Giặc Pháp dùng chính sách ngu dân đầu độc dân Việt. Đức Huỳnh Giáo Chủ chống chính sách ngu dân của giặc pháp bằng những quyển sấm giảng thức tỉnh lòng dân thi hành tứ trọng ân, quan trọng nhứt là ân đất nước đồng bào, kêu gọi toàn dân chống giặc Tây Mỹ: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!” Ngày 16-4-1947, Đức Thầy vào Đốc Vàng viết thơ {thông điệp} ký thác cho Việt Minh phải đánh thắng 3 cuộc chiến chống Tây Mỹ Tàu. Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!* Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm. Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê. Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to. Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì. Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!* Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết ở Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939) * Cụm từ “khóa không chìa”, ám chỉ từ năm 1975, người vào tù {trại cải tạo}, không biết Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ”, câu này bị kẻ tà tây {kẻ tà theo Tây U} sửa lại là “Hết Đây rồi đến Dị Kỳ”. Nên nhớ bất cứ ai bôi sửa kinh sấm của chư vị Bồ Tát đều phải chịu tội đày địa ngục. Nói cho lớn nhỏ ghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình. Giữ lời Thầy dạy đinh ninh, Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U. * Lành thời niệm Phật công phu, Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi. (Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953) * U = USA ám chỉ Huê Kỳ Cô ơi, nước Việt Nam thiếu gì trai trẻ, Mà vội đi lấy lẽ “Ba Tàu”?! Của tiền quý báu là bao, Đem tuổi mười tám so vào bốn mươi? Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ, Để ngày kia ủ rũ đau thương. Khi “Ba Tàu” xách gói hồi hương, Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ thẩn. Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận, Cô vì chàng mà bẩn tiết trinh. (Lời Đức Thầy năm 1946) Hồn Việt Nhớ thuở ban đầu lưu luyến ấy
6
Embed
(L c Th - WordPress.com...Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Giặc Pháp dùng chính sách ngu dân đầu độc dân Việt. Đức Huỳnh Giáo Chủ chống chính
sách ngu dân của giặc pháp bằng những quyển sấm giảng thức tỉnh lòng dân thi hành tứ
trọng ân, quan trọng nhứt là ân đất nước đồng bào, kêu gọi toàn dân chống giặc Tây Mỹ:
“Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!” Ngày 16-4-1947,
Đức Thầy vào Đốc Vàng viết thơ {thông điệp} ký thác cho Việt Minh phải đánh thắng 3
cuộc chiến chống Tây Mỹ Tàu.
Đừng ham làm chức nắc nia,
Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!*
Tu hành như thể thả trôi,
Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề,
Lại thêm ác thú mãng xà rít to.
Bá gia ai biết thì lo,
Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.
Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,*
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!*
Dân nay như thể không cha,
Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo
Chủ viết ở Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)
* Cụm từ “khóa không chìa”, ám chỉ từ năm 1975, người vào tù {trại cải tạo}, không biết
Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ”, câu này bị kẻ tà tây {kẻ tà theo Tây U} sửa
lại là “Hết Đây rồi đến Dị Kỳ”. Nên
nhớ bất cứ ai bôi sửa kinh sấm của chư vị
Bồ Tát đều phải chịu tội đày địa ngục.
Nói cho lớn nhỏ ghi lòng,
Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.
Giữ lời Thầy dạy đinh ninh,
Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U. *
Lành thời niệm Phật công phu,
Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi. (Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào
Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm
Quý tị 1953) * U = USA ám chỉ Huê Kỳ
Cô ơi, nước Việt Nam thiếu gì trai trẻ,
Mà vội đi lấy lẽ “Ba Tàu”?!
Của tiền quý báu là bao,
Đem tuổi mười tám so vào bốn mươi?
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ,
Để ngày kia ủ rũ đau thương.
Khi “Ba Tàu” xách gói hồi hương,
Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ thẩn.
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận,
Cô vì chàng mà bẩn tiết trinh. (Lời Đức Thầy năm 1946)
Cô tủi thân, cô lại bất bình,
Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại.
