1 Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng MỞ ĐẦU Gấc là thứ quả có nhiều ở Việt Nam. Nó thường được dùng để nấu xôi - một món ăn truyền thống, ăn có vị rất ngon và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Xôi gấc có màu đỏ tươi, thơm, ngọt dịu, dẻo, béo... rất ngon, mọi người thường dùng trong những dịp đặc biệt như cúng tổ tiên, hay lễ tết, hội hè. Tuy nhiên, khi ăn xôi, ta thường bỏ đi hai vị thuốc quý đó là màng bọc hạt gấc và nhân hạt gấc. Màng bọc hạt gấc có chứa một vị thuốc quý là carotene (tiền sinh tố A), có tác dụng điều trị quáng gà, làm sáng mắt, giúp trẻ con mau lớn, người già thêm cứng cáp, giúp các vết thương mau liền sẹo... Còn nhân hạt gấc là một vị thuốc rất quý có tác dụng làm tan các vết bầm do chấn thương, làm vết thương mau lành. Theo bác sĩ Trần Danh Tài - Chủ tịch Hội Đông y tỉnh Lâm Đồng thì: "Tác dụng của tinh dầu hạt gấc chẳng kém gì các loại mật gấu (như gấu rừng, gấu nuôi, gấu chó, gấu mèo), nên chúng tôi hay gọi vui đây là mật gấu treo ". Từ lâu, nhân dân ta đã biết cách chế dầu từ nhân hạt gấc theo phương pháp thủ công làm thuốc dùng trong gia đình, dùng được cho tất cả vết thương bị bầm dập, tụ máu, bị mụn nhọt, quai bị, viêm tuyến vú... , ngoài ra còn có tác dụng chữa trĩ, chữa chai bàn chân. Nhân hạt gấc chứa rất nhiều chất như axit béo, đường, tannin, protein, 1 số en zim…so ng khôn g th ể khô ng nhắc đến 2 hợ p chất có tên aci d momordic và momordin, chúng là 1 trong những dưỡng chất chính tạo nên tính năng chữa bệnh đặc biệt của nhân hạt gấc. Acid momordic có mặt trong thành phần của nhiều loại thuốc bán trên thị trường, đặc biệt là các thuốc dùng để chữa trị các khối u, các nốt sưng tấy. Không những thế, các thuốc chữa bệnh ti ểu đường như GLUCO-FX cũng chứa acid momordic trong thành phần của nó, acid momordic góp phần làm gi ảm l ượng
45
Embed
LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu
nhận tại Đà Nẵng
MỞ ĐẦU
Gấc là thứ quả có nhiều ở Việt Nam. Nó thường được dùng để nấu xôi - một
món ăn truyền thống, ăn có vị rất ngon và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Xôi gấc có
màu đỏ tươi, thơm, ngọt dịu, dẻo, béo... rất ngon, mọi người thường dùng trong
những dịp đặc biệt như cúng tổ tiên, hay lễ tết, hội hè. Tuy nhiên, khi ăn xôi, tathường bỏ đi hai vị thuốc quý đó là màng bọc hạt gấc và nhân hạt gấc.
Màng bọc hạt gấc có chứa một vị thuốc quý là carotene (tiền sinh tố A), có
tác dụng điều trị quáng gà, làm sáng mắt, giúp trẻ con mau lớn, người già thêm
cứng cáp, giúp các vết thương mau liền sẹo... Còn nhân hạt gấc là một vị thuốc rất
quý có tác dụng làm tan các vết bầm do chấn thương, làm vết thương mau lành.
Theo bác sĩ Trần Danh Tài - Chủ tịch Hội Đông y tỉnh Lâm Đồng thì: "Tác
dụng của tinh dầu hạt gấc chẳng kém gì các loại mật gấu (như gấu rừng, gấu nuôi,
gấu chó, gấu mèo), nên chúng tôi hay gọi vui đây là mật gấu treo". Từ lâu, nhân
dân ta đã biết cách chế dầu từ nhân hạt gấc theo phương pháp thủ công làm thuốc
dùng trong gia đình, dùng được cho tất cả vết thương bị bầm dập, tụ máu, bị mụn
nhọt, quai bị, viêm tuyến vú... , ngoài ra còn có tác dụng chữa trĩ, chữa chai bàn
chân.
Nhân hạt gấc chứa rất nhiều chất như axit béo, đường, tannin, protein, 1 số
enzim…song không thể không nhắc đến 2 hợp chất có tên acid momordic và
momordin, chúng là 1 trong những dưỡng chất chính tạo nên tính năng chữa bệnh
đặc biệt của nhân hạt gấc.
