LÝ THUYẾT ÂM NHẠC CƠ BẢN LÝ THUYẾT ÂM NHẠC CƠ BẢN (Giáo trình dành cho Hệ trung học âm nhạc chuyên nghiệp) Nhóm tác giả: PGS-TS Phạm Tú Hương PGS–TS Đỗ Xuân Tùng Ths. Nguyễn Trọng ánh LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình Lý thuyết âm nhạc cơ bản được biên soạn nhằm phục vụ việc đổi mới chương trình đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp bậc trung học tại Nhạc viện Hà Nội. Giáo trình được tiến hành biên soạn từ năm 2011. Nhóm tác giả biên soạn đã thống nhất đề cương, cấu trúc của giáo trình với những nội dung như sau: – Đảm bảo yêu cầu kiến thúc tối thiểu về lý thuyết âm nhạc cơ bản cho học sinh trung học âm nhạc chuyên nghiệp. – Thời gian học của học sinh phù hợp với khối lượng thời gian quy định của Bộ GD&ĐT và Bổ VH-TT cho môn học lý thuyết âm nhạc của bậc Trung học âm nhạc chuyên nghiệp. – Trên nền tảng của hai giáo trình Lý thuyết âm nhạc cơ bản của V.A. Vakhrameev và Lý thuyết âm nhạc của Spaxôbin, nhóm tác giả đã bổ xung nội dung lý thuyết âm nhạc cổ truyền Việt nam (chương XII)
206
Embed
Lý Thuyết Âm Nhạc Cơ Bản (Word) - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/140.LyThuyetAmNhacCoBan.docx · Web viewGiáo mình Lý thuyết âm nhạc cơ bản xuất bản
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
LÝ THUYẾT ÂM NHẠC CƠ BẢNLÝ THUYẾT ÂM NHẠC CƠ BẢN
(Giáo trình dành cho Hệ trung học âm nhạc chuyên nghiệp)
Nhóm tác giả:
PGS-TS Phạm Tú Hương
PGS–TS Đỗ Xuân Tùng
Ths. Nguyễn Trọng ánh
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo trình Lý thuyết âm nhạc cơ bản được biên soạn nhằm phục vụ
việc đổi mới chương trình đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp bậc trung học tại
Nhạc viện Hà Nội. Giáo trình được tiến hành biên soạn từ năm 2011. Nhóm
tác giả biên soạn đã thống nhất đề cương, cấu trúc của giáo trình với những
nội dung như sau:
– Đảm bảo yêu cầu kiến thúc tối thiểu về lý thuyết âm nhạc cơ bản cho
học sinh trung học âm nhạc chuyên nghiệp.
– Thời gian học của học sinh phù hợp với khối lượng thời gian quy định
của Bộ GD&ĐT và Bổ VH-TT cho môn học lý thuyết âm nhạc của bậc Trung
học âm nhạc chuyên nghiệp.
– Trên nền tảng của hai giáo trình Lý thuyết âm nhạc cơ bản của V.A.
Vakhrameev và Lý thuyết âm nhạc của Spaxôbin, nhóm tác giả đã bổ xung
nội dung lý thuyết âm nhạc cổ truyền Việt nam (chương XII)
– Trong các chương khác, nhóm tác giả cố gắng đưa nhưng ví dụ gần
với các chuyên ngành biểu diễn, đặc biệt là các ví dụ của các nhạc sỹ Việt
Nam, nhằm giúp cho học sinh dễ tiếp thu bài học. Ngoài ra, ở chương XI Ký
hiệu và cách diễn tấu – Các dạng âm tô điểm, các tác giả cũng giới thiệu sâu
hơn (trong đó có cả việc giới thiệu cách ghi và diễn tấu âm nhạc hiện đại) để
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các chuyên ngành biểu diễn nhạc
cụ phương Tây cũng như biểu diễn nhạc cụ truyền thống.
Giáo trình đã trải qua ba lần nghiệm thu và sửa chữa. Nhóm tác giả đã
nhận được nhiều ý kiến đóng góp rất quý giá của các giáo sư như: GS–NSND
Thang âm tự nhiên là thang âm gồm âm gốc và các âm bồi của nó. Nếu
lấy âm Đô ở quãng tám lớn làm âm gốc, ta sẽ có thang âm tự nhiên như sau:
1.2. Hệ thống âm thanh trong âm nhạc – Tên gọi của các bậc
1.2.1. Hệ thống âm thanh trong âm nhạc
Hệ thống âm thanh trong âm nhạc là một thang âm đầy đủ bao gồm 88
âm khác nhau được sắp xếp theo cao độ. Nó được trải rộng từ âm thấp nhất
có tần số dao động khoảng 16Hz đến âm cao nhất có tần số dao động đến
4176Hz. Đây là những âm có độ cao mà tai người có khả năng phân biệt
được.
Các bậc cơ bản trong thang âm đầy đủ của âm nhạc được gọi theo các
tên sau: Đô, Rê, Mi, Fa, Sol, La, Si. Các bậc cơ bản này ứng với các phần
trắng trên đàn piano hay đàn keyboard.
1.2.2. Các quãng tám
Quãng tám là khoảng cách giữa hai âm cùng tên có tần số gấp đôi
nhau trong các hệ thống thang âm: diatonic (gam tự nhiên), pentatonic, (gam
5 âm) chromatic (gam bán âm)… và được lặp lại một cách có chu kỳ.
Toàn bộ thang âm đầy đủ bao gồm bẩy quãng tám đầy đủ và hai quãng
tám thiếu ở hai đầu của thang âm. Các quãng tám có tên gọi như sau: (tính từ
thấp lên cao):
Quãng tám cực trầm (thiếu)
Quãng tám trầm
Quãng tám lớn
Quãng tám nhỏ
Quãng tám thứ nhất
Quãng tám thứ hai
Quãng tám thứ ba
Quãng tám thứ tư
Quãng tám thứ năm (thiếu)
1.3. Các ký hiệu
1.3.1. Các ký hiệu âm bằng nốt nhạc
– Hình nốt
Để ký hiệu các âm trong âm nhạc người ta dùng nốt nhạc. Nốt nhạc có
hai bộ phận:
Nốt nhạc là một hình bầu dục rỗng hoặc đặc. Phần này để xác định vị
trí cao độ của âm thanh.
– Khuông nhạc và các dòng kẻ phụ
Để xác định cao độ của âm, các nốt nhạc được trình bày trên khuông
nhạc. Khuông nhạc là một hệ thống gồm có năm dòng kẻ song song cách đều
nhau. Các nốt nhạc có thề nằm trên các dòng kẻ hoặc giữa hai dòng kẻ. Như
vậy khuông nhạc bao gồm năm dòng kẻ và bốn khe. Chúng được đánh số từ
dưới lên.
Để ghi các nốt nhạc có cao độ nằm ngoài năm dòng kẻ chính, người ta
dùng các dòng kẻ phụ. Dòng kẻ phụ là những đường kẻ ngắn cho từng nốt
nhạc, chúng ở trên hay ở dưới khuông nhạc. Thứ tự dòng kẻ phụ được tính
từ khuông nhạc đi lên hoặc đi xuống.
– Dấu liên kết khung nhạc
Trong trường hợp bản nhạc có nhiều bè (hợp xướng, hoà tấu dàn
nhạc, piano) ta phải dùng đến ký hiệu liên kết các dòng nhạc. Ký hiệu liên kết
các khuông nhạc được gọi là dấu ngoặc. Có ba loại dấu ngoặc:
1/ Dấu ngoặc (tiếng Anh: Brace). Được dùng chủ yếu để viết cho các
phẩm piano
2/ Dấu ngoặc kép (tiếng Anh: Bracket). Dấu ngoặc kép được sử dụng
chủ yếu để viết tổng phổ dàn nhạc, tổng phổ hợp xướng…
3/ Dấu ngoặc đơn (tiếng Anh: Brak barline). Dấu ngoặc đơn được sử
dụng chủ yếu để viết cho các bản nhạc song tấu, song ca, hoà tấu tốp nhạc,
đồng ca…
– Khoá nhạc
Khoá nhạc là ký hiệu đặt ở đầu khuông nhạc, quy định vị trí cao độ của
nôdt nhạc trên đòng đó và từ nốt đó xác định vị trí của các âm khác của thang
âm. Có ba loại khoá thường dùng:
1/ Khoá Sol
Ký hiệu khoá Sol:
Khoá Sol được viết bắt đầu từ dòng thứ hai của khuông nhạc, xác định
nốt trên dòng kẻ thứ hai là nốt Sol của quãng tám thứ nhất.
Các nốt cơ bản thuộc quãng tám thứ nhất trên khuông nhạc có khoá
Sol
2/ Khoá Fa
Ký hiệu khoá Fa:
Khoá Fa. Có hai loại khoá Fa. Khoá Fa (loại thông dụng) được viết bắt
đầu từ dòng kẻ thứ tư của khuông nhạc. Nó xác định nốt nằm trên dòng kẻ
thứ tư là nốt Fa của quãng tám nhỏ. Các nốt cơ bản thuộc quãng tám nhỏ
trên khuông nhạc có khoá Fa:
3/ Khoá Đô
Ký hiệu khoá Đô:
Có 4 loại khoá Đô, trong đó có 2 loại chính sau:
+ Loại khoá Đô Alto:
Khoá Đô Alto được viết trên dòng kẻ thứ ba của khuông nhạc. Nó xác
định nốt nằm trên dòng kẻ thứ ba là nốt Đô thuộc quãng tám thứ nhất.
Các nốt cơ bản thuộc quãng tám thứ nhất trên khuông nhạc có khoá Đô
+ Loại khoá Đô Tenor
Khoá Đô Tenor được viết trên dòng kẻ kẻ thứ tư của khuông nhạc. Nó
xác định nốt nằm trên dòng kẻ thứ tư là nốt Đô thuộc quãng tám thứ nhất.
Các nốt cơ bản thuộc quãng tám thứ nhất trên khuông nhạc có khoá Đô
Tenor:
Tương quan cao độ giữa các khoá:
1.3.2. Ký hiệu âm bằng hệ thống chữ cái
Ngoài tên gọi các âm thanh là Đô, Rê, Mi… như trên, trong thực tiễn
âm nhạc người ta còn dùng phương pháp ký hiệu các âm dựa trên bảng chữ
cái La tinh.
Trong âm nhạc, âm La ở quãng tám thứ nhất có tần số 440 Hz/giây
được coi là âm mẫu trong hệ thống các âm cơ bản của âm nhạc. Do vậy, âm
La có tên là chữ A. chữ cái đầu trong bảng chữ cái. Các âm thanh được ký
hiệu bằng chữ cái như sau:
La: A
Si: B
Đô: C
Rê: D
Mi: E
Fa: F
Sol: G
Có một số quốc gia như Đức, Nga…lại ký hiệu âm Si là chữ H côn chữ
B là ký hiệu của âm Si giáng.
1.3.3. Dấu chuyển quãng tám
Dấu chuyền quãng tám có ký hiệu như sau: 8–––––––––––. Dấu
chuyển quãng tám là dấu dùng để ghi một đoạn nhạc khi cần đưa lên cao hay
hạ thấp xuống một quãng tám. Dùng dấu này sẽ tránh cho ta phải viết nhiều
dòng kẻ phụ, gây khó khăn khi đọc nốt nhạc.
Khi muốn chuyển cao độ cao lên một quãng 8, người ta ghi ký hiệu
chuyển quãng 8 ở phía trên khuông nhạc.
Khi muốn chuyển cao độ thấp xuống một quãng 8, người ta ghi ký hiệu
chuyển quãng 8 ở phía dưới khuông nhạc.
1.4. Hệ thống bình quân – Một cung và nửa cung – Các bậc chuyển hoá
1.4.1. Hệ thống bình quân – Một cung và nửa cung
Trong hệ thống âm nhạc đã được sử dụng rộng rãi hiện nay, mỗi quãng
tám được chia ra làm 12 phần đều nhau, môi phần nửa cung. Hệ thống này
được gọi là Hệ thống bình quân (Còn được gọi là Hệ điều hoà). Trong hệ
thống bình quân, nửa cung là quãng hẹp nhất giữa hai bậc của thang âm cơ
bản. Quãng được tạo bởi hai nửa cung gợi là một cung (còn được gọi là
nguyên cung hay toàn cung)
Trong một quãng tám giữa các bậc cơ bản được sắp xếp thành 5 một
cung và 2 nửa cung.
Ký hiệu nửa cung:
Ký hiệu một cung:
1.4.2. Các bậc chuyển hoá – Dấu hoá
Trong hệ thống âm nhạc, các bậc cơ bản đều có thể nâng cao hoặc hạ
thấp nửa cung hoặc một cung. Những âm được nâng cao hoặc hạ thấp như
vậy được gọi là những bậc chuyển hoá.
Khi một âm được nâng cao lên nửa cung gọi là thăng (Ký hiệu: #), nếu
nâng cao lên một cung gọi là thăng kép (Ký hiệu: x).
Khi một âm hạ thấp xuống nửa cung gọi là giáng (Ký hiệu.), nếu hạ
thấp xuống một cung gọi là giáng kép (Ký hiệu ~).
Các bậc chuyển hoá được gọi theo tên của các bậc cơ bản cùng với
các ký hiệu thăng, giáng.
Nếu một nốt nhạc đang thăng, hoặc giáng… muốn trở lại độ cao cơ bản
người ta dùng dấu hoàn (Ký hiệu: ~)
Dấu hoá nếu đặt ở trước nốt nhạc được gọi là dấu hoá bất thường.
Dấu hoá nếu đặt ở sau khoá nhạc được gọi là dấu hoá cố định (hoá
biểu).
Trong hệ thống âm thanh ký hiệu bằng chữ cái La tinh, các bậc chuyển
hoá được ký hiệu theo các nguyên tắc:
– Ghép thêm vào chữ cái chỉ bậc chữ is chỉ dấu thăng:
Đô thăng = C# = Cis;
Fa thăng = F# = Fis;
La thăng = A# = Ais…
– Ghép thêm vào chữ cái chỉ bậc chữ isis chỉ dấu thăng kép:
Sol thăng kép = G x = Gisis;
Rê thăng kép = D x = Disis…
– Ghép thêm vào chữ cái chỉ bậc chữ es chỉ dấu giáng:
Sol giáng = G ~ = Ges;
Đô giáng = Đô ~ = Ces
Rê giáng = Rê ~ = Des.
(Đối với các âm ký hiệu bằng nguyên âm như E, A thì bỏ chữ e đi cho
dễ đọc Mi giáng = E ~ = Es; La giáng = A ~ = As).
– Giáng kép được ký hiệu bằng chữ eses sau chữ cái chỉ bậc:
Rê giáng kép = D tri = Deses;
Sol giáng kép = G Mi = Geses;
Mi giáng kép = E 1'1' = Eses
1.4.3. Trùng âm
Do hệ thống bình quân chia quãng tám ra 12 nửa cung bằng nhau nên
ở cùng một bậc chuyển hoá nó có thể là âm nâng cao của bậc cơ bản ở dưới
nó nửa cung mà cũng có thể là âm hạ thấp của bậc cơ bản ở trên nó nửa
cung. Hiện tượng hai âm có cùng độ cao nhưng khác tên gọi và cách ghi ký
hiệu được gọi là Trùng âm
– Trùng âm giữa bậc cơ bản và bậc chuyển hoá:
– Trùng âm giữa hai bậc chuyển hoá:
1.4.4. Nửa cung và một cung diatonic – Nửa cung và một cung chromatic
– Nửa cung và một cung diatonic (Còn gọi là nửa cung và một cung
nguyên)
+ Nửa cung diatonic:
Là nửa cung được tạo ra bởi hai bậc cơ bản liền kề
Ngoài ra nó côn có thể được tạo ra bởi một bậc cơ bản và một bậc
chuyền hoá hên kề.
Hoặc giữa hai bậc chuyển hoá liền kề
+ Một cung diatonic:
Là môt cung được tạo ra bởi hai bậc cơ bản liền kề, trong một quãng
tám có đến 5 một cung diatonic:
Ngoài ra nó còn được tạo ra bởi một bậc cơ bản và một bậc chuyển
hoá hoặc cả hai bậc chuyền hoá liền kề.
– Nửa cung và một cung chromatic (còn gọi là nửa cung và một cung
hoá)
+ Nửa cung chromatic:
Được tạo ra giữa bậc cơ bản với bậc chuyển hoá cùng tên.
Ngoài ra nó còn được tạo ra giữa các dạng chuyển hoá trên cùng một
bậc
+ Một cung chromatic:
Được tạo ra giữa một bậc cơ ăn với bậc thăng kếp hoặc giáng kép của
nó.
Nó còn có thể được tạo ra giữa bậc thăng và bậc giáng của cùng một
bậc cơ bản.
Ngoài ra nó còn có thể được tạo ra bởi một cung giữa hai bậc cách
nhau một bậc.
BÀI TẬP MIỆNG
1. Các âm thanh mà tai chúng ta nghe được được chia làm mấy loại?
Sự khác nhau giữa chúng thể hiện ở những mặt nào?
2. Hãy trình bày những thuộc tính cơ bản của âm nhạc.
3. Thế nào là thang âm tự nhiên?
4. Thế nào là thang âm đầy đủ trong âm nhạc?
5. Trong âm nhạc có bao nhiêu bậc cơ bản? Đọc tên của chúng?
6. Thế nào gọi là quãng tám?
7. Có bao nhiêu quãng 8 trong thang âm đầy đủ? Tên của các quãng
tám?
