Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Câu 1: Bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) hãy cho biết: Chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận được thành lập vào thời gian nào? Ở đâu? Có bao nhiêu đảng viên? Bí thư Chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận là ai?............................................................................................. 1 Câu 2: Từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã tổ chức bao nhiêu kỳ đại hội? Thời gian, địa điểm diễn ra từng kỳ Đại hội? Tính đến ngày 31/12/2019, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận có bao nhiêu tổ chức cơ sở Đảng và bao nhiêu đảng viên? .................................................. 15 Câu 3: Bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) hãy chọn một trong ba nội dung sau để viết cảm nghĩ, cảm nhận của mình (bài viết ít nhất 1000 chữ): Cảm nghĩ về một tấm gương đảng viên tiêu biểu mà bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) được biết tại địa phương, cơ sở hoặc trong lịch sử truyền thống của đảng bộ địa phương. ....................................................................... 71 LỜI KẾT
78
Embed
LỜI NÓI ĐẦU - thuvienbinhthuan.com.vnthuvienbinhthuan.com.vn/ebook/90NamLichSuDang/01.pdflao, đưa dân tộc Việt Nam vững vàng bước vào thời kỳ đẩy mạnh
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Câu 1: Bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) hãy cho biết: Chi bộ cộng
sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận được thành lập vào thời gian nào? Ở
đâu? Có bao nhiêu đảng viên? Bí thư Chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh
Bình Thuận là ai?............................................................................................. 1
Câu 2: Từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã
tổ chức bao nhiêu kỳ đại hội? Thời gian, địa điểm diễn ra từng kỳ Đại
hội? Tính đến ngày 31/12/2019, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận có bao nhiêu tổ
chức cơ sở Đảng và bao nhiêu đảng viên? .................................................. 15
Câu 3: Bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) hãy chọn một trong ba nội
dung sau để viết cảm nghĩ, cảm nhận của mình (bài viết ít nhất 1000
chữ): Cảm nghĩ về một tấm gương đảng viên tiêu biểu mà bạn (đồng chí, ông,
bà, anh, chị…) được biết tại địa phương, cơ sở hoặc trong lịch sử truyền
thống của đảng bộ địa phương. ....................................................................... 71
LỜI KẾT
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
LỜI NÓI ĐẦU
Cách đây 90 năm, ngày 03/02/1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hội nghị hợp nhất
thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự tất yếu của lịch sử, là kết quả phát
triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với
chủ nghĩa Mác - Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu
một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc.
Trong 90 năm qua, giữa bộn bề gian khó do hậu quả nặng nề của chiến
tranh để lại, sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, Đảng ta luôn giữ
vững, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khởi xướng
và lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, đạt
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chưa bao giờ đất nước ta có cơ đồ
tốt đẹp như ngày nay, đời sống của nhân dân ở mọi miền Tổ quốc, dù là vùng
sâu, vùng xa hay nơi khó khăn nhất cũng không ngừng được cải thiện; bộ mặt
đô thị ngày càng văn minh, các vùng nông thôn ngày càng đổi mới; uy tín và
vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc.
Thành tựu mà dân tộc Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng thật lớn
lao, đưa dân tộc Việt Nam vững vàng bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhằm chào mừng kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (03/02/1930 – 03/02/2020), cuộc thi “Tìm hiểu về truyền thống lịch sử
90 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bình Thuận” là cơ hội
để mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân tỉnh Bình Thuận khơi dậy và bồi đắp
niềm tin, niềm tự hào đối với Đảng, Bác Hồ và công cuộc đổi mới đất nước.
Cùng nhau quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả để vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thời cơ, vận hội, phấn đấu thực hiện
thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại
hội XII của Đảng, tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Trân trọng gửi tới Ban tổ chức bài thi này.
TÁC GIẢ
1
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
BÀI THI
“Tìm hiểu về truyền thống lịch sử 90 năm
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bình Thuận”
Câu 1: Bạn (đồng chí, ông, bà, anh, chị…) hãy cho biết: Chi bộ cộng
sản đầu tiên của tỉnh Bình Thuận được thành lập vào thời gian nào? Ở
đâu? Có bao nhiêu đảng viên? Bí thư Chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh
Bình Thuận là ai?
Ngày 03/02/1930 mãi mãi là dấu son chói lọi, một cột mốc vĩ đại của
lịch sử dân tộc Việt Nam. Bởi, đó là dấu chấm hết cho những đêm dài tăm tối,
nô lệ, lầm than dưới ách thống trị của phong kiến – thực dân; chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài qua hàng chục năm. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, kể từ đó cách mạng Việt nam bước vào quỹ đạo mới,
thời kỳ mới với những chiến thắng lịch sử, vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới
ngọn cờ vẻ vang của đảng.
Việt Nam bị thực dân pháp xâm lược vào năm 1858. Sau khi xâm lược
và thôn tính toàn bộ nước ta, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế,
hà khắc và tàn bạo. Chế độ phong kiến suy tàn đã công khai câu kết và làm
tay sai cho thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh giành độc lập
dân tộc ngày càng trở nên bức thiết.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia
Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng
đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công
nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác
thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch,
gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động
yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và
ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và
thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
2
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo
dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp
địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy
nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận
địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị
thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh
giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực
tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần
dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao
gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ
bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực
dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân
phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp
bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh
mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân
tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang
đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành
quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó,
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của
nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không
mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức
hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ
XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ
XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào
nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài
mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu
3
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp
nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng
Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ
thì ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng
mới. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
(Nguồn Internet: Nguyễn Ái Quốc – Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính
lãnh đạo. Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn
4
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
đường, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp” và “Đường cách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh niên, số
đầu tiên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người từng bước truyền bá có hệ
thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân
chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển
dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3/1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D,
Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự,
Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và
Dương Hạc Đính.
Ngày 01/5/1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập
Đảng Cộng sản. Đề nghị đó không được chấp nhận. Trở về nước, ngày
17/6/1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên
bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25/7/1929 An Nam Cộng
sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9/1929 Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt
động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức
thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất
có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 03/02/1930, dưới sự
chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội
nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản (An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương
cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Liên đoàn) đã nhất trí thành lập một
đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Sự
ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các
văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông
dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân
dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược
vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
5
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở
ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác
định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam;
đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập
hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và
toàn thể dân tộc.
Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thông qua Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Kế
thừa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Luận cương Chính trị đã nêu ra cách
mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân nhằm đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc và tiến lên
giai đoạn xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Luận cương cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, cần tăng cường đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh đúng đắn,
vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những con đường cứu nước
do những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại. Chính
cương lĩnh này đã đặt nền tảng cho một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về
con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của
thực dân, phong kiến. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp
lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc có chung tư tưởng và
hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn
sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển,
bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua.
Trong chẳng đường lịch sử 90 năm, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận được hình
thành và phát triển dưới ánh sáng dẫn lối và soi đường của Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh và có nhiều đóng góp vào sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
Trước năm 1930, truyền thống yêu nước của Bình Thuận khơi dậy từ
phong trào tị địa của các sĩ phu Nam Kỳ, phong trào Cần Vương của các sĩ
phu Trung Kỳ, đến cuộc vận động Đông Du, cuộc vận động Duy Tân và các
giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Bước sang đầu thế kỷ 20, khi tiếng súng Cần Vương vừa tắt, phong trào
yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản diễn ra ở nhiều nơi trong tỉnh
Bình Thuận là đầu mối giữa Nam Bộ và Trung Bộ, là chặng đường Nam du
6
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
của các nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Các cụ Phan Bội Châu, Đặng
Nguyên Cẩn đều có dịp ghé Phan Thiết để vào Nam vận động phong trào
Đông Du. Năm 1905, ba ông Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp cùng tiến hành một chuyến tuyên truyền cho phong trào Duy Tân ở các
tỉnh Cực Nam đã lưu lại đây. Đến Phan Thiết, ông Phan Chu Trinh dưỡng
bệnh mấy tháng và tiếp xúc với hai anh em ông Nguyễn Trọng Lội là con cụ
Nguyễn Thông để bàn về "chân du khí, khai dân trí, hậu dân sinh".
Theo hướng đó, tháng 5/1906, Liên Thành thơ xã ra đời; ngày 06/6/1906
Liên Thành thương quán khánh thành và năm 1908 Dục Thanh học hiệu mở
cửa ở Phan Thiết. Tiếp đó, các hoạt động của phong trào Duy Tân phát triển ở
Tuy Phong như "Hạnh Lan Đường" Bình Thạnh (1908), Võ Ca làng Phú Tài
Hàm Thuận, "Hội Bình Thơ" ở làng Hà Thủy thuộc Hòa Đa.
Các tổ chức Duy Tân ở Hòa Đa, Tuy Phong do cụ Trương Gia Mô, một
người yêu nước cùng chí hướng với cụ Phan Chu Trinh tổ chức. Từ năm 1908
phong trào chống thuế ở một số tỉnh miền Trung bị thất bại, mặc dù các cụ
Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị đày đi Côn Đảo, cụ Trần Quý Cáp bị
án chém ở - Nha Trang, cụ Trương Gia Mô lãnh án một năm tù vì liên quan
đến vụ án Trần Quý Cáp, phong trào Duy Tân ở Bình Thuận vẫn được duy trì.
Các "Hội bình thơ" ở Phan Thiết, Hàm Thuận, Hòa Đa, Tuy Phong tập hợp
những người cùng chí hướng nghe bình giảng về các nhà chí sĩ yêu nước như
Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi ở Trung Quốc hoặc những người có tư
tưởng tiến bộ như Giăng Giắc-rút-xô, Mông-tet-ki-nơ... ở Pháp và đọc các bài
thơ yêu nước của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v... Dục Thanh
học hiệu dạy cho học trò cả chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp. Các hoạt động
của phong trào Duy Tân vận động sĩ phu, nhân dân học chữ Quốc ngữ, đọc
thơ yêu nước, cắt tóc ngắn v.v... đã khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước cho
nhiều lứa tuổi trong tỉnh.
Cuối năm 1909, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, trong hành trình vào
các tỉnh miền Nam để ra nước ngoài tìm đường cứu nước, đã dừng lại Duồng
(Tuy Phong), sau đó vào Phan Thiết dạy học ở trường Dục Thanh theo sự giới
thiệu của cụ Nghè Trương Gia Mô. Tại đây, với phương pháp dạy học tiến bộ,
Nguyễn Tất Thành giảng giải về kiến thức văn hóa và bồi dưỡng cho học trò
về ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước.
Từ trường Dục Thanh, qua các mối liên hệ giao dịch của Hội buôn Liên
Thành với các chuyến tàu biển, Nguyễn Tất Thành nghe ngóng tìm hiểu con
đường ra nước ngoài. Mùa Thu năm 1910, anh Thành rời Phan Thiết vào Sài
Gòn và ngày 05/6/1911, anh xuống tàu Amiral LaTouche Tréville sang
phương Tây. Do hoạt động của phong trào Duy Tân ở Bình Thuận có tác
động sâu sắc đến nhân dân, năm 1909 thực dân Pháp ra lệnh giải thể Liên
Thành thư xã và năm 1912 Dục Thanh học hiệu do thiếu người giảng dạy
trường tự đóng cửa. Các Thương quán ở Bình Thạnh, Phan Rí Cửa, Chí Công
7
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
tồn tại đến tháng 8/1945. Các nhóm đọc sách báo Phan Thiết, Hàm Thuận tìm
hiểu về thời cuộc qua các báo tiến bộ như : "Nhành Lúa", "Dân", "Dân chúng"
vẫn hình thành và hoạt động.
Tuy vậy phong trào yêu nước ở Bình Thuận theo hướng dân chủ tư sản,
dù có nhiều nhiệt tâm, cố gắng khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân, vẫn
không duy trì được lâu. Các hoạt động yêu nước chịu ảnh hưởng của phong
trào Đông Du, Duy Tân đã lắng xuống sau khi bùng lên lần cuối vào những
năm 1925, 1926, khi 36 học sinh lớp nhà trường tiểu học Pháp - Việt ở Phan
Thiết và một số nhân sĩ, trí thức ở Phan Thiết, Hàm Thuận, Tuy Phong bãi
khóa đòi nhà cầm quyền Pháp trả tự do cho cụ Phan Bội Châu bị kết án tử
hình và truy điệu cụ Phan Chu Trinh vừa qua đời. Những năm tháng còn lại
của thập niên 20 thế kỷ này, nhiều nhân sĩ yêu nước chưa tìm được đường lối
đấu tranh nên đã chuyển đi nơi khác sinh sống hoặc không hoạt động gì.
Lúc bấy giờ, phong trào Cần Vương và hai cuộc vận động Đông Du,
Duy Tân đã chấm dứt giai đoạn lịch sử ở nước ta cũng như ở Bình Thuận.
Những con đường cứu nước theo chủ nghĩa dân tộc thực sự bế tắc, dù nhiều
tấm lòng yêu nước, yêu dân tộc thật đáng quý đã từng qua những đêm ngày
trăn trở, thổn thức trong cảnh đất nước lầm than. Chủ nghĩa dân tộc dù mang
tính chất phong kiến hay tư sản đều không cứu nổi dân tộc. Đó là kết luận
khách quan của lịch sử. Nhưng lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân Bình
Thuận không hề tàn lụi. Ngược lại, những khi không bùng cháy lên thành
phong trào, thì nó lắng xuống âm ĩ, chờ những cơn gió mới thổi tới bùng lên
thành đám cháy khổng lồ không gì dập tắt nổi.
Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, tại tỉnh Bình Thuận,
vào đầu năm 1930, đồng chí Dương Chước (Trợ Châm), một đảng viên cộng
sản từ chi bộ Hòn Khói, Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa) đến làng Đại Nẫm (phủ
Hàm Thuận) sống trong nhà cụ Lê Trọng Thiều - thân sinh của đồng chí Lê
Trọng Mân để xây dựng cơ sở, phát triển đảng viên. Từ nhà cụ Thiều, đồng
chí tiếp xúc quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho một số thanh
niên trong hai làng Đại Nẫm, Phú Hội. Sau một thời gian xây dựng, đồng chí
kết nạp được một số đảng viên mới: Nguyễn Tỵ (nông dân), Phan Xích (làm ở
đề pô xe lửa Mương Mán), Ngô Đức Tốn1. Riêng đồng chí Ngô Đức Tốn, sau
khi tiếp thu được chủ nghĩa Cộng sản qua đồng chí Dương Chước, đã về làng
Tam Tân (nay thuộc thị xã Lagi), nơi đồng chí đang dạy học, tập hợp quần
chúng tốt trong vùng lập tổ chức "Phản đế Đồng minh Hội". “Phản đế Đồng
minh Hội”, từ một số cốt cán ban đầu, đã phát triển thêm trong thanh niên,
1 Đồng chí Ngô Đức Tốn (Giáo Tốn), sinh ở Hà Tĩnh. Năm 1928 do quan hệ quen biết trong gia đình, đồng
chí vào Đại Nẫm sống trong nhà cụ Lê Trọng Thiều. Năm 1929, đồng chí học lớp sư phạm ra trường được bổ
về dạy học ở làng Tam Tân, huyện Hàm Tân. Qua quan hệ với gia đình cụ Thiều, đồng chí tiếp cận với Lê
Trọng Mân và Dương Chước, đồng chí đã hoạt động cách mạng và xây dựng tổ chức "Phản đế Đồng minh
Hội", cuối năm 1930 phát triển đảng và thành lập Chi bộ Tam Tân. Đồng chí bị bệnh đột ngột, mất tháng
5/1931.
8
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
giáo viên trường làng, công chức và nông dân với số hội viên 30 người. Từ
những hạt nhân của "Phản đế Đồng Minh Hội", 06 quần chúng tốt đã được kết
nạp vào Đảng: Cao Có, Lê Chạy, Lê Thanh Lư, Hồ Vũ, Nguyễn Hữu Lợi,
Nguyễn Gia Bát. Trên cơ sở số đảng viên đó, cuối năm 1930, tại dốc Ông
Bằng ở làng Tam Tân (nay là xã Tân Tiến, thị xã Lagi), cuộc họp thành lập
chi bộ được tiến hành, gọi là Chi bộ Tam Tân, do đồng chí Ngô Đức Tốn làm
Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở Bình Thuận.
(Khu di tích lịch sử dốc Ông Bằng ở làng Tam Tân, nguồn Internet).
Cùng thời gian trên, đồng chí Hồ Quang Cảnh, một đảng viên cộng sản
thuộc xứ ủy Nam Kỳ từ Sài Gòn về ở ngôi nhà số 06, đường Hàn Thuyên -
Phan Thiết, tiếp tục gây cơ sở cách mạng2. Dịp hè năm 1930, đồng chí về quê
ở làng Rạng (phủ Hàm Thuận) dạy học thêm, tuyên truyền phát triển một
nhóm yêu nước gồm 06 người là giáo viên, thợ may, nông dân trong làng.
Từ mối liên lạc qua đồng chí Hồ Quang Cảnh, tháng 01/1931, một đồng
chí đảng viên người xứ Nghệ từ Sài Gòn cũng ra Phan Thiết cùng hoạt động
chung với đồng chí Cảnh. Từ Phan Thiết, đồng chí Nghệ3 bắt liên lạc với
2 Đồng chí Hồ Quang Cảnh sinh năm 1904, con của ông Hồ sĩ Lâm, quê ở Nghệ An vào Rạng (làng Thiện
Khánh - nay là xã Hàm Tiến, Phan Thiết) làm nghề dạy học và hốt thuốc chữa bệnh. Sau khi tốt nghiệp tiểu
học (Primaire), năm 1926 đồng chí vào làm ở ga tàu điện Sài Gòn, hoạt động cách mạng và trở thành đảng
viên Cộng sản. 3 Do nguyên tắc hoạt động bí mật, các đồng chí đảng viên trong tỉnh không biết rõ tên thật đồng chí nên
thường gọi đồng chí Nghệ.
9
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
đồng chí Nguyễn Thắng quê Quảng Ngãi4 vào đây sinh sống bàn thành lập
các tổ chức nông hội và kết nạp đồng chí vào Đảng. Phát huy vai trò đảng
viên, đồng chí Thắng tích cực hoạt động trong phong trào quần chúng, tuyên
truyền chủ nghĩa cộng sản cho một số trai tráng yêu nước trong làng, hình
thành tổ Nông hội có 04 hội viên gồm: Nguyễn Thắng, Nguyễn Gia Tú,
Nguyễn Đức Thắng, Phan Cao Đăng... do đồng chí Nguyễn Gia Tú làm tổ
trưởng. Đồng chí Nguyễn Thắng5 tiếp tục xây dựng tổ nông hội ghép ở ba
làng Bình An, Bình Lâm và Lại An Thượng có 06 hội viên: Nguyễn Tương,
Trần Hoành đều là thợ may làng Bình An; Nguyễn Xuân Thi (Mười Rầy),
Nguyễn Quế, Ngô Mân, Ngô Thí ở làng Bình Lâm và Hồng Ngọc Hải (Hai
Hiến), Hồng Ngọc Quang (Ba Tiếu) nông dân làng Kim Ngọc do đồng chí
Nguyễn Tương làm tổ trưởng. Qua hoạt động trong tổ chức nông hội, năm
1931, các đồng chí Nguyễn Tương, Nguyễn Gia Tú, Trần Hoành... được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam6.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
4 Theo tài liệu “Lịch sử công tác tổ chức xây dựng đảng tỉnh Bình Thuận (1930- 2014)” ghi đồng chí Nguyễn
Thắng quê Quảng Nam. 5 Theo tài liệu “Lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Bình Thuận 1930-2002” và tài liệu “Lịch
sử công tác tổ chức xây dựng đảng tỉnh Bình Thuận (1930- 2014)” ghi đồng chí Nguyễn Thắng tiếp tục xây
dựng tổ nông hội. Còn tài liệu “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận tập I (1930-1954) ghi đồng chí Nguyễn
Đức Thắng tiếp tục xây dựng tổ nông hội. 6 Đồng chí Nguyễn Gia Tú, sinh năm 1907 tại làng Tùy Hòa (nay xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc),
tham gia cách mạng từ 1931 và được kết nạp vào Đảng năm 1931.
- Đồng chí Nguyễn Tương, sinh tháng 01/1910 tại làng Bình An (nay là xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận
Bắc) tham gia cách mạng tháng 01/1931, tháng 4/1931 được kết nạp vào Đảng. Đồng chí tiếp tục tham gia
kháng chiến chống Pháp và năm 1954 tập kết ra Bắc, sau 1975 về lại Phan Thiết và mất 1981.
10
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Từ đó, các tổ chức cách mạng như Nông hội được tiếp tục phát triển ở
các làng Thiện Mỹ, An Long, Phú Trường, Phú Long, Vĩnh Hòa, Long
Thạnh, Kim Ngọc, Mỹ Thạnh... Tổ chức “Phản đế Đồng Minh Hội” ở làng
Tam Tân cũng phát triển thêm nhiều hội viên và chia thành nhiều tiểu tổ để bí
mật hoạt động. Đi đôi với phát triển Nông hội, đồng chí Nghệ phân công đồng
chí Nguyễn Gia Tú tập hợp được một số hội viên Nông hội các làng Tùy Hòa,
Kim Ngọc, Thiện Mỹ thành lập đội tự vệ để bảo vệ các cuộc họp của Đảng và
các cuộc đấu tranh của quần chúng. Về sau đồng chí Tiếu Nghi thay đồng chí
Nguyễn Gia Tú phụ trách tổ chức này. Tuy còn phôi thai, nhưng có thể nói
đây là tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên của Bình Thuận.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, chính phủ phản
động Pháp ra lệnh giải tán Đảng Cộng sản, đàn áp phong trào cách mạng
trong nước và thuộc địa. Ở Việt Nam nói chung, ở Trung Kỳ nói riêng địch đã
truy lùng bắt bớ nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng ở Xứ ủy và các tỉnh.
Trong tình hình ấy, địch ở Bình Thuận cũng ra sức đàn áp phong trào
cách mạng trong tỉnh, các đảng viên bị địch khủng bố gắt gao. Đường dây liên
lạc với Xứ ủy Trung Kỳ bị đứt. Thiếu sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần
chúng bị lắng xuống. Năm 1941, các đồng chí Lâm Đình Trúc, Phan Lợi,
Nguyễn Tương, Nguyễn Gia Tú, Nguyễn Thắng cùng các quần chúng khác
như Trần Hoành... lần lượt bị địch bắt; các đồng chí Nguyễn Tương, Phan
Lợi, Trần Hoành bị địch đày ở nhà đày Buôn Ma Thuột, Nguyễn Gia Tú,
11
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Nguyễn Thắng bị đưa đi đày ở Ly Hy (Thừa Thiên Huế). Còn đồng chí Lâm
Đình Trúc đã tránh lánh nhưng cũng bị địch bắt giam giữ ở Củng Sơn - Phú
Yên và hy sinh tại đây.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Đêm 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và chiếm hoàn toàn Đông Dương.
Để thực hiện chính sách mị dân "Người Châu Á của người Châu Á", Nhật thả
chính trị phạm ở Việt Nam, nhiều đảng viên trở về các tỉnh làm nòng cốt cho
phong trào khởi nghĩa giành chính quyền.
Tháng 4/1945, đồng chí Nguyễn Gia Tú từ trại tập trung Ly Hy (Thừa
Thiên) trở về Bình Thuận. Tiếp đó các đồng chí bị giam ở nhà lao Buôn Ma
Thuột gồm: Nguyễn Sắc Kim, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Chúc, Thái Hựu là
đảng viên quê ở tỉnh khác cùng đồng chí Nguyễn Tương về Bình Thuận hoạt
động. Theo sự hướng dẫn của đồng chí Nguyễn Tương, khi về đến làng Tùy
Hòa (nay là xã Hàm Đức), các đồng chí vào ở nhà chị Tư Quán là một cơ sở
cách mạng tin cậy được thử thách trong thời kỳ 1931, 1936, 1939 để nắm tình
hình. Tại đây, để bắt tay vào công việc, năm đồng chí nhất trí nhân công đồng
chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách chung; đồng chí Nguyễn Tương phụ trách các
huyện: Hòa Đa, Tuy Phong, Hàm Thuận và Hàm Tân chủ yếu là Hàm Thuận;
đồng chí Nguyễn Chúc cùng với đồng chí Nguyễn Tương phụ trách hai huyện
Hòa Đa, Tuy Phong; đồng chí Thái Hựu phụ trách đề pô xe lửa Mương Mán
và đồng chí Nguyễn Nhơn phụ trách Phan Thiết để móc nối liên lạc với cơ sở
cũ, gây dựng lại phong trào cách mạng của tỉnh nhà. Vào tháng 5/1945, đồng
chí Cổ Văn An và tháng 7/1945, đồng chí Nguyễn Đức Dương, Đặng Soa
12
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
cũng quê ở tỉnh khác về Bình Thuận hoạt động. Năm đồng chí về trước và ba
đồng chí về sau tuy cùng bị giam Buôn Ma Thuột, nhưng do hiểu lầm nhau,
chưa tin tưởng nhau, nên chưa thống nhất về tổ chức. Mặc dù vậy, căn cứ vào
Nghị quyết 8 của Trung ương, các đồng chí vẫn cố gắng hoạt động. Sau một
thời gian ngắn, các địa phương Hòa Đa, Tuy Phong, Hàm Thuận đã xây dựng
được một số cơ sở; Phan Thiết lập được các tổ chức Công nhân cứu quốc,
Viên chức cứu quốc, tạo điều kiện tiến tới thành lập Ủy ban vận động Việt
Minh thị xã. Đầu tháng 6/1945, năm đảng viên ở nhà lao Buôn Ma Thuột về
trước nhóm họp tại một khu rừng cách trường cao đẳng thể dục Đông Dương
(Căng Ésépic) 4km về phía nam, quyết định thành lập Ban vận động Việt
Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách
chung, đồng chí Nguyễn Tương phụ trách tổ chức - tài chính, ba đồng chí còn
lại phụ trách các huyện, ngành như trước đây. Trước mắt, hướng công tác tập
trung vào thị xã Phan Thiết, huyện Hàm Thuận và chú trọng tổ chức cơ sở
trong công nhân đề pô xe lửa Mương Mán (nơi tập trung lực lượng công nhân
trong tỉnh). Riêng đồng chí Nguyễn Sắc Kim còn có nhiệm vụ liên lạc với các
đảng viên ở Ninh Thuận để phối hợp hành động và qua đó tìm mối tiếp nhận
sự chỉ đạo của cấp trên. Một thời gian sau, huyện Hòa Đa, Tuy Phong, Hàm
Thuận, thị xã Phan Thiết đã tổ chức được các Ban lãnh đạo Việt Minh lâm
thời và xây dựng nhiều hội viên cứu quốc trong các tổ chức nông dân, lính
bảo an, ga xe lửa...
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
13
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Tuy đã xây dựng lại phong trào cách mạng, nhưng cho đến lúc này các
tỉnh Cực Nam Trung bộ vẫn chưa nhận được sự chỉ đạo của cấp trên. Để chủ
động phối hợp công tác, cuối tháng 6/1945, đại diện Việt Minh 3 tỉnh: Ninh
Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên nhóm họp tại làng Vạn Phước (Ninh Thuận)
bàn về tình hình chung, kế hoạch phối hợp hành động sắp tới và bầu ra Ban
liên lạc ba tỉnh.
Trong khi các tỉnh Cực Nam Trung bộ đã thống nhất được mối quan hệ
hoạt động; tình hình tiếp tục chuyển biến nhanh chóng. Đầu tháng 8/1945,
Hồng Quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông ở Đông Bắc Trung Quốc,
buộc Nhật đầu hàng không điều kiện. Từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị
toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang). Hội nghị nhận
định: "Cơ sở tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" và quyết định phát động
toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai
trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm 13/8, Ủy ban khởi
nghĩa toàn quốc được thành lập, ra quân lệnh số I, hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa bế mạc thì Đại hội quốc dân cũng họp tại
Tân Trào vào ngày 16/8 cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt nam (tức Chính
phủ lâm thời) do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Ở Bình Thuận, tình hình cách mạng chuyển biến mau lẹ đòi hỏi các đảng
viên ở nhà lao Buôn Ma Thuột về Bình Thuận phải thống nhất tổ chức và
hành động. Trừ ba đồng chí Soa, An, Chúc bận công tác chưa về kịp, còn các
14
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
đồng chí khác đã bí mật nhóm họp tại một chòi ruộng ở làng Bình Lâm - Hàm
Thuận quyết định:
- Thống nhất hành động giữa 8 đồng chí đảng viên, coi đây là một tập
thể lãnh đạo, chịu trách nhiệm cùng với đảng viên trong tỉnh tiến hành đấu
tranh cách mạng theo Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8. Từ đây, các
đảng viên đều hoạt động dưới danh nghĩa Việt Minh.
- Phát động quần chúng treo băng cờ, rải truyền đơn, dùng lực lượng cơ
sở ở Hàm Thuận và thị xã Phan Thiết tổ chức biểu tình thị uy gây cao trào, có
thời cơ là nổi dậy dùng bạo lực giành chính quyền.
Sau cuộc họp hợp nhất này, các cơ sở trong tỉnh thời kỳ Mặt trận dân
chủ, thời kỳ Mặt trận phản đế và quần chúng mới được gây dựng đều do Việt
Minh tỉnh lãnh đạo thống nhất.
Tối 17/8/1945, xuất hiện cờ đỏ sao vàng tung bay trước cổng tòa sứ (nay
là Ủy ban nhân dân tỉnh), trại lính bảo an (nay thuộc Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh), một số khẩu hiệu “Đả đảo Chính phủ Trần Trọng Kim”, “Tước vũ khí
quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”... được
treo tại cầu Quan (nay là cầu Lê Hồng Phong, thành phố Phan Thiết). Đây
vừa là hình thức tuyên truyền công khai, vừa có tính chất hiệu triệu, kêu gọi
nhân dân tham gia giành chính quyền.
Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng và Chính phủ
lâm thời, nhân dân Hà Nội khởi nghĩa giành được chính quyền, có tác động
đến các địa phương khác trong cả nước. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, ngày
24/8/1945 Tòa tỉnh trưởng ngụy, tay sai của Nhật đã giao chính quyền cho ta.
Ngày 25/8/1945 hàng ngàn nhân dân thị xã, nông dân vùng Hàm Thuận tập
trung về sân vận động Phan Thiết làm lễ mít tinh mừng thắng lợi. Tiếp sau đó,
lãnh đạo các huyện, Hòa Đa, Tuy Phong, Phan Lý, Hàm Tánh Linh lần lượt
huy động quần chúng cách mạng, phần đông là nông dân tham gia giành
chính quyền ở cấp phủ, huyện và xã. Ngay ngày 25/8/1945, Ủy ban nhân dân
cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập, do đồng chí Nguyễn Nhơn làm chủ
tịch. Một chế độ xã hội mới đã hình thành do dân làm chủ sau 15 năm dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
15
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Như vậy, từ năm 1930 đến cách mạng tháng 8/1945 thành công, nhân
dân Bình Thuận trải qua chặng đường 15 năm đấu tranh đã giành thắng lợi,
cùng cả nước đánh đổ chế độ phong kiến thực dân, phát xít giành chính quyền
về tay nhân dân. Trong 15 năm ấy, tổ chức Đảng Cộng sản trong tỉnh nhiều
lúc bị địch đánh phá, nhiều đảng viên bị địch bắt nên sự lãnh đạo của Đảng
không được duy trì thường xuyên, song nhân dân Bình Thuận vẫn tin tưởng đi
theo Đảng làm cách mạng. Họ vừa ủng hộ, nuôi giấu cán bộ, vừa tham gia
cách mạng, nhiều người trong họ đã trở thành đảng viên. Qua cuộc đấu tranh
sinh tử này đã gắn giai cấp công nhân với giai cấp nông dân thành một liên
minh chống giặc ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là tiền đề liên
minh trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay. Qua đó cho thấy muốn giành thắng lợi, giải phóng dân
tộc thì chỉ có đi theo con đường của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Câu 2: Từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận đã
tổ chức bao nhiêu kỳ đại hội? Thời gian, địa điểm diễn ra từng kỳ Đại
hội? Tính đến ngày 31/12/2019, Đảng bộ tỉnh Bình Thuận có bao nhiêu tổ
chức cơ sở Đảng và bao nhiêu đảng viên?
Thực hiện chủ trương của Trung ương, tháng 9/1945 Mặt trận Việt Minh
tỉnh Bình Thuận chính thức thành lập do đồng chí: Nguyễn Tương làm chủ
16
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
nhiệm, đồng chí Phan Lợi (Tư Minh) làm ủy viên thường trực7. Gắn liền với
thiết lập Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc như: Công nhân cứu
quốc, Phụ nữ cứu quốc lần lượt ra đời từ tỉnh đến các phủ, huyện, phường, xã.
Sau đó, các tổ chức: Vô sản cứu quốc, Thủy trình cứu quốc của người lao
động biển v.v... được thành lập.
Lãnh đạo chính quyền và đoàn thể từ phủ, huyện đến các xã, phường lúc
này phần nhiều là thanh niên yêu nước và các nhân sĩ trí thức tiến bộ. Chính
vì vậy, để nâng cao nhận thức về cách mạng và khả năng làm việc cho cán bộ
Việt Minh và chính quyền, các đồng chí Nguyễn Tương - chủ nhiệm Việt
Minh, Nguyễn Đức Dương tổng thư ký Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh đã tổ
chức nhiều lớp huấn luyện tại Hàm Thuận, Hàm Tân, Hòa Đa, Tuy Phong.
Trong tháng 12/1945, đồng chí Nguyễn Văn Chi được Phân ban Cực Nam
Trung bộ cử vào củng cố chính quyền tỉnh Bình Thuận, đồng chí Nguyễn Đức
Dương được cử làm chủ tịch thay đồng chí Nguyễn Nhơn và các ông Trương
Văn Thu được cử làm phó chủ tịch, Lê Trung Ngạn làm thư ký Ủy ban nhân
dân cách mạng lâm thời tỉnh.
Về Đảng, khi chuẩn bị khởi nghĩa, các đồng chí đảng viên tập hợp lại
dưới danh nghĩa Việt Minh do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách để lãnh
đạo quần chúng giành chính quyền nên chưa thành lập tổ chức Đảng. Tuy
nhiên trong nội bộ Đảng lúc bấy giờ đoàn kết chưa cao cho nên tháng
10/1945, Xứ ủy Trung Kỳ cử đồng chí Nguyễn Dân vào làm Bí thư để ổn
định tổ chức, tăng cường lãnh đạo của Đảng. Đến tháng 11/1945, trước tình
hình mới, Đảng chủ trương "tự giải tán" rút vào hoạt động bí mật. Để tuyên
truyền phát triển Đảng làm nòng cốt lãnh đạo cách mạng, Trung ương Đảng
chỉ đạo thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác hoạt động công khai ở các
cấp. Theo hướng này, đầu năm 1946, tỉnh Bình Thuận thành lập các Hội
nghiên cứu Các Mác ở Hàm Thuận, Hàm Tân, Phan Thiết... Qua hệ thống tổ
chức này việc tuyên truyền phát triển Đảng được tiến hành trong các cơ quan
kháng chiến và các địa phương8.
Cuối năm 1946, tình hình đất nước có những diễn biến phức tạp. Ngày
20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”.
7 Các ủy viên Việt Minh tỉnh có: đồng chí Thái Hậu, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Đức Dương, Nguyễn Sắc Kim,
Nguyễn Chúc, Cổ Văn An, Đặng Soa. Đến tháng 10/1945, bổ sung đồng chí Nguyễn Dân, Hứa Tự Nhung,
Nguyễn Thị Ân (Dung) vào Ban chấp hành. Tháng 12/1945, đồng chí Nguyễn Nhơn chuyển ra công tác ở Xứ
ủy Trung Kỳ.
8 Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, từ tỉnh đến các huyện, thị Phan Thiết, Hàm Thuận, Tuy
Phong, Hàm Tân đều thành lập các "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác" để tuyên truyền giác ngộ, xây dựng hạt
nhân nòng cốt của Đảng. Nhiều hội viên sau quá trình tuyên truyền giáo dục tiếp thu chủ nghĩa Mác được kết
nạp vào Cứu quốc hội. Đến quý 3 năm 1947, tỉnh Bình Thuận có 163 hội viên chính thức, 20 hội viên dự bị,
hoạt động trong 25 chi hội (gồm 17 chi hội ở các làng, 02 chi hội phường, 04 chi hội cơ quan và 02 chi hội
ghép). Về sinh hoạt, chi hội cơ sở sinh hoạt 1 tháng 3 lần, chi hội cấp huyện sinh hoạt 2 tháng 1 lần và ở tỉnh
cũng 2 tháng 1 lần. Trong số hội viên có các thành phần : công nhân chiếm 10%, trung bần nông chiếm 54%,
tiểu tư sản, trí thức chiếm 30% và phụ nữ chiếm 5%. Lực lượng hội viên trong quân đội có 33 đồng chí.
17
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Tại tỉnh Bình Thuận, đến cuối năm 1946, địch đã đóng giữ các nơi trọng yếu
và đầu năm 1947, chúng thực hiện âm mưu củng cố vùng chiếm đóng. Đồng
thời, chúng xây dựng hệ thống ngụy quyền từ tỉnh đến các thôn, xã, đưa Lưu
Bá Châm lên làm tỉnh trưởng, trọng tâm là xây dựng bộ máy tề điệp ở cơ sở
với hình thức thành lập các Hội đồng hương chính xã, thôn và các Hội đồng
này do các đồn bốt trong thôn, xã đó chỉ huy.
Hưởng ứng lời kêu gọi “toàn quốc kháng chiến” của Đảng và Bác Hồ,
quân dân Bình Thuận liên tục tấn công và gây nhiều tốn thất cho địch. Cuộc
kháng chiến càng phát triển, càng đòi hỏi tổ chức Đảng phải được xây dựng
vững mạnh. Tháng 4/1947, Tỉnh ủy Bình Thuận mở Hội nghị cán bộ Đảng tại
Triềng (nay thuộc xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc) để bàn về công tác
phát triển Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, thống nhất
lực lượng bộ đội và du kích thoát ly (du kích tập trung), phát triển kinh tế
kháng chiến, củng cố công tác tiếp tế, giữ vững giao thông liên lạc ra vùng tự
do Trung bộ và vào Nam bộ, bàn biện pháp giúp đỡ tỉnh Đồng Nai Thượng.
Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 09 thành viên trong đó
có 03 đồng chí Thường vụ, đồng chí Trần Quỳnh (Mai) làm Bí thư. Đến tháng
10/1947, đồng chí Trần Quỳnh ra Khu VI nhận công tác khác, đồng chí
Nguyễn Đức Dương thay làm Bí thư9.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
9 Đồng chí Trần Quỳnh, Bí thư Ninh Thuận, từ đầu 1947 đã được điều vào giúp Tỉnh ủy Bình Thuận củng cố
cơ quan lãnh đạo.
18
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Công tác tổ chức xây dựng Đảng giai đoạn này là phát triển đảng viên,
xây dựng các tổ chức cách mạng, tập trung lãnh đạo các lực lượng cách mạng
và nhân dân lập chiến khu, chuẩn bị lực lượng tiến hành và phát triển cuộc
kháng chiến chống Pháp. Sau khi bầu Ban Chấp hành mới, công tác phát triển
Đảng được chú ý một bước. Trên cơ sở các Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác
với mục đích tuyên truyền để phát triển Đảng trước đây, nay nhiều quần
chúng cốt cán qua thử thách được kết nạp vào Đảng. Nhiều tổ chức cơ sở
Đảng được hình thành và trong điều kiện Đảng hoạt động bí mật, các cơ quan
huyện ủy, thị ủy, tỉnh ủy vẫn gọi là Cứu quốc hội, các chi bộ gọi là chi hội và
đảng viên gọi là hội viên. Đến cuối năm 1947, số đảng viên trong toàn Đảng
bộ tỉnh Bình Thuận có 183 đồng chí.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu đảng bộ tháng 4/1947, hệ thống
chính quyền, đoàn thể cũng được củng cố một bước. Ủy ban kháng chiến
hành chánh tỉnh (khoảng năm 1949 gọi tắt là Ủy ban kháng - hành) do ông
Phạm Ngọc Cẩn làm chủ tịch, thay đồng chí Nguyễn Đức Dương lúc này ra
công tác ở Khu VI. Tháng 10/1947, đồng chí Dương vào lại làm Bí thư Tỉnh
ủy thay đồng chí Trần Quỳnh kiêm làm phó chủ tịch tỉnh.
- Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ nhất
Trong những năm 1948 - 1950, cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp có
nhiều thay đổi, lực lượng ta trưởng thành mọi mặt, liên tiếp mở các chiến dịch
lớn, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, đẩy địch vào thế bị động, lúng
túng. Sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc của nhân dân ta lúc này đang trên
đà thắng lợi. Nhiệm vụ gấp rút hoàn thành chuẩn bị mọi mặt để giành thắng
lợi lớn hơn làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta được đặt ra rất
khẩn trương. Song nhân tố quyết định để tập hợp mọi lực lượng thành sức
mạnh kháng chiến là vai trò lãnh đạo của Đảng. Do vậy, Trung ương Đảng
chủ trương tiến hành Đại hội chính thức đảng bộ các cấp nhằm củng cố tổ
chức, xây dựng Đảng vững mạnh. Thực hiện chủ trương đó, trước khi Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II vào tháng 02/1951, các tỉnh tiến hành Đại hội đại
biểu của Đảng bộ địa phương.
Ở Bình Thuận, tháng 8/1949, Đại hội đại biểu tỉnh Bình Thuận lần thứ I
khai mạc tại căn cứ Ô Rô10. Đại hội đã đánh giá các mặt công tác kháng chiến
trong thời gian vừa qua và ra Nghị quyết công tác năm 1950 về xây dựng
Đảng, kiện toàn mặt trận, đẩy mạnh công tác dân vận, chủ trương tiến vào
vùng địch hậu. Đại hội bầu Ban chấp hành 11 đồng chí (có 01 đồng chí ủy
viên dự khuyết) do đồng chí Nguyễn Diêu làm Bí thư và đồng chí Nguyễn
Đình Huề làm phó Bí thư. Các cơ quan Ban Tổ chức, Tuyên giáo, Dân vận
10 Theo tài liệu “Lịch sử công tác tổ chức xây dựng đảng tỉnh Bình Thuận (1930 – 2014)” có ghi: Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ nhất được tổ chức tại căn cứ Cốc Chua. Theo tài liệu “Lịch sử Đảng
bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954)” có ghi: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ nhất
được tổ chức tại căn cứ Ô Rô.
19
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Văn phòng Tỉnh ủy được thành lập. Tháng 3/1950, các đồng chí Nguyễn
Diêu, Trương Cừu, Phan Tấn Trình ra công tác ở Liên khu V, đồng chí
Nguyễn Đình Huề thay đồng chí Diêu làm quyền Bí thư Tỉnh ủy. Tiếp đến
đồng chí Huề đi học lớp Trường Chinh Nam Bộ, đồng chí Hồ Liên, ủy viên
thường vụ Tỉnh ủy thay đồng chí Nguyễn Đình Huề làm quyền Bí thư Tỉnh
ủy.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Để triển khai cụ thể Nghị quyết của Đại hội, từ ngày 15 đến 17/12/1949,
hội nghị Tỉnh ủy đã đi sâu bàn về phá âm mưu của địch, tổ chức lực lượng vũ
trang, tổ chức quần chúng và củng cố chính quyền. Trong công tác xây dựng
chính quyền, Đảng bộ đã chỉ đạo trọng tâm là:
- Kiện toàn cấp tỉnh.
- Đơn giản chuyên môn cấp huyện, tập trung vào Ủy ban.
- Phát triển, xây dựng cấp xã.
20
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
- Củng cố và xây dựng chính quyền thượng du.
- Chỉnh đốn lãnh đạo.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
21
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Sau đợt chiến dịch Hè, tháng 10/1950 Tỉnh ủy mở Hội nghị cán bộ Đảng
tại khu căn cứ Lê Hồng Phong11. Hội nghị kiểm điểm tình hình thực hiện
nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, phong trào du kích
chiến tranh, công tác vùng địch hậu. Hội nghị đã bầu cấp ủy gồm 11 đồng chí
do đồng chí Hồ Liên làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Đình Huề làm phó Bí thư,
kiêm chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh. Đến tháng 3/1951, đồng chí
Trương Chí Cương Bí thư Ban Cán sự Cực Nam được Liên khu ủy Khu V chỉ
định kiêm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận và đồng chí Hồ Liên, ủy viên thường
vụ tỉnh ủy, phụ trách công tác tuyên huấn, sau đó làm Bí thư huyện ủy Hàm
Thuận.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Về công tác phát triển Đảng, Hội nghị nhận thấy trong thời kỳ này chủ
trương phát triển Đảng một cách mạnh mẽ làm cho đội ngũ đảng viên trải
khắp các ngành, các vùng trọng yếu làm hạt nhân lãnh đạo cuộc kháng chiến
kiến quốc là đúng đắn. Số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng phát triển
vượt bậc. Từ số lượng đảng viên cuối năm 1949 là 2.000, đến tháng 10/1950
11 Sau khi thành lập huyện Bắc Bình, các xã Nam huyện cùng với vùng Ô Rô, Triền ... của Hàm Thuận, tỉnh
thành lập căn cứ Lê Hồng Phong, tương đương cấp huyện.
22
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
đã lên con số 8.996, gồm 2.793 đảng viên chính thức, 6.203 đảng viên dự bị,
trong đó đảng viên vùng địch hậu 735, đảng viên phụ nữ 742, đảng viên trong
dân quân 1.166, trong giao thông liên lạc 127 và trong các ngành Công an
kinh tế 250. Toàn tỉnh đã xây dựng được 78 chi bộ (gồm 29 chi bộ phường,
xã, 40 chi bộ cơ quan, 05 chi bộ xí nghiệp,0 2 chi bộ bộ đội địa phương, 01
chi bộ trường học và 1 chi bộ người Hoa). Chi bộ ít nhất có 05 đảng viên, chi
bộ nhiều nhất có 80 đảng viên. Số lượng đảng viên phát triển nhiều nhất vào
những quý I, II năm 1950. Nhiều đảng viên đã qua thử thách khói lửa chiến
tranh, đáp ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến đang đòi hỏi gay gắt, tổ
chức của Đảng nhờ đó mà lớn lên một cách nhanh chóng. Đó là một thắng lợi
chính trị rất lớn của Đảng bộ lúc bấy giờ.
- Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ hai
Bước vào năm 1952, thực dân pháp thực hiện chính sách dồn dân rào
làng và tăng cường bắt lính. Trước tình hình địch đã chuyển hướng chiến
thuật đánh phá cách mạng, sau Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng
02/1951), Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương vào cuối tháng
9/1951 đã kịp thời đề ra nhiệm vụ: "Ra sức phá âm mưu thâm độc của địch
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, kiên quyết
giành lại vùng đông dân nhiều của, biến những vùng ấy thành căn cứ kháng
chiến của ta". Về công tác vùng địch hậu, Nghị quyết lần thứ ba của Ban
chấp hành Trung ương chỉ rõ: "Chia vùng sau lưng địch thành hai vùng với
phương châm hoạt động khác nhau - vùng tạm bị chiếm lấy gây cơ sở, đấu
tranh chính trị và kinh tế làm nội dung chính, vùng du kích lấy đấu tranh vũ
trang là chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kinh tế".
Quán triệt Nghị quyết của Trung ương, Liên khu ủy Khu V đã mở 3 lần
hội nghị (lần 1 vào tháng 02/1952, lần 2 vào tháng 10/1952 và lần 3 vào tháng
5/1953) để kiểm điểm tình hình và đề ra các chủ trương, nhiệm vụ cho Đảng
bộ các tỉnh. Các nghị quyết đều chú trọng vào việc đẩy mạnh công tác vùng
sau lưng địch, xây dựng cơ sở, mở rộng và củng cố vùng du kích, phát triển
du kích chiến tranh và bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.
Để làm chuyển biến tình hình cách mạng ở các tỉnh Cực Nam Trung bộ,
Ban Cán sự Cực Nam đã chủ trương: phân tán nhỏ lực lượng, đi sâu vào hoạt
động trong lòng địch, tập trung sức bảo vệ mùa màng, chỉnh huấn cán bộ,
chiến sĩ nhằm bồi dưỡng tư tưởng kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện.
Tuyển lựa cán bộ có phẩm chất và sức khỏe tốt đưa xuống bám phong trào,
bám dân để hoạt động, tập trung đẩy mạnh du kích chiến tranh và làm tốt
công tác xây dựng Đảng. Mặt khác, mở rộng vùng căn cứ miền Tây của tỉnh
Bình Thuận sau khi vùng đồng bằng Tam Giác (Hàm Thuận) bị địch càn quét,
cắt đường giao thông từ Bắc vào Nam, từ Khu Lê Hồng Phong lên căn cứ
miền Tây. Năm 1952, Ban Cán sự Cực Nam xác định chiến trường gây cơ sở
chính ở Cực Nam là Lâm Đồng, tập trung chỉ đạo và xây dựng Bình Thuận
23
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
làm bàn đạp, vì vậy chuyển giao huyện Di Linh của tỉnh Lâm Đồng cho Bình
Thuận.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Để triển khai các chủ trương trên, tháng 8/1952, tại căn cứ Khu Lê Hồng
Phong, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II được tổ chức. Đại hội tập
trung thảo luận báo cáo chính trị về: Rèn luyện tư tưởng, bảo đảm nhiệm vụ
sắp tới. Báo cáo đã nêu lên những ưu, khuyết điểm các mặt hoạt động những
năm qua, đánh giá lại các mặt chỉ đạo nêu lên thành tích cần phát huy cũng
như các vấn đề còn tồn tại cần giải quyết, khắc phục. Trong phong trào đấu
tranh chống càn quét, dồn dân, về cơ bản, ta giữ được vùng du kích Hàm
Thuận, cùng một số vùng khác, gây dựng được nhiều cơ sở ở Tánh Linh và ổn
định được vùng núi Bắc Bình. Về tăng gia sản xuất, ta thực hiện vượt chỉ tiêu
đề ra. Năm 1951 thu tăng 30% so với năm 1950. Các cơ quan, đơn vị tự túc
được 50% lương thực. Về tấn công tiêu diệt sinh lực địch trong 20 tháng ta
diệt gần 2.000 tên, thu nhiều vũ khí và chiến lợi phẩm khác, đặc biệt tổ chức
được nhiều trận đánh lớn. Song, Đại hội cũng nêu ra mặt hạn chế như các khu
du kích chưa vững chắc, thậm chí một số nơi còn thu hẹp. Công tác dân vận
và công tác vùng tạm bị chiếm ít tiến bộ. Tổ chức Đảng số lượng lớn, chất
lượng chưa cao. Nhiều đảng viên còn quan liêu xa rời quần chúng. Công tác
24
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
quân sự còn nặng về quy mô hình thức, chưa chuyển kịp theo yêu cầu và
nhiệm vụ. Đồng thời, Đại hội cũng thông qua 02 nhiệm vụ và 04 vấn đề cốt tử
mà Đảng bộ phải lãnh đạo thực hiện trong thời gian tới. Hai nhiệm vụ đó là :
- Tích cực tranh thủ đoàn kết nhân dân, phát triển du kích chiến tranh,
chống âm mưu dồn dân bắt lính của địch, bồi dưỡng lực lượng ta.
- Gắn chặt với quần chúng để xây dựng Đảng trong sản xuất và chiến đấu.
- Về 04 vấn đề cốt tử là :
+ Rèn luyện tinh thần cách mạng và thực hành cách mạng.
+ Trau dồi đạo đức cách mạng.
+ Đảng chỉ đạo quân sự và phát triển du kích chiến tranh.
+ Đoàn kết nhân dân.
Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ khóa mới gồm 17 ủy viên; đồng
chí Nguyễn Côn Thường vụ Liên khu ủy, Bí thư Ban Cán sự Cực Nam, kiêm
Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận. Đồng chí Nguyễn Gia Tú, phó Bí thư, Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh. Năm 1953, đồng chí Nguyễn Tương ở
Liên khu V về được bổ sung vào Tỉnh ủy và thay đồng chí Nguyễn Gia Tú
làm chủ tịch, đồng chí Nguyễn Gia Tú vẫn làm phó Bí thư Tỉnh ủy12.
Nhiệm vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng lúc này là tập
trung “rèn cán, chỉnh quân”, mở lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ, đảng
viên “thi đua phát triển đảng”, xây dựng nhân tài, vật lực cho kháng chiến. Từ
năm 1950 - 1952 công tác đảng vụ đã giúp cấp ủy làm các nhiệm vụ mở lớp,
giảng bài cho cán bộ, đảng viên các huyện, ban, ngành, đoàn thể; đồng thời
triển khai truyền đạt phổ biến các chủ trương của Đảng, Chính phủ như “tích
cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”, “thi đua phát triển Đảng
đông đảo và mạnh mẽ”, “Phát động nhân tài, vật lực” cho chiến dịch Hè 1950,
chiến dịch Đông Xuân 1950 - 1951; tuyên truyền Đảng Lao động Việt Nam ra
hoạt động công khai (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam); tuyên truyền Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ II (tháng 8/1952).
12 Đến cuối năm 1953, toàn tỉnh có 6.140 đảng viên. Trong vùng tạm bị chiếm, mỗi xã có từ 30 đến 40 đảng
viên. Các xã trong khu tập trung của địch, tổ chức và hoạt động của Đảng gặp rất nhiều khó khăn, nhưng
cũng có trên dưới 10 đảng viên. Trong lực lượng vũ trang, tỷ lệ đảng viên chiếm 50%. Các tổ chức chi bộ
được củng cố, hoạt động có chất lượng hơn. Huyện Hàm Tân có 17 chi bộ, Khu Lê Hồng Phong có 11 chi bộ,
Hàm Thuận có 26 chi bộ…
25
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 1, 1930 – 1954).
Bước vào giai đoạn năm 1953, với thắng lợi chiến dịch Đông Xuân mà
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp ký Hiệp định
Giơnevơ vào ngày 20/7/1954, công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
của nước Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương. Thi hành Hiệp
định, nước ta tạm thời chia thành hai miền. Miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra)
được hoàn toàn giải phóng, Miền Nam tạm thời do chính quyền Liên hiệp
Pháp quản lý và 2 năm sau (20/7/1954 - 20/7/1956) hai miền Nam - Bắc sẽ
tiến hành Hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
Trước khi ký Hiệp định Giơnevơ (07/7/1954), Mỹ đã đưa Ngô Đình
Diệm về nước làm thủ tướng, Diệm phát động chiến dịch tố cộng từ cuối năm
1954. Tiếp đó Mỹ hất cẳng Pháp, đạo diễn cho Diệm từ chối hiệp thương tổng
tuyển cử (17/7/1955), truất phế Bảo Đại lên làm Tổng thống (23/10/1955),
tuyên bố xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ (3/1956), đặt Cộng Sản ra ngoài vòng
26
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
pháp luật, ra luật 10/59, đưa máy chém lê khắp miền Nam, công khai giết hại
nhiều đồng bào yêu nước của ta.
Tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ với diện tích 6.700km2, dân số 187.000
người, nhiều vùng đất đai rộng lớn được giải phóng như các huyện Hàm Tân,
Lê Hồng Phong, Tánh Linh; vùng du kích, vùng bản lề được mở rộng và
nhiều nơi trong vùng địch tạm chiếm, ta đã xây dựng được chính quyền, đoàn
thể bí mật. Theo quy định của Ban Liên hiệp định chiến, từ 0 giờ ngày
01/8/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực trên vùng đất Cực Nam Trung
bộ. Và Bình Thuận có 80 ngày để chuẩn bị cho việc chuyển quân tập kết. Lúc
đầu ta và địch thỏa thuận địa điểm tập kết tại huyện Lê Hồng Phong, nhưng
sau đó địch đề nghị chuyến về Hàm Tân nên đã làm cho ta gặp khó khăn
trong việc vận chuyển vũ khí, trang thiết bị và chuẩn bị lương thực. Song, với
tinh thần thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, ta vẫn hoàn tất chuyển
quân từ huyện Lê Hồng Phong vào Hàm Tân đúng thời gian quy định.
Nhưng với bản chất ngoan cố và âm mưu xâm lược nước ta từ trước, đế
quốc Mỹ phá hoại Hiệp định, đưa quân vào xâm lược miền Nam nước ta,
quân dân Bình Thuận dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã cùng nhân dân miền
Nam, nhân dân cả nước tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đầu
năm 1955, Diệm cho thành lập tổ chức phong trào cách mạng quốc gia, Đảng
cần lao nhân vị, xây dựng bộ máy chính quyền xã, ấp, công an, cảnh sát, mật
vụ và cho tiến hành liên miên nhiều chiến dịch tố cộng suốt từ 1955 đến ngày
Diệm sụp đổ (1963). Trong các chiến dịch tố Cộng, địch dùng nhiều thủ đoạn
vô cùng ác độc, nham hiểm để đánh phá phong trào cách mạng. Chúng cưỡng
bức, đàn áp, bắt bớ, giam cầm, tra tấn, tù đày, giết hại hàng ngàn cán bộ
chuyển ra hợp pháp và cơ sở cách mạng. Ở bên ngoài ấp chiến lược, địch
dùng lực lượng cộng hòa, bảo an, dân vệ, hàng năm mở hàng trăm cuộc càn
quét lớn nhỏ vào vùng căn cứ miền núi, vùng mới giải phóng, vùng ven như
chiến khu Lê Hồng Phong, phía Tây Hòa Đa, Phan Lý, Hải Ninh, Hàm
Thuận, Nam Bắc Hàm Tân, Tánh Linh, Hoài Đức để cưỡng bức, dồn đồng
bào các dân tộc miền núi vào các khu tập trung để chúng khống chế, tách dân
ra khỏi cách mạng. Với thủ đoạn đánh phá trên, địch gây cho ta nhiều thiệt hại
to lớn. Hàng ngàn cán bộ đảng viên trung kiên và cơ sở cốt cán bị bắt tù đày,
bị giết hại, trong đó có cả một số đồng chí là Tỉnh ủy viên, huyện ủy viên.
Đến cuối năm 1960, cơ sở cách mạng gần như bị xóa trắng ở Tuy Phong, Hòa
Da, Phan Lý. Chỉ có Phan Thiết, Hàm Thuận, Hàm Tân có một số ít cơ sở
nhưng lực lượng bên ngoài liên lạc rất khó khăn.