Acid momordic có mặt trong thành phần của nhiều loại thuốc bán trên thị
trường, đặc biệt là các thuốc dùng để chữa trị các khối u, các nốt sưng tấy. Không
những thế, các thuốc chữa bệnh tiểu đường như GLUCO-FX cũng chứa acid
momordic trong thành phần của nó, acid momordic góp phần làm giảm lượng
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
Vô số terpenoid thể hiện hoạt tính sinh học khi thử trên động vật có vú và
nhiều chất trong số đó đã dùng làm dược phẩm. Campho từ gỗ cây Cinnamonum
camphora L. được sử dụng từ lâu làm thuốc sát trùng, để kích thích tim và sự tuần
hoàn máu. Methol từ Mentha piperita L. có tác dụng gây tê nhẹ và trị ngứa. Terpen
hiđrat điều chế từ tinh dầu thông, được dùng làm thuốc long đờm.
Trong số các hoạt chất được dung làm thuốc có giá trị cao phải kể đến chất
sesquiterpenoid artemisinin và chất điterpenoid taxol. Artermisinin được phân lập
lần đầu tiên vào năm 1972 từ cây Artemisia annua L. Với hoạt tính chống lại các
dòng kí sinh trùng kháng được sự điều trị thông thường bằng chloroquine và nhờ có
cấu trúc lipophil đi qua được vách ngăn máu – não, artemisinin đặc biệt có hiệu quả
đối với bệnh sốt rét thể não làm chết người. Taxol được phân lập từ loài thông đỏ
Taxus brevifolia, đã được phép dung làm thuốc điều trị ung thư buồng trứng từ năm
1992 và ung thư vú từ năm 1993.
Nhiều terpenoid thể hiện những hoạt tính sinh học đáng chú ý khác như
Peyssonol từ một loài tảo Peyssonnelia sp. ức chế HIV reve transeriptaza. Một số
terpenoid có hoạt tính sinh học cao đối với thực vật hoặc đóng vai trò nhất định vềmặt sinh thái học. Từ loài cây Acorus calamus L. đã phân lập được một dẫn xuất
acoran mới có tác dụng ức chế sự nảy mầm của hạt rau diếp. Các pyrethrin, thí dụ
pyrethrin I, chứa trong các tuyến ở lá và hoa cây Chrysanthemum cinerariaefolium
có tác dụng trừ sâu tiếp xúc mạnh, nhưng lại không độc đối với người và động vật
máu nóng khác. Chất axit 2,3-đihiđrofanesolic là terpen duy nhất được phân lập từ
cây cà chua dại Lycospersicum hisutum, chất này kháng lại các loài động vật chân
đốt ăn cỏ. Nhiều terpenoid là các pheromon, ví dụ các monoterpenoid cis- và trans –
verbenol là những chất có khả năng dẫn dụ con bọ cái ở loại bọ cách cứng đục vỏ
cây Ips paraconfusus.
Trong phân loại tecpen không thể không nhắc đến triterpenoid (C 30) có trong
nhiều nấm thực vật, dầu ôliu, dầu gan cá mập (40%), trong đó squalen là tiền tố để
tổng hợp ra steroid.
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
Nhóm chất hữu cơ có trong các vị thuốc được gọi là hoạt chất của thuốc.
Thành phần hoá học chính gồm: đường (glucozơ, ramnozơ, đigitoxozơ, ximarozơ)
và thành phần không phải đường (steroit, sterol, axit mật, hocmon... gọi là aglicon
hay genin). Tuỳ theo cấu tạo và tác dụng aglicon mà có các Glicozit khác nhau.
Glicozit gây đắng có tác dụng kích thích tiêu hoá thường gặp ở cây bồ công anh,
long đờm thảo, thạch xương bồ, vỏ cam quýt. Glicozit trợ tim, làm tăng cường hoạt
động của tim người bệnh, có trong lá trúc đào, hạt thông thiên, hạt đay, hạt cây sừng
dê. Glicozit gây tăng nhu động ruột (làm co cơ trơn thành ruột) đó là antraglicozit
khi dùng liều nhỏ làm ăn ngon, tiêu hoá dễ dàng, dùng với liều vừa phải thì nhuận
tràng, liều cao gây tẩy mạnh. Những cây có antraglicozit là chút chít, muồng trâu, lôhội, thảo quyết minh... Glicozit gây màu là flavon và flavonozit gặp ở cây bồ hoàng,
hoàng cầm, hoa hoè, vỏ cam và một vài cây khác. Glicozit gây bọt là những chất
saponin. Saponin có tác dụng phá huyết mạnh, là chất độc cho cá. Các loài cây cỏ
có Glicozit gây bọt là bồ kết, viễn chi, cát cánh, cam thảo. Glicozit gây chát là
những chất tanin, gây táo bón, cầm máu và bổ, có ở các cây ngũ bội tử, búp ổi, lá
chè, kim anh, lá sen, hạt vải.
1.2.2. Saponin
Saponin là một glicozit tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực vật. Tiền tố
latinh sapo có nghĩa là xà phòng, và thực tế thường gặp từ "saponification" có nghĩa
là sự xà phòng hóa trong cả tiếng Anh và tiếng Pháp.
Saponin có tính chất chung là khi hoà tan vào nước có tác dụng làm giảm sức
căng bề mặt của dung dịch tạo nhiều bọt, có tính chất phá huyết, độc đối với động
Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3 nhóm
lớn là triterpenoid saponin, steroit saponin và glicoancaloid dạng steroid.
Saponin có loại axít, trung tính hoặc kiềm. Trong đó, triterpenoid saponin
thường là trung tính hoặc axít (phân tử có nhóm –COOH). Steroid saponin nhómspirostan và furostan thuộc loại trung tính còn nhóm glicoancaloid thuộc loại kiềm.
Đã có hơn 10 saponin được phân lập từ rễ gấc, trong đó không thể không nhắc
đến các chất momordin thuộc nhóm saponin triterpenoid. Momordin là một trong
những dưỡng chất có lợi cho cơ thể, không chỉ có trong rễ gấc mà còn có trong
• Rễ gấc: còn gọi là phong kỷ nam sao vàng, tán mỏng, dùng uống
chữa tê thấp sưng chân.
• Lá gấc: Viện đông y dùng lá gấc với lá tầm gửi đắp ngoài da làm
thuốc tiêu sưng tấy.
• Màng gấc: dùng để đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.
• Dầu gấc: có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dung bôi lên
các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho chóng lành, lên da. Uống dầu gấc người
bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể.
• Hạt gấc: Đông y gọi là mộc miết tử (con ba ba gỗ) vì nó dẹt, hình gần
như tròn, vỏ cứng, mép có răng cưa, hai mặt có những đường vân lõm xuống, trông
tựa như con ba ba nhỏ.
Hạt có vị đắng, hơi ngọt, tính ẩm, có độc dùng chữa các chứng bệnh
ung thũng, mụn nhọt độc, tràng hạt, eczema, viêm da thần kinh, trĩ, phụ nữ sưng vú.
Có thể chế thuốc viên hay tán bột uống. Liều uống từ 0,8 – 1,2 g. Nhưng thường
dùng đắp ngoài da đồ mụn nhọt. Nhân dân ta còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.
Trong nhân dân, nhiều gia đình có thói quen để dành hạt gấc sống hoặcđã qua đồ xôi. Khi cần đến thì chặt đôi đem mài với ít rượu hoặc giấm thanh để bôi
chỗ sưng tấy do mụn nhọt, sưng quai bị; bôi nhiều lần trong ngày, cứ khô lại bôi, rất
mau khỏi. Có người giã nhân hạt gấc với một ít rượu, đắp lên chỗ vú sưng, đắp liên
tục, ngày thay thuốc 1 lần, rất chóng khỏi.
Để chữa trĩ, có thể dùng hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm thanh, gói
bằng vải, đắp vào hậu môn để suốt đêm. Mỗi đêm đắp thuốc một lần.
Nó được dùng trong những trường hợp ngã, bị thương, sang độc, phụ
nữ sưng vú, hậu môn sưng thũng. Hạt gấc có thể dùng uống (ngày 1 nhân nướng
chín) nhưng chủ yếu là dùng bôi ngoài, không kể liều lượng.
1.4. Các phương pháp chiết tách hợp chất thiên nhiên [11], [12], [13], [4]
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
sau: Khi áp suất khí quyển trên bề mặt chất lỏng giảm đi một nữa, thì nhiệt độ sôi
của nó hạ thấp đi khoảng 150C.
1.4.2.4. Chưng cất lôi cuốn hơi nước
Ta có thể tinh chế một chất lỏng không hoà tan trong nước bằng phương pháp
chưng cất lôi cuốn hơi nước để hạ điểm sôi của nó. Phương pháp này dựa trên
nguyên tắc: Khi hai hay nhiều chất lỏng không trộn lẫn với nhau nằm trong một hỗn
hợp, áp suất chung của chúng bằng tổng áp suất riêng phần p1 + p2, nghĩa là nó luôn
luôn lớn hơn áp suất riêng phần của bất kì cấu tử nào. Do đó nhiệt độ sôi của hỗn
hợp sẽ thấp hơn nhiệt độ sôi của cấu tử có nhiệt độ sôi thấp nhất. Tỷ lệ hơi cất sang
bình ngưng (về số mol) sẽ bằng tỷ lệ áp suất hơi riêng phần của chúng ở nhiệt độ
sôi của hổn hợp. Nhờ vậy ta có thể tính toán được lượng nước cần thiết để lôi cuốn
hết chất cần tinh chế.
Sau khi đã dùng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước, thường ta phải
chiết tách các chất cần tinh chế ra khỏi nước bằng một dung môi thích hợp, rồi lại
tiến hành chưng cất phân đoạn để tách dung môi. Cuối cùng chưng cất lấy tinh khiết bằng bình chưng cất có gắn nhiệt kế dưới áp suất thấp, với sự kiểm tra nhiệt độ của
chất cần tinh chế.
1.4.3. Phương pháp chiết
1.4.3.1. Giới thiệu chung
Chiết là dùng dung môi thích hợp có khả năng hoà tan chất đang cần tách và
tinh chế để tách chất đó ra khỏi môi trường rắn hoặc lỏng khác. Thường người ta
dùng một dung môi sôi thấp và ít tan trong nước (vì các chất hữu cơ cần tinh chế
thường ít tan trong nước), chất đó sẽ chuyển phần lớn lên dung môi và ta có thể
dùng phểu để tách riêng dung dịch thu được ra khỏi nước.
Bằng cách lặp đi lặp lại việc chiết một số lần, ta có thể tách hoàn toàn chất cần
tinh chế vào dung môi đã chọn, sau đó cất loại dung môi và cất lấy chất tinh khiết ở
nhiệt độ và áp suất thích hợp.
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
Thêm 25- 30 g Na2SO4 khan, 30 ml dung môi chiết n- hexan có 20% Cl2H2. Sau đó
tiến hành chiết trong 180 phút.
Kỹ thuật chiết này có ưu điểm là chiết triệt để, song các điều kiện chiết
phải nghiêm ngặt thì mới có kết quả tốt. Vì thế hệ thống vận hành chiết tự động cho
kết quả tốt hơn nhưng phải có hệ thống trang bị hoàn chỉnh. Nó thích hợp chiết các
chất hữu cơ từ các đối tượng mẫu khác nhau. Chất phân tích có trong mẫu rắn, bột,
vật mẫu xốp khô (lá cây)… kỹ thuật này được ứng dụng chủ yếu để tách các hợp
chất hữu cơ từ các mẫu cây lá, rau quả hoặc mẫu đất như ví dụ trên.
1.4.4. Các phương pháp sắc kí
Phương pháp sắc kí được Xvét phát minh ra để tách các chất bằng hấp phụ từ
đầu thế kỷ 20 (1903). Đến nay đã trở thành một phương pháp tinh chế, định tính,
định lượng rất quan trọng trong hoá học nói chung và trong nghành hoá học hữu cơ
nói riêng, được phát triển rất mạnh và được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các
phòng thí nghiệm.
Nguyên tắc chung của phương pháp sắc kí như sau: Hỗn hợp chất nghiên cứuở pha lỏng (dung dịch) hay pha khí được cho qua bề mặt chất hấp phụ ở pha rắn hay
pha lỏng khó bay hơi. Do khả năng tương tác với pha tĩnh khác nhau nên các chất
khác nhau trong hỗn hợp nghiên cứu chuyển động với vận tốc khác nhau và dần
được phân tách ra từng cấu tử riêng biệt. Người ta phân chia ra làm các loại sắc kí
khác nhau.
1.4.4.1. Sắc kí cột (sắc kí hấp phụ)
Trong phương pháp sắc kí cột, người ta dùng các cột thuỷ tinh hay đôi khi
bằng kim loại, có kích thước thông thường là 15 × 1; 25 × 2; 40 × 3 hoặc 60 × 4 cm;
dùng các chất hấp phụ dạng bột thường là nhôm oxit, siliccagel, tinh bột hoặc
barisunphat… hoặc một chất bất kỳ khác không tương tác với dung môi. Hỗn hợp
chất nghiên cứu được hoà tan trong một dung môi trơ thích hợp và cho chảy qua
cột. Các chất trong hỗn hợp nghiên cứu dần dần tách ra khỏi chúng và chúng chiếm
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
Những năm gần đây sắc kí khí lỏng (còn được gọi là sắc kí khí) được phát
triển mạnh mẽ, mở ra khả năng lớn trong phân tích và tách các hợp chất dễ bay hơi.
Phương pháp thông thường là cho vài giọt Microlit chất lỏng phân tích vào thiết bị
bay hơi rồi dùng dòng khí mang (thường là Heli) lôi cuốn hơi của chúng qua một
ống dài nung nóng nạp đầy một chất rắn xốp (ví dụ gạch chịu lửa tán nhỏ, nhôm
oxit, silicagel, than hoạt tính…) được tẩm bằng chất lỏng khó bay hơi như dầu
silicon, polyetylen glycol, các este sôi cao… Khi đó xảy ra sự phân bố các chất giữa
pha lỏng và pha khí, đồng thời chỉ cần sự khác nhau nhỏ trong sự phân bố này giữa
các cấu tử trong hỗn hợp cũng đủ để phân tách hoàn toàn các chất lỏng trong hỗn
hợp, vì nó được lặp đi lặp lại trong ống dài. Người ta thường nhận biết từng chất
thoát ra ở cuối ống bằng cách đo sự thay đổi độ dẫn điện của khí thoát ra. Tuy nhiên
việc phát hiện một pic trong sơ đồ sắc kí mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ về độ
tinh khiết của một chất, phương pháp sắc kí khí vẫn rất hữu ích khi phân tích một
lượng nhỏ hỗn hợp cũng như để tách và tinh chế các chất.
Cần nhấn mạnh rằng, trong phương pháp sắc kí nói chung cấu trúc phân tử củacác hợp chất có ảnh hưởng lớn đến cân bằng hấp phụ, cũng như hệ số phân bố của
chúng giữa các pha, do đó liên quan chặt chẽ đến hằng số R f . Vì vậy kết qủa phân
tích sắc kí cũng cho ta thấy những thông tin bổ ích về cấu trúc của hợp chất. Sau
quá trình tinh chế, ta cần kiểm tra độ tinh khiết của hợp chất thu được bằng cách đo
nhiệt độ nóng chảy (đối với chất rắn) hoặc nhiệt độ sôi (đối với chất lỏng) hoặc đo
tỷ khối, chỉ số khúc xạ, chụp phổ…
1.4.4.5. Sắc kí lỏng cao áp
Sắc kí lỏng cao áp (phương pháp sắc kí lỏng có hiệu quả cao) là một dạng của
sắc kí lỏng dạng cột. Trong phương pháp này cột sắc kí thường được chế tạo bằng
thép không gỉ, có đường kính trong khoảng 2- 6 mm và dài 10- 25 cm, mặt trong
phải được đánh bóng. Chất hấp phụ được bơm vào dưới dạng huyền phù trong dung
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng
(6) Đường cong biểu diễn sự hấp thụ bức xạ của mẫu vào số sóng
1.5.2. Phương pháp đo quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS
1.5.2.1. Đặc điểm của phương pháp
Phổ hấp thụ nguyên tử dựa vào khả năng hấp thụ chọn lọc các bức xạ cộng
hưởng của nguyên tử ở trạng thái tự do. Đây là phương pháp có độ chích xác rất
cao, quá trình phân tích có thể thực hiện khá đơn giản, nhanh.
Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử được ứng dụng khá rộng rãi trong các lĩnh
vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế.
1.5.2.2. Nguyên tắc của phép đo
Muốn thực hiện phép đo phổ hấp thụ nguyên tử cần thực hiện các bước sau:
1. Hoá hơi mẫu phân tích đưa về trạng thái khí. Mục đích của quá trình này là
tạo ra được đám hơi các nguyên tử tự do từ mẫu phân tích. Đám hơi của các nguyêntử tự do này chính là môi trường hầp thụ bức xạ và sinh ra phổ hấp thụ nguyên tử.
2. Quá trình nguyên tử hoá thường dược thực hiện với tác dụng của các loại
nguồn nhiệt theo phương pháp ngọn lửa hay không ngọn lửa. Đây là quá trình quan
trọng nhất và ảnh hưởng đến kết quả của phép đo.
3. Thu toàn bộ chùm tia sáng sau khi đi qua môi trường hấp thụ, phân ly chúng
thành phổ và chọn vạch phổ cần đo của nguyên tố phân tích hướng vào khe đo
cường độ vạch phổ.
4. Ghi nhận tín hiệu đo và kết quả đo của cường độ vạch phổ hấp thụ bằng
thiết bị ghi phổ.
1.5.3. Phương pháp phổ khối lượng
1.5.3.1. Nguyên lý máy đo phổ khối lượng
Máy phổ khối lượng được chế tạo thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản là:
7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng