Page 1
KỸ THUẬT NGHIỆP VỤ NGOẠI THƯƠNG
KỸ THUẬT NGHIỆP VỤ NGOẠI THƯƠNG(Tái bản có bổ sung)
Tác giả: PGS. VŨ HỮU TỬU
LỜI NÓI ĐẦU
Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương là một trong những môn học chủ yếu
của chương trình đào tạo cán bộ ngoại thương ở trình độ đại học.
Đối tượng nghiên cứu của môn học Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương là
các hoạt dộng kinh doanh ngoại thương của một doanh nghiệp. Cụ thể, đó là
sự lựa chọn các phương thức giao dịch, các điều kiện giao dịch, trình tự tiến
hanh, thủ tục làm việc và các chứng từ liên quan đến việc giao dịch trong
ngoại thương.
Với đối tượng nghiên cứu như trên đã nêu, môn học mang tính thực
hành nhiều hơn tính lý luận. Trọng tâm giáo dục là hướng dẫn học viên chuẩn
bị đàm phán kí kết hợp đồng, lập hợp đồng và thực hiện các hợp đồng (đối
nội, đối ngoại) trong những giao dịch ngoại thương.
Môn học này có liên quan chặt chẽ đến các môn học khác về kinh
doanh đối ngoại như: Vận tải và bảo hiểm hàng hóa, Ngoại thương, Thanh
toán quốc tế, Luật áp dụng trong kinh tế đối ngoại, Marketing quốc tế v.v... Đối
với các môn học dó, môn Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương có vị trí của môn
học "nhập môn' với chức năng trang bị những khái niệm cần thiết, những kiến
thức cơ sở ban đầu để các môn học đó có điều kiện di sâu hơn, chuyên môn
hóa cao hơn. Vì vậy, môn học Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương rất cần thiết
cho người học trước khi đi vào lãnh vực chuyên sâu về kinh tế đối ngoại.
Hoạt động kinh doanh ngoại thương của một doanh nghiệp luôn diễn ra
trong một môi trường pháp lý cụ thể. Do đó, người làm cán bộ ngoại thương
không những cần được trang bị những kiến thức cơ bản của môn học này,
Page 2
mà còn cần theo dõi những quy định cụ thể của các văn bản pháp luật, được
ban hành trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Cuốn sách này ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của học sinh đang nghiên
cứu môn học Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. Nó cũng có thể được dùng
làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ kinh tế đối ngoại (như cán bộ xuất nhập
khẩu, cán bộ làm đầu tư quốc tế, du lịch quốc tế v.v...).
Được bạn đọc hoan nghênh, cuốn sách này đã được tái bản nhiều lần.
Trước mỗi lần tái bản tác giả đều có gia công sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý.
Tuy nhiên, trước yêu cầu rất nhiều mặt của bạn đọc thì trình độ của
người viết lại còn nhiều hạn chế. Do đó cuốn sách chắc chắn chưa thỏa mãn
được nhiều đòi hỏi của bạn đọc. Người viết rất mong được bạn đọc góp ý
kiến xây dựng nhằm chỉnh lý và cải tiến cả về nội dung và hình thức của cuốn
sách.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 8 năm 1996
PGS. VŨ HỮU TỬU
Chương 1. CÁC PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH MUA BÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
Trên thị trường thế giới, những giao dịch ngoại thương (tức là hoạt
động xuất nhập khẩu) đều tiến hành theo những cách thức nhất định. Những
cách thức mua bán như vậy quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch,
thao tác và chứng từ cần thiết của quan hệ giao dịch. Người ta gọi những
cách thức đó là những phương thức giao dịch mua bán. Mỗi phương thức đó
có đặc điểm riêng, có kỹ thuật tiến hành riêng. Trong chương này, chúng tôi
xin giới thiệu một số phương thức giao dịch cơ bản nhất và có ý nghĩa phổ
biến nhất.
* GIAO DỊCH THÔNG THƯỜNG
Page 3
Giống với các hoạt động mua bán thông thường ở trong nước, phương
thức giao dịch thông thường trong ngoại thương có thể được thực hiện ở mọi
lúc, mọi nơi, trong đó người bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau
bằng cách gặp mặt hoặc qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thỏa thuận với
nhau về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch. Những nội dung này
được thỏa thuận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao
dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này vẫn khác với
hoạt động nội thương ở chỗ: Bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở
các quốc gia khác nhau; đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một
trong hai bên hoặc đối với cả hai bên; hàng hóa - đối tượng của giao dịch
được di chuyển qua khỏi biên giới một nước.
Để thực hiện giao dịch này, sau khi làm một loạt công việc nghiên cứu
tiếp cận thị trường (nhận biết mặt hàng, lựa chọn thị trường, tìm kênh tiêu thụ,
lựa chọn bạn hàng giao dịch), người mua hỏi giá và đặt hàng, người bán
chào giá, hai bên hoàn giá (mặc cả) và chấp nhận giá. Cuối cùng một hợp
đồng được ký kết hoặc bằng cách ký vào một văn bản hoặc bằng cách trao
đổi thư từ và điện tín.
* GIAO DỊCH QUA TRUNG GIAN
1. Khái niệm
Nếu trong giao dịch thông thường, người bán tìm đến người mua,
người mua tìm đến người bán và họ trực tiếp thỏa thuận quy định những điều
kiện mua bán, thì trong giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ
giữa người bán với người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều
phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian
buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi
giới.
Giao dịch qua trung gian hiện còn chiếm khoảng 52% kim ngạch buôn
bán thế giới.
Page 4
a) Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều
hành vi theo sự ủy thác của người ủy thác (principal). Quan hệ giữa người ủy
thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý.
Căn cứ vào phạm vi quyền hạn được ủy thác, người ta phân ra ba loại
đại lý:
- Đại lý toàn quyền (Universal agent) là người được phép thay mặt
người ủy thác, làm mọi công việc mà người ủy thác làm.
- Tổng đại lý (General agent) là người được ủy quyền làm một phần
việc nhất định của người ủy thác, ví dụ: ký kết những hợp đồng thuộc một
nghiệp vụ nhất định.
- Đại lý đặc biệt (Special agent) là người được ủy thác chỉ làm một việc
cụ thể, ví dụ: mua một máy tiện cụ thể với giá cả xác định.
Căn cứ vào nội dung quan hệ giữa người đại lý với người ủy thác,
người ta phân ra ba loại đại lý:
- Đại lý thụ ủy (mandatory) là người được chỉ định để hành động thay
cho người ủy thác, với danh nghĩa và chi phí của người ủy thác. Thù lao của
người đại lý này có thể là một khoản tiền hoặc một mức % tính trên kim ngạch
của công việc.
- Đại lý hoa hồng (commission agent) là người được ủy thác tiến hành
hoạt động với danh nghĩa của mình, nhưng với chi phí của người ủy thác, thù
lao của người đại lý hoa hồng là một khoản tiền hoa hồng tùy theo khối lượng
và tính chất của công việc được ủy thác.
- Đại lý kinh tiêu (merchant agent) là người đại lý hoạt động với danh
nghĩa và chi phí của mình; thù lao của người này là khoản chênh lệch giữa
giá bán với giá mua.
Trên thị trường thế giới, chúng ta còn có thể gặp những danh hiệu đại
lý như:
Page 5
- Phắc-tơ (factor) là người đại lý được giao quyền chiếm hữu hàng hóa
hoặc chứng từ sở hữu hàng hóa, được phép đứng tên mình bán hay cầm cố
hàng hóa với giá cả mà mình cho là có lợi nhất cho người ủy thác, được trực
tiếp nhận tiền hàng từ người mua.
Đại lý gửi bán (consignee hoặc agent carrying stock) là người đại lý
được ủy thác bán ra, với danh nghĩa của mình và chi phí do người ủy thác
chịu,, những hàng hóa do người ủy thác giao cho để bán ra từ kho của người
đại lý.
- Đại lý bảo đảm thanh toán (del credere agent) là người đại lý đứng ra
bảo đảm sẽ bồi thường cho người ủy thác nếu người mua hàng (người thứ
ba) ký kết hợp đồng với mình không thanh toán tiền hàng.
- Đại lý độc quyền (sole agent) là người đại lý duy nhất cho một người
ủy thác để thực hiện một hành vi nào đó như bán hàng, mua hàng, thuê tàu...
tại một khu vực và trong một thời gian do hợp đồng quy định.
- v.v...
Thậm chí ở một vài nơi như thị trường Mỹ chẳng hạn có loại đại lý
được ủy thác bán những sản phẩm của một xí nghiệp nhất định, được quyền
dùng những giấy tờ có tiêu đề của xí nghiệp đó và được kỷ tên với danh
nghĩa "giám đốc xuất nhập khẩu kết hợp" (Combination Export Manager, viết
tắt là CEM) của xí nghiệp đó.
b) Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người
bán, được người bán hoặc người mua ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng
hóa hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không được đứng
tên của chính mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng
hóa và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách
hàng không thực hiện hợp đồng. Quan hệ giữa người ủy thác với người môi
giới dựa trên sự ủy thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
2. Hợp đồng đại lý
Hợp đồng đại lý thường có những nội dung sau đây:
Page 6
a) Các bên ký kết: Tên và địa chỉ, người thay mặt để ký hợp đồng...
b) Xác định quyền của đại lý: đó là đại lý độc quyền hay không.
c) Xác định mặt hàng được ủy thác mua hoặc bán: tên hàng, số lượng,
chất lượng, bao bì.
d) Xác định khu vực địa lý nơi đại lý hoạt động.
e) Xác định giá hàng: giá tối đa, giá tối thiểu
f) Tiền thù lao và chi phí
g) Thời gian hiệu lực của hợp đồng
h) Thể thức hủy bỏ hoặc kéo dài thời hạn hiệu lực hợp đồng.
i) Nghĩa vụ của đại lý, trong đó nêu rõ: mức tiêu thụ (hoặc mức thu
mua) tối thiểu, định kỳ báo cáo và nội dung báo cáo tình hình của đại lý,
những nghĩa vụ nhận thêm như quảng cáo, bảo đảm thanh toán...
k) Nghĩa vụ của người ủy thác như: thường xuyên cung cấp hàng,
thông báo tình hình và cung cấp thông tin để đại lý có thể chào bán, thanh
toán chi phí và thù lao đại lý v.v...