Trước tình hình địch không thi hành Hiệp định Giơnevơ, trong tháng
8/1954, cùng với việc chuẩn bị cho công tác tổ chức chuyển quân tập kết ra
miền Bắc, tỉnh bố trí phân công cán bộ ở lại. Tháng 9/1954, Tỉnh ủy Bình
Thuận họp tại Xóm Rẫy (xã Tân Thuận - Hàm Thuận Nam) để bàn công tác
cán bộ, sắp xếp lại tổ chức gọn nhẹ phù hợp với tình hình mới và lãnh đạo
27
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
nhân dân đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ. Chủ trì và tham dự
cuộc họp có các đồng chí Trần Lê, Bí thư Ban Cán sự Đảng Liên tỉnh III,
kiêm Bí thư tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Gia Tú, Phó Bí thư và các đồng chí
Tỉnh ủy viên: Lê Văn Triều, Nguyễn Tế Nhị (Sinh), Nguyễn Văn Tiềm
(Tiên), Võ Xuân Viên và Nguyễn Quế (Mỹ). Hội nghị nhất trí phân công các
đồng chí phụ trách các huyện, thị (chưa gọi là Bí thư): Đồng chí Nguyễn Tế
Nhị phụ trách thị xã Phan Thiết; đồng chí Nguyễn Văn Tiềm phụ trách huyện
Hàm Tân; đồng chí Lê Văn Triều phụ trách huyện Tánh Linh; đồng chí
Nguyễn Quế phụ trách huyện Hàm Thuận; đồng chí Lê Thanh Hải (Mười
Râu) phụ trách huyện căn cứ Lê Hồng Phong; đồng chí Nguyễn Quý Kỳ phụ
trách huyện Bắc Bình; đồng chí Huỳnh Hà phụ trách Miền A; đồng chí
Nguyễn Chay phụ trách Phan Lý; đồng chí Nguyễn Xuân Du (Tám Cảnh) phụ
trách Di Linh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
Sau cuộc họp ở Hàm Tân, cơ quan Tỉnh ủy chuyển về đóng ở Đá Mài
Núi Ông (Tánh Linh) và đầu 1955 chuyến về Salôn (Di Linh). Đến tháng
3/1955, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị mở rộng tại Salôn. Tham dự hội nghị có các
đồng chí Trần Lê, Võ Dân (Liên tỉnh ủy viên - Liên tỉnh III), Nguyễn Gia Tú,
28
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Nguyễn Tế Nhị, Nguyễn Văn Tiềm, Nguyễn Quế, Võ Xuân Viên, Lê Văn
Triều, Huỳnh Hà, Lê Thanh Hải, Nguyễn Xuân Du, Tự (Lai), Trang (Hoàng
Từ). Hội nghị đánh giá lại tình hình, đồng thời bàn việc ổn định tổ chức và hệ
thống chỉ đạo, thông tin liên lạc từ tỉnh đến cơ sở; quyết định mỗi huyện, thị
thành lập Ban cán sự Đảng để chỉ đạo. Đồng thời đối với cơ sở, các huyện thị
chia thành vùng hoặc miền. Và hình thành các ban cán sự vùng miền để bí
mật bám sát dân để chỉ đạo. Lúc đó, Phan Thiết chia thành 02 vùng tả ngạn và
hữu ngạn; Căn cứ khu Lê Hồng Phong đổi thành vùng 3; Các huyện Hòa Đa,
Phan Lý, Tuy Phong gọi là vùng 5.
Tháng 8/1955, tại Rừng Ngang (thuộc huyện Lê Hồng Phong) Ban Cán
sự Liên tỉnh III tổ chức hội nghị để bàn về nội dung, hình thức đấu tranh
chống địch. Sau đó, Tỉnh ủy Bình Thuận quán triệt chủ trương của Liên tỉnh
về tình hình và phương châm, phương pháp đấu tranh cho cán bộ trong tỉnh.
Nhiều hình thức đấu tranh đòi Hiệp thương tổng tuyển cử đã diễn ra. Các địa
phương như Miền A, huyện Hàm Thuận đấu tranh với địch bằng cách ký vào
kiến nghị, cử đại diện đến gặp xã trưởng, quận trưởng đề nghị giải quyết các
yêu sách của quần chúng, còn các địa phương khác như Duồng, Phan Rí... vận
động tập hợp quần chúng đấu tranh trực diện với địch.
Nhiều địa phương khác thuộc Liên khu V cũng diễn ra các cuộc đấu
tranh, nơi đưa kiến nghị, nơi đấu tranh trực diện, đã làm cho phong trào cách
mạng của quần chúng gặp khó khăn tổn thất. Trước tình hình đó, Liên khu ủy
V chủ trương đấu tranh đòi dân sinh dân chủ là chính để phù hợp trong tình
hình mới. Tháng 5/1956, tại căn cứ Salôn, Tỉnh ủy Bình Thuận đã mở hội
nghị để nghe đồng chí Trần Hoài Nam (tức Nhĩ, Hai Râu) - Khu ủy viên phổ
biến chủ trương của Liên khu. Hội nghị quán triệt phương pháp đấu tranh theo
chỉ thị của Liên khu ủy V: Để tránh tổn thất cho phong trào, tổ chức đấu
tranh không được bộc lộ lực lượng, không tổ chức biểu tình. Các cuộc đấu
tranh phải mang nội dung đòi dân sinh, dân chủ. Tháng 6/1956 theo chỉ đạo
của Liên khu ủy V, đồng chí Võ Dân - Ủy viên Ban Cán sự Liên tỉnh III làm
Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận thay đồng chí Trần Lê. Cũng vào thời điểm này
cơ quan Liên tỉnh III từ sau 1954 đóng tại Bình Thuận, nay chuyến ra căn cứ
Bác Ái (Ninh Thuận). Cơ quan Tỉnh ủy Bình Thuận cũng từ Salôn (Di Linh)
chuyển về huyện Lê Hồng Phong để thuận tiện cho việc tiếp nhận sự chỉ đạo
của Liên tỉnh. Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn tình hình gặp nhiều khó
khăn, cơ quan Tỉnh ủy lại chuyển về Ara (thuộc huyện Di Linh).
29
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
Vào cuối 1957 đầu 1958, giữa lúc đang lúng túng về phương châm,
phương pháp đưa phong trào cách mạng của quần chúng phát triển, Tỉnh ủy
Bình Thuận đã nhận được "Bản đề cương cách mạng Miền Nam" do đồng chí
Lê Duẩn soạn thảo từ tháng 7/1956. Đồng thời Khu ủy Liên khu V chủ trương
cho các tỉnh Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng xây dựng lực lượng
với nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ và vũ trang diệt bọn phản động ác
ôn... Trên tinh thần đó vào đầu năm 1958, đồng chí Võ Dân - Bí thư Tỉnh ủy
triệu tập một cuộc họp có các đồng chí Nguyễn Chay, Đặng Chế Hoa phụ
trách huyện Phan Lý, Nguyễn Xuân Du - Bí thư huyện Di Linh, Lê Văn Triều
- Bí thư Tánh Linh bàn việc thành lập Ban Cán sự miền Tây. Tỉnh ủy chỉ định
đồng chí Lê Văn Triều làm Bí thư Ban Cán sự, Ban Cán sự miền Tây tỉnh
Bình Thuận có nhiệm vụ xây dựng căn cứ làm hậu cứ cho phong trào cách
mạng của tỉnh. Ban Cán sự Miền Tây thành lập Ban công tác Phan Lý Chàm
(ban này thay thế cho huyện ủy), có các đồng chí Nguyễn Chay, Đặng Chế
Hoa, Tạ Đức Mạnh, do đồng chí Nguyễn Chay làm Bí thư. Ban công tác Phan
Lý Chàm chia thành hai bộ phận phụ trách vận động cách mạng trong hai
30
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
vùng có đồng bào Chăm và đồng bào Thượng sinh sống. Đến tháng 12/1958,
Ban Cán sự Miền Tây họp bàn công tác xây dựng căn cứ, xây dựng cơ sở. Sau
cuộc họp này, đồng chí Nguyễn Chay, Đặng Chế Hoa trở về Phan Lý bị địch
bắt ngày 15/12/1958 và đến ngày 23/12/1958 đồng chí Tạ Đức Mạnh cũng bị
địch bắt. Như vậy Ban công tác Phan Lý Chàm không còn tồn tại.
Sau hội nghị thành lập Ban Cán sự Miền Tây, tháng 4/1958 đồng chí Võ
Dân, Bí thư Tỉnh ủy bí mật về Phan Thiết sắp xếp lại sự chỉ đạo cơ sở nội
thành và đến giữa tháng 5/1958 về lại căn cứ, bị bệnh mất ngày 19/5/1958,
Đồng chí Võ Dân mất đi là một tổn thất cho Tỉnh ủy Bình Thuận, cũng như
Ban Cán sự Liên tỉnh III. Lúc này trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ còn đồng
chí Lê Văn Triều nên việc lãnh đạo, chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Trước
tình hình đó, Ban Cán sự Liên tỉnh III, báo cáo Khu ủy Liên khu V đề nghị
đồng chí Nguyễn Gia Tú ở lại công tác, và phân công phụ trách Tỉnh ủy Bình
Thuận. Tháng 8/ 1958, đồng chí Lê Văn Hiền, ủy viên thường trực Ban Cán
sự Liên tỉnh III từ Bác Ái (Ninh Thuận) vào gặp đồng chí Nguyễn Gia Tú, Lê
Văn Triều họp bàn củng cố tổ chức và bổ sung đồng chí Hoàng Từ, Nguyễn
Quý Đôn vào Tỉnh ủy. Đồng thời điều động các đồng chí ở Hàm Tân như:
Nguyễn Ngô (Ninh) về phụ trách Miền A thay đồng chí Huỳnh Hà, Hồ Đức
Hậu hy sinh trong năm 1957, đồng chí Trần Văn Tình được tăng cường cho
mảng Bắc Bình, đồng chí Nguyễn Thiện Chính (Hai Năng) về công tác Tánh
Linh và đồng chí Nguyễn Quý Đôn làm Bí thư thị xã Phan Thiết thay đồng
chí Trần Soạn bị địch bắt và hy sinh.
Từ tháng 8/1954 đến cuối 1959, phong trào cách mạng Bình Thuận có
lúc gặp nhiều khó khăn, tổn thất, hy sinh. Nhưng từ khi có Nghị quyết 15 của
Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh vũ trang và chính trị của tỉnh có bước
phát triển. Trong đó trận đánh diệt chi khu, quận lỵ và khu tập trung Hoài Đức
- Bắc Ruộng đã tạo điều kiện cho hoạt động diệt ác, phá kèm góp phần vào
phong trào đồng khởi ở miền Nam giành thắng lợi mới.
Thực hiện Nghị quyết 15 Trung ương Đảng (khóa III), phong trào cách
mạng miền Nam đã có những bước phát triển. Phong trào đồng khởi Nam Bộ
và một số tỉnh ở Liên khu V thu được nhiều thắng lợi. Trong đó cuộc đồng
khởi của tỉnh Bến Tre và trận diệt một trung đoàn lính ngụy ở Tua Hai (tỉnh
Tây Ninh) đã khiến cho địch hoang mang, dao động, nội bộ mâu thuẫn; quần
chúng cách mạng phấn khởi. Tháng 01/1960, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra Chỉ thị về phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ miền Nam.
Trong đó, xác định những vấn đề cụ thể để củng cố và phát triển phong trào,
xây dựng lực lượng, chuẩn bị điều kiện để lật đổ Mỹ - Diệm khi có thời cơ.
Tháng 3/1961, Hội nghị Liên tỉnh III đề ra chủ trương phát động quần
chúng giành lại nông thôn vùng đồng bằng "Ra sức đánh phá chính quyền
thôn, xã làm tan rã các lực lượng chính trị và vũ trang phản động của địch ở
cơ sở, giải phóng quần chúng khỏi ách kèm kẹp, xây dựng thực lực chính trị
31
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
và vũ trang quần chúng, tạo điều kiện từng bước tiến lên xây dựng căn cứ địa
cách mạng ở những vùng có điều kiện cả nông thôn, đồng bằng".
Đối với Bình Thuận, từ sau chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng, các cơ
sở của ta dần được khôi phục. Tháng 5/1961, Liên tỉnh III điều đồng chí Lê
Văn Hiền về làm Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận. Tỉnh ủy lúc này có: Đồng chí
Lê Văn Hiển - Bí thư, đồng chí Nguyễn Gia Tú - Phó Bí thư và các đồng chí
Hoàng Từ, Lê Văn Triều, Nguyễn Quý Đôn, Trần Như Khuôn, Lê Thanh Hải
(năm 1964 bị bệnh chết) - ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Tiểm chuẩn bị ra
miền Bắc. Cũng trong thời gian này các đồng chí Nguyễn Thiết Hoàng (Bái),
Nguyễn Xuân Du (Cảnh) Phạm Hoài Chương (Nam) được bổ sung vào Ban
Chấp hành. Về xây dựng Đảng bộ, đến tháng 8/1961 toàn tỉnh có 296 đảng
viên, sinh hoạt trong 13 chi bộ cơ sở (chưa tính số chi bộ miền núi), trong đó
có một chi bộ vùng tạm bị chiếm. Lúc này cơ quan Tỉnh ủy đóng ở núi Pô
Cao (nay thuộc xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng).
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
32
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Trước khi vào đợt hoạt động trong mùa Thu 1968, được sự đồng ý của
Miền, giữa tháng 8/1968, Khu ủy Khu VI quyết định sát nhập 3 huyện Hòa
Đa, Tuy Phong, Phan Lý của tỉnh Bắc Bình vào Bình Thuận, chuyển huyện
K.67 về tỉnh Tuyên Đức và tách các huyện Hàm Tân13, Tánh Linh, Hoài Đức
thành lập tỉnh Bình Tuy (thống nhất theo địa lý, hành chính của địch). Khu ủy
Khu VI chỉ định Tỉnh ủy Bình Tuy có 03 đồng chí: Lê Khắc Thành làm Bí
thư, Trần Văn Tình phụ trách công tác Đảng, Nguyễn Thanh Đức (Tư Thanh)
làm tỉnh đội trưởng. Đại đội 489 của tỉnh Bắc Bình được chuyển về Bình Tuy
đổi thành Đại đội 488. Hội nghị Tỉnh ủy Bình Tuy lần đầu tiên vào ngày
10/9/1968 phân công đồng chí Nguyễn Thọ (Hiển) làm Chánh Văn phòng,
đồng chí Phạm Diêu (Tùng) phụ trách an ninh, đồng chí Nguyễn Quang
Tưởng phụ trách thanh niên, đồng chí Nguyễn Thị Hòa phụ trách Hội phụ nữ,
đồng chí Mười Hà phụ trách nông hội, đồng chí Hùng phụ trách kinh tài. Bí
thư các huyện vẫn giữ nguyên như trước đây. Cơ quan Tỉnh ủy đóng ở phía
Nam dưới chân Núi Ông (Tánh Linh).
Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy Bình Thuận cũng có sự thay đổi.
Đồng chí Nguyễn Thiết Hoàng hy sinh đầu năm 1968, đồng chí Nguyễn Xuân
Thắng (Trà) chuyển về Khu (năm 1967) và đồng chí Nguyễn Văn Bốn bị địch
bắt trong đợt tổng tấn công Mậu Thân (năm 1968). Đồng thời thời gian từ
cuối năm 1967 đầu năm 1968 Tỉnh ủy bổ sung thêm đồng chí Hoàng Minh,
Phạm Kha. Đến tháng 7/1968, đồng chí Lê Văn Hiền, Bí thư Tỉnh ủy được
điều về công tác ở Khu 6, đồng chí Nguyễn Gia Tú thay làm Bí thư. Đồng
thời Khu VI bổ sung đồng chí Lê Thứ (Mười Bắc) về Tỉnh ủy Bình Thuận.
Như vậy lúc này Tỉnh ủy Bình Thuận có các đồng chí: Nguyễn Gia Tú, Lê
Thứ (Mười Bắc), Nguyễn Quý Đôn, Nguyễn Ninh (Ngô), Trần Văn Lương
(Nhuận), Phạm Hoài Chương, Trần Thọ, Mai Cách (Hân), Nguyễn Thanh
Tâm (Rợ), Nguyễn Hưng (Ích), Hoàng Minh (năm 1969 không còn Tỉnh ủy),
Phạm Kha (năm 1969 chuyển về Khu VI, đồng chí Trần Thọ thay), Nguyễn
Như (Hải) – Tỉnh ủy viên dự khuyết; đồng chí Nguyễn Gia Tú Bí thư, đồng
chí Lê Thứ (Mười Bắc) - Phó Bí thư. Cơ quan Tỉnh ủy Bình Thuận về đóng ở
trên đồi Gió Lạnh (Tánh Linh).
13 Cuối tháng 8/1968 Hàm Tân tách ra thành Ban cán sự Lagi và huyện Hàm Tân
33
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
Từ tháng 10/1967 đến tháng 6/1968, Tỉnh ủy phát động ba đợt phát triển
đảng viên mới: đợt mùa Đông 1967, đợt mùa Xuân 1968 và đợt phát triển
đảng viên lớp Hồ Chí Minh (từ tháng 02 đến tháng 6 năm 1968), đã bổ sung
nhiều quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngay như vùng tạm bị chiếm quý 3 năm
1967 chỉ có một số đảng viên, nhưng đến quý 2/1968 đã có 35 đảng viên. Đến
34
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
tháng 6/1968 toàn tỉnh đã có 1689 đảng viên, sinh hoạt trong 158 chi bộ (phát
triển 450 đảng viên mới, tăng 20 chi bộ so với quý III/1967). Các chi bộ đã
nâng cao chất lượng sinh hoạt và hoạt động theo tinh thần xây dựng chi bộ tự
động công tác và trong lực lượng vũ trang phát động xây dựng chi bộ 3 tốt,
đảng viên 3 tốt. Hầu hết các chi bộ, đảng viên giữ được vai trò tiền phong,
gương mẫu, chiến đấu ngoan cường dũng cảm, bám sát quần chúng xây dựng
phong trào.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân Bình
Thuận và Bình Tuy đang trải qua những khó khăn, gian khổ, đầy thử thách,
nhưng đã giành được thắng lợi bước đầu, thì nhận được tin Bác Hồ qua đời!
Một không khí đau thương bao trùm lên khắp các xóm làng đồng ruộng, núi
rừng, buôn rẫy, kể cả trong vùng địch tạm kiểm soát. Cùng với cả nước, mọi
tấm lòng của đồng bào Cực Nam Trung bộ nói chung, của đồng bào Bình
Thuận, Bình Tuy nói riêng đều hướng về thủ đô Hà Nội - nơi toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta đang làm lễ truy điệu và để tang Bác. Ngay trong vùng địch
kiểm soát, bất chấp mọi ngăn cấm của địch, nhiều gia đình tự lập bàn thờ và
để tang Bác Hồ. Tổ chức Phật giáo Bình Thuận cũng tổ chức lễ thuyết pháp
tưởng nhớ đến Người.
Thay mặt toàn thể đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc
trong tỉnh, Tỉnh ủy Bình Thuận, Bình Tuy gởi điện lên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng hứa quyết tâm học tập tư tưởng đạo đức và tác phong của Hồ Chủ
Tịch. Và hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng "...
biến đau thương thành hành động cách mạng", quân dân Bình Thuận và Bình
Tuy dấy lên phong trào liên tục tấn công địch, diệt ác, phá kèm và giành
quyền làm chủ.
- Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ III
Sau hoạt động Hè 1970, lần đầu tiên sau hơn 15 năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, từ ngày 10 đến 15/7/1970 tại vùng căn cứ Salôn (Di Linh)
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ I (nay là lần III).
Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh (từ cuối 1954 đến tháng
6/1970) và bầu ra Ban chấp hành mới gồm 17 đồng chí, do đồng chí Lê Thứ
(Mười Bắc) Khu ủy viên làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Quý Đôn làm Phó Bí
thư. Các đồng chí Nguyễn Ninh (Ngô), Trần Văn Lương, Phạm Hoài Chương,
Hồ Phú Diễn được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy. Tỉnh ủy viên gồm các đồng
chí Nguyễn Nhẫn (Tố), Lê Văn Nhật, Nguyễn Hội, Vũ Ngọc Đài, Nguyễn
Thanh Tâm (Rợ), Trần Thọ, K’Công, Nguyễn Hưng, Nguyễn Như (Hải), Mai
Cách (Hân), Đặng Bá Sang (Luông). Năm 1972 bổ sung đồng chí Vũ Đức
Nhi vào Tỉnh ủy và năm 1973 đồng chí Phạm Hoài Chương chuyển về Khu
VI, đồng chí Nguyễn Hội được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy (cuối năm 1973
ra miền Bắc công tác), đồng chí Nguyễn Xuân Thắng (Trà) từ miền Bắc về
được bổ sung vào Tỉnh ủy.
35
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
36
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Bước sang năm 1974, địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu bình định lấn
chiếm mới và kế hoạch hậu chiến một cách khẩn trương. Với khẩu hiệu:
"Trên hòa bình, dưới chiến tranh"; chúng tập trung sức lực để mở rộng phạm
vi kiểm soát, khai khẩn đất hoang, di dân lập ấp, nhằm đẩy lực lượng của ta ra
xa. Từ tháng 02 đến tháng 6/1974, chúng đưa hơn 12.000 dân từ Campuchia
về lập khu tập trung ở khu vực Nam Căng ESEPIC và 6.500 đồng bào Quảng
Ngãi vào Sông Lũy (Bình Thuận). Cùng với kế hoạch chuyển dân, địch đi phá
hơn 3.076 hecta rừng để phục vụ cho mục đích ấy. Ở bên ngoài, địch liên tiếp
mở những cuộc càn quét đánh phá ác liệt vào các khu vực như Tam Giác,
Hàm Phú, Thuận Phong. Chúng thường dùng bọn thám sát, thám báo, cảnh
sát cải trang cùng các hoạt động biệt kích nhỏ lẻ đánh sâu vào vùng bàn đạp
và vùng giải phóng phía tây đường số 8, nam Hàm Thuận, Thuận Phong và
nam, bắc Hòa Đa. Ở bên trong từ tỉnh xuống xã, chúng tiến hành thay thế
những tên ngụy quyền bị nghi ngờ và thay vào đó là những tên ác ôn khét
tiếng của đảng Dân chủ.
Đối với ta, từ đầu năm 1974, Tỉnh ủy Bình Thuận có sự thay đổi. Sau khi
đồng chí Lê Thứ (Mười Bắc) - Bí thư cùng các đồng chí Hồ Phú Diên (Đồng
Sĩ Kỳ), Trần Thọ, Vũ Đức Nhi chuyển về Khu VI; cùng một số đã chuyển
công tác trước đó như: đồng chí K'công chuyển về căn cứ Nam Sơn (1972),
đồng chí Nguyễn Hội ra miền Bắc (1973). Ban chấp hành thời gian này còn
lại các đồng chí Nguyễn Quý Đôn - Bí thư, đồng chí Nguyễn Ngô (Ninh) -
Thường vụ trực Đảng và đồng chí Trần Văn Lương (Nhuận) Thường vụ -
Trưởng ban An ninh; các đồng chí Tỉnh ủy viên: Nguyễn Nhẫn (Tố), Đặng Bá
Sang (Luông), Lê Văn Nhựt, Võ Ngọc Đài, Nguyễn Xuân Thắng (Trà),
Nguyễn Thanh Tâm (Rợ), Mai Cách (Hân) và 02 đồng chí Nguyễn Hữu Tín,
Mãn Tấn Dũng (Vũ) được bổ sung vào Tỉnh ủy làm ủy viên dự khuyết.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 2, 1954 – 1975).
37
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Để xây dựng Đảng bộ vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ
trong thời kỳ mới, công tác phát triển Đảng trong giai đoạn này được chú ý
đúng mức, từ con số 216 đảng viện (quý IV/1973) đã tăng lên 546 đảng viên
(tháng 11/1974) với 47 chi bộ cơ sở trong toàn tỉnh. Trong đó vùng giải
phóng dân số có 574 người ta đã thành lập 09 chi bộ với 83 đảng viên và 09
chi đoàn với 37 đoàn viên.
Thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong chiến dịch mùa Xuân
năm 1975, ngày 19/4/1975 tỉnh Bình Thuận và ngày 23/4/1975 tỉnh Bình Tuy
hoàn toàn được giải phóng, đập tan chính quyền tay sai các cấp của địch.
Những chiến thắng trên góp phần mở đường, đưa chiến dịch Hồ Chí Minh
đến thắng lợi, giải phóng miền Nam vào ngày 30/4/1975. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước lâu dài, gian khổ của dân tộc ta sau 21 năm đã kết thúc,
cách mạng miền Nam bước sang thời kỳ mới. Cùng với phong trào chung
toàn miền Nam, hai tỉnh Bình Thuận, Bình Tuy khẩn trương thành lập Ủy ban
quân quản cấp tỉnh và các thị xã, thị trấn xóa bỏ chính quyền địch, xây dựng
chính quyền cách mạng, tiếp quản các cơ quan, công sở của địch để lại; tiếp
tục truy quét tàn quân, triệt phá các băng nhóm phản động, kịp thời ổn định an
ninh trật tự và đời sống nhân dân.
Sau ngày giải phóng (tháng 4/1975), trên vùng đất tỉnh Bình Thuận ngày
nay có hai tỉnh Bình Thuận, Bình Tuy thành lập từ tháng 8/1968. Tỉnh Bình
Thuận lúc bấy giờ có các huyện Tuy Phong, Phan Lý, Hòa Đa, Hải Ninh,
Thuận Phong, Hàm Thuận và thị xã Phan Thiết; tháng 10/1975, thực hiện chủ
trương của Khu VI, tỉnh sáp nhập huyện Thuận Phong vào huyện Hàm
Thuận; tháng 01/1976, sáp nhập các huyện Tuy Phong, Hải Ninh, Phan Lý,
Hòa Đa thành huyện Bắc Bình. Như vậy, đến đầu năm 1976, tỉnh Bình Thuận
có các huyện Bắc Bình, Hàm Thuận và thị xã Phan Thiết, dân số 347.497
người14. Tỉnh Bình Tuy có các huyện Hoài Đức, Tánh Linh, Nghĩa Lộ, Hàm
Tân và thị xã Lagi, tháng 6/1975, hai huyện Hoài Đức và Tánh Linh sáp nhập
thành huyện Đức Linh; tháng 11/1975, hai huyện Hàm Tân, Nghĩa Lộ và La
Gi sáp nhập thành huyện Hàm Tân; đến đầu năm 1976, tỉnh Bình Tuy có hai
huyện Đức Linh và Hàm Tân, dân số 173.373 người15.
Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-75 và Công văn số 443/TV, ngày 14/4/1975
của Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam: các vùng mới giải phóng
phải xóa bỏ ngay các cấp chính quyền, tổ chức đảng phái và các luật lệ phản
động của chế độ cũ. Đồng thời, các thị trấn lớn, các thị xã và các thành phố
thành lập Ủy ban quân quản; các quận, huyện, phường, xã thành lập Ủy ban
14 Cơ quan Tỉnh ủy và Ủy ban Quân quản tỉnh đóng tại Tiểu khu của địch cũ, tháng 02/1976 sáp nhập 3 tỉnh
Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy thành tỉnh Thuận Hải, cơ quan tỉnh đóng tại Phan Rang. Đến tháng
6/1977, cơ quan tỉnh Thuận Hải chuyển về Phan Thiết. 15 Cơ quan Tỉnh ủy và Ủy ban Quân quản đóng tại Tòa hành chính của địch. Khi tỉnh Bình Tuy sáp nhập
thành tỉnh Thuận Hải chuyển giao cơ quan tỉnh cho huyện Hàm Tân quản lý.
38
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
nhân dân cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng các quận, huyện, xã,
phường trực thuộc các Ủy ban quân quản cấp tỉnh, thành phố hoặc thị xã, Ủy
ban nhân dân Cách mạng lâm thời hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy được
thành lập từ năm 1969, nay đổi thành Ủy ban quân quản tỉnh. Ủy ban quân
quản tỉnh Bình Thuận do đồng chí Nguyễn Quý Đôn - Bí thư Tỉnh ủy làm
Chủ tịch và Ủy ban quân quản tỉnh Bình Tuy do đồng chí Trần Văn Tình - Ủy
viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Chủ tịch. Đến ngày 01/8/1975, Ủy ban quân
quản các cấp của hai tỉnh hoàn thành nhiệm vụ, chuyển thành Ủy ban nhân
dân cách mạng lâm thời.
Về cấp ủy, đến ngày 30/4/1975, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình
Thuận có 13 ủy viên (02 ủy viên dự khuyết), Ủy viên Thường vụ có 03 đồng
chí, do đồng chí Nguyễn Quý Đôn làm Bí thư; tháng 5/1975, Hội nghị Tỉnh
ủy bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Bốn làm Ủy viên Thường vụ và 03
đồng chí K'Công, Nguyễn Văn Chu (Châu), Đặng Văn Hải vào Ban chấp
hành. Trong đó, 02 đồng chí Nguyễn Văn Chu (Châu), Đặng Văn Hải làm ủy
viên dự khuyết. Đến Hội nghị Tỉnh ủy tháng 8/1975, bầu bổ sung đồng chí
Nguyễn Minh Cao làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Tuy có 11 ủy viên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có
03 đồng chí và do đồng chí Lê Khắc Thành (Trịnh Công Hóa) làm Bí thư; Hội
nghị Tỉnh ủy tháng 6/1975, bầu bổ sung 03 đồng chí: Vũ Hồng, Dương Văn
Sâm và Nguyễn Đức Trọng (Mậu) vào Ban chấp hành Đảng bộ.
Ngày 20/9/1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) ra Quyết định số 145/NQ-
TW về việc giải thể khu, hợp nhất các tỉnh. Ở Khu VI, các tỉnh Ninh Thuận,
Bình Thuận, Lâm Đồng, Tuyên Đức sáp nhập thành tỉnh Thuận Lâm, tỉnh
Bình Tuy sáp nhập vào tỉnh Đồng Nai. Sau khi triển khai một thời gian ngắn,
từ tình hình thực tế miền Nam, ngày 20/12/1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
số 19/NQ-TW, điều chỉnh lại một số tỉnh từ Khu VI trở vào. Các tỉnh Ninh
Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải, các cơ quan
Đảng, chính quyền cấp tỉnh chuyển về làm việc tại thị trấn Phan Rang (Ninh
Thuận).
Khi thành lập các đơn vị hành chính trực thuộc, tỉnh Thuận Hải gồm có
thị xã Phan Thiết và các huyện An Sơn, Ninh Hải, Bắc Bình, Hàm Thuận,
Hàm Tân, Đức Linh và đến tháng 12/1977 thành lập thêm huyện Phú Quý; 11
thị trấn, 135 xã, phường với 527 thôn, ấp. Dân số tính đến ngày 05/02/1976
có 838.271 người, diện tích 11.454 km2. Toàn tỉnh có 25 dân tộc anh em,
trong đó các dân tộc thiểu số như Chăm, Hoa, Nùng, K'ho, Raglai ... có trên
30.000 người.
39
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 3, 1975 – 2005).
Ngày 06/01/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 05-
QĐ/NS-TW về nhân sự Ban chấp hành Lâm thời Đảng bộ tỉnh Thuận Hải
gồm 31 đồng chí (có 02 ủy viên dự khuyết); Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 09
đồng chí, đồng chí Lê Văn Hiền làm Bí thư, đồng chí Trần Đệ làm Phó Bí thư
thường trực. Ngày 21/01/1976, tỉnh Thuận Hải tổ chức Hội nghị đại biểu các
tầng lớp nhân dân, dân tộc, tôn giáo bầu Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời
tỉnh; đồng chí Trần Ngọc Trác, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy được bầu làm
Chủ tịch. Ngày 24/3/1976, Hội đồng Chính phủ ra quyết định công nhận, Ủy
ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đi vào hoạt động theo cơ chế hành
chính mới với 34 ty, ban, ngành chuyên môn. Tháng 6/1977, cơ quan Đảng,
chính quyền, các đoàn thể tỉnh chuyển trụ sở làm việc từ thị trấn Phan Rang
vào thị xã Phan Thiết.
Ngày 03/01/1976, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ
thị số 228-CT/TW về việc lãnh đạo cuộc tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung
40
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
của cả nước. Đến ngày 25/4/1976, cử tri cả nước đi bỏ phiếu bầu 492 đại biểu
Quốc hội khóa 6. Đơn vị bầu cử tỉnh Thuận Hải có hơn 98% cử tri đi bỏ phiếu
và 9 đại biểu trúng cử vào Quốc hội gồm 7 đại biểu của tỉnh là các ông bà Lê
Thị Ấn, Chamelé Chấn, Đỗ Thị Gái, Đặng Chế Hoa, Nguyễn Thanh Thuận,
Trần Văn Tình, Trần Ngọc Trác và hai đại biểu Trung ương là Giang Nam,
Trần Quỳnh. Từ ngày 18/9/1976, chính quyền Cách mạng lâm thời các địa
phương ở miền Nam đổi tên thành Ủy ban Nhân dân. Ủy ban Nhân dân các
cấp và các địa phương tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân 03 cấp: tỉnh,
huyện - thị xã, xã - phường - thị trấn. Cuối năm 1975 toàn Đảng bộ có 374 cơ
sở Đảng, với 3.915 đảng viên; đến cuối năm 1976 có 464 cơ sở Đảng với
6.788 đảng viên (trong năm 1976 phát triển 172 đảng viên mới).
- Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ I)
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, từ ngày 10 - 18/11/1976, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần
thứ I (vòng I) diễn ra tại thị trấn Phan Rang (nay là thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận). Dự Đại hội có 354 đại biểu thay mặt cho
5.300 đảng viên trong tỉnh. Đại hội đã nghiên cứu đề cương Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IV; dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu đại biểu đi dự Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IV16…
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV từ ngày 14 - 20/12/1976 của
Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tiếp thu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Tỉnh
ủy Thuận Hải tổ chức quán triệt nội dung nghị quyết cho cán bộ, đảng viên và
tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu
rộng, có tác động đến đời sống chính trị, tư tưởng và tình cảm của các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh. Tiếp đến, từ ngày 26/02 đến ngày 03/3/1977, tại thị
trấn Phan Rang, diễn ra Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ I
(vòng 2). Đại hội đã thảo luận Báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh và bầu Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ lần thứ nhất. Đại hội đã ra nghị quyết về
đánh giá tình hình, về phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của Đảng bộ
trong thời gian tới; nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch phát triển các ngành kinh tế,
16 Đại hội IV đã đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:
"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời
3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và
văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa,
là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên Xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể Xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa - con người mới Xã hội chủ
nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường
xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội”. Tại đại hội lần này, Đảng ta đổi tên
thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
41
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
văn hóa năm 1977; phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng bộ từ 15 đến
20 năm tới; phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong 02 năm 1977 - 1978.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ có 39 ủy viên (4 ủy viên dự khuyết).
Ban Chấp hành Đảng bộ bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 10 đồng chí và bầu
đồng chí Lê Văn Hiền, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng
chí Trần Đệ (Công) làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy và đồng chí Trần
Ngọc Trác (Ngọc) làm Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 3, 1975 – 2005).
42
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Về phương hướng, nhiệm vụ chung trong hai năm 1977 - 1978, Nghị
quyết chỉ rõ: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tăng cường đoàn kết
nhất trí, nếu cao tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần tự lực, tự cường,
chủ động sáng tạo, ra sức thiết lập và tăng cường chuyên chính vô sản, thực
hiện và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc cách mạng, kết hợp chặt chẽ xây dựng với cải tạo, nhanh
chóng khắc phục nhược điểm và khó khăn, phát huy mọi thuận lợi, tận dụng
mọi khả năng vốn có của địa phương, đặc biệt coi trọng phát huy các ưu thế
của nghề nông, nghề biển, nghề rừng và khả năng lao động trong tỉnh, tập
trung mọi nỗ lực nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ mục tiêu cơ bản, vừa cấp bách là
cải thiện cơ bản một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, xây
dựng một bước cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời,
không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng,tăng cường
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội”.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, vòng 2 (tháng 2/1977), Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy đã triển khai học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I
đến các cơ sở Đảng và tuyên truyền trong nhân dân về khôi phục, cải tạo và
phát triển kinh tế trong 2 năm 1977-1978, về công tác khai hoang phục hóa;
tuyên truyền phát động nhân dân vào làm ăn tập thể, thành lập các hợp tác
nông - ngư - lâm nghiệp; đẩy mạnh tuyên truyền về an ninh - quốc phòng;
tuyên truyền giáo dục những người lầm đường vượt biên trái phép, theo bọn
phản động chống phá cách mạng và nhân dân địa phương.
Thực hiện Chỉ thị số 237-CT/TW, ngày 24/9/1976 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về củng cố tổ chức cơ sở Đảng và kết nạp đảng viên ở Miền Nam
và Chỉ thị số 33- CT/TU, ngày 25/10/1977 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Thuận Hải về việc tăng cường chỉ đạo đẩy mạnh việc củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, đưa những người không đủ tư cách
đảng viên ra khỏi Đảng và kết nạp đảng viên mới; từ năm 1977 đến năm
1979, toàn tỉnh đã kết nạp được 497 đảng viên mới. Một số chi bộ đã chú ý
hơn việc kết nạp vào Đảng những người trực tiếp sản xuất và chiến đấu, số
đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, số xã viên hợp tác xã nông
nghiệp, trí thức xã hội chủ nghĩa, người dân tộc, công nhân trong các xí
nghiệp.
Đến năm 1978, chúng ta chưa hàn gắn xong vết thương 30 năm chiến
tranh để lại thì tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến
nước ta. Đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại Việt Nam, bọn Pôn
Pốt gây chiến tranh biên giới Tây Nam và đầu năm 1979 Trung Quốc gây
chiến tranh biên giới phía Bắc. Lúc này, vừa đối phó với tình hình quốc tế bất
lợi, Đảng ta vừa tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội IV và kế hoạch 5 năm
lần thứ II; đối với tỉnh tiếp tục thực hiện Nghị quyết do Đại hội Đảng bộ tỉnh
43
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
lần thứ nhất đề ra và phương hướng nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng và công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể trong năm 1978.
- Đại hội lần thứ V của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ II)
Thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 14/10/1978 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tiến hành đại hội các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ V của Đảng vào năm 1982. Sau khi các cơ sở đảng trong tỉnh đã tiến
hành xong đại hội, từ ngày 16 đến 23/10/1979, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh
Thuận Hải lần thứ II tổ chức tại thị xã Phan Thiết, đã đánh giá những ưu
khuyết điểm trong việc thực hiện Nghị quyết do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
I đề ra. Dự Đại hội có 331 đại biểu thay mặt cho 7.885 đảng viên trong toàn
tỉnh. Đại hội đã đánh giá:
Sau khi kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ I (nay
là Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận)17, nhân dân trong tỉnh đã
thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, xã hội do Đại hội đề ra. Đồng
thời, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, công tác cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và công thương nghiệp tư bản, tư doanh đã
căn bản hoàn thành, quan hệ sản xuất mới được xác lập. Hệ thống kinh tế xã
hội chủ nghĩa được hình thành bước đầu và ngày càng mở rộng. Cơ sở vật
chất, kỹ thuật trong tỉnh bước đầu được xây dựng và đang từng bước phát
huy. Về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và các ngành được nâng lên
một bước, tích lũy được một số kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, xã hội và
công tác xây dựng hệ thống chính trị theo đường lối xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, tình hình trong tỉnh gặp nhiều khó khăn. Quan hệ sản xuất cũ
tuy đã được cải tạo, quan hệ sản xuất mới đã xác lập, nhưng chưa vững chắc.
Lực lượng sản xuất, trình độ sản xuất và năng suất lao động còn thấp. Cơ sở
vật chất phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân còn nghèo nàn. Sự nhận
thức và vận dụng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ. Tổ chức bộ
máy lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành chưa được kiện toàn đồng bộ. Thiếu
cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề. Vai
trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động chưa được phát huy.
Căn cứ vào đường lối, nhiệm vụ chung Đại hội IV của Đảng đề ra là:
"Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội", Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ II (nay là Đại hội lần thứ V của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận) đề ra
phương hướng, nhiệm vụ trong 02 năm (1980 - 1981), có 06 nhiệm vụ cụ thể:
17 Tính từ Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ 1 tháng 8/1949, lần thứ II tháng 8/1952 trong kháng
chiến chống Pháp và lần thứ III, tháng 7/1970 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
44
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Một là, ra sức sản xuất toàn diện, trước hết tập trung cao độ đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực và thực
phẩm, bảo đảm đủ ăn và có dự trữ. Đồng thời, phát huy thế mạnh của địa
phương về cây công nghiệp và các cây đặc sản bảo đảm nguyên liệu phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tăng nhanh hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Hai là, tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành kinh tế,
văn hóa, bảo đảm yêu cầu phục vụ sản xuất, đời sống trước mắt và sẵn sàng
chiến đấu.
Ba là, ra sức thu mua nắm nguồn hàng, cải tiến công tác lưu thông phân
phối, nhằm phục vụ tốt cho sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân, nhất là
ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, vui chơi giải trí, chữa bệnh.
Bốn là, hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành kinh tế,
gắn liền với củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất, coi trọng việc
phát triển lực lượng sản xuất mới. Tích cực củng cố hợp tác xã trong nông
nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tăng cường và cải tiến công tác
quản lý trong các xí nghiệp quốc doanh và công ty hợp doanh.
Năm là, tăng cường công tác trật tự an ninh và quốc phòng, bảo đảm ổn
định đời sống và sản xuất phát triển, xây dựng hậu phương vững mạnh, làm
tốt công tác nghĩa vụ quân sự, công tác hậu phương quân đội. Đồng thời làm
tốt nghĩa vụ quốc tế.
Sáu là, tăng cường củng cố xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể
quần chúng vững mạnh, nhất là ở cơ sở. Nâng cao hiệu lực của hệ thống
chuyên chính vô sản, phát huy năng lực và quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động.
Đại hội bầu 45 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ, (trong đó có 04 ủy
viên dự khuyết), Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 13 đồng chí. Đồng chí Lê Văn
Hiền - Ủy viên Trung ương Đảng (khóa IV) được bầu lại Bí thư Tỉnh ủy;
đồng chí Trần Đệ được bầu làm lại Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy và đồng
chí Trần Ngọc Trác được bầu lại làm Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh. Đồng chí Mãn Tấn Dũng - Ủy viên Ban Thường vụ làm
Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, đồng chí Trần Huy Thuyết làm phó Ban.
Đại hội V của Đảng từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982, tại Hà Nội đã đề ra
nhiệm vụ, phương hướng, mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội 1981-1985.
Đại hội đã phê phán tư tưởng nóng vội, bảo thủ và điều chỉnh một bước về
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, xác định chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nội dung chính của công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt là: "Tập trung phát triển, đẩy
mạnh nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
45
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
nặng trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý...”18. Đặc biệt, Đại hội nhấn
mạnh việc xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, coi đó là
vấn đề có ý nghĩa quyết định để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng và cấp bách
trên.
- Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ III)
Từ ngày 03 đến ngày 07/3/1983, tại thị xã Phan Thiết, Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ III (nay tính là Đại hội lần thứ VI của Đảng
bộ tỉnh Bình Thuận) được tiến hành. Dự Đại hội có 392 đại biểu thay mặt cho
8.599 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội kiểm điểm quá trình thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II, quán triệt và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ V. Đại hội Đảng bộ lần thứ III đã đánh giá tình hình
chung là: Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã thu được nhiều thành tích trên
mặt trận sản xuất, trong đó đã trang trải được nhu cầu lương thực cho gần
một triệu dân trong tỉnh và từ năm 1980 đã làm nghĩa vụ lương thực với
Trung ương. Về nông nghiệp, tỉnh sớm tiến hành thực hiện chính sách ruộng
đất và cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, đưa nông dân vào làm ăn
tập thể, cùng với các biện pháp kỹ thuật, thủy lợi, đã đưa sản xuất nông
nghiệp phát triển tương đối toàn diện; điều chỉnh, phân bố lại lao động, khai
hoang phục hóa và định canh, định cư cho trên 10 vạn người và đẩy mạnh
chăn nuôi. Các ngành lâm - ngư - công và tiểu thủ công nghiệp đều đạt những
thành tích nhất định. Ngành giao thông - vận tải, bưu điện, công tác phân
phối lưu thông có phần tiến bộ. Tỉnh Thuận Hải đã căn bản hoàn thành cải
tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp; tích cực cải tạo đối với các ngành
nghề khác như nghề cá, công thương nghiệp tư bản tư doanh. Công tác củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thu được
thắng lợi lớn. Trên mặt trận văn hóa, giáo dục cũng đạt một số tiến bộ. Công
tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể có bước trưởng thành rõ rệt. Bên
cạnh mặt đạt được, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III cũng nhận thấy: Nền
kinh tế - xã hội trong tỉnh đang đứng trước nhiều khó khăn gay gắt, mất cân
đối nghiêm trọng về nhiều mặt. Thực trạng kinh tế năng suất còn thấp, chất
lượng sản phẩm còn yếu, sử dụng máy móc phục vụ sản xuất hiệu quả còn
thấp. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa còn nhiều tồn tại, nhất là trong cải
tạo tiểu thương và quản lý thị trường còn yếu. Công tác củng cố quốc phòng,
an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng còn thiết sót. Hoạt động giáo dục,
văn hóa, y tế còn một số yếu kém cần khắc phục. Công tác xây dựng Đảng,
chính quyền và đoàn thể còn bộc lộ nhiều khuyết nhược điểm.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V.
46
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III đề ra mục tiêu tổng quát trong những
năm 1983 - 1985 là: ra sức tăng cường lãnh đạo của đảng bộ các cấp, phát
huy hiệu lực quản lý của chính quyền và vai trò làm chủ của nhân dân lao
động; đẩy mạnh sản xuất lưu thông, kết hợp chặt chẽ với sắp xếp lại sản xuất
và cải tạo quan hệ sản xuất, cải tạo thị trường, đổi mới công tác quản lý kinh
tế, tự lực là chính, kết hợp với sự giúp đỡ của Trung ương, đưa nền kinh tế
tỉnh từ sản xuất nhỏ từng bước tiến vững chắc lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, trước hết là đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất lớn, kết hợp
ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp trong cơ cấu thống nhất, với quy
mô, hình thức, nhịp độ phù hợp đặc điểm tình hình trong tỉnh. Phát triển giáo
dục, văn hóa, y tế, xã hội. Đồng thời, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, phát triển phòng tuyến an ninh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ
trang nhân dân vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn mới, làm tốt nghĩa vụ quốc tế (trực tiếp là chi viện có hiệu
quả tỉnh Preah Vihear kết nghĩa). Đại hội đề ra các mục tiêu chủ yếu:
- Tăng sản phẩm xã hội, tăng sản phẩm xuất khẩu, giải quyết tốt hơn các
nhu cầu thiết yếu nhất của đời sống, mức tăng sản phẩm xã hội hàng năm từ
nay đến năm 1985 bình quân 7%; về lương thực năm 1985, bình quân đầu
người đạt 300kg.
- Tiết kiệm tiêu dùng, tăng tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, thực hiện Nhà nước và nhân dân cùng làm. Phấn đấu
thu ngân sách Nhà nước đạt bình quân hàng năm từ 20 đến 25% thu nhập
quốc dân.
- Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành kinh tế; phấn đấu
đến năm 1985 có 90% số hộ nông dân tham gia làm ăn tập thể (chủ yếu là hợp
tác xã) và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa nắm trọn bán buôn và chi phối
60% bán lẻ.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phòng tuyến an ninh nhân dân,
xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
- Tiếp tục cuộc vận động xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
Đại hội bầu 45 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa III,
nhiệm kỳ 1983-1985 (trong đó có 04 đồng chí dự khuyết). Ban Thường vụ
Tỉnh ủy có 13 đồng chí. Đồng chí Lê Văn Hiền, Ủy viên Trung ương Đảng
khóa V được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Trần Đệ được bầu lại làm
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy và đồng chí Trần Ngọc Trác được bầu lại
làm Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, thực hiện Quyết định số 204-
QĐ/HĐBT, ngày 30/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về
phân địa giới hành chính các huyện Bắc Bình, Hàm Thuận, Đức Linh (thuộc
47
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
địa phận tỉnh Bình Thuận hiện nay). Huyện Bắc Bình được phân chia thành
huyện Bắc Bình và huyện Tuy Phong, huyện Hàm Thuận phân chia thành
huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Hàm Thuận Nam; huyện Đức Linh phân
chia thành huyện Đức Linh và huyện Tánh Linh, vv... Đến tháng 6/1983, các
huyện mới đi vào hoạt động. Các huyện mới được chia tách gồm: huyện Tuy
Phong có 10 xã, thị trấn (Liên Hương, Chí Công, Hòa Phú, Phan Rí Cửa, Hòa
Minh, Bình Thạnh, Phước Thể, Vĩnh Hảo, Phú Lạc, Phan Dũng); huyện Hàm
Thuận Nam có 09 xã (Tân Thành, Tân Thuận, Tân Lập, Hàm Mỹ, Hàm Kiệm,
Hàm Cần, Hàm Minh, Hàm Thạnh, Mỹ Thạnh); huyện Tánh Linh có 11 xã
(Đức Phú, Nghị Đức, Đức Tân, Bắc Ruộng, Măng Tố, Huy Khiêm, La Ngâu,
Lạc Tánh, Gia An, Gia Huynh, Suối Kiết).
Đối với tổ chức Đảng, sau khi có quyết định phân chia địa giới hành
chính các địa phương trong tỉnh, ngày 21/4/1983, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có
quyết định chuẩn y Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ các huyện mới chia tách.
Đồng thời, các Đảng bộ lâm thời tiếp tục thực hiện nghị quyết do Đại hội
Đảng bộ các huyện trước đây đề ra, bổ sung thêm một số chỉ tiêu ở địa
phương, thực hiện đến cuối năm 1985 tiến hành Đại hội tổng kết đánh giá kết
quả thực hiện nghị quyết. Về công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ II
(1979-1982), đến năm 1982, toàn Đảng bộ có 554 tổ chức cơ sở Đảng (có 72
Đảng bộ cơ sở), với 8.469 đảng viên (năm 1983 kết nạp 516 đảng viên mới).
Tính đến năm 1985, toàn Đảng bộ có 622 cơ sở (có 81 đảng bộ cơ sở). Tổng
số đảng viên toàn Đảng bộ là 9.627 đồng chí. Số đảng viên mới phát triển
trong 03 năm ( 1983 - 1985) là 1.614 đồng chí.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương về cấp thẻ Đảng, năm 1980, Đảng bộ
triển khai kiểm điểm phân loại đảng viên và cấp thẻ Đảng cho các đảng viên
đủ tiêu chuẩn. Từ năm 1983, thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ
tỉnh thực hiện phân loại đảng viên hàng năm, qua đó đánh giá chất lượng đảng
viên và tổ chức cơ sở Đảng.
Để thống nhất các quy định về nguyên tắc, thủ tục tiến hành Đại hội
Đảng các cấp, ngày 04/10/1982, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quy định số
06-QĐ/TW về nguyên tắc, thủ tục tiến hành đại hội Đảng các cấp. Đây là quy
định đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982) bổ sung, sửa đổi một
số điểm trong Điều lệ Đảng. Quy định có nêu về việc bầu cử trong Đảng phải
tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín; quyền ứng cử, đề cử, bầu cử vào các cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng; về cử đại biểu đi dự đại hội đại biểu các cấp;
hội nghị đại biểu các cấp, ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ các cấp và một số
vấn đề về tổ chức và lãnh đạo đại hội các cấp. Từ khi có quy định mới của
Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng bộ triển khai cho các chi - đảng bộ
nghiên cứu thực hiện.
Trong năm 1982, đảng viên trong toàn Đảng bộ được quán triệt nội dung
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (nhiệm kỳ 1982 - 1986) và
48
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II (1979 - 1982). Tính đến năm
1985, toàn Đảng bộ có 622 cơ sở (có 81 Đảng bộ cơ sở). Tổng số đảng viên
toàn Đảng bộ là 9.627 đồng chí.
- Đại hội lần thứ VII của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV)
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, tình hình trong
nước tuy đã có cải thiện đáng kể, có một số cải tiến trong công tác quản lý
kinh tế, nhưng nền kinh tế đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách, cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài, do hậu quả nặng nề của việc
điều chỉnh giá – lương - tiền năm 1985, làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và
đời sống của nhân dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, lạm phát lên tới mức
cao nhất kể từ sau giải phóng miền Nam đến đầu năm 1986 là 774,7%.
Để thoát ra khỏi tình hình khó khăn, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá, đối ngoại, chủ yếu là kinh tế; thực hiện đổi mới tư
duy, nhất là tư duy kinh tế, tập trung ở 3 vấn đề quan trọng:
Một là, bố trí lại cơ cấu sản xuất, tập trung đầu tư sức người, sức của vào
thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu.
Hai là, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xác định
nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Ba là, đổi mới công tác quản lý, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, xây dựng cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tỉnh ta khi bước vào công cuộc đổi mới trên cơ sở những thành tựu và
kinh nghiệm qua 10 năm khôi phục sau chiến tranh và xây dựng quan hệ sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa; bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến
cơ sở được củng cố một bước. Căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa về
các mặt, quan hệ sản xuất mới trong nông, ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
được xác lập. Những tiến bộ bước đầu trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
nhất là trong sản xuất nông nghiệp đã phát huy tác dụng, xuất hiện một số đơn
vị kinh tế có cách làm mới tích cực, năng động và làm ăn có hiệu quả.
Tuy đạt được những thắng lợi bước đầu, nhưng nền kinh tế của tỉnh đang
mất cân đối về nhiều mặt; trong sản xuất, năng suất, chất lượng, hiệu quả còn
thấp; tốc độ tăng trưởng chậm, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế còn nhiều
lúng túng. Công tác phân phối lưu thông còn nhiều khó khăn, ách tắc. Đặc
biệt, sau khi thực hiện điều chỉnh giá – lương - tiền (tháng 10/1985), tình hình
kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và trong tỉnh nói riêng diễn biến xấu,
giá cả tăng vọt, thị trường rối ren, thị trường tự do phát triển không kiểm soát
49
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
được; đời sống của những người sống bằng tiền lương và nhân dân lao động
gặp nhiều khó khăn.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thuận Hải lần thứ IV (nay là Đại hội
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ VII) họp từ ngày 12 đến ngày 18/10/1986
tại Trường Đảng tỉnh (nay là Trường Chính trị tỉnh), thị xã Phan Thiết (nay là
thành phố Phan Thiết). Tham dự đại hội có 517 đại biểu, đại diện cho hơn
10.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã thảo luận góp ý Dự thảo báo
cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã
nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng những thành tựu, khuyết điểm về xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng Đảng trong
nhiệm kỳ 1983 – 1985 và thực trạng kinh tế xã hội trong tỉnh, phân tích rõ
nguyên nhân đạt được và những thiếu sót, khuyết điểm trong thời gian qua.
Trên cơ sở xác định mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ tới là: ổn định về cơ bản
tình hình kinh tế - xã hội mà quan trọng nhất là ổn định và phát triển sản
xuất, ổn định thị trường giá cả, tài chính tiền tệ, ổn định và cải thiện một
bước đời sống nhân dân lao động, kiên quyết khắc phục những sai lầm của
những năm qua, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chung của tỉnh trong những năm 1986 – 1990 là:
“...ra sức tăng cường sự lãnh đạo của các Đảng bộ, phát huy hiệu lực quản lý
của chính quyền và vai trò làm chủ tập thể thật sự của nhân dân lao động;
tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, đẩy mạnh sản xuất, lưu thông phân
phối, sắp xếp lại sản xuất, phân bố lại lao động giải quyết công ăn việc làm,
làm chủ thị trường. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước hoàn
thiện quan hệ sản xuất mới gắn với phát triển công tác khoa học kỹ thuật và
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đổi mới công tác quản
lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn
sang cơ chế quản lý hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Hình thành cơ
cấu kinh tế công - nông nghiệp của tỉnh: nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
ngư nghiệp là mũi nhọn, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu; đồng thời phát triển các ngành điện, cơ khí, vật liệu xây dựng,
giao thông vận tải... Phát triển giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội, đồng thời ra
sức tăng cường nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch vững
mạnh, sẵn sàng chiến đấu, làm tốt nghĩa vụ quân sự đối với tỉnh Hoàng Liên
Sơn, chi viện có hiệu quả tỉnh Preah Vihear - Campuchia kết nghĩa”.
Đại hội xác định mục tiêu kinh tế - xã hội trong 5 năm tới (1986 – 1990) là:
- Phát triển sản xuất toàn diện, đẩy mạnh xuất khẩu, bảo đảm công ăn
việc làm, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân.
50
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
- Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, tiết kiệm tiêu dùng
tăng tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa từng bước hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới.
- Từng bước xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân sẵn sàng chống xâm lược, phát triển thế trận đấu tranh chống phản cách
mạng và các tội phạm khác, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh.
- Tiếp tục cuộc vận động xây dựng Đảng vững mạnh.
Các chỉ tiêu chủ yếu Đại hội đề ra là: tốc độ phát triển bình quân của
tổng sản phẩm xã hội là 8,5% (nhiệm kỳ 1981 – 1985 là 6,9%); của thu nhập
quốc dân khu vực sản xuất là 7,8%; giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình
quân năm 12,2%, nông nghiệp tăng 8%; xuất khẩu phấn đấu đạt 30 triệu rúp
và đô la; Phấn đấu đến năm 1990 đạt sản lượng 38 vạn tấn lương thực, bình
quân đầu người 316 kg, 83 kg cá tươi, 22,5 lít nước mắm, 12,5 kg thịt, 11,6kg
đường; phấn đấu tự sản xuất bình quân đầu người 5m/năm vải mặc các loại;
đảm bảo điều kiện học tập cho mức 4 người dân có 1 người đi học, huy động
50% trẻ em trong độ tuổi được vào mẫu giáo, 30% được vào nhà trẻ; đẩy
mạnh sản xuất thuốc bảo đảm đủ thuốc chữa bệnh thông thường cho nhân
dân, cứ 1 vạn dân có 32 giường bệnh, 2 bác sĩ và 2 dược sĩ cao cấp. Đến năm
1990 dân số của tỉnh là 1,2 triệu người (tăng bình quân 1,7%).
Đại hội xác định trong những năm trước mắt, cơ cấu kinh tế của tỉnh:
“nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kết hợp chặt chẽ nông, ngư, lâm nghiệp,
trong đó nông nghiệp là cơ bản, ngư nghiệp là mũi nhọn, đẩy mạnh công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, hải sản, tạo sản phẩm
hàng hóa, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời phát triển đúng mức
các ngành công nghiệp phục vụ: điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, giao thông
vận tải”.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 56 đồng chí (45 ủy viên
chính thức, 11 ủy viên dự khuyết); Ban Thường vụ có 13 đồng chí. Đồng chí
Mãn Tấn Dũng được bầu làm Bí thư, đồng chí Ngô Triều Sơn làm Phó Bí thư
Thường trực; đồng chí Nguyễn Trung Hậu làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban
nhân dân. Đến tháng 6/1987, Bộ Chính trị có quyết định rút đồng chí Mãn
Tấn Dũng ra khỏi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, đồng chí Nguyễn Trung Hậu
thay làm Bí thư; đồng chí Hứa Minh Trí - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
làm Chủ tịch.
51
Họ và tên: Ngô Công Quyền – Công an tỉnh Bình Thuận
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, tập 3, 1975 – 2005).
Trong 05 năm (1987 – 1991), toàn tỉnh phát triển được 2.245 đảng viên,
đưa tổng số đảng viên từ 10.328 đảng viên (11/1986) lên 12.075 đảng viên
(cuối năm 1989) và 12.217 đảng viên (giữa năm 1990). Tuy nhiên, công tác
phát triển Đảng trong những năm qua đang có xu hướng giảm dần, từ 6,1%
năm 1987 còn 3,2% năm 1990 và năm 1991 chỉ bằng 64,8% so với năm 1990.
So với các tỉnh thành trong cả nước, tỉ lệ đảng viên trong số dân của tỉnh còn