Hồn
Việt
Nhớ thuở ban đầu lưu luyến ấy
ngày nào ra tù.
* Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ ” ám chỉ khi Tây thua trận Điện Biên Phủ, thì Mỹ âm
mưu đổ quân vào Việt Nam {U Phân}, bùng nổ cuộc chiến tranh tàn khốc hơn.
* Cụm từ “Sưu cao thuế nặng”, là ban ngày VNCH thâu thuế, ban đêm chiến binh du kích
MTGP lại thu thuế, dân chịu 2 lần thuế: gọi là “thuế nặng”, một cổ chịu 2 tròng.
* Qua đoạn sấm ngắn gọn, Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri quân Mỹ thua trận chiến VN, và
rút chạy; những ai theo Mỹ sẽ phải vào tù {trại cải tạo}. Ngài khuyên con dân nước Việt
phải giữ ân đất nước.
“Đừng ham làm chức nắc nia,
Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!”
Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ khuyên toàn dân Việt hãy cảnh giác cao, sau hai trận giặc
chống Tây U, đất nước Việt Nam chưa yên, mà còn phải trả quả khốc liệt qua cuộc chiến
chống giặc Tàu xâm lược. Ngài cảnh báo bằng hai câu thơ sấm như sau:
Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!
(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn
tháng 6 năm Ất Dậu 1945)
Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất Dậu
1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thầy quyển thơ Lông
Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện tình duyên
Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình
tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của ông thi sĩ Việt Châu,
để gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng cho các chính khách thế hệ tương lai trên thế giới
{đặc biệt là Mỹ & Việt Nam} đừng vội vã tin vào lời đường mật của Trung Quốc mà gây
cảnh tang thương cho nhơn loại.
Lấy Lẽ “Ba Tàu” (Lấy Chồng Chệt) - Thi Văn Giáo Lý của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1946.
Cô ơi, nước Việt Nam thiếu gì trai trẻ,
Mà vội đi lấy lẽ “Ba Tàu”?!
Của tiền quý báu là bao,
Đem tuổi mười tám so vào bốn mươi?
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ,
Để ngày kia ủ rũ đau thương.
Khi “Ba Tàu” xách gói hồi hương,
Vàng bạc tóm, bỏ cô thơ thẩn.
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận,
Cô vì chàng mà bẩn tiết trinh.
Cô tủi thân, cô lại bất bình,
Nhưng muộn quá, tuổi xuân không trở lại.
Trông tương lai cô đầy sợ hãi,
Hoa úa tàn, người lại rẻ khinh.
Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh {xanh},
Cô sẽ chọn người chồng Nam Việt. *
Ở trong làng thanh niên thanh niết,
Tuy nghèo nàn mà biết thủy chung.
Yêu thương nhau đến phút cuối cùng,
Vợ chồng ấy mới chân hạnh phúc.
TA là khách phương xa tá túc,
Thấy sự đời vẽ chút văn chương.
Thấy đời cô chìm đắm trong gió sương,
Than ít tiếng gọi hồn chủng loại.
Việt Nam! Người Việt Nam mau trở lại!
Yêu giống nòi có phải hơn không?
Dầu sao cũng giống Lạc Hồng! (Năm 1946, Đức Thầy gặp một cô gái lấy chồng người Tàu. Tức cảnh Ngài có làm bài thi trên đây, ký biệt hiệu Hoài Việt)
Lời bình: Đức Huỳnh Giáo Chủ mượn hoàn cảnh cô gái Việt lấy chồng Tàu để tiên tri
tương lai đất nước Việt Nam & thế giới. Câu sấm: Cô sẽ chọn người chồng Nam Việt. Cụm
từ Nam Việt là tên nước Việt ta thời Triệu Vũ Vương năm 207 trước Tây lịch có biên
Hào quang chư Phật rọi mười phương,
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường.
Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn giữ tánh thuần lương. (trích Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa Hảo năm 1939)
Chữ ký tên của Đức Thầy là chữ ký thiên cơ, là Bát Môn Đồ Trận gồm 8 nét: Nét số 1 & 2 là bản đồ VN hình chữ S; nét số 3 cắt ngang chữ S là vĩ tuyến 17 chia cắt đất nước VN mà Sấm Kim Cổ Kỳ Quan gọi là U Phân {Mỹ phân chia VN}; phần còn lại là nét số 4 đến số 8 tượng trưng cho mỏ dầu khí và cồn đảo cùng đường hàng hải hàng không trên Biển Đông mà các nước đang tranh chấp lãnh thổ lãnh hải, và cũng là tượng trưng khung cảnh trận giặc Biển Đông xảy ra cận kề.
Cụm từ “Ba Tàu” nằm trong dấu ngoặc kép.
Khi Đức Thầy viết thủ bút chữ nào đặt trong
dấu ngoặc kép là có cái lý thiên cơ đặc biệt.
Chữ ký của Đức Thầy ngày 16-4-1947* Lá thơ Đốc Vàng
cương gồm hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Quảng}. Qua bao triều đại, bị giặc
Tàu xâm lấn mãi, Tổ Tiên Lạc Việt của ta phải bỏ đất Lưỡng Quảng, di cư đến đất
Thăng Long để tránh đại nạn Hán hóa. Nay đến thế
kỷ 21, nỗi lo bị Hán hóa không phải chỉ riêng VN, mà
là đại họa chung cho cả nhơn loại. Quả là khủng
khiếp! Mượn cái sự cô gái Việt làm vợ lẽ “Ba Tàu”,
để Đức Thầy gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng
không những cho các chính khách Việt Nam, mà còn
cho tất cả chính khách thế hệ tương lai trên toàn cầu
{đặc biệt là Mỹ} đừng sai lầm tin tưởng ở lời đường
mật của Trung Quốc mà phải lãnh hậu quả thảm sầu
về sau. Ví như Đức Thầy đã cảnh báo trong chuyện
tình Mị Châu Trọng Thủy : « Mị Châu ơi hỡi Mị
Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha ! ».
Trước nạn bị giặc Tàu xâm lược, trước nạn Hán hóa toàn cầu, không những chỉ có dân
Việt, mà nhân dân toàn thế giới {kể cả thầy tu} cũng phải lên đường cứu khổ như lời Đức
Thầy đã tuyên bố năm 1945 :
Tăng Sĩ quyết chùa am bế cửa,
Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô. (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết trên đường khuyến nông năm 1945)
Phụ lục: Hồn Việt
Sống
Sống mà vô dụng, sống làm chi,
Sống chẳng lương tâm, sống ích gì?
Sống trái đạo người, người thêm tủi,
Sống quên ơn nước, nước càng khi.
Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn,
Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ.
Sống sao nên phải, cho nên sống,
Sống để muôn đời, sử tạc ghi.
Chết Chết sao danh tiếng vẫn còn hoài,
Chết đáng là người đủ mắt tai.
Chết được dựng hình tên chẳng mục,
Chết đưa vào sử chứ không phai.
Chết đó, rõ ràng danh sống mãi,
Chết đây, chỉ chết cái hình hài.
Chết vì Tổ quốc, đời khen ngợi,
Chết cho hậu thế, đẹp tương lai.
Rognorn, người lính Pháp gác cổng trại giam, đã kêu rú lên khi thấy trong chiếc bao bố là
xác ông Ninh được bó trong manh chiếu. Rognorn chạy nhanh đến xin chúa đảo Côn Đảo
Tisseyer một cái hòm, nhưng chẳng được gì ngoài lời chửi rủa. Bà Charlotte Printanière, vợ
của giám đốc Sở điện của đảo, trước đây cùng học chung với ông Ninh, đến ngỏ ý muốn
đóng một quan tài cho ông, nhưng cũng bị chúa đảo từ chối. Vì vậy, chiếc xe bò chở xác
Bài Thơ cuối cùng của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh