không.

Tục truyền rằng, trong chuyến mangquân tràn xuống Giao Chỉ, Mã Viện xẻnúi mở sông để chuyển quân. Vì vậy dânchúng có đường sông đường bộ lưuthông. Thế nên, tại những khúc sôngkhúc đèo hiểm trở, ngay cả tại thượng duBác Việt Nam, dân chúng thường lậpđền miếu thờ Mã Viện.

Tiếp theo, Bắc Hành Tạp Lục, chép bài:

晚 下大 灘Vãn Hạ Đại Than

新 潦 暴 漲Tân Lạo Đại Trướng

諸 險 俱 失Chư Hiểm Câu Thất

銀 河 昨 夜 自 天 傾

Ngân Hà tạc dạ tụ thiên khuynh

江 水 茫 茫 江 岸 平

Giang thủy mang mang giang ngạn bình

未 信 鬼 神 能 相 佑

Vị tướng qủy thần năng tướng hựu

盡 教 龍 虎 失 精 靈

Tẫn giao long hổ thất tinh linh

平 居 不 會 講 中 信

Bình sinh bất hội giảng trung tín

到 處 無 妨 齊 死 生

Đáo xứ vô phương tề tử sinh

更 有 險 巇 饒 十倍

Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội

吾 將 何 以 叩 神 明

Ngô tương hà dĩ khấu thần minh.

dịch là:

Chiều Tối Tại Đại ThanNưóc Lũ Mới Về

Ngập Mọi Khúc Hiểm

Ngân Hàm trời đổ đêm quaMênh mông nước lũ tràn qua đôi bờ

Qủy thần chưa giúp bao giờCọp rồng linh ứng vẩn vơ hoang đương

Tín trung tích cũ coi thườngTử sinh hạn đến không đường tới lui

Hiểm nguy còn chỗ gấp mườiThần minh thầm khấn tỏ lời sao đây.

Suốt đêm qua mưa nhu trút, nước lũ đổvể tràn bờ, nhưng khúc nguy hiễm nướcngập mênh mông. Vốn không tin ỏtruyện qủy thần phù hộ, truyện rồng cộpra oai là hoang đường, chẳng như ngườiĐường Giới tin tưởng ở chữ trung tín,không sợ phong ba, nên lúc này gặp hạnnạn chẳng còn biết lo truyện sống chết rasao. Sông còn nhiều khúc nguy hiểm gấp

Page 91: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

mười, biết khấn khứa ra sao với thầnminh bây giờ.

Thế rồi thuyền sứ cũng bình an xuốnghết ghềnh.

Nguyễn Du ghi lại niềm vui mừng nàytrong bài:

下 灘 喜 賦Hạ Than Hỷ Phú

心 香 拜 禱 將 君 祠

Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ

一 棹 中 流 肆 所 之

Nhất trạo trung lưu tứ sở chi

到 處 江 山如 識 趣

Đáo xứ giang sơn như thức thú

喜 人 蛇 虎 不 施 威

Hỷ nhân xà hổ bất thi uy

萬 珠 松 樹 僧 人 屋

Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc

一 帶 寒 煙 燕 子 磯

Nhất đái hàn yên yến tử ky

寂 寂 船 窗 無 箇 事

Tịch tịch thuyền song vô cá sự

漁 歌 江 上 裉 斜 暉

Ngư ca giang thưọng khấn tà huy.

dịch là:

Mừng Xuống Hết Ghềnh

Lòng thành thầm khấn qua đềnThuyền đi một mái lênh đênh giữa dòng

Cảnh quen mắt núi cùng sôngMừng sao hổ rắn thoát vòng tác oai

Nhà sư vạn gốc thông gầyXa xa Hòn Én khói bay một làn

Cửa bồng ngồi tựa thư nhànTiếng hò mái đẩy chiều tàn trên sông.

Ngôi đền thuyền sứ đi qua này là ngôiđền thờ Mã Viện như Nguyễn Du đã viết

trong bài Đề Đâi Than Mã Phục BaMiếu trên đây. Xuống hết ghềnh là thoátnỗi nguy hiểm. Cảnh sông núi hùng vỹkhông còn là cảnh lạ mắt với tác giả.Lòng ông mừng vì thoát hiểm. Gần đó làmột ngôi chùa nhỏ thoáng hiện sau rừngthông. Xa hơn là Hòn Én khói phủ. Ngồibên của bồng, không có việc gì làm. Bêntai chỉ có tiếng hát của ngưòi ngư phủ.Đó là nhũng hình ảnh mô tả niềm thanhthản đang tái hiện trong tâm cảnhNguyễn Du, sau những ngày giờ lo sợ vìnỗi nguy hiểm trong cuộc hành trình lênthác xuống ghềnh.

Thuyền sứ bình yên vào tới Thương Ngôthuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay. Cảnh bênđường gọi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

蒼 梧 即 事Thương Ngô Tức Sự

虞 帝 南 巡更 不 還

Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn

二 妃 洒 淚 竹 成 班

Nhị phi sái lệ trúc thành ban

悠 悠 陳 跡 千 年 上

Du du trần tích thiên niên thượng

歷 歷 群 書 一 望 間

Lịch lịch quần thư nhất vọng gian

新 潦 初 添 三 尺 水

Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy

浮 雲 不 辦 九 疑 山

Phù vân bất biện Cửu Nghi san

尋 聲 遙 謝 琵 琶 敔

Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ

千 里 青 衫 不 耐 旋

Thiên lý thanh sam bất nại toàn.

dịch là:

Thương Ngô Túc Sự

Tuần Nam vua Thuấn không về

Page 92: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hai bà rơi lệ vỏ tre đốm mầuNgàn năm tích cũ in sâu

Truyện xưa thanh sử ngàn sau lưu truyềnLụt sâu ba thước khắp miền

Cửu Nghi mây phủ non tiên mịt mờTỳ bà văng vẳng tạ từ

Áo xanh ngàn dặm còn chưa được về.

Vào đất Thương Ngô, Nguyễn Du nhớđến tích vua Thuấn xa xưa đi tuần thúphương Nam băng hà tại Thuơng Ngô.Hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh nghetin, tìm đến nơi, thương khóc, nước mắtrỏ vào những cây trúc bên sông Tương,nơi cả hai bà nhẩy xuống tự trầm, vỏtrúc lốm đốm, thành một loại trúc gọi làban trúc, còn đến ngảy nay.

Trở lại với hiện cảnh Nguyễn Du chỉthấy nước lụt sâu tới ba thước khắpmiền. núi Cửu Nghi chín ngọn xa mờtrong mây. Bên tai ông nghe thấy tiếngtỳ bà, lại thương mình làm quan đi sứ xaxôi vất vả, chưa biết ngày nào mới đượcvề hưu.

Cảnh chiều đất Thương Ngô còn tạo nênthi hứng cho Nguyễn Du trong bài kếtiếp:

蒼 梧 暮 雨Thương Ngô Mộ Vũ

雨 滯 潯 江 曉 發 遲

Vũ trệ Tầm Giang hiểu phát trì

梧 城 薄 暮尚 霏 霏

Ngô thành bạc mộ thượng phi phi

一 江新 潦 平 三 楚

Nhất giang tân lạo bình tam Sở

大 半 夫 雲 駐 九 疑

Đại bán phù vân trú Cửu Nghi

窄 窄 小 舟 難 過 夏

Trách trách tiểu chu nan quá hạ

參 參 長 髮 自知 夷

Sam sam trường phát tự tri di

平 波 日 暮 湘 潭 遠

Bình ba nhật mộ Tương Đàm viễn

杯 酒 憑 欄 吊 二 妃

Bôi tửu bàng lan điếu nhị phi.

dịch là:

Chiều Mưa Thương Ngô

Sớm mưa chậm tách bến TầmThương Ngô chiều tối lâm dâm mưa hoài

Lụt tràn Tam Sở trong ngoàiCửu Nghi mù mịt mây bay la đà

Thuyền này Hoa Hạ khó quaTóc dài búi lớn rõ là người DiTương Đàm xa thẳm thuyền đi

Bên thuyền điếu viếng Nhị Phi nghiêng bình

Giới nghiên cứu cho hay Tầm Dương làkhúc sông chẩy qua đất Thương Ngôtỉnh Quảng Đông. Mưa trên Thưong Ngôbuổi sáng đã làm thuyền sứ chậm táchbến. Cho đến chiều tối mưa vẫn chưatạnh. Nước ngập khắp vùng đất Tam Sở,Chín ngọn Cửu Nghi mờ trong mây. Conthuyền sứ này quá nhỏ vào Hoa Hạ sẽkhó khăn. Búi tóc người thơ lớn hơn tócđuôi sam ngưòi Thanh nên dễ nhận ra làngưòi Di, tên người Trung Quốc gọingười Việt Nam. Từ Tầm Dương đếnTương Đàm đường còn xa, nhà thơnâng chén điếu viếng Nhị Phi của vuaThuấn.

Dọc sông trên đất Thương Ngô, cảnhsinh hoạt tấp nập trên bến dưới thuyềntạo hứng cho Nguyễn Du viết mười bàitheo điệu Trúc Chi, đặt dưới cùng mộtđầu đề:

蒼 梧 竹 枝 歌Thương Ngô Trúc Chi Ca

十 五 章

Thập Ngũ Chương

Page 93: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

其一

Kỳ Nhất

桂 林 新 潦 涌 長 川

Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên

水 屋 憑 高 浴 上 天

Thủy ốc bàng cao dục thướng thiên

午 後 東 風 吹 更 急

Ngọ hậu đông phong xuy cánh cấp

往 來 無 數 廣 東 船

Vãng lai vô số Quảng Đông thuyền.

其 二

Kỳ Nhị

文 昌 閣 上 夜 燈 明

Văn Xương các thượng dạ đăng minh

一 片 寒 光 射 水 晶

Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh

來 往 悠 船 不 知 數

Lai vãng du thuyền bất tri số

滿 江 齊 發 棹 歌 聲

Mãn giang tề phát trạo ca thanh

其 三

Kỳ Tam

雨 自 滂 沱 雲自 癡

Vũ tự bàng đà vân tự si

九 疑 山 色 妄 中 疑

Cửu Nghi sơn sắc vọng trung nghi

虞 王 葬處 無 丘 墓

Ngu vưong táng xứ vô khâu mộ

水 面 絃 聲 似 二 妃

Thủy diện huyền thanh tự nhi phi.

其 四

Kỳ Tứ

青 山 樓 閣 一 層 層

Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng

晝 見 煙 霞 夜 見 燈

Trú kiến yên hà dạ kiến đăng

古 寺 無 名 難 問 訊

Cổ tự vô danh nan vấn tấn

白 雲 深 處臥山 僧

Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.

其 五

Kỳ Ngũ

浪 花 雙 棹 疾 如 飛

Lãng hoa song trạo tật như phi

看 罷 龍 舟 抵 暮 歸

Khán đãi long chu để mộ quy

生 面 相 逢 無 畏 避

Sinh diện tưong phùng vô úy tị

瓠 犀微 露 笑 南 夷

Hồ tê vi lộ tiếu nam di.

其 六

Kỳ Lục

一 聲 裂 竹 散 硫 磺

Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng

驚 起 沙 汀 鴈 數 行

Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng

天 際 遙 占 歸 去 處

Thiên tế dao chiêm qui khứ xứ

倉 梧 北 上定 蘅 陽

Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương

其 七

Kỳ Thất

長 江 破 浪 渺 無 涯

Trường giang phá lãng diểu vô nhai

三 五 遊 船 趁 夜 開

Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai

無 月 無 燈 看 不 見

Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến

琵 琶 聲 自 水 中 來

Tỳ bà thanh tự thủy trung lai.

其 八

Kỳ Bát

雞 籠 山 在 水 中 央

Kê Lung sơn tại thủy trung ương

Page 94: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

萬 頃 湮 波 共 渺 茫

Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang

相 約東 家具 舟 楫

Tương ước đông gia cụ chu tiếp

天 妃 閣 上 共 焚 香

Thiên phi các thưọng cộng phần hương.

其 九

Kỳ Cửu

城 北 山 榴 紅 更 紅

Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng

城 南 垂 柳 不 禁風

Thành nam thủy liễu bất câm phong

絮 飛 花 落 無 人 筦

Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản

一 夜 隨 流 到 廣 東

Nhất dạ tùy lưu đáo quảng đông.

其 十

Kỳ Thập

斑 竹 湮 筒 尺 二 長

Ban xích yên đồng xích nhị trường

茶 甌 浮 動 雨 前 香

Trà âu phù động vũ trà hương

一 來 一 往 人 無 問

Nhất lai nhất vãng nhân vô vấn

獨 倚 船 窗 正 恨 郎

Độc ỷ thuyền song chính hận lang.

其 十 一

Kỳ Mười Một

十 隻 龍 舟 一 字 陳

Thập chích long chu nhất tự trần

敲 鑼 撾 鼓 吊 靈 圴

Xao la qua cổ điếu linh quân

黃 花 閨 女 貪 行 樂

Hoàng hoa thôn nữ tham hành lạc

跳 出 船 頭 不 避 人

Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân

其 十 二

Kỳ Thập Nhị

棠 舟 闌 楫 日 繽 紛

Đường chu lan tiếp nhật tân phân

往 往 來 來 不 厭 頻

Vãng vãng lai lai bất yếm tần

記 取 畫 船 三 五 隻

Ký thủ ngọa thuyền tam ngũ chích

最 風 流 是 布 衣 人

Tối phong lưu thị bố y nhân.

其 十 三

Kỳ Mưòi Ba

沿 城 楊 柳 不 勝 柔

Duyên thành dương liễu bất thăng nhu

葉 葉絲 絲 未 及 秋

Diệp diệp ti ti vị cập thu

好向 風 前 看 搖 曳

Hảo hướng phong tiền khán dao duệ

最 顛 狂 處最 風 流

Tối điên cuồng xú tối phong lưu.

其 十 四

Kỳ Mười Bốn

長 裙 褶 褶 曳 輕 綃

Trường quần tập tập duệ khinh tiêu

雲 髻 峨 峨 擁 翠 翹

Vân thúy nga nga ủng thúy kiều

嬴 得 鬼 頭 滿 曩 口

Doanh đắc qủy đầu mãn nẵng khẩu

憑 君 無 福 也 能 消

Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.

其 十 五

Kỳ Thập Ngũ

船 尾 燈 籠 四 尺 竿

Thuyền vĩ dăng lung tứ xích can

船 頭 畫 虎 黑 斑 斑

Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban

布 旂 上 寫 巡 河 字

Bố kỳ thuong tả tuần hà tụ

只 詰花 船 不詰 奸

Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.

Page 95: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dịch là:

Cảnh Thương NgôTheo Điệu Ca Trúc Chi

Mười Lăm Khúc

I

Quế Lâm nước lũ mông mênhNhà bè theo sóng dập dềnh thấp cao

Xế trưa gió động ào àoTrên sông thuyền Quảng ra vào như nêm.

II

Văn Xương sáng rực đêm đêmLung linh mặt nước ánh đèn long lanh

Thuyền chơi qua lại bồng bềnhĐầy sông tiếng hát lênh đênh khoan hò.

III

Mưa tầm tã mây lũng lờCửu Nghi sác núi mịt mờ ngất cao

Mồ vua Ngu đặt noi naoTiếng đàn mặt nưóc đưỏng dâu hai bà.

IV

Thanh Sơn lầu gác như nêmNgày ngày mờ khói đêm đêm đõ đèn

Chừa xua chưa hỏi được tênSư già ngon giấc ngủ bên mây mù.

VChèo hoa quẫy sóng như bay

Cuộc đua thuyền mãn trời tây chiều vềGặp người Nam chăảng e dẻ

Hạt bầu trắng nhở hề hề nhăn răng.

VI

Đì đùng pháo nổ khói xanhBãi xa đàn nhạn giật mình bay cao

Lưng trời tìm hướng xứ nàoThương Ngô ngược bắc thẳng vào Hành Dương

VII

Trường Giang sóng gợn không bờThuyền choi dăm lá mịt mờ bóng đêm

Vắng trăng không cả ánh đènTỳ bà văng vẳng bên thuyền thoáng nghe.

VIII

Hòn Kê Lung nổi giữa sôngLòng tròi ngàn lớp khói vương la đà

Hẹn chủ thuyển sẵn chèo hoaLên Thiền Phi miếu hai Bà thắp hương.

IX

Bắc thành lựu đỏ đỏ thêmCửa nam gió thoảng liễu mềm khoe xinh

Lựu tàn liễu rối mặc tìnhMột đêm thuận gió tới thành Quảng Đông

X

Thước hai ống điếu trúc hoaVũ Tiền thoang thoảng hương trà thanh tao

Ngưọc xuôi giáp mặn chẳng chảoCửa bồng ngồi tựa nôn nao giận chồng.

XI

Thuyền rồng chữ nhất hàng mưòiKhua chiêng góng trống tế người Linh Quân

Hoa vàng cài tóc gái xuânMải vui ra tận mũi thuyền lấn chen.

XII

Chèo lan thuyền quế rộn ràngLượn đi lượn lại dọc ngang lững lờ

Năm ba thuyền khéo điểm tôKhách phong lưu nhất vải thô trên người.

XIII

Thướt tha dáng liễu bên thànhMùa thu chưa tới lá xanh khoe mềm

Lắng nhìn trước gió làm duyênCàng điên cuồng lắm càng thêm mặn mà.

XIV

Thướt tha lụa mỏng quần dàiBúi cao lông thúy trâm cài tóc tiên

Nếu may được bạc sẵn tiềnCho bằng vô phúc tình duyên vẫn nồng.

Page 96: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

XV

Cột dèn bốn thước đuôi thuyềnMũi thuyền vẽ hổ vằn đen vằn vàng

Tuần Hà đề chử rõ ràngThuyền hoa xét hỏi thuyền gian tảng lờ

Đọc mười lăm bài Thương Ngô Trúc ChiCa trên đây, người đọc có cảm tưỏngnhư xem một cuộn tranh lụa TrungQuốc. Tưởng như chính mình ngồi trênthuyền trên sông Thương, ngắm cảnhsinh hoạt trên bến dưới thuyền và haibên bờ.

Bài thứ nhất là cảnh mở đầu cho thấyhình ảnh nước lũ ngập vùng Quế Lâm,thủ phủ tỉnh Quảng Tây. Nhà bè bênsông nhấp nhô theo sóng, thuyền xuôingược giữa hai tỉnh Quảng Đông vàQuảng Tây. Bài thứ hai cho thấy đền thờVăn Xương Đế Quân, một vị thần ĐạoGiáo ban ngày mây che ban đêm đènsáng, trước đền thuyền chơi qua lại, đầysông vang tiếng hát. Bài thứ ba trở lạicảnh mưa trên Thương Ngô, mờ núi CửuNghi, truyện vua Thuấn đi tuần thú rồibăng hà ở Thương Ngô mà nay không rõmả ở đâu. Tiếng đàn ai oán trên sônglàm tác giả trạnh thương hai bà phi củavua đã tự trầm. Bài thứ tư, ghi lại cảnhlầu gác Thanh Sơn, ban ngày khói phủban dêm tỏ đèn. Gần đó có ngôi chùanhỏ ẩn sau mây, mà tác giả chưa hỏi rađược tên. Bài thứ năm ghi lại cảnh tàncuộc đua thuyền, có ngưòi địa phưongnhăn răng cười làm tác giả như bất mãn.Bài thứ sáu là cảnh đốt pháo làm đànchim nhạn bên cồn cát sợ hại tản bay.Tác giả nhìn xa tới cuối chân trời thấyđường sông ngược lên phía Bắc để tớiHành Dương. Bài thứ bẩy là cảnh đêmtrên sông, tròi không trăng, có nhiềuchiếc thuyền không treo đèn, chỉ nghevăng vẳng thấy tiến tỳ bà. Sang bài thứtám, thuyền tói ngang hòn Kê Lung, trờikhông mưa nhưng sương la đà mặt sông,tác giả hẹn chủ thuền cho thyền nhỏ đưađi thắp hương tại miếu hai bà phi. Bài

thứ chín, là cảnh cuối mùa hè ở ThươngNgô, liễu xanh hoa lựu đỏ, nhưng mọingười dường vô tình vì nơi đây chỉ cáchQuảng Đông có một đêm đi thuyền. Bàithứ mười là một hoạt cảnh tác giả nhìnthấy trên một con thuyền đi ngưọcđường với thuyền sứ. Đó là hình ảnhmột thiếu phụ, ngồi bên cửa sổ thuyền,hút thuốc, uống trà bên, không chào hỏiai, khiến tác giả nghĩ là nàng nàng đangcơn giận chồng. Bài mưòi một là cảnhđua thuyền rồng chiêng khua trống gióngnhân ngày điếu Linh Quân, tức KhuấtNguyên. Tác giả chỉ ghi lại hình ảnh mộtcô gái tóc cài hoa vàng, chen lấn mọingưòi ra đầu thuyền xem đua thuyền.Bài mưòi hai, cho thấy cảnh nhữngthuyền chơi luợn đi lượn lại trên sông,ông để ý riêng tới một chiếc tô điểmbằng hình vẽ, có một khách rất phonglưu mặc áo vải thô. Bài mưòi ba ghi lạicảnh rặng liễu ở bên thành, trời chưasang thu, khoe lá xanh khoe tơ mềm, ônglặng nhìn hàng liễu nhận ra rằng trướcgió nững chiếc là nào càng quay cuồngmạnh, dáng càng thêm mặn mà. Bài thứmười bốn tác giả ghi lại hình ảnh nhữngcô gái trên những chiếc thuyền chơi, từquần áo tới cách chải chuốt. Bài cuốicùng vẽ lại cảnh đi tuần khám cácthuyền chơi trên sông.

Nguyễn Du lấy cảnh đua thuyền rồngnhân ngày giỗ Khuất Nguyên, trong bàithứ mười một trêm đây, làm thi hứngviết thành bài luật thi, và đồng thời gửigắm ý nghĩ của ông về cái chết của BộiLan, người đeo hoa lan nước Sở, mộtchủ đề mà ông còn dùng trong nhiều bàikhác.

五 月 觀 競 渡Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ

懷 王 歸 葬 張 儀 死

Hoài Vương quy táng Trương Nghi tử

楚 國 詞 人 記 佩 蘭

Page 97: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Sở quốc từ nhân ký bội lan

千 古 招 呼 終 不 返

Thiên cổ chiêu hô chung bất phản

滿 江 爭 競 太 無 端

Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan

煙 波 渺 渺 空 悲 怨

Yên ba diểu diểu không bi oán

鑼 鼓 年 年 自 笑 歡

La cổ niên niên tụ tiếu hoan

魂 若 歸 來 也 無 扥

Hồn nhược qui lai dã vô thác

龍 蛇 鬼 蜮 遍 人 間

Long xà quỷ vực biến nhân gian.

dịch là:

Tháng NămXem Đua Thuyền

Chết rồi Vua Sở Trưong NghiBội lan người Sở nhớ ghi vẫn còn

Chiêu hồn nào thấy đâu hồnĐua thuyền tranh giải đầy sông đặt bày

Oán hờ thương hão khói mâyNăm năm chiêng trống hội nay coi thường

Hồn về không chốn tựa nươngRắn rồng quỷ quái vẫn đương hoành hành.

Hoài Vuơng là vua nước Sỏ, khoôngnghe lời can ngăn của Khuất Nguyên,sang nước Tần gặp vua Tần, bị vua Tầnlập kế bắt giũ, sau khi chết mói, xác móiđược đưa về Sở chôn cất. Trương Nghilà một nhà thuyết khách, chủ truơngthuyết liên hoành, họp sáu nước Tề, SởYên Hàn Ngụy để phò Tần, chống lạithuyết hợp tung, sàu nước họp làm mộtdể đánh Tần của Tô Tần. Trương Nghitừng làm tướng quốc nhiều nước, từngvào nước Sở, mua chuộc được các đạithần và cả ái phi Trịnh Tụ của HoàiVương, dèm Khuất Nguyên khiến ông bịvua đưa đi đầy, và đặt Trương Nghi lênlàm tướng quốc. Sau bị lộ mưu, TrươngNghi chạy về Tần, sang Ngụy, rồi chết ởNgụy.

Khuất Nguyên tên thục là Bình (–340 – -278) làm chức Tà Đồ, của Sở HoàiVương. Vua bị trúng kế ly gián củaTrương Nghi, Trình Tụ cách chức KhuấtNguyên đầy về Giang Nam. Ông sángtác nhiều thi phẩm đến nay còn đượchâm mộ, như Ly Tao, Cửu Ca, ThiênVấn, v.v... Trong văn học Trung QuốcKhuất Nguyên là biểu tượng lòng trungthành với vua, cùng chí bất khuất củanhà nho. Trong thời gian đi đầy, ông yêuthích hoa lan, thưòng đeo hoa lan trênngười, nên có biệt hiệu la bội lan. Cuốicùng nước Sở mất vào tay nước Tần,Khuất Nguyên nhẩy xuống sông MịchLa tự trầm.

Khi Khuất Nguyên mất rồi, Tống Ngọclàm một bài Chiêu Hồn để gọi hồn ông.Tác phẩm này cũng trở rhành một tácphẩm quan trọng trong lịch sử văn họcTrung Quốc.

Tục truyền Khuất Nguyên chết vào ngày5 tháng 5. Hàng năm người Trung Quốccó lệ tổ chức thi bơi thuyền để kỷ niệmviệc đi tìn thi thể Khuất Nguyên.

Trở lại bài Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ,người đọc thấy Nguyên Du nhắc lại mốitương quan giũa Hoài Vương, TrươngNghi và Khuất Nguyên vắn tắt trong haicâu đầu. Ông không tin việc Tống Ngọcgọi hồn Khuất Nguyên, cùng tục lệ kỷniệm cái chết của Khuất Nguyên bằngnhững cuộc thi đua thuyền. Hai câu cuốicùng ông nói ngược lời Tống Ngọc, chorằng hồn Khuất Nguyên không nên về,vì những lời dèm pha nơi triều chính qủyquái như nọc rắn. Điểm này người đọcthưòng thấy trong thơ Nguyễn Du, tỷnhư trong bài Khổng Tước Vũ trongThanh Hiên Thi tập.

Tiếp tới là bài:

楊 妃 故 里

Page 98: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Dương Phi Cố Lý

山 雲 削 略 岸 花 明

Sơn vân tước lưọc ngạn hoa minh

見 說 楊 妃 此 地 生

Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh

自 是 舉 朝 空 立 仗

Tự thị cử triều không lập trượng

枉 交 千 古 罪 傾 城

Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành

簫 簫 南 內 蓬 蒿遍

Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến

寞 寞 西 交丘 隴 平

Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình

狼 藉 殘 紅 無 覓 處

Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ

東 風 城 下 不 勝 情

Đông phong thành hạ bất thắng tình.

dịch là:

Quê Cũ Dương Phi

Rộ hoa bến thưa mây ngànNơi đây quê cũ của nàng Dương Phi

Cả triều phỗng đá làm vìNghiêng thành lệch nước tội ghi riêng nàng

Cỏ gai Nam Nội tan hoangVắng tanh gò đống san bằng Tây Giao

Cánh hồng tàn tạ tìm đâuChân thành lộng gió ruột đau trạnh tình.

Dương Phi tức Dương Qúy Phi, tục danhlà Dương Ngọc Hoan, người đất HoằngNông, Hoa Âm, tỉnh Thiểm Tây. Thủanhỏ mồ côi, sống vói chú là DươngHuyền Yêu, sau được tuyển vào cunglàm cung phi vua Đường Huyền Tông.Nàng được vua yêu mến vô cùng. Anhhọ nàng là Dương Quốc Trung cũngđược phong quyền cao chức trọng vàlàm nhiều điều lộng quyền trong triều.

Khi có giặc An Lộc Sơn, vua ĐưòngHuyền Tông chạy vào đất Thục. Đến MãNgôi, quân lính nổi loạn đòi giết Dương

Quốc Trung và Dương Qúy Phi. VuaĐường Huyền Tông không sao che chởcho Dương Quý Phi nổi. Dương Qúy Phibị thắt cổ chết.

Trong câu thứ ba, Nguyễn Du dùng bachữ không lập trượng, nghĩa đen là đứngyên trong hàng gậy. Do phép thiết triềunhà Đường, có tám con ngựa được dẫnra đứng chầu sau hàng gậy. Con nàođộng đậy hay hý lên đều bị thay thế.Người đời sau dùng ba chữ này chỉnhưng vị triều quan, chức cao mà khôngthiết thực làm việc nước. Cùng với câuthứ tư, tác giả đưa ra lập luận làm nhẹ tộiDương Phi: trách nhiệm về việc làmnghiêng thành lệch nưóc là trách nhiệmcủa cả triều đình đau có phải tại mộtmình Dương Quý Phi.

Cung Nam Nội là cung Hưng Khánh, ởphía Đông Nội. Vua Dưòng và DươngQúy Phi thường ra chơi tại đó. Ngàynay Nam Nội hoang phế. Tây Giao ởphía Đông Trường An, chỉ cánh đồngchỗ Dương Qúy Phi bị bức tử, gò dốngnay đã bị san bằng. Dưới chân thành,Nguyễn Du cảm thương cho Dưong QúyPhi.

Đoàn sứ đi qua đất cũ của Triệu Đà, gâyhứng cho Nguyễn viết bài:

趙 武 帝 故 境Triệu Vũ Đế Cố Cảnh

暴 楚 強 秦 相 繼 誅

Bạo Sở cường Tần tương kế tru

雍 容 揖遜 霸 南 陬

Ung dung ấp tốn bá nam tưu

自 娛 儘 可 稱 皇 帝

Tự ngu tận khả xung hoàng đế

樂 善 還 能 屈 豎 儒

Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu

百 尺 高 臺 傾 嶺 表

Page 99: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu

千 年 古 墓 沒 番 禺

Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu

可 憐 世 代 相 更 迭

Khả liên thế đại tương canh điệt

不 及 蠻 夷 一 老 夫

Bất cập man di nhất lão phu.

dịch là:

Đất Cũ Của Triệu Vũ Đế

Diệt vong Sở bạo Tần CườngTrời nam nghiệp bá ung dung ông ngồi

Tự xưng hoàng đế một thờiNhún nhường phục thiện nghe lời bàn sâu

Đài cao Lĩnh Biểu còn đâuPhiên Ngung mộ cổ từ lâu mất rồi

Kế nhau triều đại đổi dờiAi bằng ông lão tinh đời man di.

Triệu Vũ Đế, tức Triệu Đà, sinh năm258 trước công nguyên, làm huyện lệnhĐông Xuyên, dưới quyền Nhâm Ngao,quan úy huyện Nam Hải. Lúc đó vàocuối đời nhà Tần, triều chính suy xụp,đại loạn, chinh chiến liên miên với nướcSở. Nhâm Ngao muốn nhân cơ hội đánhlấy Âu Lạc, lập một nưóc tự chủ ởphương Nam. Chưa thực hiện được kếhoạch thi ốm nặng, Nhâm Ngao traobinh quyền cho Triệu Đà. Triệu Đà theokế hoạch thành công, lập raq nước NamViệt, lên làm vua tức là Vũ Vương, đóngđô ở Phiên Ngung, gần thành QuiảngChâu ngày nay. Nhà tần tàn, nhà Hán lêntrị vì Trung Quốc. Vua Hán sai lục Giả,một nhà nho, sang Nam Việt dụ hàngTriệu Đà, hứa tôn trọng chủ quyền củaNam Việt, gác bỏ việc chiến chinh.Triệu Đà đã nghe theo.

Trở lại bài Triệu Vũ Đế Cô Cảnh, Ngàynay mọi xây cất tại Lĩnh Biểu khôngcòn. Mồ chôn Triệu Đà ở Phiên Ngungcũng không tìm ra dấu vết. Có khác gìtriều đại kế tiếp nhau dời đổi, chinh

chiến không ngừng, cả Sở cả Tần naychẳng nước nào còn. Người đọc dườngnhư cảm thấy là, với Nguyễn Du chẳngai khôn ngoan bằng ông lão man di, (lờitriệu Đà tự xưng trong sớ tâu lên vuaHán Vũ Đế), bbởi đã biết tránh cho dânnạn chiến chinh giữa Nam Việt và nhàHán.

Cái khó khăn trong cuộc di hành củathuyền sứ lại trở lại trong Bắc Hành TạpThi với bài:

不 進 行Bất Tiến Hành

雨 師 涕 泣 馮 夷 怒

Vũ sư thế khấp Bằng Di nộ

五 指 山 前 水 暴 注

Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú

白 波 終 日 走 蛇 龍

Bạch ba hàn nhật tẩu xà long

青 山 兩 岸 皆 豺 虎

Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ

舟 楫 紛 紛 同 一 流

Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu

下 灘 人 喜 上 灘 愁

Hạ than nhân hỷ thuớng than sầu

百 丈 長 繩 挽 不 進

Bách trượng trường thằng vãn bất tiến

舟 中 年 少 皆 白 頭

Chu trung niên thiếu giai bạch đầu.

dịch là:Bài Hành Thuyền Không Tiến

Thần mưa khóc thần sông gàoDưới chân Ngũ Chỉ nước trào mênh mông

Sóng lùa lớp rắn lóp rồngHòn hùm hòn báo trời trồng non xanhThuyền xuôi thuyền ngược dập dềnh

Xuôi ghềnh khấp khỏi ngưọc gềnh sợ loKéo dây thuyền chẳng chuyển choBạc đầu mấy gã nhà đò trẻ măng.

Page 100: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thời tiết khắt khe, mưa to gió lón,thuyền sứ ngược ghềnh, chèo khôngchuyển, kéo dây không đi, nhưng duờngnhư không quá nguy hiển trong nhưngkhúc sông trưóc.

Rồi thuyền sứ đi qua:

三 烈 廟Tam Liệt Miếu

蔡 女 生 雛 卓 女 奔

Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn

落 花 飛 絮 不 勝 言

Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn

千 秋 碑 碣 顯 三 烈

Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt

萬 古 綱 常 屬 一 門

Vạn cổ cưong thường thuộc nhất môn

地 下 相 看 無 鬼 色

Địa hạ tương khan vô quý sắc

江 邊 何 處 吊 貞 魂

Giang biên hà xứ điếu trinh hồn

清 時 多 少 須 如 戟

Thanh thời đa thiểu tu như kích

說 孝 談 忠 各 自 尊

Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.

dịch là:

Miếu Tam Liệt

Thái sinh con Trác theo traiChuyện đòi hoa rụng tơ bay khôn lưòng

Ngàn thu tam liệt nêu gưongMột nhà vạn cổ cưong thưòng ghi sâu

Suối vàng chẳng thẹn găp nhauViếng hồn trinh phụ nơi nào ven sông

Thanh bình râu mác nói ngôngBàn trung thuyết hiếu một phường tự tôn.

Bài thơ có lời chú thích của tác giả nhưsau: “Khoảng niên hiệu Chính Đức nhàMinh (1506-1521), Lưu Thời Cử đi nhậpchức. Thuyền tới dây (nơi lập miếu) bị

bọn cướp giết. Vợ là Trương Thị, thiếplà Quách Thị, con gái là Lưu Thị, nhẩyxuống sông chết. Năm Gia Tĩnh (1522-1526) được phong thần và lập miếu thờ.”

Trong câu thứ nhất, tác giả nhắc tới tênhai phụ nữ nổi tiếng trong văn học TrungQuốc. Một là Thái Diễm, tự là Văn Cơ,con gái Thái Ung cuối đời Đông Hán,lấy chồng là Vệ Trọng Đạo, chưa có conthì chồng chêt, trờ về nhà cha mẹ ruọt.Sau đó quân Hung Nô vào chiếm đấtHán, bắt được nàng, mang về nước gảcho người Hung Nô. Hai mươi năm sau,sinh được hai đầu con. Tào Tháo, bạnthân của Thái Ung, sai ssú đem vàng bạcchuộc nàng về, gả cho Đổng Tự. Ngườithứ hai là Trác Nữ, tức Trác Văn Quân,con gái Trác Vương Tôn đời nhà Hán,góa chồng về ỏ nhà cha mẹ ruột. Tư MãTương Như đến dự tiệc, thoáng thấynàng, gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng tỏtình. Nàng hiểu ý bỏ nha đi theo TươngNhư. Nguyễn Du đối chiếu ba tiết nữ,chết theo chồng theo cha, với hai góaphụ, Thái Nữ và Trác Nữ, để thấy câutruyện rạng danh tam liệt và truyện gìngiữ cương thưòng tùy thuộc vào từng giađình. Hai góa phụ này nếu gặp ba tamliệt nữ kia chắc không thẹn mặt. Bênsông này chẳng biết viếng hồn trinh nơiđâu. Rồi ông kết luận là lúc bình thưòngvểnh râu bàn luận về hai chữ hiếu trung,con ngưòi thưòng hay có thói đề caomình. Người đọc tụ hỏi phải chăng quabài trên đây, Nguyễn Du kín đáo bày tòý riêng về hai chữ hiếu trung?

Cùng dòng thơ này, Bắc Hành Tạp Lụcchép tiếp bài:

桂 林 瞿 閣 部Quế Lâm Cù Các Bộ

中 原 大 勢 已 頹 唐

Trung nguyên đại thế dĩ dồi đường

Page 101: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

竭 力 孤 城 控 一 方

Kiệt lực cô thành khống nhất phương

終 日 死 生 心 不 動

Chung nhật tử sinh tâm bất động

千 秋 地下 髮 猶 長

Thiên thu địa hạ phát do trường

殘 明 廟 社 多 秋 草

Tàn Minh miéu xã đa thu thảo

全 越 山 河 盡 夕陽

Toàn Việt sơn hà tận tịch dương

共 道 中 華 尚 節 義

Cộng đạo Trung Hoa thượng tiêt nghĩa

如 何 香 火 太 淒 涼

Như hà hương hỏa thái thê lương.

dịch là:

Các Bộ Họ Cù Đất Quế Lâm

Trung nguyên đại thế đổ rồiGiữ thành dốc hết sức người riêng mang

Ngày đêm sống chết chẳng màngTóc dài chẳng đổi suối vàng có nhau

Tàn Minh cỏ miếu rầu rầuNon sông đât Việt uá mầu tà dương

Trung hoa vốn trọng kẻ trungMà sao hương khói thê lương thế này.

Các Bộ họ Cù tức Cù Thức Trĩ, tự KhởiĐiền, người đời nhà Minh, giữ chức tuầnphủ Quảng Tây, sau thăng Đông Các ĐạiHọc Sĩ, Các Bọ là danh hiệu gọi tắt chứcvụ này. Khi quân Thanh chiếm TrungQuốc, vua nhà Minh thua chạy lên VânNam, ông cố giữ thành Quế Lâm và tuẫntiết khi thành thất thủ. Câu thứ tư,Nguyễn Du nhắc lại truyện Cù Thừc Trĩkhông cxhịu hàng nhà Thanh, cát tóc bệnđuôi sam. Câu thứ năm, chữ toàn việt chỉvùng đất Phúc Kiến, Chiết Giang, tứcMân Việt, và vùng Quảng Đông QuảngTây gọi là Lưởng Việt.

Hai câu kết rất đặc biệt đáng lưu ý:Trung Quốc vốn trọng chũ trung của nhànho, mà sao đền thờ một trung thần thì

hương khói vắng tanh như vậy. Ngườiđọc tự hỏi phải chăng là Nguyễn Dumuốn dùng hình ảnh hương tàn khóilạnh này để nói lên niềm lãnh đạm củadân Trung Quốc với những danh thần côtrung như Cù Các Bộ? Chữ danh nhưvậy phải chăng là cái danh hão? Phảichăng cái lãnh đạm này đã giết chết CùCác Bộ lần thú hai?

Tới Quế Lâm, dừng chân tại một côngquán, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

桂 林 公 館Quế Lâm Công Quán

荒 草 惹 流 螢

Hoang thảo nhạ lưu huỳnh

閒 階 夜 氣 清

Nhàn giai dạ khí thanh

寒 燈 留 鬼影

Hàn đăng lưu quỷ ảnh

虛 幛 聚 蚊 聲

Hư trướng tụ văn thanh

牢 落 春 無 分

Lao lạc xuân vô phận

蹉 跎 老 自 驚

Tha đà lão tự kinh

城 頭 聞 畫 角

Thành đầu văn họa giác

自 語 到 天 明

Tự ngữ đáo thiên minh

dịch là:

Công Quán Quế Lâm

Cỏ hoang đom đóm lập loèTrời đêm trong sáng vắng hoe quanh thềm

Ma chơi leo lét ánh đènVo ve tiếng muỗi màn bên xa gần

Lo buồn nào biét đến xuânCái gìa xộc tới mòn thân trạnh tình

Đầu thành tiếng ốc tàn canh

Page 102: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Một mình tâm sự với mình sáng đêm.

Thi cảnh của Nguyễn Du trong bài nàytrải dài từ xa về tới phòng ông trongcông quán: với ánh sáng lập lòe của đànđom đóm, trong đêm thanh vắng quanhcông quán. Vào tới phòng ông là tiếngmuỗi vo ve quanh màn. Nhà thơ chợtthấy mùa xuân đã qua, cái già dưòng nhưập tới ông. Rồi nghe thấy tiếng trống tàncanh đầu thành. Thế là trắng một đêmmình tâm sự với mình.

Rồi tới bài:

題 韋 盧 集 後Đề Vi Lư Tập Hậu

詩 人 不 得 見

Thi nhân bất đắc kiến

見 詩 如 見 人

Kiến thi như kiến nhân

大 山 興 寶 藏

Đại sơn hưng bảo tạng

獨 鶴 出 風 塵

Độc hạc xuất phong trần

針 芥 易 相 感

Châm giới vị tưong cảm

越 胡 難 自 親

Việt Hồ nan tự thân

三 唐 千 載 後

Tam Đưòng thiên tải hậu

寂 寞 久 無 聞

Tịch mịch cửu vô văn.

dịch là:

Đề Cuối Tập Thơ Của Vi Lư

Người thơ chưa gặp bao giờThấy thơ như thấy ngưòi thơ thủa nào

Non xanh kho báu chôn sâuPhong trần hạc lẻ ngàn cao vẫy vùng

Cây kim hạt cải cảm thông

Kẻ Hồ người Việt đôi đường khó thânSau Tam Đưòng cả ngàn năm

Tiếng thơ im bặt tao đàn vắng tanh.

Giới nghiên cứu đồng ý rằng Vi tức ViỨng Vật là một nhà thơ nổi tiếng đờiĐường, khi gặp loạn An Lôc Sơn, đã bỏđi tu đạo Phật, nên dường như hợp vớihình ảnh một cánh hạc lẻ vẫy vùng trênngàn cao trong câu bốn. Đằng khác,trong Đường Thi có nhiều nhà thơ cùnghọ Lư nên không đóan chắc ra là ai. Cóngười cho đó là Lư Chiến Lân, mộttrong Sơ Đường Tứ Kiệt, nhưng khôngcó bằng chứng đáng tin, ngược lại trongcâu thứ ba nếu tác giả nói về nhà thơ họLư thì ông này là một nhà thơ lớn nhưngẩn danh.

Trong hai câu thứ năm và thứ sáu,Nguyễn Du dùng hình ảnh nam châmhút kim, hổ phách hút hạt cải để mô tảniềm cảm thông giũa hai người thơ.Nhưng trong trường hợp kẻ Hồ nguờiViệt niềm thông cảm dưòng có phần khókhăn. Người đọc tự hỏi phải chăngNguyễn Du muốn bàn tới giới hạntruyền cảm của thơ văn?

Hai câu chót tác giả đưa ra nhận xét vềthi ca Trung Quốc: sau Tam Đường, tứcThịnh Đưòng, Trung Đường và VãnĐưòng, không còn nhà thơ lớn nào khácnữa.Tiếp tục cuộc hành trình, thuyền sứ điqua Thiên Bình và Nguyễn Du viết bài:

過 天 平Quá Thiên Bình

分 水 山 前 二 水 分

Phân Thủy sơn tiền nhị thủy phân

天 平水 面 自 嶙 峋

Thiên Bình thủy diện tự lân tuân

一 杯 空 奠 臨 江 廟

Nhất bôi không điện lâm giang miếu

Page 103: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

千 古 誰 為 砌 石 人

Thiên cổ thùy vi thế thạch nhân

半 嶺 溪 泉 皆 入 楚

Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở

滿 洲 碑 碣已 非 秦

Mãn châu bi kiệt dĩ phi Tần

舟 人爭 指 家 鄉 近

Chu nhân tranh chỉ gia hương cận

惱 殺 殊 方 老 使 臣

Não sát thù phương lão sứ thần.

dịch là:

Qua Thiên Bình

Ngang Phân Thủy nước chia đôiThiên Bình mặt nước sóng nhồi mênh mông

Mìếu sông dâng chén rượu suôngAi nguời khuân đá chất chồng khéo sao

Cửa non suối Sở dạt dàoBia Tấn nghiêng đồ thấp cao đầy đồng

Sắp tới làng khách vui mùngSứ già buồn nỗi đường trường còn xa.

Giới nhiên cứu cho rằng núi Phân Thủylà rặng núi ở huyện Nam Chiếu tỉnh HồNam, và sông Thiên bình là một consông chẩy dưới chân núi này.

Tác giả dưòng như thoải mái trưóc cảnhtrời nước, núi sông. Cảnh thiên nhiênnước Sở vẫn còn đó, bia nước Tần naysụp đổ đầy đồng. Người đọc thơ khôngkhỏi thấy cái phi lý của kiếp người vôthưởng trước cái hằng thưòng của tạohóa, và nhất là cái phi lý của cuộc tranhhùng triền miên giữa Sở và Tần.

Trở lại với chiếc thuyền sứ bộ, trên sôngThiên Bình. Khách đi thuyền vui mừngchỉ trỏ làng quê họ gần tới. Riêng sứthần già buồn vì nỗi đưòng còn xa.

Tiếp tới là bài:

望 湘 山 寺

Vọng Tương Sơn Tự

古 佛 無 量 唐 世 人

Cổ Phật Vô Lường Đuờng thế nhân

湘 山 寺 裡 有 真 身

Tương Sơn tự lý hữu chân thân

真 身 一 夜 燼 炎 火

Chân thân nhất dạ tẫnviêm hỏa

古 寺 千 年空 暮 雲

Cổ tự thiên niên không mộ vân

五 嶺 峰 巒 多 氣 色

Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc

全 州 城 郭 在 風 塵

Toàn Châu thành quách tại phong trần

孤 舟 江 上 憑 欄 處

Cô chu giang thuợng bằng lan xứ

一 帶 松 杉 半 夕 曛

Nhất đái tùng sam bán tịch huân.

dịch là:

Vọng Chùa Tuơng Sơn

Đời Đường Phật cổ Vô LườngChân thân truyền tụng lưu tàng Tương Sơn

Một đêm lửa cháy chân thânNgàn năm chùa cổ mây vần tầng cao

Núi non Ngũ Lĩnh muôn mầuMịt mò thành quách Toàn Châu bụi hồng

Thân đơn ngắm cành song bồngTrời chiều từng dải sam thông mờ dần.

Vô Lường Phật là Phật danh của ĐườngHuyền Trang, người đã sang Tây Trúcthỉnh kinh. Nguyễn Du kể lại truyênchân thân của Phật Vô Lường tàng tạichùa Tương Sơn bỗng một đêm bốccháy, ngày nay chỉ còn ngôi chùa cổ phủmây chiều, trong cảnh núi Ngũ Lỉnhmuôn mầu, ngoài thành Toàn Châu chìmtrong bụi hồng. Đứng một mình trênthuyền, người thơ thấy từng rặng thôngchìm dần trong bóng chiều. Nguời đọcthấy tác giả có một buổi chiều êm ả thưthái, không một mảy may buồn khổ nhớnước nhớ nhà.

Page 104: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thuyền sứ vào đất Vĩnh Châu mang lạicho Nguyễn Du thi hứng viết bài:

永 州 柳 子 厚 故 宅Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch

蘅 嶺 浮 雲 瀟 水 波

Hành Lĩnh phù vân Tiêu Thủy ba

柳 州 故 宅 此 非 耶

Liễu Châu cố trạch thử phi da

一 身 斥 逐 六 千 里

Nhất thân xích trục lục thiên lý

千 古 文 章 八大 家

Thiên cổ văn chưong bát đại gia

血 指 汗 顏 誠 苦 矣

Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hỹ

清 溪 嘉 木 奈禺 何

Thanh khê gia mộc nại ngu hà

壯 年 我 亦 為 材 者

Tráng niên ngã diệc vi tài giả

白 髮 秋 風 空 自 嗟

Bạch phát thu phong không tụ ta.

dịch là:

Nhà Cũ Vĩnh Châu Liên Tử Hậu

Mây non Hành sóng dòng TiêuLiễu Châu nhà cũ tieu điều đâu đây

Sáu ngàn dặm thằm thân đầyMột trong tám đại danh tài lưu danh

Mồ hôi nưóc mắt trạnh tìnhHá sao suối mát cây xinh ngu đần

Tài hoa gỗ qúi tuổi xuânGió thu tóc bạc thương thân than sầu.

Liễu Tử Hậu là Liễu Tông Nguyên (773-819) người Hà Đông, nen còn gọi làLiễu Hà Đông. Ông còn tùng làm thứ sửLiễu Châu, nay là Quảng Tây, nen còntênlà Liễu Liễu Châu, tên chũ là Tủ Hậu.Ông đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng tàihoa, hoạn lộ thăng trầm bị đầy đi xa giữchú Tư Mã Vĩnh Châu rồi chết tại đó.

Chỗ này là nơi thuyền sứ đi qua và gâyhứng cho Nguyễn Du viết bài thơ này.

Hành Lĩnh là dẫy Hành Sơn thuộc tỉnhHồ Nam; Tiêu Thủy là khúc sôngTương, trong tỉnh Hồ Nam và đổ vàosông Tiêu.

Liễu Tử Hậu là một trong tám nhà vănnội danh trong hai triều nhà Đưòng vànhà Tống gồm có: Hàn Dũ, Liễu TôngNguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, ToThức, Tô Triệt, Tăng Củng và VươngAn Thạch.

Câu thứ năm, Nguyễn Du nhắc lại lờivăn tế Liễu Tôn Nguyên của Hàn Dũ,giới nghiên cứu dịch xuôi là: ‘Ví nhưngười thọ vụng, tay đổ máu, mặt đổ mồhôi, còn người thọ khéo thì đứng khoanhtay. Văn chương như ông Liễu thì khôngđược dùng, còn bọn nịnh bợ thì ngồithảo chiếu cho vua.’

Câu thứ sáu, Nguyễn Du trích bài tựacủa tập thơ Ngu Khê của Liễu TôngNguyên; ‘Cây cối đẹp dẽ, đất đá kỳ lạchồng chất phô bà, vì tangu mà phảimang tiếng ngu. nước là thứ kẻ trí ưathích. Nay cái khe ấy vì ta mà lại bị nhụcvì ngu, là tại sao?’

Rổi kết thúc bằng hai câu: tuổi trẻ tacũng có tài ví như cây gỗ tốt, nay đầubạc ngồi than thân vói gió thu.

Người đọc thơ dường như thấy rõ làNguyễn Du tâm đầu ý hiệp với LiễuTông Nguyên. Có điều ngưòi đọc thắcmắc là vì sao Liễu Tông Nguyên tự chomình là ngu? Phải chăng ông tự trách vìmình ngu mà bị biếm, làm khổ lây suốirừng cây cỏ? Phải chăng, đàng khác làtại ông ngu nên đã giã biệt suối rùng câycỏ mà ra làm quan, đề nay bị biếm vạ lâytới cỏ cây rừng suối?

Page 105: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Không biết giữa hai ngả đó Nguyễn Dusong hành cùng Liễu Tông Nguyên theongả nào?

Rồi tới đêm thuyền sứ đậu bến sôngtương, Nguyên Du viết bài:

湘 江 夜 泊Tương Giang Dạ Bạc

一 去 六 十 里

Nhất khứ lục thập lý

悠 悠 江 水 長

Du du giang thủy trường

浮 雲 連 五 嶺

Phù vân liên Ngũ Lĩnh

明 月 會 三 湘

Minh nguyệt hội Tam Tương

別 浦 分 新 色

Biệt phố phân tân sắc

遙 空 失 故 鄉

Dao không thất cố hương

鶴 來 人 不 見

Hạc lai nhân bất kiến

晚 樹 鬱 蒼 蒼

Vãn thụ uất thương thuơng

dịch là:

Đêm Đậu Bến Sông Tương

Một thôi sáu chục dặm trườngĐường sông dằng dặc thuận buồm ruổi rong

Đầu non Ngũ Lĩnh mây giăngTam Tương trải rộng dưới trăng một vùng

Bến sông tiễn biệt ngại ngùngNgoái nhìn chẳng thấy cố hương nẻo nào

Hạc về chẳng thấy người đâuXẫm xanh cây lá nao nao bóng chiều.

Trong bốn câu đầu, Nguyên Du ghi lạihình ảnh chặng đường thuyền sứ vừavuợt qua để tới Tam Tương. Nơi đó làchỗ ba dòng sông Tương: Tiêu Tương,

Chung Tương và Nguyên Tương gặpnhau.

Bốn câu sau làm người đọc thấy dưòngnhư tác giả, dùng cùng một bút pháp vóibài Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Có Trạch:đưa thi liệu lấy từ văn học Trung Quốcvào thơ Việt Âm. Qua bốn câu nàyngười đọc nhớ tới bài Hoàng Hạc Lâucủa Thôi Hiệu, một bài thơ Đường rấtđuợc nhà nho ta ngày xưa và giới hâmmộ thơ Đưòng hiện nay ưa chuộng.

Thi tài của Nguyễn Du đã xáo trộn thứtự bốn câu trong bài Hoàng Hạc Lâu, bớtchữ chỉ địa danh: như Hán Dương, AnhVũ, rồi đổi từ nguyên thể bẩy chữ sangthể năm chữ trong bài Tương Giang DạBạc, và liên tục diễn tả tâm cảnh của ônghiện đang ở trên quê người, không cònbiết quê hưong ở về phía nào.

Phải chăng cái thú chơi chữ này đã giúpcho Nguyễn Du nguôi nguôi nỗi nhớnhà, lấy lại dần dần đưọc niềm thanhthản?

Thuyền sứ vào sông Nguyên Tương,thuộc dịa phận huyện Tương Đàm, gầnvới khúc sông Mịch La, nợi KhuấtNguyên tự trầm mình. Hình ảnh KhuấtNguyên gợi hứng cho Nguyễn Du viếthai bài:

湘 潭 吊 三 閭 大 夫Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

好 修 人 去 二 千 載

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải

此 地 猶 聞 蘭 芷香

Thử địa do văn lan chỉ hương

宗 國 三 年 悲 放 逐

Page 106: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tông quốc tam niên bi phóng trục

楚 辭 萬 古 擅 文 章

Sở từ vạn cổ thiện văn chương

魚 龍 江 上無 殘 骨

Ngư long giang thượng vô tàn cốt

杜 若 洲 邊 有 眾 香

Đỗ nhưọc châu biên hữu chúng phương

極 目 傷 心 何 處 是

Cực mục thương tâm hà xứ thị

秋 風 落 木 過 沅 湘

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.

其 二

Kỳ Nhị

楚 國 冤 魂 葬 此 中

Sở quốc oan hồn táng thử trung

煙 波 一 望 渺 何 窮

Yên ba nhất vọng diểu hà cùng

直 教 憲 令 行 天 下

Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ

何 有 離 騷 繼 國 風

Hà hữu Ly Tao kế Quốc Phong

千 古 誰 人 憐 獨 醒

Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh

四 方 何 處 托 孤 忠

Tứ phương hà xứ thác cô trung

近 時 每 好 為 奇 服

Cận thòi mỗi hiếu vi kỳ phục

所 佩 椒 蘭 更 不 同

Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.

dịch là:

Qua Tương Đàm Viềng Tam Lư Đại PhuHai Bài

IHai ngàn năm trước Nguời đi

Đất này lan vẫn nở ghi dấu NgưòiBa năm đầy ải bên trời

Sở Từ còn đó ngàn đời chi hơnĐáy sông nào thấy nắm xưong

Bên bờ đỗ nhược toả hương ngạt ngào

Đau lòng mỏi mắt phưong naoNguyên Tương lá rụng rì rào gió thu.

II

Oan hồn Người Sở đáy sôngMịt mù khói sóng mênh mông một vùng

Nếu hiến lệnh đưọc vua dùngThì Ly Tao chẳng nối dòng Quốc Phong

Một mình tỉnh ai nào thươngBốn phương há gửi cô trung trọn đời

Gần đây mũ áo đổi rồiTiêu lan đeo chẳng giống người thời xưa.

Hai bài Tương Đàm Điếu Tam Lư ĐạiPhu này là hai bài trong ba tập thơ ViệtAm của Nguyễn Du mà giới nghiên cứuđặc biệt chú ý, vì được coi là bằng chúngcủa lòng hoài Lê của Nguyễn Du.

Tương Đàm là một huyện trong tỉnh HồNam. Thị trấn Tương Đàm nằm trênsông Tương. Tam Lư Đại Phu là chứcquan của Khuất Nguyên có nhiệm vụchưởng quản các quan thuộc vương tộcnước Sở, tựa như chức quan đứng đầuTôn Nhân Phủ triều nhà Nguyễn tại ViệtNam.

Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương tindùng, thăng chức Tả Đồ, tựa như phóthủ tướng. Ông giúp vua thảo hiến lệnh,nhưng triều đình không nghe, có ngườidèm Khuất Nguyên, vua tin nghe đầyKhuất Nguyên đến vùng Giang Nam.Sau đó nước Sở bị quân nhà Tần đánhbại, ông nhẩy xuống sông Mịch La tựtrầm. Ông đưọc nhà nho coi như biểutượng lòng trung với vua. Đàng khácông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩmlớn, sáng tác trong thời gian ông bị biếm,như Ly Tao, Cửu Ca, Thiên Vấn, CửuChương v.v...

Trở lại hai bài Tương Đàm Điếu Tam LưĐại Phu, tác giả mở đầu bàng ba chữHiếu Tu Nhân, chhữ trích từ Sở Từ,nghĩa là ngưòi ham sửa sang đức tốt. Haichữ lan chỉ cũng là chữ trích từ thơ

Page 107: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Khuất Nguyên, vốn là tên gọi hai loạihoa tượng trưng cho đức tính cao khiết.Hai câu ba và bốn tóm tắt truyện KhuấtNguyên bị dèm rồi bị đi đầy, và nhân đósáng tác được Sở Từ lưu danh ngàn đòi.Câu năm và sáu ghi lại hình ảnh KhuấtNguyên trầm mình trên sông Mịch La,không tìm thấy hài cốt, nhưng bên bờsông cỏ đỗ nhược vẫn tỏa hương thơm.Hai câu chót, tác giả cho biết ông khôngnhìn thấy dấu vết cũ của Khuất Nguyên,chỉ nghe thấy tiếng gió rì rào thổi lá baytrên sông Nguyên Tương.

Sang bài thứ hai, Nguyên Du mở đầubằng truyện Khâu Nguyên chết oan ởdòng sông này, không còn nhìn thấy dấuvết, chỉ thấy khói sông mông mênh. Haicâu tiếp là hai câu Nguyễn Du tụ hỏi,nều hiến lệnh đươc vua Sở Hoài Vươngáp dụng, thời làm gì có Ly Tao mỏđường cho dòng thơ nối theo dòng thơKinh Thi. Hai câu sau, ông nhắc lờiKhuất Nguyên trong thiên Ngư Phủ,trong Sở Từ: Người đời say cả riêngmình ông tỉnh, thế nên, khắp bốnphương không có nơi nào gửi tấm lòngcô trung. Hai câu chót, là hai câuNguyễn Du dường như tự nói với chínhmình: ‘ngưòi đơi nay thay đổi thói tụcrồi, chẳng còn ai sống theo nề nếpKhuất Nguyên nữa.’Người đọc thơ Nguyễn Du tự hỏi, phảichăng là củ ý ông muốn trình bày, tronghai bài Tương Đàm Điếu Tam Lư ĐạiPhu trên đây, là việc Khuất Nguyên bị điđầy là một cái may mắn cho KhuấtNguyên, ra khỏi triều đình vua Sở HoàiVương đẻ có dịp sáng tác những áng vănthơ mở đường khai lối cho văn họcTrung Quốc ra khỏi dòng văn học trongKinh Thi?

Ngoài ra, phải chăng ý nghĩ : ‘chúngnhân sau cả, riêng mình ông tỉnh’ đãtách Khuất Nguyên ra khỏi cuộc sốngcủa chúng nhân, việc ông nhẩy xuốngsông Mịch La tất không sao tránh khỏi?

Mạch thơ của Nguyễn Du, trong thi cảnhhai bài Tương Đàm viếng Tam Lư ĐạiPhu trên đây còn nối dài sang bài:

反 招 魂Phản Chiêu Hồn

魂 兮 魂 兮 招 不 歸

Hồn hề hồn hề chiêu bất quy

東 西 南 北 無所 依

Đông tây nam bắc vô sở y

上 天下 地 皆 不 可

Thướng thiên hạ địa giai bất khả

鄢 郢 城 中來 何 為

Yên Dĩnh thành trung lai hà vi

城 郭 猶 是 人 民 非

Thành quách do thị nhân dân phi

塵 埃 滾 滾 污 人衣

Trần ai cổn cổn ô nhân y

出 者 驅 車 入踞 坐

Xuất giả khu xa nhập cứ tọa

坐 談 立 議 皆 皋 夔

Tọa đàm lập nghị giai Cao Quỳ

不 露 爪 牙 與 角 毒

Bất lộ trảo nha dữ giác độc

咬 嚼 人 肉 甘 如 飴

Giảo tước nhân nhục cam như di

君 不 見 湖 南 數 百 州

Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu

只 有 瘦 瘠 無 充 肥

Chỉ hữu sấu tích vô nhân phì

魂 兮魂 兮 率 此 道

Hồn hề hồn hề suất thử đạo

三 皇 之 後 非 其 時

Tam hoàng chi hậu phi kỳ thì

早 斂 精 神 返 太 極

Tảo liễm tinh thần phản thái cực

慎 勿 再 返 令 人 嗤

Thận vật tái phản linh nhân xi

後 世 人 人 皆 上 官

Page 108: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan

大 地 處 處 皆 汨 羅

Đại địa xứ xứ giai Mịch La

魚 龍 不 食 豺 虎 食

Ngư long bất thực sài hổ thực

魂 兮 魂 兮 奈 魂 何

Hồn hê hồn hề nại hồn hà.

dịch là:Phản Chiêu Hồn

Hú hồn hồn hỡi chớ vềĐông Tây Nam Bắc không bề cậy trông

Thăng thiên độn thổ đều khôngĐất Yên đất Dĩnh đôi đường chớ ham

Thành quách còn khác tình dânMịt mờ bẩn áo lấm quần bụi bay

Đi xe lớn ở điện đàiCao Quỳ miệng lưỡi vắn dài ngông nghênh

Mặt ngoài chẳng lộ sừng nanhLòng trong uống máu không tanh một tuồng

Hồn thấy chăng:

Trăm châu một cõi Hồ NamChằng ai no đủ trơ xương dân gầy

Hồn ơi bằng cứ nẻo nàySau Tam Hoàng khắp đó đây đổi dời

Tỉnh tu sớm liệu về trờiĐừng về đây nữa ngưòi đời mỉa mai

Thượng quan nhan nhản trần aiĐâu đâu cũng thấy sông dài Mịch La

Cá không rỉa hùm chẳng thaHồn ơi hồn hỡi biết là làm sao.

Nguyễn Du viết bài thơ dài này phản bácbài Chiêu Hồn của Tống Ngọc làm đểgọi hồn Khuất Nguyên. Ông khuyên hồnKhuất Nguyên chớ nên trở lại cõi trầnđầy bọn gian ác. Cũng không nên trở vềthành Yên Thành Dĩnh nước Sở, bởi lẽthành quách tuy vẫn không đổi nhưnglòng dân thay đổi rồi: ra đường thời xeto ngựa lớn, về nhà thì chễm trệ vênhvang. Nói toàn truyện yên dân trị nướcchẳng khác gì ông Cao ông Qùy thời vuaNghiêu vua Thuấn, lại khéo dấu nanhdấu vuốt ngoài mặt, tuy trong lòng thì ănthịt uống máu người không tanh. Hồnthấy không mấy trăm châu đất Hồ Namđó, chẳng thấy ai có da có thịt chỉ thấy

nguời gầy dơ xương. Hồn ơi! Hồn ơi!Giữ đường ấy, thì từ Tam Hoàng về sauchẳng còn hợp thời. Sớm lo mà về vớithái cực. Đừng trỏ lại đất này cho ngườiđời mỉa mai. Người người đều làThương quan, đâu đâu cũng là dòngMịch La. Rồng cá không nuốt thì hùmsói chẳng tha. Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làlàm sao!

Những hình ảnh cõi trần thế, Nguyễn Duđưa ra để khuyên hồn Khuất Nguyênsớm về với thái cực, đừng trở trần giandường như là những hình ảnh tiêu biểucho sự độc ác của cảnh ganh ghen trênhoạn lộ, thời nào cũng có, ở đâu cũng cókhông riêng gì thời Khuất Nguyên,không riêng gì tại triều đình Sở HoàiVương. Người đọc thấy dường nhưNguyễn Du không chỉ riêng nói với hồnKhuất Nguyên mà dường như ông nóivới chính ông, sao không sớm rút chânra khỏi vòng cuơng tỏa mà về vui thúyên hà.

Mạch thơ Nguyễn Du, bàn về cái chết côtrung của Khuất Nguyên, còn có nhữnghình ảnh mới, như ông dùng trong haibài kế tiếp bàn về Giả Nghị, một danh tàiđời Hán, cũng gặp cảnh khó khăn trênhoạn lộ như Khuất Nguyên, nhưng cómột phản ứng đối ngưọc với cái chết côtrung của Khuất Nguyên.

Bài thứ nhất là bài:

辯 賈Biện Giả

不 涉 湖 南 道

Bất thiệp Hồ Nam đạo

安 知 湘 水 深

An tri Tương Thủy thâm

不 讀 懷 沙 賦

Bất độc Hoài Sa phú

Page 109: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

安 識 屈 原 心

An thức Khuất Nguyên tâm

屈 原 心 湘 江 水

Khuất Nguyên tâm Tương Giang thủy

千 秋 萬 秋 清 見 底

Thiên thu vạn thu thanh kiến để

古 今 安 得 同 心 人

Cổ kim an đắc đồng tâm nhân

賈 生 一 賦 徒 為 耳

Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ

烈 女 從 來 不 二 夫

Liệt nữ tòng lai bất nhị phu

何 得 栖 栖 相 九 州

Hà đắc thê thê tướng cửu châu

未 必 古 人 知 有 我

Vị tất cổ nhân tri hữu ngã

眼 中湘 水 空 悠 悠

Nhãn trung Tương Thủy không du du.

dịch là:

Bác Giả Nghị

Hồ Nam chưa tỏ nẻo vàoTương Giang sao biết khúc nào sâu nông

Hoài sa phú chửa làu thôngLàm sao hiểu nổi tấc lòng Khuất Nguyên

Nước sông Tương lòng Khuất NguyênMột làn trong suốt một niềm thanh tao

Lấy ai ý hợp tâm đầuLời văn Giả Nghị khó vào lọt tai

Hai chồng liệt nữ chẳng aiThì sao đi chín châu ngoài tìm vua

Nguời xưa nào biết có taTương Giang trước mắt bóng tà nước trôi.

Giả Nghị, người đất Lạc Dương, ngoàihai mươi tuổi đã là một Bác Sĩ nổi tiếng,giữ chức Thái Trung Đại Phu trong triềuHán Văn Đế. Bị gièm đầy ra làm tháiphó cho Trưòng Sa Vương. Khi đi quasông Tương ông có làm một bài phúviếng Khuất Nguyên để nói tâm sựmình.

Bốn câu dầu Nguyễn Du tỏ ý nghi ngờmối đồng diệu giữa Giả Nghị vả KhuấtNguyên.

Theo Nguyễn Du, từ ngàn xưa lòngKhuất Nguyên trong suốt như dòng sôngTương nhìn thấu đáy. Xưa nay khó tìmđưọc ngưòi đồng tâm. Lời Phú Giả Nghịcó câu mà giới nghiên cứu dịch là: ‘đichín châu mà tìm vua. Hà tất phải bámlấy cố đô ấy’. Nguyễn Du không đồng ývới Giả Nghị về điểm này, ông cho rằngliệt nữ không ai lấy hai chồng, thì saonam tử lại đi chín châu tìm vua mới?Ông kết luận rằng chưa chắc người xưabiết có ông, trước mắt ông là dòng SôngTương nước chẩy lững lờ

Rồi tới bài:

長 沙 賈 太 傅Trường Sa Giả Thái Phó

絳 灌 武 人 何 所 知

Giáng Quán vũ nhân hà sở tri

孝 文 澹 泊 憚 更 為

Hiếu Văn đạm bạc đạn canh vi

立 談 不 展 平 生 學

Lập đàm bất triển bình sinh học

事 職 何 妨 去 死 悲

Sự chức hà phương chí tử bi

天 降 其 才 無 用 處

Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ

日 斜 異 物 有 來 時

Nhật tà dị vật hữu lai thì

湘 潭 咫 尺 相 鄰 近

Tương Đàm chỉ xích tương lân cận

千 古 相 逢 兩 不 違

Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.

dịch là:

Thái Phó Họ Giả Đất Trường Sa

Võ biền Giáng Quán biết chi

Page 110: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hiếu Văn chính sự dễ gì đổi thayViệc bàn sơ khó rõ tài

Chết vì việc nước miệt mài đáng thươngTài cao chẳng có đất dùng

Chẳng màng cú báo điềm hung chiều tànXa gần gang tấc Tương Đàm

Tương phùng dầu cách ngàn năm chẳng vì

Thái Phó họ Giả đất Trưòng Sa là têngọi Giả Nghị, khi bị đi đầy làm thái phócho Lương Hoài Vương ở đất TrưòngSa.

Giáng, Quán là Chu Bột và Quán Anh,cả hai là võ tướng, và đều đuợc Hán VănĐế trọng dụng. Vì Hiếu Văn nghe haingưòi này không thay đổi việc triếuchính theo lời Giả Nghị mà còn đầy GiảNghị ra Trưòng Sa làm thái phó choLưong Hoài Vưong.

Hai câu thứ ba và thứ tư ghi tại truyệngặp khó khăn khi làm Thái Phó choLương Hoài Vương, Đó là truyện HoàiVưong ngã ngựa chết, khiến ông tự buộctội mình không can ngăn được HoàiVương để xẩy ra tai nạn, vì thế buồn bựcmà chết, khi mới ba mươi ba tuổi.

Câu năm và sáu Nguyễn Du tiếc cho GiảNghị có tài cao mà không có vua giỏidùng và buổi chiều có con cú bay vàotrong nhà báo điềm hung cho Giả Nghị.

Hai câu kết, Nguyễn Du dùng hình ảnhkhúc sông Tương Đàm, nơi Giả Nghị từtrần gần với khúc sông Mịch La nơiKhuất Nguyên tự trầm để cho thấy GiảNghị cũng có điểm giống với KhuấtNguyên.

Qua hai bài thơ cùng khởi hứng bằnghình ảnh Giả Nghị, Nguyễn Du nhìnthấy hai mặt khác nhau của Giả Nghị.Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho rằnglập luận rằng phải đi chín nưóc để tìmvua giỏi mà thờ là bổn phận của nam nhitài cao là điều Giả Nghị không hiểuKhuất Nguyên. Sang bài thứ hai, nghĩ

mình can vua không nổi mà chết thì GiảNghị lại giống hệt Khuất Nguyên.

Người đọc còn thấy dường như, qua thơNguyễn Du, cả Giả Nghị và KhuấtNguyên cùng đáng thưong. Cả hai cùngtự buôc mình vào chữ danh trên hoạn lộ,khiến cả hai cùng phải chết tha phươngvì lời gièm pha.

Sứ bộ tiếp tục cuộc hành trình. Trởi đổimùa sang thu, tạo hứng cho Nguyễn Duviết hai bài dưói cùng một đề:

初 秋 感 興Sơ Thu Cảm Hứng

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

蕭 蕭 木 落 楚 江 空

Tiêu tiêu mọc lạc Sở giang không

無 限 傖 心 一 夜 空

Vô hạn thương tâm nhất dạ không

白 髮 生 僧 班 定 遠

Bạch phát sinh tăng Ban Định Viễn

玉 門 關 外 老 秋 風

Ngọc môn quan ngoại lão thu phong.

其 二

Kỳ Nhị

江 上 西 風 木 葉 稀

Giang thượng tây phong mộc diệp hy

寒 蟬 終 日 噪 高 枝

Hàn thiền chung nhật táo cao chi

其 中 自 有 清 商 調

Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu

不是 愁 人不 許 知

Bất thị sầu nhân bất hứa tri.

Page 111: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dịch là:

Cảm Hứng Đầu Thu

Hai Bài

IĐìu hiu sông Sở lá bay

Lòng đau vô hạn đêm dài nhớ thươngChàng Siêu tóc trắng như sương

Gió thu ngoài Ngọc Môn Quan dạt dào.

II

Gió thu đầu bến lá bayCành cao ra rả suốt ngày ve thanTiếng ve lẫn điệu Thanh Thưong

Chưa qua cầu nỗi đoạn trường nào hay.

Sau năm bài liền ghi đậm nét tư duy, haibài cảm hứng đầu thu trên đây như đưangưòi thơ về với thực cảnh. Điều bất ngờlà nỗi nhớ nhà dường như chợt trở lạivới tác giả. Ông ví cảnh đi sứ của ôngvới cảnh của Ban Siêu, em của sử giaBan Cố, ngưòi mang quân đi chinh phụcmấy nước vùng Tây vực, miệt ngoài ảiNgọc Môn Quan, suốt ba mươi năm mớiđược về. Nỗi đoạn trường này ai có quacầu mới hay.

Sự bộ vào tới vùng Trung Nguyên TrungQuốc, đem thi hứng mới tới cho NguyễnDu viết một loạt bài liên quan tới Sử cổTrung Quốc. Bắt đầu là bài:

楚 望Sở Vọng

荊 襄 千 里 古 名 都

Kinh Tương thiên lý cổ danh đô

一半 襟 江 一 帶 湖

Nhất bán khâm giang nhất đái hồ

天 假 富 強 供 百 戰

Thiên giả phú cường cung bách chiến

地 留 缺 陷 限 三 吳

Địa lưu khuyết hãm hạn Tam Ngô

秋 風 落 日 皆 鄉 望

Thu phong lạc nhật giai hương vọng

流 水 浮 雲 失 霸 圖

Lưu thuỷ phù vân thất bá đồ

孫 索 劉 分 何 處 在

Tôn sách Lưu phân hà xứ tại

蒼 然 一 望 盡 平 蕪

Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu.

dịch là:

Ngoái Nhìn Đất Sở

Kinh Tương ngàn dặm danh đôNửa sông soi bóng nửa hồ bao quanh

Cho giầu mạnh nuôi chiến tranhTam Ngô sông nước phân ranh hận thù

Nhớ quê gió đổ chiều thuBá đồ mây nôi mịt mù nước trôi

Tôn đòi Lưu cắt đâu nơiMột vùng cỏ biếc một trời mây xanh.

Cũng như trong nhiều bài truóc, NguyễnDu dùng địa danh thời chiến Quốc.Nước Sở mà ông nói đây gồm vùng đấtHồ Nam ngưọc lên tới Hồ Bắc ngày nay.Kinh Tương là tên hai châu lớn của nuớcSở.

Tam Ngô là vùng đất nhiều sông hồ gồmNgô Hưng, Ngô Quận và Cối Kê, thuộcđất Ngô, thời Tam Quốc. Cảnh sông hồdùng làm ranh giới này dục Nguyễn Dunhớ quê. Phải chăng ông liên tưỏng tớidòng sông Gianh phân chia Đàng Trongvới Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn tranhhùng?

Rồi ông tự hỏi truyện Ngô Thục tranhdành đất đai nay còn dấu vết ở đâu?Trưóc mắt, ông chỉ thấy trời xanh cỏbiếc.

Tiếp theo là hai bài ông viết về Đỗ Phủ,một nhà thơ Trung Quốc mà ông tâmphục:

Page 112: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

耒 陽 杜 少 陵 墓Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

千 古 文 章千 古 師

Thiên cổ văn chương thiên cổ sư

平 生 佩 服 未 常 離

Bình sinh bội phục vị thường ly

耒 陽 松 柏 不 知 處

Lỗi Dương tùng bách bất tri sứ

秋 浦 魚 龍 有 所 思

Thu phố ngư long hữu sở tư

異 代 相 憐 空 灑 淚

Dị đại tương liên không sái lệ

一 窮 至 此 豈 工詩

Nhất cùng chí thử khởi công thi

掉 頭 舊 症 醫 痊 未

Trạo đầu cựu chúng y thuyên vị

地 下 無 令 鬼 輩 嗤

Địa hạ vô linh quỷ bối xi

其 二

Kỳ Nhị

每 讀 儒 冠 多 誤 身

Mỗi độc nho quan đa ngộ thân

千 年 一 哭 杜 陵 人

Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân

文 章 光 燄 成 何 用

Văn chương quang diệm thành hà dụng

南 女 呻 吟 不 可 聞

Nam nữ thân ngâm bất khả văn

共 羨詩 名 師 百 世

Cộng tiễn thi danh sư bách thế

獨 悲 異 域 寄 孤 墳

Độc bi dị vực ký cô phần

扁 舟 江 上 多 秋 思

Biên chu giang thượng đa thu tứ

悵 望 耒 陽 日 暮 雲

Trướng vọng Lỗi Dưong nhật mộ vân.

dịch là:

Mộ Đỗ Thiếu Lăng Tại Lỗi Dương

Hai bài

I

Văn chưong vạn cổ bậc thầyTrọn đời khâm phục bấy nay chẳng dời

Lỗi Dương thông bách đâu rồiBến thu rồng cá nhớ người thơ xưa

Thuơng nhau lệ rỏ như mưaCảnh cùng khổ há vì thơ ghẹo người

Bệnh trạo đầu còn hay thôiSuối vàng chớ để quỷ cưòi ma chê.

II

Đọc câu mũ mãng lụy thânNgười xưa Đỗ Phủ một lần xót thương

Ích gì cái nghiệp văn chươngĐàn con nheo nhóc coi thường được chăng

Thầy thơ muôn thủa ai bằngThân tàn đất khách bên đàng vùi nông

Ý thu dào dạt thuyền buôngLỗi Dưong xa thẳm buồn trông mây chiều.

Giới nghiên cứu cho biết là Đỗ ThiếuLăng là Đỗ Phủ (712-770) nhà thơ tiếngtăm nhất nhì đời Đường. Vì có nhà đấttại Thiếu Lăng, ở phía nam Trường An,nên lấy biệt hiệu là Thiếu Lăng.

Theo tiểu sử, thì Đỗ Phủ từ trần trên mộtcon thuyền ở phía thương nguồn sôngTương. Lúc đó gia dình ông sống trongcảnh nghèo nàn, không mang thi hài vềquê an táng được, nên chôn tạm tại NhạcChâu. Hơn bốn chục năm sau (813) cháuông là Đỗ Tụ Nghiệp mới dời mộ vềYên Sư, táng dưới chân núi Thú Dương,tỉnh Hà Nam, gần bên mộ tổ tiên. Tuy

Page 113: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

vậy tại Lỗi Dương cũng có một ngôi mộgiả, do huyện ệnh Lỗi Dương, ngưòi họNhiếp, xây để kỷ niệm nhà thơ.

Cũng như đối với nàng Tiểu Thanh, quabài Tiểu Thanh Ký, trong Thanh HiênThi Tập, Nguyễn Du cảm thấy như ĐỗPhủ là một người tri kỷ với ông, vì cùnggặp cảnh cùng quẫn như nhau, khiến ôngtự hỏi phải chăng vì cả hai cùng là nhàthơ mà gặp khó như nhau? Ông hỏi thămchứng bệnh trạo đầu của Đỗ Phủ đãgiảm chưa, vì e xuống suối vàng làm tròcười cho ma quỷ.

Trong bài thứ hai, Nguyễn Du cho biếtlà mỗi lần ông đọc tới câu nho quan đangộ thân, dịch nôm là cái mũ nhà nholàm lụy thân, của Đỗ Phủ, ông lại thấythương Đỗ Phủ, tuy rằng hai người sốngở hai thời đại cách nhau cả ngàn năm.Hai câu ba và bốn, ông nhắc tới cảnhcùng quẫn của Đỗ Phủ, mà cũng là cảnhthiếu thốn của chính ông ngày tản cư vềQuỳnh Côi, con cái nheo nhóc, văn thơkhông biết dùng làm gì.

Ai cũng khen thi tài của Đỗ Phủ, riêngông thương Đỗ Phủ chết nơi đất kháchquê người, xác vùi nông bên đường. Ýthu về với con thuyền thu của NguyễnDu, vời trông về Lạc Dương chỉ thấymây chiều.

Thế rồi sứ bộ tới Tương Âm, một huyệnlỵ nhỏ thuộc tỉnh Hồ Nam. Khúc sôngTương này, gần với nơi Khuất Nguyênđi đầy, gần với khúc sông Mịch La nơiKhuất Nguyên tụ trầm. Nguyễn Du khởihứng viết một bài thơ, bài này là bài thứsáu và là bài cuối cùng bàn tới cái chếtcủa tác giả Ly Tao. Đó là bài:

湘 陰 夜Đêm Tương Âm

滿 目 皆 秋 色

Mãn mục giai thu sắc

滿 江 皆 月 明

Mãn giang giai nguyệt minh

寂 寥 今 夜 望

Tịch liêu kim dạ vọng

遷 謫 故 人 情

Thiên trích cố nhân tình

秋 水 從 西 來

Thu thuỷ tòng tây lai

茫 然 通 洞 庭

Mang nhiên thông Động Đình

靜 夜 息 吟 嘯

Tức dạ tức ngâm khiếu

毌 使 蛟 龍 驚

Vô sử giao long kinh.

dịch là:

Đêm Tương Âm

Sắc thu lồng lộng đầy trờiTrăng soi vàng vặc nước trôi một dòng

Canh trường vắng lặng vời trôngTình người thiên trích bên lòng sắt se

Từ miệt tây nưóc đổ vềĐộng Đình nước trắng bốn bề mông mênh

Thơ ngâm e rộn đêm thanhE làm kinh động long kình đáy sông.

Nguyễn Du dùng hình ảnh người thiêntrích, tức ngưòi đi đầy để gợi lên hìnhảnh Khuất Nguyên, giữa cảnh trời nưócmênh mông đêm Tương Âm. Ông ngưngcả ngâm thơ sợ làm kinh động đêmthanh e làm rộn đến Khuất Nguyên yênnghỉ dưói đáy sông đâu đây. Ngưòi đọcthơ tự hỏi là phải chăng cái đẹp cụa thiênnhiên trong Tưong Âm nas2y đã lànNguyễn Du, dầu nhớ tới Khuất Nguyêncũng không muốn bàn tói hai chữ côtrung, của người xưa.

Đến huyện lỵ Nhạc Dương, Nguyễn Ducó dịp lên lầu Nhạc Dương và viết bài:

Page 114: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

登 岳 陽 樓Đăng Nhạc Dương Lâu

危 樓 峙 高 岸

Nguy lâu trĩ cao ngạn

登 臨 何 壯 哉

Đăng lâm hà tráng tai

浮 雲 三 楚 盡

Phù văn Tam Sở tận

秋水 九 江 來

Thu thủy Cửu Giang lai

往 事 傳 三 醉

Vãng sự truyền tam túy

故 鄉 空 一 涯

Cố hương không nhất nhai

西 風 倚 孤 檻

Tây phong ỷ cô hạm

鴻 雁 有 餘 哀

Hồng nhạn hữu dư ai.

dịch là:

Lên Lầu Nhạc Dương

Lầu cao sừng sững bên bờLên cao nhìn xuống cảnh thơ bốn bề

Mịt mờ Tam Sở mây cheCữu Giang nưóc lũ đổ về hồ thu

Tỉnh say ba bận truyện xưaQuê nhà khoảng trống mịt mù chân mây

Song bồng hiu hắt gió tâyVẳng nghe tiếng nhạn vơi đầy sầu vương.

Lầu Nhạc Dương do Trương Tuyệtngười đời Đường xây bên bờ hồ ĐộngĐình, trên đất huyện Nhạc Dưong. TamSở là tên gọi ba phần dất nước Sở: TâySở, Đông Sở và Nam Sở, nay thuộc batỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc và Triết Giang.từ trên lầu nhìn ra xa Tam Sở chìm trongmây, trước mặt là cảnh chín dòng sôngđổ vào hồ Động Đình. Truóc cảnh thiênnhiên hùng vỹ này,ông nhớ tới Lữ Nhamtức Lã Đồng Tân, người Đời Dưòng,mộttrong bát tiên quá hải, tám người tu Đạo

Giáo thành tiên, ba lần bay ngang hồĐộng Đình trong cơn say,đồng thòi quay nhìn về phía quê nhà chỉthấy một khoảng trống trên chân trời.Đứng bên cửa`sồ thuyền chì thấy gió tâythôi, nghe ngang trời có tiếng nhạn gâybuồn.

Tiếp tới là cảnh và tình bên lầu HoàngHạc, Nguyễn Du ghi lại trong bài:

黃 鶴 樓Hoàng Hạc Lâu

何 處 神 仙 經 幾 時

Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì

猶 留 仙 跡此 江 湄

Do lưu tiên tích thử giang mi

今 來 古 往 盧 生 夢

Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng

鶴 去 樓 空 崔 顥 詩

Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi

檻 外 湮 波 終 渺 渺

Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu

眼 中 草 澍 尚 依 依

Nhãn trung thảo thụ thưọng y y

衷 情 無 限 憑 誰 訴

Trung tình vô hạn bằng thùy tố

明 月 清 風 也 不 知

Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

dịch là:

Lầu Hoàng Hạc

Thần tiên giáng xuống thủa nàoDấu tiên còn đó dạt dào sông trôi

Mộng Lư sinh đã bao đờiHạc bay lầu trống họ Thôi thơ đề

Song ngoài khói sóng sắt seCỏ cây trưóc mắt bốn bề như xưa

Chẳng ai giãi tỏ tình taGió đưa hờ hững trăng ngà thờ ơ.

Page 115: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Theo dòng thơ của nhà thơ Đưòng ThôiHiệu, trong hai câu kết bài Tương GiangDạ Bạc, Nguyễn Du đã dùng hình ảnhHoàng Hạc Lâu, để gợi tình nhớ quê.

Cổ tích ngưòi tiên Tử An cỡi hạc vàngghé chơi lầu thành tên Hoàng Hạc Lâu,là truyện không rõ thật hư. Nhưng Lầuvẫn còn mang nét bút Thôi Hiệu đề thơ.Khói sóng trên mặt sông, cây cỏ bên bờsông vẫn như xưa. Nỗi nhớ nhà ThôiHiệu giãi tỏ trong hai câu kết cũng làniềm nhớ quê hương của Nguyễn Du,khiến lúc này ông thấy như Thôi Hiệu làngưòi tri kỷ với ông, ngoài ra không cònbiết ai để giãi tỏ tâm sụ, trăng thanh giómát cũng không làm ông nguôi.

Nguời đọc thơ Nguyễn Du như thấy nỗinhớ nhà trở lại vớì ông, nhưng khôngcòn là nỗi nhớ nhà sôi bỏng ước mongđược về quê cũ như trong những bài ôngviết trong Thanh Hiên Thi Tập hay NamTrung Tạp Ngâm. Nỗi nhớ nhà ông nóitrong bài này như pha lẫn với cảnh thiếubạn hiện thời của ông. Ông mong có bạnđể giãi tỏ tâm sự hơn là muốn về quê.

Nguyễn Du dùng hình ảnh lầu HoàngHạc làm thi liệu,lần thứ ba, trong bài:

漢 陽 晚 眺Hán Dương Vãn Diểu

霸 王 陳 跡 屬 悠 悠

Bá vương trần tích thuộc du du

漢 水 滔 滔 晝 夜 流

Hán thủy thao thao trú dạ lưu

歸 鶴 兩 山 相 對 岸

Quy hạc lưỡng sơn tương đối ngạn

神 仙 一 去 只 空 樓

Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu

詩 成 草 樹 皆 千 古

Thi thành thảo thụ giai thiên cổ

日 暮 鄉 關 共 一 愁

Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu

想 像 當 年 吹 笛 夜

Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ

白 蘋 紅 蓼 滿 汀 洲

Bạch tần hồng liệu mãn đinh châu.

dịch là:

Cảnh Chiều Hán Dương

Bá vương dấu tích phai rồiNgày đêm dòng Hán nước trôi chẳng ngừng

Đôi bờ Quy Hạc trùng trùngThần tiên bay khuất lầu không đứng chờ

Ngàn năm cây cỏ thành thơSầu chung một mối tơ vò nhớ quê

Canh dài tiếng sáo tỉnh mêLiệu hồng tần trắng nhớ vê bến sông.

Giới nghiên cứu cho biết là thành HánDương, đối diện vói Vũ Xương nơi cólầu Hoàng Hạc. Thành này ỏ ngay chỗdòng Hán Thủy và dòng Trường Gianghợp lưu. Hai rặng núi Quy Sơn và HạcSơn ở hai bên bờ sông Dương Tử đốidiện nhau. Câu thứ tư Nguyễn Du lấy ýtứ câu đầu bài Hoàng Hạc Lâu của ThôiHiệu 18, một trong nhũng bài thơ Đườngquen biết nhất của ngưòi Việt Nam,nguyên văn như sau:

黃 鶴 樓Hoàng Hạc Lâu

昔 人 已 乘 潢 鶴 去

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

此 地 空 餘 黃 鶴 樓

Thử địa không dư hoàng hạc lâu

黃 鶴 一 去 不 復 返

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

白 雲 千 載 空 悠 悠

Bạch vân thiên tải không du du

18Đường Thi Tam Bách Thủ, sách đã dẫn, tr.182.

Page 116: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲

Phương thảo thê thê anh vũ châu

日 暮 鄉 關 何 處 是

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

湮 波 江 上 使 人愁

Yên ba giang thưọng sứ nhân sầu.

dịch là:

Hoàng Hạc Lâu

Hạc vàng người cỡi đi đâuĐể trời đất Hoàng Hạc Lâu não nề

Hạc vàng bay vút không vềNgàn năm mây trắng bộn bề nhớ thương

Mướt xanh cây bến Hán DươngCỏ bờ anh vũ đưa hương ngạt ngào

Chiều tà quê cũ nơi naoLòng sông khói sóng đớn đau dạ người.

Trở lại bài Hán Dưong Vãn Diểu củaNguyễn Du, ngưòi đọc nhận thấy trongba câu đầu, Nguyễn Du mô tả địa thếquanh Hán Dương, với dòng Hán Thủy,với những rặng núi Quy, núi Hạc. Câuthứ tư tóm tắt thoại hạc vàng ghé lầuHoàng Hạc. Câu thứ năm của NguyễnDu cô đọng hai câu bốn và năm trongbài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, đốngthời ngợi khen thi tài của nhà tho đờiĐường đã làm cho cây bến Hán Hươngvà cỏ bò Anh Vũ ngàn năm còn xanhtươi thơm ngát trong thơ.

Hai câu chót của Thôi Hiệu gợi lên nỗinhớ nhà, đã khiến Nguyễn Du tìm thấytrong thơ Thôi Hiệu một người tri kỷ.

Hai câu kết của Nguyễn Du gợi chongười nghe một tiếng sáo và giấc mơđược từ quan về nghỉ hưu vui cùng liệuhồng tần trắng. Có người cho rằng tiếngsáo trong mơ của Nguyễn Du là tiếngsáo trong lầu Hoàng Hạc theo câu thocủa Ly Bạch:

黃 鶴 樓 中 吹 玉 笛

Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch

nghĩa là:

Lầu Hoàng Hạc sáo thoảng đưa

khiến Nguyễn Du muờng tượng đếnngày được về quê xưa.

Rồi sứ bộ lại lên đường đi Nhiếp Khẩu,và Nguyên Du ghi cảnh bên đường trongbài:

灄 口 道 中Nhiếp Khẩu Đạo Trung

秋 滿 楓 林 霜 葉 紅

Thu mãn phong lâm thu diệp hồng

小猾19 嗥 出 短 籬 東

Tiểu oa hào xuất đoản ly đông

數 畦 秫 20 稻 雞 豚 外

Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại

一 帶 茅 茨 楊 柳 中

Nhất đái mao từ dương liễu trung

鴻 嶺 隔 年 虛 宿 夢

Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng

白 頭 千 里 起 秋 風

Bạch đầu thiên lý khỏi thu phong

茫 然 不 辨 還 鄉 路

Mang nhiên bất khởi hoàn hương lộ

觸 目 浮 雲 處 處 同

Xúc mục phù vân xứ xứ đồng

dịch là:

19chữ 猾 mọi tự diển thông dụng đọc là

hoạt,nghĩa là gian xảo. Mai Quốc Liên và Đào DuyAnh đọc là oa, tuy nhiên trong tự điẻn của ông vẫn đọc là hoạt. Chờ giới nghiên cứu giải đáp.20

chữ 秫 tự điển thông dụng đọc là thuật. tạm đọc

theo mai Quốc Liên là canh. Chờ giải đáp.

Page 117: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Trên Đường Nhiếp Khẩu

Rừng phong nhuộm đỏ sương thuThoáng nghe chó nhỏ gầm gừ rào đông

Mai tranh ẩn bóng thùy dưongĐồng ngoài cấy nếp chuồng trong lợn gà

Mộng về Hồng Lĩnh thu quaBạc dầu lận đận ngàn xa thu này

Quê hương ở nẻo nào đâyNgoái nhìn nẻo nẻo khuất sau mây mịt mù.

Nhìn rộng trưóc mặt, Nguyển D thấy cảmột cánh rù đỏ lá mùa hu. Bên đưòngcon chó nhò gầm gừ sau hàng rào. Máitranh núp bóng thùy dương, với thủaruộng cấy nếp ngoài rào, chuồng nuôi gàlọn trong rào. Ông nhó lại mùa thu quađã xin về hưu, mùa thu này ông còn lậnđận ngàn xa với mái đầu bạc tráng. Haicâu kết dưòng như gợi lại hai câu kết bàiHoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: Ôngkhông còn biết quê hương ờ nẻo nào,khắp chân trời mây phủ kín.

Tiếp theo, sứ bộ dưòng như nghỉ chânđêm qua tại trang trại một ông họ Lý,sáng nay lại tiếp tục hành trình từ sớmmai. Cảnh khởi hành lật đật này là thicảnh để Nguyễn Du ghi trong bài dướiđây:

李 家 寨 早 發Lỳ Gia Trại Tảo Phát

曉 色 何 蒼 芒

Hiểu sắc hà thưong mang

初 日 隱 山 腹

Sơ nhật ẩn sơn phúc

路 上 人 既 行

Lộ thượng nhân ký hành

枝 頭 鳥 猶 宿

Chi đầu điểu do túc

萬 古 一 紅 塵

其 中 皆 碌 碌

Kỳ trung giai lục lục

犬 噬 竹 扴 中

Khuyển phệ trúc thôn trung

定 有 高 人 室

Định hữu cao nhân ốc.

dịch là:

Sáng Sớm Từ TrạiNhà Họ Lý Ra Đi

Sớm mai còn nhọ mặt ngườiSuờn non mây phủ mặt trời chưa lên

Tiếng chân rộn rã ngõ bênTrên cành chim chóc ngủ yên cả bầy

Đường đời muôn thủa bụi bayNgưòi ngưòi tất tưởi đêm ngày ngược xuôi

Lũng cao chó sủa từng hồiCó nhà ần sĩ trốn đời nơi đây.

Sứ bộ lên dường rất sớm, trước khi mặttrời mục, lúc còn tranh tối tranh sángchưa nhìn rõ mặt người, tiếng chân buớcrộn rạ ngoài ngõ, trước khi chim thựcdậy trên cây. Trong cảnh tất tưởi ngượcxuôi đó, nghe tiếng chó sủa, ông tưởngtói cảnh thanh nhàn của cao nhân ẩn sĩmà khát khao mơ ước.

Tiếp theo nguyễn Du ghi lại thi cảnh củaCửa quan Vũ Tháng khi sứ đoàn vào tớicửa nam thành Hà Nam, trong bài:

武 勝 關Vũ Thắng Quan

谷 口 雄 關 武 勝 名

Cốc khẩu hùng quan Vũ Thắng danh

古 時 此 地 限 蠻 荊

Cổ thời thử địa hạn Man Kinh

一 丘 不 設 自 雄 壯

Nhất khâu bất thiết tự hùng tráng

百 載 承 平 無 戰爭

Bách tải thừa bình vô chiến tranh

半 日 澍 陰 隨 馬 背

Page 118: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bán nhật thụ âm tùy mã bối

十 分 秋 意 到 蟬 聲

Thập phần thu ý đáo thiền thanh

傖 心 千 里 一 回 首

Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ

滿 目 楚 山 無 限 青

Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh.

dịch là:

Ải Vũ Thắng

Của quan Vũ Thắng hùng danhXưa kia giữ đất Man Kinh lẫy lừng

Chẳng đóng quân vẫn oai hùngThái bình một thủa hưởng chung khắp miền

Nửa ngày ròng rã trên yênTiếng thu lẫn tiếng ve than não nùng

Bùi ngùi ngàn dặm ngoái trôngBiếc xanh non Sở trùng trùng núi cao.

Bốn câu đầu tác giả văn tắt ghi lại sụ tíchải Vũ Thắng, thời Chiến Quốc. Bốn câusau, tác giả nói tói nỗi vất vả ngồi trênyên ngựa nủa ngày trời. Trong lòng buồnbuồn vì nghe tiếng thu lẫn tiếng ve. Haicâu kết it nhiều nhắc tới, một lần nũa ýthơ trong hai câu kết bài Hoàng Hạc lâucủa Thôi Hiệu.

Qua ải Thắng Quan, sừ bộ vào tới đấthuyên Tín Dương, Nguyễn Du ghi lại thicảnh Tín Dương trong bài:

信 陽 即 事Tín Dương Tức Sự

河 南 首 信 陽

Hà Nam thủ Tín Dương

天下此 中 央

Thiên hạ thử trung ương

片 石 存 申 國

Phiến thạch tồn Thân quốc

重 山 限 楚 彊

Trùng sơn hạn Sở cương

馬 鳴 思 飼 食末

Mã minh tư tự mạt

民 食 半 枇 糠

Dân thực bán tì khang

白 髮 秋 何 限

Bạch phát thu hà hạn

西 風 遍 異 鄉

Tây phong biến dị hương.

dịch là:

Tín Dương Tức Sự

Tín Dương đầu cõi Hà NamNơi đây thiên hạ trung tâm hằng đồn

Đá ghi Thân Quốc chưa mònCõi bờ nước Sở núi non bạt ngàn

Lúa ngon ngựa hí đòi ănBát cơm độn tấm người dân lót lòng

Tóc sương thu tứ mênh môngGió tây xào xạc tha hương thu về.

Cũng như trong nhiều bài trước, bốn câuđầu bài Tín Dưong, Nguyễn Du cũngnhăác lại cổ sử của thành Tín Dương.Thời nhà Chu, Hà Nam đưọc coi làTrung Tâm thiên hạ. Nước Thân là mộtnuớc nhỏ do nhà Chu lập ra để phongcho con cháu Bá Di, Thúc Tề.

Bốn câu tiếp, Nguyễn Du ghi lại sựchênh lệch trong đời sống hàng ngày tạiTrung Quốc thời đó: ngụa nuôi bằng lúangon, dân ăn cơm độn tấm. Trong haicâu kết ông tự thương mình đầu đã bạc,gió tây thổi, thu về, thân còn trên đấtkhách.

Hai câu kết trên đây, là hứng thơ củaNguyễn Du trong bài tứ tuyệt tiếp theo:

偶 興Ngẫu Hứng

信 陽 城 上 動 悲 笳

Tín Dưong thành thượng động bi già

Page 119: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

秋 滿 河 南 百 姓 家

Thu mãn Hà Nam bách tính gia

萬 里 鄉 心 回 首 處

Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ

白 雲 南 下 不 勝

Bạch vân thăng hạ bất thăng đa.

dịch là:

Ngẫu Hứng

Tiếng kèn ảo não Tín DươngHà Nam trù mật bốn phương thu về

Dặm ngàn ngoái lại nhớ quêÙn ùn mây trắng bộn bề miệt nam.

Chữ bạch vân trong câu thứ tư đưangười đọc thơ Nguyễn Du về câu:

白 雲 千 載 空 悠 悠

Bạch vân thiên tải không du du

trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.

Người đọc thơ tự hỏi: phải chăng ThôiHiệu là tri kỷ của Nguyễn Du qua mốitình quê, Thôi Hiệu thành nguời bạnđường an ủi chia xẻ nỗi nhớ quê vớiNguyễn Du?Lên tới phiá bắc thành Tín Dương,sừ bộqua sông Hoài, Nguyễn Du viết bài:

渡 淮 有 感 淮 陰 侯Độ Hoài Hữu Cảm Hoài Âm Hầu

尋 常 一飯 報 千 金

Tầm thường nhất phạn báo thiên kim

五 載 君 臣 分 誼 深

Ngũ tải quân thần phận nghị thâm

推 食 解 衣 難 背 德

Thôi thực giải y nam bối đức

藏 弓 烹 狗 亦 甘 心

Tàng cung phanh cẩu diệc cam tâm

百 蠻 溪 峒 留 苗 裔

Bách man khê động lưu miêu duệ

兩 漢 山 河 變 古 今

Lưởng Hán sơn hà biến cổ kim

惆 悵 江 頭 思 往 事

Trù trướng giang đầu tư vãng sự

斷 雲 衰 草 滿 淮 陰

Đoạn vân suy thảo mãn Hoài Âm.

dịch là:

Qua Sông Hoài Nhớ Hoài Âm Hầu

Bát cơm ân nghĩa vàng ngànVua tôi tình nặng nam năm sâu bền

Sẻ cơm nhưòng áo chưa quênTreo cung giết chó đảo điên trò đời

Man Khê nối dõi còn ngườiRiêng hai đời Hán đổi dời bao phen

Qua sông truyện cũ trạnh niềmHoài Âm cỏ áu mây đen mịt mù.

Giới nghiên cứu cho biết Hoài Âm Hầulà Hàn Tín, người đời Hán, người đấtHoài Âm, vốn là tướng của Hạng Võ.Sau nhò Tiêu Hà tiến cử, được LưuBang dùng làm tướng. Hàn Tín lập nhiềucông trạng, đươc vua Hán Cao Tổ liệtvào hàng công thần. Được pjong TềVương rồi Sở Vương. Rồi bị cáo là có ýlàm phản. Hán Cao Tổ gọi vê, giáng làmHoài Âm Hầu. Sau cùng bị lã Hậu giếtcả ba họ.

Câu thứ nhất bài Độ Hoài Hữu CảmHoài Âm Hầu, Nguyễn Du nhắc lạitruyện Hàn Tín, thủa còn hàn vi, nghèođói, được Phiếu Mẫu cho ăn một bửacơm. Khi làm Sở Vương Hàn Tín trả ơnbà Phiếu Mẫu ngàn vàng. Ba câu tiếptheo vànhắc lại ân tình giữa Hán Vươngvà Hàn Tín thi đại sự chua thành thìđược vua nhường cơm sẻ áo, khi vua lenngôi thì treo cung phanh chó. Câu thứnăm nhắc lại thoại Tiêu Hà và KhoáiTriệt, hai người bạn của Hàn Tín giấuđưọc một nàng hầu của Hàn Tín, lúc đóđang có mang, nên mặc dầu bị án cho diba họ, Hàn Tín cũng không bị tuyệt tự.

Page 120: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Trái lại, câu thứ sáu cho hay là sau haitriều Đông Hán và Tây Hán, núi sôngnhà Hán không còn tồn tại được với thờigian. Hai câu kết cho hay tác giả trênbến sông, ngẫm thế sự mà thương choHoài Âm Hầu.

Mối tư duy của Nguyễn Du về tươngquan giữa vua và công thần còn là thihứng của ông trong bài kế tiềp:

渡 淮 有 感 文 丞 相Độ Hoài Hữu Cảm Văn Thừa Tướng

山 河 風 景 尚 依 然

Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên

丞 相 孤 忠 萬 古 傳

Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền

一 渡 淮 河 非 故 宇

Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ

重來 江 左 更 何 年

Trùng lai Giang Tả cánh hà niên

哀 衷 觸 處 鳴 金 石

Ai trung xúc xứ minh kim thạch

怨 血 歸 時 化 杜 鵑

Oán huyết quy thời hóa đỗ quyên

南 北 只 今 無 異 俗

Nam bắc chí kim vô dị tục

夕 陽 無 限往 來 船

Tịch dương vô hạn vãng lai thuyền.

dịch là:

Qua Sông Hoài Nhớ Văn Thừa Tướng

Núi sông cảnh cũ y nguyênCô trung thừa tướng còn truyền ngàn thu

Qua Hoài Hà sa lưới thùNgày về Giang Tả mịt mù khôn hay

Xót thương vàng đá giãi bàyTiếng quyên hòn oán đắng cay âm thầm

Hội nay một mối Bắc NamChiều tà muôn vạn cánh buồm ngược xuôi.

Văn thừa tướng tức Văn Thiên Tường(1236-1282) hiệu Văn Sơn, người đờiTống. Khi quân nhà Nguyên đánh xuốngmiền nam, ông khởi binh kháng cự, đượcphong chức Hữu Thùa Tướng. Năm1278 ông bị quân Nguyên bắt giải vềBắc Kinh, giam ba năm, không chĩu khấtphục nên bị giết. Ông để lại Văn Sơntiên Sinh Toàn Tập lưu truyền tới nay.

Thoại kể rằng trong thời gian bị gian tạiYên Kinh, ông nghiền ngẫm thơ Đỗ Phủvà nói: ‘Phàm tôi muốn nói điều gì thìĐỗ Tử Mỷ đã nói thay tôi rồi.’ Có ngườicho vì thế mà Nguyễn Du, vốn cũngtrọng thơ Đỗ Phủ, nên có cảm tình tri kỷvới Văn Sơn.

Hoài Hà là khúc sông nằm trong đất haitỉnh Giang Tô và An Huy, và là ranhgiới gĩa quân nhà Kim với quân NamTống. Từ Hoài Hà trở lên phía Bác, khiđó thuộc về nhà Kim. Giang Tả là phầnđất ở phía tả ngạn sông Trường Giang,thòi đó là đất nhà Tống.

Hai câu kết, Nguyễn Du nói là nay bắcnam đã về một mối, thuyên bè qua lạitrên sông nhộn nhịp trong bóng chiều.Qua sông Hoài, sứ bộ vào đất Hà Nam,gặp kỳ nắng to. Nguyễn Du ghi lại hìnhảnh đoạn đường này như sau:

河 南 道 中 酷 暑Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử

河 南 秋 八 月

Hà Nam thu bát nguyệt

殘 暑 未 消 融

Tàn thử vị tiêu dung

路 出 涼 風 外

Lộ xuất lương phong ngoại

人 行 烈 日 中

Nhân hành liệt nhât trung

途 長 嘶 倦 馬

Page 121: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Đồ trường tê quyện mã

目 斷 滅 歸 鴻

Mục đoạn diệt quy hồng

何 處 推 車 漢

Hà xứ thôi xa hán

相 看 碌 碌 同

Tương khan lục lục đồng.

dịch là:

Nắng Gắt Trên Đường Hà Nam

Tiết thu tháng tám Hà NamNóng tan mà vẫn khốc tàn nấu nung

Ra đưòng đứng gió nóng hungNgười đi nắng đốt bừng bừng như rang

Đường dài ngựa mệt hí vangTrông vời cánh nhạn biệt tăm chưa về

Người xứ nào hỏi phu xeNhìn nhau vất vả đôi bề như nhau.

Bốn câu đầu Nguyễn Du ghi lại cái nóngthiêu đốt vào tháng tám tại Hà Nam, rangoài đưòng cũng khôngb thấy gió, đingoài nắng thì nóng nhu thiêu đốt. Bốncâu sau Nguyễn Du ghi lại sinh hoạt củasứ bộ. Đường dài ngựa mệt hý vang.Trông thư không thấy đến,tác giả phải gợi truyên làm bạn vớingưòi đánh xe. Hai người nhìn nhau chiaxẻ nỗi vất vả cùng nhau.

Sứ bộ vào tới thành Hứa Đô, kinh đô củanhà Ngụy đời Tam Quốc. Nguyễn Duviết bài thơ dài hai mươi bốn câu nhưsau:

舊 許 都Cựu Hứa Đô

許 州 城 漢 帝 都

Hứa Châu thành Hán đế đô

曹 氏 于 此 移 漢 圖

Tào thị vu thử di Hán đồ

受禪 臺 基 已 不見

Thụ thiện đài cơ dĩ bất khiến

風 雨 夜 夜 猶 號 呼

Phong vũ dạ dạ do hào hô

自 古 得 國 當 以 正5Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính

奈 何 侮 寡 而欺 孤

Nại hà vụ quả nhi khi cô

魏 受 漢 禪 晉 受 魏

Ngụy thụ Hán thiện Tấn thụ Ngụy

前 後 所 出 如 一 途

Tiền hậu sở xuất như nhất đồ

魏 亡 晉 續 更 朝 代

Ngũy vong Tấn tục canh thời đại

自 此 迄 今 幾 千 載10Tự thử hất kim kỷ thiên tải

其 中 興 廢 知 幾 人

Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân

峨 峨 城 堞 何 曾 改

Nga nga thành điệp hà tằng cải

城 外 青 山 似 舊 時

Thành ngoại thanh sơn tự cựu thì

奸 雄 篡 竊 人 何 在

Gian hùng soán thiết nhân hà tại

漢 人 宗 廟 已 無 蹤15Hán nhân tôn miếu dĩ vô tung

魏 人 園 陵 亦 頹 敗

Ngụy nhân viên lăng diệc đồi bại

蕩 蕩 城 中 一 片 土

Đãng đãng thành trung nhất phiến thổ

亭 午 巿 人 趨 賣 買

Đình ngọ thị nhân xu mại mãi

惟 有 建 安 二 十 五年 事

Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự

人 口 成 碑 終 不 壞20Nhân khẩu thành bi chung bất hoại

遠 來 使 我 多 沉 吟

Viễn lai sử ngã đa trầm ngâm

遺 臭 留 芳 皆 古 今

Di xú lưu phương giai cổ kim

突 兀 名 城 當 大 道

Đột ngột danh thành đương đại đạo

Page 122: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

巨 奸 到 此 應 寒 心

Cự gian đáo thử ưng hàn tâm.

dịch là:

Hứa Đô Xưa

Hứa Châu vua Hán thiên đôHọ Tào lật đổ cơ đồ lên thayĐài Thụ Thiện chốn nào đây

Đêm đêm gió lộng mưa bay ào ào5Dựng nên nước cần nghĩa cao

Con côi vợ góa lẽ đâu dối lườngHán Ngụy Tấn âu một tuồng

Trước sau sau trước một đường đổi thayTừ ngày Ngụy đồ Tấn thay

10Ngàn năm suy thịnh tớ nay đổi dờiPhề hưng lên xuống bao người

Thành xưa lũy cổ đời đời vẫn nguyênNon xanh núi biếc thành bên

Gian hùng thoán đoạt há bền được sao15Miếu đường đời Hán nơi nao

Ngụy triều lăng tẩm cũng đâu có cònTrong thành nền cũ đá mòn

Người về họp chợ bán buôn xa gầnNăm hăm lăm triều Kiến An

20Truyện ghi bia miệng còn đồn ngàn nămKhách từ xa đến trầm ngâm

Xưa nay tiếng xấu danh thơm lẽ thườngThành cao sừng sững bên đường

Ớn lòng mấy kẻ gian hùng qua đây.Nguyễn Du dùng nhiều tích lấy từ sáchTam Quốc Chí.

Hứa Đô, thuộc huyện Hứa Xương, tỉnhHà Nam. Cuối đời Đông Hán, Tào Tháolấy cớ là kinh đô Lạc Dương đổ nát, lừahoàng thái hậu, vợ vua Linh Đế và tânvương Hiến Đế thiên đô ra đó. Lại choxây đài Thụ Thiện để làm nơi hành lễtruyền ngôi.

Năm Kiến An hai mươi lăm, con TàoTháo, là Tào Phi ép Hán Hiến Đếnhường ngôi dụng lên nhà Ngụy.

Truyện đó, lập lại khi tưóng Tư MãViêm, con của Tư Mã Ý, tướng nhàNgũy, ép con của Tào Phi là NgụyNguyên Đế truyền ngôi , lập ra nhà Tấn.

Nguyễn Du suy ngẫm về truyện thay đổitriều đại, trong vòng vài chục năm, ôngđối chiếu cái vô thường của triều chínhvới cái bền vững của bức thành cổ vàrặng núi xanh ngoài thành, mà thuơnghâi cho những kẻ gian hùng mưu đồ việcthoán đoạt.

Sứ bộ đi ngang mộ Âu Dương Tu, mộttrong bát đại danh gia, và Nguyễn Duviết thành bài:

歐 陽 文 忠 公 墓Âu Dương Văn Trung Công Mộ

五 尺 豐 碑 立 道 傍

Ngũ xích phong bi lập đạo bàng

宋 朝 古 墓 記 歐 陽

Tống triều cổ mộ ký Âu Dương

平 生 直 道 無 遺 憾

Bình sing trực đạo vô di hám

千 古 重 泉 尚 有 香

Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu huơng

秋 草 一 丘 藏 鼠 貉

Thu thảo nhất khâu tàng thử hạc

名 家 八 大 擅 文 章

Danh gia bát đại thiện văn chương

長 松 芝 草 生 何 處

Trường tùng chi thảo sinh hà xứ

樵 牧 歌 吟過 夕 陽

Tiều mục ca ngâm quá tịch dương.

dịch là:

Mộ Âu Dương Văn Trung

Bia mòn năm thước bên đườngTống triều mô cổ Âu Dương danh đề

Suốt đời giữ đạo vẹn bềSuối vàng muôn kiếp chẳng hề phai hương

Nấm cỏ thu tổ cáo chồnVăn chương bát đại danh tôn ngàn đời

Cỏ chi tùng bách đâu rồiTiếng ca tiêu mục chơi vơi bóng chiều.

Page 123: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Theo giới nghiên cứu, Âu Dương VănTrung, tự là Vĩnh Thúc, người đời Tống,24 tuổi đậu tiến sĩ, nhưng hoạn lộ lênxuống nhiều lần, ngược lại trên đườngvăn học ông đưọc tôn vinh vào hàngdanh gia bát đại dưới hai triều ĐườngTống. Nguyễn Du đi qua mộ ông, thấytấm bia đã mòn, nấm mồ gai cỏ thành tổcáo chồn, tùng bách chẳng thấy đâu.Ông ngậm ngùi thương người tải giòidanh cao rồi đã về nơi suối vàng. Tiếnghát của tiều phu, trẻ chăn trâu vẳng bêntai ông.

Sau mộ Âu Dương Tu, Nguyễn Du điqua mộ Bùi Tấn Công, tức Bùi Độ,người đời Đường. Làm quan trong bamươi năm, hết làm tướng văn lại làmtướng võ, lên tới chức tể tướng dướitriều vua Đường Hiến Tông (806-820),nhưng rồi ông kịp xin về hưu ngâm vịnhcùng các nhà thơ đương thời như BạchCư Dị, Lưu Vũ Tích.

Bùi Độ đuợc coi là người xuất xử đúngthời đúng thế khiến nguời đời sau khâmphục, dẫu rằng tưóng mạo ông rất tầmthường.

裴 晉 公 墓Bùi Tấn Công Mộ

蕩 蕩 秋 原 丘 隴 平

Đãng đãng thu nguyên khâu lũng bình

墓 碑 猶 誌 晉 公 名

Mộ bi do chí Tấn công danh

丹 心 一 點 留 今 古

Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ

白 骨 千 年 隔 死 生

Bạch cốt thiên niên cách tử sinh

儘 有 猷 為 優 將 相

Tẩn hữu du vi ưu tướng tướng

無 妨 形 貌 厭 丹 青

Vô phương hình mạo yếm đan thanh

傖 心 近 日 昭 陵 樹

Thương tâm cận nhật Chiêu Lăng thụ

一 帶 啼 鵑 徹 渭 城

Nhất đái đề quyên triệt vị thành

dịch là:

Mộ Bùi Tấn Công

Đầu thu gò đống đồng khôngBên đường ghi mộ Tấn Công bia mòn

Lưu danh thiên cổ lòng sonXương tàn ngăn cách chết còn đôi nơi

Tướng văn tướng võ hơn đờiTầm thường hình mạo tâm người vẽ sao

Chiêu Lăng ruột sót như càoVị Thành khắckhoải nghẹn ngào tiếng quyên

Hai câu đầu, Nguyễn Du ghi lại cảnhđồng không gò đống bên đưòng chỗ cóbia mộ Bùi Tấn Công, Dầu sống chết đôinơi ông hết lòng tôn kính Bùi Công. Haicâu năm và sáu ông nhắc lại câu Bùi Độghi trên bức truyền thần đại ý nói tướngmạo tầm thương sao lại được làm tưóngvăn tuớng võ? Phải chăng chỉ tại cái tâmlinh thiêng không ai vẽ được.

Trong hai câu kết, Chiêu Lăng là tênlăng vua Đường Thái Tông ở ThiểmTây, cách đó không xa có một khu tángcác văn thần võ tướng có công lớn vớitriều đình. Vị Thành là tên một thành cổở huyện Tràng An, tỉnh Thiểm Tây.

Giới nghiên cứu thắc mắc vì mộ Bùi Độkhông ở trên lộ trình của Nguyễn Du vàđặt câu hỏi phải chăng vì Nguyễn Dungưỡng mộ Bùi Độ mà khởi hứng viếtbài thơ này?

Sứ bộ tới sông Hoàng Hà. Cảnh trờinước của dòng sông, những hình ảnh đãđi vào thi ca Trung Quốc, khởi hứng choNguyễn Du viết bài:

黃 河

Page 124: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hoàng Hà

一 氣 茫 茫 混 沌 前

Nhất khí mang mang hỗn độn tiền

其 來 無 際 至 無 邊

Kỳ lai vô tế chí vô biên

天 潢 巨 派 九 千 里

Thiên Hoàng cự phái củu thiên lý

聖 主 休 期 五 百 年

Thánh chủ hưu kỳ ngũ bách niên

懷 古 未 皆忘 夏 禹

Hoài cổ vị giai vong Hạ Vũ

至 今 誰 復 羨 張 騫

Chí kim thùy phục tiển Trương Khiên

秋 中 可 有 浮 槎 過

Thu trung khả hữu phù tra quá

我 欲 乘 之 再 上 天

Ngã dục thừa chi tái thượng thiên.

dịch là:

Hoàng Hà

Hỗn mang trời đất một bầuTừ đâu chẩy tới về đâu chẳng tườngThiên Hoàng chín ngàn dặm trường

Năm trăm năm ứng thánh vương giáng trầnCông ơn Hạ Vũ khó quên

Thời nay theo gót Trương Khiên mấy ngườiThu nay tiện có bè xuôi

Ta mong thử ngược lên trời một phen.

Hoàng Hà là con sông lớn tại TrungQuốc, phát nguyên từ Thanh Hải, chầyqua các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, TuyVIễn, Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam HàBắc, Sơn Đông ra biển Đông.

Câu mở bài, Nguyễn Du dùng hình ảnhban đầu của vũ trũ: tất cả chỉ là một bầukhí gọi là hỗn mang. Câu thứ hai là hìnhảnh sông Hoàng Hà trong thần thoạiTrung Quốc: sông khởi nguồn tù trêntrời. Lý Bạch cũng dùng hình ảnh nàymở đầu bài Tương Tiến Tửu

君 不 見 黃 河 之 水 天上來Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai

奔 留 到 海不 愎 回bôn lưu đáo hải bất phục hồi.

Con sông dài chín ngàn dặm này, nướcđầy phù sa nên gọi là Hoàng Hà. Cứ nămtrăm năm nước lại trong một lần đó làđiểm báo có vua sáng ra đời.

Từ cổ xưa vua Vũ nhà Hạ dậy dân tháonước tránh lụt, dân còn ơn tới ngày nay.Nhưng ngày nay chẳng còn mấy ai nhớtích người Trương Khiên dùng bè ngượcsông Hoàng Hà du thuyết lập bang giaocác nước miền Tây Bắc Trung Quốc.Thế nên về sau chiếc bè Trương Khiênlà hình ảnh những chiếc thuyền của sứđoàn.

Trong hai câu kết, Nguyễn Du đang ởtrên một chiếc bè Trương Khiên xuôidòng sông Hoàng Hà. Ông tưởng tượngđến ngày ngược dòng sông này về nước,sung sướng khác gì nguợc dòng HoàngHà lên trời.

Hành trình của sứ bộ lại bị trờ ngại vìnước lũ sông Hoàng Hà làm nghẽnđưòng. Nguyễn Du ghi lại truyện nàytrong bài:

黃 河 阻 嘮Hoàng Hà Trờ Lạo

龍 門 西 上 赤 雲 浮

Long Môn tây thướng xích vân phù

傾 盡 崑 崙 一 片 秋

Khuynh tận Côn Lôn nhất phiến thu

百 里 散 琉 無 定 派

Bách lý tản lưu vô định phái

一 波 矗 起 便 成 州

Nhất ba súc khởi tiện thành châu

麥 糕 土 狗 難 為 食

Page 125: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Mạch cao thổ cẩu nam vi thực

落 額 漂 萍 失 自 謀

Lạc mạch phiêu bình thất tự mưu

剩 有 閒 心 無 罣 磑

Thặng hữu nhàn tâm vô quái ngại

不 妨 終 日 對 浮 鷗

Bất phương chung nhật đối phù âu.

dịch là:

Nước Lụt Sông Hoàng HàLàm Trở Ngại

Long Môn mây đỏ miệt đoàiCôn Lôn trời xụp mé ngoài mưa giăng

Mênh mông trăm dặm nước dângSóng phun bọt trắng ngập băng bãi ngoài

Bánh khô thịt nguôi khó nhaiBèo trôi cành gẫy rủi may tại trờiLòng không quản ngại thảnh thơi

Suốt ngày nhìm cánh chim trời lảm vui.

Thêm một lần nữa nước lũ làm trở ngạihành trình của sứ đoàn. cũng nhu nhữnglần trước, trong bốn câu đầu Nguyễn Dughi lại những hình ảnh đe dọa mạngsống của sứ đoàn. Ngay cả truyện ẩmthực của sứ bộ cũng bị thời tiết xấu làmcho khó nuốt. Có một điểm đáng chú ý,đó là Nguyễn Du, vẫn như trong nhữnglần gặp trở ngại trên sông Minh Ninh,thấy thân phận mong manh của conngười, nhưng lần này ông phó mặc chomay rủi của số mệnh, để rồi ông cảmthấy lòng dạ thanh thản, nhìn cánh chimtrời lảm vui.

Qua khúc đưòng bị trở ngại, sứ bộ đingang qua mộ Tỷ Can. Nhân dịp nàyNguyễn Du ghi lại nhưng điều ông suytư về nỗi nguy hiểm trên đường thờ vua,với hình ảnh của vua Trụ, ông vua cuốicùng của nhà Thương.

比 干 墓Tỷ Can Mộ

遯 狂 君 子 各 全 身

Độn cuồng quân tử các toàn thân

八 百 諸 候 會 孟 津

Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân

七 竅 有 心 安 避 剖

Thất khiếu hữu tâm an tỵ phẫu

一 丘 遺 殖 盡 成 人

Nhất khâu di thực tận thành nhân

目 中 所 觸 能 無 戾

Mục trung sở xúc năng vô lệ

地 下 同 遊 可 有 人

Địa hạ đồng du khả hữu nhân

慚 愧 貪 生魏 田 舍

Tàm quí tham sinh Ngụy điền xá

忠 良 胡 亂 彊 相 分

Trung lương hồ loạn cương tương phân.

dịch là:

Mộ Tỷ Can

Giả điên bỏ trốn toàn thânTám trăm nưóc hội Mạnh Tân tâm đầu

Tim bẩy lỗ mổ chẳng naoThành nhân cây cối một khâu hãy còn

Mắt nhìn lệ rỏ ròng ròngSuối vàng bạn hữu những mong xum vầy

Quê mùa lão Ngụy hổ thayTrung lương phân biệt chê bai làm gì.

Trong câu thứ nhất, Nguyễn Du nhắc tớitruyện Vi Tử, anh của vua Trụ phải đitrốn để tránh sự bạo ngược của vua vàtruyện Cơ Tử, hàng chú bác của vua Trụphải giả điên để giữ thân. Câu thứ haigợi lại truyện Chu Vũ Vương nhà Chuhọp quân tám trăm nước chư hầu để diệtTrụ. Câu thứ ba là truyện Tỷ Can, canvua Trụ suốt ba ngày, khiến vua Trụ nổigiận nói: ‘ta nghe nói tim thánh nhân cóbẩy lỗ...’ bèn mổ ngực tỷ Can moi tim raxem. Câu thứ tư là lời sách Luận Ngữ:‘hữu sát thân dĩ thành nhân’ nghĩa là: cókẻ hy sinh thân mình để đặt được chữnhân. Phải chăng trích dẫn này giúpngười đọc hiễu hành động liều thân của

Page 126: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tỷ Can? Hai câu tiếp ông cho hay là ôngbị súc động nhưng không nhỏ lệ, và ỏtrần gian này chắc có người tri kỷ vóiông. Hai câu kết ông nhác lại truyệnNguỵ Trung người thời Đưòng, có thóinói thẳng can vua, và sau lưng ông, vuagọi ông là lão quê mùa, và sau hết làtruyện Ngụy Trưng, chia quần thầnthành hai loại: trung thần người hết lòngcan vua mả bỏ mạng, và lương thần lànhưng quan giỏi. Nguyễn Du dường nhưkhông đồng ý vói Ngụy Trung.

Sau vụ nghẽn đường vì nưóc lụt sôngHoàng Hà, một lần nữa hành trình của sứbộ lại bị gián đoạn, không vì thời tiết màvì nạn đao binh. Nguyễn Du ghi lại biếncố này trong bài thơ dài:

阻 兵 行Trở Binh Hành

金 鑲 鑲 鐵 錚 錚

Kim tương tương thiết tranh tranh

車 馬 馳 驟 雞 犬 鳴

Xa mã trì sận kê khuyển minh

小 戶 不 閉 大 戶 閉

Tiểu hộ bất bế đại hộ bế

扶 老 蠵 幼 移 入 城

Phù lão huề ấu di nhập thành

本 地六 月至 九 月5Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt

滑 濬 二 縣 齊 稱 兵

Hoạt Tuấn nhị huyện tề xưng binh

賊 殺 官 吏 十 八 九

Tặc sát quan lại thập bát cửu

滿 城 西 風 吹 血 腥

Mãn thành tây phong xuy huyết tinh

更 有 山 東 直 隸 遙 相 應

Cánh hữu Sơn Đông Trực Lệ dao tuơng ứng

白 蓮 異 術 爹 神 靈10Bạch Liên dị thuật đa thần linh

州 官 聞 賊 至

Châu quan văn tặc chí

挑 燈 終 夜 籍 民 丁

Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh

州 弁 聞 賊 至

Châu biền văn tặc chí

磨 礪 刀 劍 戛 戛 鳴

Ma lệ đao kiếm kiết kiết minh

州 人 聞 賊 至15Châu nhân văn tặc chí

三三五五交頭 細語 聲咿嚶

Tam tam ngũngũ giai đầu tế ngữ thanh y anh

行 人 遠 來 不 解 事

Hành nhân viễn lai bất giải sự

但 聞 城 外 進 退 皆 炮 聲

Đãn văn thànhngoại tiếnthoái giai pháo thanh

河 南 一 路 皆 振 動

Hà Nam nhất lộ giai chấn động

羽 檄 急 發 如 飛 星20Vũ hịch cấp phát như phi tinh

滾 滾 塵 埃 蔽 天 日

Cổn cổn trần ai tế thiên nhật

步 騎一 縱 復 一 橫

Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành

騎 者 彎 角 弓

Kỵ giả loan giác cung

長 箭 滿 壺 白 羽 翎

Trường tiễn mãn hồ bạch vũ linh

步 者 肩 短 槊25Bộ giả kiên đoản sáo

新 磨 鐵 刃 懸 朱 纓

Tân ma thiết nhận huyền chu anh

又 有 新 點 丁 壯 之 兵 器

Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí

削 竹 為 鎗 皮 上 青

Tước trúc vị thưong bì thượng thanh

大 車 載 弓 繳

Đại xa tải cung chước

小 車裝 尖 釘30Tiểu xa trang tiêm đinh

Page 127: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

終 日 往 來 無 暫 停

Chung nhật vãng lai vô tạm đình

數 百 里 地 遍 戈 甲

Sổ bách lý địa biến qua giáp

道 路 壅 塞 無 人 行

Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành

長 宋長 嘆 短 宋 默

Trường tống trường thán đoản tống mặc

進 退 維 谷 難 為 情35Tiến thoái duy cốc nan vị tình

咋 日 黃 河 水 大 至

Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí

五 日 無 食 棲 沙 汀

Ngũ nhật vô thực thê sa đinh

今 日 衛 州 阻 盜 賊

Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc

安 得 風 車 日 萬 里40An đắc phong xa nhật vạn lý

飛 身 一 息 來 天 京

Phi thân nhất tức lại thiên kinh

吾 聞 內 顧 頻 年 苦 荒 草

Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang thảo

只 有 春 作 無 秋 成

Chỉ hữu xuân tác vô thu thành

湖 南 河 南 久 無 雨

Hồ Nam Hà Nam cữu vô vũ

自 春 徂 秋 田 不 耕45Tự xuân tồ thu điền bất canh

大 南 小 女 頻 饑 色

Đại nam tiểu nhữ tần cơ sắc

糠 秕為 食 蔾 為 羹

Khang bì vi thục lê vi canh

眼 見 饑 莩 當 道

Nhãn kiến cơ phu tử đương đạo

懷 中 棗子身 邊 傾

Hoài trung táo tử thân biên khuynh

空 屋 壁 上 有 查 字50Không ốc bích thưọng hữu tra tự

數 百 餘 戶 皆 饑 零

Sổ bách dư bộ giai cơ linh

小民 不 忍 寒 且 饑

Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ

苟 圖 飽 燠 身 為 輕

Cẩu đồ bão úc thân vi khinh

潢 池 弄 甲 不 足 道

Hoàng trì lộng giáp bất túc đạo

稍 加 存 恤 當 自 平55Sảo gia tồn tuất đương tự bình

民 死 在 歲 不 在 我

Dân tủ tại tuế bất tại ngã

勿 得 欺 心 蔽 聖 明

Vật đắc khi tâm tế thánh minh

咋 見 新 鄭 城 中 粘 榜 示

Tạc kiến TânTrịnh thànhtrung niêm bảng thị

按 戶 給 蘇 殘 氓

Án hộ cấp túc to tàn manh

黃 河 以 北 麥 又 熟60Hoàng Hà dĩ bắc mạnh hựu thục

百 日 而 輩 妻 子 皆 得 生

Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh

歸 來歸 往 勿 作 死

Quy lai quy vãng vật tác tử

撫 臣 惠 保 如 父 兄

Phủ thần huệ bảo như phụ huynh.dịch là:

Bài Hành Binh Biến Nghẽn Đường

Xốn xang vàng sắt bốn bềGà kêu chó sủa ngụa xe ồn ào

Giầu giữ của khó giữ đầuDìu già dắt trẻ kéo nhau vào thành

5Hai vùng Hoạt Tuấn lửa binhKể từ tháng sáu đã linh trăm ngày

Muời quan giặc giết còn haiĐầy thành vấy máu gió tây tanh nồng

Lại thêm Trực Lệ Sơn Đông10Bạch Liên hoán vũ hô phong hoành hành

Quan châu nghe giặc đến thànhSuốt đêm kiểm số tráng đinh bên đèn

Võ quan nghe giặc tiến gầnMài gươm mài giáo cắt quân canh phòng

15Dân châu nghe giặc sởn lòngTốp năm tốp bẩy thì thầm nhỏ to

Khách đuờng xa khó thăm dò

Page 128: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ngoài thành súng nổ đắn đo tiến lùiHà Nam náo động khắp nơi

20Hịch lông hỏa tốc ngang trời như bayMờ trời bụi cuốn cát lầy

Bộ ngang kỵ dọc đêm ngày chuyển quânKỵ binh sừng cứng làm cung

Tên dài đuôi trắng bên lưng ống đầy25Bộ binh giáo ngắn vác vai

Tua bay đỏ rực lưỡi mài sáng xanhLại thêm lớp lớp tráng đinh

Chặt tre làm gậy vỏ xanh hãy cònDây cung xe lớn một đoàn

30Bàn chông nhọn hoắt xe con chất đầyNgưọc xuôi di chuyển suốt ngày

Dàn quân trăm dặm trong ngoài nơi nơiĐường quan nghẽn giặc vắng nguòiGần xa đưa tiễn bùi ngùi khóc than

35Tiến lùi trắc trở khó khănSánh kỳ nghẽn lụt sông Hoàng mới đây

Bãi sông nhịn đói năm ngàyVệ Châu nghẽn giặc chuyến này lo hơn

Đường trưóc mặt bao giờ yên40Ước xe mọc cánh tới liền Thiên Kinh

Nghe tin nội địa hiện tìnhCó cầy mất gặt trời hành mấy năm

Từ Hồ Nam tới Hà NamXuân thu hạn hán điêu tàn khổ dân

45Gái trai lớn nhỏ đói nhănSống bằng củ chuối cỏ cằn bấy nay

Bên đường chết đói nằm đầyDa nhăn hạt táo thân gầy dơ xương

Nhà hoang chữ ‘xét’ trên tường50Vài ba trăm hộ kiếm đường bỏ đi

Dân đen đói rét phải khiChỉ cầu no bụng xá gì đến thân

Khiến tìm binh khí liều thânThương dân tìm kế yên dân lâu dài

55Hạn tại trời chẳng tại aiNói vầy dối chúa nào hay dối mình

Hôm qua bảng yết cửa thànhTheo hộ phát gạo dân lành yên tâm

Vụ mùa lúa sắp đưọc ăn60Nội trăm ngày nữa bình an mọi bề

Giữ lấy thân sớm quay vềVợ chờ con đợi sớm về là hơn

Phủ thần phủ dụ ban ơn.

Bài hành này, một lần nũa cho ngưòi đọcthấy nỗi nguy hiểm của việc đi sứ, lầnnày không phải do thiên tai mà do loạnlạc. Cảnh hạn hán dân làm loạn màNguyển Du ghi lại tưòng tận trong bài

khiến người đọc liên tưởng đến nhiềuáng thơ dài của Đỗ Phủ cùng một đề tài.

Tác giả dường như không nói tới mìnhtrong bài hành 63 câu này, ngoại trừ ôngthoáng mong ước sớm tới được YênKinh, và sợ bị nghẽn nhiều ngày như kỳgặp nước lủ trên sông Hoàng Hà. Ôngbình thản nhớ lời sách Hán Thư:

湟 池 弄 甲

hoàng trì lộng giáp

theo giới nghiên cứu nghĩa là, đói rét dânlàm loại, ví như trẻ đùa nghịch giả làmbinh lính trong ao, để viết câu 53. Cũngnhư nhớ lời sách Mạnh Tử:

民 死 在 歲 不 在我

dân tử tại tuế bất tại ngã

nghĩa là:

dân chết tại năm [xấu] đâu phải tại ta

để viết câu 55.

Tiếp tục cuộc hành trình, sứ bộ đi ngangđền thờ Thị Trung họ Kê, Nguyễn Duviết bài:

嵇 侍 中 祠Kê Thị Trung Từ

古 廟 松 篁 一 帶 幽

Cổ miếu tùng hoàng nhất đái thu

清 風 猶 似 竹 林 秋

Thanh phong do tự trúc lâm thu

廣 陵 調 絕 餘 清 響

Quảng Lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng

正 氣 歌 成 立 懦 夫

Chính khí ca thành lập nọa phu

亙 古 未 乾 流 血 地

Cắng cổ vị càn lưu huyết địa

奇 忠 能 破 問 蟆 愚

Kỳ trung năng phá vấn mô ngu

Page 129: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

可 憐 江 左 多 名 士

Khả liên Giang Tả đa danh sĩ

空 對 江 山 泣 楚 囚

Không đối giang san khấp Sở tù.

dịch là:

Đền Kê Thị Trung

Miếu xưa thông trúc xum xuêThanh tao dường cảnh thu về Trúc Lâm

Quảng Lăng chưa dứt dư âmBài ca chính khí hùng tâm còn truyền

Ngàn năm máu thấm đất đenDại ngu phá vỡ do bền lòng trungDanh nhân Giang Tả đáng thươngThân tù đất Sở khóc suông lẽ nào.

Kê Thị Trung tức Kê Thiệu, con KêKhang, làm quan tới chức Thị Trung đờivua Tấn Huệ Đế (290-306). Khi vua HuệĐế bị giặc đuổi, tên bắn như mưa, KêThiệu lấn thân mình che cho vua, chết,máu phun vào đầy áo vua. Kê Khang làngười đứng đầu Trúc Lâm Thất Hiền.Nguyễn Du đi ngang qua miếu Kê Thiệumà nhớ tới mùa thu rừng trúc, dườngnhư thấy Nguyễn Du muốn nói cha conKê Khang và Kê Thiệu tiết khí nhưnhau, tiếp theo câu thứ ba, tác giả nhắctới khúc Quảng Lăng, một điệu đàn doKê Khang sáng tác, ngày ông bị dẫn rapháp trường, ông gẩy khúc này lần cuốivà tiếc là chua tìm được người tri kỷ đểtruyền lại ngón đàn này. Nguyễn Du cholà vì Kê Thiệu cũng tiết tháo như cha,nên khúc Quảng Lăng dường như vẫncòn dư âm. Trong câu thứ tư, Chính KhíCa là bài ca của Văn Thiên Tường đờiNam Tống viết ca ngợi Kê Thiệu. Câuthứ năm, Nguyễn Du gợi lại hình ảnh KêThiệu dùng thân thể mình làm mộc checho vua mà chết. Và đối với hình ảnhnày là truyện cái ngu đần của Huệ TấnVương nhưng vẫn trợng người trungthần: vua không cho giặt vết máu KêThiệu bắn lên áo bào để luôn luôn tỏlòng biết ơn cứu mạng của Kê Thiệu.

Hai câu kết, tác giả tỏ ý thương hại danhsĩ đất Giang Tả, nước mất mà chỉ nhìnnhau khóc suông như bọn tù nưóc Sở đờixa xưa.

Sứ đoàn đi ngang nền đài Đồng Tưóc,xây ở thành Nghiệp Thành, về phiá tâynam huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc.Đài nài do Tào Tháo cho dựng năm KiếnAn thứ XV (210) để làm chỗ lui tới muavui, và cũng không dấu ý định là nếuđánh bại Đông Ngô sẽ bắt hai nàng họKiều, một là vợ Tôn Sách, vua nướcNgô, và một là vợ Chu Du đại tướngnước Ngô, đem về giữ tại đài đó.

Tào Tháo, nổi tiếng là một gian thần,nhưng đồng thời là một đại anh hùng đờiTam Quốc. Đi qua nền đài Đồng Tước,Nguyễn Du không khỏi suy nghĩ vềtruyện hưng thịnh của các triều đại, cáiphù du của kiếp người, để thấy lẽ vôthường, mà ngao ngán cho chữ côngdanh lôi cuốn con ngưòi, gây bao nỗithống khổ cho con ngưòi. Ông ghi lạinhững suy tư đó trong bài thơ dài haimươi sáu câu dưới đây:

銅 雀 薹Đồng Tước Đài

一 世 之 雄 安 在 哉

Nhất thế chi hùng an tại tai

古 人 去 兮 今 人 來

Cổ nhân khú hề kim nhân lai

不 見 鄴 中 魏 武 帝

Bất kiến Nghiệp trung Nguỵ Vũ đế

但 見 江 邊 銅 雀 薹

Đãn kiến giang biên Đồng Tưóc Đài

臺 基 雖 在 已 傾 圮5Đài cơ tuy tại dĩ khuyng bĩ

陰 風 怒 號 秋 草 靡

Âm phong nộ hào thu thảo mỹ

玉 龍 金 鳳 盡 芒 芒

Ngọc Long Kim Phượng tận mang mang

Page 130: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

何 況 臺 中 歌 舞 妓

Hà huống đài trung ca vũ kỹ

斯 人 盛 時 誰 敢 當

Tư nhân thịnh thời thùy cảm đương

眇 視 皇 帝 凌 侯 王10Diểu thị hoàng đế lăng hầu vương

只 恨 層 臺 空 律 屼

Chỉ hận tằng đài không luật ngột

小 喬 終 老 嫁 周 郎

Tiểu Kiều chung lão giá Chu lang

一 朝 大 限 有 時 至

Nhất triêu đại hạn hữu thì chí

尚 食 奏 歌 圖 悅 鬼

Thượng thục tấu ca đồ duyệt quỷ

分 香 賣 履 苦 叮 嚀15Phân hương mại lý khổ đinh ninh

落 落 丈 夫 何 爾 爾

Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ

奸 雄 別 自 有 機 心

Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm

不 是鳴 哀 兒 女 氣Bất thị minh ai nhi nữ khí

千 幾 萬 巧 盡 成 空

Thiên cơ vạn sảo tận thành không

終 古 傷 心 漳 江 水20 Chung cổ thương tâm Chương Giang thủy

我 思 古 人 傷 我 情

Ngã tư cổ nhân thuong ngã tình

徘 徊 俯 仰 悲 浮 生

Bồi hồi phủ ngưõng bi phù sinh

如此 英 雄 且 如 此

Như thử anh hùng thả như thử

況 乎 寸 功 與 薄 名

Huống hồ thốn công dữ bạc danh

人間 勳 業 若 長 在25 Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại

此 地 高 臺 應 未 傾

Thử địa cao đài ưng vị khuynh.

dịch là:

Đài Đồng Tước

Anh hùng mấy cũng một thờiTre già măng mọc cơ trời cao sâu

Nghiệp đô Ngụy đế nay đâuCòn đài Đồng Tước dãi dầu bên sông

5Đài đổ nát nền vẫn cònTròi thu cỏ áy gió hờn oán than

Ngọc Long Kim Phượng tiêu tanHống hồ ca nữ phách đàn năm nao

Thủa đương thịnh ai đuơng đầu10Coi thường hoàng đế vương hầu rẻ khinh

Mộng xây đài lớn dẫu thànhTiểu Kiều trọn kiếp vẹn tình Chu Lang

Sớm kia số tận mệnh tànCúng dâng nhã nhạc cỗ bàn liệu lo

15Chia hương bán dép dặn dòTrượng phu lỗi lạc nào ngờ thế ư

Gian hùng hằng sẵn tâm cơKhác chi nhi nữ vật vờ khóc thương

Mưu sâu kế sảo bằng không10Bùi ngùi nhìn sóng dòng Chương dập dềnh

Ngẫm truyện xưa ngán nỗi mìnhĐau lòng thương kiếp phù sinh ngắn dài

Anh hùng đến vậy như vầyCông danh chút đỉnh thân này kể chi

25Nếu có thịnh chẳng có suyThì đài Đồng Tước cớ chi chẳng còn.

Nguyễn Du đặt bài thơ dài này trongkhuôn khổ lẽ đại hóa. Anh hùng tài giỏiđến mấy rồi cũng phải chết, nhường chỗcho nguời đời kế tiếp. Ngụy đế hay TàoTháo cũng không ngoài lẽ đó. Dẫu xâyđược đài Đồng Tưóc với hai lầu NgọcLong và Kim Phưong cao ngút trời, thìnay đài cũng đổ nát, chỉ còn lại cái nềndại dầu mưa nắng với thời gian. Xâyđược lầu, nhưng giấc mộng bắt được hainàng họ Kiều về làm tỳ thiếp vẫn khôngthành. Rồi tới ngày Tào Tháo tận số, ôngdặn dò tỳ thiếp ở đài Đồng Tước phảihàng ngày cúng tế, có nhã nhạc múa hátdâng cơm. Lại còn chia hương quý chotỳ thiếp rồi căn dặn họ phải siêng năngviệc nữ công, thêu giầy bán mà sinhsống.

Nhắc truyện Tào Tháo, Nguyễn Du lạibuồn cho thân phận chính mình. Ôngthương cho kiếp phù sinh ngắn ngủi của

Page 131: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

con nguời. Anh hùng đến như Tào Tháothì cũng chỉ vậy, nói chi đến chút côngdanh của riêng ông. Tất cả đều trong mộtvòng biến hóa. Bằng không thời sao đàiĐồng Tước lại đổ nát như vậy.

Tiếp theo bài Đồng Tước Đài, trongcùng một ý thơ, Nguyễn Du viết bài:

七 十 二 疑 塚Thất Thập Nhị Nghi Trủng

鄴 城 城 外 野 風 吹

Nghiệp thành thành ngoại dã phong xuy

秋 草 蕭 蕭 舊 事 非

Thu thảo tiêu tiêu cựu sự phi

枉 用 一 人 無 限 智

Uổng dụng nhất nhân vô hạn trí

臭 名 滿 槨 藏 何 用

Xú danh mãn quách tàng hà dụng

賊 骨 千 年 罵 不 知

Tặc cốt thiên niên mạ bất tri

何 似 錦 城 先 主 廟

Hà tự Cẩm Thành tiên chủ miếu

至 今 松 柏 有 光 輝

Chí kim tùng bách hữu quang huy.

dịch là:

Bẩy Mươi Hai Ngôi Mộ Giả

Ngoài thành Nghiệp gió nhẹ đưaTrời thu cỏ áy việc xưa đổi dời

Uổng dùng sảo kế suốt đờiMối ngờ để lại cho người đời sau

Xú danh đầy quách giấu đâuNgàn năm xương giặc mắng sao cho rành

Khác đền tiên chủ Cẩm ThànhNay còn tùng bách mướt xanh rạng ngời.

Theo Tam Quốc Chí, Tào Tháo chết tạiHứa Đô, đưa về Nghiệp Quận an táng.Vì sợ bị người đào mả, nên để cho ngưòiđời không biết mộ thực của Tào Tháo ởđâu, Tào Tháo dặn phải đắp bẩy mươi

hai nấm mộ giả. Theo Nguyễn Du, TàoTháo không thể dấu được tiếng xấu củamình, và ngàn năm sau, ngưòi đời có mạlỵ thì xương tàn của Tào Tháo cũngchẳng hay biết. Điều khác biệt là miếuthờ Tiên Chủ Lưu Bị ở Cẩm Thành tùngbách ngày nay hãy còn xanh tươi.

Xứ đoàn trảy qua làng cũ Lạn TươngNhư một hiền thần của vua Huệ VănVương, nước Triệu, đời Chiến Quốc.Sử 21chép rằng Huệ Văn Vương có viênngọc bích của họ Hòa. Vua Tấn ChiêuVưong xin đổi mười lăm thành lấy viênngọc đó. Vua Triệu sai Nhạn Tưong Nhưmang ngọc sang Tần. Vua Tần lấy ngọcvà không giao thành như đã hứa. LạnTương Như nói: “Ngọc bích có vết, tôixin chỉ bệ hạ xem.” Vua Tần trao lạingọc bích. Tương Như nhận ngọc, đúnglùi vào chân cột, tóc dựng ngược biệnbác với vua Tần, dọa đập vỡ ngọc. VuaTần đồng ý sai đem bản đồ cắt đất mườithành cho Triệu. Tương Như biết làtruyện lừa dối, đòi vua Tần trai giới nămngày để nhận ngọc, rồi cho người lẻnmang ngọc về Triệu. Vua Tần nổi giậnnhưng vẫn cho Tương như về nước vàtruyện đổi ngọc lấy thành không thành.Về tới Triệu, Tương Như được vuaTriệu phong làm Thượng đại phu.

Mấy năm sau truyện trả ngọc này, TriệuTần chinh chiến liên miên, không phânthắng bại. Vua Tần mời vua Triệu đếnhọp tại Dẫn Trì. Lạn Tương Như được đitheo và thăng chức Thuợng Khanh, caohơn cả chức Đại Tướng của Liêm Pha.Liêm Pha giận có ý muốn làm nhụcTương Như. Để tránh xung đột với quancùng triều, Tương Như tìm cách tránhmặt Liêm Pha tại sân rồng cũng như đingoài đường. Có người hỏi Tương Nhưsao lại sợ Liêm Pha đến như vậy. TươngNhư nói: “Liêm Đại Tướng Quân đâu có

21Liêm Pha, Lạn Tương Như Truyện, Sử Ký,

Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, tr. 519-541.

Page 132: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

đáng sợ bằng vua Tần. Sở dĩ Tần chưadám nuốt Triệu vì Triệu có cả Liêm Phavà Nhạn Tương Như. Nay hai hổ chọinhau thì một mất một còn, cho nên talàm thế vì nghĩ đến truyện tồn vong củanước Triệu.” Liêm Pha nghe lời ấy, bèncởi trần mang roi tới gặp Lạn TưongNhư và nói; “Kẻ hèn này không biếttướng quân rộng lưọng đến thế.” Rồi từđó hai người kết bạn sống chết có nhau.

Nhớ lại tích trên, qua làng cũ Lạn TươngNhư, Nguyễn Du đề thơ như sau:

蘭 相 如 故 里Lạn Tương Như Cố Lý

大 勇 不 以 力

Đại dũng bất dĩ lực

僅 有 蘭 相 如

Cận hữu Lạn Tương Như

僥 倖能 全 璧

Kiểu hãnh năng toàn bích

徘 徊 善 避 車

Tàm quý thiện tỵ xa

豐 碑 留 姓 字

Phong bi lư tính tự

全 趙 免 丘 墟

Toàn Triệu miễn khưu khư

慚 愧 力 扼 虎

Tàm quý lực ách hổ

平 生 無 可 書

Bình sinh vô khả thư

dịch là:

Làng Cũ Lạn Tương Như

Dũng không sức thực hơn đờiLạn Tương Như hỏi mấy người sánh ngang

Cầu may giữ ngọc vẹn toànTránh xe việc nước chẳng màng tình riêng

Họ tên bia đá lưu truyềnGiữ gìn đất Triệu bình yên trong ngoài

Sức đè hổ thẹn cho aiMột đời sự nghiệp chẳng đầy một câu.

Sứ đoàn đi qua Hàm Đan, cố đô nưócTriệu thời chiến quốc, với những thắngcảnh những xóm ca kỹ nổi tiếng sử sáchcòn lưu truyền. Nguyễn Du ghi lại cảmhứng của ông trong bài:

邯 鄲 即 事Hàm Đan Tức Sự

一 帶 垂 楊 半 墓 煙

Nhất dải thùy dương bán mộ yên

邯 單 勝 跡見 遺 編

Hàm Đan thắng tích kiến di biên

高 原 豊 草 呼 鷹 路

Cao nguyên phong thảo hô ưng lộ

何 處 雲 和 挾 技 筳

Hà xứ vân Hà hiệp kỹ diên

鴻 嶺 夢 中荒 射 獵

Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ lạp

白 頭 足 跡 遍 山 川

Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên

黃 河 南 北 皆 秋 水

Hoàng hà nam bắc giai thu thủy

鄉 信 何 由 達 鴈 邊

Hương tín hà do đạt nhạn biên.

dịch là:

Tức Cảnh Hàm Đan

Thùy dương bảng lảng khói chiềuHàm Đan cảnh đẹp còn nhiều sách ghi

Đường ưng đồi cỏ xanh rìVân Hào đàn sáo ca nhi đâu còn

Non Hồng mơ một cuộc sănNước non in dấu vết chân bạc đầu

Hoàng Hà nước lũ ngập sâuTin nhà ngóng cánh nhạn cao bên trời.

Trong bốn câu đầu, Nguyễn Du ghi lạicảnh đẹp thiên nhiên của đất Hàm Đanông thấy trước mắt, nhưng cảnh đàn sáoca nhi ca tụng trong sách cổ nay khôngcòn. Thế rồi ông nhắc tới cái thú đi săn ỏHồng Lĩnh, cái thú đó vẫn còn về trong

Page 133: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

giấc mơ của ông. Trên thực tế thì hiệnông còn in vết chân bên trời. Mé nam mébắc sông Hoàng Hà ngập sâu nước lũlàm ông chậm có tin nhà.

Sứ bộ đi ngang qua nơi Hàn Tín luyệnquân, gợi cho Nguyễn Du suy tư vềnhững hành động đã dẫn tới cái chếtthảm của vị tướng tài này của vua HánCao Tổ. Ông ghi lại những suy nghĩ đótrong bài:

韓 信 講 兵 處Hàn Tín Giảng Binh Xứ

百 萬 旌 麾 北 渡 河

Bách vạn tinh huy bắc độ hà

燕 交 地 下 有 沉 戈

Yên giao địa hạ hữu trầm qua

悠 悠 事 後 二 千 載

Du du sự hậu nhị thiên tải

蕩 蕩 城 邊 一 片 沙

Đãng đãng thành biên nhất phiến sa

噲 伍 未 成 甘 碌 碌

Khoái ngũ vị thành cam lục lục

君 前 猶 自 善 多 多

Quân tiền do tự thiện đa đa

可 憐 十 世 山 河 在

Khả liên thập thế sơn hà tại

厚 誓 徒 延 絳 灌 家

Hậu thệ đồ điên Giáng Quán gia.

dịch là:

Tức Cảnh Hàm Đan

Trăm vạn quân vượt qua sôngThành Yên lòng đất giáo gươm chôn vùi

Hai ngàn năm trước xa rồiBên thành chỉ thấy cát bổi mông mênh

Ngang hàng Phàn Khoái âu đànhSo tài thao lược còn giành hơn vua

Mười đời sông núi thề xưaRiêng nhà Giáng Quán móc mưa ơn dầy.

Hàn Tín 22 vốn theo Hạng Võ, sau bỏHạng Võ theo Lưu Bang, lên tói hàngcông thần bậc nhất ngang với TrươngLương và Tiêu Hà. Có công diệt nướcTề dược phong là Tề Vương, hội binhđánh Hạng Võ ờ Cai Hạ. Được phong làSở Vương. Có người tố cáo Hàn Tín cóý định làm phản. Lưu Bang triệu về LạcDương giáng làm Hoài Âm Hầu. LưuBang mang quân đi đánh ngoài biên xa.Tín cáo bệnh không theo. Rồi bị Lữ Hậulừa gọi vào cung Trưòng Lạc, bắt chémgiết cả ba họ.

Trong bốn câu thứ đầu, Nguyễn Dutưởng tưởng đoàn quân một triệu ngườicờ xí rợp trời, của Hàn Tín vượt sôngHoàng Hà lên phía bắc. Sử kiện đó đãhai ngàn năm qua, thành Yên là nơi HànTín luyện quân, ngày nay giáo gươmthẩy chôn vùi dưới lòng đất, ông chỉ thấytrước mắt một bãi sông cát bồi mênhmông. Ông nhắc lại truyện Hàn Tín ganhghen với Phàn Khoái, một tướng tài giỏicủa Lưu Bang. Rồi truyện Hàn Tín so tàicao thấp với vua Hán Cao Tổ về việcdùng binh khiển tướng. Ông nhắc lại lởithề của Hán Cao Tổ khi phong tước chocác công thần: “Bao giờ nưóc sôngHoàng Hà cạn chỉ còn bằng chiếc giảiáo, núi Thái Sơn mòn đi chỉ bằng hònđá mài, nước vẫn còn truyền cho concháu.” Trong câu kết, ông thương choHàn Tín giúp Lưu Bang lập nên nhàHán, mà bị chết thảm để ơn vua lộc nướcnhà Hán vào tay Giáng hầu tức Chu Bộtvà Quán Anh.

Tiếp tục cuộc hành trình, Nguyễn Du códịp đọc bia Liêm Pha và khởi hứng viếtbài:

廉 頗 碑Liêm Pha Bi

22Hoài Âm Hầu Liệt Truyện, Sử Ký Tư Mã

Thiên, sách dã dẫn, tr. 646-678.

Page 134: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

廉 頗 亡 去 武 安 將

Liêm Pha vong khứ Vũ An tướng

四 十 萬 人 同 穴 葬

Tứ thập vạn quân đồng huyệt táng

乳 臭 小 兒 易 言 兵

Nhữ xú tiểu nhi dị ngôn binh

一 國 長 城 徒 自 喪

Nhất quốc trường thành đồ thhu táng

寄 閫 重 任 須 老 成5Ký khổn trọng nhậm tu lão thành

內 審 國 勢外 敵 情

Nội thẩm quốc thế ngoại địch tình

所 以 臨 敵 能 制 勝

Sở dĩ lâm địch năng chế thắng

端 在 捐 仇 知 負 荊

Đoan tại quyên cừu tri phụ kinh

一 國 兩 虎 不 可 犯

Nhất quốc lưõng hổ bất khả phạm

二 十 餘 年誰 與 爭10Nhị thập dư niên thuỳ dữ tranh

將 軍 在 時 趙 以 重

Tướng quân tại thời Triệu dĩ trong

將 軍 去 時 令趙 輕

Tướng quân khứ thời linh Triệu khinh

所 恨 讒 人 織 萋 斐

Sở hận sàm nhânchức thê phỉ

何須 一 食 三 遺 屎

Hà tu nhất thực tam di thỉ

白 頭 去 後 不 重 來15Bạc đầu khứ hậu bất trùng lai

邯 鄲 之 事 可 知 矣

Hàm Đan chi sự khả tri hỹ

趙 亡 秦 繼 三 千 年

Triệu vong tần kế tam thiên niên

將 軍 名 字 至 今 傳

Tướng quân danh tự chí kim truyền

摩 挲古 碣 三 太 息

Masa cổ kiệt tam thái tức

勃 勃 壯 氣 想見生 前

20Bột bột tráng khí tường kỳ sinh tiền

今 人 不 少 食 多 肉

Kim nhân bất thiểu thực đa nhục

幾 令 家 養 無 遺 畜

Cơ linh gia dưỡng vô di súc

清 平 時 節 無 戰 爭

Thanh bình thời tiết vô chiến tranh

一口雄談不數廉頗與李牧

Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ LýMục

dịch là:

Bia Liêm Pha

Truất Liêm Pha phong Vũ AnMồ chung chôn bốn trăm ngàn Triệu binh

Miệng hoi sũa bàn việc binhTường thành một nưóc sao đành bỏ ngang

5Tướng già gánh nặng cầm quânNgoài biết địch trong hiểu dân mới thành

Quên thù riêng tự phạt mìnhĐến khi vào trận thắng dành trong tay

Nuớc hai hổ tướng vững thay10Hai mươi năm lẻ chẳng ai dám nhòm

Tướng quân còn Triệu oai hùngTưóng quân đi Triệu quẫn cùng đổ xiêu

Giận lời gièm khéo dệt thêuTiệc ăn đứng dậy đi tiêu ba lần

15Đi chẳng về lão đâu cầnHàm Đan cảnh huống xoay vần còn căm

Tần nối Triệu ba ngàn nămĐến nay tên họ tướng quân còn truyền

Đọc bia cổ những trạnh niềm20Hăng say hùng khí sinh tiền ghi đây

Ăn như rồng cuốn thời nayKhắp nơi nhan nhản hại bày súc sinh

Thời thái bình không lửa binhQuên Liêm quên Lý cậy mình nói hăng.

Áng thơ dài trên đây dựa trên một đoạnsử phức tạp của nước Triệu 23, trải dàisuốt ba triều vua: Huệ Văn Vương, HiếuThành Vương và Điệu Tương Vương.Câu mở đầu, Nguyễn Du nhắc lại truyệnnăm 263 trước công nguyên, đời vuaHiếu Thành Vương, tướng Tần là Bạch

23Liêm Pha, Lạn Tương Như truyện, Sử Ký

Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, tr. 519-535.

Page 135: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Khởi mang quân đánh Triệu ở thànhTrường Bình do Liêm Pha trấn giữ.Liêm Pha cố thủ quân Tần đến khiêuchiến cũng không ra đánh. Vua Triệu bịtrúng kế ly gián của Tần sai vị tướng trẻlà Triệu Quát tới thay thế Liêm Pha.Dưới quyền Triệu Quát, quân Triệu thuato, bốn vạn binh chôn cùng một huyệt.Câu ba và bốn, tác giả, so sánh lão tướngLiêm Pha, người từng được coi là bứctường thành của nước Triệu, với một vịtướng trẻ, Triệu Quát, miệng còn hoisửa, rồi ông nhắc lại truyện cũ giữa LiêmPha và Lạn Tương Như dưói triều vuaHuệ Văn Vương, và tiếp theo là cảnhnước Triệu bình yên suốt hai mươi nămnhờ có Liêm Pha và Lạn Tương Nhưlàm tướng. Trong bốn câu 13-16,Nguyên Du tóm tắt truyện nước Triệusau khi bị truất quyền bỏ sang nướcNguỵ, làm tướng nước Nguỵ, nhưnglòng vẫn hướng về Triệu. Sang đời ĐiệuTương Vương, quân Tần lại sang đánhTriệu. Vua Triệu tính kế cho sứ giả đimời Liêm Pha về giữ nước. Muốn tỏ ramình tuy tuổi già nhưng còn tráng kiện,Liêm Pha ăn trước mặt sứ giả trong mộtbữa một đấy gạo, mười cân thịt, mặc áogiáp lên ngựa để tỏ uy dũng. Sứ giả vềtâu vói vua Triệu là Liêm Pha tuy caotuổi, ăn còn khỏe, nhưng thêu dệt thêmlà trong bữa ăn tiếp sứ thần ba lần phảiđứng lên đi tiêu. Vua Triệu cho là LiêmPha đã quá già không mời về làm tướngnữa.Trong hai câu tiếp theo, Nguyễn Duđọc bia cồ mà thương Liêm Pha. rồitrong bốc câu kết, ông liên tưởng tớingười nay, ăn nhiều chẳng kém LiêmPha, nhưng sống thời thái bình, chỉ biếtkhoe khoang tự cao tự đại, không đángso với Liêm Pha và Lý Mục, một vịtướng tài cuối cùng của nước Triêu,trước khi bị nước Tần tiêu diệt.

Tiếp tới, Nguyễn Du có hai bài về TôTần như sau:

蘇 秦 亭Tô Tần Đình

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

敝 濜 貂 裘 不 復 西

Tệ tận điêu cừu bất phục tây

趙 臺 抵 掌 吐 虹 霓

Triệu đài để chưởng thổ hồng nghê

縱 橫 自 可 愚 庸 主

Tung hoành tự khả ngu dung chúa

富 貴 還 能 倨 寡 妻

Phú quý hoàn năng cứ quả thê

六 國 印 銷 沙 漠 漠

Lục quốc ấn tiêu sa mạc mạc

一 亭 秋 暮 草 萋 萋

Nhất đình thu mộ thảo thê thê

人 生 權 利 誠 無 謂

Nhân sinh quyền lợi thành vô vị

今 古 誰 能 破 此 迷

Kim cổ thuỳ năng phá thử mê.

其 二

Kỳ Nhị

季 子 黑 裘 敝

Quý Tử hắc cừu tệ

徒 步 擔 囊 歸

Đồ bộ đảm nang quy

其 妻 不 下 機

Kỳ thê bất há ky

其 嫂 不 為 炊

Kỳ tẩu bất vị xuy

父 母 不 復 顧

Phụ mẫu bất phục cố

相 看 如 路 岐

Tương khan như lô kỳ

丈 夫 一 失 志

Page 136: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ttượng phu nhất thất chí

骨 肉 皆 相 離

Cốt nhục giai tương ly

一 朝 大 運 有 時 至

Nhất triêu đại vận hữu thì chí

六 印纏 腰 鳴 得 意

Lục ấn triền yêu minh đắc ý

黃 金 百 鎰 璧 百 雙

Hoàng kim bách dật bích bách song

從 車 千 乘 來 鄉 里

Tòng xa thiên thặng lai hưong lý

父 母 郊 迎 嫂 膝 行

Phụ mẫu do nghênh tẩu tất hành

妻 見 其 夫 側 目 視

Thê kiến kỳ phu trắc mục thị

平 生 志 願 畢 於 斯

Bình sinh chí nguyện tất ư tư

前 倨 後 恭 言 正 鄙

Tiền cứ hậu cung ngôn chính bỉ

合 縱 不 在 卻 彊 秦

Hợp tung bất tại khước cường Tần

但 向 所 親 驕 富 貴

Đãn hướng sở thân kiêu phú quý

刺 股 原 為 權 利 謀

Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu

嗟 乎 此 人 小 哉 器

Ta hồ thử nhân tiểu tai khí

書 中 飽 聞 蘇 秦 名

Thư trung bão danh Tô Tần danh

道 中 卻 過 蘇 秦 亭

Đạo trung khước quá Tô Tần đình

車 馬 金 玉 已 無 跡

Xa mã kim ngọc dĩ vô tích

亭 前 之 草 空 青 青

Đình tiền chi thảo không thanh thanh

世 人 多 讀 蘇 秦 傳

Thế nhân đa độc Tô Tần truyện

猶 為 位 勢 富 貴 傖 其 生

Do vi vị thế phú quý thương kỳ sinh.

dịch là:

Đình Tô TầnHai bài

I

Áo cừu rách lánh trời TâyQuay về đất Triệu khoa tay dối lường

Gạt sáu vua kế hợp tungGiầu sang áo gấm ung dung về làng

Cát vàng còn sáu ấn tanNgôi đình cỏ áy thu tàn thê lươngTruyện đời danh lợi chán chường

Kê vàng một giấc vô thường thương ai.

II

Áo cừu Quí Tử rách bươmBên vai quẩy đẫy tay không vê làng

Vợ đang dệt cửu ngó ngangChị dâu cơm nước thấy chàng làm ngơ

5Mê cha ruột thịt tảng lờCoi như người lạ hững hờ dửng dưng

Trượng phu thất thế đường cùngDẫu là một thịt một xương cũng lìa

Vận may đến một sớm kia10 Lưng đeo sáu ấn đề huề vẻ vang

Trăm đôi ngọc trăm nén vàngNgựa xe trăm cỗ về làng vinh quy

Mẹ cha đón chị dâu quỳVợ nhìn lấm lét bõ khi lỡ thời

15Bình sinh chí nguyện trọn đớiTrước khinh nay trong thốt lời tiểu nhân

Hợp Tung chẳng đề diệt TầnChỉ mong trả hận người thân riêng mình

Dùi đâm vào vế mưu danh20Than ôi người ấy quả tình nhỏ nhen

Tô Tần sử sách ghi tênMiếu Tô Tần vẫn còn bên đường mòn

Ngựa xe vàng ngọc chẳng cònTrước đình chỉ thấy cỏ non rờn rờn

25Người đời đọc truyện Tô TầnLợi danh còn để lụy thân thực buồn.

Đối chiếu với Truyện Tô Tần24 trong SửKý của Tư Mã Thiên, người đọc thấyhai bài Nguyễn Du viết về Tô Tần trên

24Truyện Tô Tần, Sử Ký Tư Mã Thiên, sách

đã dẫn, tr. 376-404.

Page 137: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

đây dường như dưng trên những thoạiquanh việc Tô Tần đối xử với người thântrong gia đình riêng mà đánh giá nhàbiện sĩ này. Nguyễn Du trích dẫn lời TôTần nói với thân nhân, ngày đeo ấn sáunước về nhà: tiền cứ hậu cung, nghĩa làtrước kia sao khinh rẻ sao nay kínhtrọng, và cho đó là lời của kẻ tiể nhân.Điều đó chứng tỏ rằng Nguyễn Du muốndùng những thoại về Tô Tần đó để suynghĩ về mối thù hận nhỏ nhen trongtương quan giữa một người buộc mìnhvào danh lợi, đối với người thân tronggia đình trước và sau khi thành đạt.Ngoài ra, Nguyễn Du còn muốn dùngtruyện Tô Tần để trình bày với ngườiđọc thơ ông cái mối nguy hại của lợidanh trong đời sống con người.

Sau hai bài viết về biện sỉ Tô Tần, cũngtrong dòng thơ vinh sử Trung Quốc đó,Nguyễn Du viết tiếp hai bài về thíchkhách Dự Nhượng25:

豫 讓橋 匕 首行Dự Nhượng Kiều Chủy Thỷ Hành

晉 陽 城 外 滔 滔 水

Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy

智 伯 漆 頭 為 溺 器

Bá Trí tất đầu vi niệu khí

無 人 報 仇 誠 可 悲

Vô nhân báo cừu thành khả bi

其臣 豫 讓 身 當 之

Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi

漆 身 為 癩 剔鬚 眉5Tất thân vi lại dịch tu mi

當 道 乞 食 妻 不 知

Đương đạo khất thực thê bất tri

身 挾 匕 首 伏 橋 下

Thân hiệp chủy thủ phục kiều hạ

25Thích Khách Liệt Truyện, đoạn 3, Sử Ký

Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, tr. 559-562.

怒 視 仇 腹 甘 如 飴

Nộ thị cừu phúc cam như di

殺 氣 凜 凜 不 可 近

Sát khí lẫm lẫm bất khả cận

白 日 無 光 霜 雪 飛10Bạch nhật vô quang sương tuyết phi

再 獲再 舍 心 不 移

Tái hoạch tái xả tâm bất vi

臨 死 猶 能 三 擊 衣

Lâm tử do năng tam kích y

凌 凌 奇 氣 千 霄 上

Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng

自 此 橋 名 更 豫 讓

Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng

君 臣 大 義 最 分 明15Quân thân đại nghĩa tói phân minh

國 士 眾 人各 易 上

Quốc sĩ tối nhân các dị thượng

愧 殺 人 臣 懷 二 心

Qúy sát nhân thần hoài nhị tâm

千 古 聞 之 色 惆 悵

Thiên cổ văn chi sắc trù trướng

不 是 荊 軻 聶 正 徒

Bất thi Kinh Kha Nhiếp chính đồ

甘 人 豢 義 輕 其 軀20Cam nhân hoạn dưởng kinh kỳ khu

血 氣 之 勇 不 足 道

Huyết khí chi dũng bất túc đạo

君 獨 錚 錚 鐵 丈 夫

Quân độc tranh tranh thiết trượng phu

路 經 三 晉 皆丘 土

Lộ kinh tam tấn giai khâu thổ

注目 橋 邊 如 有 睹

Chú mục kiều biên như hữu đổ

西 風 淒 淒 寒 逼 人25Tây phong thê thê hàn bức nhân

征 馬 頻 頻 驚 失 路

Chinh mã tần tần kinh thát lộ

匕 首 當 時 七 寸 長

Chủy thủ đương thời thất thốn trường

Page 138: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

獨 有 萬 丈 光 芒 亙 古 今

Độc hữu vạn trượng quangmang cắng cổ kim

dịch là:

Bài Hành Lưỡi Dao Găm Dự Nhượng

Tấn Dương nước cuốn lở bờXót đầu Trí Bá đựng dơ nhục nhằn

Thù chưa báo hận còn cămGia thần Dự Nhượng một thân chí tình

5Mày râu cạo nhẵn sơn mìnhĂn xin giả hủi trá hình kế sâuDấu dao ngắn nấp dưới cầu

Nhằm đâm bụng địch mưu cao vẹn toànBừng bừng sát khí khó gần

10Giữa trưa trời bỗng tối sầm tuyết sươngMấy lần bắt thả một lòng

Chết kề chém áo những mong đáp đềnNgất trời khí tiết lưu truyền

Lấy tên Dự Nhượng đặt tên cho cầuVua tôi nghĩa cả lớn lao

Chúng nhân quốc sĩ khác nhau đôi đườngLàm tôi thẹn kẻ hai lòng

Một lời vạn thủa xót thương chân thànhChẳng như họ Nhiếp họ Kinh

Mang ơn biệt đãi vị tình xả thânNói chi dũng khí hùng tâm

Riêng ông gang sắt ngàn năm ai bằngĐuờng Tam Tấn gò bải hoang

Bên cầu chợt thoáng bàng hoàng bóng aiGió tây lạnh thấm bờ vai

Hãi hùng ngựa hý đường dài lỏng cươngLưỡi dao ngắn chẳng đầy gang

Cổ kim muôn trưởng hào quang sáng ngời

Dự Nhương người nước Tấn, thời XuânThu, làm tôi quan đại phu Phạm TrungHàng nước Tấn. Phạm Trung Hàng bịTrí Bá giết, Dự Nhương làm tôi cho BáTrí, lúc đó là thượng khanh cầm quyềnnước Tấn. Trí Bá ép hai nước nhỏ Hànvà Ngụy hội quân đánh nước Triệu.Triệu Tương Tưử cố thủ thành TấnDương. Trí Bá vây Tấn Dương và dùngthủy công tháo nước sông Tấn vào TấnDương hại Triệu Tương Tử. Kế khôngthành vì bị quân Hàn và Ngụy làm phản.Trí Bá thua chạy trốn, sau bị TriệuTương Tử giết, lấy sọ làm đồ đựng chất

dơ. Dự Nhượng quyết tâm báo thù choTrí Bá. Nhưng bị Triệu Trương Tử bắtba lần, tha hai lần, đến lần thứ ba mớigiềt. Triệu Trưong Tử hỏi Dự Nhượng:“Trước kia người thờ Phạm Trung Hàng,sao Trí Bá giết Phạm Trung Hàng ngươikhông báo thù? Nay ta giết Trí Bá ngươimột mực báo thù?”. Dự Nhượng trả lời:“Họ Phạm đãi tôi như người thường, tôicũng báo lại như người thường. Trí Báđãi tôi như quốc sĩ, cho nên tôi cũng lấytư cách quốc sĩ mà báo lại.”

Sau khi bị bắt và được tha, bạn bè có hỏiDư Nhượng sau không lợi dụng lòngTriệu Tương Tư yêu mến mà tính truyệngần gữi rồi lập kế giết Triệu Tương Tửmà lại khổ thân sơn mình cho khổ thân.Dự Nhương cho kế đó là kế hai lòngđáng hổ thẹn mà không theo.

Bị Triệu Tương Tử bắt lần thứ ba, vàđem ra giết, trước khi chịu chết DựNhượng xin được đánh vào chiếc áo bàocủa Trí Bá ba cái để hả lòng. TriệuTương Tử khen là người có nghĩa, saingười cầm áo bào đưa cho Dự Nhượng.Dự Nhượng tuốt kiếm nhẩy lên đâm banhát và nói: “Ta có thể chết để báo ơnTrí bá đưọc rồi.” Đoạn phục gươm tựsát.

So sánh Dự Nhượng với Nhiếp Chính vàKinh Kha, hai thích khách nổi danh kháctrong Sử Ký của Tư Mã Thiên, NguyễnDu cho Dư Nhượng, chết vì lòng trungcủa quốc sĩ đối với vua, còn Kinh Khavà Nhiếp Chính chết vì bị mua chuộc.Trước mắt Nguyễn Du, đất Tam Tấn, tứcnước Tấn sau khi Bá Trí chết, bị chia ralàm ba cho ba nước Triệu, Hàn và Ngụy,thì nay chỉ còn là gò hoang, nhưng bêncầu dường như hồn ma Dự Nhượng chưatan. Ngựa đi qua đó còn hý vang. Lưỡidao ngắn của Dự Nhượng vẫn còn ngờisáng.

Page 139: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Truyện Dự Nhượng còn khởi hứng choNguyễn Du viết bài:

豫 讓 橋Dự Nhượng Kiều

豫 讓 匿 身 剌 襄 子

Dự Nhượng nặc thân thích Tương Tử

此 地 因 名 豫 讓 橋

Thử địa nhân danh Dự Nhượng kiều

豫 讓 既 殺 趙 亦 滅

Dự Nhượng ký sát Triệu diệc diệt

橋 邊 秋 草 空 蕭 蕭

Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu

君 臣正 論 堪 千 古

Quân thần chính luận kham thiên cổ

天 地 全 經 盡 一 朝

Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu

凜 列 寒 風 秋 日 薄

Lẫm liệt hàn phong thu nhật bạc

奸 雄 過 此 尚 魂 消

Gian hùng quá thử thưọng hồn tiêu.

dịch là:

Cầu Dự Nhượng

Giết hụt Tương Dự núp đâyLấy tên Dự Nhượng cầu này đặt tên

Dụ chết nước Triệu đổ liềnÚa vàng cây cỏ đôi bên thu tànNgàn đời luận nghĩa vua quan

Đất trời đạo lớn vẹn toàn sớm maiGió đông lạnh lẽo nắng phai

Gian hùng qua đó hồn bay rùng mình.

Trong hai câu đầu Nguyễn Du nhắc lạitích Dụ Nhượng núp dưới cầu chờ TriệuTương Tư đi qua thì nhẩy ra hành thích.Vì thế cầu mang tên Dự Nhượng. Nhưngnay Nguyễn Du chỉ thấy cỏ cây hai bênbờ vàng úa vì mùa thu đang tàn. Câunăm và câu sáu, Nguyễn Du lần lưọtnhắc tới truyện Dư Nhượng luận vềnghĩa vua tôi, không chịu hàng Triệu

Tương Tử rồi kiếm dịp hành thích, vìcho thế là cư sử hai lòng; câu tiếp theo làtruyện Dự Nhương sau khi đâm vào áobào của Triệu Tương Tư, coi là đền ơnTrí Bá, rồi quay gươm tự vẫn. NguyễnDu qua cầu Dự Nhượng chỉ nghe thấygió đông lành lạnh, trong mầu nắng nhạt.và liên tưởng đến những kẻ gian hùngqua cầu này sợ hãi bạt vía bay hồn.

Tiếp theo cái chết vì danh của thíchkhách Dự Nhượng, Nguyễn Du đi qualàng cũ của Kinh Kha, cũng là một thíchkhách mà cái chết được nhiều người tántụng trong văn học Đông Á, ông khởihứng viết bài thơ dài dưới đây:

荊 軻 故 里Kinh Kha Cố Lý

白 虹 貫 日 天 漫 漫

Bạch hồng quán nhật thiên man man

風 蕭 蕭兮 易 水 寒

Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn

歌 聲 慷 慨 金 聲 烈

Ca thanh khảng khái kim thanh liệt

荊 軻 從 此 入 秦 關

Kinh Kha tòng thử nhập tần quan

入 秦 關 兮 持 匕 首5Nhập Tần quan hề trì chủy thủ

六 國 深 仇 一 引 手

Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ

殿 上 猝 然 一 振 驚

Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh

左 右 手 搏 王 環 柱

Tà hữu thủ bác vương hoàn trụ

階 下 舞 陽 如 死 人

Giai hạ Vũ Dưong như tử nhân

神勇 毅 然 惟 獨 君10Thần dũng nghị nhiên duy độc quân

縱 然 不 殺 秦 皇 帝

Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế

Page 140: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

也 算 古 今 無 比 倫

Dã toán cổ kim vô tỷ luân

怪 底 行 蹤 原 巿 隱

Quái để hành tung nguyên thị ẩn

曾 與 燕 丹無 夙 分

Tằng dữ Yên Đan vô túc phận

殺 身 只 為 受 人 知15Sát thân chỉ vĩ thũ nhân tri

徒 得 田 光 輕 一 刎

Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn

可 憐 無 辜 樊 於 期

Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ

以 頭 佐 人 無 還 時

Dĩ đầu tá nhiên vô hoàn thì

一 朝 枉 殺 三 烈 士

Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ

咸 陽 天 子 終 巍 巍20Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy

燕 交 一 望 皆 塵 土

Yên giao nhất vọng giai trần thổ

秋 日 秋 風 滿 官 路

Thu nhật thu phong mãn quan lộ

巿 上 歌 聲 不 復 聞

Thị thượng ca thanh bất phục văn

易 水 波 流 自 今 古

Dịch thủy ba lưu tự kim cổ

故 里 枳 棘 縱 復 橫25Cố lý chỉ cức tung phục hoành

只 有 殘 碑 猶 未 傾

Chỉ hữu tàn bi do vị khuynh

莫 道 匕 首 更 無 濟

Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế

揭 竿 斬 木 為 先 聲

Yết can trảm mộc vi tiên thanh.

dịch là:

Làng Cũ Kinh Kha

Trời hồng mống trắng tiễn đưaNước sông Dịch lạnh gió lùa giá băng

Tiếng ca khẳng khái sắt vàngKinh Kha lẫm liệt bước sanh đất Tần

5Thủ dao ngắn vào cung TầnThù sau sáu nước một thân đáp đền

Bỗng nhiên chấn động điện trênTần vương quanh cột bá quan cuống cuồng

Dưới thềm chết đứng Vũ Dương10Kinh Kha thần dũng can trường hiên ngang

Dầu không giết được Tần HoàngNhưng ai sánh nổi cho bằng xưa nay

Vốn người tu chợ nơi đâyVới Yên Đan chẳng nghĩa dầy ơn sâu

15Chỉ vì ý hợp tâm đầuMột thân liều chết chẳng cầu chi hơn

Điền Quang tự vẫn thác oanĐem đầu cho mượn thiệt thân Ô Kỳ

Uổng ba liệt sĩ đương thì20Hàm Dưong ngôi cả uy nghi vẫn bền

Mịt mờ cát bụi đất YênĐường quan nắng quái xiên xiên cuối trời

Tiếng ca giữa chợ tắt rồiNước sông Dịch vẫn chẩy xuôi chẳng ngừng

25Làng xưa gai cỏ như rừngBia tàn còn đó mấy từng rêu xanhChớ rằng dao ngăn không thành

Cờ sào giáo gỗ dân lành noi gương.

Kinh Kha người nước Vệ, sau dời sangnước Yên. Làng cũ của Kinh Kha ở trênđất Yên, gần Bắc Kinh ngày nay. TháiTử Đan, con của Hỷ Yên Vương, bị đưasang Tần làm con tin, gặp Tần DoanhChính thành đôi bạn nhỏ chơi đùa cùngnhau. Tần Doanh Chính sau đó lên ngôi,tức là Tần Thủy Hoàng, đối xử khôngđẹp với thái tử Đan. khiến thái tử Đan bỏtrốn về nước. Đến khi Tần Thủy Hoàngđánh bại Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn, sắpsửa đánh Yên, thì thái tử Đan lo sợ tìmkiếm khách dũng cảm sang Tần uy hiếpvua Tần bỏ ý đồ đánh Yên hoặc giếtchết. Điền Quang tiến cử Kinh Kha giúpthái tử Đan làm việc đó.

Ngày Kinh Kha vượt sông Dịch sangTần, có người bạn là Cao Tiệm Ly thổisáo tiễn đưa, Kinh Kha hát bài:

風 蕭 蕭 兮 易 水 寒

Phong tiêu tiêu hê Dịch thủy hàn

Page 141: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

壯 士 一 去 兮 不 復 還

Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn

nghĩa là:

Gió se sắt hề nước sông Dịch lạnhTráng sĩ một đi hề không trở lại.

Để khích lệ Kinh Kha, đồng thời bảomật kế hoạch, Điền Quang người tiến cửKinh Kha với thái tử Đan, tự tử. Để TầnThủy Hoàng khỏi nghi ngờ, Phàn Ô Kỳ,một vị tướng cũ của nhà Tần, có lỗi vớiTần Vương Chính, trốn sang Yên, khảngkhái tự tử, cho kinh Kha mượn cái đầumang nộp vua Tần làm tin. Đi theo KinhKha vào triều vua Tần, còn có VũDương, một kiếm khách nổi danh đươngthời.

Vào tới triều đình nhà Tần, Kinh Khacầm bản đồ dâng lên vua Tần, vua Tầnmở bản đồ, Kinh Kha cầm kiếm ngắn uyhiếp vua Tần. Vua Tần vùng dậy chạyquanh cột tránh né, các quan tay khôngnhẩy lên điện trên đuổi đánh Kinh Kha.Vua Tần tuốt được gươm, chém chếtKinh Kha.

Kế hoạch không thành, chết uổng ba liệtsĩ: Điền Quang, Phàn Ô Kỳ và KinhKha, ngôi vua của Tần Thủy Hoàngkhông đổ. Nhưng gưong sáng của KinhKha đã khiến sau này Trần Thắng vàNgô Quảng khởi nghĩa cùng dân chúngchống Tần Thủy Hoàng.

Sứ bộ đi ngang miếu vua Nghiêu, gợihứng cho Nguyễn Du viết bài:

帝 堯 廟Đế Nghiêu Miếu

太 虛 一 點 大 觀 之

Thái hư nhất điểm đại quan chi

天 地 無 功 萬 物 資

Thiên địa vô công vạn vật tư

在 日 茅 茨 猶 不 剪

Tại nhật mao tỳ do bất tiễn

後 身 香 火 更 何 為

Hậu thân hương hỏa cánh hà vi

一 中 心 法 開 群 帝

Nhất trung tâm pháp khai quần đế

千 古 崇 祠 對 九 疑

Thiên cổ sùng từ đối cửu nghi

曾 向 許 由 讓 天 下

Tằng hướng Hứa Do nhượng thiên hạ

聖 人 名 實 有 誰 知

Thánh nhân danh thực hữu thùy tri.

dịch là:

Miếu Đế Nghiêu

Thái hư một điểm sánh cùngVô công muôn vật cậy trông nương nhờ

Nhà xưa mái cỏ thô sơThì nay hương khói phụng thờ kể chi

Nhất trung mở đạo trị vìĐền thiêng vạn cổ Cửu Nghi chẳng dời

Hứa Do những muốn nhường ngôiThánh nhân danh thực ai ngưòi biết đây.

Vua Nghiêu là vị vua đầu tiên mở nướcTrung Quốc sau truyền ngôi cho vuaThuấn. Vua Nghiêu và vuaThuấn là biểutượng của bậc vua lý trưởng. Hai câu mởđầu, Nguyễn Du so sánh Vua Nghiêu vớithiên nhiên theo quan niệm của Lão Tử:không làm mà chẳng có bỏ sót một việcgì, khiến muôn vật có nơi cậy trôngnương nhờ. Hai câu sau ông nhắc lạitruyện vua Nghiêu khi đang trị vì, khôngxây cung điện mà ở dưới mái tranh, thìngay đâu xây miếu hương khói phụngthờ lảm gì. Hai chữ nhất trung trong câuthứ năm tác giả rút từ lời vua Nghiêudặn dò vua Thuấn: Doãn cháp quyếttrung, nghĩa là giữ vững đạo trung, điềunày mở lối cho các vua đời sau, lời nàyngàn thủa lưu truyền như đền vuaNghiêu trên núi Cửu Nghi. Hai câu kết,tác giả nhắc tới truyện vua Thuấn muốnnhường ngôi cho cao sỉ Hứa Do, Hứa Do

Page 142: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

không nhận vì hai chữ danh và thực, vàNguyễn Du tự hỏi ai là ngưòi biết haichữ này .

Sứ đoàn đi ngang mộ Lưu Linh, mộttrong Trúc Lâm Thất Hiền, nổi tiếng vìbài Tửu Đức Tụng, ca ngợi cái đức củarượu, khiến Nguyễn Du có hứng viết bài:

劉 伶 墓Lưu Linh Mộ

劉 伶 之 子 不 成 才

Lưu linh chi tử bất thành tài

荷 插 揚 言 死 便 埋

Hà sáp dương ngôn tử tiện mai

醉 裡 已 能 齊 萬 物

Túy lý dĩ năng tề vạn vật

死 時 何 必 念 遺 骸

Tử thời hà tất niệm hình hài

千 年 古 墓 長 荊 棘

Thiên niên cổ mộ trường kinh cức

萬 里 官 道 多 風 挨

Vạn lý quan đạo đa phong ai

何 似 清 醒 看 世 事

Hà tất thanh tỉnh khan thế sự

浮 萍 擾 擾 更 堪 哀

Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.

dịch là:

Mộ Lưu Linh

Lưu linh dầu chẳng thành tàiChết đâu vùi đó lời này con lưu

Lúc say muôn sụ như nhauDi hài nhắm mắt lẽ đâu bận lòng

Ngàn năm gai cỏ mồ hoangBên trời muôn dặm đường quan bồi hồi

Cớ sao cứ tỉnh nhìn đờiSắt se bèo nước nổi trôi dập dềnh.

Trong hai câu mở đầu, Nguyễn Du nhắclại lời Lưu Linh, lúc còn sống ngồi xethường có người hầu vác mai đi theo, và

nói rằng: ‘ chết đâu vùi đó’. Nguyễn Ducho rằng, nếu theo thuyết Tề Vật Luậncủa Trang Tử, mọi vật đều như nhau thờilúc chết rồi sao còn cần gì bận lòng vềcái xác thừa. Nay, Nguyển Du đi quangôi mộ hoang đầy gai cỏ mà thưongthân mình đang trên đường ngàn dặmđầy cát bụi. Hai câu kết, Nguyễn Du nhưtự nhủ, sao mình cứ nhìn đời bằng conmắt người tỉnh, rồi ông trích Tửu ĐứcTụng của Lưu Linh, thương cho kiếpngười như cánh bèo trôi.

Sau mộ Lưu Linh, sứ đoàn qua mộ KỳLân, Nguyễn Du viết áng thơ dài:

麒 麟 墓Kỳ Lân Mộ

河 北 道 中

Hà Bắc đạo trung

五 尺豐 碑 當 大 路

ngũ xích phong bi đương đại lộ

中有楷 字 大 書 麒 麟 墓

Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ

道 傍 故 老 未 余 言

Đạo bàng cố lão vị dư ngôn

永 樂 四 年

Vĩnh Lạc tứ niên

貢 麟 道 死 葬 此 土

cống lân đạo tử táng thử thổ

官 命 立 碑 用 存 故5Quan mệnh lập bi dụng tồn cố

此 事 迄 今 已 經 古

Thế sự hất kim dĩ kinh cổ

但 見 官 道 蕩 蕩 無 丘 陵

Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng

其 旁 不 封 亦不 樹

Kỳ bàng bất phong hựu bất thụ

片 石 傾 欺 苔 蘚 蔓

Phiến thạch khuynh khi đài tiển mạn

淒 風 朝 吹 暮 苦 雨

Page 143: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

10Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ

吁 嗟 麟 乎 何 由 睹

Hu ta lân hề hà do đổ

吁 嗟 麟 乎天 上 祥

Hu ta lân hề thiên thượng tường

骨 肉 委 之 虫 蟻 蠹

Cốt nhục ủy chi trùng nghị đố

麟 兮 麟 兮 爾 何 苦

Lân hề lân hề nhĩ hà khổ

何 況 燕 棣 何 如 人15Hà huống Yên Đệ hà như nhân

奪 姪 自 立 非 仁 君

Đoạt điệt tự lập phi nhân quân

暴 怒 一 逞 夷 十 族

Bạo nộ nhất sính di thập tộc

大 棒 巨 鑊 烹 忠 臣

Đại bổng cự hoạch phanh trung thần

五 年 所 殺 百 餘 萬

Ngũ niên sở sát bách dư vạn

白 骨 成 山 地 血 殷20Bạch cốt thành sơn địa huyết ân

麟 兮 果 為 此 人 出

Lân hề quả vị thử nhân xuất

大 是 妖 物 何足 珍

Đại thị yêu vật hà túc trân

或 是 爾 生 不 忍 見 剎 戮

Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục

先 就 此 地 捐 其 身

Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân

吁 嗟 仁 獸 兮 麒 麟25 Hu ta nhân thú hề kỳ lân

於 世 不 見 以 為 祥

Ư thế bất kiến dĩ vi tưòng

見 之 不 過 同 犬 羊

Kiến chi bất quá đồng khuyển dương

若 道 能 為 聖 人 出

Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất

當 世 何 不 南 遊翔

Đưong thế hà bất mam du tường

dịch là:

Mộ Kù Lân

Nẻo Hà Bắc bia bên đườngKỳ Lân Mộ chữ chân phương chưa mờ

Hỏi thăm ông lão ậm ừRằng năm Vĩnh Lạc thứ tư lâu ngày

5Cống lân chết xác vùi đâyDựng bia quan khiến truyện nay ai màng.

Đường quan một dải thênh thangBên bia không mộ đất bằng không cây

Đổ nghiêng bia đá rêu đầy10Dầm mưa dãi gió tháng ngày bấy lâu

Kỳ lân hỡi nay ở đâuBáo điềm lành tự trời cao xuống trần

Chết cho sâu kiến khoét thânThương lân quá khồ xót lân nghẹn ngào

15Yên vương là kẻ ra saoCướp ngôi của cháu lẽ nào có nhân

Giết mười họ hả cơn sânĐánh đòn đốt xác trung thần đòi phen

Giết hơn trăm vạn dân đen20Núi xương biền máu bốn bên điêu tan

Nếu vì người đó xuống trầnÔi lân yêu vật ai cần thấy mi

Nơi đây gửi xác mi điTrốn cảnh chém giết nên mi lìa trần

25Kỳ lân linh thú có nhânNgười đời it thấy gặp lân điềm lành

Thấy thường dê chó coi khinhNếu vì thánh chúa giáng sinh xuống trần

Sao lân không xuống đất Nam.

Theo sách cổ, kỳ lân là một linh thú,không giẫm lên vật sống, không bẻ cànhcây tươi, nên gọi là loài thú có nhân. Chỉkhi nào trong nước có thánh nhân trị vìthì kỳ lân mới hiện ra, để báo một đờithịnh trị. Câu truyện cổ ông lão bênđường kể cho Nguyễn Du nghe, vói chitiết lịch sủ vào năm Vĩnh Lạc thú tư, lânmang cống vua nhà Minh chết chôn bênđường, nay chỉ còn bia không còn mả,đã gợi cho ông nhớ lại vụ vua Thành Tổnhà Minh cuớp ngôi của cháu, gây rốiloạn trong triều đình. Giết chín họ côngthần Phương Hiếu Nhụ và toàn thể họctrò của ông, chỉ vì ông không thảo chiếunhường ngôi; gây chiến tranh khiến dânđen chết cả trăm vạn. Bởi sinh nhầm thời

Page 144: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

hôn quân mà kỳ lân đã chết. Nguyễn Dumong ước kỳ lân tái sinh ở miền nam đểtránh cho đất nước và dân lành cảnhsống dưới triều bạo chúa, nếu quả kỳ lânlà một linh vật.

Sứ bộ đi qua Yển Thành, nợi xưa kiatướng nhà Tống là Nhạc Phi đóng quân.Truyện Nhạc Vũ Mục bị Tần Cối giảlệnh vua hãm hại gợi hứng cho NguyễnDu viết bài:

偃城 岳 武 穆 班 師 處Yển Thành Nhạc Vũ Mục Ban Sư Xứ

當 時 曾 駐 岳 家 軍

Đương thời tằng trú Nhạc gia quân

此 地 經 金 有 戰 塵

Thử địa kinh kim hữu chiến trần

大 將 空 懷 邦 國 恥

Đại tướng không hoài bang quốc sỉ

君 王 已 絕 父 兄 親

Quân vương dĩ tuyệt phụ huyng thân

金 牌 十 二 有 遺 恨

Kim bài thập nhị hữu di hận

鐵 騎 三 千 空 暮 雲

Thiết kỵ tam thiên không mộ vân

血 戰 十 年 成 底 事

Huyết chiến thập niên thành để sự

風 波 亭 下 謝 金 人

Phong ba đình hạ tạ kim nhân.

dịch là:

Yển Thành nơi Nhạc Vũ Mục Rút Quân

Nơi đây Nhạc Vũ đóng quânĐất này đã trải bao lần lửa binh

Tướng già vì nước liều mìnhCha anh vua đã dứt trình thương ôi

Kim bài di hận muôn đờiBa ngàn thiết kỵ mây trôi bềnh bồng

Mười năm huyết chiến uổng côngTạ quân Kim chết dưới Phong Ba đình.

Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi, người thờiNam Tống, giỏi cả văn lẫn võ. Đời vuaTống Huy Tông có công dẹp giặc đưọcphong Tinh Trung Nhạc Phi. Sau bị TầnCối lập mưu hảm hại chết. Đến đời vuaTống Hiếu Tông lại được phục chức.

Yển Thành là nơi Nhạc Phi từng đóngquân. Đất này đã trải qua nhiều lần chiếntrận. Mang danh đại tướng Nhạc Phikhông vướng nỗi quốc sỉ, trong khi vuaTống Cao Tông không còn nghĩ tới chalà Tống Huy Tông, anh là Tống CaoTông cả hai cùng bị quân Kim bắt. TầnCối chủ mưu hòa với quân Kim mộtngày nhân danh vua phát 12 kim bàitriệu Nhạc Phi về kinh. Nhạc Phi về tớinơi thì bị tống giam, bị giết chết tại điệnPhong Ba và tạ quân Kim để xin nghịhòa.

Sau chừng hai mươi ngày lưu tại BắcKinh, sứ bộ lên đường về phiá đông, đểvề nước. Nguyễn Du viết bài:

東 路Đông Lộ

泰 山 山 色 滿 青 徐

Thái sơn sơn sắc mãn Thanh Từ

千 里 山 東 縱 牧 初

Thiên lý Sơn Đông túng mục sơ

何 處 聖 賢 松 佰 下

Hà sứ thánh hiền tùng bách hạ

別 成 絃 誦 魯 鄒 餘

Biệt thành huyền tụng Lỗ Trâu dư

他 薌 顏 狀 頻 開 鏡

Tha huơng nhan trạng tần khai kính

客 路 塵 埃 半 讀 書

Khách lộ tràn ai bán độc thư

行 色 匆 匆 歲 雲 暮

Hành sắc mang mang tuế vân mộ

不 禁 憑 軾 歎 歸 歟

Bất câm bằng thức thán quy dư

Page 145: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dịch là:

Đường Xuôi Đông

Thanh Từ núp bóng Thái SơnSơn đông ngàn dặm vời trông ngại ngùng

Thánh hiền đâu dưới bách tùngSách đàn Trâu Lổ đôi vùng vẻ vang

Tha huơng đối bóng nhìn gươngLần trang rút ngắn ngày đường bụi bay

Nam tàn vội vã đưòng dàiNảo nề than thờ lòng ai thôi về.

Hành trình sứ bộ hướng về phía đôngtrên đường vê nước; đi qua hai châuThanh và châu Từ dưói chân rặng núiThái Sơn. Vùng này xưa thuộc nưóc Lỗ,quê của Khổng Tử và nước Trâu quê củaMạnh Tử. Ngồi xe, Nguyễn Du khôngbiết làm gì hơn là lấy gương soi, và đọcsách suốt ngày đề tạm khuây nỗi đưòngdài gió bụi. Nam hồ tàn. khiến NguyễnDu càng nóng lòng sớm về tới nhà; ôngnhắc lại hai chữ quy dư của Khổng Tử,ngày ông quay về quê cũ sau nhiều nămtháng đi chu du các nước chư hầu, để môtả nỗi mong mỏi này.

Sứ bộ đi ngang dài Tam Qui của QuảnTrọng, người nước Tề thời Chiến Quốc.Nguyễn Du khởi hứng viết bài:

管 仲 三 歸 薹

Quản Trọng Tam Quy Đài

舊 臺 湮 沒 草離 離

Cựu đài nhân một thảo ly ly

曾 以 梡 公 霸 一 時

Tằng dĩ Hoàn Công bá nhất thì

郡 縣 城 中 空 九 合

Quận huyện thành trung không cửu hợp

苺 苔 石 上 記 三 歸

Môi đài thạch thượng ký Tam Quy

在 朝 巧 與 君 心 合

Tại triều xảo dữ quân tâm hợp

沒 世 終 憐 相 業 卑

Một thế chung liên tướng nghiệp ty

喜 值 聖 朝 公 覆 幬

Hỷ trị thánh triều công phục đảo

往 來 臺 下雜 華 夷

Vãng lai đài hã tạp Hoa Di.

dịch là:

Đài Tam Quy của Quản Trọng

Lan tràn cỏ ngập đài hoangMột thời phò giúp Tề Hoàn ngôi cao

Chín lần hội họp chư hầuTam Quy bàn đá dấu rêu xoá nhòaĐương triều khéo đuợc lòng vua

Trọn đời công nghiệp vẫn chưa vẹn toànThánh triều công đức vẻ vang

Hoa di lui tới hân hoan dưới đài.

Quản Trọng ngưởi nuớc Tề, nay là vùngSơn Đông, khởi nghiệp giúp công tử Cư,sau thờ Hoàn Công làm chức tướngquốc, đưa nước Tề lên hàng giầu mạnhbá chủ thiên hạ: chín lần họp các vuachư hầu. Về già ông được Hoàn Côngtôn làm thưọng phu, thưởng đất TamQuy và xây đài cao ở đất này. Dầu đuọclòng vua như vậy, nhưng Khổng Tử chêông chí khí tiểu tai và Mạnh Tử chê ôngsự nghiệp tầm thường. Công nghiệp lớncủa Quản Trọng là đánh bại được các rợmiền Bắc, nhưng chính nhà Thanh cũnglà một rợ miền Bắc lúc đó đang làm vuaTrung Quốc.

Tiếp tới là bài:

榮 啓 期 拾 穗 處Vinh Khải Kỳ Thập Tuệ Xứ

三 樂 人 能 有

Tam lạc nhân năng hữu

如 何 子 獨 知

Như hà tử độc tri

Page 146: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

生 貧 猶 不 恤

Sinh bần do bất tuất

老 死 復 何 悲

曠 野 東 山 下

Khoáng dã Đông Sơn hạ

行 哥 拾 穗 時

Hành ca thập tuệ kỳ

賢 名 留 此 地

Hiền danh lưu thử địa

千 古 起 人 思

Thiên cổ khởi nhân tư

dịch là

Nơi Vinh Khải Kỳ Mót Lúa

Trời cho người ba niềm vuiLàm sao hưởng được trọn đời mình ông

Sống thanh bần chẳng bận lòngĐến già đến chết ngoài vòng khổ đau

Đông Sơn bát ngát đồng sâuKhúc ca mót lúa từng câu bổng trầm

Đất này ghi mãi danh thơmNgưòi nay tưởng nhớ ngàn năm lưu truyền.

Vinh Khải Kỳ là một ẩn sĩ đời XuânThu. Sách Liệt Tử chép truyện KhổngTử dạo chơi gặp Vinh Khải Kỳ ngoàiđồng ruộng, vùng Đông Sơn, đang cahát, bèn hỏi: “Ông có điều chi vui mà cahát vậy”. Vinh Khải Kỳ đáp: “Tôi có bađiều vui. Một là vui được làm người,quý hơn muôn vật. Hai là làm đàn ôngquý hơn đàn bà. Ba là vui sống tới chínmươi tuổi.”.

Đông Sơn là một rặng núi, thuộc tỉnhChiết Giang, nơi xưa tương Truyền VinhKhải Kỳ đi mót lúa trong cánh đồngdưới chân núi. Câu truyện Vinh Khải Kỳnày dường như mang lại cho tác giả mộtnguồn vui, trái với phần lớn truyện cácanh hùng vĩ nhân khác trong sữ TrungQuốc, thường chỉ mang lại cho ông mộtnỗi buồn thương cảm.

Tiếp theo là bài:

孟 子 祠 古 柳Mạnh Tử Từ Cổ Liễu

吾 聞 天 池 之 濆 有 龍 夭 矯

Ngô văn thiên trì chi phần hữu long yêu kiểu

今 之 畫 圖 無 略 肖

Kim chi họa đồ vô lược chiếu

風 雨 一夜 飛 下 來

Phong vũ nhất dạ phi hạ lai

化 為 亞 聖 宮 門 柳

Hoá vi á thánh cung môn liễu

此 柳 渾 全 百 十 圍5Thử liễu hồn toàn bách thập vi

養 成 大 物 非 一 時

Dưỡng thành đại vật phi nhất thì

雨 露 天 意 獨 滋 潤

Vũ lộ thiên ý độc tư nhuận

鬼 神 暗 中 相 扶 持

Quỷ thần ám trương phù trì

枝 柯 落 落 老 益 壯

Chi kha lạc lạc lão ích tráng

歲 月 悠 悠 深 不 知10 Tuế nguyệt du du thâm bất tri

左 蟠 右 轉 當 大 道

Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo

過 客 不 敢 攀 其 枝

Quá khách bất cảm phan kỳ chi

匆 匆 鬱 鬱 抱 元 氣

Thông thông uất uất bão nguyên khí

天 下 斯 文 其在 斯

Thiên hạ tư văn kỳ tại tư

鄉 人 支 以 二 石 柱15Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ

石 柱 既 深 根 愈 固

Thạch trụ ký thâm căn dụ cố

不 同 凡 卉 小 春 秋

Bất đồng phàm hủy tiểu xuân thu

半 畝 風 煙 自 今 古

Page 147: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bán mẫu phong yên tụ kim cổ

灝 然 之 氣 非 尋 常

Hạo nhiên chi khí phi tầm thường

大 才 應 與 天 齊 壽20Đại tài ưng dũ thiên tề thọ

dịch là:

Cây Liễu Cổ Đền Mạnh Tử

Hằng nghe:Rồng vàng vùng vẫy ao trời

Tranh này chẳng giống với lời mảy mayGió mưa rồng hạ nơi đây

Cửa đền Á thánh hóa cây liễu thần5Thân cây trăm lẻ ngưòi ôm

Nuôi cây cao lớn dầy ơn mới thànhNhờ trời mưa móc thấm nhuần

Thần phù qủy trợ ngấm ngầm mới nênSum suê cành cứng lá mềm

10 Càng già càng mạnh vững bền tháng nămĐôi bên tả hữu đường quan

Qua đường chẳng dám bẻ cành ngắt hoaẤp ôm nguyên khí chan hòa

Tư văn thiên hạ tinh hoa cõi này15Một đôi cột đá làng xây

Cột càng sâu chắc rễ cây càng bềnKhác phường cây dại cỏ hèn

Xưa nay nửa mẫu phong yên vững vàngHạo nhiên chí khí hiên ngang

20Cây cùng trời đất sống ngàn vạn năm.

Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên26, MạnhTử tên là Mạnh Kha, học trò Tử Tư,cháu của Khổng Tử. Sau thờ Tề TuyênVương, Tề Tuyên Vương không dùngông khiến ông phải sang nước Lương.Lương Huệ Vương cũng lưởng lự, cholời Mạnh Tủ là viển vông không sát thựctế. Lúc bấy giờ khắp chư hầu đang lohơp tung liên hoành, lấy truyện chinhchiến làm trọng, mà Mạnh Tử bàn vềĐưòng Ngu Tam Đại, nên đi đến đâu tuyđều được kính trọng, không gặp khókhăn như Khổng Tử, nhưng cũng khôngđược vừa ý. Ông lui về cùng Vạn

26Sử Ký Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, Mạnh

Tử, Tân Khanh Liệt Truyện, tr. 433-435

Chương, xếp đặt lại Kinh Thi Kinh Thưcủa Khổng Tử, làm bẩy thiên sách MạnhTử.

Mạnh Tử chủ trương trọng nhân nghĩa,nên cho rằng chiến tranh là việc phinghĩa. Người đời sau học sách ông tônông lên bậc Á Thánh của đạo Nho.

Nguyễn Du cùng sứ bộ qua đền Á ThánhMạnh Tử. Ông so sánh cây liễu cổ trướcđền với cây liễu đó vẽ trong tranh mànhận ra điểm khác biệt. Ông cũng kể lạithoại lưu truyền nói rằng câu liễu vốn làcon rồng từ trời cao giáng xuống màthành. Ông ca tụng cây liễu cổ sống cảhơn hai ngàn năm, như biểu tượng chochí khí nhà nho.

Cuộc hành trình về nước đưa sứ bộ quaCầm Đài của Kê Khang, Nguyễn Du viếtbài dưới đây:

嵇 康 琴 薹Kê Khang Cầm Đài

琴 臺 古 跡 記 嵇 康

Cầm đài cổ tích ký Kê Khang

人 死 琴 亡 臺 亦 荒

Nhân tử cầm hoang đài diệc hoang

文 武 七 絃 終 寂 寂

Văn võ thất huyền chung tịch tịch

東 西 兩 晉 亦 芒 芒

Đông tây lưỡng Tấn diệc mang mang

至 今 不 杇 惟 童 性

Chí kim bất hủ duy đồng tính

此 後 何 人 到 醉 鄉

Thử hậu hà nhân đáo túy hương

嘆 息 廣 陵 絃 絕 後

Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu

琵 琶 新 譜 半 胡 姜

Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương.

Page 148: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dịch là:

Cầm Đài của Kê Khang

Cầm đài đồn của Kê KhangNgười đi đàn vắng đài hoang bấy chầy

Vũ văn bặt tiếng bẩy dâyBiệt tăm Lưỡng Tấn đông tây vô thưòng

Danh truyền trẻ tính dễ thươngSau này ai kẻ noi đường làng say

Quảng Lăng dứt khúc bi aiTỳ bà điệu mới lẫn bài Hồ Khương.

Kê Khang (223-262) tên thực là ThúcDạ, người đời Tấn, một trong Trúc LâmThất Hiền, đàn rượu tuyệt hay. Sùng đạoLão Trang, coi thường Nho đạo, lúc đónhà Tấn đưa lên hàng quốc giáo. Nhânvụ Kê Khang bênh vực bạn ông là LữAn bị cáo tội bất hiếu, ông bị Chung Hộivu cáo tội bất hiếu và kết tội tử hìnhcùng với Lữ An. Trước khi thụ hình, ônggẩy khúc Quảng Lăng Tán. Đàn xongông nói: “Có kẻ xin học bài đàn này takhông dậy, thế là từ nay khúc đàn nàykhông còn ai đàn nữa.” Ông để lại nhiềubản văn xuôi bàn về âm nhạc nổi tiếngđến ngày nay. Hai câu kết cho hay là sauKê Khang âm nhạc Trung Quốc pha lẫnâm điệu người Hồ Khương.

Tiếp thục hành trình về phiá đông, sừ bộtheo đương núi huyện Đông A, NguyễnDu ghi lại cảnh bên đường trong bài:

東 阿 山 路 行Đông A Sơn Lộ Hành

東 阿 路 出 亂 山 中

Đông A lộ xuất loạn sơn trung

萬 樹 松 杉 一 逕 通

Vạn thụ tùng sam nhất kính thông

澗 霧 自 生 宜 隱 豹

Giản vụ tự sinh nghi ẩn báo

溪 雲 無 事 懶 從 龍

Khê vân vô sự lãn tòng long

丘 陵 處 處 留 前 大

Khâu Lăng xứ xứ lưu tiền đại

桑 柘 家 家 近 古 風

Tang chá gia gia cận cổ phong

笑 我 白 頭 忙 不 了

Tiếu ngã bạch dầu mang bất liễu

嚴 寒 一 路 過 山 東

Nghiêm hàn nhất lộ quá Sơn Đông.

dịch là:

Trên Đưòng Núi Đông A

Đường Đông A núi trùng trùngHai bên vạn gốc sam tùng cheo leo

Sương mờ xoá vết hùm beoMây giăng lòng suối ngại theo cánh rồng

Dấu xưa vết cũ bên cồnThói lề đời trước tang nông lưu truyền

Cười mình đầu bạc truân truyênĐường dài giá lạnh bên miền Sơn Đông.

Hai câu đầu, Nguyễn Du ghi lại hình ảnhđưòng núi Đông A, núi non trùng trùng,sam tùng rậm rạp. Câu ba và bốn dưòngnhư tác giả muốn dùng điễn cũ ghi lạimột ý nghĩ về việc xuất xử. Câu thứ ba,lấy từ Liệt Nữ truyện. Vợ Đào Đápkhuyên chồng: “Thiếp nghe nói trên núiNam Sơn có con báo đen, trời sương mùbẩy ngày không xuống núi kiếm mồi vìmuốn giữ gìn bộ lông mượt của nó.” Câuthứ tư nhắc lại lời Khổng Tử trong KinhDịch: “Vân tòng long, phong tòng hổ.”Người đời sau dùng câu này đổ diễn tảviệc vua tôi gặp gỡ. Cả hai câu dưòngnhư diễn tả ý tác giả hối tiếc sao chẳngnhư con báo, giữ bộ lông đẹp mà phảisông sáo trên hoạn lộ. Lúc này lòng ôngnhư thấy ngại ngùng như mây suối ngạibay theo rồng. Với ý nghĩ đó ông cườiông bạc đầu con vất vả việc quan, trêncon đường dài rét mướt.

Rồi sứ đoàn đi ngang mộ Sở Bá Vương,làm tưóng nướs Sở, từng diệt nước Trần,

Page 149: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

lập ra nước Tây Sở, gợi hứng choNguyễn Du viết hai bài dưới đây:

楚 霸 王 墓Sở Bá Vương Mộ

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

拔 山 扛 鼎 奈 天 河

Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà

夙 恨 悠 悠 寄 淺 沙

Túc hận du du ký thiển sa

霸 上 以 成 天 子 氣

Bá thượng dĩ thành thiên tử khí

帳 中 空 聽 美 人 歌

Trướng trung không thính mỹ nhân ca

眼 前 片 石 英 雄 在

Nhãn tiền phiến thạch anh hùng tại

事 後 群 儒 口 舌 多

Sự hậu quần nho khẩu thiệt đa

欲 覓 長 陵 一 坯 土

Dục mịch Trường Lăng nhất phôi thổ

赤眉 亂 後 遍 蓬 厤

Xích my loạn hậu biến bồng ma.

其 二

Kỳ NHị

路 旁 片 石 獨 崢 嶸

Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh

不 是 烏 江 是 魯 城

Bất thị Ô Giang thị Lỗ Thành

及 識 敗 亡 非 戰 罪

Cập thức bại vong phi chiến tội

空 勞 智 力 與 天 爭

Không lao trí lực dữ thiên tranh

古 今 無 那 英 雄 盡

Cổ kim vô ná anh hùng tận

風 雨 獨 聞 叱 吒 聲

Phong vũ độc văn sất sá thanh

寂 寂 二 時 無 掃 祭

Tịch tịch tảo thời vô tảo tế

春 來 虞 草 自 叢 生

Xuân lai Ngu thảo tự tùng sinh.

dịch là:

Mộ Sở Bá Vương

Hai Bài

I

Sức dời non chẳng lại trờiHận vùi cát mỏng ngàn đời chưa tan

Con Trời Bá Thưọng hiển thânSau màn tiếng hát giai nhân não nùng

Đá còn ghi dấu anh hùngBại thành nho giả chẳng ngừng chê khen

Muốn tìm ra nấm đất đenXích My tan giặc Trường Lăng gai đầy.

II

Bên đường tấm đá trênh vênhÔ Giang không dựng La Thành dựng lên

Bại vong chẳng tại tài hènUổng công đấu trí một phen với trời

Anh hùng kim cổ lệ rơiTrong mưa dưòng có tiếng người thét vang

Hương tàn khói lạnh vắng hoangCỏ ngu xanh mướt hàng năm xuân về.

Tây Sở Bá Vương tức Hạng Tịch, tênchự là Võ, nen quen gọi là Hạng Võ,cùng Lưu Bang tranh đoạt thiên hạ. TâySở Bá Vương bị thua trận Cai Hạ, chạytới Ô Giang thì tự vẫn.

Mở dầu bài thứ nhất Nguyễn Du nhắc lạitruyện sức khoẻ hơn đời của Hạng Võtừng được ca tụng là sức bạt núi hay cữđỉnh. Mà đàng mang hận xuống mồ dướilớp cát mỏng. Bá Thưọng là chỗ LưuBang đóng quân, thuộc tỉnh thiểm tây,tục truyền có đám mây năm sắc hìnhrồng hiện ra báo điềm Lưu Bang sẽ lên

Page 150: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

ngôi thiên tử. Câu thứ tư là truyện trongtư dinh Hạng Võ, ngày bị vây ở Cai Hạ,Hạng Võ vẫn làm thơ, vợ là Ngu Cơ họalại và hát. Hạng Võ cùng chư tướng đềurơi nước mắt.

Phiến đá trưóc mặt Nguyễn Du còn ghidấu anh hùng để nho giả đời sau bàn tán.Nguyễn Du liên tường tới mộ Lưu Bangở Trường Lăng, từ ngày giặc Xích Mylật đổ ngôi nhà Hán thời gai cỏ cũngmọc đầy.

Sang bài thứ hai, nhìn tấm đá đổ chênhvênh bên đường, Nguyễn Du nghĩ tớitruyện cũ, Hạng Võ tự vẫn tại Ô Giang,nhưng Lưu Bang còn dùng đầu Hạng Võdụ hàng Lỗ Thành, nên mồ Hạng Võ ởLỗ Thành, thay vì Ô Giang. Ông nhìnnhật là Hạng Võ bại trận không vì kémtài mà vì đã uổng công mang sức ngườira đấu với trời. Đó là cái hận khiến baoanh hùng từ xưa tới nay phải nuốt lệ,không riêng gì Hạng Võ lúc vĩnh biệtNgu Cơ, nhưng bên tai Nguyễn Dudường như còn nghe tiếng hét Hạng Võthúc quân trong mưa. Tâm bia hươngtàn khói lạnh, hàng năm cỏ ngu, trên mộNgu Cơ, vẫn còn xanh mướt ngày xuânvề.

Đi ngang mộ Liễu Hạ Huệ, Nguyễn Ducó bài:

柳 下 惠 墓Liễu Hạ Huệ Mộ

吳 店 橋 通 泗 水 波

Ngô Điếm kiều thông Tứ Thuỷ ba

士 師 名 蹟 未 消 蘑

Sĩ sư danh tích vị tiêu ma

事 人 直 道 寧 三 黜

Sữ nhân trực đạo ninh tam truất

作 聖 全 功 在 一 和

Tác thánh toàn công tại nhất hòa

相 對 尼 山 長 有 魯

Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ

可 憐 盜 跖 已 無 家

Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia

碑 殘 沒 字 埋 荒 草

Bi tàn một tự mai hoang thảo

千 古 聞 風 一 下 車

Thiên cổ văn phong nhất hạ xa.

dịch là:

Mộ Liễu Hạ Huệ

Cầu Ngô Điếm ngang Tứ GiangSĩ sư danh tích thời gian chẳng mòn

Ba lần truất một lòng sonChữ hòa bậc thánh nên công hơn người

Ni Sơn nước Lỗ há dờiThương cho Đạo Chích một đời tha hương

Bia tàn dưới ngọn cỏ hoangNghe danh thiên cổ xe ngừng viếng ông.

Liễu Hạ Huệ, tức Triền Cầm, tên Hoạch,tự là Quý, người đất Hạ Huệ, nước Lỗthời Xuân Thu, làm sỉ sư ba lần bị truấtcả ba, nhưng không bỏ nưóc mà đi. cóngười hỏi, ông trả lời: “Lấy đạo thẳngmà thờ người thì đi đâu mà không bị balần truất! Lấy đạo cong thờ người thì hàtất phải bỏ nước của cha mẹ?”. Khi ôngchết chôn tại đầu cầu Ngô Điếm, bắcngang sông Tứ Thuỷ. Mạnh Tử khenLiễu Hạ Huệ là Thánh chi hòa. NguyễnDu tâm phục Liễu Hạ Huệ, ngừng xeviếng mộ người ngàn xưa, nay chì còntấm bia tàn chìm dưới cỏ hoang. ĐạoChích là em Liễu Hạ Huệ, khác hẳn anh.Suốt đời lang bạt làm tướng cướp, giếtngười cướp của. Chết đi, người đời lấytên Đạo Chích gọi phường trộm cướp.

Sứ bộ qua sông Hoàng Hà, vào đất TừChâu, ở phía bắc tỉnh Giang Tô, rồi đổihường đi về phía nam về nước.

Trên đưòng Tù Châu, Nguyễn Du viếtbài:

Page 151: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

徐 州 道 中Từ Châu Đạo Trung

桑 乾 南 下 白 雲 多

Tang Càn nam hạ bạch vân đa

水 遠 山 長 瞥 眼 過

Thủy viễn sơn trường miết nhãn qua

萬 里 利 名 驅 白 髮

Vạn lý lợi danh khu bạch phát

一 天 風 雪 渡 黃 河

Nhất thiên phong tuyết độ Hoàng Hà

每 憐 故 態 惟 狂 在

Mỗi duy cố thái duy cuồng tại

欲 覓 新 歡 奈 老 何

Dục mịch tân hoan nại lão hà

攘 盡 苦 寒 三 閲 月

Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt

嶺 頭 落 得 看 梅 花

Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.

dịch là:

Trên Đường Từ Châu

Mé nam mây trắng Tang CànNúi cao sông rộng mênh mang trông vời

Ngàn trùng danh lợi đeo đòiVượt Hoàng Hà buổi tuyết rơi mịt mùng

Thương mình nếp cũ ngông cuồngTìm nguồn vui mới tóc sương già rồi

Ba trăng rét mướt ớn ngườiĐỉnh non mai trắng một trời nở hoa

Cảnh bên đường Từ Châu, cũng chỉ cónúi cao sông rộng, mây trắng mênhmang. Tác giả nhìn lại mình, tự trách saocòn mắc vòng danh lợi, tóc trắng cònlênh đênh bên trời gió tuyết. Cái gìa đếnkhiến niềm ngông cuồng tuổi trẻ cũngnguội lạnh, không còn thiết đi tìm cáivui mới. Ba tháng chịu rét mướt, nayđược đền bù bằng cảnh một trời hoa maitrắng nở trên đầu non.

Vượt qua sông Hoàng Hà, từ trên đê,nhìn xuống Từ Châu, Nguyễn Du viếtbài:

徐 州 堤 上 望Từ Châu Đê Thượng Vọng

一 河 南 北 古爭 衡

Nhất hà nam bắc cổ tranh hành

河 上 徐 州 舊 有 名

Hà thượng từ châu cựu hữu danh

戲 馬 舊 薹 秋 草 遍

Hí mã cựu đài thu thảo biến

斷 蛇 大 澤 暮 雲 平

Đoạn xà đại trạch mộ vân bình

一 城 人 物 窩 中 蟻

Nhất thành nhân vật oa trung nghĩ

四 路 舟 車 水 上 萍

Tứ lộ chu xa thủy thượng bình

帳 望 紅 塵 渺 無 際

Trướng vọng hồng trần diểu vô tế

不 知 日 日 此 中 行

Bất tri nhật nhật thử trung hành.

dịch là:

Từ Đê Cao Nhìn Xuống Từ Châu

Một sông hai nước tranh dànhTừ Châu bờ bắc nổi danh đất này

Trường đua ngựa cỏ thu dầyĐầm sâu chém rắn bóng mây ngang trời

Thành như tổ kiến đầy ngườiNước bèo bốn ngả ngưọc xuôi xe thuyền

Buồn trông cát bụi một miềnNào hay chốn ấy đua chen ngày ngày.

Trong bốn câu đầu, Nguyễn Du gợi lạinhững cảnh chinh chiến, những di tíchxây cất cùng những thần thoại xẩy ratrên đất Từ Châu, tử nhưng đời xa xưamà từ trên đê cao ông nhìn thấy. Trướcmắt ông đô thị này ngày nay đông ngườinhư tổ kiến, thuyền bè xe cộ ngược xuôi,

Page 152: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

bụi bay mờ mịt, và không ngờ chính ôngcũng đang đi vào chốn đó.

Bài thứ ba, Nguyễn Du viết trong dịpqua Từ Châu là bài:

徐 州 夜Từ Châu Dạ

行 路 避 干 戈

Hành lộ tỵ can qua

嚴 冬 夜 渡 河

Nghiêm đông dạ độ hà

月 來 南 國 大

Nguyệt lai nam quốc đại

山 入 北 徐 多

Sơn nhập bắc Từ đa

城 外 列 兵 甲

Thành ngoại độ binh giáp

城 中 聞 絃 歌

Thành trung văn huyền ca

枯 楊 三 百 樹

Khô dương tam bách thụ

樹 樹 有 啼 鴉

Thụ thụ hữu đề nha.

dịch là:

Đêm Từ Châu

Tránh đao binh phải đổi đàngQua sông đêm giá đò sang mịt mùng

Trời nam trăng sáng một vùngĐất Từ mé bắc chập chùng núi cao

Ngoài thành guơm giáo xôn xaoTrong thành đàn hát ngọt ngào vẳng đưa

Ba trăm dương liễu chết khôInh tai tiếng quạ chẳng chừa một cây.

Trong chuyến đi sứ đoàn đã gặp cảnhbinh biến mà Nguyễn Du tả rõ trong bàiTrở Binh Hành, nên chuyến về, như viếttrong câu mở đầu trên đây, sứ đoàn phảiđổi lộ trình để tránh trở ngại. Cũng vìvậy mà sứ đoàn phải qua sông trong đêm

tối. Nhìn về phương nam, Nguyễn Duthấy trăng sáng, mé Bắc là Tù Châu chỉthấy núi trùng trùng điệp điệp. Ngoàithành chỗ nào cũng thấy có quân lính,nhưng trong thành vẫn có đàn ngọt háthay. Nhưng Nguyễn Du nhìn thấy hìnhảnh chết tróc tang thương hiện trên hàngba trăm cây dương liễu chết khô, cây nàocây nấy quạ đậu đen kêu inh tai.

Sứ bộ đi ngang mộ Phạm Tăng, quân sưcủa Hạng Võ. Nguyễn Du có thơ đề nhưsau:

亞 父 墓Á Phụ Mộ

眼 看 霸 上五 雲 孚

Nhãn khan bá phụ ngũ vân phù

汲汲 方 圖 一 繫 謀

Cấp cấp phương đồ nhất kích mưu

但 得 此 心 無 負 楚

Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở

不 知 天 命 已 歸 劉

Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu

伯 圖 泯 滅 千 年 後

Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu

古 墓 荒 涼 三 尺 秋

Cổ mộ hoang lương tam xích thu

多 少 一 心 忠 所 事

Đa thiểu nhất tâm trung sở sự

每 為 天 下 笑 其 愚

Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.

dịch là:

Mộ Á Phụ

Mây trời Bá thưọng năm mầuGiết thù canh cánh mưu sâu bên lòng

Không phụ Sỏ dạ sắt sonMệnh trời nào biết vuông tròn về Lưu

Bá đồ ngàn thủa đà tiêuThu về mộ cổ đìu hiu vời vời

Page 153: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Lòng trung một tấc bao ngườiMỉa mai miệng thế chê cưòi dại ngu.

Theo Sử Ký của Tư Mả Thiên 27, PhạmTăng, người đất Cư Sào, 70 tuổi cònthích bầy mưu cao kế lạ, được Sở BáVương Hạng Võ vời ra giúp. Hạng Võkính trọng gọi ông là Á Phụ. Phạm Tăngbiết mệnh trời đã ứng về Lưu Bang,nhưng vì lòng trung với nnưiớc Sở, vẫnphò Hạng Võ đánh Lưu Bang. Hai lầnPhạm Tăng hiến kế cho Hạng võ giếtLưu Bang, cả hai cùng không đưọc HạngVõ dùng. Phạm tăng uất mà sinh bệnhchết. Qua mộ Phạm Tăng, Nguyễn Du tỏlòng thương hại, nhung mưu sĩ nhưPhạm Tăng, vì chữ trung mà để ngườiđời chê cười là ngu dại.

Đi ngang mộ Chu Du, Nguyễn Du viếtbài:

周 郎 墓Chu Lang Mộ

燒 盡 曹 家 百 萬 兵

Thiêu tận Tào gia bách vạn binh

丈 夫 差 足 慰 平 生

Trượng phu sai túc úy bình sinh

同 年 交 誼 聯 孫 策

Đồng niên giao nghị liên Tôn Sách

一 世 知 音 得 孔 明

Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh

瓦 礫 吳 宮 荒 帝 業

Ngoã lịch Ngô cung hoang đế nghiệp

荊 蓁 古 墓 上 雄 名

Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh

二 喬 香 骨 藏 何 所

Nhị kiều hương cốt tằng hà sở

眼 見 銅 薹 半 已 傾

Nhãn kiến Đồng đài bán dĩ khuynh.

27Sử Ký, Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, Hạng

Võ Bản Kỷ, đoạn 6, tr.88-96.

dịch là:

Mộ Chu Lang

Đốt tan trăm vạn quân TàoTrưọng phu thỏa chí anh hào bình sinh

Đồng niên Tôn Sách kết tìnhTri âm tương đắc Khổng Minh toại nguyền

Cung Ngô nghiệp đế nào bềnCỏ gai mộ cổ lưu truyền danh cao

Nhị Kiều hương cốt vùi đâuCòn kia Đồng Tước nửa lầu đổ nghiêng.

Chu Lang là tên người đương thời gọiChu Du, vì khi được vua Tôn Sách nướcĐông Ngô, thời Tam Quốc, phong làmKiến Uy Trung Lang Tướng, thì Chu Dumới có 24 tuổi. Tôn Sách chết sớm, emlà Tôn Quyền lên nối ngôi. Chu Du thờTôn Quyền, dùng hỏa công đốt cháytrăm vạn quân Tào tại trận Xích Bích.,trên sông Trường Giang. Chu Du bằngtuổi Tôn Sách và được coi là tri âm củaKhổng Minh, tướng quốc nưóc Thục.

Chu Du còn là anh em cọc chèo với TônSách. Vợ Tôn Sách là Đại Kiều, vợ ChuDu là Tiểu Kiều, là hai người đẹp đấtĐông Ngô. Tào Tháo xây đài ĐồngTước, con là Tào Thực làm một bài phúcó câu:

lãm nhị kiều chi nhuế đống

nghĩa là:

ngắm hai cây cầu bắc cầu vồng.

Khổng Minh được biết Chu Du có ýmuốn mang quân đánh Thục, KhổngMinh nói khích Chu Du đổi ra là:

nhị Kiều chi dữ cộng

nghĩa là:

bắt hai nàng Kiều về [cho ỡở đài Đồng Tưóc]

để trục tức Chu Du. Ngoài ra Chu Du cókế gì dể hành quân, Khổng minh đều

Page 154: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

đoán trúng hết, khiến Chu Du tức thổmáu mà chết.

Sau đó sứ bộ đi ngang đài Phân Kinhcủa thái tử nước Lương, con của LươngVõ Đế (502-5490, theo Truyền ĐăngLục là bậc quý nhân đầu tiên Đức ĐạtMa tiếp xúc khi ngài vừa tới TrungQuốc.28 Nguyễn Du nhân đó viết bài thơdài:

梁 昭 明 太 子Lương Chiêu Minh Thái Tử

分 經 石薹Phân Kinh Thach Đài

梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ

石臺 猶 記 分 經 字

Thạch đài do ký phân kinh tự

臺 基 蕪 沒 雨 花 中

Đài cơ vu một vũ hoa trung

百 草 驚 寒 盡 枯死

Bách thảo khô hàn tận khô tử

不 見 遺 經 在 何 所5Bất kiến di kinh tại hà sở

往 事 空 傳 梁 太 子

Vãng sự không truyền Lương Thái Tử

太 子 年 少 溺 於 文

Thái Tử niên thiếu nịch ư văn

彊 作 解 事 徒 紛 紛

Cưỡng tác giải sự đồ phân phân

佛 本 是 空 不 著 物

Phật bản thị không bất trước vật

何 有 乎 經 安 用 分10 Hà hữu hồ kinh an dụng phân

靈 文 不 在 言 語 科

28Suzuki, Thiền Luận I, bản dịch của Trúc

Thiên, Đại nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr.296-297.

Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa

孰 為金 剛 為 法 華

Thục vi kim cương vi pháp hoa

色 空 境 界 茫 不 悟

Sắc không cảnh giới mang bất ngộ

癡 心 歸 佛 佛 生 魔

Si tâm quy Phật Phật sinh ma

一 門 父 子 多 膠 蔽15Nhất môn phụ tử đa giao tế

一 念 之 中 魔 自 至

Nhất niệm chi trung ma tự chí

山 陵 不 涌 蓮 花 臺

Sơn lăng bất dũng liên hoa đài

白 馬 朝 渡 長 江 水

Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy

楚 林 禍 木池 殃 魚

Sở lâm họa mộc trì ương ngư

經 卷 燒 灰 臺 亦 圯20 Kinh quyển chi hôi đài diệc tị

空 留 無 益 萬 千 言

Không lưu vô ích vạn thiên ngôn

後 世 愚 僧 徒 聒 耳

Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ

吾 聞 世 宗 在 靈 山

Ngô văn Thế Tôn tại Linh Son

說 法 度 人 如恆 河 沙 數

Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số

人 了 此 心 人 自 渡25 Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

靈 山 只 在 汝 心 頭

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

明 鏡 亦 非 薹

Minh kính diệc phi đài

菩 提 本 無 澍

Bồ đề bản vô thụ

我 讀 金 彊 千 遍 零

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

其 中 奧 旨 多 不 明30 Kỳ trung áo chì đa bất minh

Page 155: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

及 到 分 經 石 臺 下

Cập đáo Phân Kinh thạch đài hạ

纔 知 無 字 是 真 經

Tài chi vô tự thị chân kinh.

dịch là:

Đài Phân Kinh của Thái TửChiêu Minh Triều Lương

Nơi Lương thái tử chia kinhCon ghi hai chữ phân kinh rêu mờ

Nền đài hoang dưới màn mưaCỏ cây băng giá chết khô một trời

Kinh xưa nay mất hết rồiLời còn đồn đại từ đời nhà LươngRằng thái tử chuộng văn chương

Chuyện phân kinh khó mà lường đúng saiPhật tính không vật hình ngoài

Huống là kinh khéo đặt bầy chia phânLinh thiêng đâu ở lời văn

Pháp Hoa chẳng vị Kim Cang chẳng vìSắc không cảnh giới đòi khi

Si mê theo Phật khác gì theo maCha con mù quáng một nhà

Chính lời tụng niệm sinh ma trong lòngNúi gò chưa nở sen hồng

Một mai ngựa trắng vượt dòng Trường giangVạ lây cá vực chim ngàn

Đài phân kinh đổ kinh thành than đenNgàn lời vô ích lưu truyền

Rác tai hậu thế muôn thiên luận bànĐức Thế Tôn tại Linh Sơn

Độ ngưòi số kể cát sông Hằng HàLinh Sơn chính tại tâm ta

Thấy tâm là tự độ ta một đờiGương trong đâu phải tại đàiBồ đề đâu phải là cây cõi trần

Kim Cang ta đọc ngàn lầnNhiều câu chưa hiểu thấu phần sâu xa

Đến đài đây chợt vỡ raRằng kinh không chũ mới là chân kinh.

Chữ phân kinh theo giới nghiên cứu cóthể là việc phân phát kinh cho Phật tử,mà cũng có thể là việc chấm câu phânđoạn, chia thành bộ các kinh điển Phậthọc đương thời. Tiếp theo Nguyễn Dunói tới cái khó khăn dùng ngôn ngữ để

giảng kinh Phật học, cùng lòng si mêtheo Phật cũng chẳng khác gì si mê theoma. Ông trách cha con Lương thái tử quásay sưa học đạo, khiến chưa đắc đạo thìnước mất nhà tan, Hầu Cảnh tướng nhàĐông Ngụy cỡi ngựa trắng vượt TrườngGiang vào tàn phá kinh đô nhà Lương.Lương Võ Đế bị bắt giam và bỏ chết đói.Trở về truyện đức Thế Tôn độ người sốkể như cát sông Hằng Hà, người đọc thơdưòng như thấy Nguyễn Du tin tưởng ởba chữ Phật tại tâm: làm sao thấy đượctâm là thấy Phật. Ông nhắc lại lời kệ củaLục Tổ Huệ Năng, tác giả kinh KimCang mà ông từng đọc ngàn lần chưathấu hiểu trọn vẹn. Bỗng nay tới PhânKinh thạch đài ông mới chợt hiểu là:kinh không chữ mới thật là kinh, đứngvới chủ thuyết: bất lập văn tự của Sơ TổThiền Tông.

Sứ bộ vào tới đường Tổ Sơn, vùng núithuộc phiá bắc Hoàng Châu, tỉnh TriếtGiang. Cảnh thu miền núi gọi hứng choNguyễn Du viết bài:

祖 山 道 中Tổ Sơn Đạo Trung

楓 樹 林 中 葉 亂 飛

Phong thụ lâm trung diệp loạn phi

驚 沙 作 雨 上 征 衣

Kinh sa tác vũ thướng chinh y

蕭 蕭 枯 草 路 一 線

Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến

寂 寂 斜 陽 山 四 圍

Tịch tịch tà dương sơn tứ vi

去 日兩 河 曾 習 戰

Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến

紆 途 千 里 正 思 歸

Vu đồ thiên lý chính tư quy

皤 皤 白 髮 紅 塵 路

Ba ba bạch phát hồng trần lộ

Page 156: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

日 暮 登 高 悲 莫 悲

Nhật mộ đăng cao bi mạc bi

Tổ Sơn Đạo Trung

Lá bay xào xạc rừng phongCát lầm lấm áo trạnh lòng quan san

Tiêu điều cỏ úa bên đàngNúi cao tĩnh mịch chăn ngang bóng tà

Hà Nam Hà Bắc can quaĐường dài ngao ngán nhớ nhà thêm tăng

Bụi hồng mái tóc điểm sươngSầu dâng đầu núi chiều buông não lòng.

Trên đường Tổ Sơn qua khu rừng phonglá rụng, bũi đường lấm áo làn NguyễnDu trạnh nỗi nhớ nhà. Lại một lần nữaông thương thân, tóc bạc trên đầu cònrong ruổi trên đường thiên lý, với mối đedọa của chiến trận nghẽn lối, và dườngnhư trong lòng ông không còn chút thathiết với lợi danh.

Hành trình của sứ bộ đi qua mộ củaNhạc Phi đời Tống. Thời đó triều Tốngchia lam hai phe: phe Tần cối chủ trươnghòa với người Kim, phe Nhạc Phi chủtrương đánh người Kim tới cùng. Saumười năm gây dựng lại quân đội, NhạcPhi đem quân đánh nước Kim. Tần Cốimạo lệnh vua gọi về, hạ ngục rồi giếtchết. Ghép Nhạc Phi vào tội chết, cóngười Hàn Thế Trung hỏi vì tội gì, TầnCối trả lời: “Mạc tu hữu” nghĩa là chẳngcần có [lý do]. Người đời sau gọi vụ ánnày vụ án ba chữ. Cảnh phe phái trongtriều gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

岳 武 穆 墓Nhạc Vũ Mục Mộ

中 原 百 戰 出 英 雄

Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng

丈 八 神 鎗 六 石 弓

Trượng bát thần thương lục thạch cung

相 府 已 成 三 字 獄

Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục

軍 門 猶 惜 十 年 功

Quân môn do tích thập niên công

江 湖 處 處 空 南國

Giang hồ xứ xứ không Nam quốc

松 百 錚 錚 傲北 風

Tùng bách tranh tranh ngạo Bắc phong

悵 望 林 安 舊 陵 廟

Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu

栖 霞 山 在 暮 煙 中

Thê hà sơn tại mộ yên trung.

dịch là:

Mộ Nhạc Vũ Mục

Trung nguyên trăm trận anh hùngThươngtrường cung nặng vẫy vùng ruổi rong

Án ba chữ đã mắc vòngMười năm còn tiếc quân công huy hoàng

Núi sông Nam Tống vắng hoangXạc xào gió bắc chẳng vàng trúc thông

Lâm An miếu cổ vời trôngThê Hà mây phủ chìm trong bóng chiều.

Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi. Ngày NhạcPhi mang quân sang đất Kim, Tần cốimạo lệnh vua, một ngày phái mười haiđạo kim bài ra lệnh cho Nhạc Phi phảiđem quân về. Nhận lệnh, Nhạc Phi than:“Công lao mười năm bỏ đi trong mộtngày.” Nhưng ông vẫn tuân lệnh vuamang quân về. Ngày Nguyễn Du qua mộNhạc Phi ông nhìn về phía Lâm An, kinhđô cũ của nhà Nam Tống, chỉ thấy mâyphủ và núi Thê Hà chìm trong bóngchiều.

Cuối đời Bắc Tống, Tần Cối làm chứcNgự Sử dưới triều vua Tống KhâmTông. Người Kim xâm chiếm TrungQuốc, bắt hai vua Tống Khâm Tông vàTống Huy Tông đem vê Bắc, trong đámtùy tùng có Tần Cối. Sau người Kim thảTần Cối cho về Nam Tống, được làm tểtướng, chủ trưong đầu hàng nước Kim,giết Nhạc Phi. Tần Cối là ngưòi vô cùng

Page 157: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

gian hiểm, trong 19 năm làm tướng, đổi29 người chấp chính, giết hại không biếtbao nhiêu người trung thần nghĩa sĩ.Chết, Tần Cối đưọc phong làm TrungVương, thụy là Trung Hiến. Đến đờiTống Ninh Tôn bị truy đoạt tước vương,đổi tên thụy là Mâu Xú. Người đời saudựng một bức tượng sắt của vợ chồngTần Cối ở sân điện thờ Nhạc Phi. Ngưòiđến chiêm bái Nhạc Phi, thường dùnggậy đánh vào tưọng, phỉ nhổ lên đầutượng.

Nhân qua điện Nhạc Phi, có thơ vịnhNhạc Phi, Nguyễn Du viết thêm hai bàivề tượng Tần Cối và hai bài về tượngVương Thị, vợ Tần Cối mà theo NguyễnDu, Vương Thị còn độc ác gian hùnggấp bội chồng. Hai bài về Tần Cối nhưsau:

秦 檜 像Tần Cối Tượng

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

殿 檜 何 年 椎 作 新

Điện cối hà niên chùy tác tân

卻 來 依 徬 岳 王 墳

Khước lai y bạng Nhạc vương phần

是 非 賮 屬 千 年 事

Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự

打 罵 何 傖 一 假 身

Đả mạ hà thương nhất giả thân

如 此 錚 錚 真鐵 漢

Như thử tranh tranh chân thiết hán

奈 何 靡 靡 事 金 人

Nại hà mỹ mỹ sự kim nhân

誰 云 于世 無 功 烈

Thuỳ vân vu thế vô công liệt

萬 古 猶 能 懼 亂 臣

Vạn cổ do năng cụ loạn thần.

其 二

Kỳ Nhị

格 天 閣 毀玉 樓 殘

Cách Thiên các hủy ngọc lâu tàn

猶 有 頑 皮 在 此 間

Do hữu ngoan bì tại thử gian

一 世 死 心 懷 大 毒

Nhất thế thử tâm hoài đại độc

千 年 生 鐵 負 奇 眢

Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan

獄 中 已 濺 生 前 血

Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền huyết

階 下 徒 誅 死 後 奸

Giai hạ đồ tru tử hậu gian

得 與 忠 臣 同 不 杇

Đắc dữ trung thần đồng bất hủ

齊 天 奇 福 太 無 端

Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan.

dịch là:

Tượng Tần Cối

Hai bài

I

Cối thành củi tự ngàn xưaVẫn còn tượng Cối bên mồ Nhạc Vương

Ngàn năm sai đúng đôi đườngGiả thân đánh mắng hoài công phí lời

Ngỡ rằng mặt sắt hơn ngườiThở Kim luồn cúi suốt đời sao đang

Ai ràng Cối chẳng có côngGian thần muôn thủa thấy gương phải dè.

II

Cách Thiên lầu ngọc điêu tànGian thần hại nước sao còn nơi đây

Tim đen nọc độc chứa đầyNghìn năm tượng sắt vạ lây oán hòn

Page 158: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ngục tù đổ máu trung thầnBên thềm hành tội tà gian ích gì

Nhờ trung gian hãy còn kiaTày trời phúc lạ ly kỳ vậy thay.

Trong hai câu đầu bài thứ nhất, NguyễnDu nhắc lại truyền thuyết Trung Quốc,kể rằng bên điện vua Tống Huy Tông cómột cây cối, sinh ra nấm ngọc. Người tacho đó là điềm Tần Cối được trọng dụngđể làm tiêu tan cơ nghiệp nhà Tống. Tớiđời vua Tống Minh Tông xóa bỏ vươngtước của Tần Cối, cây cối đó bị chẻ ralàm củi. Nguyễn Du tự hỏi tiếp là tại saobên mồ Nhạc Vương hãy còn tượng TầnCối. Tiếp theo, Ông cho rằng truyệnđúng sai, từ ngàn năm trước hẳng đã rõđôi đường. Bày ra truyện đánh mắng nàylàm chi cho hoài công phí lời. Tượng làngưòi mặt sắt, ai ngờ là tượng một kẻluồn cúi quân Kim. Nhưng Tần Cối âucũng có công, gian thần nhìn thấy cảnhbên đền Nhạc Vưong ắt phải e dè.

Sang bài thứ hai, mở đầu Nguyễn Du tựhỏi, lầu Ngọc Cách Thiên của Tần Cốinay đã hoang tán, thế mà tượng Tần Cốivẫn còn ở đây. Tâm địa đen tối của TầnCối làm vạ lây cả ngàn năm sau tới bứctượng sắt. Người công thần đã chết oantrong ngục, hạch tội gian thần kia hỏi cóích gì? Truyện phúc họa thật kỳ lạ: nhờcó trung thần mà gian thần hãy còn kia.

Trong cả hai bài, Nguyễn Du chua chátbàn về cái phù du cùng cái đối đãi củacặp gian thần-trung thần.

Bên cạnh tượng Tần Cối ở chân điện thờNhạc Vưong còn có tượng Vương Thị,vợ Tần Cối. Trong hai bài về bức tượngnày, Nguyễn Du dường như gay gắtbuộc tội Vương Thị, trong vụ mưu toancùng chồng làm tan nát cơ nghiệp nhàTông, như sau:

王 氏 象Vương Thị Tượng

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

舌 長 三 尺 更 何 為

Thiệt trường tam xích cánh hà vi

好 與 權 奸 備 唱 隨

Hảo dữ quyền gian bị xướng tuỳ

後 患 正 殷 擒 虎 日

Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật

前 功 安 問 飲 龍 期

Tiền công an vấn ẩm long kỳ

一 生 心 跡 同 夫 婿

Nhất sinh tâm tích đồng phu tế

千 古 形 骸 辱 女 兒

Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi

底 事 想 來 莫 須 有

Để sự tương lai mạc tu hữu

閨 中 私 語 更 誰 知

Khuê trung tư ngữ cánh thuỳ tri.

其 二

Kỳ nhị

深 圖 密 筭 勝 夫 君

Thâm đồ mật toán thắng phu quân

應 是 晨 雞 第 一 人

Ưng thị thần kê đệ nhất nhân

不 爛 已 生 三 寸 舌

Bất lạn dĩ sinh tam thón thiệt

純 鋼 全 得 萬 年 身

Thuần cương toàn đắc vạn niên thân

唱 隨 盡 道 應 無 悔

Xướng tùy tận đạo ưng vô hối

伎 倆 同 年 更 可 親

Kỹ lưỡng đồng niên cánh khả thân

莫 道 女 兒 無 力 量

Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng

Page 159: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

也 曾 撼 破 岳 家 軍

Dã tằng khám phá Nhạc gia quân

dịch là:Tượng Vương Thị

Hai Bài

I

Khen ai bẻ lưỡi cho nàngKhéo cùng với gã quyền gian xướng tùy

Phòng hờ bắt hổ phòng khiHoàng Long lỗi hẹn cạn ly rượu mừng

Một đời bụng dạ giống chồngHình hài muôn thủa nhục dòng nữ lưu

Mạc Tu hữu chữ còn lưuBuồng the bày kế đặt điều ai hay.

II

Mưu cao ăn đức anh chồngMái này gáy sớm có nhường ai đâu

Lưõi mềm đáng sợ siết baoThân nay gang sắt ngàn sau chẳng mòn

Xướng tùy trọn đạo há thanĐôi bên tám lạng nửa cân phỉ nguyền

Chớ rằng nhi nữ yếu mềmVì nàng mà Nhạc gia quân tan tành.

Mở đầu bài thứ nhất, Nguyễn Du chuachát khen tài ăn nói của Vương Thị xứngđáng xướng tùy cùng một đại gian thần.Người đọc dường thấy Nguyễn Du buộcVương Thị vào tội tòng phạm đã đuađến sữ bắt giũ Nhạc Vũ để tránh hậuhoạn, cùng làm Nhạc Vũ không thắngnổi quân Kim như đã hẹn với quân sĩ.Bụng dạ giống chồng, làm nhục cho pháinữ lưu. Ngay cả cái án ba chữ của NhạcVũ Mục, theo Nguyễn Du có thể cũng làmưu kế do Vương Thị bầy ra trong chốnphòng the.

Sang bài thứ hai, Nguyễn Du cho rằngbày mưu độc ác thì Vương Thị còn caotay hơn chồng. Cái lưỡi không xươngcủa nàng đáng sợ vô cùng, so với ôngchồng thật cân xứng. Bằng cớ là vì nàngmà quân của Nhạc Phi bại trận. Có một

điểm người đọc thơ Nguyễn Du tự hỏi làvì sao ông xét khe khắt với Vương Thịvà dường như ông nhẹ lời với DươngQuý Phi hơn nhiều.

Tiếp tục cuôc hành trình về nước, sứ bộvào tỉnh An Huy một buổi sớm mai.Nguyễn Du ghi lại thi cảnh bên đườngvà tâm cảnh riêng ông trong bài:

安 徽 道 中An Huy Đạo Trung

啼 鴉 啞 啞 亂 凌 晨

Đề nha á á loạn lăng thần

徐 北 徐 南 曉 色 分

Từ bắc Từ nam hiểu sắc phân

一 帶 雪 田 青 者 麥

Nhất đái tuyết điền thang giả mạch

四 山 松 澍 白 為 雲

Tứ sơn tùng thụ bạch vi vân

悠 悠 鄉 國 八 千 里

Du du hương quốc bát thiên lý

碌 碌 攻 名 一 片 塵

Lục lục công danh nhất phiến trần

共 指 梅 花 報 消 息

Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức

春 何 曾 到 異 鄉 人

Xuân hà tằng đáo dị hưong nhân.

Trên Đường An Huy

Rạng đông quạ réo chẳng ngừngBắc nam nắng giải hai vùng Từ Châu

Mạch xanh tuyết trắng xen nhauNúi đùn mây trắng giăng đầu thông xanh

Dạm ngàn quê cũ trạnh tìnhCông danh gió bụi lênh đênh bên trời

Tin xuân mai nở khoe tươiXuân nào có dến với người tha phương.

Lại một lần nữa, cảnh bên đường khôngtạo nổi cho Nguyễn Du một thi cảnhđích đáng, khiến tâm cảnh của ông lạinhư nhuốm buồn vì nhớ nhà và ông tự

Page 160: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

trách mình tuổi đã cao sao thân còn lậnđận với công danh, lênh đênh trên đấtkhách. Hoa mai nở, báo xuân về, lần nàykhông còn làm ông bớt nhớ nhà nhưrừng mai nở trên đầu núi bữa ông vàođường Từ Châu.

Thi hứng dường như trở lại với NguyễnDu khi sứ bộ đi ngang đầm Đào Hoa.Đầm này là nơi Uông Luân từng mở tiệctiễn Lý Bạch, và nhà thơ này viết bài tứtuyệt lưu tặng chủ nhân, trong đó hai câucuối là 29:

桃 花 潭 水 深 千 尺

Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích

不 及 汪 倫 送 我 情

Bất cập Uông Luân tống ngã tình

nghĩa là:

Đầm Đào Hoa nưóc sâu ngàn thướcĐâu bằng tình Uông Luân đưa ta.

Nguyễn Du để lại bài thơ mưòi sáu câu:

桃 花 潭 李 青 蓮 舊 跡Đào Hoa Đàm Lý Thanh Liên Cựu Tích

桃 花 潭 水 千 尺 清

Đào Hoa đàm thủy thiên xích thanh

潭 上 松 柏 冬 猶 青

Đàm thượng tùng bách đông do thanh

道 是 唐 朝 李 供 奉

Đạo thị Đường triều Lý cung phụng

縱 飲 此 潭 因 得 名

Túng ẩm thử đàm nhân đắc danh

十 年 酒 肆 人 間 世

Thập niên tửu tứ nhân gian thế

天 子 呼 來 猶 爛 醉

Thiên tử hô lai do lạn túy

29 李 白 詩 選, 劉 逸 生 主 編,, 三 聯 書店, 香 港, 1988, 章185.

自 言 臣 是 酒 中 仙

Tự ngôn thần thị tửu trung tiên

薄 視 榮 名 同 敝 履

Bạc thị vinh danh đồng tệ lý

千 年 勝 蹟 以 人 傳

Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền

不 在 悠 悠 一 潭 水

Bất tại du du nhất đàm thuỷ

潭 水 至 今 清 且 漣

Đàm thuỷ chí kim thanh thả liên

一 魚一 鳥 皆 成 仙

Nhất ngư nhất điễu giai thành tiên

惆 悵 斯 人 不 得 見

Trù trướng tư nhân bất đắc kiến

遠 來 使 我 心 茫 然

Viễn lai sứ ngã tâm mang nhiên

世 路 塵 埃 信 溷 濁

Thế lộ trần ai tín hỗn trọc

不 如 終 日 痛 飲 全 吾 天

Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

dịch là:

Dấu Cũ Của Lý Thanh LiênỞ Đầm Đào Hoa

Đầm Đào Hoa vạn thước sâuXanh tươi tùng bách mặc dầu tiết đông

Triều Đường Lý Bạch nghe đồnBên đầm say khướt khiến đầm nổi danh

Mười năm đời gửi tửu đìnhLệnh vua truyền gọi trùng trình tỉnh say

Tửu Trung Tiên chính ngưòi đâyDanh cao chiếc dép đứt quai há màng

Chẳng vì đầm nước mênh mangVì người mà cảnh ngàn năm lưu truyền

Nước hồ trong vắt lắng yênNơi đây chim cá thành tiên vì người

Khách thơ không gặp ngậm ngùiTừ xa ta tới khôn nguôi tấc lòngĐường đời gió bụi đục trong

Tính trời giữ trọn chi bằng cứ say.

Thanh Liên là tên làng của Lý Bạch, nênLý Bạch tự xưng là Thanh LIên cư sĩ.

Page 161: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Trong hai câu đầu Nguyễn Du tả vắn tắtcãnh đầm Đào Hoa, Sáu câu tiếp theoông nhắc lại thoại về lý Bạch trong thờigian ngưòi thơ lãnh chức hàn lâm tạitriều vua Đường Huyền Tông, sangtruyện Uông Luân mở tiệc đưa tiễn LýBạch mà đầm nổi tiếng, đến truyện LýBạch say rượu có lệnh vua đòi không vềcung nổi, còn tự xưng mình là tiên rượu,và coi danh lợi như chiếc dép rách.Nguyễn Du buồn vì từ xa tới mà khônggặp được Lý Bạch, khiến lòng áy náybùi ngùi. Nhìn xuống tấm áo mặc trênngười ông thấy áo lấm bụi đường màthương thân. Và ông tự hỏi, một câu hỏiđạm mầu sắc Trang Tử: để giữ trọn tínhtrời, có chi hơn là cứ say mèm?

Sứ bộ lên đường trạm Đào Hoa. NguyễnDu viết hai bài ngũ ngôn:

桃 花 驛 道 中Đào hoa Dịch Đạo Trung

二 首

Nhị Thủ

其 一

Kỳ Nhất

潛 山 八 百 里

Tiềm Sơn bát bách lý

西 接 楚 山 雲

Tay tiếp Sở sơn vân

古 石 瘐 如 鬼

Cổ thạch sấu như quỷ

新 松 長 比 人

Tân tùng trưởng tỷ nhân

萬 畦 宜 菽 麥

Vạn huề nghi thúc mạch

十日 隔 風 塵

Thập nhật cách phong trần

白 蓮 河 北 山

Bạch Liên Hà Bắc sơn

山 中 如 不 聞

Sơn trung như bất văn.

其 二

Kỳ Nhị

雞 犬 出 桑 痲

Kê khuyển xuất tang ma

沿 溪 小 逕 斜

Duyên khê tiểu kính tà

山田 常 積 水

Sơn điền thưòng tích thuỷ

野 飯 半 含 沙

Dã phạn bán hảm sa

石 隱 高 人 屋

Thạch ẩn cao nhân ốc

塵 隨 貴 者 車

Trần tùy quý giả xa

孤湮 在 天 末

Cô yên tại thiên mạt

今 夜 宿 誰 家

Kim dạ túc thùy gia.

dịch là

Đường Trạm Đào Hoa

Hai bài

ITám trăm dặm cách Tiềm Sơn

Miệt tây núi Sở non ngàn mây giăngĐá gầy hình qủy bên đàng

Thông non xanh biết vừa ngang đầu ngườiCánh đồng lúa đậu xanh tươi

Đưòng dài gió bụi đã mười ngày quaBạch Liên Hà Bắc núi xa

Non cao tin bặt bao la im lìm.

IIDâu gai gà chó nhởn nhơ

Quanh co lối nhỏ men bờ khe trongNương cao nước ngập mênh môngNửa cơm nửa sạn cơm đồng khó ăn

Đá che am cỏ cao nhânBũi theo xe ngựa nhà quan mịt mờ

Page 162: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Chân tròi ngọn khói tỏa mờĐêm nay chẳng biết nghỉ nhờ nhà ai.

Trên đường đến trạm Đào Hoa, hứng thơcủa Nguyễn Du dường như hoà hợp vớicảnh thiên, tạm quên được nhưng cảnhbụi bậm nơi đô thị, và cả những truyệnchiến trận của giáo phái Bạch Liên ởvùng Hà Bắc. Trong bài thứ hai, ông lấyhình ảnh căn nhà của ẩn sĩ nép bên váchđá với luồng bụi sau xe của một vị quanto, cho thấy ước muốn về nghỉ hưu lạitrở về với ông.

Dời đường Đào Hoa, sứ bộ vào đưòngTiềm Sơn, Nguyễn Du viết bài ngũ ngônghi lại cảnh núi vùng Tiềm Sơn gợi lêntâm cảnh nhớ cảnh nhớ vùng núi HồngLĩnh, nơi quê hương của ông.

潛 山 道 中Tiềm Sơn Đạo Trung

夙 有 愛 山 癖

Túc hữu ái sơn tích

別 後 思 何 如

Biệt hậu tư hà như

來 到 潛 山 路

Lai đáo Tiềm Sơn lộ

宛 如 鴻 嶺 居

Uyển như Hồng Lĩnh cư

雲 霞 猿 嘯 外

Vân hà viên khiếu ngoại

松 柏 鶴 巢餘

Tùng bách hạc sào dư

定 有 山 中 客

Định hữu sơn trung khách

平 生 不 識 余

Bình sinh bất thức dư.

dịch là:

Đường Tiềm Sơn

Mến non nyêu núi từ lâu

Xa quê thương núi nghẹn ngào nhớ nonBữa nay qua rặng Tiềm Sơn

Ngỡ như lạc bưóc non Hồng quê xưaVuợn kêu mây ráng vẳng đưa

Ngọn tùng làm tổ nhởn nhơ hạc vàngThảnh thơi ẩn sĩ núi hang

Chẳng quen âu cũng một phưòng như nhau.

Một lần nữa, qua hai câu kết, người đọcthấy rõ ước ao từ quan về vui cảnh núihang ngoài vòng trói buộc của NguyễnDu.

Tiếp đường Tiềm Sơn sang đưòng TrạmTây Hà, cảnh thơ bên đường ngày cuốinăm gọi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

西 河 驛Tây Hà Dịch

青 石 喬 西 岸

Thanh thạch kiều tây ngạn

依 然 小 里 閭

Y nhiên tiểu lý lư

道 傍 人 語 雜

Đạo bàng nhân ngữ tạp

屋 後 竹 陰 疏

Ốc hậu trúc âm sơ

禾 本 供 晨 燒

Hoà bản cung thần thiêu

春 聯 待 歲 除

Xuân liên đãi tuế trừ

相 逢 無 別話

Tương phùng vô biệt thoại

一 笑 意 何 如

Nhất tiếu ý hà như

dịch là:Trạm Tây Hà

Mé đoài cầu đá xanh lơĐường thôn xóm nhỏ đôi bờ thông thưong

Xôn xao người nói bên đườngSau nhà ngọn trúc xanh rờn đu đua

Sớm hôm bếp tỏa khói lùaĐôi câu đối đỏ dán chờ xuân sang

Page 163: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Gặp nhau chẳng biết nói năngCười duyên một nụ hân hoan ý tình.

Cảnh bên đường Trạm Tây Hà là cảnhmột xóm nhỏ ở hai bên bờ một nhánhsông nhỏ. Dân cư đông đúc, có khóixanh vươn cao buổi sớm, có câu đối đỏdán chờ xuân về. Không nói, nhưng hìnhảnh năm tàn này như khơi đậm nỗi nhớnhà của người xa quê, nhất là cảnh gặpngười không cùng ngôn ngữ chằng biếtnói gì hơn trao đổi một nụ cười.

Từ ngày qua ải Nam Quan, lên tới BắcKinh, rồi trở về nước, đây là lần thứ baNguyễn Du ghi lại những hình ảnh ôngnhìn thấy tận mắt bên đường. Lần đầu làlà bài Thái BÌnh Mại Giả Ca, tả cảnh haiông cháu một người hát dạo, lên thuyềnsứ hát, lần thứ hai là bài Trở Binh Hành,tả cảnh loạn lạc làm chậm trễ hành trìnhsứ bộ và đây là lần thứ ba: cảnh đói ráchcủa một người mẹ và ba đứa con, bênquan lộ:

所 見 行Sở Kiến Hành

有 婦 攜 三 兒

Hữu phụ huề tam nhi

相 將 坐 道 旁

Tương tương tọa đạo bàng

小 者 在 懷 中

Tiểu giả tại hoài trung

大 者 持 竹 筐

Đại giả trì trúc khuông

誆 中 何 所 盛5 Khuông trung hà sở thịnh

藜 藿 雜 秕 糠

Lê hoắc tạp bỉ khang

日 晏 不 得 食

Nhật án bất đắc thực

衣 裙 何 框 攘

Y quần hà khuông nhương

見 人 不 仰 視

Kiến nhân bất ngưỡng thị

泪 流 襟 浪 浪10 Lệ lưu khâm lang lang

群 兒 且 喜 笑

Quần nhi thả hỷ tiếu

不 知 母 心 傷

Bất tri mẫu tâm thương

母 心 傖 如 何

Mẫu tâm thương như hà

歲 饑 流 異 鄉

Tuế cơ lưu dị hương

異 鄉 稍 豐 熟

Dị hương sảo phong thực

米 價 不 甚 昂

Mễ giá bất thậm ngang

不 惜 棄 鄉 土

Bất tích khí hương thổ

苟 圖 救 生 方

Cẩu đồ cứu sinh phương

一 人 竭 傭 力

Nhất nhân kiệt dung lục

不 充 四 口 糧20 Bất sung tứ khẩu lương

沿 街 日 乞 食

Duyên nhai nhật khất thực

此 計 安 何 長

Thử kế an hà trường

眼 下 委 溝 壑

Nhãn hạ ủy câu hác

血 肉 飼 豺 狼

Huyết nhục tự sài lang

母 子 不 足 恤

Mẫu tử bất túc tuất

撫 兒 增 斷 腸

Phù nhi tăng đoạn trường

奇 痛 在 心 頭

Kỳ thống tại tâm đầu

天 日 皆 為 黃

Thiên nhật giai vị hoàng

Page 164: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

陰 風 飄 然 至

Âm phong phiêu nhiên chí

行 人 亦 悽 皇30 Hành nhân diệc thê hoàng

昨 宵 西 河 驛

Tạc tiêu Tây Hà Dịch

供 具 何 張 皇

Cung cụ hà trương hoàng

鹿 筋 雜 魚 翅

Lộc cân tạp ngư xí

滿 棹 陳豬 羊

Mãn trắc trần trư dương

長 官 不 下 箸

Trưởng quan bất hạ trợ

小 們 只 略 嘗

Tiểu môn chỉ lược thưòng

撥 棄 無 顧 惜

Bát khí vô cố tích

鄰 狗 厭 膏 梁

Lân cẩu yếm cao lưong

不 知 官 道 上

Bất tri quan dạo thượng

有 此 窮 兒 娘

Hữu thử cùng nhi nương

誰 人 寫 此 圖

Thuỳ nhân tả đồ thử

持 以 奉 君 王

Trì dĩ phụng quân vương

dịch là:

Điều Nhìn Thấy

Có người mẹ cùng ba conNgồi bên nhau lúc đầu hôm ven đường

Đúa út ảm ngửa trong lòngĐứa lớn cắp giỏ bên lưng kè kè

Có gì trong chiếc giỏ treBó rau héo chút tấm kê để dành

Bữa trưa chưa có gì ănHình dung tiều tụy áo quần luốc lem

Thấy người chảng dám ngước lênÁo hoen nước mắt ướt nhèm chẳng thôi

Bầy con thơ dại đùa vuiBiết đâu lòng mẹ ngậm ngùi đớn đau

Đớn đau lòng mẹ vì saoGặp năm đói kém dìu nhau quê người

Quê người lúa mạ còn tươiGặo chưa cao quá cơ trời còn nương

Bỏ làng âu cũng đành lòngTạm thời cầu sống tìm phương qua ngày

Một người làm mướn hai tayĐủ nuôi bốn miệng buổi này tìm đâu

Xin ăn đường phố cúi đầuBiết đâu là kế dài lâu mà màng

Cảnh chết đói hiện rỏ ràngThịt xương rồi để sói lang làm mồi

Mẹ chết âu cũng đành rồiThương con đứt ruột bồi hồi nhìn con

Vô cùng đau sót đòi cơnRáng trời ảm đạm bốn phương úa vàng

Aò ào gió thổi giá băngRùng mình lòng khách dặm trường xót xa

Đêm qua nơi trạm Tây HàĐón mừng sứ bộ tiệc hoa linh đình

Gân hươu vây cá ngon lànhThịt dê thịt lợn cơm canh đầy bànTrưởng quan chống đũa chẳng ăn

Tùy tùng nhấm nháp cả mâm bỏ thừaĐổ đi nào tiếc cỗ dư

Chó bên hàng xóm ứ no chẳng màngNếu hay bên vệ đười quan

Mẹ con nhà đó đói ăn há đànhCảnh này vẽ lại thành tranh

Dâng lên thánh thượng thấu tình cảnh dân.

Áng thơ dài này gợi cho người đọc nhớtới nhưng áng thơ nổi tiếng của Đỗ Phủviết về nhung cảnh cùng khổ của ngườidân trong những vụ mất mùa đói kém tạiTrung Quốc.

Hai câu cuối, gợi Trịnh Hiệp Truyện,trong Tống Sử tường thuật vụ hạn hánnhưng năm Hy Ninh thứ VI và thứ VII,dân lưu ly miền Đông Bắc, gặp nạn bãocát, kéo nhau đi đầy đường đói rách,trong triều Vương An Thạch chuyênquyền, không chịu nghe lời can gián,Trịnh Hiệp đem hết những điều mắt thấymà vẽ thành tranh, giả xưng là tin mậtbáo, chạy ngựa về kinh dâng vua xem.

Page 165: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Tiếp theo cảnh dân nghèo đói khổ trênđây, Nguyễn Du ghi lại những thú vui xaxỉ dọc đường, trong những bài dưới đây:

廣 濟 記 勝Quảng Tế Ký Thắng

江 南 湖 北 地 相 鄰

Giang Nam Hồ Bắc địa tương lân

日 日 繁 華 不 記 春

Nhật nhật phồn hoa bất ký xuân

玉 笛 樓 頭 天 上 曲

Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc

垂 楊 門 外 畫 中 人

Thùy dương môn ngoại họa trung nhân

漆 盆 浴 店 傾 肥 皂

Tất bồn dục điếm khuynh phì tạo

玉 手 胡 姬 膾 細 鱗

Ngọc thủ Hồ cơ khoái tế lân

欲 典 鷫 驦 謀 一 醉

Dục điển túc sương mưu nhất tuý

奈 何 頭 已 白 如 銀

Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.

dịch là:Ghi Cảnh Đẹp Quảng Tế

Giáp nhau Hồ Bắc Giang NamPhồn hoa suốt tháng quanh năm đua đòi

Lầu cao sáo ngọc thấu trờiCửa ngoài mành liễu như người trong tranh

Bọt thơm bồn tắm men xanhTay tiên chuốc gỏi nức danh gái Hồ

Cuộc say gán áo hẹn hòNgại điều mái tóc bạc phơ trên đầu.

Cảnh phồn hoa ở Quảng Tế, một huyệnthuộc tỉnh Hồ Bắc, suốt quanh năm, vớica lâu tửu điếm, với cái thú tắm bồn mennước bột thơm, với người hầu bàn là gáiHồ, khiến cuộc say gán áo chẳng khác gìLý Bạch trong bài Tương Tiến Tửu,nhưng riêng với Nguyễn Du thì ông

ngần ngại vì mái tóc trên đầu ông đã bạcphơ.

Sứ bộ đi ngang một khu rùng thông,dưới bóng thông là một bãi tha ma, Ngẫuhứng Nguyễn Du viết bài:

途 中 偶 興Đồ Trung Ngẫu Hứng

山 下 喬 松 松 下 墳

Sơn hạ kiều tùng tùng hạ phần

纍 纍 都 是 古 時 人

Luy luy đô thị cổ thì nhân

自 由 自 在 不 知 死

Tự do tự tại bất tri tử

花 落 花 開 無 限 春

Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân

伏 臘 子 宗 無 酹 酒

Phục lạp tử tôn vô loại tửu

世 間 富 貴 等 孚 雲

Thế gian phú quý đẳng phù vân

百 年 到 底 皆 如 是

Bách niên đáo để giai vô thị

回 首 芒 芒 一 片 塵

Hồi thủ mang mang nhất phiến trần.

dịch là:Dọc Đường Ngẫu Hứng

Thông chân núi mồ dưới thôngMộ xua san sát vùi nông bao người

Tự do tự tại mãn đờiXuân đi xuân lại hoa tươi hoa tàn

Cháu con rượu lễ tưới trànMây bay phú quý trần gian chập chờn

Trăm năm chung cuộc nào hơnVời trông chỉ thấy bụi vờn mang mang.

Hình ảnh bãi tha ma, mồ mả san sát làmNguyễn Du như chợt đối mặt với chữ vôthường của kiếp người: ngắn ngủi nhưkiếp hoa, nở đó tàn đó, như ông đã cólần viết trong bài Hành Lạc Từ II. Cáiphú qúy trong cõi trần gian này cũng chì

Page 166: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

chập chờn như đám mây. Truyện đờingười trăm năm là như vậy, khác chimột đám bụi nổi mang mang.Con đường sứ bộ về nuớc đi qua HoàngChâu, nơi xưa kia là đất trích người đờiTống, Vương Vũ Xứng. Vương VũXứng để bài văn xuôi Ký Hoàng ChâuTrúc Lâu Ký. Ngày nay đi qua rừng trúc,lầu trúc không còn, chì còn thấy dòngTrường Giang cuồn cuộn chẩy xuôi vềđông, nhưng Nguyễn Du còn nhớ bài kýTrúc Lâu. Phải chăng là Nguyễn Du chongười đọc biết là trong mọi sự nghiệpcủa con ngưòi, để lại cho hậu thế, chỉ cónhững tác phẩm văn học là trường tồnhơn cả, như ông ghi trong bài:

黃 州 竹 樓Hoàng Châu Trúc Lâu

合 圍 巨 竹 遍 交 衢

Hợp vi cự trúc biến giao cù

曾 有 前 人 建 此 樓

Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu

舊 址 何 時 成 白 地

Cựu chỉ hà thời thành bạch địa

遺 文 從 古 記 黃 州

Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu

後 人 徒 有 千 年 感

Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm

當 日 曾 無 隔 歲 謀

Đương nhật tằng vô cách tuế mưu

惟 有 長 江 巧 收 拾

Duy hữu Trường Giang xảo thu thập

一 成 一 毀 賮 東 流

dịch là:

Lầu Trúc Hoàng Châu

Trúc xanh bụi bụi chen nhauNgưòi xưa từng đã xây lầu nơi đây

Đất bằng nền cũ đổi thayDi văn truyền tụng tới nay vẫn còn

Người sau truyện cũ xót thương

Đương thời ai tính đường dài năm sauTrường Giang thu vén khéo sao

Xuôi đông thành hủy nước sâu một dòng.

Trong câu thứ hai, tác giả muốn nói tớiviệc Vương vũ Xứng xâu lầu Trúc. câuthứ tư kể truyên Vương Vũ Xứng để lạicho hậu thế áng văn Hoàng Châu TrúcLâu Ký. Câu thứ sáu Nguễn Du lấy ý từbài Hoàng Châu Trúc Lâu Ký: “Trongbốn năm qua phải bôn tẩu không ngừng,chưa biết sang năm phải đi nơi nào, hásợ lầu trúc này dễ hỏng nát sao?”. Haicâu kết là hình ảnh cái bền vững củathiên nhiên.

Sau rừng trúc Hoàng Châu, sứ bộ đi quasóm núi Hoàng Mai. Cảnh xóm núi nàygợi hứng cho Nguyễn Du viết hai bài.Một bài dài là bài:

黃 梅山 上 村Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn

山 下 有 長 松

Sơn hạ hữu trường tùng

山 上 有 遙 村

Sơn thượng hữu giao thôn

山 下 長 松 梢

Sơn hạ trường tùng sao

正 堂 山 上 門

Chính đường sơn thượng môn

門 內 所 居 人5 Môn nội sở cư nhân

窮 年 何 所 為

Cùng niên hà sở vi

女 事 惟 績 麻

Nữ sự duy tích ma

其 南 業 耘 耔

Kỳ nam nghiệp vân ty

耘 耔 苟 得 閒

Vân ty cẩu đắc nhàn

下 山 伐 松 枝10Hạ sơn phạt tùng chi

Page 167: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

聊 以 足 官 稅

Liêu dĩ túc quan thuế

不 事 書 與 詩

Bất sự thư dữ thi

催 租 一 不 到

Thôi tô nhất bất đáo

雞 犬 皆 熙 熙

Kê khuyển giai hi hi

密 石 礙 車 馬15 Mật thạch ngại xa mã

雜 花 當 歲 蒔

Tạp hoa đương tuế thì

山 外 興 與 廢

Thiên ngoại hưng dữ phế

山 中 皆 不 知

Sơn trung giai bất tri

算 來 一 年 中

Toán lai nhất niên trung

所 憂 無 一 時20 Sở ưu vô nhất thì

人 人 皆 期 頤

Nhân nhân giai kỳ di

松 花 百 子肯 許食

Hoa bách tử khẳng hứa thực

白 頭 去 此 將 安 歸

Bạch đầu khứ thử tương an quy.

dịch là:

Xóm Núi Hoàng Mai

Rì rào chân núi thông reoLèo tèo mái cỏ thôn nghèo đầu non

Ngọn thông chân núi dập dờnVừa ngang mái cổng xanh rờn đầu sân

5 Tò mò muốn biết tình dânQuanh năm sinh sống quây quần sao đây

Đàn bà chăm việc tơ gaiĐàn ông vun cỏ bón cây rẫy vườn

Ngày ba tháng tám thong dong10 Rủ nhau xuống núi chặt thông lập tràn

Cốt sao đủ thuế nộp quanThi thư không đọc sách đàn cũng không

Thuế không thúc là đủ mừng

Con gà con chó cũng cùng ước mơ15Gập gềnh xe vắng ngựa thưa

Nhìn trăm hoa biết bốn mùa đổi thayPhế hưng đưới núi vần xoay

Riêng người xóm núi nào hay yên lòngSo đi tính lại năm tròn

20 Cũng không một phút mất còn lo âuCho nên người ở non sâu

Thẩy đều trăm tuổi sống lâu hơn đờiHoa tùng hạt bách no rồi

Nơi đây đầu bạc là nơi dưỡng già.

Áng thơ dài trên đây cho người đọc thấyhình ảnh xóm núi Hoàng Mai chẳng mấykhác hình ảnh xóm Đào Nguyên trongbài Đào Hoa Nguyên Thi của Đào Tiềm30. Đồng thời có một đôi câu ghi lạinhững hình ảnh quen thuộc của mộtnước nhỏ theo Lão Tử 31. Chọn một nơivề dưỡng già như xóm núi Hoàng Maitrên đây, phải chăng Nguyễn Du nghĩnhiều đến ngày bước ra ngoài vòngcương tỏa về vui với thiên nhiên?

Tiếp tục hành trình, sứ bộ vào đườngHoàng Mai, Nguyễn Du ghi lại tâm cảnhnáo nức khi xuống hết núi nước Ngô, vàvùng núi nước Sở, và tính ra thì chừngtháng ba là về tới nước nhà, vừa kịp xemhoa tường vi nở.

黃 梅 道 中Hoàng mai Đạo Trung

吳 山 行 已 遍

Ngô sơn hành dĩ biến

楚 山 來 更 多

Sở sơn lai cánh đa

到 得 青 山 盡

Đáo đắc thanh sơn tận

其 如 白 髮 何

Kỳ như bạch phát hà

30 陶 淵 明 詩 選, 劉 逸 生 主 編, 三 聯 書店, 香 港1987, 章 136-138.31

Lão Tử Đạo Đức Kinh, sách đã dẫn, Chương LXXX, tr. 388.

Page 168: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

衡 岳 雪 初 薺

Hành nhạc tuyết sơ tễ

洞 庭 春 水 波

Động đình sơn thuỷ ba

計 程 在 三 月

Kế trình tại tam nguyệt

猶 及 薔 薇 花

Do cập tưòng vci hoa.

dịch là:

Đường Hoàng Mai

Vừa băng qua rặng núi NgôLại vào đất Sở nhấp nhô non ngàn

Được đi hết núi cùng nonBuồn cho mái tóc nhuốm sưong bồng bềnh

Tuyết tan khắp cõi Nhạc HànhXuân về sóng đổ Động Đình bao la

Tháng ba về tới quê nhàTưòng vi kịp thấy nở hoa bên tường.

Nguyễn Du chấm hết Bắc Hành Tạp Lụcvới bài dưới đây ghi lại tâm cảnh ông lúclên thuyền trên bến sông Giang Hán đểvào Hồ Động Đình:

舟 髮Chu Phát

去 遍 東 南 路

Khứ biến đông nam lộ

匆 匆 歲 欲 週

Thông thông tuế dục chu

便 從 江 漢 口

Tiện tòng Giang Hán Khầu

來 泛 洞 庭 舟

Lai phiếm Động Đình chu

人 比 來 時 瘦

Nhân tỷ lai thời sấu

江 同 去 日 秋

Giang đồng khứ nhật thu

鶴 樓 成 詠 處

Hạc Lâu thành vịnh xứ

白 雲 空 悠 悠

Bạch vân không du du.dịch là:

Thuyền Nhổ Sào

Đường về theo hướng đông namDăm dài rong ruổi tàn năm vội vàng

Cửa sông Giang Hán buồm căngThuyền xuôi thuận gió băng ngang Động Đình

Chuyến về xút kém thân hìnhGiang Nam thu muộn đượm tình như xưa

Lầu Hoàng Hạc chốn đề thơLưng trời mây trắng lững lờ tản bay.

Lên thuyền xuôi Hồ Động Đình, NguyễnDu chợt thấy hình vóc sút kém hơn lầnngược lên phiá bắc trong chuyến đi.Cảnh hồ vẫn dường như thơ mộng hơnvới mầu thu bên lầu thơ Hoàng Hạc.

Người đọc thơ Nguyễn Du, thấy ôngchấm dứt Bác Hành Tạp Lục bằng cảnhhồ Động Đình không khỏi liên tưởng tớitruyện Phạm Lãi rũ bỏ lợi danh để cùngTây Thi thả thuyền trên hồ Động Đìnhmà thoát cảnh đưọc thỏ treo cung củaHán Cao Tổ. Phải chăng bước ra ngoàivòng cương tỏa cũng là quyết định củaNguyễn Du khi viết bài thơ trên đây?Không có Tây Thi nâng khăn sửa túi choNguyễn Du, nhưng dường như ông vuicùng nàng thơ của riêng ông trên HồĐộng Đình.

III

Nỗi Buồn của Nguyễn Du

1

Đúng như giới nghiên cúu Truyện Kiềuđã viết: thơ Việt Âm Nguyễn Du đa số làthơ buồn. Những nhà nghiên cứu lớp đầuvào khoảng thập niên 20 thế kỷ XX, như

Page 169: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim 32 chủ trươngnguyên do mối buồn của Nguyên Du làbởi lòng ông còn tưởng nhớ nhà Lê. Tớicuối thập niên thứ 8 thế kỷ XX, ĐàoDuy Anh 33, cũng giữ nguyên một lậpluận ấy. Trưóc đó khoảng vài chục nămcó Hoài Thanh, Trương Chính, rồi tớilớp gần đây, vào những năm cuối thế kỷXX, nhóm Mai Quốc Liên, bác bỏ lậpluận này, nhưng không đề ra được mộtlập luận khác đầy đủ khả năng thuyếtphục.

Đi tìm một ý nghĩa giải thích nỗi buồncủa Nguyễn Du là chủ đích của nhữngtrang kế tiếp.

Để đạt tới mục đích đó, người đọc thơNguyễn Du trở lại quan điểm của BùiKỷ và Trần Trọng Kim: “Thơ NguyễnDu mang đậm nét buồn.”

Chữ buồn này, như đả bàn trong phầnMở Lời, không những là chủ đề của batác phẩm chính của văn học Việt Nam:Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh PhụNgâm và Đoạn Trường Tân Thanh màcòn là chủ đề của những bài ca daotrong dân gian ai ai cũng thuộc, than vannỗi khổ phải đi lính xa nhà, cũng nhưmối nhớ thương của những lứa đôi trắctrở tình yêu.

Chữ buồn này hiểu là chữ mélancolietrong tiếng Pháp, người đọc sẽ gặpGeorges Minois, tác giả cuốn Histoire duMal de Vivre, de la mélancolie à ladépression 34, và thấy là chữ buồn củaNguyễn Du là nỗi buồn của con người,đặc biệt là con người nghệ sĩ, trải dài từ

32Trần Trọng Kim, Truyện Thúy Kiều, sách

đã dẫn, tr. XIII.33Đào Duy Anh, Thơ Chữ Hán Nguyễn Du,

Nhà xuất bản Văn Học, Hànôi, 1988, tr. 33.34

Georges Minois Histoir du Mal de Vivrede la mélancolie à la dépression, Édiditionsde la Martinière, Paris 2003.

thượng cổ tới ngày nay, của khắp mọisắc dân.

Trong địa hạt văn học nghệ thuật, nỗibuồn của con người giữ một vai trò quantrọng. Nhà hiền triết Hy Lạp Aristote(445-386 tcn) đã nói35:

Presque tous les hommes talentueux etsages ont été mélancoliques.

Sau Aristote cả hai ngàn năm, RobertBurton (1577-1640) là một một mục sưkiêm văn sĩ, người Anh Quốc, đã đượcgiới nghiên cứu coi là tiêu biểu chonhững văn nhân mang nặng nỗi buồn.Ông có một nếp sống trầm lặng đơn độc,sống bằng một lợi tức đạm bạc. Nhưngông lấy làm mãn nguyện và nói: “Tôichẳng giầu mà cũng chẳng nghèo, tôichẳng có gì nhiều trong tay, mà cũngchẳng uớc ao gì khác. Tất cả sở hữu củatôi là một chồng sách nát. Thú đọc sáchlà một nét điển hình của ngưòi mangnặng mối đa sầu. Robert Burton tự xétmình rất khe khắt, ông nghi ngờ chínhcái hiểu biết của ông, ông nói: “Tu nepeux pas avoir une pire idée de moi quecelle que j’ai de moi-même36 . Càngbuồn ông càng dấn thân vào việc sángtác. Cuốn sách ông hoàn tất có trên dưóihai ngàn trang. Nội dung cuốn sách bàntới nhiều trạng thái của nỗi buồn của conngười. Ông mô tả đặc điểm của conngười giẩu sầu cảm 37: “cùng cục đammê, [...] luôn luôn lo lắng, đa nghi, thậntrọng, có lúc rất hào phóng nhưng nhiềukhi rất dè xẻn, thường thường bất mãnngay với chính mình và với người chungquanh hay với cả những truyện khôngliên quan tới bản thân, [...] nói ít, chẳngbao giờ khen ai và cũng không thíchngười khác khen mình; dường nhưthường xuyên chìm đắm trong vòng suy

35Cité par Georges Minois: Ibid. p. 92

36 Cité par Georges Minois, ibid, p. 153.37 Cité par Georges Minois, ibid. p. 154.

Page 170: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

tư [...] ưa cưộc sống đơn độc, đi dạo mộtmình, nằm dài suy nghĩ suốt ngày, để trítuởng tượng bay bổng khắp đó đây, vànhìn đời như xem một tấn tuồng trên sânkhấu.”

Ngày nay, cuốn Anatomie de lamélancolie của Robert Burton được coilà một cuốn sách giải sầu. Nội dungcuốn sách không chỉ bàn riêng về mốisầu cảm của con người, mà thật ra là bànvề thân phận con người với những gò bóchật hẹp, ty tiện và hoang tưởng, vắn tắtlà bàn về nỗi khổ làm ngưòi, le mal devivre.

Sang thế kỷ XVIII, Emmanuel Kant(1724-1804), triết gia ngưòi Đức từngđược coi là triết gia lớn nhất trong thế kỷđó, đã đề cao mối buồn của văn nhân mởđầu cho dòng văn học lãng mạn tại ÂuChâu. Theo ông, mối sầu cảm này đãgiúp cho các nhà thơ nhà văn cũng nhưcác nghệ sĩ khác đạt tới được tới mứctuyệt đỉnh của nghệ thuật. Người nghệ sĩđặt tới tuyệt đỉnh, nhưng vẫn mang nặngnỗi buồn, chán sống, vì tiềm thức nhậycảm sắc bén của họ không cho phép họchấp nhận những lề thói nhỏ nhen giớihạn thân phận con người. EmmanuelKant viết 38:

Celui que ses émotions portent à lamélancolie n’est pas appelé mélancolique[...]. Cet être, en particulier, a unsentiment du sublime. Toutes lessensation du sublime possèdent pour luiune fascination plus grand que lescharmes passagers du beau [...].L’individu de disposition mélancoliquese soucie peu de l’opinion des autres [...]C’est pourquoi il ne dépend que de sonpropre jugement [...], sa constance setransforme parfois en obstination [...]L’amitié est sublime [...] La vérité est

38Emmanuel Kant, Observations sur le bon

sens du beau et du sublime, dans Werke,Berlin, E. Cassier (éd), 1912, t. II, pp. 258s.

sublime, et il hait le mensonge et latromperie. [...] La soumission abjecte luiest intolérable; il aime, en revanche,inspirer l’air de la liberté dans sa noblepoitrine. Toutes les chaines, depuis leschaines dorées du courtisan jusqu’auxlourdes chaines du galérien, lui sontodieuses. Il est, pour lui-même et pourles autres, un juge sévère; et il n’est pasrare qu’il éprouve une immense lassitudede lui-même et du monde.

Cũng trong thế kỷ thứ XVIII, mối buồncủa người nghệ sĩ biến thái thành nỗikhổ làm ngưòi. Người nghệ sĩ tự hỏi ýnghĩa của đời sống, một câu hỏi khôngbao giờ có giải đáp thỏa đáng. Câu hỏinày đưa con nguời tới chỗ đối mặt vớicái chết. Bá tuớc Holbach (1723-1789)viết 39: “Il est bon d’établir quelquesprincipes propres à dimnuer notreattachement pour la vie, et parconséquent à nous faire regarder la mortavec indifférence”. Denise Diderot(1767-1837) xác định: “Il n’y a qu’unevertue: la justice; qu’un devoir: de serendre heureux; qu’un corollaire, de nepas se surfaire la vie, et de ne pascraindre la mort.”

Cũng trong thế kỷ XVIII, chứng sầucảm của văn nghệ sĩ trở thành một cáidịch tự sát, đổi cái khổ làm người lấy cáichết mà không một ai rõ chết rồi sẽ rasao.

Đến giữa thế kỷ XX, Réné Le Senne 40

xuất bản cuốn Traité de laCaractérologie. Theo Le Senne, cả hailoại người, hoặcgiầu sầu cảm hoặc dễxúc động đều cùng nặng mang một mốibuồn. Điển hình cho loại người dễ xúcđộng là nhưng tên tuổi lừng lẫy trongvăn học như Byron, Chateaubriand,Stendhal, Baudelaire, Verlaine,

39Cité par Georges Minois, ibid. p. 217.

40Réné Le Senne, Traité de la Caractérologie

Paris, PUF, 1957.

Page 171: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Rimbaud, Musset, Poe, Dostroevski ...Với loại ngưòi này mối buồn thưòng chỉthoảng qua, vì lẽ họ sẵn sàng tự tìm cáchtrút bỏ. Mối buồn của loại người giầusầu cảm thuòng xâu đậm hơn, kéo dàisuốt đời, ảnh hưỏng tới đời sống tinhthần, điển hình là Rousseau, Vigny,Kierkegaard, v.v...

Hình ảnh con người giầu sầu cảm theoRéné Le Senne tương đồng với hình ảnhcon người đó theo Robert Burton. Conngười giầu sầu cảm thường nhậy cảmvới thay đổi thời tiết; đi tìm niềm yêntĩnh, thích suy tư; thường viết nhật kýsâu kín, journal intime, không chỉ dànhriêng cho mình, mà còn ghi lại khôngnhũng chỉ là sự việc gợi lên mối suy tưcủa tác giả, mà cả những cảm nghĩ riêngcủa tác giả về những sự việc đó. Ngườigiầu sầu cảm thường có khuynh hưóngtự trách mình; người đó không than thântrách phận cho riêng mình mà than thởcho thân phận con người. Bản tính nhútnhát, lánh đời, nên ngoài xã hội ngườigiầu sầu cảm thưòng ít nói, nhưng đôikhi mở miệng thì tỏ ra rất đam mê, nóikhông ngừng. Thiếu thực tiễn, ngườigiầu sầu cảm thường tìm cho mình mộtcông việc làm ăn chắc chắn, không cầncó lương cao bổng hậu, miễn đủ sống:thường thường là một cuộc sống côngchức. Hình ảnh tiêu biểu cho loại ngườinày là nhà thơ Stéphane Mallarmé(1842-1898), dầu không muốn dậy học,nhưng suốt đời làm nghề thầy giáo.

Bản tính thụ động, người giầu sầu cảmthưòng tránh đương đầu với mọi hoạtđộng đòi hỏi một chút cố gắng chủ động.Luôn luôn tìm cách ra khỏi nỗi nhàmchán, nhưng luôn luôn tụ đặt câu hỏi: ‘đểlàm gì?’ trước khi khởi đầu mọi hànhđộng, khiến người giầu sầu cảm như sợhãi tương lai, sợ hãi nỗi nhàm chán đểchìm trong nhàm chán.

Người đọc thơ Nguyễn Du không khỏithoáng thấy Nguyễn Du, qua ba tập thơViệt Âm, có nhưng nét tiêu biểu củangưòi giầu sầu cảm mô tả trên đây, kể từAristite, qua Robert Burton, EmmanuelKant, và Réné Le Senne.

Thế nên, trở lại với Nguyễn Du, qua batập thơ Việt Âm của ông, người đọc thấyđó là những trang nhật ký sâu kín,journal intime. Ông viết cho riêng ông,như để tự nhắc nhở nên sống ra sao đểtìm thấy niềm an lạc trong cõi người tanày. Giới nghiên cứu về nỗi khổ củacuộc sống, mal de vivre 41, cho rằng, nhucầu viết cho riêng mình, là triệu chứngcủa sự bất ổn, biểu thị nỗi buồn [...] vàuớc vọng đi tìm niềm an lạc. Nhật ký sâukín khác với tự truyện. Tự truyện thườnglà những câu truyện chủ quan bày tỏ ýkiến riêng của tác giả về một vấn đềcộng đồng, và tác giả thưòng khéo dùngbút thuật để nhắm đi tới một mục đích đãchọn sẵn, dầu đôi khi phải bóp méo sựthật. Nhật ký sâu kín đa số thành thựchơn tự truyện: tác giả thưòng rút tỉa kinhnghiệm hay ghi lại một quyết định, đứngtrước một sự việc đã xẩy đến với ông ta.

2

Giới nghiên cứu cho biết Nguyễn Du rađời trong một gia đình đại quý tộc, tạiphường Bích Câu, Thăng Long. Nămông mười tuổi thì cha ông, NguyễnNghiễm mất, Chúa Trịnh phong tưócHuân Dụ Đô Hiến ĐạiVương, thượngđẳng Phúc Thần. Năm ông mười ba tuổithì mẹ ông qua đời, ông sống trong sựđùm bục của ông anh cả khác mẹ,Nguyễn Khản, lúc dó đã làm thượng thưbộ lại trong phủ chúa Trịnh . Ông đi thihương năm mười tám tuổi, đậu tú tài, vàlấy vợ là con gái của Đoàn Nguyên

41Georges Minois, Histoire du Mal de Vivre,

Éditions de la Martinière, Paris 2003, p.373-380.

Page 172: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thục. Tập ấm làm Chánh Thủ Hiệu HiệuQuân Hùng Hậu, một chức quan võ ởvùng trung nguyên Bắc Bộ.

Năm ông hai mươi mốt tuổi, NguyễnHuệ ra Bắc diệt chúa Trịnh, NguyễnKhản mất ở Thăng Long. Ba năm sauNguyễn Huệ phá quân Thanh. NguyễnDu tản cư về Quỳnh Côi, quê vợ, sốngnhờ Đoàn Nguyên Tuấn, anh vợ ông, lúcđó làm thị lang bộ lại cho nhà Tây Sơn,suốt sáu năm.

Năm ông hai mươi sáu tuổi, anh ông làNguyễn Quýnh dấy quân chống nhà TâySơn, bị bắt và bị giết. Quân Tây Sơn triệthạ dinh cơ họ Nguyễn Tiên Điền.

Năm ba mươi mốt tuổi, ông toan vàoGia Định, theo nhà Nguyễn, viêc khôngthành, ông bị bắt nhưng chỉ bị giam batháng rồi tha.

Sáu năm sau, vua Gia Long diệt TâySơn, Nguyễn Du ra làm quan với nhàNguyễn. Năm ba mươi chín tuổi ôngđược cử đi tiếp sứ nhà Thanh sangphong vương cho vua Gia Long. Cùngnăm đó ông xin từ quan. Triều dìnhthăng chức cho ông và đổi ông vào kinhđô Phú Xuân. Năm ông bốn mươi batuổi lại xin về hưu lần thứ hai, triều đìnhlại thăng quan cho ông và bổ làm Cai Bạtỉnh Quảng Bình. Bốn năm sau ông lạiđược thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ vàcử làm chánh sứ sang triều đình nhàThanh. Năm sau ông đi sứ về, thăng HữuTham Tri bộ lễ. Ông hoàn tất Bắc HànhTạp Lục và Đoạn Trường Tân Thanh.

Bốn năm sau ông mất, thọ năm mươilăm tuổi.

Dọc theo thời gian, cuốn Thanh HiênTiền Hậu Tập cho ta thấy những kinhnghiệm sống của Nguyễn Du trongnhững năm tháng lưu lạc tản cư cùngnhững ngày tháng đầu tiên ông ra làm

quan với triều Nguyễn. Tập thứ hai,Nam Trung Tạp Ngâm ghi lại kinhnghiệm sống của ông trong những nămtháng ông làm quan tại kinh thành Huế,và tại tỉnh Quảng Bình. Tập thứ ba ghilại những cảm nghĩ của ông trongchuyến ông đi sứ sang triều đình nhàThanh. Những kinh nghiệm đó thườngthường là những kinh nghiệm ông rút tỉatrong cảnh sống chật hẹp gò bó ông. Xenlẫn với những kinh nghiệm sống trongbó buộc đó là những giờ phút ông cảmthấy như bay bổng trong vòm không.

Qua 238 bài thơ Việt Âm, nhìn theochiều dọc, ngưòi đọc thấy nếp sống củaNguyễn Du. Nếp sống đó gồm hai giaiđoạn. Một là giai doạn Nguyễn Du sốngtrong hoàn cảnh vật chất chật vật tronggiai đoạn tản cư rồi về lại Tiên Điềntrước khi ra làm quan ở Bắc Hà. Hai làgiai đoạn Nguyễn Du đã bứt ra khỏicảnh thiếu thốn vật chất. Đó là thời gianông làm quan với triều Nguyển, khi ởtrong Triều khi ở ngoài trấn và khi đi sứ.

Trong cả hai giai đoạn, Nguyễn Du chothấy những gò bó của cuộc sống, trongnhững chân trời giới hạn chật hẹp, vớinhững giàng buộc đủ mọi loại.

Cũng cả trong hai giai đoạn đó, NguyễnDu ghi lại trong nhiều bài những kinhnghiệm giúp ông thành công bứt ra khỏinhững giàng buộc thực tế, bằng cách tựhạ thấp mình như lời Lão Tử dậy trongĐạo Đức Kinh 42 .

Phân tích sơ lược một số bài thơ, lầnlượt trong hai thời kỳ kể trên, là chủ đíchcủa những trang kế tiếp.

3

Thanh Hiên Thi Tập mở đầu bằng bàiQuỳnh Hải Nguyên Tiêu. Nguyễn Du

42Lão Tử Đạo Đức Kinh, sách đã dẫn, tr.

Page 173: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

ngắm trăng rằm tháng giêng, không córượu trong tay như Lý Bạch, nhưng vuicùng trăng tròn như gặp lại ngưòi quenbiết từ ba chục năm qua, trong cảnh anhem ông ly tán vì loạn lạc, bạn bè tri kỷkhông có một ai ở gần, tóc trên đầu ôngđã bạc, và năm tháng vội vã trôi qua. Bàithơ không chỉ ghi lại nỗi buồn củaNguyễn Du, mà còn cho ngưòi đọc thấynỗi cô độc của tác giả cùng lòng yêuthiên nhiên của ông. Nỗi buồn củaNguyễn Du là nỗi buồn của một conngười nghệ sĩ, thấy được cái đẹp, mặcdầu đang ở trong cảnh khó khăn củacuộc sống. Đúng như lòi Julia Kristeva43:

[...] la mélancholie, équilibrée par legénie, est coextensive à l’inquiétude del’homme dans l’Être.

Thế thì, phải chăng nỗi buồn củaNguyễn Du là nỗi buồn cho thân phậncon người, nhất là con người trong giớisáng tác thơ văn, nhiều tư duy, đúng nhưnhận xét của Aristote44:

Tous les hommes qui furentexceptionnels en philosophie, enpolitique, en poésie ou dans les artsetaient [...] manifestement mélancoliques

Nỗi buồn đó hiển hiện trong thơ ViệtÂm của Nguyễn Du.

Trong hai bài Tự Thán I, ông than choông thân đã suy tóc đã bạc, danh vẫnchưa thành. Nhưng cảnh khó khăn nàydường như tại tính trời sinh, có cố gắnglắm thì cũng như cắt ngắn chân hạc, kéodài chân vịt, như lời Trang Tử: chỉ hạicho tính trời, mà vô ích. Chi bằng để

43Julia Kristeva, Soleil noir: dépression et

melancholie, Paris, Gallimard, 1987, p. 17.44

Aristote, Problème XXX, 1, Traductionfrancaise de F. Durand Bogaert et L. Evrard,parue dans R. Klibansky, & Al. Paris,Gallimard, 1989, p. 52.

mặc cho đại hóa xoay vần. Sang bài thứhai, ông than rằng bởi thông minh màtổn hại đến thiên chân, sự nghiệp vănchương chưa có nên sao nói được rằngtrời đất ghen. Tài văn võ của ông khôngcó đất dùng, âu là vào rừng xuống tócsống với thiên nhiên nhìn mây bay nghethông reo.

Trong bài Vị Hoàng Doanh, Nguyễn Dudùng hình ảnh con ngụa uống nuớc dướichân thành của Lão Tử để tả cảnh chiếntrận đã tàn, và hình ảnh ánh lửa đomđóm là hình ảnh chính sự lúc đó chưa rõrệt. Ông đưa ra một nhận xét xác đáng làxưa nay không có triều đại nào vững bềnđược ngàn năm, như núi sông trước mắtông, như ngọn đèo Ba Dọi núi xanh rờnngăn đường vào xứ Thanh.

Cảnh phù du của danh lợi là điềuNguyễn Du nhìn thấy tận mắt trong giađình của ông. Cảm xúc của ông khi rachơi giang đình, gần làng ông là cảnhngày năm 1771, khi ông mới sáu tuổi,cha ông, Nguyễn Nghiễm, thăng chứcĐại Tư Đồ, về hưu, được chúa Trịnh choba chiếc thuyền hải mã đưa về làng, nhưông ghi lại trong bài Giang Đình HữuCảm. Mới đó mà biết bao nhiêu sự thayđổi ở kinh đô, làm buồn lòng nhà thơ.Đó là lần độc nhất ông nói tới gia đìnhông trong cả ba tập thơ Việt Âm. Trongsuốt cả ba tập thơ Việt Âm đó, đây là lầnđầu tiên, Nguyễn Du lần nhắc đến tínhvô thường của các triều đại, và sau đócòn nhắc đến điều này trong nhiều bàikhác, dường như để lấy đó làm mộttrong những lý do khiến ông không hănghái lao hết mình vào vòng công danh.

Trở về với thực tế, qua bài Bất Mỵ, ôngcho thấy cảnh thiếu đói đe dọa gia đìnhông: cóc vào ở trong nhà bếp, nền nhàđất ẩm giun đùn chui lên. Ông không cókế nào hơn là ngâm chương Vấn Thiêncủa Khuất Nguyên để hỏi trời cao.

Page 174: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Trong hai bài U Cư Nguyễn Du ghi lạicảnh sống của ông trong nhưng ngày dicư ở nhờ nơi quê vợ ông. Ông buồn vìthấy mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người.Đồng thời dường như ông đi ẩn trốn,phải giả khờ dại, giữ gìn lời ăn tiếng nói,phòng thân, tránh né, nghi kỵ mọi nguòi.Nhưng trong cảnh cùng cực đó, ông vẫnthấy mình thành tri kỷ với Vương Xán,thời cuối nhà Hán, người đất Lạc Dươngphiêu dạt sang đất Kinh Châu, tác giả bàiĐăng Lâu Phú .

Hai bài Mạn Hứng là những bài NguyễnDu nói với chính ông, mà người đọcdường như thấy đó là một bài ông tựcười chính ông, hay đúng hơn là ôngnghiêm khắc tự xét chính ông. Ông buồnvì trong cảnh ăn nhờ nơi bãi biển bờsông, mà vẫn còn vương vấn giấc mơgác vàng, đầu đã bạc mà chưa thoát khỏinẻo đưòng công danh, khiến ông thẹnvới người hàng xóm vui với cảnh xe nhỏngựa gầy. Trong bài thứ hai, ông chohay là hiện đang sống trong cảnh chânkhông bén rễ mà ông chỉ muốn vui vóivăn nghiệp, nhưng cũng có đôi lúc nhìntóc trắng trên đầu, ông lại muốn đi tìmyên tĩnh trong lẽ Đạo.

Sang xuân, ông còn đang bị bệnh, nhìnánh trăng ông nhớ về xóm cũ bên sôngLam, nơi quê hương của ông mà thấylòng ông băng giá. Đó là chủ đề của bàiXuân Dạ.

Ý muốn về với Đạo, như ông viết trongbài Sơn Thôn là được bước ra khỏi vòngphù thế, để sống tại một làng nhỏ miềnnúi, cách biệt hẳn với xã hội bên ngoài,xóm nhỏ như mô tả trong áng thơ ĐàoNguyên Ký của Đào Tiềm 45 mô tả mộtnhóm người trốn bạo chúa vào ẩn náutrong núi.

45 Đào Uyên Minh Thi Tuyển, sách đã dẫn, tr. 136-142.

Ý muốn trở về với Đạo dường như đếnvới Nguyễn Du sau khoảng mưòi tuầnông bị quan quân nhà Tây Sơn bắt giamtrên đường ông vào nam tính truyện theochúa Nguyễn rồi ông được tha và phảiquay về quê nhà. Bắt đầu là câu thứ sáutrong bài Thôn Dạ:

障 消 時 覺 夙 心 空

Chướng tiêu thời giác túc tâm không

nghỉa là khi nghiệm chướng tiêu tan làlúc chữ tâm cũng là chữ không. Câu thơđậm mầu thiền này cho thấy Nguyễn Dutừ lâu đã quay về đọc sách tôn giáo đểtìm sự nâng đỡ tinh thần. Trong câu thứ

tám lần đầu tiên chữ 笑, tiếu, nghĩa là

cười xuất hiện trong thơ Nguyễn Du.

Mầu Thiền còn đậm nét trong thơNguyên Du trong bài Đạo Ý. Ông dùngtới chữ tâm và tĩnh tâm của thiền họclàm thi liệu. Ông mô tả tâm ông yên tĩnhvà thấm nhuần Phật pháp như bóng trăngtrong nước lặng lòng giếng. Niềm tĩnhlặng đó, dầu có bị bàn tay người khấyđộng rối chỉ chốc lát lại tĩnh lặng.

Dường như Nguyễn Du không chỉ riêngđọc sách thiền, mà ông còn đọc cả sáchĐạo Giáo. Câu thứ tám bài bài Mộ XuânMạn Hứng ông viết:

何 如 及早 學 神 仙

Hà như cập tảo học thần tiên

nghĩa là sao chẳng cấp thời học đạo thầntiên.

Bưóc đường đì tìm yên tĩnh qua sáchThiền Lão dường như, không hơn tácdụng của rượu, chỉ có thể giúp choNguyễn Du khuây khỏa trong chốc lát,hoạ ra chỉ có thơ văn giúp ông khâykhỏa như ông viết trong bài Mạn Hứng.

Page 175: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

三 蘭 囪 下 吟 聲 絕

Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt

點 點 精 神 遊 太 初

Điểm điểm tinh thần du thái sơ

nghĩa là ba giò lan bên song cửa, tiếngngâm dứt, tinh thần bay bổng tới cõi tháisơ.

4

Cũng trong mùa xuân đó, Nguyễn Dugiã biệt với một người bạn mà ông ghilại trong bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang.Điểm đáng ghi nhận trong bài là câu thứba:

亂 世 男 兒 羞 對 劍

Loạn thế nam nhi tu đối kiếm

dịch là:

Ngắm gươm thời loạn thẹn mình

dường như thanh gươm nhắc tới thờigian ngắn ngủi Nguyễn Du tập ấm chứcquan võ, mà nay ông nhìn thấy thanhgươm không khỏi tự thẹn vói mình. Đâylà lần thứ nhất ông nói tới thanh gươmcủa ông. Vắng bạn tri kỷ, Nguyễn Du trởvề với mảnh trăng ngà, người bạn tri kỷtrung thành, không bao giờ dời bỏ ông,như ông đã viết trong bài Quỳnh HảiNguyên Tiêu mở đầu Thanh Hiên ThiTập.

Trong bài Tống Nguyễn Hữu Sĩ NamQuy, câu thứ hai có ba chữ khinh võngla, nghĩa là coi thường màng lưới. Giớinghiên cứu cho ba chữ đó là hình ảnhmô tả việc vua Gia Long bắt đầu ápdụng chính sách chiêu dụ nhân sĩ BắcHà. Tiếp theo là việc đất nuớc nay đổichủ, ông dửng dưng đứng ngoài, đồngthời ông buồn vì cảm thấy mình vôdụng. Ông khiếp sợ việc chui vào lồngcông danh, hình ảnh của con đường ralàm quan, và nghĩ đến truyện ẩn thân mà

ông hình dung bằng hình ảnh con rắn bòvề hang. Ở trong cảnh đó ông nhàn tảnvới gió mát trăng thanh nơi quê nhà.

Rồi trời nơi ông tản cư vào thu. Ôngngao ngán ngồi đếm lại những ngày đẹptrời trong năm, viết thành bài Thu Chícho thấy là cảnh ăn nhờ ở đậu đã dàinhiều năm, lá vàng rơi, gió heo mayrung rèm cửa, tiếng ốc tàn đêm, mái tócsớm bạc, đó là cảnh u uất không lốithoát của ông. Cảnh thu còn là hứng thơcủa ông trong hai bài Thu Dạ, trong đóông ghi lại cảnh ông nằm bệnh bên bờsông Tuế, và cảnh ông nghe tiếng chầyđập vải mà lo cho gia đình ông thiếu áomặc rét.

Sang bài Tạp Ngâm, Nguyễn Du tã rõnỗi buồn của ông trong cảnh tản cư sốngnhờ. Ông cố quên đi mọi truyện thực tếnhỏ mọn mà ông gọi chung lả truyệnruồi xanh; cảnh sống chật hẹp làm ôngthấy như đang sống trong tổ mối. Lầnthứ hai ông nhắc tới thanh gươm củaông:

寥 落 壯 心 虛 短 劍

nghĩa là:

Tráng tâm cùn nhụt thẹn gươm

Khác với lần thứ nhất, ông thẹn vớithanh gươm vì thời loạn cầm thanhgươm trong tay mà vô phương hànhđộng, lần này ông thẹn với gươm vìtráng tâm của ông dường đã lụi tàn.

Lần thứ ba Nguyễn Du dùng hình ảnhthanh gươm của ông làm thi liệu là lầnông viết bài Ninh Công Thành nhân mộtbuổi đi qua bức thành cổ này. ThànhÔng Ninh do trấn thủ Nghệ An TrịnhToàn, em của chúa Trịnh Tráng xây cấtđể chống quân chúa Nguyễn. NgàyNguyễn Du qua đó, cây cối mọc um tùncả trên thành cả dưới chân thành, tuy còn

Page 176: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dấu vết nơi giếng bếp, chỗ trú quân,nhưng nay, thẩy chỉ là cảnh phù du củacuộc sống. Trịnh Toàn sau đó bị cháu làTrịnh Tạc lên nối ngôi chúa nghi ky, gọivề kinh hạ ngục và giết chết. Trước bicảnh đó, ông nhìn mây trắng vỗ gươmmà ca. Nguyễn Du không cho biết nộidung bài thơ ông ngâm bên thành ôngNinh, nhưng đã có lần ông thẹn vớithanh gươm vì nỗi tráng tâm đã lụi tàn,thì người đọc khó có thể hình dung ra lờithơ ông ngâm bên thành Ông Ninh là lờimột bản hùng ca của người có chí cầmgương lập công danh.

Lần thứ tư Nguyễn Du dùng hình ảnhthanh gươm là lần ông viết câu thứ sáubài Ký Hữu:

腰 間 長 劍 掛 秋 風

Yêu gian trường kiếm quải thu phong

dịch là:

Gió thu lồng lộng bên lưng kiếm dài

Thanh kiếm dài không còn nằm trongtay Nguyễn Du mà chuyển biến thànhthanh gươm giắt bên lưng một người bạncòn đứng vững trước đầu gió.

Chuyển biến của hình ảnh thanh gươmdùng làm thi liệu trong bốn bài thơ trênđây của Nguyễn Du, phải chăng làchuyển biến của ý muốn muốn cầmgươm đi lập công danh của ông, mỗingày một thêm mờ nhạt?

Trong bài Tự Thán kỳ nhị ông có câu:

書 劍 無 成 生 計 促

Thư kiếm vô thành sinh kế xúc

nghĩa xuôi là văn võ đều không thành,sinh kế bức bách, cho thấy tác giả nhìnrõ, hay tự đánh giá thấp thực tài củamình: cả văn cả võ đều chưa thành,trong khi việc kiếm sống mỗi ngày một

thêm bức bách. Phải chăng vì vậy sựchuyển biến của hình ảnh thanh gươmtrong thơ của ông có thể coi là biểu thị ýmuốn buông bỏ công danh của ông?Đằng khác ý muốn buông bỏ công danhdường như mỗi ngày một rõ rệt hơntrong thơ của ông. Công danh chỉ là đámmây nổi như ông kể lại ngày cha ông vểhưu với hai chiếc thuyển hải mã đưa vềgiang đình bên sông Lam, mà nay bêngiang đình chỉ còn lau sậy trên bãihoang. Đó là hình ảnh đổ nát của bứcthành ông Ninh với cây cối gai góc mọcum tùm.

Người đọc ông không khỏi nhớ tới mộttác giả ngưòi Pháp, Alfred de Musset,ngày mới mười sáu tuổi, hằng say mê bộquân phục đỏ thắm của chiến binh pháothủ. Sau khi đeo gù lên vai, chàng trai tựnhủ: “Ce n’est que celà!”, có thế thôi à!,rồi từ đó Alfred de Musset nhắc lạinhững chữ này mỗi lần ông sắp sửathành tựu bất cứ một truyện gì. Lúc mọingười còn đang hăng say xây mộng,Alfred de Musset đã biết đó chỉ là ảotưởng, cũng như khi mọi người chạytheo danh lợi, Nguyễn Du đã biết là danhlợi chỉ là cái lồng cầm nhốt con người.

5

Cũng trong nhưng năm tháng tản cư này,Nguyễn Du buồn khổ vì nhớ quê huơng.Ông không nhớ tới những ngày vàng soncủa gia đình ông. Ông nhớ tới nhữnghình ảnh rất thông thuờng như một ánhtrăng trong, một bến đò đông ngày cuốinăm như ông viết lại trong bài Xuân Dạ,ông nhớ bạn xưa, nhớ anh em ông đã lâuchưa có thư. Lòng nhớ quê đeo đẳng ôngsuốt trong ba tập thơ: ngày ông vào kinhlàm quan tại triều, cũng như ngày ôngvào Quảng Bình làm quan tại trấn, haysau đó đi sứ sang Trung Quốc. Chỗ nàodường cũng như chỗ nào, tất cả đều xa lạvói ông, người đọc dường thấy như ôngthiếu yên ổn tại mọi chốn khác với quê

Page 177: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

hương của ông. Hình ảnh quê hương màNguyễn Du đặc biệt nhớ tới, trong lúc xaquê là thú đi săn. Ông lấy biệt hiệu làHồng Sơn Liệp Hộ, nghĩa là ngưòi thợsăn Ngàn Hống. Với cái thú đi săn, nhưông viết trong bài Liệp, ông dành mũ áocân đại cho người, ông tìm vui với lũhươu nai trong rặng Hồng Lĩnh, đểkhuây khỏa chứ không để kiếm lợi, ôngưa thích mùi cỏ non, ông lắng nghe tiếngchó sủa bên kia núi. Ông vui với Đạo, xeđưa lọng đón ông kệ người. Hình ảnhHồng Sơn Liệp Hộ đi săn trong bài Liệp,gợi cho người đọc hình ảnh của ngườiđàn ông đi câu mà Văn Vương gặp ở đấtTang, ‘người đi câu, mà câu không phảilà câu, không phải là kẻ cầm cần câu màcó câu. Thường câu chơi mà thôi’ 46, hayhình ảnh của Trang Tử ngồi câu bên bờsông Bộc: ‘muốn sống để lê đưôi trongbùn mà không muốn chết để được thờphụng’ như con rùa thần 47.

Trong mạch suy nghĩ trên đây, HồngSơn Liệp Hộ có bài Hành Lạc Từ I.Trong bài này Nguyện Du nói tới cái thúnhấp rượu với thịt chó. Nai quê có tiếtthơm thịt béo, rượu tăm uống cả trămchén không màng truyện tỉnh say. Đó làcái thú ở cõi đời này. Cái thú

Sống ở đời ăn miếng dồi chóChết xuống âm phủ biết có hay không.

Ông dẫn theo Nam Hoa Kinh của TrangTử là Bá Di, Thúc Tề chết đói trên núiThái Dương vì chữ danh nào có hơn gìĐạo Chích và Trang Cược một tên cướpcủa, một tên cướp nước của người, đểcùng chết vì lợi. Con người sống lâunhất cũng chỉ trong ngoài tám mươi tuổi,việc chi cần tính truyên đường dài lưudanh muôn thủa. Bữa nay còn thịt cầy,

46Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của

Nhượng Tống, sách đã dẫn, tr. 330.47 Trang Tủ Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, sách đã dẫn, tr. 274.

còn be rượu, còn bữa say. Mất còn trướcmắt đó mà nào có ai hay. Việc danh lợilà việc ông chẳng màng tới.

Tiếp theo ý bài Hành Lạc Từ I, NguyễnDu nhìn thấy mọi sự quanh ông tất cảđều vô thường. Cuộc sống mau tàn nhưcánh hoa đào, như ông viết trong bàiHành Lạc đệ nhị thủ. Trước cảnh vôthường đó, Nguyễn Du mời mọi người,hay chính là tự cho phép mình tìm vuitrong chén rượu, trong tiếng đàn tiếng cacủa người kỹ nữ. Ý đó không có gì mớilạ, vì từ đời nhà Đường Lý Bạch cũngmời bạn chung vui với chén ruợu tiếngca. Nguyễn Du đưa ra lý do, một lý domà ông suy nghĩ rất nhiều đó là danh lợicó ích gì cho đời sống. Ông đưa thí dụđiển hình là Vương Nhung, suốt một đờidùng đủ mọi cách lo làm giầu lúc chếtbao nhiêu của cải để lại trần gian đủ bấynhiêu. Rồi tới Phùng Đạo người thờiNgũ Đại, làm quan lớn suốt bốn triềuĐường, Tấn, Hán, Chu, thờ mươi ôngvua, đỉnh chung nhất đời rồi không vẫnlà không. Giầu sang âu cũng chỉ nhưđám mây nổi. Ai ai rồi cũng sẽ phải chết.Xin mời bạn uống thêm chén rượu này.Một ngày nữa đang tàn.

Trái với phần đông thi nhân thường lấyrượu tiêu sầu, trong cả ba tập thơ ViệtÂm, Nguyễn Du chỉ có chừng năm sáubài nói tới rượu. Dường như ông tìmkhuây khỏa cùng với những bạn tri kỷcủa ông qua những bức thư ông viết gửibạn, tỷ như hai bài Ký Hữu .Trong bàithứ nhất, số 36 có câu:

一 天 明 月 交 情 在

Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại

nghĩa là tình bạn chúng ta như trăngsáng đầy trời. Rồi trong bài Ký Hữu thứhai, số 51, có câu

鴻 山 山 月 一 侖 明

Page 178: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh

Nghĩa là Ngàn Hống có một vừng trăngnúi sáng tỏ. Người đọc thấy rõ ý thơ củatác giả lấy hình ảnh vừng trăng sáng tiêubiểu mối giao tình của ông với bạn. Ýthơ này nhắc người đọc nhớ tới một câutrong bài thơ Lý Bạch viết tiễn VươngXương Linh bị giáng chức đổi đi LongTiêu:

我 寄 愁 心 與 明 月

Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt

nghĩa là:

Xin gửi theo ánh trăng mối buồn của tôi

Người bạn trong bài Ký Hữu I này hẳnkhông những là một tri kỷ với NguyễnDu, mà còn là người đồng chí với ông,coi việc đời như mây nổi, bên lưng vẫncòn đeo một thanh kiếm dài.

Người tri kỷ với Nguyên Du trong bàiKý Hữu mang số 61 là một người ở kinhđô. Giới nghiên cứu cho rằng người đó ởThăng Long. Nhưng dường không ổn, vìcâu thứ tư Nguyễn Du viết:

一 州 何 事 小 功 名

Nhất châu hà sự tiểu công danh

nghĩa là đáng gì một chút công danh nhỏở một châu, chứng tỏ là Nguyễn Du lúcđó đã ra làm quan với triều nhà Nguyễn,và kinh đô lúc đó là ở Phú Xuân.

Điều đáng lưu ý là Nguyễn Du nói rõtâm sự của ông. Tự cho mình không cócốt cách làm quan, chưa chết thì cònmuốn làm bạn cùng hươu nai. Ông thèmđược thảnh thơi nằm bên song bắc, bìnhyên vô sự đề tâm thần vào đến cõi hư vô.

Cái thú làm bạn với hươu nai củaNguyễn Du làm người đọc nhớ tới hìnhảnh Jean Jacques Rousseau (1712-1788)

một văn nhân cũng giầu sầu cảm nhưNguyễn Du, lấy thiên nhiên làm nguồnan ủi suốt một đời đầy tư duy quanh cáikhổ làm người.

Trở lại ba tập thơ Việt Âm, người đọcthấy rõ là Nguyễn Du không có nhiều trikỷ. Ông đi tìm tri kỷ trong sách vở, làmbạn với người đời trước, một việc màMạnh Tử gọi là thượng hữu 48. Trongviệc làm bạn với ngưòi xưa này, ông đãghi lại trong bài Độc Tiểu Thanh Ký, môtả cảm tưởng của ông khi đọc truyện vàthương cảm người tài cao mệnh mỏng.Bài thơ kết bằng hai câu:

不 知 三 百 餘 年 後

Bất tri tam bách dư niên hậu

天下 何 人 泣 素 如

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Hai câu trích dẫn trên đây, Bùi Kỷ vàTrần Trọng Kim, trong lời tựa quyểnTruyện Kiều, cho hay đó là lời NguyễnDu khẩu chiếm khi sắp mất.

Toàn thể bài thơ đã là đề tài cho nhiềubài tranh luận. Điểm tranh luận là câuhỏi Nguyễn Du sáng tác bài thơ nàytrong thời điểm nào. Có phe nói là ôngsáng tác trong chuyến đi sứ lúc qua mộTiểu Thanh bên núi Cô Sơn. Nhưngtrong bản chữ nho Bắc Hành Tạp Lụckhông chép bài này. Có phe lại cho rằngNguyễn Du nhân đọc truyện Tiểu ThanhKý mà viết nên bài thơ này. Có người lạivin vào luật thơ, để thấy chữ tri, đứngthứ hai trong câu thứ 7, là một chữ vầnbằng không niêm với chữ vận, vần trắc,đứng thứ hai trong câu thứ 6, và kết luậnlà bài thơ thất niêm, hai câu trích dẫntrên đây là do có ngưòi đã ghép vào sáucâu trên của bài thơ.

48 孟子, 卷 之五, 萬 章, 章 句下, 弟 八章,二, 泛 美 圖 書, 香 港 1977, 章756.

Page 179: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim lẩy câu Kiềusố 106, trong lời Thuý Vân trách ThúyKiều:

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa

rồi viết tiếp sau hai câu khẩu chiếm tríchdẫn trên đây:

Vậy nay ta đọc Truyện Kiều, mà có“khóc người đời xưa” thì những ngườithức giả hẳn không ai cho là “khéo dưnước mắt nữa”.

Trong mạch thơ của bài Độc Tiểu ThanhKý, Nguyên Du đọc thơ Tiểu Thanh Ký,rớt nưóc mắt thương nàng, như tiếcthương một người tri kỷ, rồi ông tự hỏiba trăm năm nữa sẽ có bao nhiêu ngườicũng khóc thương ông, như khóc thươngngưòi tri kỷ, tựa như lúc này ông khócthương nàng Tiểu Thanh. Phải chăng đócũng là một nét điển hình của nhữngngười giầu sầu cảm, luôn luôn thiếubạn, luôn luôn đi tìm người tri kỷ?

6

Kể từ bài Ký Hữu mang số 61, cho tớihết Thanh Hiên Thi Tập chép mười bảybài thơ Nguyễn Du viết sau khi ra làmquan với triều đình nhà Nguyễn. Việc ralàm quan này dường như ảnh hưởngnhiều tới ý thơ của Nguyễn Du. Theoniên biểu Nguyễn Du ông nhận mộtchức vụ khiêm tốn: Tri Huyện PhùDung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam.Trong bài Ký Hữu mang số 61, ông môtả chức vụ này bằng câu:

一 州 何 事 小 名

Nhất châu hà sự tiểu công danh

nghĩa là chút công danh nhỏ ở một châucó đáng kể chi. Nhưng thực tế chút côngdanh nhỏ này chút bỏ gánh lo cho truyệnsinh sống của gia đình đè nặng trên vaiông trong hơn mười năm tản cư hồi cư

vừa qua. Đồng thời cũng cho phép ôngđi du ngoạn đề vịnh đó đây.

Người đọc thơ như thấy mừng choNguyễn Du và chợt nhớ tới một cảnhtương tư của nhà thơ Đường Bạch Cư Dịghi lại trong bài ngũ ngôn sau đây:

中 隱49

Trung Ẩn

大 隱 住朝 巿

Đại ẩn trụ triều thị

小 隱 入 丘 樊

Tiểu ẩn nhập khâu phàn

丘 樊太 冷 落

Khâu phàn thái lãnh lạc

朝 巿 太 囂 諠

Triều thị thái hiêu huyên

不 如 作 中 隱5 Bất như tác trung ẩn

隱 在 留 司 官

Ẩn tại lưu ty quan

似 出 復 似 處

Tự xuất phục tự xử

非 忙 亦 非 閑

Phi mang diệc phi nhàn

不 勞 心 與 力

Bất lao tâm dữ lục

又 免 飢 與 寒10 Hựu miễn cơ dữ hàn

終 歲 無 公事

Chung tuế vô công sự

隨 月 有 俸 錢

Tùy nguyệt hữu bổng tiền

君 若好 登 臨

Quân nhược hảo đăng lâm

城 南 有 秋 山

49 白居易 集, 中 華 書 局 出 版, 北 京1979,張 490.

Page 180: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Thành nam hữu Thu San

君 若 愛 遊 蕩15 Quân nhuọc ái du đãng

城 東 有 春 園

Thành đông hữu Xuân Viên

君 若 欲 一 醉

Quân nhược dục nhất tuý

時 出 赴 賓 筵

Thì xuất phó tân diên

洛 中 多 君 子

Lạc trung đa quân tử

可 以 恣 歡 言20 Khả dĩ tứ hoan ngôn

君 若 欲 高 臥

Quân nhưọc dục cao ngọa

但 自 深 奄 關

Đãn tự thâm yểm quan

亦 無 車 馬 客

Diệc vô xa mã khách

造 次 到 門 前

Tạo thứ đáo môn tiền

人 生 處 一 世25 Nhân sinh xử nhất thế

其道 難 兩 全

Kỳ đạo nan lưỡng toàn

賤 即 若 涑 餒

Tiện tức nhược thúc nỗi

貴 則 多 憂 患

Quý tắc đa ưu hoạn

唯 此 中 隱 士

Duy thử trung ẩn sĩ

致 身 吉 且 安30 Trí thân cát thả an

窮 通 與豐 葯

Cùng thông dữ phong ước

正 在 四 者 間

Chính tại tứ giả gian.

dịch là:

Trung Ẩn

Đại ẩn ở triều đôTiểu ẩn vào non ngàn

Non ngàn quá hẻo lánhTriều đo quà náo huyên

5 Chẳng như làm trung ầnẨn náu tại ty quan

Vừa xuất lại vừa xửChẳng bận củng chảng nhàn

Chẳng lao tâm lao lực10 Lại thoát cảnh cơ hànSuốt năm không công sựTháng tháng có bồng tiềnBằng hứng muốn trèo non

Thành nam có Thu San15Bằng hứng muốn du ngoạnThành Đông có Xuân Viên

Bằng hứng say túy lúyChằng thiếu dịp cỗ bànLạc Đô nhiều quân tử

20Nói năng khá phóng túngBằng hứng muốn nghỉ ngơi

Cửa ngoài cài lỏng thenNgựa xe khách liền vãn

Ngừng trưóc cửa ghé thăm25Sống trong cõi thế nhânĐôi bề khó vẹn toàn

Sợ nghèo khổ đói ráchLo giầu sang hoạn nạn

Duy có trung ần sĩ30Được an lạc tâm thânCùng thông và thiếu dưĐứng chính giữa bốn bên.

Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc Thiên,hiệu là Hương Sơn Cư Sĩ, là một nhà thơđời Đường, nổi tiếng ở Việt Nam vớiáng thơ dài Tỳ Bà Hành đã được nhiềungười dịch sang tiếng Việt, và ông cònvang danh trên khắp thế giới với bàiTrường Hận Ca. Ông đậu Tiến Sĩ nămTrinh Nguyên (800) được bỗ giữ chứcTả Thập Di. Năm Nguyên Hòa thứ X(815) do vụ hạch tội việc tể tưóng VũNguyên Hành bị hành thích và ngự sửBùi Độ bị hành hung, ông bị nhómquyền thần kết tội đầy ra làm Tư MãGiang Châu, sau đổi làm thứ sử HàngChâu rồi thứ sử Tô Châu, cuối cùngđươc triệu về kinh làm Thái Tử ThiếuPhó năm 829. Năm Hội Xương thứ hai

Page 181: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

(842), ông về hưu với hàm thượng thưbộ Hình, rồi mất tại Hương Sơn, LạcDương.

Giới nghiên cứu cho biết là Bạch Cư Diviết bài Trung Ẫn trên đây trong thờigian ông lãnh chúc Thái Tử Thái Phó,biệt phái về Lạc Dương. Thái Tử khônghề tới Lạc Dương, thế nên ông dườngnhư sống trong cảnh ‘bán hưu trí’. Theoông, làm quan ở triều đình là đại ẩnkhông tránh được cảnh huyên náo; vàonon sâu tu tiên là tiểu ẩn phải sống trongcảnh lạnh lẽo. Trung ẩn là giữ một chúcquan nhỏ ở ngoài trấn, như vậy là vừaxuất lại vùa xử, việc quan chẳng bậnchẳng nhàn, chẳng phải lao tâm lao lực,suốt năm không phải gánh vác việcnặng, tháng tháng vẫn có lương bổngđều đều, dể bề đi tham quan nơi danhlam thắng cảnh; cỗ bàn có người mờimọc say sưa; muốn nghỉ muốn làm tùytiện; luôn luôn được sống trong cảnh tâmthân an lạc; đứng giữa cùng thông dưthiếu.

Trong nếp sống trung ẩn đó, Bạch Cư Dịđã để lại cho hậu thế truyền tụng cả hàngngàn bài thơ. Chủ trương xử trong khixuất, xuất trong khi xử của ông đề caotrong bài Trung Ẩn này là mẫu mực chogiới nhà nho toàn cõi Đông Á đi tìm anlạc trông cuộc sống đeo đuổi bốn chữ tutề trị bình của đạo Khổng.

Nếp sống trung ẩn không được ngườiđời ca tụng như nếp sống của những vịanh hùng hào kiệt. Nhưng một đời đượcmấy anh hùng? là câu tục ngữ quen biết.Sống cuộc sống bình thường cho đángsống cũng không phải là dễ. Cũng nhưsống đời trung ẩn cũng không phải là dể.Muốn sống đời sống trung ẩn phải biếtbuông bỏ danh, buông bỏ lợi, và buôngbỏ quyền, tóm lại buông bỏ tất cả nhữngcái mà người đời đeo đuổi và gọi ngắn làthành công. Nhưng con người chạy theolợi, theo danh và theo quyền chỉ vì lo sợ

thất bại, lo sợ nghèo khổ, lo sợ khôngđược ai biết đến mình, ba mối lo sợ đótạo nên nỗi khổ làm người. Muốn đưọcsống nếp sống trung ẩn Nguyễn Du đãphải dầy công tự thuyết phục mình, nhưthấy rõ trong hai tập thơ Việt Âm kếtiếp.

Trở lại thơ Việt Âm Nguyễn Du, từ ngàyNguyển Du ra làm quan với triều nhàNguyễn, từ ngày ông bắt đầu cuộc sốngtrung ẩn, mối buồn của ông có tên mới,đó là mối buồn nhớ quê. Trước đó, mốibuồn của ông là những đêm mất ngủ, làsức khỏe suy giảm như một cái cây bịtrốc rễ mang trồng sang một miền đất lạ;mối buồn chìm trong cảnh đổi mùa, vớilá đỏ mùa thu với sương gió giá buốtmùa đông.

Vượt dòng sông Lam ra bắc làm quanvới triều nhà Nguyễn, Nguyễn Du thiệtsự xa quê, thiệt sự dứt bỏ với quá khứ.Đó là những mất mát của ông. Nỗi buồnxa quê dường như mang mầu tang tóc,tuy không có người thân nào nằm xuống,tuy không có một nấm mồ mới, nhưngcó sự đứt đoạn với quê nhà với nếp sốngquen thuộc.

Trong bài Ký Hữu mang số 61, ông tựcoi như ông đã đánh mất chữ chữ phác,

璞, một chữ quan trọng trong sách Đạo

Đức Kinh của Lão Tử. Ông vẫn còn tựhứa là chưa chết thì còn có ngày vềNgàn Hống vui với bầy hươu nai củaông. Ngồi ở thuỷ các bên sông La Phùmà ông vẫn mơ về Ngàn Hống, nhìntrăng non sông La Phù mới mọc màtưởng tới trăng núi Hồng. Trong nhữngbài Ngẫu Hứng, ông không còn viết vềnhưng vọng tưởng tương lai mà chỉ vẫnnhớ tới bầy hươu nai cùng những đànchim nhạn Hồng Lĩnh. Buổi chiều xuân,ông tiếc một ngày xuân đã tàn, mà thấydanh lợi như mây nổi, tiếc sao chẳngsớm học tu tiên. Cảnh chiều bên bờ sôngThanh Quyết, xanh biếc mầu xuân, chỉ

Page 182: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

làm ông thêm nhớ nhà mà lúc đó ôngkhông biết quê ông ở phương nào. Đứngbên bờ sông Đồng Lung trước cảnh tĩnhlặng ông ngao ngán không biết bao giờcho hết cái khổ làm người. Qua thángcảnh Núi Thầy, ông nhớ ước vọng xưa,nhìn xuống tấm áo lấm bụi đường ôngbuồn vì đám vượn hạc bạn với ông trướckia giờ củng khó nhận ra được ông.Cảnh bên đường Lạng Sơn có hang maycó suối nước, có chốn ần cư của sơntăng, nhắc ông thấy cái già đang đến vớiông, chưa biết đn bao giờ mới được nghỉhưu, để thấy ông lão đồng quê chưa hềđọc sách là con người sung sướng.Đi qua động Nhị Thanh, có điện thờPhật, ông dường chợt nhớ tới chữ vôthường mà thương cho mọi truyện đổithay đang tiếp diễn trước mắt ông.

Cũng vì bước vào vòng trung ẩn,Nguyễn Du thêm một mối lo mới. Đó làmối tương quan với các bạn đồng liêu.Nghỉ đêm tại một quán khách bên đườngLạng Sơn, sáng ngày nhìn ra đồi hoa maimà ông chán nản vì lòng bon chen ghenghét vì lợi danh. Ông gọi hạng ngườinày là Khổng Tước Vũ, tức con côngmúa hay, nhưng dấu mật độc trong lòng.Riêng ông,vốn mê sách hơn mê hoa, ôngvẫn trước sau chỉ muốn làm con bướmbỏ sác ép trong tập sách.

7

Nam Trung Tạp Ngâm bắt đầu bằng bàiPhượng Hoàng Lộ Thượng Tảo Hành.Trên đường vào kinh đô Phú Xuân,Nguyễn Du buồn vì sức yếu, nhưngđược đền bù bằng một đêm gặp gỡ mộtngười thợ củi, trong một quán trọ. Dầukhông được mọi điều đồng tâm nhưngtình cảm giữa hai người như nồng ấm.

Vào tới kinh đô, cuộc sống của NguyễnDu như đổi khác: Ông phải chấm dứtnếp sống trung ẩn và bắc đầu cuộc sốngđại ẩn huyên náo ở kinh đô. Biến chuyển

trong nếp sống Nguyễn Du trong vụthuyên chuyển từ một phủ lỵ Bắc Hà vàokinh thành Phú Xuân làm người đọc nhớtới vụ di chuyển chỗ ở từ bờ hồ Lemanvề Paris của Jean Jacques Rousseau.Trong cuốn Les Confessions, livre X,Jean Jaques Rousseau tư coi mình như‘seul, isolé, sans appui, sans famille, nese tenant qu’à sẽs pricipes et à sesdevoir’ 50 Ông viết thêm trong cuốn LesDialogues: ‘Pour un homme sensible,sans ambition et sans vanité, il est moinscruel et moins difficile de vivre seuldans un désert que seul parmi sessemblables.’ 51.

Trong ba bài Ngẫu Thư Công Quán BíchNguyễn Du viết và dán lên tường nhàCông Quán, ông cho biết trong bài thứnhất, bởi chức vụ còn nhỏ (hàm ngũphẩm) lại không có gia đình đi theo nênông chỉ được cấp phát một gian côngquán; buổi sáng ông chỉ ăn một lưngcơm, chiều tắm chỉ có một bồn nưócnhỏ, khách khứa thăm viếng không cóai, mỹ nhân thì tường dầy vách cao ngăncách, tiếng cuốc vào hè làm ông thêmnhớ quê hương. Bài thứ hai cho biết làđêm dài ông nằng nghe mưa rơi chănđơn gối chiếc lạnh lùng, ông nhó tới hoađào ông nhớ tới cả dì gió. Bài thứ ba chohay trong cảnh nhớ quê ông thấy vinhhoa chỉ là hảo huyền, công thành là kếtquả của gò xương trắng. Cái hẹn hò vớigió trăng mới là cái duyên thắm thiết dầuuống suối ở hang cũng chảng từ. Giấcmộng xua ngày nay chẳng còn, lại còn esợ người ta hỏi tới chuyện cánh lông mấtcòn.

Trong cảnh sống đại ẩn huyên náo đócũng có nhiều thú vui mới tới với

50 Cité par Michel Delon, La voie nouvelled’un promeneur pas si solitaire, MagazineLittéraire, Hors Série, Octobre-Novembre2007, p.4451 Cité par Michel Delon, ibid. p.44

Page 183: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Nguyễn Du như ông ghi lại trong nămbài tứ tuyệt dưới cùng một đề mục:Mộng ĐắcThải Liên.

Trong văn học Trung Hoa, Thải LiênKhúc là một dòng thơ đặc biệt. Lý Bạch52 cũng viết 採 蓮 曲, Thải Liên Khúc

và ghi chú như sau:

採 蓮 曲 起 於 梁 武 帝 [...] 父

子 , 後 世 多 擬 作.

Thải Liên Khúc khởi ư Lương Vũ Đế[...] phụ tử, hậu thề đa nghĩ tác.

nghĩa là: Thải Liên Khúc, khởi từ đờicha con Lương Vũ Đế, đời sau nhiềungười bắc chước sáng tác. Nhà thơ nàyviết câu thứ năm bài Thải Liên Khúcnhư sau:

岸 上 誰 家 遊 冶 郎

Ngạn thượng thuỳ gia du dã lang

chử du dã hay dã du theo Tự Điển ThiềuChửu nghĩa là dắt con hát đi chơi. Thếnên, đọc năm bài Đắc Mộng Thải Liêncủa Nguyễn Du, người đọc liên tưởngtới tập Hát Phường Vải bằng chữ nômcủa ông.

Phú Xuân vào thu, hứng thơ bài Thu Chícủa Nguyễn Du là mối buồn xa quê,cộng thêm mối buồn lo an ninh cho bảnthân, thương mình ngày ngày phải uốnlưng khom gối, mà thêm nhớ đàn âutrắng trên sông Lam. Bên cạnh nỗi bựcbội đó còn thêm cảnh ông phải thù tiếpnhững người chạy theo danh lợi đếnkhông biết ngừng, mà ông chẳng nhữngkhông ưa mà còn coi thương như hạngchó săn, chết cũng chẳng ai thương, đólà điều ông viết trong bài Điệu Khuyển.Cảnh bon chen ở tại sân rồng lại là cảnhNguyễn Du mang ra đối với bát canhngó sen tượng trưng cho cảnh nhàn nơiquê nhà lại là những thi liệu ông dùng

52 李 白 詩 選, ibid. 張 78.

trong bài tiễn bạn được về chịu đại tang,và ông lại qua một đêm nữa nằm nghemưa Phú Xuân. Tiếng mưa Phú Xuân làtiếng thơ trong nhiều bài thơ Việt Âmcủa Nguyễn Du. Tiếng mưa Phú Xuânđó gợi cho người đọc tiếng thơ của PaulVerlaine 53:

Il pleure sans raisonDans ce coeur qui s’écoeure.Quoi! nulle trahision?Ce deuil sans raison.C’est bien la pire peineDe ne savoir pas pourquoi,Sans amour et sans haine,Mon coeur a tant de peine.

Trong năm bài tứ tuyệt đặt dưói cùng đềtài Ngẫu Hứng, Nguyễn Du ghi lại nămtâm cảnh nhớ nhà. Trong bài thứ nhấtông ôn lại thú vui săn bắn ờ Ngàn Hốngnay dành riêng cho ông bạn tiều phu. Bàithứ hai mô tả một đêm nhớ quê mất ngủnăm chờ trăng lên, nhưng trăng bị lá câyche khuất. Bài thứ ba thi liệu của ông làmấy tầu lá chuối, và màn khói bụi làmthi cảnh mờ mịt như tâm cảnh của ông,như mất cả phương hưóng, nhìn cỏ đoánhưóng gió thì cỏ cũng chẳng còn. Bàithứ tư cho hay ông còn nặng gánh giađình, vì quê nhà bị hạn hán, nhà còn cảmười miệng ăn, làm ông phải xét lại ýđịnh xin vể hưu. Bài cuối cùng là hìnhảnh một người từ Thăng Long, hay đúnghơn từ Bắc Hà vào, lẻ loi sợ hãi né tránhmọi người, khiến ngưòi đọc như nhìnthấy hình ảnh của Jean JacquesRousseau ngày mới từ Leman về Paris.

Tiếp theo là bài Ngẫu Đề, trong cảnhđêm thu, có tiếng chầy đạp vải, có tiếnggió lay động tầu lá chuối đầu sân, nghetin quê ngoài bị hạn hán, mười miệngthiếu ăn, thân ông cững còn đang bệnh,nhưng ông vẫn tiếp tục giấc mơ, ông chohay nội dung giấc mơ mà chỉ tự hỏi làtrong đời này có ai không mơ.

53Cité par Georges Minois, ibid, p.298.

Page 184: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

8

Ở Phú Xuân bốn năm, Nguyễn Du đưọcthăng trật lên hàng tứ phẩm, và được bổlàm Cai Bạ ở Quảng Bình. Thế là ôngthoát được cảnh đại ần huyên náo. Trênđường ra Quảng Bình nhậm chức, ông bịbệnh, tình cờ ông gặp một ngưòi đượcvua vời vào kinh, một năm sau đã đượcvua cho về quê ở ngoài bắc. Đó là mộtcái mừng cho Nguyễn Du với hy vọngcũng sẽ được vua cho về nghỉ hưu. Uớcao được về hưu là thi tứ của bài Dạ Tọa,tiếp theo là bài Tạng nhân và bài TáiThứNguyên Vận. Lời thơ bài Tái ThứNguyên Vận còn có nét Thiền và Lão,nên người đọc thấy như Nguyễn Dudường như muốn tìm về tôn giáo để tìmđiểm tựa.

Đời sống trung ẩn ở ngoài trấn dườngnhư làm cho Nguyễn Du thoải mái hơnnhững ngày ở kinh đô Phú Xuân, ông cóthì giờ đi tản bộ đầu sông, và đó là lúcông nhận định về hoàn cảnh mới củaông. Bạn bè đồng liêu với ông, tựa nhưhình ảnh đàn chim biển với ông lão chài,càng ngày càng thân thiện hơn. Với quantrên, bởi không cần quỵ luỵ nên khôngphiền trách một ai. Riêng ông hết sứccẩn thận trong công vụ. Ông yên lòngnghĩ tới cái chết; tình quê không còn daydứt ông, ông yên tâm vui với cảnh thubên sông trước mắt. Sang bài Ngẫu Đắcông cho hay là còn gặp khó khăn trongcông vụ với nha lại dưới quyền, như ôngviết trong câu thứ năm bài Ngẫu Đắc:

事 來 徒 隸 皆 驍 我

Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã

Ông than phiền là tuổi đã cao chữ nghĩacó điều nhớ điều quên. Ông nhớ đến quênhà nhớ đến cả xóm giềng ngày trước.

Nguyễn Du có thêm thì giờ thăm nhữngthắng cảnh ở ngoài thành Quảng Bình.

Ông đề thơ tại Pháo Đài, vịnh những conngựa hoang dưới chân thành, những hìnhảnh tiêu biểu cho cảnh hết nội chiến củanước nhà.

Ông có thêm ngày rảnh rang đi thămchùa Thiên Thai, có thêm thì giờ viết thưthăm hỏi bạn bè. Mùa thu lại về khiếnông nghe rét mướt lùa theo gió, mà chợtthấy mình già, vụng tính khiến còn mắccảnh nổi trôi xa quê. Đó cũng là điềulàm ông suy nghĩ nhân một buổi đi chơinúi. Ông tự trách mình xa chân vào hoạnlộ không còn được rảnh rang như ngườithợ củi. Ông đi ngang sông Gianh, consông ghi vết những năm tháng đất nướcchia hai. Rồi qua sông Di, nhìn sang HònÉn, chỉ còn cách một dẻo Đèo Ngang làvề tới quê ông mà như còn xa cách dặmngàn. Qua một số thơ thù tiếp bạn bè:xướng họa cùng Ngô Tứ Nguyên ngưòiđất Thanh Oai, đưa tiễn Ngô Như Sơn ralàm hiệp trấn Nghệ An, tập Nam TrungTạp Ngân chấm dứt bằng hai bài dướicùng đầu đề Đại Tác Cửu Thú Tư Quy,viết thay người đi thú lâu năm nhớ nhà.Trong bài này, Nguyễn Du gợi lại hìnhảnh Ban Siêu tướng nhà Đông Hán sauba mươi năm chinh phục các nước vùngTây Vực chưa về Trung Nguyên để gủigắm tâm sự của riêng ông mong được vềhưu qua lời ngưòi đi thú than thân.

9

Sau bốn năm ở Quảng Bình, Nguyễn Duđược thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ vàđược cử làm chánh sứ sang triều đìnhnhà Thanh. Chuyến đi sứ kéo dài hainăm và trong thời gian đó ông hoànthành tập Bắc Hành Tạp Lục và cuốntruyện thơ Đoạn Trưòng Tân Thanh.

Bắc Hành Tạp Lục bắt đầu bằng áng thơdài năm mươi câu, kèm theo tiểu dẫn ghilại cuộc tái ngộ giữa ông và một tay đànnguyệt nổi danh trong đội nữ nhạc dướitriều vua Lê, mà ông đã có dịp gặp nàng

Page 185: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

ngoài hai mươi năm về trước, tại nhàmột người anh ông. Không ai biết tênthật của nàng, nhưng nguời Thăng Longgọi nàng là cô Cầm.

Giới nghiên cứu có nhiều người coi ángthơ này tương tự như khúc Tỳ Bà Hànhcủa nhà thơ Đường Bạch Cư Di. KhúcTỳ Bà Hành rất nổi tiếng trong thi caViệt Nam với bản dịch của Phan HuyVịnh kể lại cuộc gặp gỡ giữa tác giả làBạch Cư Di, lúc đó giữ chức Tư Mã đấtGiang Châu, bị biếm từ kinh đô về vùngTầm Dương và một tay đàn tỳ bà, gốcngười Hà Mô gần kinh đô, nay đã luốngtuổi lưu lạc tới bến Tầm Dương. Cảmthương số phận người chơi đàn tỳ bà vànghĩ thương thân mình Bạch Cư Dị đãsáng tác áng thơ dài đó tặng nàng.

Bài Long Thành Cầm giả Ca cũng thuậtlại cuộc tái ngộ giữa cô Cầm và NguyễnDu trong bữa tiệc do tổng trấn BắcThành khoản đãi sứ bộ nhân dịp ghé quaThăng Long. Khác với Tỳ Bà Hành,Long Thành Cầm Giả Ca không nói tớisố phận của tác giả và cô Cầm, màdường như trình bày cuộc chuyển biếncủa Đại Hóa trong hai chục năm vừaqua. Trong hai chuc năm đó, không chỉriêng cô Cầm và Nguyễn Du từ tuổithanh niên bước sang tuổi trung niên,gian khổ triền miên mà triều chính thayđổi ba bốn lần: vua Lê chúa Trịnh chẳngcòn, giặc kiêu binh cũng đã yên, triềuTây Sơn bạo phát bạo tàn, thành siêuquách đổ ... Duy chỉ còn có tiếng đàncủa cô Cầm vẫn như xưa; lòng ngưỡngmộ tiếng đàn đó của Nguyễn Du vẫn nhưxưa. Trong mối thông cảm đó NguyễnDu viết bài ca dài riêng tặng cô Cầm.Người đọc thơ dường như thấy NguyễnDu cho hay là mọi sự đều vô thườngtrong đại hóa, riêng dường như nghệthuật và tình người còn khi loài ngườicòn.

Xuôi dòng thơ đó, Nguyễn Du viết haibài về Thăng Long, cho thấy sông Lônúi Tản không thay đổi; nhiều ngôi nhàcũ đã thành đường đi; cố cung cũng xâylại; bạn cũ đã thành ông nội ông ngoại;khiến ông thao thức nằm nghe tiếng sáodưới bóng trăng, thương cho con nguờivẫn bon chen chạy theo danh lợi đua đòiphú qúy. Cũng trong dịp đó ông gặp lạingười nàng hầu của em ông, nàng đã đilấy chồng đã có ba con, nhưng còn mặctấm áo năm xưa em ông tặng nàng, dầubát nước đổ không sao vớt vát lại được,nhưng cuống sen dầu gẫy vẫn còn tơvương.

Trên đường sang Trung Quốc, ông điqua miếu thờ Mã Viện. Mã Viện là mộtvị tướng Trung Quốc, nổi tiếng tại ViệtNam về việc ông đem quân sang đấtGiao Chỉ đánh bại quân Hai Bà Trưng.Trên đường hành quân, Mã Việt đã khaisông đắp đưòng, lòng người biết ơn lậpnhiều miếu thờ. Mỗi lần Nguyễn Du điqua những miếu thờ đó, thường có thơđề vịnh. Ông không nhắc đến truyện MãViện đem quân sang xâm chiếm nướcnhà, mà chỉ nói tới truyện Mã Viện tuổiđã cao, trước sân rồng vua Hán còn mặcáo giáp thắng yên cương nhẩy lên lưngngựa tỏ ra mình còn cường tráng, khôngđể ý tới lòi can ngăn của anh em, kếtcuộc cột đồng Mã Viện trồng nay khôngai tìm thấy ở đâu, và Mã Viện chếtkhông được chôn cất tại quê nhà. Têntuổi không đưọc ghi trong Vân Đài thờcông thần nhà Hán. Người đọc hiểu làNguyễn Du coi thường ý chí đeo đuổicông danh của Mã Viện.

Đây là lần thứ hai Nguyễn Du dùng cuộctranh luận giữa Mã Viện và người em họlà Mã Thế Du làm thi liệu. Lần thứ nhấtlà lần ông viết câu kết bài Mạn Hứng KỳMột, trong Thanh Hiên Thi Tập:

澤 車 段 馬 愧 東 鄰

Trạch xa đoạn mã qúi đông lân

Page 186: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

dịch là

Ngựa gầy xe nhỏ thẹn ngưòi xóm đông

Mã Viện chủ trương làm tưóng tài dẫuchết lấy da ngựa bọc thây cũng khôngmàng. Theo sách Hậu Hán Thư, MãThiếu Du, em họ Mã Viện không đồng ýnói: “Kẻ sĩ sinh ra ở đời chỉ cần đủ cơmăn áo mặc, ngồi xe nhỏ cỡi ngựa gầy,làm viên lại ở quận, giữ mồ mả ông chaở làng, được khen là ngưòi tốt là đủ”.Nhắc lại lời Mã Thiếu Du Nguyễn Du tụcười mình trong cảnh khốn cùng vẫn cònước mơ truyện công danh.

Lần thứ ba Nguyễn Du nhắc đến cuộcđối thoại giữa Mã Viện và Mã Thiếu Dulà lần thuyền sứ bộ đi ngang miếu thờPhục Ba Tướng Quân ở Đại Than. Ôngdùng hình ảnh Mã Viện mở đường NgũLĩnh, xuống Giao Chỉ để lại công danhtrong sử sách, và đối lại ông dùng lời MãThiếu Du chê Mã Viện tuổi đã về giàcòn khoe sức mạnh lảm trò cười cho vuaHán, và đoan quyết rằng ở đời ngoàitruyện áo cơm mọi truyện khác thẩy làthừa. Ông nhắc lại lời Mã Viện than ởđầm Dâm Đàm, theo Hậu Hán Thư, lànơi quân Mã Viện vây quân của TrưngTrắc tại thành Tây Vu, không phân thắngbại, lại gặp khí trời oi bức, khí độc từ hồbốc lên khiến diều hâu đang bay cũngrớt xuống hồ, và Phục Ba tướng quânnhớ lại lời Mã Thiếu Du mà lấy làm hốitiếc dã không nghe theo lời can gián củaMã Thiếu Du. Người đọc thấy rõ ýNguyễn Du coi nhẹ những kẻ liều thânđeo đuổi công danh.

Lần thứ tư, Nguyễn Du nhắc đến PhụcBa tướng quân là lần thuyền sứ xuốngghềng Đại Than, ông mở đầu bài HạThan Hỷ Phú bằng câu:

心 香 拜 禱 將 軍 祠

Tâm hương bái đảo tưóng quân từ

Người đọc thấy rõ là Nguyễn Du thànhtâm dâng hương tạ ơn Phục Ba tướngquân đã phù hộ cho thuyền sứ xuốngghềnh bình yên.

Đối chiếu bài Hạ Than Hỷ Phú trên đâyvới bài Lam Giang, người đọc thấy trongcả hai bài, tác giả cùng đứng trước sứcmạnh của thiên nhiên, nhưng tâm cảnhcủa Nguyễn Du trong mỗi cảnh mộtkhác.

Đứng trên bờ sông Lam, nhìn cảnh nướclũ mùa thu ông viết:

我 望 藍 江 頭

Ngã vọng Lam Giang đầu

寸 心 常 惴 惴

Thốn tâm thường chúy chúy

nghĩa là:

Ta nhìn dòng sông LamTấc lòng lo ngơm ngớp

Nhưng rồi ông kết bắng hai câu:

擬 驅 千 仞 山

Nghĩ khu Thiên Nhân sơn

填 平 五 百 里

Điền bình ngũ bách lý.

nghĩa là:

Muốn bạt núi Thiên NhânLấp năm trăm dặm sông Lam.

Bài thơ cho người đọc thấy ý chí muốnbạt núi lấp sông, chiến thắng thiên nhiêncủa Nguyễn Du, ngày ông ở tuổi bamươi.

Rồi hai chục năm sau, tâm cảnh NguyễnDu đổi khác: khi xuống hết ghềnh ĐạiThan, ông thành tâm tạ ơn Phục Batướng quân đã phù hộ cho thuyền sứ

Page 187: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

thoát hiểm. Người đọc dường như thấyhoặc là năm tháng chồng chất trên vai,hoặc là phen này Nguyễn Du không anninh đứng trên bờ mà ở trên thuyền đangxuống ghềnh, đứng trong cảnh nguyhiểm, đã khiến Nguyễn Du không còn ýmuốn chiến thắng thiên nhiên mà quayvề thần quyền kiếm điểm tựa.

Tiếp tục cuộc giang hành, thuyền sứ tớikhúc sông Ninh Minh, lại một lần nữaphải đương đầu với truyện nguy hiểmlên thác xuống ghềnh. Trong bài NinhMinh Giang Chu Hành, Nguyễn Du viếtcâu 25:

危 亡 傾 覆 皆 天 意

Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý

nghĩa là:

Nguy vong nghiêng đổ thẩy ý trời

Người đọc thơ thấy rõ là lần gặp nguyhiểm này, Nguyễn Du, không tự tin ởmình, như ngày đứng trên bờ sông Lam,không tìm về thần quyền như khi xuốngghềnh Đại Than mà hướng về số mệnhdo ông Trời định sẵn để tìm nguồn an ủi,đúng như lời Arthur Schopenhauer 54:

Le consolateur, c’est le fatalisme.

Nguyễn Du ghi lại những gian nan lênthác xuống ghềnh trong những bài thơdài trích dẫn trên đây phải chăng là vì dosố mệnh nên chưa thoát ra khỏi cái lồngdanh lợi.

10

Ở thời Nguyễn Du, ngoài đường khoahoạn, kẻ sĩ không còn cách nào khác đểtiến thân, để thoát ra khỏi cảnh nghèokhổ. Nên dường như rất hiếm ngườikhông bị lùa vào cái lồng khoa hoạn.Trong bài Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam

54Cité par Georges Minois, ibid. p. 8.

Quy, ông viết ngày chưa ra làm quanvới triều Nguyễn:

生平 文 彩 殘 籠 鳳

Sinh bình văn thái tàn lung phượng

浮 世 功 名走 壑 蛇

Phù thế công danh tẩu hắc xà

nghĩa là:

Thơ văn một kiếp phượng lồng nátPhù thế công danh rắn ẩn hang

Sau Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ cũngcó nói tới cái lồng khoa hoạn này trongbài Ngất Ngưởng:

Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồngKhi thủ khoa khi tham tán khi tổng đốc Đông

Muốn ra thoát cái lồng đó kẻ sĩ không cócách nào khác là buông bỏ danh lợi. Cóngười đã nhận xét rằng, khi không còn bịcảnh đói rách đe dọa, buông bỏ lợi đãkhó nhưng dường không khó khăn bằngbuông bỏ danh.

Có buông bỏ được cả danh cả lợi mới cóthể trút bỏ được cái khổ làm người, mớimong tìm đưọc niềm an lạc, ataraxie,cho tâm thân trong cuộc sống.

Trong ba tập thơ Việt Âm Nguyễn Du cónhiều bài ông viết về các danh nhân liệtsĩ Trung Quốc với chủ ý là chạy theodanh lợi, là lao đầu vào vòng chết thảm.Thế nên, người đọc không khỏi nghĩ làNguyễn Du tự nhắn nhủ mình buông bỏdanh lợi để tìm niềm an lạc cho tâm thânchính ông.

Trong dòng thơ đó, Nguyễn Du có sáubài nhắc tới Khuất Nguyên. Hai bàichính là hai bài dưới cùng một đầu đề:Tương Đàm Điếu Tam Lư Đải Phu, màông sáng tác khi qua huyện Tương Đàm,tỉnh Hà Nam. Tam Lư Đại Phu là chứctước của Khuất Nguyên. Theo sách Sử

Page 188: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ký của Tư Mã Thiên 55 Khuất Nguyênlàm chức tả đô đời vua Sở Hoài Vương,học rộng, nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn,thạo việc giấy tờ. Nhà vua rất tin dùng,nhưng bị đồng liêu là Đại Phu ThượngQuan ghen ghét. Hoài Vương sai KhuấtNguyên thảo pháp lệnh. Thượng Quangièm với vua: “Bệ hạ sai Khuất Nguyênlàm pháp lệnh, mỗi khi ban lệnh, KhuấtNguyên thường khoe công, nói: ‘ngoài tara, chẳng ai làm nổi’” Nhà vua giận, bỏrơi Khuất Nguyên. Khuất Nguyên lobuồn viết thành áng thơ Ly Tao. Tư MãThiên ca tụng ánh thơ này, viết: “Chíông trong sạch nên nói tới các hoa thơm.Nết ông cao cho nên dù chết cũng khôngđược dung nạp. Ông thoát khỏi cái thếgiới bùn lầy như con ve bỏ lốt, để cấtmình ra khỏi cõi trần dơ bẩn. Suy cái chíấy thì ông có thề sánh với mặt trăng mặttrời vậy.” Sau khi Khuất Nguyên bịtruất, nước Sở chinh chiến với nhiềunước chư hầu, rốt cuộc Hoài Vươngtrúng độc kế của nước Tần, chết ở nướcTần, con là Khoảnh Tương Vương lênnối ngôi. Khuát Nguyên đã được trở lạikinh đô nước Sở, không có chức vụ quantrọng trong triều, nhưng tiếp tục dângbiểu can vua mới. Một lần nữa ThượngQuan gièm Khuất Nguyên với KhoảnhTương Vương, Khoảnh Tương Vươngđem đầy Khuất Nguyên đi xa.

Một ngày kia Khuất Nguyên gặp mộtông già đánh cá hỏi ông:

- Ông là quan Tam Lư đại phu phảikhông? Vì sao đến nông nỗi này.

Khuất Nguyên nói:

- Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ một mìnhta trong, tất cả mọi người đều say, riêngmình ta tỉnh, nên bị đuổi.

55Tư Mã Thiên, Sử Ký, Khuất Nguyên Liệt

Truyện, sách đã dẫn, tr. 542-548.

Ông già đánh cá nói:

- Tất cả đều nhơ dục sao ông khôngxuôi theo dòng làm cho sóng lên cao?Tất cả đều say sao ông không nhai bãrượu và húp rượu.

Khuất Nguyên nói:

- Ta thà gieo mình xuống sông Tương,chôn mình trong bụng cá, lẽ nào để cáibản chất trắng ngần của ta chịu bụi bậmcủa đời.

Bèn làm bài phú Hoài Sa, đoạn ôm đágieo mình xuống sông Mịch La mà chết.

Trở lại bài Tương Đàm Điếu Tam LưĐại Phu, kỳ I, Nguyễn Du thương tiếccho Khuất Nguyên chết uổng từ hai ngànnăm trước, chí khí của ông chẳng còn,hương hoa lan vẫn còn. Ba năm lưu đầygiúp Khuất Nguyên mở đường cho dòngSở Từ. Xương tàn nay tiêu tan, chòm đỗnhược bên sông vẫn thơm hơn ngàn hoakhác. Đau lòng vì vết cũ chằng còn, chỉthấy lá rụng qua sông Nguyên Tương.

Sang bài thứ hai, giữa dòng sông,Nguyễn Du muốn tìm oan hồn KhuấtNguyên chỉ thấy khói sóng mênh mông.Ông đặt câu hỏi, nếu hiến lệnh đượcdùng để bình thiên hạ, thì đâu có Ly Taonối dòng thơ Quốc Phong. Từ xưa tớinay không ai thuơng kẻ tự coi riêngmình là tỉnh mọi người đều say, thì khắpthiên hạ có chốn nào để kẻ đó giãi tỏ mốicô trung. Thói tục đã đổi thay, người đờinay chuộng những loại hoa lan khác hẳnhoa lan của Khuất Nguyên.

Người đọc dường như thấy Nguyễn Dukhóc thương Khuất Nguyên, chẳng khácgì ông khóc con chó trong bài ĐiệuKhuyển:

凡 生 負 奇 氣

Phàm sinh phụ kỳ khí

Page 189: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

天 地 非 所 容

Thiên địa phi sở dung

nghĩa là:

Phàm sinh chí khác đờiTrời đất không chỗ dung

Khuất Nguyên muốn mình khác người:đời đục cả riêng mình ta trong, đời saycả riêng mình ta tỉnh, nên có đi khắp mọinước chư hầu cũng không có chỗ giãibày lòng cô trung của ông.

Ngoài ra Nguyễn Du khóc con chó:

貪 進 不 知 止

Tham tiến bất tri chỉ

nghĩa là:Ham tiến chẳng biết lùi

Thế nên chó phải chết thảm.

Sách Luận Ngữ 56 có câu:

子 曰: 忠 告 而 善 道 之;

Tử viết: Trung cáo nhi thiện đạo chi

不 可 則 止, 毌 自 辱 焉

bất khả tắc chỉ vô tự nhục yên .

nghĩa là:

Khổng Tử nói: Bạn có điều lầm lỗi, phảihết lòng khuyên bảo. Bạn không nghe thìthôi, nói nhiều chỉ mang nhục.

Đối với bạn đã như vậy, thế mà KhuấtNguyên can vua không nghe, không biếtngừng, tránh sao khỏi chết thảm.

Nguyễn Du còn hai bài thơ dài nhắc tớiKhuất Nguyên. Bài thứ nhất là bài PhảnChiêu Hồn. Nguyên vì bài Chiêu Hồn là

56Luận Ngữ, Nhan Uyên, chưong XXIII,

sách đã dẫn, tr. 438-439.

một bài từ của Tống Ngọc, làm để viếngvong hồn Khuất Nguyên. Trong bài tựa,Tống Ngọc, một đại phu trẻ trong triềuvua Sở, cho hay vì thương tiếc KhuấtNguyên viết bài này để gọi hồn KhuấtNguyên. Nguyễn Du viết bài Phản ChiêuHồn, nói ngược lại bài của Tống Ngọc,khuyên hồn Khuất Nguyên không nêntrở về trần gian đầy kẻ gian ác này.Trong sáu câu cuối ông viết như sau:

早 斂 精 神 返 太 極

Tảo liễm tinh thần phản thái cực

慎 勿 再 返 命人 嗤

Thận vật tái phản linh nhân xi

後 世 人 人 皆 上 官

Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan

大 地 處 處 皆 汨 羅

Đại địa xứ xứ giai Mịch La

魚 龍 不 食 豺 虎 食

Ngư long bất thực sài hổ thực

魂 兮 魂 兮 奈魂 何

Hồn hề hồn hề nại hồn hà.

nghĩa là:

Tinh thần khá sớm về thái cựcĐùng về đây nữa người mỉa maiNgười nay thẩy là Thượng QuanĐất này đâu cũng sông Mịch LaRồng cá không rỉa hùm sói nuốt

Hồn ơi hồn ơì biết làm sao.

Người đọc dường thấy như Nguyễn Dukhuyên hồn Khuất Nguyên đừng về đấtnày vì đâu đâu cũng đầy kẻ nham hiểm,đồng thời dường như ông tự nói với ôngphải luôn luôn thủ thế, chốn triều chínhđầy những con công mang mật độc, nhưông viết trong bài Khổng Tưóc Vũ.

Trong bài Bác Giả, Nguyễn Du bác bỏ ýkiến của Giả Nghị, viết trong bài phúviếng Khuất Nguyên, như muốn hỏiKhuất Nguyên sao không đi khắp chínchâu mà tìm vua, hà tất cứ phải bám lấy

Page 190: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

cố đô nước Sở. Người đọc dường nhưthấy Nguyễn Du thưong hại cho KhuấtNguyên chết thảm vì lẽ trai trung mộtchúa gái trinh một chồng, và ông cũngthương hại cho Giả Nghị đi tìm đươcvua mới mà thờ nhưng rồi cũng chếtthảm chẳng khác gì Khuất Nguyên. Phảichăng cả hai Khuất Nguyên và Giả Nghịcùng chết thảm vì danh vọng?

Bài thứ năm Nguyễn Du nhắc tới KhuấtNguyên là bài Ngũ Nguyệt Quan CạnhĐộ, chủ ý nói về truyện người TrungQuốc tổ chức đua thuyền ngày mùngnăm tháng năm hàng năm để làm giỗKhuất Nguyên, mà thật ra chỉ làm rộnvong hồn Khuất Nguyên. Bài thứ sáuNguyễn Du nhắc tới Khuất Nguyên làbài Tương Âm Dạ, làm trong đêm ôngghé Tưong Âm, gần nơi xưa kia KhuấtNguyên đi đầy, ông tỏ ý kính trọngkhông cả muốn ngâm thơ, sợ làm rộnvong hồn Khuất Nguyên.

Theo Đào Duy Anh 57 chính do mối côtrung của Nguyễn Du với nhà Lê khiếnông viết sáu bài trên đây về KhuấtNguyên, người cô trung nước Sở ngoàihai ngàn năm về trước. Ý kiến này xinđể ngưới đọc xét đoán.

11

Để tôn vinh danh nhân Trung Quốc,Nguyễn Du đã chọn một ngưòi ít đuợc ainói tới. Đó là Triệu Vũ Đế, tức Triệu Đà.Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên 58 vuaNam Việt họ Triệu, tên Đà, người huyệnChân Định, trước làm quan úy. Bấy giờnhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, đến đờiNhị Thế quận úy Nam Hải là NhâmNgao ốm sắp chết mời Triệu Đà đến nói:

57Đào Duy Anh, Thơ chũ Hán Nguyễn Du,

sách đã dẫn, tr. 3358

Tư Mã Thiên, Sử Ký, Sách đã dẫn, Nam Việt Úy Đà Liệt Truyện, tr.743 ff.

- Nhà Tần làm điều vô đạo, thiên hạkhổ cực. Bọn Hạng Vũ, Lưu Qúy, NgôQuang dấy binh tập quân tranh giànhthiên hạ. Nam Hải ở nơi xa lánh, tôi sợquân giặc xâm lấn đến đây, nên định dấybinh chặn đưòng để phòng bị, đợi chưhầu có sự thay đổi. Nay gặp lúc ốm nặngnên mời ông đến đề nói kế phòng giặc.Ngao chết, Đà truyền hịch bảo các cữaquan Hoành Phố, Dương Sơn, HoàngKhê rằng:

- Quân giặc sắp đến; phải chặn đường,tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ.

Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập kế đánhchiếm Quế Lâm, Tượng Quận tự lập làmNam Việt Vũ Vương. Sau khi Hán CaoĐế bình được thiên hạ, không trị tội Đàmà còn sai Lục Giả sang phong Đà làmNam Việt Vương. Đà nhân đó mở mangbờ cõi, đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờta đạo, chẳng kém gì “đế” Trung Quốc.

Đến đời Hiếu Văn Đế, vua Hán lại saiLục Giả sang Nam Việt trách Đà về tộitự xưng“đế”, mà không hề phái sứ giảsang Trung Quốc báo tin. Lục Giả đếnnơi, Nam Việt Vương Triệu Đà sợ hãi,làm biểu tạ tội rằng: “Thần tên là Đà, làmột kẻ già nua ở cõi man di. Ngày trướcCao Hậu phong cho làm Nam ViệtVương. [...] Lão thần trộm dùng bậydanh hiệu “đế” chỉ để tự vui, chứ đâudám nói tới tai bệ hạ.” Đà dập đầu xuốngtạ tội, xin mãi mãi làm phiên thần dânglễ cống. Rồi ra lệnh cho trong nước:

- Ta nghe nói ‘hai anh hùng không cùngsống, hai người hiền không cùng ở mộtđời’. Đức hoàng đế là bậc thiên tử hiềntài. Từ nay về sau bỏ xe mui lụa vàng vàcờ tả đạo.

Lục Giả về báo tin, Hiếu Văn Đế bằnglòng lắm.

Page 191: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Từ lúc úy Đà được phong vương đến saulà năm đời, cộng chín mươi ba năm.

Trong bốn câu đầu bài Triệu Vũ Đế CốCảnh, Nguyễn Du nhắc lại việc Sở vàTần tiêu diệt lẫn nhau, ở giữa Triệu Đàđược phong vương rồi tự xưng hoàng đế,nhưng nghe lời Lục Giả mà lùi xuốnghàng vương. Trong đại hóa đài LĩnhBiểu không còn, mộ cổ ở Phiên Ngungcũng mất từ lâu, nhưng triều đại kế tiếpnhau không một ai bằng ông lão TriệuĐà xưng là man di mà tinh hơn đời.

So sánh với hình ảnh Khuất Nguyên,Triệu Đà là hình ảnh đối nghịch. KhuấtNguyên chỉ biết tiến mà không biết lùimà chết thảm. Triệu Đà tiến không đượcthì lùi, giữ tròn mạng cho mình truyềnngôi cho con cháu được tới năm đời.

Đối chiếu bài Triệu Vũ Đế cố cảnh vớiđoạn Sử Ký của Tư Mã Thiên về mốitương quan giữa Nam Việt Vương TriệuĐà và sứ thần nhà Hán gợi cho ngườiđọc đoạn đối thoại giữa Tề TuyênVương và Mạnh Tử : 59

Tuyên Vương nước Tề hỏi: “Giao thiệpvới nước láng giềng có đạo gì không?”Thầy Mạnh thưa: “Có, chỉ người nhân làbiết cái đạo đem nước lớn vỗ về nướcnhỏ, thế nên vua Thang vỗ về nước Cát,vua Văn vỗ về rợ Côn Di. Chỉ người trílà biết cái đạo đem nước nhỏ thờ phụngnước lớn, cho nên vua Thái Vương thờphụng rợ Huân Dục, vua Câu Tiễn thờphụng nước Ngô. Đem nước lớn vỗ vềnước nhỏ, đó là vui lẽ trời vậy; đem nướcnhỏ thờ phụng nước lớn , đó là sợ lẽ trờivậy. Người vui lẽ trời ấy có cái khí tượngbao hàm được cả thiên hạ; người sợ lẽtrời ấy có cái quy mô giữ gìn được nướcmình.

59Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương,

Chương III, trích theo Nghiêm Toản, Lão Tử Đạo Đức Kinh, tập II, sách đã dân, tr. 245

Đồng thời cũng gợi cho người đọc câucuối chương LXI sách Đạo Đức Kinhcủa Lão Tử 60:

故大 國 以 下 小 國 則 取 小 國

Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc

小 國 以下 大 國 則 取 大 國

Tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc

故 或 下 以 取 或 下 而 取

Cố hoặc hạ dĩ thủ hoặc hạ nhi thủ.

R. L. Wing dịch là:

Thus if a large organization is lower thana small organisation, it can receive thesmall organisation.

And if a small organization stays lowerthan a large organization, it can receivethe large organization.

Therefore one receives by becomminglow; another receive by being low.

Lão Tử Đạo Đức Kinh là cuốn sách đểvua chúa học để trị nước và kẻ sĩ học đểsửa mình, nên song song với chươngLXI trên đây, có chương VIII dậy cáchsửa mình như sau:61

上 善 若 水 [...]

Thượng thiện nhược thuỷ

處 眾 人 之 所 惡

xử chúng nhân chi sở ố

故 幾 於 道

cố cơ ư đạo

R. L. Wing dịch là:

The highest value is like water [...]It stays in places that other disdainAnd therefore is close to the Tao.

60R.L. Wing, The Tao of Power, Doubleday

Inc, Gaeden City, New York, 1986, Chp, 61.61

R. L. Wing, ibid. chp. 8.

Page 192: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Giới bình Đạo Đức Kinh giảng rằngngười thượng thiện giống như nước, ởchỗ thấp hèn mọi người đều không ưa,nên gần với đạo. Ở chỗ thấp hèn cónghĩa là nhún mình, không đua tranh.Hình ảnh của người thượng thiện này làhình ảnh của Nguyễn Du qua suốt ba tậpthơ Việt Âm của ông. Đó là hình ảnhcon người đã buông bỏ được chữ danh.Điều kiện thuận tiện cho việc ngoại giaogiữa hai nước láng giềng của Mạnh Tử,cũng như của Lão Tử, thường khôngđược thoả mãn trong nhiều trường hợpthực tế. Người Việt Nam có câu:

Ngoảnh mặt về Tần e Sở giậnQuay đầu sang Sở sợ Tần ghen.

mô tả cái khó khăn của một nước nhỏđứng giữa hai nước lớn.

Suy rộng điều kiện trên sang việc tươngquan giữa vua và quần thần, nếu coinước lớn là một minh quân, nếu coinước nhỏ là một anh hùng, khi kẻ biết sợtrời gặp kẻ biết lẽ trời, thời đó là cảnhvua sáng gặp tôi hiền, tỷ như truyện DựNhượng trả thù cho Trí Bá chủ đề củabài Dự Nhượng Chủy Thủ Hành ; Cũngnhư truyện Kinh Kha sang Tần liều thânvì nghĩa bẩy nước, chết cho tri kỷ làThái Tử Đan, như Nguyễn Du đã viết rõtrong bài Kinh Kha Cô Lý.

Nhưng trong cả hai truyện trên đây DựNhượng cũng như Kinh Kha đều chếtanh dũng nhưng đều đáng thương.

Người Việt Nam lại có câu:

Một đời được mấy anh hùngMột nước được mấy đức ông trị vì.

Thế nên hoạn lộ nhiều khi thành tử lộ.Hán Cao Tổ không phải không là mộtminh quân, Hàn tín không phải khônganh hùng, nhưng cuối cùng Hàn Tín vẫn

bị Hán Cao tổ hại, đó cũng là ý chínhcủa bài Hàn Tín Giảng Binh Xứ.

Trong thơ Nguyễn Du, hoạn lộ khôngnhững chỉ nguy nan trong mối tươngquan giũa vua và quần thần mà còn nguynan gấp bội trong mối tương quan giữacác đống liêu với nhau.

Ngày mới bước chân vào hoạn lộ,Nguyễn Du đã sợ những Khổng TướcVũ, tức nhưng con công muá đẹp mắtnhưng trong lòng chứa chất độc,. Ngườiđọc có thể cơi đó tiêu biểu cho nhữngđồng liêu thâm hiểm mà ông đã gặp vàphải giũ gìn lời ăn tiếng nói để khỏi lộcánh lông.

Trong bài Nhạn Tương Như Cố Lý,Nguyễn Du nhắc tới truyên xích míchgiữa Lạn Tương Như và Liêm Pha. LạnTương Như hai lần lập công to với vuanước Triệu, được vua Triệu thăng chứcThượng Khanh cao hơn chức Đại Tướngcủa Liêm Pha. Liêm Pha liền có ý tìmgặp để làm nhục Lạn Tương Như. Maycho nước Triệu là Nhạn Tương Như biếttruyện tim cách tránh mặt Liêm Pha. Cóngười hỏi thì Lạn Tương Như cho hay làvì nuớc Triệu mà Lạn Tương Như đànhphải làm như vậy, chứ không hề sợ LiêmPha. Liêm Pha nghe câu nàu thân đếnxin lỗi Lạn Tương Như.

Sự hiềm khích giữa đồng liêu là truyệnthường, truyện nhún nhường vì việc lớnnhư Lạn Tương Như là truyện hiếm, biếtphục thiện như Liêm Pha lại càng hiếmhơn nữa.

Sự thường xẩy ra nơi triều chính làtruyện Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi vàTần Cối mà Nguyễn Du dùng làm thiliệu trong bài Yển Thành Nhạc Vũ MụcBan Sư Xứ.

Nhạc Phi người đời Nam Tống, giỏi cảvăn lẫn võ, từng có công lón đánh giặc

Page 193: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Kim, và được vua Tống Cao Tôn tự tayviết bốn chữ Tinh Trung Nhạc Phi trêncờ ban cho làm cờ lệnh. Bấy giờ trongtriều Nam Tống Tần Cối làm tể tướng,lại chủ hòa vói người Kim, muốnnhường cho nước Kim cả vùng đất HoàiBắc. Tần cối giả lênh vua một ngày hạ12 đạo kim bài triệu Nhạc Phi về Kinhđô.

Nhạc phi than: “Công khó mười năm bỏđi một sớm”. Về tới kinh đô, Nhạc Phi bịTần Cối hạ ngục rồi giết.

Trong triều đình vua Gia Long, trướcmắt Nguyễn Du, đã có nhiều vụ án chắcchắn làm ông phải suy nghĩ: tỷ nhưnhững vụ án Nguyễn Văn Thành vàĐặng Trần Thường, theo Trần TrọngKim 62, khiến hậu thế thở dài và thươngtiếc cho những người ham mê hai chữcông danh.

Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du có haicâu kết bài thứ ba trong ba bài Ngẫu ThưCông Quán Bích:

平 生 已 絕 雲 霄 夢

Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng

怕 見 傍 人 問 羽 毛

Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.

nghĩa là:

Công danh mộng hão tiêu mònE người gạn hỏi mất còn cánh lông.

mà ông viết vả treo trên vách nhà CôngQuán ở Phú Xuân?

Ngoài những nguy hiểm trên hoạn lộ domối tương quan giũa nhà vua và quần

62TrầnTrọng Kim, Việt Nam Sử Lược, II, Bộ

Quốc Gia Giáo Dục, Trung Tâm Hôc Liệu, Saigon 1971, tr.184.

thần hay giữa các quan cùng triều,Nguyễn Du đặc biệt lưu ý tới sự thịnhsuy của các triều đại. Ông đã viết trongcâu thứ naqam bài Vị Hoàng Doanhngày ông còn đang tản cư lưu lạc:

古 今 未 見 千 年 國

Cổ kim vị kiến thiên niên quốc

nghĩa là từ ngàn xưa tới nay chưa thấytriều đại nào bền vững được một ngànnăm, để mô tả tính vô thuòng của cáctriều đại.

Ý thơ này trở lại vói Nguyễn Du mỗi lầnông nhìn thấy những dấu tích lịch sử mộtthủa huy hoàng nay thành hoang phế,trong suốt chuyến đi xứ sang TrungQuốc. Người đọc tự hỏi, lập lại một ýthơ nhu vậy, phải chăng là ông muốnluôn luôn tự nhắc mình phải buông bỏchữ danh, một sự buông bỏ khó khăngấp bội việc buông bỏ chữ lợi, để đánhđổi lấy niềm an lạc cho thân và nhất làniềm an lạc cho tâm của ông?

12

Tạm ngưng việc tìm hình ảnh sầu cảmcủa Nguyễn Du trong ba tập thơ ViệtÂm, người đọc tự hỏi đứng trước cái khổlàm người con người sầu cảm phản ứngra sao?

Giới nghiên cứu cho hay là người sầucảm có ba thái độ. Một là sống theo tràolưu của cuộc sống đi tìm những thú vuitức thì; hai là tự cho đời sống của mìnhmột thiên chức để rồi khi đối mặt vớicái vô nghĩa của thực tế thời thất vọngđến độ đi tới tự vẫn; ba là tự tìm lấy chomình một sự tương nhượng để tiếp tụcnếp sống sầu cảm, chán nản, bi quan.Con người thường đồng thời có cả bathái độ trên. Thái độ thứ ba là thái độ cónhiều mầu sác nhân bản và đó cũng là

Page 194: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

thái độ của nhiều tác giả văn học nghệthuật tây phương.

Georges Minois đặt câu hỏi là, nếu rútbỏ những tác phẩm khởi hứng từ nỗi khổlàm người thời nền văn học tây phưongkhông biết sẽ ra sao? 63

Trở lại ba tập thơ Việt Âm của NguyễnDu, người đọc, không ngạc nhiên thấyqua hình ảnh giới người nữ trong thơdường như có đủ ca ba thái độ nói trên.Ngoại trừ hình ảnh ngưòi đàn bà ăn xintrong bài Sở Kiến Hành là hình ảnh conngười trong cảnh đói rách chưa nghĩ tớicái khổ làm ngưòi, mỗi người nữ trongthơ Nguyễn Du có một thái độ riêng.

Dương Qúy Phi, trong bài Dương Phi CốLý, và Vương Thị vợ Tần Cối trong haibài Vương Thị Tượng là những ngườigiữ thái độ thứ nhất đối mặt vói cái khổlàm ngưòi. Cả hai cùng xả thân chạytheo danh lợi, leo lên tới tột đỉnh vinhquang, nhưng rồi kết cuộc chết thảmhay bị người sau đời đời nguyền rủa.

Tiếp theo là hai bà phi Nga Hoàng vàNữ Anh, vợ vua Thuấn, trong bàiThương Ngô Tức Sự, nghe tin vuaThuấn chết tại núi Thương Ngô, đi tìmkhông thấy, khóc lóc, rồi trầm mình ởsông Tương. Ngưòi đọc thấy như hai bàphi cho là thiên chức làm vợ thiên tử đãchấm dứt, đời sống trở nên vô nghĩa màtừ trầm. Người thứ ba là Dương TháiHậu, trong bài Dao Vọng Càn Hải Từ,hoàng hậu của vua Tống Độ Tông, lúcnhà Tống thất thế, Trương Thế Kiệt vàLục Tú Phu hộ tống Dưong Thái Hậu vàthái tử Đế Bính chạy ra Qùynh Sơn, trênđảo Hải Nam. Trương Thế Kiệt đưađược Dương Thái Hậu lên thuyền, cònLục Tú Phú và Đế Bính bị quân Nguyênđuổi gấp nhẩy xuống biển chết. Nghetin, Dương Thái Hậu nói: “Ta vì chịu

63Georges Minois ibid. p. 7.

gian nan tới nay chỉ cốt bảo vệ Đế Bínhđể dòng họ Triệu Tống có người nối dõi,nay đến nỗi này ta còn mong gì?” Sau đóthuyền gặp bão đắm, Dương Thái Hậucũng mất tích. Đó là những người nữ đốimặt với cái khổ làm người theo thái độthứ hai.

Cô Cầm, tay đàn nguyệt trứ danh tạithành Thăng Long, trong bài LongThành Cầm Giả Ca, cũng như ngườinàng hầu của ông em Nguyễn Du, trongbài Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ, là nhữngngưòi sống với nỗi khổ làm ngưòi, trongsầu cảm, trong bi quan, với ngón đàntuyệt diệu, với sợi tơ mành trong cuốngsen đã gẫy, và mặc cho số mệnh đưađẩy.

Riêng nàng Tiểu Thanh, giỏi thơ phú,đã chọn thơ văn để tạm sống với cái khổlàm ngưòi, nhưng số mệnh nghiệt ngãkhiến nàng cũng phải quyên sinh.

Nguyễn Du chọn nàng Tiểu Thanh làmtri kỷ, cũng lấy thơ văn để tương nhượngsống với cái khổ làm người.

Trong thực tế, đối mặt với cái khổ làmngười, con người thưòng lấy rượu, lấykhói thuốc để phá thành sầu; đó là tháiđộ sống của những Lý Bạch, những LưuLinh v.v...Những mgười lao đầu theomột chủ đích tự cho là cao cả, đến khimộng lớn không thành, tự chấm dứt cuộcsống, đó là những anh hùng liệt nữ, cũngnhư nhưng cặp son trẻ tự tử vì tình,những kẻ bất đắc chí đó là nhưng ngườicó thái độ sống thú hai. Những ngườitìm đưọc cách tương nhượng vói cái khổlàm người, như Nguyển Du, là nhữngngưòi đối mặt với cái khổ làm ngưòibằng thái độ thứ hai. Đó là những nhàvăn học nhân bản tên tuổi, trên khắp thế

Page 195: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

giới, đặc biệt là tại Âu Châu suốt thế kỷthứ XIX 64.

Riêng ở Việt Nam, trước Nguyễn Duphải kể đến Nguyễn Trãi, trong bài OanThán, viết khi ông bị vua Lê Thái Tổnghi ông liên quan tới vụ Trần NguyênHãn tạo phản:

虛 名 寔 禍 殊 堪 笑

Hư danh thực họa thù kham tiếu

眾 謗 孤 忠 絕 可 憐

Chúng báng cô trung tuyệt khả liên

數 有 難 逃 知 是 命

Số hữu nan đào tri thị mệnh

文 如 未 喪 也 關 天

Văn như vị táng dã quan thiên.

dịch là:

Gượng cười thực họa hư danhCô trung người ghét thương mình lẻ loi

Trốn đâu cho khỏi số trờiLòng trời chưa dứt há vùi tu văn.

Rồi sau Nguyễn Du còn có NguyễnCông Trứ than buồn:

Ngồi buồn muốn trách ông xanhKhi vui muốn khóc buồn tênh lại cưòi

Lại có Đào Tấn 65 than:

Nghiến răng cười cười cũng khó khănÔm lòng chịu chịu càng vui sướng

và Tản Đà tự hỏi:

Đời đáng chán hay không đáng chán?

64Georges Minois, Histoire du Mal de Vivre,

ibid.Chap IX, p. 269-311.65

Tuồng Đào Tấn, tập I, Đỡ Đẻ, lớp IX, Vũ Đình Liên Biên Dịch, Nhà Xuất Bản Sân Khấu, Sở Văn Hóa Nghĩa Bình, 1987, tr.151

Trở lại trường họp Nguyễn Du, ba tậpthơ Việt Âm của ông không những chongưòi đọc nhận ra tác giả là một ngườisuốt đời đối mặt với cái khổ làm ngườimà còn cho người đọc biết rõ là ông đãcó hai đường lối khác biệt để tươngnhượng với cái khổ làm ngưòi. Một làtìm về tôn giáo, hai là đi vào ngả sángtác văn học.

Lần đầu tiên Nguyễn Du tỏ ý muốn tìmđưòng về dưới bóng Phật là năm ông cònở tuổi ba mươi, đang ở trong cảnh cùngquẫn, cả hai đường thư và kiếm cùng dỏdang, ông viết trong câu kết bài TựThán, kỳ II:

何 能 落 髮 歸 林 去

Hà năng lạc phát quy lâm khứ

臥 聽 松 風 蠁 半 雲

Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân

Ông muốn xuống tóc, nhưng không phảiđể đi ở chùa mà vào rừng nghe thông reoở nửa từng mây xanh.

Thanh Hiên Thi Tập chép bài Đề NhịThanh Động, Nguyễn Du viết năm ông39 tuổi, đã ra làm quan vói nhà Nguyễnvà nhân dịp lên Ải Chi Lăng nghênh tiếpsứ đoàn Trung Quốc sang phong vươngcho vua Gia Long. Đây là lần thứ haiNguyễn Du nói tới Phật pháp, ông viết:

此 心 常 定 不 離 禪

Thử tâm thường định bất ly thiền

nghĩa là:

Tâm này thường định chẳng dời Thiền

cho thấy là Nguyễn Du ngồi thiền vớichủ đích đoạt đưọc thường định, nôm nalả sự tĩnh lặng trong tâm mà không cótham vọng nói tới cõi ngộ.

Page 196: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Ông nói rõ ý thơ này trong bài Đạo Ý.Ông so sánh sự tĩnh lặng trong tâm ôngvới hình ảnh mặt trăng trong lòng giếngcổ: có bị nguời khầy động thoáng gợnrồi cũng lấy lại được niềm tĩnh lặng.

Bài Lương Chiêu Minh Thái Tử PhânKinh Thạch Đài là một trong những bàidài nhất trong Bắc Hành Tạp Lục, mangđậm mầu Thiền. Nguyễn Du dưòng nhưcó ý muốn trách Lương Võ Đế cùngLương Chiêu Minh thái tử vì quá sùngđạo Phật mà để nước mất nhà tan, bàyđặt việc phân kinh không những gâythêm khó khăn cho thế nhân theo họcPhật Pháp mà chỉ để cho người đời sauthi nhau luận bàn, trong khi Đệ Nhất tổchủ trương bất lập văn tự, và riêng ôngtới Phân Kinh Thạch Đài này mới vỡnghĩa là chân kinh là kinh không viếtthành chữ.

Lập trường phản đối Lương Võ Đế vàLương Chiêu Minh Thái Tử của NguyễnDu trong bài thơ dài trên đây, dường nhutương đồng với lập trường của ThiênThai Tông, tựa đề là Thích Môn ChínhThống, theo Suzuky, viết vào khoảngđầu thế kỷ thứ III, như sau 66:

Khi Phật pháp biến đổi, nó trở thànhThiền Tông; khi Thiền Tông tăng trưởngsai lầm, nó trở thành ma thuyết, [...] Cáinguy hiểm vì quá nương tựa kinh và luậncũng gần như cái nguy hiểm không hiểubiết thiết thục - một thái độ có trỏ ngạilớn cho việc theo dõi nghiêm chỉnh đòisống của đạo Phật.

Đằng khác, với kết luận là kinh khôngchữ mới thất là kinh, nhắc người đọcnhớ tới một đoạn văn của Huệ Hải, màSuzuki trích dẫn như sau 67:

66D. T. Suzuki, Thiền Luận, tạp hạ, bản dịch

của Tuệ Sĩ, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ,tr. 81.67

D.T. Suzuky, Ibid. tr. 83.

Ông hãy nghe cho kỷ đây. Trong kinh cónói rõ rằng: Những gì ta nói là nghĩa chứkhông phải chỉ có văn; còn nhưng gìchúng sinh nói chỉ là văn chứ không cónghĩa. Ai hỏi ý sẽ vượt lên nhưng văn tựhời hợt; ai ngộ Lý sẽ vượt qua những văntự. [...] Bỡi vậy kẻ phát Bồ Đề thì được ýmà quên lời, ngộ ý mà ảo giáo. Nhưngười đưọc cá thì quên nơm, được thỏ thìquên đó.

Trong cả ba tập thơ Việt Âm củaNguyễn Du, có một số bài mang sắcĐạo. Trong những bài đó, Nguyễn Duthường dùng những hình ảnh trong sáchNam Hoa Kinh của Trang Tử làm thiliệu. Tỷ như câu thứ ba bài Tự Thán Iông viết:

性 成 鶴 脛 何 容 斷

Tính thành hạc hĩnh hà dung đọan

nghĩa là:

Trời sinh chân hạc dài há cắt ngắn

Hai chữ hạc hĩnh là hai chữ chủ chốttrong câu:

鶴 脛 雖 長 , 斷 之 則 悲

Hạc hĩnh tuy trường, đoan chi tắc bi

sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, thiênBiền Mẫu 68, nghĩa là:

Chân hạc vốn dài, cắt ngắn làm nó buồn.

Đến bài Ngẫu Hứng I, Nguyên Du lạidùng hình ảnh chân hạc dài một lần nữa,kèm theo là hình ảnh giống ngựa bịngưòi đóng móng đóng cương, mất mộtnửa tính trời, trong chương Mã Đề sáchTrang Tử Nam Hoa Kinh 69, trong haicâu:

68The Saying of Chuang Tzu, James R.

Ware chinese text, Confucius Publishing Co,Republic of China, 1959.p. 90.69

The Saying of Chuang Tzu, ibd. p. 97.

Page 197: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

傖 殘 物 性 悲 鶴 脛

Thương tàn vật tính bi hạc hĩnh

刻 雒 天 真 失 馬 蹄

Khắc lạc thiên chân thất mã đề.

Đó là những hình ảnh Nguyễn Du tự môtả: ông cho rằng việc ra làm quan, làmmất tính trời sinh của ông, nhu con hạcbị cắt ngán chân, con ngựa bị đóngmóng.

Sắc Đạo còn thấy rõ hơn trong bài SơnThôn trong Thanh Hiên Thi Tập và bàiHoàng Mai Sơn Thượng Thôn trong BắcHành Tạp Lục.

Những hình ảnh trong bài Sơn Thôn vàbài Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn đều làhình ảnh chủ yếu trong áng thơ Đào HoaNguyên của Đào Tiềm, một nhà thơ đờiTấn Trung Quốc. Nguyên văn lời dẫnnhư sau:

Truyện Nguồn Đào 70

Dưói triều Tấn Thái Nguyên, có ngư phủđất Vũ Lăng, men theo dòng khe, quênđường xa gần. Bỗng gặp rừng đào, cách bờvài trăm bưóc, không xen loại cây nàokhác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng đỏ rực.Ngư phủ lấy làm lạ, muốn vào sâu thêm,đến cuối khu rùng. Hết rừng đến ngọn suối,bên chân núi. Núi có của hang, sáng mờmờ, bèn gác thuyền, theo của hang mà vào.Đầu hang rất hẹp, chỉ vùa lõt một người.Vào sâu vài chục bước, lòng hang mỏ rộng,sáng sủa, thấy đất bằng rộng rãi, nhà củangăn nắp, có ruộng tốt, ao trong, có bụi dâurặng trúc, bờ be ngang dọc thông nhau,tiếng gà tiếng chó liên hồi. Có ngưòi qualại trồng trọt làm lụng, đàn ông đàn bà áoquần đều như người bên ngoài, ông già tócbạc con trẻ trái đào, hớn hở vui vẻ.

Gặp ngư phủ thẩy đều ngạc nhiên, hỏi từđâu tới. Ngư phủ thuật lại mọi điều. Họ bèn

70 陶 淵 明 詩 選, ibid. 張136-142.

mời về nhà, rót rượu mổ gà tiếp đãi. Họcho hay tổ tiên xưa chạy loạn Tần Doanh,dắt vợ con và người làng tới chỗ xa xôi nàylập ấp rồi không trở ra nữa; từ đó cách biệthẳn với ngưòi bên ngoài. Họ lại hỏi bây giờlà đời nào; họ không biết có đời Hán, nóichi đến đời Ngụy đời Tấn. Ngư phủ nhấtnhất kể lại sự tình, người nghe đều đau xót.Người khác lại mời về nhà chơi, thết đãi ănuống. Ở chơi vài ngày, ngư phủ từ biệt ravề. Có nguòi căn dặn; “Xin đừng kể cho ainghe truyện tới đây.”

Ra khỏi hang, tìm lại thuyền, theo hướngcũ mà về, tới đâu đánh dấu chỗ đó. Đếnquận lỵ, vào ra mắt quan thái thú, kể lại sựtình. Quan sai ngư phủ trở lại, tìm nhưngchỗ có đánh dấu, nhưng không sao tìm rađường cũ nũa.

Lưu Tử Kỳ người đất Nam Dương, là bậcthưọng cao sĩ, biết truyện hăng hái đi tìmnơi đó, nhưng chưa tìm ra thì bị bệnh màchết. Từ đó không ai đi tìm đưòng đó nữa.

Tiếp theo là áng thơ dài 32 câu:

桃 花 源 詩Đào Hoa Nguyên Thi

嬴 氏 亂 天 紀

Doanh thị loạn thiên kỷ

賢 者 避 其 世

Hiền giả tỵ kỳ thế

黃 綺 之 商 山

Hoàng Ỷ chi Thương Sơn

伊 人 亦 云 逝

Y nhân diệc vân thệ

往 跡浸 復 湮5 Vãng tích tẩm phục yên

來 逕 遂 蕉 廢

Lai kính toại tiêu phế

相 命 肆 農 耕

Tưong nhật tứ nông canh

日 入 從 所 憩

Page 198: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Nhật nhập tòng sở khế

桑 竹 垂 餘 蔭

Tang trúc thùy dư âm

菽 稷 隨 時 藝10 Thục tắc tùy thì nghệ

春 蠶 收 長 絲

Xuân tàm thu trường ti

秋 熟 靡 王 稅

Thu thục mỹ vương thuế

荒 路 曖 交 通

Hoang lộ ái giao thông

雞 犬 互 鳴 吠

Kê khuyển hỗ minh phệ

俎 豆 猶 古 法15 Trở đậu do cổ pháp

衣 常 無 新 製

Y thường vô tân chế

童 孺 縱 行 歌

Đồng nhụ sĩ hành ca

斑 白 歡 游 詣

Ban bạch hoan du nghệ

草 榮 識 節 和

Thảo vinh thức tiết hòa

木 哀 知 風 厲20 Mộc ai tri phong lệ

雖 無紀 歷 志

Tuy vô kỷ lịch chí

四 時 自 成 歲

Tứ thời tự thành tuế

怡 然 有 餘 樂

Di nhiên hữu dư lạc

干何 勞 智 慧

Can hà lao trí tuệ

奇蹤 隱五 百25 Kỳ tung ẩn ngũ bách

一 朝 敞 神 界

Nhất triêu sưởng thần giới

淳薄 既 異 源

Thuần bạc ký dị nguyên

旋 復 還 幽 蔽

Toàn phục hoàn u tế

借 問 游 方 士

Tá vấn du phương sĩ

焉 測 塵 囂 外30 Yên trác trần hiêu ngoại

願 言 躡 輕 風

Nguyện ngôn nhiếp khinh phong

高 舉 尋 吾 契

Cao cử tầm ngô khế.

dịch là:

Thơ Đào Nguyên

Tần Doanh phá luật trờiNgười hiền lánh truyện đờiHoàng Ỷ về Thương Sơn

Dân lành ùa theo tới5Ngả qua là lấp ngả

Lối về bít kín lốiSáng ngày đi làm đồngChiều tối về thảnh thơiBóng dâu trúc dầy đặc10Đậu kê rộ theo thờiXuân sang tằm kéo tơ

Vào thu thuế không đòiTiếng gà chen tiếng chó

Đường hoang không bóng người15Đồ dùng theo kiểu cũ

Áo quần giữ nguyên thóiCon trẻ vui hát hò

Người gia vui lui tớiCỏ xanh biết trời tốt

20Lá rụng biết gió thổiNgày tháng lịch chẳng cần

Một năm bốn mùa trôiSống bình yên vui vẻ

Chẳng chữ nghĩa theo đòi25Từ năm trăm năm quaTới ngày mở thần giới

Thuần bạc chẳng một nguồnBỗng cùng sống một cõiHỏi đưòng du phưong sĩ30Tới cõi không gió bụi

Nguyện theo gió bổng bayTìm tri âm chung vui.

Page 199: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Sách Lão Tử Đạo Đức Kinh, chương 80có đoạn sau đây 71:

Nước nhỏ dân thưa khiến dư đồ dùng, gấpmười gấp trăm [hơn người] mà khôngdùng, dân coi trọng cái chết mà không dờixa, thuyền xe có mà không di; có áo giápđồ binh mà không bày. Khiến người ta thắtnút dây mà dùng, ăn ngon mặc đẹp, ở yên,vui với thói tục, nước láng giềng gần gũinghe thấy tiếng gà tiếng chó của nhau, màđến già đến chết không qua lại với nhau.

Người đọc thấy rõ là Đào Tiềm khởihứng từ chương 80 sách Lão Tủ ĐạoĐức Kinh để viềt truyện Đào NguyênKý và áng thơ Đào Nguyên Thi. NguyễnDu chắc chắn cũng khởi hứng từ sáchLão Tử cũng như từ văn thơ Đào Tiềmmà viết hai bài Sơn Thôn và Hoàng MaiSơn Thượng Thôn. Trong cả bốn bảnvăn thơ, dân trong hang Nguồn Đào,cũng như tại Xóm Núi hay Xóm NúiHoàng Mai đều yên ổn làm ăn, sốngxung túc, ăn no mặc đẹp, nghe thấy tiếnggà tiếng chó của nhau, không cần tới lịchhàng năm vua ban. Ngoài ra dân NguồnĐào không cả phải nộp sưu thuế cho vuanhư dân trong nước nhỏ lý tưởng củaLão Tử. Dân ở Sơn Thôn và Hoàng MaiSơn Thôn, tuy vẫn phải đóng thuế nhưngđời sống dễ dàng có đóng thuế vẫn còndư sống. Nước nhỏ là nước lý tưởng củaLão Tử, cũng như Nguồn Đào là nơisống lý tưởng của Đào Tiềm. Xóm Núivà Xóm Hoàng Mai dường như là mộtchốn có thật vì Nguyễn Du đã tự hỏi làvề già không về xóm Hoàng Mai dưỡnggià thì còn biết về đâu khác?

Ngưòi đọc có thêm một vài câu hỏi đểchờ giới nghiên cứu giải quyết. SơnThôn và Hoàng Mai Sơn Thượng Thônlà một chốn hay là hai nơi, vì một bàichép trong Thanh Hiên Thi Tập, một bàitrong Bắc Hành Tạp Ngâm.

71Lão Tủ Đạo Đức Kinh, bản dịch của

Nghiêm Toản, sách đã dẫn, tr. 387.

Vậy thời nếu cả hai cùng có thật thì hỏiở đâu? Vùng núi Hồng Lĩnh, hay vùngnúi Nam Trung Quốc?

Sử gia Keith Weller Taylor, tác giả cuốnThe Birth of Việt Nam cũng đặt câu hỏitương tự liên quan tới hang Nguồn Đàocăn cứ trên một đoạn trong Việt Điện ULinh 72. Sách Việt Điện U Linh chépđoạn đó như sau: 73

Phật Tử là em họ Lý Bôn. Lý Bôn chết thìPhật Tử theo anh của Lý Bôn là Thiên Bảodẫn ba vạn quân chạy lên vùng người Di,Lạo. Bá Tiên, [tướng Trung Quốc] treo giảithưởng để tìm bắt, nhưng không được.Thiên Bảo đến động Dã Năng ở đầu nguồnsông Thao, thấy cảnh ở đấy đẹp, đất đai sảnvật phì nhiêu, mầu mỡ mà lại phẳng rộng,bèn xây thành mà ở. Ngưòi kéo dến tụ tậpngày một đông, trí năng ngày một rộngkhắp, bèn trở thành nước Dã Năng. Mọingười suy tôn Thiên Bảo làm Đào LangVương. Chẳng bao lâu Thiên Bảo chếtkhông có con. Mọi người lại tôn Phật Tửlên thay. Vừa lúc đó nghe tin Bá Tiên vềphương Bắc, Phật Tử dẫn quân xuống phíaĐông. Người chung quanh khuyên Phật Tửxưng đế. Phật Tử nghe theo, nhân đó xưnghiệu là là Lý Nam Đế.

Tên động Dã Năng ở nguồn sông Thao,(K.W. Taylor đọc là sông Dao), gợi lạitruyện truyện Đào Nguyên Ký của ĐàoTiềm. Động Đào Nguyên trong thơ vănĐào Tiềm, theo Taylor, có thể là độngDã Năng, nơi ba vị vương mở nước củanhà Tiền Lý dưỡng quân.

Câu hỏi là có gì tương quan giữa độngDã Năng này với Xóm Núi và Xóm

72Keith Weller Taylor, The Birth of

Vietnam, Univerty of California Press,Berkley, 1983, Appendix M, p. 342-343.73

Lý Tế Xuyên, Việt Điện U Linh, Văn Học, Hà Nội, 1972, Bản dịch của Trịnh Đình Rưvà Đinh Gia Khánh, tr. 43.

Page 200: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Hoàng Mai trong thơ Nguyễn Du? Xinngười đọc chờ giới nghiên cứu giải đáp.

13

Người đọc dường như thoáng thấykhuynh hướng thơ văn của Nguyễn Duqua những bài thơ ông viết về những nhàthơ nhà văn mà người Trung Quốcthường gọi là những đại gia.

Đỗ Phủ, tự Thiếu Lăng dường như lànhà thơ mà Nguyễn Du tâm phục nhất.Ông viết hai bài Thiếu Dương Đỗ ThiếuLăng Mộ. Trong bài thứ nhất có hai câu:

異 代 相 憐 空 灑 淚

Dị đại tương liên không sái lệ

一 窮 至 此 豈 工 詩

Nhất cùng chí thử khởi công thi

dịch xuôi là:

Chẳng cùng thời thương nhau rỏ lệ,Cùng quẫn như nhau há vì thơ

đễ giãi tỏ lòng ông đối với Đỗ Phủ.

Sang bài thứ hai, Nguyễn Du trích câu:

儒 冠 多 誤 身

Nho quan đa ngộ thân

trích từ bài Phụng Tặng Vi Tả ThừaTrượng Thập Nhị Vận, của Đỗ Phủ đểnói ông sót thương Đỗ Phủ vì cả haingười cùng đội mũ nhà nho và cả haicùng bị lụy thân. Cái lụy đây là cảnh giađình Đỗ Phủ từng sống trong cảnh đóirách như gia đình Nguyễn Du. Câu thứtư bài Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ,Nguyễn Du viết:

男 女 呻 吟 不 可 聞

Nam nữ thân ngâm bất khả văn

nghĩa là:

Trai gái rên khóc chẳng đành lòng nghe

lấy ý từ câu:

男 女 呻 吟 四 壁 靜

Nam nữ thân ngâm tứ bích tĩnh

trích từ bài Càn Nguyên Trung NgụĐồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ, ghilại cảnh một chiều mùa đông, Đỗ Phủphải vào rừng đào khoai rừng về ăn chođỡ đói. Nhưng tuyết xuống quá nhiều,không đào được khoai phải về taykhông, lúc về tới nhà bốn bề lặng ngắt,con trai con gái kêu rên.

Cảnh đau lòng của Đỗ Phủ trên đây cũnglà cảnh sót sa của Nguyễn Du khi ôngviết câu:

十 口 啼 饑 橫 嶺 北

Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc

一 身 臥 病 帝 城 東

Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông

trong bài Ngẫu Đề, ngày ông đau bệnh ởPhú Xuân và nhận được tin quê ông bịhạn hán nhà mười miệng thiếu ăn. Nhưvậy phải chăng Nguyễn Du thông cảmvới Đỗ Phủ vì cả hai người cùng từngtrải qua những ngảy gian nan thiếu thốn.

Nhà thơ Trung Quốc thứ hai mà NguyễnDu vinh danh là Lý Bạch. Ông viết bàiĐào Hoa Đàm Lý Thanh Liên Cựu Tíchđể ca tụng Lý Bạch bằng câu thứ tám:

薄 視 榮 名 同 敝 履

Bạc thị vinh danh đồng tệ lý

nghĩa là: coi nhẹ vinh hoa như chiếc giàyrách, sau khi nhắc lại truyện Vua Đường

Page 201: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

phái Cao Lực Sĩ gọi Lý Bạch, vào chầumà Tửu Tiên vẫn say mèm, khiến CaoLực Sĩ phải vực lên thuyền. Rồi NguyễnDu kết luận bằng câu:

世 路 塵 埃 信 溷 濁

Thế lộ trần ai tín hỗn trọc

不 如 終 日 痛 飲 全 吾 天

Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên

nghĩa là:

Đường đời bụi bặm hỗn trọcThà suốt ngày uống tràn giữ tròn thiên tính.

Nhưng dường đó chỉ là điều Nguyễn Duước mơ, trong suốt ba tập thơ Việt Âmcủa ông chỉ có bài Hành Lạc Từ I ghi lạicảnh say sưa .

Người đọc dường như thấy Nguyên Dugặp Lý Bạch qua chữ thành sầu trongcâu:

欲 破 城 愁 惟 有 酒

Dục phá thành sầu duy hữu tủu

Chữ thành sầu là hình ảnh mối sầu vâychặt lấy con ngưòi như một bức tườngthành kiên cố. Đó là hình ảnh cái khổlàm người của Lý Bạch mà Nguyễn Duthông cảm. Nhưng khác với Lý Bạch làNguyễn Du không lấy rượu để phá thànhsầu. Nguyễn Du tương nhượng với chínhông để tói chỗ thỏa hiệp để thấy như bứcthành sầu không còn phiền lụy ông nữa.

Sau Lý Bạch và Đỗ Phủ, Nguyễn Du đềcao hai trong Bát Đại Gia của TrungQuốc: một là Liễu Tôn Nguyên và ÂuDương Tu.

Liễu Tôn Nguyên là một văn hào đờiĐường, đậu tiến sĩ, làm quan tới chứcGiám Sát Ngự Sử, vì cuộc tranh chấptrong chiều mà bị biếm làm Tư Mã VĩnhChâu. Nguyễn Du kết luận bài Vĩnh

Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch, bằng haicâu:

壯 年 我 亦 為 材 者

Tráng niên ngã diệc vi tài giả

白 髮 秋 風 空 自 嗟

Bạch phát thu phong không tự ta

nghĩa là:Tuổi trẻ ta cũng là gỗ qúy

Đầu bạc sầu không đón gió thu

để tỏ lòng thương Liễu Tôn Nguyên,ngày trẻ cũng đã từng nuôi mộng cao xa,nay đầu đã bạc, ông cố giữ sao để sựkhen chê nơi sân rồng không phiền lụytới ông. Nguyễn Du đã từng bị vua GiaLong trách là không chịu góp lời vàonhững cuộc tranh luận nơi sân rồng,nhưng không để lời trách cứ đó day dứtông như Liễu Tôn Nguyên vì bị biếm màcoi mình là ngu khiến cây cỏ gò đốngquanh nợi ông ở đều bị gọi là ngu, rồichết vì uất hận.

Với Âu Dương Tu, nhà nghèo, mồ côicha được mẹ rèn cặp, 24 tuổi đậu tiến sĩ,làm quan nhiều lần bị giáng chức cũngvì truyện phe phái trong triều. Đồng thờilà một trong Bát Đại Gia đời Tống . Câuthứ sáu bai Âu Dương Tu Văn TrungCông Mộ:

名 家 八 大 擅 文 章

Văn gia bát đại thiện văn chương

của Nguyễn Du cho thấy lòng ông trọngvọng sự nghiệp văn chương của ÂuDương Tu. Nhưng bên cạnh một sụnghiệp văn chương lừng lẫy, Âu DươngTu có một hoạn lộ nhiều phen lên xuốnggập ghềnh. Phải chăng nhắc tới ÂuDương Tu là nhăc tới một điều mà ôngđã tùng nhiều lần tự nhắc nhở mình, làlàm cách nào để dầu ở trong hoạn lộ màkhông bị phiền lụy, mà vẫn tạo nên mộtvăn ngiệp xứng đáng so với Âu DươngTu.

Page 202: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Bùi Độ là văn gia thứ năm Nguyễn Dunhắc tới trong thơ. Bùi Độ người đòiĐường, là một công thần đời Đường,hoạn lộ được coi là gưong mẫu chongười đời sau trong việc sự xủ xuất. Saukhi về hưu ông lui về Lục Dã ngâm vịnhcùng các danh gia đương thời như BạchCư Dị, Lưu Vũ Tích. Nhắc tới Bùi Độtrong bài Bùi Tấn Công Mộ, phải chăngNguyễn Du cũng mốn noi gương xuất xửcủa Bùi Độ? Rất tiếc là Nguyễn Du, tuyđã nhiều lần xin về hưu, nhưng vua GiaLong chưa thuận thì ông bị bạo bệnh vàmất khi đang tại chức.

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Dukhông thu gọn trong ba tập thơ Việt Âmmà hơn mọi tác giả khác là hai áng thơnôm: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh vàcuốn Đoạn Trường Tân Thanh. Điềuđáng chú ý hơn hết là chủ đề trong cả haitác phẩm này cùng là nỗi khổ làm người,một nỗi khổ của con người khi bắt đầusuy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống. Hơnnữa thơ Nguyễn Du trong Đoạn TrườngTân Thanh đã đưa tiếng thơ Việt Namlên tới mức cao từ xưa tới nay chưa từngai đạt tới.

Đi sâu vào nỗi khổ làm người trong haitác phẩm kể trên của Nguyễn Du vượtquá khuôn khổ của tập sách này. Xindành giói chuyên ngành về lịch sử tưtưởng nghiên cứu.

Phải chăng sự nghiệp văn thơ đó đã giúpcho Nguyễn Du tương nhượng rồi thoảhiệp được với chính ông trước cái khổlàm ngưòi, đạt đưọc an lạc, ataraxie,trong cuôc sống ở cõi người ta này?

14

Nguyễn Du sáng tác ba tập thơ Việt Âmtrong suốt thời gian ngoài hai mưoi năm.Đọc ba tập thơ đó, người đọc như thấy ý

chí kiên trì của tác giả, sống kỷ luật vóichính mình, không phải như một nhàkhổ tu, nhưng như một người theo đuổimột mục đích đã định sẵn. Mục đích đókhông phải là để trở thành một vị anhhùng cái thế lưu danh muôn thủa, mà làmột người đi tìm an lạc cho chính bảnthân của riêng mình. Đó là bổn phận conngười đối với bản thân.

Để làm tròn bổn phận đó, nhìn qua haibài thơ mang mầu Thiền: Đạo Ý vàLương Chiêu Minh Thái Tử Phân KinhThạch Đài, người đọc thấy rõ hình ảnhtiến trình của Nguyễn Du trên đường trútbỏ cái khổ làm người theo nẻo Phât học.Bài Đạo Ý cho thấy rõ Nguyễn Du đã tớiđược mức giữ được tâm không giaođộng bởi vật ngoài. Rồi bẵng đi trongngoài hai chục năm sau, qua bài LươngChiêu Minh Thái Tử Phân Kinh ThạchĐài, ông cho hay là ông không muốn dàilời bàn luận về Phật pháp bởi muốn tuânhành lời tổ Đạt Ma: “Bất lập văn tự”.Người đọc thơ Nguyễn Du dưòng thấyNguyễn Du đã buông bỏ danh lợi theođúng lời Phật dậy trong Trung Bộ Kinh,138: 74

Đùng để tâm ngươi giao động bởi vật bênngoài, mà cũng đừng sa đà giữa nhũngtưỏng niệm bên trong. Hãy lìa tất cả chấptrước, tất cả sợ sệt. Đó là con đường vượtqua cái khổ sống chết.

Giáo lý xả chấp của Phật thưòng cụ thểbiểu minh bằng hình ảnh chiếc bè. KinhSutta Nipata, V.21 chép lời Phật dậy:

Ta đã đóng một chiếc bè chắc chắn, ta đãtới tận Niết Bàn, ta đã qua bờ bên kia,chiến thắng dòng cuồng lưu tham dục; takhông còn dùng chiếc bè vào việc gì nữa,vậy trời muốn mưa thì cứ mưa.

74 Trích theo D.T. Suzuky, Thiền Luận Tập thượng, bản dịch của Trúc Thiên, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, trang 233-237.

Page 203: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Kinh Kim Cương của Lục Tổ Huệ Năngnói về chiếc bè Pháp như sau:

Như Lai thường dậy rằng các thầy tỳkhưu nên biết pháp ta nói ví như chiếc bèđưa qua sông: pháp còn bỏ huống nữachẳng phải là pháp.

Trung Bộ Kinh giảng rộng về bè pháp,tóm lược như sau:

[...] lời ta dậy ví như chiếc bè, để đưaqua, không phải để mang giữ. Hãy nghelời ta đây. Ví như có ngưòi suốt ngày điđường mệt nhọc gặp phải một con sôngrộng nưóc sâu; bờ sông bên này thì dầylo sợ và hiểm nghèo, con bờ bên kia thìyên ổn, không sọ sệt, nhưng không cp1ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng khôngcó cầu bắt nối hai bờ. Ví như người ấynghĩ bụng như vầy: Quả thật sông thìrộng nước thì sâu, bờ bên này đầy lo sợvà hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổnkhông sợ sệt; nhưng không có thuyền màcũng không có có cầu đưa ta qua bờ bênkia. Sao ta không thử lượm lặt những lausậy, nhưng que cành chà là kết làm bè coisao? Rồi ngồi trên bè, ta dùng tay dùngchân làm chèo, chèo sang bờ bên kia. [...]Byâ giờ qua sông rồi, đến bờ rồi, ví nhưngười ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đãgiúp tôinên việc lớn. Nhò nó chở tôi, vàtôi dùng tay dùng chân làm chèo, tôi mớiqua êm được đến bờ bên kia; bâygiờphỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu,hoặc mang nó trên vai, và cứ thế mà lênđường đi dâu tùy thích? [...] Người ấydùng bè như vậy có khôn ngoan không?- Bạch ngài, nhất định là không.- Vậy, nếu là ngưòi khôn ngoan, ngườiấy phải xủ trí làm sao với chiếc bè? [...]Người ấy nên nghĩ như vầy: Quả thậtchiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc. Nhờngồi trên bè, và chèo bằng tay bằng chân,tôi qua êm được bờ bên kia. Giờ đây, nếutôi bỏ lại chiếc bè ấy bên bờ, hoặc vứt nóchìm xuóng nưóc, và tôi lại tiếp tục lênđường. [...] Nếu làm như vậy, người ấyđáng là người khôn ngoan khée xủ trí vớichiếc bè.Cũng như vậy đó, [...] giáo pháp tôi dậyví như chiếc bè, cốt để đưa qua khôngphải để mang giữ. Thấu rõ ví dụ đó thì

đối với pháp còn phải buông xả nữa làcái phi pháp.

Suziky giải thích hai chữ pháp và phipháp trong lời Phật dây trên đây là đồngnghĩa với có và không, hoặc khẳng nhậnvà phủ nhận. Vậy phá bỏ cà pháp và phipháp có nghĩa là thoát ly cái chấp nhịnguyên cùng tất cả rối ren và vướngmắc. Rồi Phật kết luận:

[...] dầu là sắc chất nào, dầu ở quá khứ, vịlai hay hiện tại, dầu ở trong hay ở ngoài,dầu thô hay tinh, dầu tiện hay quý, xahay gần, sắc nào cũng phải quán nhưthực trong ánhsáng chánh trí, nghĩa làquán thấy như vầy:“Cái này không phải của tôi,”“Tôi không phải là cái này”“Cái này không phải là tự ngã của tôi”Bốn uẩn còn lại là thọ, tưởng, hành vàthức cũng như vậy đó. Người nào quánthấy thế gian như vậy là thoái ly tất cảdục vọng tai hại, chhứng đến tự do. Đó làngưòi chướng ngại gạt bỏ xong, hào lũylấp cạn hết, là người đả bạt trừ, đã tữ do,đã hoàn tất cuộc chiến, đã trút bỏ gánhnặng.

Vậy là người ấy đã trút bỏ được gánhnặng của cái khổ làm người.

Cũng để tròn bổn phận đối với bản thân,người đọc dường thấy Nguyễn Du sốngtheo một nếp sống, nhìn theo nhãn quanmà Trang Tử, để đạt tới mức :75

至人 無 己

Chí nhân vô kỷ

神 人 無 功

thần nhân vô công

聖 人 無 名

thánh nhân vô danh.

nhĩa là:

75The Saying of Chuang Tzu, James R.

Ware, ibid, p. 5

Page 204: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

Chí nhân không vì mìnhthần nhân không vì côngthánh nhân không vì danh

không phải để bước ra ngoài đời ngao dusơn thủy, và nói theo Bạch Cư Dị, cũngchẳng phải sống nơi khói ráng nhưnhững nhà tiểu ẩn, mà để tìm ra chomình niềm an lạc như một nhà trung ẩnnơi biên trấn hay làm giảm những tróibuộc với cuộc sống của những nhà đạiẩn nơi kinh thành. Đó là nếp sống vừaxuất lại vừa xử, không để bên nào trọnghơn bên nào.

Để đạt tới mục đích đó, như đã thấy quaba tập thơ Việt Âm, Nguyễn Du đã thànhcông trong việc quên lãng danh, quênlãng lợi, khiến không còn lo sợ khôngcòn đau khổ và thản nhiên đón cái chết.Giới nghiên cứu về cái khổ của conngưòi cho biết là một khi đạt đưọc tớimức đó, con người đạt được an lạc củacuộc sống.

Hình ảnh thường dùng để mô tả một conngười đạt được tới cõi an lạc là hình ảnhmột ngưòi biết chắc là mình sẽ chết naymai, nhưng vẫn vui vẻ trồng một cây táo,như ‘chẳng có truyện gì sẽ xẩy ra’

Đó là hình ảnh Nguyễn Du trong hai câukết bài Tạp Ngâm, kỳ I:

庭 植 孤 松 高 百 尺

Đình thực cô tùng cao bách xích

不 知 青 帝奈 人 何

Bất tri thanh đế nại nhân hà

nghĩa là:

Trồng thông trăm thước trưóc sânMặc cho trời đất xoay vần chẳng lo.

Khi buông bỏ được chính mình, côngdanh của mình, con người đạt tới đượccõi an lạc cho tâm thần, bằng lòng với

thân phận con người, bằng lòng cả vớicái vô dụng của kiếp người, tóm lại nhưvậy là tạm buông bỏ đưọc nỗi khổ làmngười.

Trang Tử đưa ra hình ảnh cái quên tháobỏ gông cùm cho cái tâm, bằng câu 76:

忘 足 , 履 之適 也

Vong túc, lý chi thích dã

忘 腰 ,帶 之適 也

Vong yêu, đái chi thích dã

知 忘 是 非, 心 之 適 也

Tri vong thị phi, tâm chi thích dã

[...] 忘適 之適 也

Nhượng Tống dịch là 77:

Quên chân, thế là giầy vừaQuên lưng thế là đai vừa

Quên phải trái, thế là lòng vừa.

Quên chân, quân lưng là quên đượcchính mình, khiến không còn bị vậtngoài như đôi giầy không vừa chân,chiếc đai không vừa lưng làm dao đôngcái tĩnh của thân, cũng như quên cái phảicái trái, cũng là vật ngoài làm nhiễuđộng cái tĩnh của tâm.

Không bị vật ngoài làm dao động cáitĩnh của thân và của tâm là tới mức màTrang Tử gọi là 78:

故 善 吾 生 者

Cố thiện ngô sinh giả,

乃所 以 善 吾 死 也

nãi sở dĩ thiện ngô tử dã.

76James R. Ware, The Saying of Chuang

Tzu, ibid. p. 22977

Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, sách đã dẫn, tr. 30078

James R. Ware, The saying of ChuangTzu, ibid. p. 69.

Page 205: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

và Nhưọng Tống dịch là:

Khéo nuôi cái sống của tatức là khéo liệu cái chết của ta.

Nhà phê bình Nam Hoa Kinh Lâm TâyTrọng giải rằng 79:

[...] cái mà chân nhân dùng để biết, cáimà chân nhân nuôi dưỡng chẳng phải làcái quên của cõi lòng sao? Duy kỳ lòngđã quên rồi, cứ thế mà suy: từ lòng đếnthân; từ thân đến đời; thông với thời; hợpvới vật, cũng chẳng qua là thế. Cho nênlòng mà chưa quên, thì việc làm thườnggây nên cái tệ hữu tâm: ra gì hạng ấy!Lòng mà biết quên thì ở đời có lắmnhững tài kiêm tế: chi thiếu trò hay!Lòng của chân nhân không dùng thiên,cho nên trong đó trời với người khôngbên nào thiên cả. Cái thật là biết của chânnhân là thế, thế nên mới có thể nói rõ vềtruyện sống, chết ở đời. Sống với chết,cũng như ngày với đêm. Ấy là số mệnh.Ấy là thế tất nhiên.

Nhuợng Tống bàn rộng thêm, tóm tắtnhư sau:

Trang Tử bày ra một quan niệm về nhânsinh: vừa nhập thế vừa xuất thế. Nhập thếlà xử thế như mọi người, nhưng mà làmđó mà vẫn tiêu dao như không làm, dùcho công trạng kịp tới muôn đời, cũngquên mình không kể tới công danh. Cònxuất thế chẳng phải là truyện ẩn cư tuhành mà vẫn ở trong đời, vẫn gánh vácviệc đời. Cùng nhãn quan đó, Sống vớichết chỉ là một thể, chẳng qua là sự rấtthưòng, chẳng đáng để lọt vào ‘khothiêng’.

Xử trong khi xuất, tại một biên trấn, làcảnh trung ẩn, xử trong khi xuất tại đếđô huyên náo là cảnh đại ẩn. Suốt hoạnlộ Nguyễn Du hoặc sống như một trungẩn khi còn ở cấp huyện cấp phủ; thăngchức vào kinh ông vất vả hơn, sống đời

79Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của

Nhượng Tống, sách đã dẫn, tr. 143-147.

đại ẩn, rồi lại thăng chức làm Cai BạQuảng Bình, ông lại có thêm bốn nămvui đời trung ẩn. Cuối cùng là hai năm đixứ, rồi lại thăng chức và lại phải sốngđời đại ẩn rồi mất. Đúng như lời bàn củaNhượng Tống cái chết đến với NguyễnDu rất thường, chỉ là một thể với cáisống. Ông đã suốt một đời khéo nuôi cáisống của ông, thế nên ông đã thực khéoliệu cái chết của ông. Thật đúng như lờisách Nan Hoa Kinh 80:

[...] “khối lớn” làm mệt ta bằng sự sống,cho ta rỗi bằng tuổi già, để ta nghỉ bằngcái chết.

Cái chết của Nguyễn Du khác với cáichết của nhà vua trong vở kịch Le Roi seMeurt của Ionesco. Nhà vua này chếtchưa kịp sống: suốt đời ngài còn phải lolàm vua. Đối mặt với thần chết nhà vuatiếp tục làm vua: ra lệnh cho thần chếtphải để cho ngài bắt đầu lại cuộc sống.Thần chết trả lời ngài: “Tâu bệ hạ, quámuộn mất rồi!” 81 .

Cái chết của Nguyễn Du, cái chết củangưòi khéo lo cái sống gợi cho ngưòiđọc bài dụ ngôn của Hồng Y Giáo ChủRichelieu, tóm tắt sơ lược như sau 82:

Je descends le fleuve de ma vie comme sij’étais embarqué sur un esquif léger etfragile. Un jour, je le sais, je déboucheraidans l’océan qui m’engloutira, et mapetite embarcation, renversée et culbutée,me jettera dans la mort. Mais d’ici là, ilm’est donné de descendre de tout sonlong le fleuve de ma vie.

Il y a deux manières de descendre cefleuve. La première c’est de rester àl’avant de la barque, les yeux facinés par

80Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của

Nhưọng Tống, sách đã dẫn, tr. 128.81

Cité par Alain Houziaux, Dix questionssimples sur la vie, Albin Michel, Paris 2007,p.229-230.82

Cité par Alain Houziaux, ibid. p. 231-232.

Page 206: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

le moment où tout culbutera vers la mort.Je ne pense pas que ceci soit souhaitable.

La deuxième manière, c’est de s’assoir àl’avant de la barque mais en tournant ledos à la mort qui vient, c’est à dire àl’aval du fleuve vers lequel on descend.Ainsi, adossé à la mort, je regarde labarque qui est là devant mes yeux. Etdans la barque, il y a ceux qui sontembarqués avec moi. Je m’accule à lamort qui vient pour mieux ouvrir les brasau présent de la vie. Et je me hâte devivre l’essentiel au milieu des futilités.

Cái chết của Nguyễn Du, chép trongsách Chinh Biên Liệt Truyện như sau 83:

Khi tiên sinh phải bệnh nặng, không chịuuống thuốc. Lúc gần mất, sai người sờtay chưn xem còn nóng hay lạnh. Ngườinhà nói đã lạnh cả rồi. Tiên sinh nói rằng:được! Nói xong thì mất, không có mộtlời nào dặn dò đến việc sau.

Chi tiết “bệnh nặng không chịu uốngthuốc” cho người đọc thấy là Nguyễn Dumuốn có một cái chết an lạc. Điều thứhai là Nguyễn Du “không có lời nào dặndò đến việc sau” chứng tỏ rằng ông dãkhéo nuôi cái sống để khéo lo liệu cáichết của ông, đúng như lời Trang TửNam Hoa Kinh. Đồng thời cho thấyniềm an lạc của Nguyễn Du đã không bịcái chết làm dao động.

Phải chăng điều đó chứng tỏ là NguyễnDu đã có một cuộc sống an lạc, và mộtcái chết an lạc? Như vậy, phải chăng bacuốn thơ Việt Âm, không những chỉ làba tập nhật kín sâu kín của Nguyễn Dumà còn là ba tập sách cho biết kinhnghiệm của một người đã thành côngtrong việc tương nhượng và thỏa hiệpvới chính mình để đối đầu với cái khổlàm người?

83Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Nguyễn Du,

Truyện Thúy Kiều, Đại Nam tái bản, tr. X.

Gom Ý

Tập sách này trình bày trên đây bản dịchsang vần lục bát, 237 bài thơ Việt Âmcủa Nguyễn Du, và đồng thời trả lời câuhỏi tại sao thơ Nguyễn Du đượm một nétsầu cảm.

Bản dịch mới nối dài công trình củanhững người đi trước trong việc dịch thơViệt Âm của Nguyển Du. Dịch sang vầnsáu tám người dịch chủ ý mang thơNguyễn Du tới người đọc khác với chủ ýdẫn người đọc tới thơ Nguyễn Du nhưcác bản dịch cũ theo thể thơ Đường.

Phân tích toàn bộ thơ Việt Âm củaNguyễn Du, người đọc không tìm thấymột bài hay một câu cho thấy ý hoài Lêcủa Nguyễn Du trong thơ. Đồng thờingười đọc thơ nhận thấy cả ba tập thơcủa Nguyễn Du dường như một tập nhậtký sâu kín của tác giả. Viết nhật ký sâukín là thói quen của những ngưòi sầucảm đối mặt với cái khổ làm nguòi.

Do đó đọc ba tập thơ Việt Âm củaNguyễn Du như đọc ba tập nhật ký sâukín, người đọc thấy theo chiều dài trongngoài hai chục năm, Nguyễn Du đã ghilại những cái chật hẹp gò bó ông trongcuộc sống, kèm theo những nét thănghoa, đưa ông tới những giây phút an lạchiếm hoi. Một cách tổng quát, ngườiđọc nhận thấy ba cuốn thơ Việt Âm củaNguyễn Du như ghi lại những kinhnghiệm của tác giả trong việc tươngnhượng và thoả hiệp với chính ông đứngtrước cái khổ làm người. Đó là kinhnghiệm của một người đã đạt tới an lạctrong đời sống, đối mặt với cái khổ làmnguòi. Đó cũng là kinh nghiệm của mộtngười đã khéo liệu cho mình một cáichết an lạc bằng cái khéo sống một đờian lạc.

Cái giá của cuộc sống an lạc cùng cáichết an lạc đó là cố công của Nguyễn Du

Page 207: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …

suốt một đời tu thân theo nề nếp lạcthiên an đạo của nhà Nho, một đờibuông danh bỏ lợi của một người sửamình theo nề nếp đạo Lão hay của mộtPhật Tử thực thi nếp sống kiệm dục.

Ba tập thơ Việt Âm của Nguyễn Du còncho thấy ông không nghiêng về bất cứmột đạo nào trong Tam Giáo. Ông đứngvững vàng tại trọng tâm của Tam Giáo.Đề tài của cả ba tập thơ Việt Âm này làcái khổ làm ngưòi, đó chính là chủ đềcốt cán của nền văn học chữ nôm củangười Việt.

Cái khổ làm người phải chăng là điềuNguyễn Du muốn gửi gắm trong mọi tácphẩm chính của ông, khi ông làm thơnôm cũng như khi ông làm thơ ViệtÂm? Như vậy, phải chăng ba tập thơViệt Âm và cuốn Đoạn Trường TânThanh của Nguyễn Du là những tácphẩm cùng trong một dòng tư tương vớinhững tác phẩm lớn của Văn Học chữnôm như Cung Oán Ngâm Khúc vàChinh Phụ Ngâm?

Page 208: Mở Lời 2 Thanh Hiên Thi Tập Nam Trung Tạp Ngâm 51 Bắ ạp …