Top Banner
1 Nghiên cu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong ht gc thu nhn ti Đà Nng MĐẦU Gc là thqucó nhiu Vit Nam. Nó thường được dùng để nu xôi - mt món ăn truyn thng, ăn có vrt ngon và cha nhiu cht bdưỡng. Xôi gc có màu đỏ tươi, thơm, ngt du, do, béo... rt ngon, mi người thường dùng trong nhng dp đặc bit như cúng ttiên, hay ltết, hi hè. Tuy nhiên, khi ăn xôi, ta thường bđi hai vthuc quý đó là màng bc ht gc và nhân ht gc. Màng bc ht gc có cha mt vthuc quý là carotene (tin sinh tA), có tác dng điu trquáng gà, làm sáng mt, giúp trcon mau ln, người già thêm cng cáp, giúp các vết thương mau lin so... Còn nhân ht gc là mt vthuc rt quý có tác dng làm tan các vết bm do chn thương, làm vết thương mau lành. Theo bác sĩ Trn Danh Tài - Chtch Hi Đông y tnh Lâm Đồng thì: "Tác dng ca tinh du ht gc chng kém gì các loi mt gu (như gu rng, gu nuôi, gu chó, gu mèo), nên chúng tôi hay gi vui đây là mt gu treo ". Tlâu, nhân dân ta đã biết cách chế du tnhân ht gc theo phương pháp thcông làm thuc dùng trong gia đình, dùng được cho tt cvết thương bbm dp, tmáu, bmn nht, quai b, viêm tuyến vú... , ngoài ra còn có tác dng cha trĩ, cha chai bàn chân.  Nhân ht gc cha rt nhiu cht như axit béo, đường, tannin, protein, 1 sen zim…so ng khôn g th khô ng nhc đến 2 hp cht có tên aci d momordic và momordin, chúng là 1 trong nhng dưỡng cht chính to nên tính năng cha bnh đặc bit ca nhân ht gc. Acid momordic có mt trong thành phn ca nhiu loi thuc bán trên thtrường, đặc bit là các thuc dùng để cha trcác khi u, các nt sưng ty. Không nhng thế, các thuc cha bnh ti u đường như GLUCO-FX cũng cha acid momordic trong thành phn ca nó, acid momordic góp phn làm gi m l ượng
45

LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

Apr 04, 2018

Download

Documents

Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 1/45

1

Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu

nhận tại Đà Nẵng

MỞ ĐẦU

Gấc là thứ quả có nhiều ở Việt Nam. Nó thường được dùng để nấu xôi - một

món ăn truyền thống, ăn có vị rất ngon và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Xôi gấc có

màu đỏ tươi, thơm, ngọt dịu, dẻo, béo... rất ngon, mọi người thường dùng trong

những dịp đặc biệt như cúng tổ tiên, hay lễ tết, hội hè. Tuy nhiên, khi ăn xôi, tathường bỏ đi hai vị thuốc quý đó là màng bọc hạt gấc và nhân hạt gấc.

Màng bọc hạt gấc có chứa một vị thuốc quý là carotene (tiền sinh tố A), có

tác dụng điều trị quáng gà, làm sáng mắt, giúp trẻ con mau lớn, người già thêm

cứng cáp, giúp các vết thương mau liền sẹo... Còn nhân hạt gấc là một vị thuốc rất

quý có tác dụng làm tan các vết bầm do chấn thương, làm vết thương mau lành.

Theo bác sĩ Trần Danh Tài - Chủ tịch Hội Đông y tỉnh Lâm Đồng thì: "Tác

dụng của tinh dầu hạt gấc chẳng kém gì các loại mật gấu (như gấu rừng, gấu nuôi,

gấu chó, gấu mèo), nên chúng tôi hay gọi vui đây là mật gấu treo". Từ lâu, nhân

dân ta đã biết cách chế dầu từ nhân hạt gấc theo phương pháp thủ công làm thuốc

dùng trong gia đình, dùng được cho tất cả vết thương bị bầm dập, tụ máu, bị mụn

nhọt, quai bị, viêm tuyến vú... , ngoài ra còn có tác dụng chữa trĩ, chữa chai bàn

chân.

 Nhân hạt gấc chứa rất nhiều chất như axit béo, đường, tannin, protein, 1 số

enzim…song không thể không nhắc đến 2 hợp chất có tên acid momordic và

momordin, chúng là 1 trong những dưỡng chất chính tạo nên tính năng chữa bệnh

đặc biệt của nhân hạt gấc.

Acid momordic có mặt trong thành phần của nhiều loại thuốc bán trên thị

trường, đặc biệt là các thuốc dùng để chữa trị các khối u, các nốt sưng tấy. Không

những thế, các thuốc chữa bệnh tiểu đường như GLUCO-FX cũng chứa acid

momordic trong thành phần của nó, acid momordic góp phần làm giảm lượng

Page 2: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 2/45

2

đường trong máu. Momordin cũng không phải xa lạ, momordin cùng với charantin

và một số dưỡng chất khác có trong thành phần của trái khổ qua đã tô điểm nên

những công dụng đặc biệt của loại quả này đối với cơ thể con người, tiêu biểu nhất

đó là vị thuốc chữa bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin (đái tháo đường

loại 2). Ngoài ra, nó còn có những tính chất khác như chữa trĩ, mụn nhọt, lở loét,

thấp khớp và hạ huyết áp.

GLUCO-FXGlucose Balance FormulaProduct # AE-041 90 caps

Ingredients per Capsule

R-Alpha Lipoic AcidChromium Poylnicotinate (50 mcg elemental)Vanadyl Sulphate (5mcg elemental)Banaba Leaf (1% Corosolic Acid)Momordica Charantia (3% Momordic acid)Gymnema Sylvestre (25% Gymnemic acid)

100mg357mcg16mcg200mg200mg100mg

 Như vậy, hạt gấc chứa cả hai dưỡng chất có ích cho cơ thể là acid momordic

và momordin. Song, nhân hạt gâc chủ yếu chỉ được dùng làm thuốc bôi ngoài da, ít

dùng đường uống vì có độc tính. Độc tính được xác định LD50 = 92,27g bột hạt

gấc/kg chuột thử nghiệm khuyên ta nên hết sức thận trọng. Qua đó, ta thấy được

rằng, hạt gấc là vị thuốc quý của mọi nhà, song trên thực tế việc sử dụng vị thuốc

này vẫn còn hạn chế và chưa phát huy hết tính năng đặc biệt của nó. Hạt gấc có tính

độc nên chủ yếu chỉ được dùng để bôi ngoài da nhưng những dưỡng chất chứa trong

thành phần của nhân hạt gấc lại có tác dụng rất lớn trong việc chữa trị một số bệnh

 bên trong cơ thể.

Một ý tưởng nảy sinh đó là: Tại sao chúng ta không chiết tách những dưỡng

chất có trong hạt gấc để mở rộng hơn phạm vi ứng dụng của nó?

Page 3: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 3/45

3

Cho đến nay ở nước ta, việc nghiên cứu chiết tách các dưỡng chất trong nhân

hạt gấc chưa được các nhà khoa học quan tâm. Với ý tưởng cùng với lí do trên,

chúng tôi quyết định chọn đề tài:

“Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận

tại Đà Nẵng” làm đề tài tốt nghiệp cuối khoá cho mình.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1. Đại cương về hợp chất Terpenoid [1], [2], [3], [4]

1.1.1. Thành phần cơ bản và tính chất chung của các loại hợp chất tecpen

Tecpen là một loại hợp chất hữu cơ có nhiều trong tinh dầu của các loại cây và

hoa, chúng thuộc vào số các hợp chất phổ biến nhất. Chúng có tính đa dạng về mặt

cấu trúc, song các tecpen đều có nét chung thống nhất đó là phân tử tecpen được

xem như sản phầm trùng hợp của izopren theo kiểu “đầu nối với đuôi”, tuy rằng

izopren không phải là nguyên liệu cấu trúc ra các tecpen.

Isopren (C5H8) Ocimen (C10H16)

Dựa vào số đơn vị isopren để chia các tecpen thành:

Monotecpen (C10) số đơn vị isopren là 2

Sesquitecpen (C15) 3

Ditecpen (C20) 4

Tritecpen (C30) 6

Tetratecpen (C40) 8

đuôi

đầu

Page 4: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 4/45

4

Tecpen chỉ có một đơn vị C5 rất hiếm, chỉ gặp trong dạng hợp chất trung gian

dưới dạng isopren sinh học.

Mặt khác cũng không có các loại tecpen có C25, C35 cũng do các quá trình sinh

tổng hợp sinh học mà ở đây tôi không đề cập dến.

Các tritecpen và tetra tecpen hình thành không phải do quá trình ankyl hoá tiếp

đitecpen mà chủ yếu bằng con đường đime hoá sesquitecpen và đitecpen.

Hầu hết hợp chất tecpen có cấu trúc vòng với một số nhóm chức như OH,

cacbonyl. Đặc tính chung của chúng là ít tan trong nước ngoại trừ chúng kết hợp

với các oza tạo thành glycozit tan trong chất béo.

Về mặt hoá học, hiện tượng đồng phân trong tecpen rất phổ biến, nên có thể

gặp cả 2 dạng đồng phân trong cùng một cây. Ngoài ra vì hầu hết chúng là cấu trúc

vòng và vì vòng xicloankan thường là dạng ghế nên có cấu hình khác nhau tuỳ

thuộc vào các nhóm thế ở quanh vòng.