8. Trình bầy cách ký hiệu âm bằng nốt nhạc?
9. Trình bầy cấu tạo của khuông nhạc.
10. Thế nào là dòng kẻ phụ? Thứ tự của dòng kẻ phụ?
11. Trình bầy những loại khoá nhạc thường dùng?
12. Trình bầy cách ký hiệu âm bằng hệ thống chữ cái La tinh.
13. Thế nào là dấu chuyển quãng 8?
14. Một quãng 8 có mấy nửa cung? Thế nào là một cung?
15. Trong một quãng 8 các bậc cơ bản được sắp xếp như thế nào?
16. Thế nào là bậc chuyền hóa?
17. Dấu hoá là gì? Kề tên các loại dấu hoá và viết ký hiệu của chúng.
18. Dấu hoá thường ở các vị trí nào trong bản nhạc?
19. Thế nào là trùng âm?
20. Thế nào là nửa cung diatomc và một cung diatonic?
21. Thế nào là nửa cung chromatic và một cung chromatic?
BÀI TẬP VIẾT
1. Viết ký hiệu cho các nốt nhạc sau bằng chữ cái La tinh.: Sol, Mi, Rê.
La, Fa, Si Đô. Đô thăng, Mi giáng, Fa thăng kép, Si giáng kép, Đô hoàn…
2. Viết trên khuông nhạc với khoá Fa các nốt nhạc sau: Sol, Mi giáng,
Rê. La, Fa thăng, Si giáng kép, Đô thăng…
3. Viết trên khuông nhạc với khoá Đô Alto các nốt nhạc sau: Đô, Sol, Mi
giáng, Fa thăng, La giáng, Rê. La, Fa, Si..
4. Viết lại các giai điệu sau cho đồng với độ cao thực tế:
5. Viết trên khuông nhạc với khoá Đô Tenor các nốt nhạc sau: Đô
thăng, Mi giáng, Fa, Si giáng. Đô…
6. Viết các âm sau thành nốt nhạc: Rê giáng. Mi. Fa tháng, Sol giáng,
Si sau đó từ chúng thành lập nửa cung đi–a–tô–nic đi lên và đi xuống.
7. Viết các âm sau thành nốt nhạc: Đô, Sol, Mi giáng, Fa thăng, La
giáng, sau đó từ chúng thành lập nửa cung chormatic đi lên và đi xuống
8. Viết các âm sau thành nốt nhạc: Si, Fa, Sol thăng, Rê giáng, Đô sau
đó từ chúng thành lập một cung diatonic đi lên và đi xuống
9. Tìm các âm trùng âm với những âm sau:
10. Viết lại những nốt nhạc sau sang khoá Fa
11.Viết lại những nốt nhạc sau sang khoá Đô Alto
12.Viết lại những nốt nhạc sau sang khoá Đô Tenor
BÀI TẬP TRÊN ĐÀN PIANO
1. Đánh trên đàn Piano các nết có ký hiệu sau:
C; Cis; Fes; G; D; Es; As;
2. Thành lập nửa cung điatonic đi lên và đi xuống từ các âm sau:
C; Dis; E; F
3. Thành lập một cung–chromatic đi lên và đi xuống từ các âm sau:
C; G; E; F
Chương 2. TRƯỜNG ĐỘ2.1. Ký hiệu trường độ. Nguyên tắc viết đuôi nốt.
Để ký hiệu trường độ khác nhau của các âm thanh, người ta thêm vào
các nốt hình bầu dục những đuôi nốt (vạch thẳng đứng). Đuôi nốt hướng lên
bám vào mép bên phải, còn hướng xuống bấm vào mép bên trái nốt nhạc.
Ngoài ra còn có những nét móc ở đuôi nốt nhạc để chỉ những nốt nhạc
có trường độ nhỏ. Dù đuôi nốt nhạc quay xuống hay quay lên, các nét móc
bao giờ cũng ở bên phải nốt nhạc. Thường có từ một đến bốn nét móc:
Tương quan giữa các trường độ cơ bản như sau:
Nốt tròn thường độ lớn nhất
Nốt trắng (trường độ bằng nửa nốt tròn)
Nốt đen (trường độ bằng nửa nối trắng)
Nốt móc đơn (trường độ bằng nửa nốt đen)
Nốt móc kép (trường độ bằng nửa nốt móc đơn)
Nốt móc ba (trường độ bằng nửa nốt móc kép)
Nốt móc bốn (trường độ bằng nửa nốt móc ba)
Những nốt có trường độ ngắn hơn nữa như móc năm, móc sáu Ê được
sử dụng. Các nốt có trường độ gấp đôi nốt tròn như lol, hoặc lối viết cổ là
(breve) ngày nay cũng ít dùng – Thường được dùng trong các loại nhịp 3/2,
4/2 trong nhạc phức điệu.
Hai hay nhiều nốt móc cùng có trường độ đứng cạnh nhau có thể dừng
vạch thẳng nối đuôi của chúng lại với nhau:
Trong một nhóm nốt móc có những trường độ khác nhau cũng có thể
dùng vạch nối đuôi nốt để thay thế các nét móc.
Hướng lên hoặc xuống của đuôi phụ thuộc vào vị trí nốt trong khuông
nhạc. Nếu như nốt nằm thấp hơn dòng thứ ba (dòng giữa của khuông nhạc)
thì viết đuôi quay lên. Nếu như nốt nằm cao hơn dòng thứ ba thì viết đuôi
quay xuống. Nốt nhạc nằm trên dòng thứ ba đuôi có thể quay lên hoặc quay
xuống (thường là quay xuống).
Để đảm bảo tính thẩm mỹ, đuôi nốt phải thẳng đứng, vuông góc với
khuông nhạc và nốt nhạc có đuôi có chiều cao tương đương với chiều rộng
của khuông nhạc.
Trong một nhóm nốt có vạch nối đuôi nốt, đuôi quay lên hay xuống là
tuỳ theo số nốt trong đó, nếu số nốt phải viết đuôi quay lên nhiều hơn thì cả
nhóm viết đuôi quay lên, nếu số nốt phải viết đuôi quay xuống nhiều hơn thì
cả nhóm viết đuôi quay xuống.
2.2. Dấu lặng
Lặng là sự ngừng vang. Trường độ của dấu lặng cũng được đo như
trường độ của âm thanh.
Dấu lặng bằng rường độ nốt tròn
Dấu lặng bằng trường độ nốt trắng
Dấu lặng bằng trường độ nốt đen
Dấu lặng bằng trường độ nốt móc đơn
Dấu lặng bằng trường độ nốt móc kép
Dấu lặng bằng trường độ nốt móc ba
Dấu lặng bằng trường độ nốt móc bốn
Dấu lặng bằng trường độ hai nết tròn
Thông thường, dấu lặng dùng chung cho các bè nằm trong khuông
nhạc. Trong trường hợp nếu dùng riêng cho từng bè thì dấu lặng có thể viết ở
bìa của khuông nhạc, đối với dấu lặng tròn hoặc dấu lặng trắng thì phải viết
thêm dòng kẻ phụ.
2.3. Dấu tăng trường độ
a. Dấu nối
Là dấu tăng trường độ có hình vòng cung, liên kết trường độ của các
nết cùng cao độ nằm cạnh nhau. Trường độ của nhóm các nốt được liên kết
bằng tổng trường độ của các nốt trong nhóm.
Nếu trong khuông nhạc chỉ có một bè, chiều cong của dấu nối liên kết
đặt được hướng đuôi nốt.
Nếu trong khuông nhạc có hai bè, chiều cong của dấu nối của mỗi bè
cùng hướng với đuôi nốt.
Nếu trong khuông nhạc có trên hai bè thì dấu nối liên kết cong cả về hai
hướng.
b. Dấu chấm dôi
Đặt bên phải nốt nhạc có tác dụng làm tăng thêm một nửa trường độ
nốt nhạc.
Ngoài ra, còn có nốt nhạc có hai dấu chấm dôi. Trong trường hợp này
dấu chấm dôi thứ hai có giá trị trường độ bằng nửa dấu chấm dôi thứ nhất.
Đôi khi dấu chấm dôi côn dùng cho cả đấu lặng.
Đối với nốt nắm ở khe khuông nhạc, dấu chấm dôi đặt ngang với nó.
Đối với nốt nằm trên dòng kẻ, dấu chấm dôi đặt cao hơn hoặc thấp hơn nốt
(thường cao hơn).
c. Dấu miễn nhịp
Có ký hiệu ~ hoặc ~ đặt trên hoặc dưới nốt nhạc. Nốt nhạc có dấu miễn
nhịp trường độ được tăng thêm một cách tự do tuỳ theo tính chất tác phẩm, ý
định và sở thích của người biểu diễn.
Dấu miễn nhịp còn được đặt trên hay dưới dấu lặng.
2.4. Cách ghi nhạc nhiều bè, ghi nhạc cho đàn Piano. Dấu vạch và ngoặc liên kết các khuông nhạc. Cách ghi nhạc cho hợp ca, hợp xướng.
Nếu trong một khuông nhạc có hai bè độc lập, thì đuôi các nốt của từng
bè viết riêng và quay về hai hướng khác nhau, nghĩa là bè trên đuôi quay lên
còn bè dưới đuôi quay xuống.
Trong trường hợp khi hai bè có cùng tiết tấu thì có thể chung đuôi.
Hướng đuôi nốt phải theo nguyên tắc chung tủa cách viết đuôi nốt.
Nếu trong một khuông nhạc có từ hai bè trở lên và tiết tấu các bè giống
nhau thì có thể viết đuôi chung hoặc viết đuôi về hai hướng khác nhau tuỳ
theo ý đồ phân bè của tác giả.
Âm nhạc cho đàn Piano thường đước ghi trên hai khuông nhạc, liên kết
với nhau bằng một dấu ngoặc ở đầu khuông gọi là dấu accolade. Các chùm
âm gồm hai nốt trở lên (tức là nhiều âm thanh ngân vang cùng một lúc) trình
bày trên mỗi khuông nhạc thường được viết chung cùng đuôi.
Hiếm gặp trường hợp các tác phẩm viết cho đàn Piano được ghi trên
ba khuông nhạc.
Âm nhạc viết cho giọng hát và cho nhạc cụ độc tấu có đệm piano được
ghi trên ba khuông nhạc.
Tác phẩm viết cho nhiều người cùng biểu diễn được ghi trên nhiều
khuông nhạc, các khuông được liên kết bằng dấu ngoặc kép. Âm nhạc cho
hợp xướng ba bè được ghi trên hai hoặc ba khuông nhạc, còn hợp xướng
bốn bè viết trên hai hay bốn khuông nhạc.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nốt nhạc có mấy giá trị trường độ cơ bản?
2. Cách viết hướng đuôi nốt.
3. Dấu lặng là gì? Kể ra các hình dấu lặng tương ứng với các giá trị
trường trường độ cơ bản của nốt nhạc.
4. Có mấy loại dấu tăng trường độ? Ký hiệu và tác dụng của từng loại?
5. Trình bày về cách ghi nhạc nhiều bè; Ghi nhạc cho đàn Piano; Ghi
nhạc cho hợp ca; hợp xướng.
BÀI TẬP VIẾT
1. Viết thay cho từng nhóm nốt dưới đây bằng một nốt:.
2. Viết thay cho các trường độ có dấu chấm dôi bằng các trường độ có
dấu nối:
3. Viết thay các trường độ dưới đây bằng các dấu lặng có trường độ
tương đương:
4. Viết thay các dấu lặng sau đây bằng các nốt có trường độ tương
đương:
Chương 3. TIẾT TẤU – TIẾT NHỊP VÀ LOẠI NHỊP – NHỊP ĐỘ3.1. Tiết tấu. Sự phân chia cơ bản và tự do trường độ
Tiết tấu là sự nối tiếp có tổ chức trường độ giống nhau hoặc khác nhau
của các âm thanh. Khi liên kết với nhau, trường độ của âm thanh tạo ra
những nhóm tiết tấu (âm hình tiết tấu) mà từ đó hình thành đường nét tiết tấu
chung của toàn bộ tác phẩm âm nhạc.
Nếu tách riêng, giai điệu trên đây có tiết tấu như sau.
Trong âm nhạc, người ta sử dụng hai loại trường độ:
1. Trường độ cơ bản gồm những nốt tròn, trắng, đen, móc đơn, v.v…
2. Trường độ tự do là những trường độ được tạo nên do sự phân chia
tự do các loại trường độ cơ bản thành những phần bằng nhau với bất cứ số
lượng nào.
Những hình thức phân chia tự do trường độ thường gặp sau đây:
a. Chùm ba được tạo nên do sự phân chia trường độ cơ bản không
thành hai mà thành ba phần.
b. Chùm năm được tạo nên do sự phân chia trường độ cơ bản không
thành bốn mà thành năm phần.
c. Chùm sáu được tạo nên do sự phân chia trường độ cơ bản không
thành bốn mà thành sáu phần.
d. Chùm bảy được tạo nên do sự phân chia trường độ cơ bản không
thành bốn mà thành bảy phần.
e. Chùm hai được tạo nên do sự phân chia độ dài cơ bản có chấm dôi,
không chia thành ba mà thành hai phần.
f. Chùm bốn được tạo nên do sự phân chia độ đài cơ bản có chấm dôi
không thành ba mà thành bốn phần.
Ngoài ra còn gặp những trường hợp phân chia trường độ cơ bản thành
nhiều phần nhỏ hơn nữa, chẳng hạn như những chùm 9, chùm 10, chùm 11
âm thanh hoặc nhiều hơn nữa.
Trong các chùm âm phân chia tự do có cả dấu lặng.
3.2. Tiết nhịp. Trọng âm. Phách. Loại nhịp. Ô nhịp. Vạch nhịp. Nhịp lấy đà
Trong âm nhạc, các âm thanh diễn ra có sự tổ chức về mặt thời gian.
Sự nối tiếp những trường độ thời gian bằng nhau có nhấn và không nhấn
được lặp lại một cách tuần hoàn gọi là tiết nhịp.
Tiết nhịp dùng để tổ chức các âm bằng những chỗ nhấn khác nhau.
Nhấn dùng để tổ chức tiết nhịp gợi là trọng âm.
Những khoảng thời gian trường độ bằng nhau có trọng âm và không có
trọng âm hình thành tiết nhịp gọi là phách. Phách có trọng âm gợi là phách
mạnh; phách không có trọng âm gọi là phách yếu. Phách của mỗi loại tiết nhịp
có thể được thể hiện bằng những trường độ khác nhau.
Sự thể hiện các phách của tiết nhịp bằng một trường độ nhất định gọi là
loại nhịp.. Loại nhịp được ký hiệu bằng hình thức gồm hai chữ số. Chữ số
trên chỉ số lượng phách, còn chữ số dưới chỉ giá trị trường độ mỗi phách của
loại nhịp
Ký hiệu loại nhịp được đặt sau khoá nhạc. Nếu bản nhạc có dấu hoá
sau khoá nhạc (hoá biểu) thì ký hiệu loại nhịp đặt sau hoá biểu.
Khoảng cách thời gian tính từ phách mạnh (trọng âm) trước đến phách
mạnh tiếp theo sau được gọi là ô nhịp.
Các ô nhịp phân cách nhau bằng những vạch thẳng đứng cắt ngang
khuông nhạc.
Những vạch ấy gọi là vạch nhịp. Vạch nhịp đặt trước phách mạnh để
làm cho nó nổi rõ hơn.
Vạch nhịp đôi có nét bên phải đậm hơn nét bên trái dùng để đắt ở cuối
tác phẩm hoặc đôi khi ở cuối một bộ phận tác phẩm. Còn vạch nhịp đôi có hai
nét mảnh bằng nhau đùng để đặt trước những khoá mới ghi vào giữa chừng
tác phẩm hoặc trước hoá biểu mới thay thế.
Nếu bản nhạc bắt đầu bằng phách nhẹ thì trước hết nó sẽ có một ô
nhịp không đầy đủ số phách quy định gọi là nhịp lấy đà. Nhịp lấy đà thường
có số phách không chiếm quá nửa tiết nhịp.
Ngoài vị trí ở đầu tác phẩm, nhịp lấy đà có thể được tạo nên ngay giữa
chừng tác phẩm.
Trong đa số trường hợp những tác phẩm hoặc bộ phận của tác phẩm
mở đầu bằng nhịp lấy đà thì kết thúc bằng một ô nhịp không đầy đủ số phách
quy định. Với ý nghĩa là ô nhịp bổ sung, ô nhịp này có số phách bằng đúng số
phách mà ô nhịp lấy đà bị thiếu.
3.3. Tiết nhịp và loại nhịp đơn. Cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp đơn
Tiết nhịp và loại nhịp đơn là tiết nhịp và loại nhịp có một, hai hay ba
phách và trong đó chỉ có một trọng âm.
a. Nhịp có một phách: 1/1, ½, ¼, 1/8
b. Nhịp có hai phách: 2/2, 2/4, 2/8; Nhịp 2/2 còn có kí hiệu là: ~
c. Nhịp có 3 phách: 3/2, 3/4., 3/8 và (ít gặp)
Phân nhóm trường độ là sự phân chia các nết trong ô nhịp thành từng
nhóm phù hợp với cơ cấu của loại nhịp.
Thực hiện nhóm trường độ bằng cách liên kết các nốt thành từng nhóm
bằng nét nối đuôi nốt. Nhóm trường độ là để giúp cho người biểu diễn thể
hiện tiết tấu được trở nên dễ dàng hơn.
Quy tắc phân nhóm trường độ chung được đặt ra đối với các loại nhịp
đơn là các nốt thuộc từng phách phải được tập hợp lại thành từng nhóm tách
rời nhau. Như vậy, trong nhịp đơn có bao nhiêu phách thì có bấy nhiêu nhóm
trường độ. Phân chia tiết tấu càng nhỏ thì việc áp dụng quy tắc này càng cần
thiết.
Tuy nhiên, khi phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp đơn,
có thể áp dụng một số quy tấc ngoại lệ sau:
1. Nếu trong ô nhịp gồm các nốt có trường độ giống nhau nhỏ hơn nốt
đen (móc đơn hay móc kép chẳng hạn) thì có thể liên kết tất cả bằng một
vạch nối đuôi nốt chung.
Trong nhịp –, nếu tất cả các nốt có trong độ là móc đơn và nhỏ hơn
móc đơn có thể liên kết thành một nhóm bằng vạch nối đuôi nốt.
2. Trong trường hợp tiết tấu chia nhỏ, mỗi nhóm chính (một phách) có
thể phân ra làm nhiều nhóm phụ bằng nhau. Nhóm phụ gắn liền với nhóm
chính bằng một vạch nối đuôi nốt chung.
3. Âm thanh có trường độ bằng cả ô nhịp thì ghi bằng một nốt, không
dùng d ấu nối trường độ.
4. Để thay cho dấu nối trường độ có thể dùng nốt có dấu chấm dôi. Tuy
nhiên, cũng không nên lạm dụng mà phá vỡ quy tắc phân chia nhóm trường
độ chung.
Khi phân nhóm trường độ, các dấu lặng cũng phải được coi là các nốt
nhạc có trường độ tương ứng.
Sau đây là một số thí dụ về cách phân nhóm trường độ trong các loại
nhịp đơn.
3.4. Tiết nhịp và loại nhịp kép. Cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp kép
Tiết nhịp và loại nhịp kép hình thành do kết hợp các tiết nhịp và loại
nhịp đơn giống nhau. Do đó nhịp kép có nhiều phách mạnh. Số lượng phách
mạnh trong nhịp kép tương ứng với số lượng nhịp đơn hình thành trong đó.
Trọng âm của nhịp đơn thứ nhất là phách mạnh còn trọng âm của các
nhịp đơn tiếp theo là những phách mạnh vừa.Sau đây là các tiết nhịp kép phổ
biến:
a. Tiết nhịp bốn phách gồm các loại nhịp: 4/4, 4/8, và 4/2 (ít gặp).
b. Tiết nhịp sáu phách gồm các loại nhịp: 6/4, 6/4, và 6/16 (ít gặp)
c. Tiết nhịp chín phách gồm các loại nhịp: 9/8 và 9/16 (ít gặp)
d. Tiết nhịp 12 phách gồm các loại nhịp: 12/8 và 12/6 (ít gặp).
Quy tắc phân nhóm trường độ chung được đặt ra đối với các loại nhịp
kép là mỗi nhịp đơn tham gia liên kết để tạo thành nhịp kép cần phải được
phân lập rõ ràng. Điều đó có nghĩa, trong nhịp kép có bao nhiêu nhịp đơn thì
thường có bấy nhiêu nhóm trường độ. Cách phân nhóm trường độ trong mỗi
nhóm (bằng nhịp đơn) đã được chỉ dẫn ở mục 3.3.
Sau đây là những thí dụ về các loại nhịp kép và cách phân nhóm
trường độ trong các loại nhịp đó.
3.5. Tiết nhịp và loại nhịp hỗn hợp. Cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp hỗn hợp.
Tiết nhịp và loại nhịp hỗn hợp hình thành bởi sự kết hợp của các tiết
nhịp và loại nhịp đơn khác nhau.
Thường dùng hơn cả là tiết nhịp và loại nhịp hình thành bởi sự kết hợp
hai tiết nhịp và loại nhịp đơn khác nhau:
Tiết nhịp có 5 phách gồm các loại nhịp: 5/4, 5/8
Tiết nhịp có 7 phách gồm các loại nhịp: 7/4, 7/8
Ngoài ra còn gặp tiết nhịp 8 phách với loại nhịp: 8/8
Hình thành do sự kết hợp của các nhịp đơn khác nhau nên trong tiết
nhịp và loại nhịp hỗn hợp, các phách mạnh phân bố không đều đặn.
Trường hợp thứ nhất, các phách mạnh thuộc về phách thứ nhất và
phách thứ ba, còn trong tương hợp thứ hai thuộc về phách thứ nhất và phách
thứ tư của ô nhịp
Trường hợp thứ nhất, các phách mạnh thuộc về phách thứ nhất, thứ tư
và thứ sáu, còn trong trường hợp thứ hai thuộc về phách thứ nhất, thứ ba và
thứ năm của ô nhịp.
Để chỉ dẫn trình tự tiếp nối các loại nhịp đơn trong ô nhịp, ngoài ký hiệu
ghi trong ngoặc bên cạnh ký hiệu loại nhịp trên đây, người ta còn dùng các
vạch nhịp ngắt rời để phân cách giữa chúng.
Cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp hỗn hợp
cũng tương tự như trong các loại nhịp kép, nghĩa là trong nhịp hỗn hợp có
bao nhiêu nhịp đơn thì có bấy nhiêu nhóm trường độ.
3.6. Nhịp biến đổi
Trong âm nhạc, đôi khi gặp các trường hợp thay đổi loại nhịp ngay
trong một bộ phận nào đó của tác phẩm. Sự thay đổi tiết nhịp đã làm xáo trộn
những chu kỳ của thời gian âm nhạc. Tiết nhịp thay đổi nên loại nhịp cũng
thay đổi.
Những loại nhịp như vậy gọi là nhịp biến đổi.
Sự thay đổi các loại nhịp có thể có chu kỳ hoặc không có chu kỳ tuần
hoàn. Loại nhịp thay đổi có chu kỳ được ký hiệu sau khoá nhạc đầu bản nhạc
(hay đoạn nhạc) một trật tự tiếp nối các loại nhịp trong mỗi chu kỳ.
Ký hiệu cho loại nhịp biến đổi không có chu kỳ được viết ngay trước
chỗ cần thay đổi loại nhịp. Loại này thường gặp hơn.
3.7. Cách phân nhóm trường độ trong thanh nhạc
Quy tắc chung của sự phân nhóm trường độ trong thanh nhạc là nếu
mỗi âm tiết của lời ca ứng với một nốt nhạc thì nốt nhạc phải được viết tách
rời.
Nếu một âm tiết ứng với một số nết thì số nốt đó họp thành một nhóm
trường độ và liên kết với nhau bởi dấu luyến (légato).
3.8. Đảo phách và nghịch phách
Đảo phách là kiểu nối tiếp tiết tấu trong đó, âm bắt đầu vang ở phách
nhẹ hoặc phần nhẹ của phách ngân sang phách mạnh hoặc phần mạnh của
phách sau đó.
Dưới đây là những hình thức đảo phách cơ bản thường gặp:
a. Trường độ có tương quan 1 – 1
b. Trường độ có tương quan 2 – 1, đôi khi 1 – 2
Ngoài ra, còn gặp hình thức đảo phách có tương nhân 3-1; 4-1; 6-1; 1-3
…v…v…
Hình thức đảo phách có tương quan 1 –1 nếu xuất hiện ở trong ô nhịp
thường viết thay hình thức hai nốt có dấu nối trường độ bằng hình thức một
nốt.
Nếu đảo phách từ ô nhịp này sang ô nhịp kia thì phải ghi bằng hai nốt
có dấu nổi trường độ qua vạch nhịp.
Nếu phách mạnh hoặc phần mạnh của phách được viết bằng dấu lặng
thì tạo nên hiệu quả cũng giống như đảo phách (tức là trọng âm được tạo nên
bất thường rơi vào phách nhẹ hoặc phần nhẹ của phách). Trường hợp này
còn được gọi là nghịch phách.
3.9. Nhịp độ
Nhịp độ là tốc độ chuyển động của tiết tấu. Trong âm nhạc, nhịp độ là
một phương tiện diễn cảm, nó gắn liền với nội đung âm nhạc.
Nhịp độ ký hiệu bằng chữ, viết trên khuông nhạc ở đầu bản nhạc hay
đoạn nhạc, chương nhạc chịu tác dụng. Phổ biến hơn cả là hệ thống ký hiệu
chíp độ bằng tiếng Ý. Ngoài ra, ở mỗi quốc gia, nhịp độ còn được các nhạc sĩ
sử dụng chữ viết dân tộc mình để ký hiệu.
Dưới đây là một số ký hiệu chủ yếu về nhịp độ.(có thể tham khảo thêm
phần Một số thuật ngữ âm nhạc thông dụng ở phần cuối cuốn sách, trang
199)
Nhịp độ chậm:
– Largo Rộng rãi
– Larghetto Không chậm bằng Largo
– Adagio Chậm
– Gravo Nặng nề
– Andante Chậm
Nhịp độ vừa:
– Andantino Thanh thản, thong thả
– Modérato Vừa phải
– Allégeretto Hơi nhanh, sinh động
Nhịp độ nhanh:
– Allégro Nhanh
– Vivo Nhanh linh hoạt
– Vivace Khá nhanh
– Presto Hối hả, rất nhanh
– Presstissimo Cực nhanh
Thêm vào để làm rõ những ký hiệu cơ bản trên, thường có chữ phụ
sau:
– Molo Rất
– Assai Rất, khá
– Con moto Linh hoạt
– Non troppo Không quá
– Non tanto Không đến nỗi
– Sempre Thường xuyên, luôn luôn
– Poco Không nhiều
– Meno mosso Kém linh hoạt hơn
– Piu mosso Linh hoạt hơn
Để tăng nhanh dần tốc độ chuyển động người ta dùng các ký hiệu sau:
– Accelerando Nhanh hơn
– Animando Hào hứng, phấn khởi
– Streno Dồn lại
– Stringendo Nhanh lên
Để ghìm lại dần tốc độ:
– Ritenuto Kìm lại
– Ritardando Muộn lại
– Rallentando (Rall.) Chậm lại
– Allargando Giãn ra
– Slentando Chậm lại
Để trở lại tốc độ trước đó người ta dùng những ký hiệu sau:
– Tempo primo (hoặc Tempo 1) Nhịp độ đầu tiên
– A tempo Vào nhịp độ
– Tempo giusto Nhịp độ chính xác
– L'istesso tempo Cũng nhịp độ ấy
Muốn có nhịp độ đi chệch ra ngoài nhịp độ đều đặn một chút thì dừng
ký hiệu tempo, tức là lơi nhịp.
Đi chệch hẳn ra ngoài nhịp độ thì dùng ký hiệu Ad libitum hoặc A
piacere, có nghĩa là tự do, tuỳ ý.
Các loại chíp độ dùng trong âm nhạc được ký hiệu trên đây chỉ mang
tính tương đối. Để quy định nhịp độ chính xác, người ta dùng máy gõ nhịp
(Métronome). Trước đây, các nhạc sĩ dùng máy gõ nhịp vận hành theo
phương pháp cơ học. Tốc độ được điều chỉnh bằng quả lắc. Quả lắc chuyển
động đều được nhờ một bộ máy chạy bằng dây cót. Người nhạc sĩ có thể
điều chỉnh quả lắc theo cột chia số chỉ tốc độ trên thành phía trước của máy
gõ nhịp để có được một tốc độ tuỳ ý. Giữa hai tiếng gõ là khoảng thời gian
chia đều trong một phút. Vì vậy để ký hiệu nhịp độ theo máy Métronome
người ta ghi:
Ký hiệu nhịp độ theo máy gõ nhịp được ghi sau ký hiệu chỉ tốc độ bằng
Khi công nghệ điện tử ra đời và phát triển, các nhạc sĩ còn sử dụng
máy gõ nhịp điện tử rất gọn nhẹ và tiện lợi.
3.10. Ý nghĩa của tiết tấu, tiết nhịp và nhịp độ trong âm nhạc
Như đã nêu ở chương III. mức 3, tiết tấu là sự nối tiếp có tổ chức
trường độ các âm thanh, nó có ý nghĩa to lớn đối với quá trình hình thành nên
những hình tượng âm nhạc.
Có một số thể loại âm nhạc gắn liền với những loại tiết nhịp và tiết tấu
nhất định. Chẳng hạn, các thể loại âm nhạc như Valse, Mazurka, Polka, hành
khúc v.v… đều có những âm hình tiết tấu đặc trưng riêng của từng thể loại.
Hoặc chỉ bằng sự lặp lại liên tục âm hình tiết tấu sau đây, tiếng trống
ngũ liên có thể tạo được một không khí rất sôi động, giục giã lòng người.
Qua các thí dụ trên có thể thấy tiết nhịp (tổ chức thời gian âm nhạc theo
chu kỳ đều đặn) có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời với tiết tấu. Tiết
nhịp trong âm nhạc giống như luật nhịp trong thơ ca. Chính nó là yếu tố quan
trọng để truyền tải những hình tượng nghệ thuật.
Trong âm nhạc, cùng với tiết tấu, tiết nhịp, nhịp độ cũng có ý nghĩa rất
to lớn, bởi vì tốc độ chuyển động được quy định nhanh hay chậm đều phù
hợp với tính chất, nội dung âm nhạc. Đối với người biểu diễn, nếu xử lý nhịp
độ không đúng dễ làm sai lệch méo mó đi những hình tượng âm nhạc.
Chẳng hạn, nhịp độ nhanh thể hiện không khí khẩn trương, sôi nổi, sự
hồi hộp, lo sợ; nhịp độ nhanh vừa thường thấy trong các khúc khải hoàn;
nhạc mang tính chất đồng quê hay các bài hát dân ca trữ tình thường có nhịp
độ vừa phải; còn nhịp độ chậm thường gặp trong các tác phẩm mang tính tự
sự, các ban hành khúc tang lễ, bi thương v.v…
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tiết tấu là gì? Thế nào là sự phân chia cơ bản và tự do trường độ?
2. Trình bày về các khái niệm thuật ngũ Tiết nhịp, trọng âm, loại nhịp và
nhịp lấy đà
3. Vạch nhịp đôi đùng trong những trường hợp nào?
4. Thế nào là tiết nhịp và loại nhịp đơn? Cách phân nhóm trường độ
trong ô nhịp của các loại nhịp đơn?
5. Thế nào là tiết nhịp và loại nhịp kép? Cách phân nhóm trường độ
trong ô nhịp của các loại nhịp kép?
6. Thế nào là tiết nhịp và loại nhịp hỗn hợp? Cách phân nhóm trường
độ trong ô nhịp của các loại nhịp hỗn hợp?
7. Nhịp biến đổi là gì?
8. Cách phân nhóm trường độ trong thanh nhạc?
9. Thế nào là đảo phách, nghịch phách?
10. Nhịp độ là gì?
11. Ý nghĩa của tiết tấu, tiết nhịp và nhịp độ trong âm nhạc?
BÀI TẬP VIẾT
1. Căn cứ vào đặc điểm phân nhóm trường độ, hãy xác định loại nhịp
của các thí dụ sau:
2. Phân nhóm trường độ và vạch nhịp cho các câu nhạc sau:
3. Viết thay cho các nhóm tiết tấu phân chia tự do sau bằng một trường
độ tương đương:
4.Đánh dấu " > " hoặc “>>” trên các phách mạnh và dấu " > " trên các
phách tương đối mạnh trong các loại nhịp sau:
5. Chỉ ra các chỗ đảo phách và nghịch phách trong thí dụ sau
Chương 4. QUÃNG4.1. Quãng, cách đọc quãng
Quãng là khoảng cách trong cao độ giữa hai âm thanh.
Nếu hai âm thanh phát ra đồng thời: gọi là quãng hoà thanh.
Nếu hai âm thanh phát ra nối tiếp nhau: gọi là quãng giai điệu.
Âm dưới của quãng gọi là âm gốc (ở các thí dụ trên là nốt Đô), còn âm
trên gọi là âm ngọn (ở các thí dụ trên là nốt Sol).
Tất cả các quãng hoà thanh và quãng giai điệu đi lên đọc từ dưới lên
(tức là đọc âm gốc trước, âm ngọn sau).
Riêng các quãng giai điệu đi xuống đọc từ trên xuống.
4.2. Độ lớn, số lượng và chất lượng của quãng
Mỗi quãng được xác định bởi hai độ lớn: Độ lớn số lượng và độ lớn
chất lượng.
Độ lớn số lượng là độ lớn thể hiện bằng số lượng bậc âm có trong
quãng.
Chẳng hạn, quãng Đô – Mi có độ lớn số lượng là 3 (vì có ba bậc: Đô –
Rê – Mi) nên gói là quãng ba; quãng Rê – Si có độ lớn số lượng là 6 (vì có
sáu bậc: Rê – Mi– –Fa – Sol – La – Si) nên gọi là quãng sáu.
Độ lớn chất lượng là độ lớn thể hiện bằng số cung và nửa cung tạo
thành quãng. Chẳng hạn quãng Đô – Mi có độ lớn chất lượng gồm 2 cung,
quãng Rê – Si có độ lớn chất lượng gồm 4½ cung.
Tính chất của quãng phụ thuộc vào độ lớn chất lượng được quy định
bằng nhũng từ: Đúng, trưởng, thứ, giảm, tăng kép, giảm kép. Những từ này
viết và đọc sau con số chỉ độ lớn số lượng.
4.3. Quảng cơ bản
Quãng cơ bản là quãng được tạo nên giữa các bậc cơ bản của hàng
âm.
Gồm có 14 quãng cơ bản sau:
– Quãng một đúng = 0 cung
– Quãng hai thứ = ½ cung
– Quãng hai trưởng = 1 cung
– Quãng ba thứ = 1 ½ cung
– Quãng ba trưởng = 2 cung
– Quãng bốn đúng = 2 ½ cung
– Quãng bốn tăng = 3 cung
– Quãng năm giảm = 3 cung
– Quãng năm đúng = 3 ½ cung
– Quãng sáu thứ = 4 ½ cung
– Quãng sáu trưởng = 4 ½ cung
– Quãng bảy thứ = 5 cung
– Quãng bảy trưởng = 5 ½ cung
– Quãng tám đúng = 6 cung
4.4. Quãng cơ bản có bậc chuyển hoá
Các quãng giữa các bậc cơ bản trên đây đều có thể được mở rộng
bằng cách nâng cao âm ngọn hoặc hạ thấp âm gốc, thu hẹp bằng cách hạ
thấp âm ngọn hoặc nâng cao âm gốc.
Những quãng cơ bản và những quãng cơ bản có bậc chuyển hoá nắm
trong số 14 quãng cơ bản đã được liệt kê ở trên đều được gọi là quãng
diatonic. Đây là các quãng được tạo nên giữa hai bậc côn gam trưởng tự
nhiên và' thứ tự nhiên (xem mục 5.1 trong chương V).
Như vậy tất cả các quãng diatonic đều có thể được cấu tạo đi lên và đi
xuống từ bất cứ bậc cơ bản hoặc chuyển hoá nào.
4.5. Quãng tăng và quãng giảm. Quãng chromatic
Quãng tăng là quãng có độ lớn số lượng như quãng đúng và quãng
trưởng nhưng có độ lớn chất lượng nhiều hơn nữa cung.
Quãng giảm là quãng có độ lớn số lượng như quãng đúng và quãng
thứ nhưng có độ lớn chất lượng ít hơn nửa cung.
Tất cả các quãng tăng và giảm (trừ quãng 4 tăng và 5 giảm) đều gọi là
quãng chromatic. Như vậy, không nên lăn lộn giữa hai nhóm quãng được
phân chia:
+ Nhóm 1: gồm tất cả các quãng đúng.
+ Nhóm 2: gồm tất cả các quãng trưởng và thứ.
Các quãng thuộc nhóm 1 gồm các quãng 1, 4, 5 và 8.
Các quãng thuộc nhóm 2 gồm các quãng 2, 3, 6 và 7.
Các quãng tăng, giảm đều có trong hai nhóm.
Tương quan giữa các quãng trong nhóm theo trật tự bớt dần đi ½ cung,
thể hiện như sau:
Ngoài ra còn có các quãng tăng kép và giảm kép. Trong số này thường
gặp hơn cả là các quãng 4 tăng kép, quãng 5 giảm kép, quãng 1 và quãng 8
tăng kép, quãng 8 giảm kép.
4.6. Trùng quãng
Trùng quãng là quãng có âm vang giống nhau nhưng cách ghi và ý
nghĩa khác nhau.
Có hai loại trùng quãng:
– Các quãng có cùng độ lớn chất lượng nhưng khác độ lớn số lượng.
– Các quãng có cùng độ lớn số lượng và chất lượng.
4.7. Quãng đơn và quãng ghép
Quãng đơn là quãng có độ lớn số lượng tối đa là 8 (quãng 8).
Quãng ghép là quãng có độ lớn số lượng lớn hơn quãng 8. Ký hiệu độ
lớn chất lượng của các quãng ghép cũng giống như quãng đơn, nghĩa là:
đúng, trưởng, thứ, tăng, giảm. Mỗi quãng ghép là một quãng đơn thêm vào
một quãng 8. Do vậy, có hai cách gọi tên:
1. Gọi tên theo độ lớn số lượng vốn có của quãng.
2. Gọi tên theo quãng đơn thêm một quãng 8 để trở thành quãng ghép.
Cách 1 Cách 2
Quãng 9 (9 bậc) Quãng 2 thêm quãng 8
Quãng 10 (10 bậc) Quãng 3 thêm quãng 8
Quãng 11 (11 bậc) Quãng 4 thêm quãng 8
Quãng 12 (12 bậc) Quãng 5 thêm quãng 8
Quãng 13 (13 bậc) Quãng 6 thêm quãng 8
Quãng 14 (14 bậc) Quãng 7 thêm quãng 8
Quãng 15 (15 bậc) Quãng 8 ghép
4.8. Đảo quãng
Sự xáo trộn các âm của quãng khiến cho âm gốc thành âm ngọn, âm
ngọn thành âm gốc gọi là đảo quãng.
Đối với các quãng đơn, có hai cách đảo quãng:
1. Giữ nguyên âm ngọn, đưa âm gốc lên một quãng 8.
2. Giữ nguyên âm gốc, hạ âm ngọn xuống một quãng 8.
Chẳng hạn, có hai nét giai điệu A và B sau đây:
Khi chúng kết hợp cùng nhau sẽ tạo nên các quãng hoà thanh:
Nếu giữ nguyên giai điệu A, đưa giai điệu B lên một quãng 8, sẽ khiến
cho bè trên giờ đây trở thành bè dưới, bè dưới đổi thành bè trên. Các quãng
hoà thanh tạo nên do sự kết hợp hai bè cũng sẽ có sự thay đổi theo.
Hoặc giữ nguyên giai điệu B, đưa giai điệu A xuống quãng 8 cũng tạo
nên hệ quả tương tự.
Khi đảo quãng, sinh ra các quy luật sau:
1. Tổng độ lớn số lượng của hai quãng trước và sau khi đảo là 9.Vì
vậy, muốn biết quãng đảo lấy 9 trừ đi quãng cho trước.
2. Trừ quãng đúng, các quãng sau khi đảo đều trao đổi tính chất cho
nhau:
Đúng đảo thành Đúng
Trưởng đảo thành Thứ
Thứ đảo thành Trưởng
Tăng đảo thành Giảm
Giảm đảo thành Tăng
Tăng kép đảo thành Giảm kép
Giảm kép đảo thành Tăng kép
Đối với các quãng ghép. muốn cho âm gốc thành âm ngọn, âm ngọn
thành âm gốc phải vận dụng phương pháp sau:
1. Giữ nguyên âm ngọn, đưa âm gốc lên hai quãng 8.
2. Giữ nguyên âm gốc, đưa âm ngọn xuống hai quãng 8.
3. Đưa âm gốc lên một quãng 8 đồng thời đưa âm ngọn xuống một
quãng 8.
4.9. Tính chất thuận và nghịch của quãng
Các quãng hoà thanh diatonic có hai nhóm tính chất: Nhóm các quãng
mang tính chất thuận và nhóm các quãng mang tính chất nghịch. Tính chất
thuận nghịch của quãng được xác nhận là dựa vào cảm giác của tai nghe.
Những quãng thuận nghe hoà hợp êm tai, còn các quãng nghịch nghe chói
tai, không hoà hợp.
Các quãng mang tính chất thuận gồm:
1. Quãng thuận hoàn toàn gồm có quãng 1 đúng và quãng 8
đúng
2. Quãng thuận gồm các quãng 5 đúng và quãng 4 đúng.
3. Quãng thuận không hoàn toàn gồm các quãng 3 trưởng, 3 thứ,
6 trưởng, 6 thứ.
Các quãng mang tính chất nghịch gồm:
1. Quãng rất nghịch gồm có 2 quãng thứ, 7 trưởng, 4 tăng, 5
giảm.
2. Quãng nghịch gồm quãng 2 trường, 7 thứ.
Về nguyên tắc, tích chất thuận và nghịch của quãng sau khi đảo không
biến đổi.
Như trong mục 4.6 chương IV đã nêu, các quãng tăng, giảm (quãng
chromatic) có thể trùng với quãng thuận diatonic (chẳng hạn quãng 4 giảm =
3 trưởng; quãng 7 tăng = 8 đúng, v.v…) Do vậy, tính chất nghịch của các
quãng tăng giam chỉ thể hiện trên mặt lý thuyết mà thôi.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quãng là gì? Thế nào là quãng hoà thanh, quãng giai điệu? Cách
đọc quãng?
2. Thế nào là độ lớn số lượng và chất lượng của quãng?
3. Quãng cơ bản là gì? Có bao nhiêu quãng cơ bản? Hãy kể tên các
quãng cơ bản cùng độ lớn chất lượng của chúng?
4. Làm cách nào để có thể mở rộng hoặc thu hẹp quãng?
5. Thế nào là quãng diatonic và quãng chromatic?
6. Trùng quãng là gì?
7. Thế nào là quãng đơn và quãng ghép? Quãng ghép có mấy cách gọi
tên?
8. Đảo quãng là gì? Cách đảo quãng đơn và quãng ghép?
9. Trình bày về tính chất thuận nghịch của quãng?
BÀI TẬP VIẾT
1. Từ mỗi bậc cơ bản, lập các quãng diatonic đi lên và đi xuống.
2. Từ mỗi bậc chuyển hoá, lập các quãng diatonic đi lên và đi xuống.
3. Từ mỗi bậc cơ bản, lập các quãng tăng và giảm đi lên và đi xuống.
4. Đánh dấu (+) các quãng chromatic dưới đây:
5. Xác định độ lớn của các quãng dưới đây, sau đó dùng dấu hoá để
chuyển chúng thành các quãng trưởng và quãng giảm.
6. Xác định độ lớn của các quãng dưới đây, sau đó dùng dấu hoá để
chuyển chúng thành các quãng thứ và quãng tăng.
7. Xác định độ lớn số lượng và độ lớn chất lượng của các quãng ghép
sau:
8. Xác định độ lớn số lượng và độ lớn chất lượng của các quãng rồi
sau đó viết các quãng đảo của chúng có ghi rõ độ lớn số lượng và độ lớn chất
lượng kèm theo.
9. Đánh dấu "+" vào các quãng nghịch trong số các quãng sau:
10. Tìm các quãng trùng của những quãng sau:
BÀI TẬP TRÊN ĐÀN PIANO
Thành lập các quãng 3 thứ, 3 trưởng, 4 đúng, 4 tăng, 5 giảm, 5 đúng, 6
thứ, 6 trưởng, 7 thứ, 7 trưởng đi lên và đi xuống từ các bậc cơ bản và chuyển
hoá.
Chương 5. ĐIỆU THỨC VÀ GIỌNG5.1. Khái niệm về âm ổn định, âm chủ, âm không ổn định. Sự giải quyết âm không ổn định. Điệu thức
Khi nghe một tác phẩm hay giai điệu, chúng ta cảm nhận thấy trong số
các âm nổi lên một số âm đóng vai trò như các điểm tựa. Những âm này gọi
là âm ổn định.
Có một trong số các âm ổn định nổi rõ hơn các âm khác, nó được coi là
điểm tựa vững chắc nhất. Đó là âm chủ. Âm này thường dùng để kết thúc một
ý nhạc hoàn chỉnh hay một tác phẩm âm nhạc.
Trong đoạn nhạc trên, ba âm Đô, Mi, Sol là các âm ổn định, trong đó,
âm Đô là âm chủ.
Các âm ổn định trong giai điệu thể hiện chủ yếu ở ba mặt:
– Biểu hiện về mặt cao độ.
Giữ chức năng tựa trong quá trình vận động giai điệu, các âm ổn định
thường trên kết với nhau để tạo thành khung tựa âm điệu.
– Biểu hiện về mặt trường độ.
Biểu hiện về mặt trường độ của các âm ổn định trong giai điệu chính là
sự kéo dài thời gian ngân vang của chúng. Trong các ví dụ trên, các âm Đồ,
Mi, Sol là các âm có trường độ lớn hơn các âm khác.
– Biểu hiện về mặt cường độ:
Biểu hiện về mặt cường độ của các âm ổn định khi chúng xuất hiện tại
các thời điểm trọng âm hoặc phần đầu của phách.
Trong thí dụ trên, ba âm Đô, Mi, Soi luôn thay nhau xuất hiện tại các vị
trí trọng âm của tiết nhịp, bởi thế đã tạo nên một khung tựa âm điệu vững
chắc cho đường nét chuyển động của giai điệu.
Trái ngược với các âm ổn định là các âm không ổn định. Trong giai
điệu, các âm không ổn định xoay quanh âm ổn định và bị hút về âm ổn định.
Chuyển từ âm không ổn định về âm ổn định hay chuyển từ âm ổn định
nào đó về âm chủ gọi là sự giải quyết.
Trong âm nhạc, mối tương quan về cao độ giữa các âm thanh được
diễn ra theo những quy luật nhất định. Hệ thống các mối tương quan giữa âm
ổn định và âm không ổn định, giữa âm chủ với các âm khác théo một quy luật
nhất định gọi là điệu thức.
Điệu thức (Mode) là cơ sở tổ chức mối tương quan về cao độ giữa các
âm thanh. Đó chính là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng giai điệu, hoà âm
hay một số phương tiện biểu cảm khác của nghệ thuật âm nhạc.
5.2. Điệu thức trưởng. Gam trưởng tự nhiên. Các bậc. Tên gọi, ký hiệu và chức năng các bậc trong điệu trưởng. Khuynh hướng giải quyết các bậc âm không ổn định
Điệu trưởng là điệu thức gồm có bảy bậc âm, trong đó ba bậc âm ổn
định là bậc I, III, V liên kết với nhau tạo thành hợp âm ba trưởng.
Sự sắp xếp bảy âm thanh của điệu thức từ âm chủ (bậc I) đến âm chủ
ở quãng tám tiếp theo thứ tự từ thấp lên cao hay từ cao xuống thấp tạo thành
gam. Các âm thanh hợp thành gam gọi là các bậc. Như vậy, các bậc của gam
đồng thời cũng là các bậc của điệu thức.
Các bậc của điệu thức được ký hiệu bằng chữ số La Mã.
Tương quan quãng hai giữa các bậc của gam trưởng tự nhiên theo thứ
tự tính từ dưới lên như sau: 2T, 2T, 2t, 2T, 2T, 2T, 2t.
Điệu thức thể hiện qua tương quan trên đây là điệu thức trưởng tự
nhiên.
Gam trưởng tự nhiên được tạo nên bởi hai nhóm bốn âm giống nhau
về cơ cấu quãng (tetra corde). Hai nhóm bốn âm nối liền nhau bằng quãng
hai trường.
Ngoài ký hiệu bảng chữ số La Mã, mỗi bậc của gam còn mang tên
riêng phản ánh chức năng của chúng trong điệu thức.
Bậc I Âm chủ Ký hiệu là T
Bậc II Âm dẫn xuống
Bậc III Âm trung
Bậc IV Âm hạ át Ký hiệu là S
Bậc V Âm át Ký hiệu là D
Bậc VI Âm hạ trung
Bậc VII Âm dẫn lên
Âm chủ, hạ át và át là các bậc âm chính, còn lại là các bậc âm phụ.
Âm át nằm ở vị trí cao hơn âm chủ quãng năm đúng. Âm bậc ba nằm
giữa chúng gọi là âm trung.
Âm hạ át nằm ở vị trí thấp hơn âm chủ quãng năm đúng. Âm bậc sáu
nằm giữa chúng nện gọi là âm hạ trung.
Các bậc II và VII đứng gần âm chủ nên bị hút về âm chủ. Bởi thế chúng
được gọi là âm dẫn.
Như đã nêu, trong điệu thức có ba bậc âm ổn định là bậc I, III và V.
Tính chất ổn định của ba bậc âm này không giống nhau. Bậc I (âm chủ) là
trung tâm của các mối quan hệ điệu thức nên ổn định hơn bậc III và V.
Bốn bậc âm côn lại II, IV, VI và VII là các bậc âm không ổn định. Trong
tiến hành giai điệu, các bậc âm này thường có xu hướng bị hút qua quãng hai
về các bậc âm ổn định.
Tính chất căng thắng của các bậc âm ổn định cũng không giống nhau,
nó phụ thuộc vào hai yếu tố sau:
1. Khoảng cách giữa bậc âm không ổn định và ổn định càng gần thì
sức hút càng mạnh. Cụ thể ở đây là sức hút qua nửa cung (VII I, IV III)
hao giờ cung mạnh hơn sức hút qua một cung (II I, II III, IV V, VI
V).
2. Bậc âm ổn định hơn có sức hút mạnh hơn (chẳng hạn âm bậc II hút
về âm chủ mạnh hơn âm bậc III).
Xu hướng giải quyết các bậc âm không ổn định vê bậc âm ổn định
trong điệu trưởng thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
Những vấn đề nêu ra trên đây như mối tương quan quãng hai giữa các
bậc trong gam, xu hướng hút dẫn qua quãng hai từ các bậc âm không ổn định
về các bậc âm ổn định chỉ là tiêu biểu trong hệ thống các mối quan hệ chức
năng điệu thức. Ngoài ra, các mối quan hệ quãng ba, quan hệ quãng bốn,
năm, nhất là quan hệ giữa các bậc chính (IV – I – V) có ý nghĩa rất to lớn
trong âm nhạc cũng không kém phần quan trọng.
5.3. Giọng. Các giọng trưởng có dấu thăng và dấu giáng. Vòng quãng năm. Các giọng trưởng trùng âm
Giọng là điệu thức được thể hiện trên một độ cao nhất định. Giọng còn
gọi là điệu tính.
Tên của giọng gồm hai phần: Tên âm chủ và tên điệu thức, tức là từ
“trưởng”. Ký hiệu là. Dur(*).
Thí dụ: Đô trưởng. (Tiếng ý: C–dur; Tiếng Anh: C– major)
Mi thứ. (Tiếng ý: e– moll, Tiếng Anh: e– minor)
Thông thường, tên âm chủ của giọng trưởng viết bằng chữ in, còn âm
chủ của giọng thứ thì viết bằng chữ thường.
Giọng trưởng có thể thành lập trên bất kỳ bậc cơ bản hay chuyển hoá
nào. Mặc dù âm chủ là bất cứ âm nào, tương quan giữa các bậc của các
giọng trưởng đều giống nhau.
Như vậy để cấu tạo một tương quan điệu thức như thế, trên các độ cao
khác nhau, trừ giọng Đô trưởng, một hoặc một số bậc của đám cần phải
chuyển hoá cho phù hợp (tức là cần những dấu hoá).
Chú ý: Để tránh viết nhiều lần, những dấu hoá cần dùng để điều chỉnh
các bậc cho đúng với tương quan điệu thức được đưa về viết ở sau khoá
nhạc. Dấu hoá như thế gọi là dấu hoá ở sau khoá nhạc hay còn gọi là hoá
biểu (xem thêm ở chương I, mục 1.4.2)
Dấu hoá sau khoá nhạc bao giờ cũng cùng một loại, hoặc chỉ là những
dấu thăng, hoặc chỉ là những dấu giáng, xuất hiện theo một thứ tự nhất định.
Khởi đầu từ giọng Đô trưởng (giọng được cấu tạo bởi bảy bậc cơ bản)
nếu đi lên liên tiếp quãng năm đúng ta sẽ gặp các giọng trưởng lần lượt có từ
một đến bảy dấu thăng (nghĩa là âm chủ của giọng mới sẽ là bậc V của giọng