Cần chú ý rằng, hiện tượng đồng phân hoá và sự sắp xếplại cấu trúc trong phân

tử của chúng có thể xảy ra ngay trong quá trình chiết xuất để cho ra những hợp chất

“giả” vốn không có trong cây.Về mặt phân bố trong tự nhiên, tecpen có mặt trong hầu hết các lớp từ thực vật

 bậc thấp như tảo, nấm đến thực vật bậc cao và cả trong động vật, vi khuẩn. Nhưng

mỗi nhóm tecpen có sự phân bố đặc trưng. Monotecpen là thành phần chủ yếu của

tinh dầu đã tìm thấy trong hơn 60 họ thực vật, nhưng tập trung chủ yếu trong

khoảng 10 họ. Sesquitecpen phân bố đặc trưng trong họ Asteraceae, các Saponin

Steroid trong cây một lá mầm, trong khi saponin tecpen có chủ yếu trong cây 2 lá

mầm. Glycozit tim tập trung một số chi thuộc các họ Apocynaceae-

Scrophulariaceae, Aselepidaceae,Moraceae…

 Ngoài khái niệm tecpen người ta còn dùng khái niệm terpenoid để bao hàm

rộng rãi các sản phẩm thoái biến tự nhiên và các dẫn xuất tự nhiên hay tổng hợp các

tecpen. Tuy nhiên khi sử dụng thì hầu như không có sự phân biệt rõ ràng về ranh

giới giữa hai khái niệm này.

Page 5: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 5/45

5

Tuy nhiên đã có khá nhiều ngoại lệ của quy luật nêu trên. Để giải thích điều

này người ta dựa vào “quy tắc isopren phát sinh sinh vật” (“biogenetic isopren

rule”; Ruzicka, 1953), theo quy tắc này thì các terpenoid được lắp ráp bởi các đơn

vị C5 (tương tự isopren), sau đó cấu trúc được tạo thành ban đầu có thể bị biến đổi

 bởi emzim theo nhiều cách khác nhau để sinh ra các kiểu cấu trúc được biết.

Để giải thích quá trình sinh tổng hợp các terpenoid, các nhà khoa học đã nổ lực

tìm kiếm chất được gọi là “isopren hoạt động”, tức đơn vị C5 có thể hợp nhất thành

các isoprenoid. Lời giải đáp đã được tìm thấy vào năm 1956, khi axit mevalonic

(MVA) được phân lập bởi Folkers và đã chứng tỏ được là có thể dễ dàng hợp nhất

để tạo ra các isoprenoid. Tiếp đó là kết quả nghiên cứu của Bloch; Lynen; Conforth

và Popjack, làm sáng tỏ con đường sinh tổng hợp axit mevalonic và cơ chế chuyển

hợp chất này thành các đơn vị C5 sinh học, rồi từ đó tổng hợp thành các isoprenoid.

Việc giải thích rõ qua trình sinh tổng hợp các isoprenoid có thể được coi là một

trong những thành tựu khoa học lớn nhất của những năm sau đại chiến thứ II.

1.1.2. Một số ứng dụng của hợp chất terpenoidCác terpenoid có rất nhiều ứng dụng trong thực tế như làm chất thơm và chất

tạo hương vị, làm dược phẩm, làm chất liệu trừ sâu hại… Trong vô số terpenoid có

ứng dụng và hoạt tính sinh học đáng lưu ý, có thể nêu ra một số ví dụ như p-menth-

1-en-8-thiol có trong nước ép vỏ quả bưởi chùm đã tạo nên hương vị đặc trưng cho

sản phẩm này. Với nồng độ thấp 1mg trong 1000 tấn nước ta vẫn có thể cảm nhận

được hương vị của nó. Các sesquiterpen andehit - và - sinensal chiếm khoảng

0,1% tinh dầu nhận được nhờ ép vỏ loài cam ngọt Citrus aurantium L.Var.dulcis,

subsp.Snensis Gall. Chúng là những chất tạo hương vị vỏ cam rất có giá trị, -

damascon xuất hiện với hàm lượng thấp trong tinh dầu hoa hồng, nhưng lại là chìa

khoá quyết định loại tinh dầu đắt tiền này. Cũng như các ionon, các xeton này được

xếp vào phân lớp sesquiterpenoid, chúng là các sản phẩm thoái biến của các

sesquiterpenoid nguyên thuỷ tương ứng.

Page 6: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 6/45

6

Vô số terpenoid thể hiện hoạt tính sinh học khi thử trên động vật có vú và

nhiều chất trong số đó đã dùng làm dược phẩm. Campho từ gỗ cây Cinnamonum

camphora L. được sử dụng từ lâu làm thuốc sát trùng, để kích thích tim và sự tuần

hoàn máu. Methol từ Mentha piperita L. có tác dụng gây tê nhẹ và trị ngứa. Terpen

hiđrat điều chế từ tinh dầu thông, được dùng làm thuốc long đờm.

Trong số các hoạt chất được dung làm thuốc có giá trị cao phải kể đến chất

sesquiterpenoid artemisinin và chất điterpenoid taxol. Artermisinin được phân lập

lần đầu tiên vào năm 1972 từ cây Artemisia annua L. Với hoạt tính chống lại các

dòng kí sinh trùng kháng được sự điều trị thông thường bằng chloroquine và nhờ có

cấu trúc lipophil đi qua được vách ngăn máu – não, artemisinin đặc biệt có hiệu quả

đối với bệnh sốt rét thể não làm chết người. Taxol được phân lập từ loài thông đỏ

Taxus brevifolia, đã được phép dung làm thuốc điều trị ung thư buồng trứng từ năm

1992 và ung thư vú từ năm 1993.

 Nhiều terpenoid thể hiện những hoạt tính sinh học đáng chú ý khác như

Peyssonol từ một loài tảo Peyssonnelia sp. ức chế HIV reve transeriptaza. Một số

terpenoid có hoạt tính sinh học cao đối với thực vật hoặc đóng vai trò nhất định vềmặt sinh thái học. Từ loài cây Acorus calamus L. đã phân lập được một dẫn xuất

acoran mới có tác dụng ức chế sự nảy mầm của hạt rau diếp. Các pyrethrin, thí dụ

 pyrethrin I, chứa trong các tuyến ở lá và hoa cây Chrysanthemum cinerariaefolium

có tác dụng trừ sâu tiếp xúc mạnh, nhưng lại không độc đối với người và động vật

máu nóng khác. Chất axit 2,3-đihiđrofanesolic là terpen duy nhất được phân lập từ

cây cà chua dại Lycospersicum hisutum, chất này kháng lại các loài động vật chân

đốt ăn cỏ. Nhiều terpenoid là các pheromon, ví dụ các monoterpenoid cis- và trans – 

verbenol là những chất có khả năng dẫn dụ con bọ cái ở loại bọ cách cứng đục vỏ

cây Ips paraconfusus.

Trong phân loại tecpen không thể không nhắc đến triterpenoid (C 30) có trong

nhiều nấm thực vật, dầu ôliu, dầu gan cá mập (40%), trong đó squalen là tiền tố để

tổng hợp ra steroid.

Page 7: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 7/45

7

Đặc biệt, trong nhân hạt gấc và trái khổ qua đều có chứa một hợp chất

triterpenoid có tên là Acid Momordic. Chính hợp chất acid momordic này đã góp

 phần tô điểm thêm vai trò to lớn của 2 loại quả cùng thuộc họ bí và được xem như

vị thuốc quý của mọi nhà.

H

HO 

HO

H

- amyrin xyclolauderol

Squalen

O

OH

COOH

Acid momordic

Page 8: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 8/45

8

1.2. Glicozit và Saponin [14], [15]

1.2.1. Glicozit

 Nhóm chất hữu cơ có trong các vị thuốc được gọi là hoạt chất của thuốc.

Thành phần hoá học chính gồm: đường (glucozơ, ramnozơ, đigitoxozơ, ximarozơ)

và thành phần không phải đường (steroit, sterol, axit mật, hocmon... gọi là aglicon

hay genin). Tuỳ theo cấu tạo và tác dụng aglicon mà có các Glicozit khác nhau.

Glicozit gây đắng có tác dụng kích thích tiêu hoá thường gặp ở cây bồ công anh,

long đờm thảo, thạch xương bồ, vỏ cam quýt. Glicozit trợ tim, làm tăng cường hoạt

động của tim người bệnh, có trong lá trúc đào, hạt thông thiên, hạt đay, hạt cây sừng

dê. Glicozit gây tăng nhu động ruột (làm co cơ trơn thành ruột) đó là antraglicozit

khi dùng liều nhỏ làm ăn ngon, tiêu hoá dễ dàng, dùng với liều vừa phải thì nhuận

tràng, liều cao gây tẩy mạnh. Những cây có antraglicozit là chút chít, muồng trâu, lôhội, thảo quyết minh... Glicozit gây màu là flavon và flavonozit gặp ở cây bồ hoàng,

hoàng cầm, hoa hoè, vỏ cam và một vài cây khác. Glicozit gây bọt là những chất

saponin. Saponin có tác dụng phá huyết mạnh, là chất độc cho cá. Các loài cây cỏ

có Glicozit gây bọt là bồ kết, viễn chi, cát cánh, cam thảo. Glicozit gây chát là

những chất tanin, gây táo bón, cầm máu và bổ, có ở các cây ngũ bội tử, búp ổi, lá

chè, kim anh, lá sen, hạt vải.

1.2.2. Saponin

Saponin là một glicozit tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực vật. Tiền tố

latinh sapo có nghĩa là xà phòng, và thực tế thường gặp từ "saponification" có nghĩa

là sự xà phòng hóa trong cả tiếng Anh và tiếng Pháp.

Saponin có tính chất chung là khi hoà tan vào nước có tác dụng làm giảm sức

căng bề mặt của dung dịch tạo nhiều bọt, có tính chất phá huyết, độc đối với động

Page 9: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 9/45

9

vật máu lạnh nhất là đối với cá, tạo thành phức với cholesterol, có vị hắc và làm hắt

hơi mạnh. Một vài động vật cũng có saponin như các loài hải sâm, cá sao.

Các saponin đều là các chất hoạt quang. Thường các steroid saponin thì tả

truyền còn triterpenoid saponin thì hữu truyền. Điểm nóng chảy của các sapogenin

thường rất cao.

Dưới tác dụng của enzym có trong thực vật hay vi khuẩn hoặc do axít loãng,

saponin bị thuỷ phân thành các phần gồm genin gọi là sapogenin và phần đường

gồm một hoặc nhiều phân tử đường. Các đường phổ biến là D-glucoza, D-

galactoza, L-arabinoza, axít galactunoic, axít D-glucuronic... Phần genin có thể có

cấu trúc cholan như sapogeninsterod hoặc sapogenintritecpen dạng -amirin (axit

olenoic), dạng α-amirin (axit asiatic), dạng lupol (axit buletinie) hoặc tritecpen bốn

vòng.

Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3 nhóm

lớn là triterpenoid saponin, steroit saponin và glicoancaloid dạng steroid.

Saponin có loại axít, trung tính hoặc kiềm. Trong đó, triterpenoid saponin

thường là trung tính hoặc axít (phân tử có nhóm –COOH). Steroid saponin nhómspirostan và furostan thuộc loại trung tính còn nhóm glicoancaloid thuộc loại kiềm.

Đã có hơn 10 saponin được phân lập từ rễ gấc, trong đó không thể không nhắc

đến các chất momordin thuộc nhóm saponin triterpenoid. Momordin là một trong

những dưỡng chất có lợi cho cơ thể, không chỉ có trong rễ gấc mà còn có trong

thành phần của hạt gấc và trái khổ qua.

Page 10: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 10/45

10

COOH

O

O

OH

OH

OH

COOH

Momordin Ib

COOH

O

O

OH

O

OH

COOH

O

OH

OH

OH

Momordin I

Cả hai saponin này đều có trong thành phần của rễ gấc, đều có hoạt tính kháng

mạnh vi khuẩn E.coli, B.subtillis và S.aureus.

 Ngoài ra, trong vô số các dưỡng chất chứa trong thành phần của trái khổ qua,

momordin và charantin là 2 trong số các thành phần chính có tác dụng hạ đường

máu và những tác dụng khác có lợi cho việc điều trị bệnh đái tháo đường. Charantin

là hỗn hợp của những glycosid steroid, bao gồm beta – sitosterol – beta – D – 

glucosid và 5,25 stigmadien – 3 – beta – ol – glycosid.

Page 11: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 11/45

11

1.3. Cây gấc, quả gấc và một số ứng dụng của nó [5], [6], [7], [8], [9], [10]

1.3.1. Đặc điểm sinh thái của cây gấc

Cây gấc có tên khoa học là Momordica Cochinchinensis (Lour) Spreng, chi

Momordicae thuộc họ bầu bí (Cucurbitaceae), bộ Violales.

Phân bố ở châu Á: Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia,

Việt Nam, bán đảo Mã Lai.Cây gấc trồng ở nước ta có nhiều giống, tuy nhiên trong sản xuất hiện nay chỉ

 phân biệt hai loại gấc sau đây:

- Gấc nếp trái to có vỏ mỏng nhiều hạt, vỏ trái có màu xanh gai to, it gai, khi

chín chuyển sang màu đỏ cam, bổ tái ra bên trong trái có màu đỏ tươi rất đậm.

- Gấc tẻ (gấc sẽ) trái nhỏ hoặc trung bình vỏ dày tương đối có ít hạt, gai

nhọn, trái bổ ra bên trong có màu vàng nhạt và màng đỏ bao bọc hạt thường có màu

đỏ nhạt hoặc màu hồng không được đỏ tươi đậm như gấc nếp.

Thời vụ trồng gấc tốt nhất ở miền Nam là đầu hoặc cuối mùa mưa, ở miền Bắc

thời vụ thường vào đầu tháng hai dương lịch lúc trời có mưa xuân.

1.3.2. Ứng dụng

Cây gấc có nhiều ứng dụng, cụ thể:

Page 12: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 12/45

12

• Rễ gấc: còn gọi là phong kỷ nam sao vàng, tán mỏng, dùng uống

chữa tê thấp sưng chân.

• Lá gấc: Viện đông y dùng lá gấc với lá tầm gửi đắp ngoài da làm

thuốc tiêu sưng tấy.

• Màng gấc: dùng để đồ xôi, ăn cả xôi và màng gấc.

• Dầu gấc: có tác dụng như những thuốc có vitamin A, dung bôi lên

các vết thương, vết loét, vết bỏng làm cho chóng lành, lên da. Uống dầu gấc người

 bệnh chóng lên cân, tăng sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể.

• Hạt gấc: Đông y gọi là mộc miết tử (con ba ba gỗ) vì nó dẹt, hình gần

như tròn, vỏ cứng, mép có răng cưa, hai mặt có những đường vân lõm xuống, trông

tựa như con ba ba nhỏ.

Hạt có vị đắng, hơi ngọt, tính ẩm, có độc dùng chữa các chứng bệnh

ung thũng, mụn nhọt độc, tràng hạt, eczema, viêm da thần kinh, trĩ, phụ nữ sưng vú.

Có thể chế thuốc viên hay tán bột uống. Liều uống từ 0,8 – 1,2 g. Nhưng thường

dùng đắp ngoài da đồ mụn nhọt. Nhân dân ta còn dùng để đắp chữa chai bàn chân.

Trong nhân dân, nhiều gia đình có thói quen để dành hạt gấc sống hoặcđã qua đồ xôi. Khi cần đến thì chặt đôi đem mài với ít rượu hoặc giấm thanh để bôi

chỗ sưng tấy do mụn nhọt, sưng quai bị; bôi nhiều lần trong ngày, cứ khô lại bôi, rất

mau khỏi. Có người giã nhân hạt gấc với một ít rượu, đắp lên chỗ vú sưng, đắp liên

tục, ngày thay thuốc 1 lần, rất chóng khỏi.

Để chữa trĩ, có thể dùng hạt gấc giã nát, thêm một ít giấm thanh, gói

 bằng vải, đắp vào hậu môn để suốt đêm. Mỗi đêm đắp thuốc một lần.

 Nó được dùng trong những trường hợp ngã, bị thương, sang độc, phụ

nữ sưng vú, hậu môn sưng thũng. Hạt gấc có thể dùng uống (ngày 1 nhân nướng

chín) nhưng chủ yếu là dùng bôi ngoài, không kể liều lượng.

1.4. Các phương pháp chiết tách hợp chất thiên nhiên [11], [12], [13], [4]

Page 13: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 13/45

13

Các hợp chất thiên nhiên khi mới được tách thường ở đươi dạng không tinh

khiết, vì vậy muốn nghiên cứu, phân tích chúng thì trước tiên phải tách chúng thành

từng chất riêng biệt ở dạng tương đối tinh khiết.

1.4.1. Phương pháp hoà tan trong dung môi hữu cơ 

Phương pháp hoà tan trong dung môi hữu cơ được dùng để tách và tinh chế

các chất hữu cơ rắn, dựa trên nguyên tắc là các chất khác nhau có độ hoà tan khác

nhau trong cùng một dung môi. Dung môi thích hợp để lựa chọn thường là dung

môi trong đó có độ hoà tan của chất rắn cần tinh chế thay đổi nhiều theo nhiệt độ.

Bằng cách tạo dung dịch bão hoà ở nhiệt độ cao (thường là nhiệt độ sôi của dung

môi), các tạp chất sẽ ở lại trong dung dịch. Bằng cách kết tinh lại một số lần trong

cùng một dung môi, hoặc trong các dung môi khác nhau, người ta có thể thu được

tinh thể chất cần tinh chế ở dạng khá tinh khiết. Cũng có khi người ta dùng một

dung môi có độ hoà tan với tạp chất nhiều hơn để loại tạp chất ra khỏi chất rắn cần

tinh chế.

Dung môi thường là nước, ancol etylic, ancol metylic, axeton, axit axetic băng,

ete, ben zen, cloroform, etyl axetat, n- hexan, ete dầu hoả… hoặc đôi khi là hỗn hợpgiữa chúng.

Khi cần tách hai hay nhiều chất chứa trong hỗn hợp với những lượng tương

đương nhau, người ta dùng phương pháp kết tinh phân đoạn.

1.4.2. Các phương pháp chưng cất

1.4.2.1. Chưng cất đơn giản

Trong trường hợp cần tinh chế một chất lỏng, tách nó ra khỏi tạp chất rắn

không bay hơi hoặc bay hơi có điểm sôi cao hoặc thấp không đáng kể (khoảng

800C) so với chất phân tích, ta chỉ cần tiến hành chưng cất thường (chưng cất đơn

giản), nghĩa là chuyển chúng sang pha hơi trong một bình cất có nhánh rồi ngưng tụ

hơi của nó bằng ống sinh hàn vào một bình hứng khác. Thường được áp dụng để

tinh chế các chất thô. Đối với những chất sôi cao nằm trong khoảng 1500C < Đs <

Page 14: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 14/45

14

3000C cần tiến hành cất dưới áp suất giảm để tránh phân huỷ nhiệt (thông thường

khi áp suất hơi bên ngoài giảm một nửa thì nhiệt độ sôi giảm khoảng 150C).

1.4.2.2. Chưng cất phân đoạn

Phương pháp chưng cất phân đoạn dùng để tách hai hay nhiều chất lỏng có

nhiệt độ sôi gần nhau tan lẫn hoàn toàn trong nhau, dựa trên nguyên tắc có sự phân

 bố khác nhau về thành phần các cấu tử giữa pha lỏng và pha hơi ở trạng thái cân

 bằng (ở cùng nhiệt độ).

 Như vậy, bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần quá trình bay hơi- ngưng tụ; bay

hơi- ngưng tụ lại…ta dần dần có thể thu được cấu tử A có nhiệt độ sôi thấp hơn ở 

dạng gần tinh khiết. Vì vậy người ta dùng phương pháp tinh luyện bằng cách lắp

trên bình chưng cất một cột cao có nhiều đĩa (cột Vigrơ) giúp cho việc tái tạo quá

trình bay hơi ngưng tụ trên. Nhờ vậy chất lỏng A dễ bay hơi dần dần thoát lên trên,

ở trạng thái ngày càng tinh khiết, còn chất lỏng B có nhiệt độ sôi cao hơn, ngưng tụ

trở lại bình chưng. Có thể người ta dùng loại cột lấp đầy các mảnh hoặc ống thuỷ

tinh hay các mảnh sứ thay cho cột Vigrơ và hiệu quả của cột được tính bằng “ số đĩalý thuyết”.

1.4.2.3. Chưng cất dưới áp suất thấp

Khi cần chưng cất một chất lỏng dễ phân huỷ ở nhiệt độ cao, người ta phải

dùng phương pháp chưng cất dưới áp suất thấp, tức là dùng bơm hút để giảm áp

suất trên bề mặt chất lỏng. Vì chất lỏng sẽ sôi khi áp suất riêng phần đạt đến áp suất

khí quyển, nên bằng cách này người ta có thể giảm được nhiệt độ sôi của nó một

cách đáng kể, tránh được hiện tượng phân huỷ hay cháy nổ. Phương pháp cất đơn

hay cất phân đoạn dưới áp suất giảm ngày nay được sử dụng khá phổ biến để đuổi

nhanh những lượng dung môi lớn mà không gây mất mất mát và ảnh hưởng tới chất

 phân tích, nhất là khi phân tích lượng vết và chất kém bền nhiệt. Nhờ phương trình

Claparon- Clausius, người ta có thể tính được sự phụ thuộc của áp suất hơi của một

chất vào nhiệt độ. Tuy nhiên, có thể áp dụng quy luật thực nghiệm gần đúng như

Page 15: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 15/45

15

sau: Khi áp suất khí quyển trên bề mặt chất lỏng giảm đi một nữa, thì nhiệt độ sôi

của nó hạ thấp đi khoảng 150C.

1.4.2.4. Chưng cất lôi cuốn hơi nước

Ta có thể tinh chế một chất lỏng không hoà tan trong nước bằng phương pháp

chưng cất lôi cuốn hơi nước để hạ điểm sôi của nó. Phương pháp này dựa trên

nguyên tắc: Khi hai hay nhiều chất lỏng không trộn lẫn với nhau nằm trong một hỗn

hợp, áp suất chung của chúng bằng tổng áp suất riêng phần p1 + p2, nghĩa là nó luôn

luôn lớn hơn áp suất riêng phần của bất kì cấu tử nào. Do đó nhiệt độ sôi của hỗn

hợp sẽ thấp hơn nhiệt độ sôi của cấu tử có nhiệt độ sôi thấp nhất. Tỷ lệ hơi cất sang

 bình ngưng (về số mol) sẽ bằng tỷ lệ áp suất hơi riêng phần của chúng ở nhiệt độ

sôi của hổn hợp. Nhờ vậy ta có thể tính toán được lượng nước cần thiết để lôi cuốn

hết chất cần tinh chế.

Sau khi đã dùng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước, thường ta phải

chiết tách các chất cần tinh chế ra khỏi nước bằng một dung môi thích hợp, rồi lại

tiến hành chưng cất phân đoạn để tách dung môi. Cuối cùng chưng cất lấy tinh khiết bằng bình chưng cất có gắn nhiệt kế dưới áp suất thấp, với sự kiểm tra nhiệt độ của

chất cần tinh chế.

1.4.3. Phương pháp chiết

1.4.3.1. Giới thiệu chung

Chiết là dùng dung môi thích hợp có khả năng hoà tan chất đang cần tách và

tinh chế để tách chất đó ra khỏi môi trường rắn hoặc lỏng khác. Thường người ta

dùng một dung môi sôi thấp và ít tan trong nước (vì các chất hữu cơ cần tinh chế

thường ít tan trong nước), chất đó sẽ chuyển phần lớn lên dung môi và ta có thể

dùng phểu để tách riêng dung dịch thu được ra khỏi nước.

Bằng cách lặp đi lặp lại việc chiết một số lần, ta có thể tách hoàn toàn chất cần

tinh chế vào dung môi đã chọn, sau đó cất loại dung môi và cất lấy chất tinh khiết ở 

nhiệt độ và áp suất thích hợp.

Page 16: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 16/45

16

Người ta cũng thường chiết một chất từ hổn hợp rắn bằng một dung môi hoặc

hoặc hỗn hợp dung môi với một dụng cụ chuyên dùng đặc biệt  gọi là bình chiết 

Soxhlet. Dung môi được đun nóng, cho bay hơi liên tục chảy vào bình chứa hổn hợp

cần chiết tách (thường gói trong giấy lọc), nó sẽ hoà tan chất rắn cần tinh chế và

nhờ một ống xiphông, dung dịch chảy xuống bình cầu bên dưới, dung môi nguyên

chất lại tiếp tục được cất lên. Phương pháp này tiết kiệm được dung môi và hiệu quả

tương đối cao.

1.4.3.2. Kỹ thuật chiết Soxhlet

•  Nguyên tắc 

Chiết Soxhlet là một kiểu chiết liên tục đặc biệt thực hiện nhờ một trang bị

riêng của nó. Kiểu chiết này cũng như kiểu chiết lỏng- lỏng nên về bản chất của sự

chiết vẫn là định luật phân bố chất trong hai pha không trộn vào nhau. Song ở đây

 pha mẫu là ở trạng thái lỏng, bột, hoặc dạng mảnh hoặc dạng lá. Còn dung môi

chiết (chất hữu cơ) là dạng lỏng.

Ví dụ chiết lấy dầu melton từ lá cây bạc hà bằng dung môi hữu cơ n-hexan hay benzen. Chiết các thuốc trừ sâu hoặc bảo vệ thực vật trong mẫu rau quả,

mẫu đất bằng n- hexan. Vì thế đây là kiểu chiết của hệ chiết có thể là cả đồng thể và

dị thể, mà chất phân tích nằm trong mẫu rắn, bột, lá, sợi…

• Các trang thiết bị và ví dụ

Trang thiết bị của kỹ thuật chiết Soxhlet gồm hai loại:

1. Hệ Soxhlet thường và đơn giản.

2. Hệ Soxhlet tự động (Auto- Soxhlet)

Cách chiết theo hệ (1) là đơn giản vận hành bằng tay, còn cách (2) là vận

hành một cách tự động. Kỹ thuật này chủ yếu sử dụng để chiết tách chất hữu cơ 

nằm trong pha rắn hay bột hay mảnh nhỏ, hay các vật liệu khô (lá cây), vì thế nên

nó là hệ chiết dị thể.

Ví dụ: Chiết Soxhlet thường lấy một số hoá chất bảo vệ thực vật từ mẫu

rau quả: Lấy 10 g mẫu đã được nghiền nhỏ và trộn đều vào cốc chiết của hệ chiết.

Page 17: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 17/45

17

Thêm 25- 30 g Na2SO4 khan, 30 ml dung môi chiết n- hexan có 20% Cl2H2. Sau đó

tiến hành chiết trong 180 phút.

Kỹ thuật chiết này có ưu điểm là chiết triệt để, song các điều kiện chiết

 phải nghiêm ngặt thì mới có kết quả tốt. Vì thế hệ thống vận hành chiết tự động cho

kết quả tốt hơn nhưng phải có hệ thống trang bị hoàn chỉnh. Nó thích hợp chiết các

chất hữu cơ từ các đối tượng mẫu khác nhau. Chất phân tích có trong mẫu rắn, bột,

vật mẫu xốp khô (lá cây)… kỹ thuật này được ứng dụng chủ yếu để tách các hợp

chất hữu cơ từ các mẫu cây lá, rau quả hoặc mẫu đất như ví dụ trên.

1.4.4. Các phương pháp sắc kí 

Phương pháp sắc kí được Xvét phát minh ra để tách các chất bằng hấp phụ từ

đầu thế kỷ 20 (1903). Đến nay đã trở thành một phương pháp tinh chế, định tính,

định lượng rất quan trọng trong hoá học nói chung và trong nghành hoá học hữu cơ 

nói riêng, được phát triển rất mạnh và được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các

 phòng thí nghiệm.

 Nguyên tắc chung của phương pháp sắc kí như sau: Hỗn hợp chất nghiên cứuở pha lỏng (dung dịch) hay pha khí được cho qua bề mặt chất hấp phụ ở pha rắn hay

 pha lỏng khó bay hơi. Do khả năng tương tác với pha tĩnh khác nhau nên các chất

khác nhau trong hỗn hợp nghiên cứu chuyển động với vận tốc khác nhau và dần

được phân tách ra từng cấu tử riêng biệt. Người ta phân chia ra làm các loại sắc kí

khác nhau.

1.4.4.1. Sắc kí cột (sắc kí hấp phụ)

Trong phương pháp sắc kí cột, người ta dùng các cột thuỷ tinh hay đôi khi

 bằng kim loại, có kích thước thông thường là 15 × 1; 25 × 2; 40 × 3 hoặc 60 × 4 cm;

dùng các chất hấp phụ dạng bột thường là nhôm oxit, siliccagel, tinh bột hoặc

 barisunphat… hoặc một chất bất kỳ khác không tương tác với dung môi. Hỗn hợp

chất nghiên cứu được hoà tan trong một dung môi trơ thích hợp và cho chảy qua

cột. Các chất trong hỗn hợp nghiên cứu dần dần tách ra khỏi chúng và chúng chiếm

Page 18: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 18/45

18

các vị trí khác nhau trên cột hấp phụ. Vì lúc đầu người ta tiến hành trên cột thí

nghiệm với các chất màu, khi chúng tách ra tạo thành các khoang màu khác nhau

trên ống hấp phụ nên phương pháp này gọi là phương pháp sắc kí. Sau đó người ta

tách riêng từng chất hoặc bằng cách cắt cột hấp phụ thành từng đoạn ứng với từng

chất, hoặc liên tục đổ thêm dung môi, các chất sẽ lần lượt được rửa trôi và thoát ra

 bình hứng ở các thời điểm khác nhau.

Đơn giản bằng sơ đồ hoá như sau:

 

Có thể dùng phương pháp này để tách các chất không có màu, nhưng phải

dùng các chất chỉ thị hay thuốc thử thích hợp để nhận biết khi nào chúng bắt đầu

thoát ra bình hứng.

1.4.4.2. Sắc kí giấy

Bình đựngdung dịch

Bình hứng

Cột chứachất hấp phụ

Page 19: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 19/45

19

Sắc kí giấy là một dạng đặc biệt của sắc kí phân bố do Consden, Gordon, và

Martin phát minh ra năm 1944. Pha tĩnh ở đây là nước thấm trên giấy lọc đặc biệt

(xenluloza tinh khiết). Dung dịch chất nghiên cứu được chấm trên một đầu của giải

giấy (cách mép giấy chừng 2,5 cm) và mỗi giọt cách nhau chừng 2cm. Người ta

thường nhỏ đồng thời cả dung dịch mẫu so sánh đã biết so sánh.

Sau đó đầu giấy lọc được nhúng trong một dung môi hay hỗn hợp dung môi

thích hợp đã bão hoà nước. Do lực mao dẫn, dung môi sẽ thấm lên giấy sắc kí, kéo

theo chất nghiên cứu chuyển động lên phía trên và tạo thành vết trên giấy mà người

ta có thể nhận biết được bằng mắt hoặc bằng chất chỉ thị. Tỷ số R f  giữa độ dịch

chuyển của chất nghiên cứu và dung môi được gọi là hằng số sắc kí, hằng số sắc kí,

hằng số này là đại lượng quan trọng đặc trưng cho từng chất.

Để thu được kết quả tách tốt hơn, người ta có thể lặp lại thao tác trên với một

dung môi khác và theo chiều thẳng góc với chiều chạy lần trước (sắc kí phân bố hai

chiều).

Sắc kí giấy thường dùng để định tính các chất, nhưng cũng có thể dùng để định

lượng sơ bộ dựa vào độ đậm và tiết diện của vết chất nghiên cứu.

1.4.4.3. Sắc kí lớp mỏng

Phương pháp này được Izmailop và Schreiber đề nghị từ năm 1938, được Stan

 phát triển và hoàn thiện năm 1955, khiến nó có ứng dụng rộng rãi.

 Người ta tráng một lớp mỏng chất hấp phụ có thể là Al2O3 hoặc silicagel, lên

một tấm kính kích thước 10× 12 hoặc 20 × 20 cm, chấm một giọt chất nghiên cứu

hay hỗn hợp nghiên cứu lên một đầu bản (cách mép khoảng 2 cm) rồi cho dung môi

chạy như sắc kí giấy.

Phương pháp sắc kí lớp mỏng thường cho hiệu quả tách cao, thời gian ngắn,

lượng chất ít, thường được sử dụng để định tính và tách các chất thiên nhiên. Nó

cũng được các nhà tổng hợp hoá học sử dụng thường xuyên để nhanh chóng phân

tách các chất thu được sau phản ứng.

Page 20: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 20/45

20

1.4.4.4. Sắc kí khí lỏng

 Những năm gần đây sắc kí khí lỏng (còn được gọi là sắc kí khí) được phát

triển mạnh mẽ, mở ra khả năng lớn trong phân tích và tách các hợp chất dễ bay hơi.

Phương pháp thông thường là cho vài giọt Microlit chất lỏng phân tích vào thiết bị

 bay hơi rồi dùng dòng khí mang (thường là Heli) lôi cuốn hơi của chúng qua một

ống dài nung nóng nạp đầy một chất rắn xốp (ví dụ gạch chịu lửa tán nhỏ, nhôm

oxit, silicagel, than hoạt tính…) được tẩm bằng chất lỏng khó bay hơi như dầu

silicon, polyetylen glycol, các este sôi cao… Khi đó xảy ra sự phân bố các chất giữa

 pha lỏng và pha khí, đồng thời chỉ cần sự khác nhau nhỏ trong sự phân bố này giữa

các cấu tử trong hỗn hợp cũng đủ để phân tách hoàn toàn các chất lỏng trong hỗn

hợp, vì nó được lặp đi lặp lại trong ống dài. Người ta thường nhận biết từng chất

thoát ra ở cuối ống bằng cách đo sự thay đổi độ dẫn điện của khí thoát ra. Tuy nhiên

việc phát hiện một pic trong sơ đồ sắc kí mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ về độ

tinh khiết của một chất, phương pháp sắc kí khí vẫn rất hữu ích khi phân tích một

lượng nhỏ hỗn hợp cũng như để tách và tinh chế các chất.

Cần nhấn mạnh rằng, trong phương pháp sắc kí nói chung cấu trúc phân tử củacác hợp chất có ảnh hưởng lớn đến cân bằng hấp phụ, cũng như hệ số phân bố của

chúng giữa các pha, do đó liên quan chặt chẽ đến hằng số R f . Vì vậy kết qủa phân

tích sắc kí cũng cho ta thấy những thông tin bổ ích về cấu trúc của hợp chất. Sau

quá trình tinh chế, ta cần kiểm tra độ tinh khiết của hợp chất thu được bằng cách đo

nhiệt độ nóng chảy (đối với chất rắn) hoặc nhiệt độ sôi (đối với chất lỏng) hoặc đo

tỷ khối, chỉ số khúc xạ, chụp phổ…

1.4.4.5. Sắc kí lỏng cao áp

Sắc kí lỏng cao áp (phương pháp sắc kí lỏng có hiệu quả cao) là một dạng của

sắc kí lỏng dạng cột. Trong phương pháp này cột sắc kí thường được chế tạo bằng

thép không gỉ, có đường kính trong khoảng 2- 6 mm và dài 10- 25 cm, mặt trong

 phải được đánh bóng. Chất hấp phụ được bơm vào dưới dạng huyền phù trong dung

Page 21: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 21/45

21

môi chọn trước với áp suất 80 Mpa, các hạt có kích thước 3,5 hay 10 micromet,

thường có dạng hình cầu.

Trong những năm 70 trở lại nay, việc xuất hiện sắc kí lỏng cao áp cho phép

tách rất hiệu quả các hợp chất không phân cực hoặc ít phân cực và là một trong

những phương pháp phân tích chính để phân tích các hợp chất hữu cơ.

Thiết bị hiện đại của phương pháp sắc kỷ lỏng cao áp gồm: Hai máy bơm (3;

4) được điều khiển bằng bộ vi xử lý (5) theo một chương trình chọn trước. Thành

 phần và tốc độ nạp dung dịch rửa vào hệ thống sắc kí được điều khiển theo các chế

độ chọn trước theo chương trình (tuyến tính, luỹ thừa hay mối quan hệ bất kỳ nào

đó) tuỳ thuộc điều kiện phân tích. Để tăng nhanh tốc độ phân tích mẫu, người ta

dùng các bơm có áp suất cao (đến 40 Mpa). Sau khi qua cột sắt ký (8) các chất phân

tích được dò tìm bằng một detector (máy dò tìm) có độ nhạy cao (9). Tín hiệu sắc kí

được ghi nhớ lại nhờ một cấu trúc ghi, thường là một máy tính cá nhân (11). Khi

cần thiết người ta có thể thu nhập từng phần dung dịch thoát một cách tự động theo

yêu cầu.

 Hình 1.1. Sơ đồ sắc kí lỏng cao áp.

Chú thích: 1,2 - Bình dung dịch rửa 9- Detector 

3,4- Bơm 10- Bộ pin

5- Bộ điều khiển 11- Khối xử lí kết quả phân tích

1212

9 713

10

6

2

88

311

4

1

5

Page 22: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 22/45

22

6- Buồng trộn 12- Bộ thu sản phẩm

7- Ống phun 13- Ôn nhiệt

8- Cột sắc kí

1.5. Phương pháp vật lí xác định cấu trúc hợp chất hữu cơ 

1.5.1. Phương pháp xác dịnh phổ hồng ngoại (IR)

1.5.1.1. Cơ sở của phương pháp

Các phân tử luôn dao dộng không ngừng. Tần số dao động của các nguyên tử

trong phân tử phụ thuộc vào hằng số lực liên kết và khối lượng của chúng, do đó

các nhóm chức khác nhau sẽ dao động với các tần số khác nhau nằm trong vùng từ

5000 cm-1 đến 200 cm-1. Mỗi nhóm chức xác định có tần số hấp thụ xác định và tần

số này không đổi trong bất kỳ hợp chất nào chứa nhóm nguyên tử đó. Vì vậy khi

 phân tích trên quang phổ hồng ngoại ta có thể xác định được các nhóm nguyên tử

(nhóm chức) của chất phân tích có được.

1.5.1.2. Sơ đồ máy đo phổ hồng ngoại

 

 Hình 1.2. Sơ đồ máy đo quang phổ hồng ngoại 2 chùm tia

Chú thích: (1) Nguồn bức xạ

(2) Mẫu nghiên cứu

(2’) Môi trường đo

(3) Bộ tạo đơn sắc

(4) Dectector  

(5) Bút tự ghi

(2)

(1)

(3) (4) (5) (6)

Page 23: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 23/45

23

(6) Đường cong biểu diễn sự hấp thụ bức xạ của mẫu vào số sóng

1.5.2. Phương pháp đo quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS

1.5.2.1. Đặc điểm của phương pháp

Phổ hấp thụ nguyên tử dựa vào khả năng hấp thụ chọn lọc các bức xạ cộng

hưởng của nguyên tử ở trạng thái tự do. Đây là phương pháp có độ chích xác rất

cao, quá trình phân tích có thể thực hiện khá đơn giản, nhanh.

Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử được ứng dụng khá rộng rãi trong các lĩnh

vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế.

1.5.2.2. Nguyên tắc của phép đo

Muốn thực hiện phép đo phổ hấp thụ nguyên tử cần thực hiện các bước sau:

1. Hoá hơi mẫu phân tích đưa về trạng thái khí. Mục đích của quá trình này là

tạo ra được đám hơi các nguyên tử tự do từ mẫu phân tích. Đám hơi của các nguyêntử tự do này chính là môi trường hầp thụ bức xạ và sinh ra phổ hấp thụ nguyên tử.

2. Quá trình nguyên tử hoá thường dược thực hiện với tác dụng của các loại

nguồn nhiệt theo phương pháp ngọn lửa hay không ngọn lửa. Đây là quá trình quan

trọng nhất và ảnh hưởng đến kết quả của phép đo.

3. Thu toàn bộ chùm tia sáng sau khi đi qua môi trường hấp thụ, phân ly chúng

thành phổ và chọn vạch phổ cần đo của nguyên tố phân tích hướng vào khe đo

cường độ vạch phổ.

4. Ghi nhận tín hiệu đo và kết quả đo của cường độ vạch phổ hấp thụ bằng

thiết bị ghi phổ.

1.5.3. Phương pháp phổ khối lượng

1.5.3.1. Nguyên lý máy đo phổ khối lượng

Máy phổ khối lượng được chế tạo thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản là:

Page 24: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 24/45

24

Chuyển chất nghiên cứu thành thể khí (làm bay hơi mẫu nghiên cứu ở 

áp suất thấp và ở nhiệt độ thích hợp).

Tạo ra các ion từ các phân tử khí đó.

Phân tách các ion đó rồi ghi lại tín hiệu theo tỉ số khối lượng/diện tích

(m/ze) của chúng.

Bởi vì xác suất tạo thành các ion có z > 1 là rất nhỏ và e = const do đó thông

thường m/ze chính là khối lượng của ion.

Về mặt nguyên lí hoạt động, có thể sơ đồ hoá một máy phổ khối lượng thành

4 khối như sau:1. Khối làm bay hơi mẫu

2. Khối tạo ra các ion

3. Khối phân tách các ion

4. Khối thu nhận tín hiệu các ion khuếch đại rồi ghi thành phổ

Ở phổ khối lượng, mỗi ion chỉ cho một tín hiệu rất mảnh với một đỉnh duy

nhất ứng với giá trị m/ze của nó (hầu như là một vạch thẳng đứng). Vì thế ta dùng

từ vạch hoặc từ pic để chỉ các tín hiệu đó.

1.5.3.2. Ứng dụng chính của phương pháp phổ khối lượng

1. Xác định khối lượng nguyên tử, khối lượng phân tử 

a. Xác định khối lượng nguyên tử các đồng vị.

Phổ khối lượng thoạt đầu được dùng để xác định khối lượng nguyên

tử các đồng vị. Đại đa số các đồng vị đã được tìm ra và được xác định bằng phổ

khối lượng.

b. Xác định khối lượng phân tử 

- Nếu ion phân tử tạo ra đủ bền thì khối lượng phân tử đựơc xác định

trực tiếp từ pic có giá trị m/ze cao nhất và có cường độ không phụ thuộc vào áp

suất.

- Ở những trường hợp mà ion phân tử không đủ bền, nó bị phân huỷ

ngay ở buồng ion hóa hoặc trước khi đến được bộ phận ghi nhận thì người ta áp

Page 25: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 25/45

25

dụng phương pháp ion hoá hoá học (đưa một khí nhẹ như CH 4, isobutan, NH3 vào

 buồng ion hoá cùng với hơi của mẫu) hoặc phương pháp ion hoá bởi trường (cỡ 107-

108 V/cm)

- Với những chất không bay hơi hoặc không bền nhiệt: dùng phương

 pháp phản hấp thụ bởi trường (mẫu rắn đặt trực tiếp lên anod)

- Ngoài ra còn dùng một số phương pháp nữa để tạo ra ion phân tử (ví

dụ tia laze).

2. Xét đoán cấu trúc phân tử 

Để xét đoán cấu trúc phân tử của một hợp chất chưa biết cần phân tích

tỉ mỉ phổ khối lượng. Phân tích phổ khối lượng là qui kết cho mỗi pic trên một phổ

mảnh phân tử xác định và chỉ rõ sự tạo thành ion mãnh đó.

1.5.4. Phương pháp sắc kí khí khối phổ (GC/MS)

Phương pháp sắc kí khí khối phổ dựa trên cơ sở nối ghép máy sắc kí khí với

máy phổ khối lượng. Việc tách các hợp phần từ một hốn hợp chất hữu cơ vốn là sở trường của phương pháp sắc kí khí khối phổ.

Phương pháp phổ khối lượng với độ nhạy tuyệt vời (cở 10-6 – 10-9 g) và tốc độ

ghi nhanh sẽ cho những thông tin xác định cấu trúc từ những lượng chất rất nhỏ

tách ra được nhờ phương pháp sắc kí. Việc liên kết hai kỹ thuật này đã tạo ra một

công cụ mạnh mẽ để tách biệt và nhận biết các hợp phần của các hỗn hợp tự nhiên

và tổng hợp. Nhờ sự liên kết này mà người ta có thể thu được khối phổ lượng đủ

chấp nhận đối với tất cả các hợp phần mà sắc kí khí tách ra được, kể cả với những

hợp phần với khối lượng chỉ cỡ picogam và có mặt trong một vài giây. Giữa máy

sắc kí khí và máy phổ khối lượng có một bộ phận dùng để tách khí mang trước khi

vào buồng ion hoá. Toàn bộ hệ thống GC/MS được nối với máy tính để tự động

điều khiển hoạt động của hệ, lưu trữ và xử lí số liệu.

Làm thế nào để phân tích các kết quả từ máy tính? Dưới đây là một hình khối

 phổ. Trục X là khối lượng còn trục Y là số lượng. Mỗi hóa chất chỉ tạo ra một mô

Page 26: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 26/45

26

hình duy nhất, nói cách khác mỗi chất có một “dấu vân tay” để nhận dạng, dựa trên

mô hình ion của nó.

Trên hình ta thấy phân tử ban đầu có khối lượng là 5. Trên sơ đồ khối phổ hạt

lớn nhất này được gọi là ion phân tử (molecular ion). Các hạt nhỏ hơn có khối

lượng 1,2,3 và 4 được gọi là các ion phân mảnh (fragment ions). Trong trường hợp

ví dụ trên ta thấy các phân tử của chất này có xu hướng bị phá vỡ thành các tổ hợp1-4 hơn là 2-3.

Các nhà nghiên cứu có thể so sánh khối phổ thu được trong thí nghiệm của họ

với một thư viện khối phổ của các chất đã được xác đinh trước. Việc này có thể

giúp họ định danh được chất đó (nếu phép so sánh tìm được kết quả tương ứng)

hoặc là cơ sở để đăng ký một chất mới (nếu phép so sánh không tìm được kết quả

tương ứng).

Page 27: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 27/45

27

CHƯƠNG II

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Nguyên liệu, hóa chất, thiết bị, dụng cụ

2.1.1. Nguyên liệuHạt gấc thu nhận tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2.1.2. Hóa chất

Dung môi được dùng để hoà tan chiết tách acid momordic và momordin phải

có một số đặc điểm sau:

- Phải có tính hoà tan chọn lọc, hoà tan tốt các chất cần tách mà không được

hoà tan hoặc hoà tan rất ít các chất khác không cần tách.

- Không tác dụng với các cấu tử của chất cần tách.

- Nếu chiết lỏng lỏng thì khối lượng riêng của dung môi phải khác xa với

khối lượng riêng của dung dịch.

- Không bị biến đổi thành phần khi bảo quản, thông dụng.

- Dung môi phải được tách ra sau quá trình chiết bằng phương pháp đun

nóng, chưng cất hoặc sấy. Sau khi tách không để lại mùi vị lạ và làm bần sản phẩm.

Page 28: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 28/45

28

Qua tham khảo một số tài liệu chúng tôi đã chọn metanol làm dung môi chiết

tách tinh dầu hạt gấc.

Từ tinh dầu hạt gấc, để chiết tách acid momordic và momordin chúng tôi đã

chọn các dung môi nước, etylaxetat và butanol.

2.1.3. Thiết bị, dụng cụ

Bình nón có nút nhám, phễu chiết, bếp cách thủy, bộ chiết Soxhlet, bộ chưng

cất thường, máy cô đặc chân không…

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Tìm hiểu hạt gấc

Bằng quan sát trong thực tế và tìm hiểu qua tài liệu tham khảo

2.2.2. Xác định độ ẩm, hàm lượng tro trong nhân hạt gấc2.2.2.1. Xác định độ ẩm

Cân khoảng 5 g nhân hạt gấc đã xử lí cho vào cốc sứ đã được sấy khô và biết

khối lượng chính xác. Cho cốc vào tủ sấy và sấy ở nhiệt độ 800C. Với nhiệt độ này

nước đã bay hơi mạnh và không làm phân huỷ các chất có trong mẫu.

Sau khi sấy khoảng 3 giờ, lấy cốc ra cho vào bình hút ẩm cho đến khi nguội

hẳn thì tiến hành cân trên cân phân tích để xác định khối lượng. Sau đó, cứ khoảng

30 phút ta lại tiến hành quá trình trên một lần cho đến khi khối lượng giữa hai lần

cân liên tiếp không đổi hay có sai số khoảng 0,005g thì dừng quá trình sấy.

Dựa vào kết quả thu được, ta tính khối lượng nhân hạt gấc trước và sau khi

sấy, khối lượng nước bay hơi. Từ đó ta xác định độ ẩm nhân hạt gấc dựa vào công

thức sau:

100.0

10

m

mm −

=ω 

Page 29: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 29/45

29

Trong đó, - : độ ẩm (%).

- m0 : khối lượng của nhân hạt gấc trước khi sấy (g).

- m1 : khối lượng của nhân hạt gấc sau khi sấy (g).

2.2.2.2. Xác định hàm lượng tro

Cân khoảng 5g nhân hạt gấc đã được xử lí cho vào cốc sứ đã sấy khô và biết

chính xác khối lượng. Cho cốc sứ vào lò nung và nung ở 800oC. Sau thời gian

khoảng 6 giờ, nhân hạt gấc đã được tro hoá gần như hoàn toàn. Lúc này tro có dạng

 bột mịn, màu trắng. Dùng kẹp dài lấy cốc sứ ra khỏi lò nung và cho vào bình hút ẩm

cho đến khi cốc nguội hẳn thì cân cốc trên cân phân tích để xác định khối lượng.

Sau 30 phút ta tiến hành quá trình trên một lần cho đến khi khối lượng giữa hai lần

cân liên tiếp là không đổi hoặc sai số 0,001g thì dừng quá trình tro hoá. Hàm lượng

tro trong nhân hạt gấc được tính theo công thức sau:

  100.

0

1

m

m H  =  

Trong đó: - H : hàm lượng tro (%)

- m0: khối lượng mẫu trước khi tro hoá (g)

- m1: khối lượng tro (g)

2.2.3. Phương pháp chiết tách bằng dung môi

2.2.3.1. Ngâm chiết

Tiến hành: Cân khoảng 50g nhân hạt gấc xay nhuyễn cho vào bình nón có

nút nhám, ngâm chiết với metanol ở nhiệt độ phòng thí nghiệm 3 lần, mỗi lần với

100ml trong 3 ngày. Dịch chiết sau khi loại dung môi ở áp suất thấp thu được cao

sệt, màu nâu sẫm.

Lấy lượng cao này thêm một lượng nhỏ nước cất cho vừa đủ tan rồi chiết lần

lượt với etylaxetat và butanol, 3 lần cho mỗi dung môi ở nhiệt độ phòng. Các dịch

Page 30: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 30/45

30

chiết sau khi loại dung môi thu được 2 cao: cao etylaxetat và cao butanol. Cao

etylaxetat và cao butanol được kiểm tra bằng sắc kí lỏng khối phổ, xác định sự có

mặt của acid momordic có trong cao etylaxetat và momordin có trong cao butanol.

2.2.3.2. Chiết Soxhlet

Metanol là một dung môi vạn năng nhưng lại có một nhược điểm lớn nhất đó

là nó rất độc. Khi làm việc với metanol, người làm phải thật cẩn thận và phải bảo hộ

kĩ lưỡng. Vì metanol đôc do đó không thể tiến hành chiết Soxhlet mà phải ngâm

chiết, muốn sự chiết được triệt để thì phải ngâm chiết trong một thời gian thời gian

khá lâu. Để tiết kiệm thời gian và an toàn hơn, ta co thể dùng dung môi thay thế làetanol và tiến hành bằng phương pháp chiết Soxhlet.

Tiến hành: Cân khoảng 25 gam nhân hạt gấc đã được xử lí cho vào giấy lọc,

gói kĩ và dùng chỉ buộc bên ngoài cẩn thận để không bị bung ra, không gói quá chặt

sẽ làm cho dung môi khó tiếp xúc với các mẫu nghiên cứu bên trong. Sau đó cho

gói mẫu vào ống chiết Soxhlet.

Cho khoảng 200 ml etanol 960 vào bình cầu đáy bằng sau đó lắp bộ chiết, các

khớp nối được bôi vazơlin để dung môi không thất thoát trong quá trình chiết. Đun

cách thuỷ bộ chiết trong vòng 16 giờ để quá trình chiết xảy ra triệt để.

Sau khi chiết xong, cho dung dịch chiết ra cốc, tiến hành đuổi dung môi.

Các bước tiếp theo tiến hành tương tự như ngâm chiết để tách chất phân tích

ra khỏi hỗn hợp nhân hạt gấc.

Page 31: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 31/45

31

CHƯƠNG III

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thu nhận nguyên liệu

Hạt gấc khô, già, vỏ ngoài cứng đen, chắc, nặng, mép có răng cưa tù và rộng,

trong có nhân trắng ngà, bên ngoài phủ một lớp màng màu xanh, có dầu, không bị

thối đen. Nguyên hạt, không vỡ nát, không thối nhân, không lẫn tạp chất là tốt.Hạt gấc sau khi thu nhận về chọn những hạt khô, già, vỏ cứng đen, chắc,

nặng, tách loại vỏ cứng lấy phần nhân bên trong, chọn những nhân có màu trắng

ngà, không bị thối đen rồi đem đi giã nhỏ.

 Hình 2.1: Cây gấc

Page 32: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 32/45

32

 Hình 2.2: Quả gấc Hình 2.3: Hạt gấc

3.2. Xác định độ ẩm và hàm lượng tro trong nhân hạt gấc

3.2.1. Xác định độ ẩm trong nhân hạt gấc

Kết quả xác định độ ẩm trong nhân hạt gấc được trình bày ở bảng 3.1.

 Bảng 3.1: Hàm lượng nước trong nhân hạt gấc

 Nhận xét: Từ số liệu thu được nêu trên bảng 3.1 ta thấy: Độ ẩm trong nhân

hạt gấc thấp, trung bình là 6,4% khối lượng của hạt.

3.2.2. Xác định hàm lượng tro trong nhân hạt gấc

Kết quả xác định hàm lượng tro trong nhân hạt gấc được trình bày ở bảng 3.2.

 Bảng 3.2: Hàm lượng tro trong nhân hạt gấc

Mẫu Sttmẫu

Khối lượngmẫu trước khi

sấy (g)

Khối lượngmẫu sau khi

sấy (g)

Khối lượng nướctrong mẫu (g)

Độ ẩm(%)

 Nhânhạtgấc

1 5,0160 4,689 0,3260 6,52 5,0033 4,698 0,3053 6,13 5,0024 4,657 0,3454 6,94 5,0054 4,695 0,3104 6,2

Page 33: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 33/45

33

 Nhận xét: Từ số liệu thu được nêu trên bảng 3.2 ta thấy: hàm lượng tro trong

nhân hạt gấc thấp, trung bình là 8,9 % khối lượng của hạt.

3.3. Chiết tách acid momordic và momordin

3.3.1. Chiết tách acid momordic và momordin bằng phương pháp ngâm chiết

3.3.1.1. Sơ đồ quy trình

Mẫu Sttmẫu

Khốilượng

cốc (g)

Khối lượngmẫu sấy khô +

cốc trước khitro hóa (g)

Khốilượng

mẫu(g)

Khối lượngmẫu + cốc

sau khi trohóa (g)

Khốilượng

tro (g)

Tỉ lệtro

(%)

 Nhânhạtgấc

1 34,0116 39,0276 5,0160 34,457 0,446 8,902 31,0088 36,0121 5,0033 31,456 0,447 8,953 27,1958 32,1982 5,0024 27,641 0,445 8,914 29,6712 34,6766 5,0054 30,118 0,447 8,93

Hạt gấc

Xử lí nguyên liệu

Dung dịch chiết

Cao metanol

Dung dịch A

Dịch chiết trongEtylaxetat

Dịch chiết trongButanol

Cao Etylaxetat Cao Butanol

Xác định

sự có mặtcủa acidmomordic 

 bằng phương phápLC-MS

Xác định sự

có mặt củamomordin 

 bằng phương phápLC-MS

Tách bỏ vỏ cứng, nhân xay nhuyễn

 Ngâm chiết trong metanol

Hoà tan bởi 1 lượng nước cất vừa phải

Loại dung môi ở áp suất thấp

Chiết lần lượt với etylaxetat và butanol

Loại dung môi Loại dung môi

Page 34: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 34/45

34

3.3.1.2. Thuyết minh quy trình

• Xử lí nguyên liệu

Hạt gấc được rửa sạch, phơi khô nguyên vỏ, tách bỏ lớp vỏ cứng bên ngoài,

 phần nhân bên trong được giã nhỏ rồi đem đi xay nhuyễn.

 Hình 3.1: Nhân hạt gấc xay nhuyễn

• Ngâm chiết

 Nhân hạt gấc xay nhuyễn cho vào bình nón có nút nhám, được ngâm chiết

trong metanol 3 lần, mỗi lần 3 ngày. Sở dĩ ta phải ngâm chiết mà không tiến hành

Page 35: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 35/45

35

chiết Soxhlet vì metanol là một dung môi rất độc, một lượng nhỏ xâm nhập vào cơ 

thể có thể gây mù loà, lượng lớn hơn có thể gây tử vong.

Sau mỗi lần chiết, nghiêng bình nón và gạn dung dich chiết sang một bình

nón có nút nhám khác, đậy nút lại. Tiếp tục cho metanol vào bình đựng nguyên liệu

để ngâm chiết.

 Hình 3.2: Dung dịch chiết trong Metanol 

• Cao metanol

Dung dịch chiết trong metanol được đem đi cô đặc ở áp suất thấp trong máy

cô đặc chân không, thu được cao metanol màu vàng nâu. Tuy nhiệt độ sôi của

metanol không cao (khoảng 650C) nhưng không thể chưng cất thường mà phải tiến

hành chưng cất bằng phương pháp chưng cất áp suất thấp vì metanol rất độc.

Page 36: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 36/45

36

 Hình 3.3: Cao sệt metanol màu vàng nâu

• Dung dịch A

Hoà tan cao metanol bằng một lượng nước cất vừa phải, quan sát bằng mắt

thấy có bọt xà phòng xuất hiên trên bề mặt cho phép ta có thể dự đoán được sự có

mặt của hợp chất saponin.

Cao metanol không hoà tan hoàn toàn trong nước mà tạo thành dạng huyền

 phù, trên bề mặt có lớp dung dịch màu vàng nâu không tan.

Page 37: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 37/45

37

 Hình 3.4: Cao metanol hoà tan trong nước cất 

• Cao etylaxetat và cao butanol

Dung dịch A được chiết trở lại với etylaxetat, etylaxetat là dung môi phân

cực kém, it tan trong nước và nhẹ hơn nước nên bị phân lớp và nổi lên trên. Lớp

dung dịch màu vàng nâu nổi trên bề mặt dung dịch A ít phân cực và đi vào lớp

etylaxetat mang theo cả acid momordic. Cho hỗn hợp vào phễu chiết để chiết tách

thành 2 phần riêng biệt. Tiến hành chiết tách 3 lần để quá trình chiết được triệt để.

 Hình 3.5: Hỗn hợp dung dịch A và Etylaxetat 

Phần hỗn hợp trong nước tiếp tục được chiết với butanol tương tự như

etylaxetat. Dịch chiết với butanol nhẹ hơn nên nằm ở trên.

Page 38: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 38/45

38

 Hình 3.6: Hỗn hợp dung dịch A và Butanol 

Dịch chiết với etylaxetat và butanol được đem đi cô đặc, đuổi dung môi thu

được cao etylaxetat và cao butanol.

(a) (b)

 Hình 3.7: Cao etylaxetat (a) và cao butanol(b)

3.3.2. Chiết tách acid momordic và momordin bằng phương pháp Soxhlet

Page 39: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 39/45

39

Tiến hành chiết Soxhlet trong 16 giờ với dung môi sử dụng là etanol 960.

Sau khi chiết xong, so sánh màu của 2 dung dich chiết theo 2 phương pháp

chiết Soxhlet với dung môi etanol trong 16 giờ và ngâm chiết với dung môi metanol

trong 9 ngày.

 Hình 3.8: Dịch chiết từ nhân hạt gấc bằng metanol và etanol 96 0

 Nhận xét: Dịch chiết bằng metanol màu tươi và đẹp hơn, còn dịch chiết từ

etanol thì màu úa hơn.

3.4. Xác định sự có mặt của acid momordic trong cao etylaxetat và momordin

trong cao butanol

Do điều kiện không cho phép nên chúng tôi chỉ tiến hành chạy phổ 2 mẫu theo

 phương pháp ngâm chiết trong metanol.

Cao etylaxetat và cao butanol sau khi được chạy phổ bằng phương pháp

LC-MS tại phòng nghiên cứu cấu trúc Viện hóa học Hà Nội, chúng tôi thu được kết

quả như sau:

Page 40: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 40/45

40

Page 41: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 41/45

41

 Hình 3.9: Phổ LC-MS của cao etylaxetat 

Page 42: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 42/45

42

 Hình 3.10: Phổ LC-MS của cao butanol 

Page 43: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 43/45

43

 Bảng 3.3: Dữ kiện về acid momordic và momordin

Acid

momordic

O

OH

COOH

C30H46O4

M=470.1

Momordin IbCOOH

O

O

OH

OH

OH

COOH

C36H56O9

M=632.3

 Nhận xét: So sánh phổ đồ và bảng dữ kiện ta thấy có sự xuất hiện các pic

470.1 tương ứng với phân tử khối của acid momordic và pic 632.3 tương ứng với

 phân tử khối của momordin.

Page 44: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 44/45

44

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi đã rút ra những kết luận sau:

• Đã xác định được độ ẩm trong nhân hạt gấc là 6,4%.

• Đã xác định được hàm lượng tro trong nhân hạt gấc là 8,9%.

• Đã đo phổ LC-MS của acid momordic và momordin chiết được trong hạt

gấc.Từ phổ đồ đã xác định sự có mặt của acid momordic trong cao etylaxetat và

momordin trong cao butanol.

2. Kiến nghị

Cần mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài này theo hướng:

• Khảo sát đánh giá hàm lượng các chất có trong nhân hạt gấc ở các địa

 phương khác nhau.

• Khảo sát điều kiện tối ưu chiết tách acid momordic và momordin trong nhânhạt gấc

• Khảo sát hoạt tính sinh học của acid momordic và momordin trong nhân hạt

gấc và thử ứng dụng vào trong y học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 45: LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

7/29/2019 LUẬN VĂN Nghiên cứu chiết tách Acid Momordic và Momordin trong hạt gấc thu nhận tại Đà Nẵng

http://slidepdf.com/reader/full/luan-van-nghien-cuu-chiet-tach-acid-momordic-va-momordin-trong-hat 45/45

45

1. Nguyễn Hữu Đảng, Cây thuốc Việt Nam phòng và chữa bệnh, Nhà xuất bản Văn

hoá dân tộc, 2000.

2. Thái Doãn Tĩnh, Cơ sở hoá học hữu cơ , Tập 1, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật,

2001.

3. Thái Doãn Tĩnh, Cơ sở hoá học hữu cơ , Tập 2, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật,

2003.

4. Hoàng Trong Yêm, Trịnh Thanh Đoàn, Nguyễn Đăng Quang, Dương Văn Tuệ,

 Hoá học hữu cơ , Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật, 1999.

5. Võ Văn Chi, Trần Hợp, Cây cỏ có ích ở Việt Nam, HXB Khoa học Kỹ Thuật,

2000.

6. Phan Minh Giang, Luận án Tiến sĩ khoa học hoá học,  Nghiên cứu các hợp chất 

terpenoid từ một số loài cây đặc hiệu của Việt Nam, Đại Học Khoa Học Tự Nhiên,

Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

7. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội,

Việt Nam, 2001.8. Tạp chí hoá học và ứng dụng số 7, 2004.

9. Báo khoa học và đời sống số 78/2005.

10. Internet http:// www.visitware.com/cgi/vinalink/1060845963.htm, 11/25/2005

11. Nguyễn Văn Tòng, Thực hành hoá học hữu cơ , Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục.

12. Dương Văn Tuệ, Nguyễn Hữu Khuê, Văn Đinh Đệ, Nguyễn Thị Minh Nguyệt,

Thí nghiệm hoá hữu cơ , Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, 1993.

13. Đào Hữu Vinh, Nguyễn Xuân Dũng, Trần Thị Mỹ Linh, Phạm Hùng Việt, Các

 phương pháp sắc ký, Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật, 1985.

14. Internet http://vi.wikipedia.org/wiki/Saponin .

15. Internet

http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?

 param=1470aWQ9MTc0MDAmZ3JvdXBpZD0zMSZraW5kPSZrZXl3b3JkPQ==