3. Việc sử dụng đại lý và môi giới
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có
những lợi ích như:
- Những người trung gian thường hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp
luật và tập quán địa Dhương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán
và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác.
- Những người trung gian, nhất là các loại đại lý thường có cơ sở vật
chất nhất định, do đó, khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ phải đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
- Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói,
người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên, việc sử dụng trung
gian có khuyết điểm như:
Page 7
- Công ty kinh doanh xuất nhập khấu mất sự liên hệ trực tiếp với thị
trường. Công ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc
môi giới.
- Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung
gian trong những trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường
mới, khi mới đưa vào thị trường một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải
bán hàng qua trung gian, khi mặt hàng đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt như hàng
tươi sống chẳng hạn.
Ở nước ta, Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đã quy định,
bằng Chỉ thị số 04 BNgT/XNK ngày 18-01-86, rằng muốn gửi bán hàng qua
đại lý phải theo các điều kiện dưới đây:
- Giám đốc đơn vị xuất nhập khẩu phải tìm hiểu kỹ lưỡng khả năng kinh
doanh và tín nhiệm của khách hàng mà mình chọn làm đại lý.
- Phải ký kết hợp đồng đại lý (hợp đồng viết) quy định rõ trách nhiệm
của các bên, trong đó phải có các điều kiện:
+ Giá hàng: do người ủy thác hay người đại lý quyết định hay giá tối
thiểu do người ủy thác quyết định.
+ Quyền lợi của người đại lý: hưởng hoa hồng hay hưởng chênh lệch
so với giá đã thỏa thuận với người ủy thác.
+ Trách nhiệm bảo quản hàng hóa.
+ Trị giá hàng hóa gửi cho đại lý không vượt quá 5000 đôla Mỹ (nếu gửi
hàng nhiều lần thì tổng giá trị hàng do đại lý nắm không được vượt quá số
tiền này).
+ Mặt hàng gửi đại lý bán không phải là mặt hàng có giá trị xuất khẩu
cao.
+ Việc trả tiền hàng nhất thiết phải qua Ngân hàng Ngoại thương Việt
nam.
Page 8
+ Quy định về thanh lý hợp đồng và xử lý hàng không bán được và
quyền của người ủy thác kiểm tra hàng không bán được.
- Trên một thị trường nếu sử dụng hai đại lý thì phải được nghiên cứu
kỹ.
- Chậm nhất là 6 tháng kể từ ngày gửi hàng đi, phải kiểm điểm và làm
biên bản thanh lý hợp đồng với người đại lý.
* BUÔN BÁN ĐỐI LƯU (COUNTER-TRADE)
1. Khái niệm
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết
hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu
không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hóa
có giá trị tương đương. Vì những đặc điểm đó, người ta còn gọi phương thức
này là xuất nhập khẩu liên kết hoặc phương thức đổi hàng.
2. Yêu cầu cân bằng
Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm đến sự cân
bằng trong trao đổi hàng hòa. Sự cân bằng đó thể hiện ở những khía cạnh
như:
- Cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng
tồn kho, khó bán đổi lấy mặt hàng tồn kho, khó bán.
- Cân bằng về giá cả: so với giá quốc tế nếu giá hàng nhập cao thì khi
xuất cho đối phương giá hàng xuất cũng phải được tính cao tương ứng;
ngược lại nếu giá hàng nhập hạ thì, khi xuất khẩu cho đối phương, giá hàng
xuất cũng phải tính hạ một cách tương ứng.
- Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau: do không có sự di
chuyển tiền tệ, hai bên thường quan tâm sao cho tổng giá trị hàng hóa và dịch
vụ giao cho nhau phải tương đối cân bằng nhau.
Page 9
- Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF thì phải nhập
khẩu CIF; nếu xuất khẩu FOB thì nhập khẩu FOB.
3. Các loại hình buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu đã ra đời từ lâu trong lịch sử quan hệ hàng hóa – tiền
tệ, trong đó sớm nhất là "hàng đổi hàng" và "trao đổi bù trừ". Trong những
năm gần đây, đi đôi với việc nảy sinh những hình thức mới, hai hình thức
truyền thống trên đây cũng có nhiều biến dạng đáng kể. Hội đồng Quốc gia về
Ngoại thương của Mỹ đánh giá vai trò hiện nay của mỗi nghiệp vụ buôn bán
đối lưu trong buôn bán quốc tế như sau: Gần 35% là mua đối lưu, 24% là
những hợp đồng bồi hoàn, 9% là những giao dịch bù trừ, 8% là những nghiệp
vụ chuyển giao nghĩa vụ, chỉ có 4% là nghiệp vụ hàng đổi hàng (Nguồn: Biki
11/1/1986 trang 2). Dưới đây là nội dung của mỗi nghiệp vụ buôn bán đối lưu
đó:
Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter) hai bên trao đổi trực tiếp với
nhau những hàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như
đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, đồng tiền không được
dùng để thanh toán và chỉ có hai bên tham gia, ví dụ: đổi 4 tấn cà phê lấy một
xe du lịch. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng hiện đại, người ta có sử dụng tiền
để thanh toán một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới 3-4 bên tham
gia (xem Columbia Journal of World Business 1980)
Trong nghiệp vụ bù trừ (compensation) hai bên trao đổi hàng hóa với
nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao, đến cuói kỳ hạn, hai bên mới so sổ
sách, đối chiếu giữa trị giá hàng giao với trị giá hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ
tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu
cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Nghiệp vụ bù trừ là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối
lưu. Hợp đồng bù trừ thường được ký kết cho thời gian dài (có khi tới 10 hoặc
20 năm). Nghiệp vụ bù trừ lại bao gồm nhiều loại hình như:
- Bù trừ theo thực nghĩa của nó.
Page 10
- Bù trừ trước (pre-compensation).
- Bù trừ song hành (parallel-compensation).
Trong nghiệp vụ mua đối lưu (counter-purchase) một bên giao thiết bị
cho khách hàng của mình và, để đổi lại, mua sản phẩm của công nghiệp chế
biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu... Hàng giao và hàng nhận có thể cùng
trong một ngành hàng, có thể thuộc danh mục kinh doanh của một công ty,
nhưng cũng có khi, nghiệp vụ mua đối lưu thu hút nhiều tổ chức tham gia trao
đổi với một danh mục mặt hàng rất rộng rãi. Việc trao đổi hàng hóa trong
khuôn khổ mua đối lưu được thực hiện trong một thời gian không dài (thường
từ 1 đến 5 năm) còn trị giá hàng giao để thanh toán thường không đạt 100%
trị giá hàng mua về.
Trong nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ (switch) bên nhận hàng chuyển
khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba. Nghiệp vụ này bảo đảm cho các
công ty, khi nhận hàng đối lưu không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của
mình, có thể bán hàng đó đi.
Trong giao dịch bồi hoàn (offset) người ta đổi hàng hóa và/hoặc dịch vụ
lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ trong đầu tư hoặc giúp đỡ bán sản
phẩm). Giao dịch bồi hoàn hiện nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng buôn bán đối
lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt
tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác
công nghiệp.
Trong việc chuyển giao công nghệ, người ta thường tiến hành nghiệp
vụ mua lại (buy-backs) trong đó một bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc
sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết
mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó
chế tạo ra.
4. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
Trong các hợp đồng mua bán đối lưu, người ta thường đề ra những
biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng như:
Page 11
- Dùng thư tín dụng đối khai (reciprocal L/C): Đây là loại L/C mà trong
nội dung của nó có điều khoản quy định "L/C này chỉ có hiệu lực khi người
hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương". Như vậy, hai bên đều
vừa phải mở L/C, vừa phải giao hàng.
- Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hóa, người thứ
ba chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một
chứng từ sở hữu hàng hóa có giá trị tương đương.
- Dùng một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng để theo dõi việc giao hàng
của hai bên, đến cuối một thời kỳ nhất định (như sau 6 tháng, sau 1 năm...)
nếu còn số dư thì bên bị nợ hoặc phải giao nốt hàng, hoặc chuyển số dư
sang kỳ giao hàng tiếp, hoặc thanh toán bằng ngoại tệ...
- Phạt về việc giao hàng thiếu hoặc chậm giao: bên không giao hoặc
chậm giao hàng phải nộp phạt bằng ngoại tệ mạnh. Mức phạt do hai bên thỏa
thuận quy định trong hợp đồng.
- v.v...
* ĐẤU GIÁ QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Đấu giá quốc tế là một phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức
công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hóa, những
người đến mua tự do cạnh tranh giá cả và cuối cùng, hàng hóa sẽ được bán
cho người nào trả giá cao nhất.
Trong buôn bán quốc tế, những mặt hàng được đem ra đấu giá thường
là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hóa (như da lông thú, chè, hương liệu...)
và những trung tâm đấu gia nổi tiếng là:
- Về da lông thú: New York, London...
- Về len thô: Sydney, London, Liverpool...
- Về chè: Calcutta, Nairobie, Colombia...
- Về hương liệu: London, Amsterdam...
Page 12
- Về rau quả: Amstecdam, Antwerp...
2. Cách thức tiến hành
a) Chuẩn bị đấu giá, bao gồm:
- Chuẩn bị hàng hóa: Hàng được phân thành từng lô căn cứ theo chất
lượng, kích cỡ của chúng.
- Xây dựng thể lệ đấu giá: trong đó, người ta thường quy định về trách
nhiệm của người mua phải xem hàng trước (người bán không chịu trách
nhiệm về phẩm chất hàng), về khoản tiền ký quỹ trước khi tham dự đấu giá,
về mức mặc cả đặt giá...
- In ca-ta-lô về những lô hàng sẽ đem ra đấu giá,
- Đăng quảng cáo để thông báo về ngày giờ, địa điểm tiến hành, số
lượng mặt hàng đấu giá, thể lệ đấu giá...
b) Trưng bày hàng hóa để người muốn mua có thể xem: nếu trong
thời gian này người mua không xem hàng thì sau này cũng mất quyền khiếu
nại về chất lượng hàng.
c) Tiến hành đấu giá: nơi bán đấu giá thường có hình thức của một
hội trường. Trên bục cao, nhân viên đấu giá (auctioner) điều khiển cuộc đấu
giá với tư cách đại diện cho bên bán. Cuộc đấu giá tiến hành theo một trong
hai phương pháp sau:
- Phương pháp nâng giá: nhân viên đấu giá nêu giá khởi điểm thấp
nhất của lô hàng, sau đó khách hàng có mặt nâng giá dần theo một mức mặc
cả quy định. Việc nâng giá có thể bằng phát ngôn, có thể bằng cách làm dấu
hiệu. Lô hàng sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất, sau khi nhân viên
đấu giá gõ búa gỗ xuống bàn để thực hiện hành vi kết luận.
- Phương pháp hạ giá: nhân viên đấu giá nêu giá khởi điểm cao nhất
rồi hạ giá dần tới khi có người đồng ý mua. Phương pháp đấu giá này (gọi là
đấu giá kiểu Hà lan - Dutch auction) khiến cho khách hàng sợ lỡ cơ hội mua
hàng nên thường phải chấp nhận giá cao hơn dự định.
Page 13
d) Ký kết hợp đồng và giao hàng: sau cuộc đấu giá người thắng cuộc
đến ban tổ chức ký kết hợp đồng và trả một phần tiền hàng. Hợp đồng
thường làm bằng một mẫu in sẵn.
Người ta chỉ việc điền thêm vào đó những điểm cần thiết. Sau một thời
gian (thường từ 3 đến 14 ngày) người mua phải trả tiền nốt và lấy hàng đi.
* ĐẤU THẦU QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt trong đó-
người mua (người gọi thầu) công bố trước các điều kiện mua hàng để người
bán (người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua
sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả
với những điều kiện mà người mua đã nêu.
Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong biệc
mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch vụ xây lắp) các
công trình Nhà nước, nhất là tại các nước đang phát triển.
Đấu thầu quốc tế có hai loại hình:
a) Đấu thầu mở rộng: Tất cả những ai muốn tham gia đều có thể dự
thầu bằng cách gửi báo giá của mình đến ban tổ chức.
b) Đấu thầu hạn chế: chỉ một số hãng có đầy đủ những điều kiện nhất
định mới được mời dự thầu.
Đấu thầu có thể được thực hiện thông qua thủ tục sơ thẩm (With pre-
qualification) hoặc không thông qua thủ tục sơ thẩm (Without pre-qualification)
đối với người dự thầu.
Trong trường hợp có sơ thấm, thủ tục này đòi hỏi những ai muốn dự
thầu phải đăng ký trước và kê khai vào một mẫu đơn tất cả những thông tin
như: kinh nghiệm của họ trong việc thực hiện những dịch vụ tương tự, tình
hình tài chính, trang thiết bị, kế hoạch dự kiến về việc tiến hành công trình V.
V...
Page 14
Trong trường hợp đấu thầu không có sơ thẩm, ban tổ chức trực tiếp
mời các hãng kinh doanh mà, qua nghiên cứu của mình, ban tổ chức thấy họ
có đủ năng lực cạnh tranh để dự thầu.
2. Cách thức tiến hành
a) Chuẩn bị đấu thầu
Trong giai đoạn này, người ta phải làm các việc sau:
- Xây dựng bản "Điều lệ đấu thầu" (bidding document) trong đó nêu rõ
những mặt hàng và dịch vụ là đối tượng đấu thầu, các điều kiện và tiêu chuẩn
về kỹ thuật đối với hàng hóa và dịch vụ, thủ tục nộp tiền bảo đảm thực hiện
hợp đồng (performance bond), các quy phạm điều tiết quan hệ hợp đồng
thầu, việc giải quyết tranh chấp v.v...
- Thông báo gọi thầu (call for tender): Tùy theo loại hình đấu thầu mà
thông báo trên báo chí, tập san hoặc gửi thư riêng đến các hãng kinh doanh.
b) Sơ tuyển người dự thầu
Nếu Điều lệ quy định thủ tục thẩm định trước, Ban tổ chức phải mời các
hãng tham dự sơ tuyển, giao cho họ các tài liệu sơ tuyển để họ kê khai, phân
tích các văn bản mà họ đã nộp và lựa chọn người dự thầu.
Trong trường hợp ban tổ chức đã nắm vững các thông tin về các hãng
dự thầu thì có thể bỏ qua thủ tục sơ tuyển.
c) Tạo điều kiện thuận lợi cho người dự thầu tìm hiểu các điều kiện đấu thầu
Trong giai đoạn này, Ban tổ chức phân phát bản Điều lệ đấu thầu, tạo
cơ hội cho các người dự thầu tìm hiểu thực địa (trong trường hợp đấu thầu
xây dựng), giải đáp những thắc mắc của người dự thầu.
d) Thu nhận báo giá
Căn cứ vào Điều lệ đấu thầu, những người dự thầu tiến hành lập và gửi
cho Ban tổ chức bản báo giá và các tài liệu cần thiết đựng trong phong bì
niêm phong kỹ, kể cả tiền ký quỹ dự thầu (bid bond). Khi thu nhận tài liệu, Ban
Page 15
tổ chức phải giữ nguyên niêm phong và bảo đảm bí mật đối với các tài liệu
báo giá đã được gửi đến.
e) Khai mạc đấu thầu và lựa chọn người cung cấp
Vào ngày giờ đã ấn định trước, cuộc đấu thầu được khai mạc tại địa
điểm quy định, với sự có mặt của những người dự thầu. Ban tổ chức lúc này
mới được mở các phong bì, công bố nội dung các báo giá. Để Ban tổ chức có
thời gian, nghiên cứu so sánh các điều kiện của các báo giá, đồng thời để cho
người dự thầu có thể có điều kiện giải thích rõ thêm hoặc thương lượng thêm,
Ban tổ chức thường không công bố ngay kết quả lựa chọn mà tới một thời
gian nhất định, sau khi bế mạc đấu thầu, mới thông báo sự lựa chọn người
thắng cuộc.
Để so sánh và đánh giá các báo giá (bid evaluation), Ban tổ chức
thường công bố công khai hệ thống các điểm đánh giá (merit points) về nhiều
mặt như về công nghệ, phẩm chất, kỹ thuật, giá cả, tín dụng v.v...
f) Ký kết hợp đồng
Ngay sau khi thông báo kết quả đánh giá, người trúng thầu (tức người
thắng cuộc) ký kết hợp đồng với Ban Tổ chức và nộp tiền bảo đảm thực hiện
hợp đồng (performance bond) theo như quy định của bản Điều lệ đấu thầu.
Còn những người không trúng thầu sẽ lấy lại tiền ký quỹ dự thầu. Sơ đồ thể
thức trình tự đấu thầu và thể thức nhận đơn thầu được trình bày ở các trang
sau.
* GIAO DỊCH TẠI SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
1. Khái niệm về sở giao dịch
Sở giao dịch hàng hóa là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua
những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại
hàng hóa có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại, có phẩm chất có thể thay
thế được với nhau.
Page 16
Sở giao dịch hàng hóa thể hiện tập trung quan hệ cung cầu về một mặt
hàng giao dịch trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định. Do đó giá công
bố tại sở giao dịch có thể được coi là một tài liệu tham khảo trong việc xác
định giá quốc tế. Những trung tâm giao dịch lớn trên thế giới là:
- London, New York: về kim loại mầu.
- London, New York, Rotterdam, Amsterdam: về cà phê.
- Bombay, Chicago, New York: về bông.
- Winnipeg, Rotterdam, Milan, New York...: về lúa mì.
- v.v
2. Các loại giao dịch ở Sở giao dịch
a) Giao dịch giao ngay (spot transaction) là giao dịch trong đó hàng hóa
được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng. Hợp đồng giao ngay
được ký trên cơ sở hợp đồng mẫu của sở giao dịch giữa những người có sẵn
hàng muốn giao ngay và người có nhu cầu được giao ngay. Vì vậy đó là hợp
đồng hiện vật. Giá cả mua bán ở đây gọi là giá giao ngay (spot price hoặc
spot quotation). Giao dịch này chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10%) trong các
giao dịch ở sở giao dịch.
b) Giao dịch kỳ hạn (forward transaction) là giao dịch trong đó giá cả
được ấn định vào lúc ký kết hợp đồng nhưng việc giao hàng và thanh toán
đều được tiến hành sau một kỳ hạn nhất định, nhằm mục đích thu lợi nhuận
do chênh lệch giả giữa lúc ký kết hợp đồng với lúc giao hàng. Ví dụ một
người dự đoán giá cà phê sau ba tháng sẽ hạ đi nên dù không có hàng đã ký
hợp đồng bán cà phê theo giá USdol 2500/1 tấn với hạn giao 3 tháng. Sau khi
đến hạn giao giả dụ giá còn USdol 2450/1 tấn thì người này hưởng chênh
lệch giá USdol 50/tấn. Thuật ngữ chuyên môn gọi người đầu cơ này là "gấu"
(tiếng Anh: bear) còn người đầu cơ giá lên là "bò đực" (tiếng Anh: bull). Vì nội
dung như vậy, giao dịch này còn gọi là giao dịch khống (Fective transaction).
Page 17
Trong trường hợp giá cả biến động không đúng như dự đoán của mình,
bên dự đoán không đúng có thể đề nghi đối phương hoãn ngày thanh toán
đến kỳ hạn sau và trả đối phương một khoản tiền bù. Khoản tiền bù mà bên
mua phải bỏ ra gọi là "bù hoãn mua" (contango). Khoản tiền bù mà bên bán
phải trả cho bên mua gọi là "bù hoãn bán" (backwardation).
c) Nghiệp vụ tự bảo hiểm (hedging) là một biện pháp kỹ thuật thường
được các nhà buôn nguyên liệu, các nhà sản xuất sử dụng nhằm tránh những
rủi ro do biến động giá cả làm thiệt hại đến sổ lãi dự tính, bằng cách lợi dụng
giao dịch khống trong sở giao dịch.
Ví dụ, một thương nhận mua một lượng đỗ tương vào tháng 5, dự tính
sau đó 3 tháng sẽ bán lại để thu một số lãi bình thường trong kinh doanh (chứ
không phải nhằm đầu cơ giá cả). Sợ rằng đến tháng 8 giá đỗ tương hạ xuống
thì sẽ bị lỗ cho nên ngay từ tháng 5 khi mua vào, thương nhân đó cũng đến
sở giao địch để bán khống một lượng đỗ tương ngang với lượng đã mua vào,
theo giá cả của tháng 5 và hạn giao vào tháng 8. Đến tháng 8, thương nhân
bán lượng đỗ tương trên thị trường theo giá thị trường lúc đó, thì đồng thời
cũng đến sở giao dịch thanh toán chêch lệch giá của hợp đồng bán khống.
Nếu giá đỗ tương ở tháng 8 hạ hơn giá tháng 5 thì thương nhân này bị lỗ
trong giao dịch hiện vật, nhưng lại được lãí trong giao dịch khống. Ngược lại,
nếu giá đỗ tương ở tháng 8 cao hơn giá tháng 5 thì thương nhân này được lãi
trong giao dịch hiện vật nhưng lại bị lỗ trong giao dịch khống. Lãi của hợp
đồng này bù cho lỗ của hợp đồng kia làm cho thương nhân này không bị tác
động của biến động giá cả và lãi dự tính trong kinh doanh vẫn được giữ ổn
định. Tất nhiên, mức độ biến động giá cả trong giao dịch hiện vật khống hoàn
toàn như trong giao dịch khống. Do đó, các nhà kinh doanh không thể hoàn
toàn tránh khỏi những rủi ro về biến động giá cả.
3. Cách thức tiến hành
Địa điểm doanh nghiệp của sở giao địch gồm có một ngôi nhà lớn, ở
chính giữa là một "đài tròn" để giao địch, chung quanh đài tròn là những bậc
Page 18
thang không cao lắm để cho khách hàng đứng. Trong ngôi nhà của sở giao
dịch còn có một trạm điện thoại để thông tin về giá cả.
Kỹ thuật giao dịch, về đại thể, gồm có các bước:
- Khách hàng ủy nhiệm mua hoặc bán hộ mình và nộp tiền bảo đảm
ban đầu. Nội dung giấy ủy nhiệm được đăng ký vào một quyển sổ riêng và
được chuyển ngay đến sở giao dịch cho thư ký của người môi giới sở giao
dịch biết.
- Người môi giới ra "đài tròn" ký hợp đồng mua hoặc bán. Trong lúc đó,
trên đài cao của sở giao dịch nhân viên ghi chép của sở ghi lên bảng yết giá
(quotation) giá cả số lượng và thời hạn giao hàng. Nếu đến cuối ngày nà một
loại giao dịch nào đó không có hợp đồng ký kết thì nhân viên ghi chép ghi lên
giá công bố có liên quan chữ "N" (chữ đầu của từ tiếng Anh "Nominal" có
nghĩa là "Danh nghĩa").
- Người môi giới trao hợp đồng cho khách hàng. Khách hàng ký vào
phần cuống và trả phần cuống ấy cho người môi giới, còn mình giữ lấy hợp
đồng.
- Tới thời hạn, khách hàng lại trao hợp đồng cho người môi giới để
người này đến thanh toán tại phòng thanh toán bù trừ (clearing house).
* GIAO DỊCH TẠI HỘI CHỢ VÀ TRIỂN LÃM
1. Khái niệm về hội chợ và triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian
và ở vào một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán
đem trưng bày hàng hóa của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp
đồng mua bán.
Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nến kinh
tế hoặc của một ngành kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật... Ví dụ: triển lãm
thành tựu kinh tế quốc đân, triển lãm hội họa, triển lãm công nghiệp. Liên
quan chặt chẽ đến ngoại thương là các cuộc triển lãm công thương nghiệp,
Page 19
tại đó người ta trưng bày các loại hàng hóa nhằm mục đích quảng cao để mở
rộng khả năng tiêu thụ.
Ngày nay triển lãm không phải là nơi trưng bày giới thiệu hàng hóa, mà
còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch ký kết hợp
đồng mua bán cụ thể.
Về mặt nội dung, người ta phân biệt triển lãm và hội chợ tổng hợp (nơi
trưng bày và mua bán hàng hóa của nhiều ngành) với triển lãm và hội chợ
chuyên ngành (nơi chỉ trưng bày và mua bán hàng hóa của một ngành).
Về mặt quy mô tổ chức, triển lãm và hội chợ có thể mang tính chất địa
phương, quốc gia hay quốc tế.
2. Trình tự tiến hành tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài
Khi nhận được lời mời của ban tổ chức hội chợ (hoặc triển lãm) của
nước ngoài, Phòng Thương mại và Công nghiệp nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến tổ chức, trước hết là:
- Mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức hội chợ hoặc triển lãm đó.
- Tính chất, vị trí, thời gian và thời hạn công tác.
- Điều kiện và thể thức trưng bày các vật triển lãm.
- Thành phần tham dự và thành phần khách tham quan.
Tiếp đó, phòng Thương mại và Công nghiệp báo cho các công ty XNK
hoặc cac tổ chức kinh tế có thể tham dự để họ dự thảo kế hoạch tham gia hội
chợ hoặc triển lãm đó, dự trù kinh phí... Ban tổ chức hội chợ hoặc triển lãm
thường gửi cho các đơn vị tham gia một bản điều lệ trong đó ghi rõ những
điều kiện chủ yếu của việc tham gia như mục đích, chỗ bố trí, thời gian và chế
độ hoạt động, mức tiền thuê đất và mức tiền thuê diện tích trưng bày, mức
tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại... danh mục đại thể của hàng triển lãm,
các nguyên tắc hải quan, nguyên tắc sử dụng các phương tiện quảng cáo...
Bản điều lệ được dùng làm cơ sở để ký kết các hợp đồng liên quan
giữa ban tổ chức với Phòng Thương mại và Công nghiệp.
Page 20
Công tác chuẩn bị của các công ty XNK hoặc tổ chức kinh tế tham gia
triển lãm thường bao gồm những việc như:
- Lập kế hoạch công tác chung và kế hoạch công trình triển lãm. Trong
đó kế hoạch công tác chung (còn gọi là kế hoạch tống quát) xác định mục
đích, yêu cầu cần đạt được trong việc tham gia trưng bày, xác định tổng quát
hình thức trình bày, các số liệu tuyên truyền, các yêu cầu trích dẫn... Còn kế
hoạch công trình triển lãm chỉ ra một cách cụ thể thiết kế triển lãm, cách bố trí
các vật trưng bày, phương pháp làm việc, thời gian, chế độ công tác...
- Lập kế hoạch và các biện pháp mua bán tại hội chợ hoặc triển lãm đó,
dự kiến khối lượng hợp đồng sẽ ký kết, dự kiến các mặt hàng sẽ mua bán,
xác định phương hướng mở rộng quan hệ thị trường.
- Lập danh mục hàng sẽ trưng bày.
- Lập đề án thiết kế kỹ thuật và mỹ thuật trên cơ sở kế hoạch tổng quát
và kế hoạch công trình triển lãm. Đề án thiết kế mỹ thuật và kỹ thuật phải do
các họa sĩ xây dựng.
- Lập kế hoạch cho các biện pháp tuyên truyền có tính chất đại chúng.
- Lựa chọn và huấn luyện cán bộ công tác tại hội chợ triển lãm.
- Lập lịch công tác chuyên chở và bốc dỡ các vật trưng bày.
Trước khi khai mạc gian hàng, cần tiến hành các việc như: đôn đốc cho
hàng triển lãm được chở đến kịp thời, lắp rạp, trang trí theo đúng kế hoạch,
thử lại tất cả các phương tiện kỹ thuật và kiểm tra lại các vật trưng bày, tổ
chức bảo vệ...
Sau khi bế mạc, cán bộ và nhân viên phải: kiểm kê vật trưng bày, đồ
trang trí và các vật liệu khác, tháo dỡ và đóng gói các vật trưng bày và đồ
trang trí, kẻ ký mã hiệu, thanh toán với tất cả các hãng và tổ chức có liên
quan.
3. Công việc chuẩn bị cho các hoạt động mua bán tại hội chợ triển lãm, bao gồm:
Page 21
- Nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, thương mại của nước đăng cai
hội chợ hoặc triển lãm để biết nước đó quan tâm xuất nhập khẩu những gì,
điều kiện vận tải, thuế quan, luật pháp và tập quán thương mại ra sao.
- Tìm hiểu tính chất của cuộc hội chợ hoặc triển lãm, điều lệ của nó,
thành phần và số lượng nước tham gia, danh mục và chất lượng hàng sẽ
trưng bày và sẽ mua bán tại đó.
- Nghiên cứu tình hình hàng hóa và giá cả hiện hành trên thị trường thế
giới và ở nước đăng cai...
- Chuẩn bị và kịp thời phân phát các tái liệu quảng cáo, các tài liệu
thông tin thương nghiệp.
- Xây đựng những mẫu đơn chào hàng, mẫu hợp đồng, có dự tính về
giá cả, số lượng, phẩm chất, yêu cầu kỹ thuật, thời hạn giao hàng và điều
kiện thanh toán.
- Kịp thời phân phát giấy mời đến thăm gian hàng của mình.
- Thao diễn thử các máy móc, cho thí nghiệm các mặt hàng cần thiết.
- Chuẩn bị những vật lưu niệm định bán tại chỗ.
- Chuẩn bị điều kiện vật chất để tiến hành đàm phán thương mại.
* GIA CÔNG QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh trong đó một bên, gọi
là bên nhận gia công, nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một
bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại
cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công)
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương
của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng
được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối
với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm
cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ
Page 22
mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều
nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế mà có
được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Hàn Quốc, Thái Lan,
Singapo...
2. Các hình thức gia công quốc tế
Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành
dưới các hình thức sau đây:
+ Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên
nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi thành phẩm và
trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gian chế tạo quyền sở hữu
về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
+ Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau
thời gian sản xuất chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này
quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia
công.
+ Ngoài ra, người ta còn có thể áp dụng một hình thức kết hợp trong đó
bên đặt gia công chỉ giao những nguyên liệu chính, con bên nhận gia công
cung cấp nguyên vật liệu phụ.
Xét về mặt giá cả gia công, người ta có thể chia việc gia công thành hai
hình thức:
+ Hợp đồng thực chi thực thanh (cost plus contract) trong đó bên nhận
gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của
mình cộng với tiền thù lao gia công.
+ Hợp đồng khoán, trong đó người ta xác định một giá định mức (target
price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù
có phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa, hai bên vẫn thanh
toán với nhau theo giá định mức đó.
3. Hợp đồng gia công
Page 23
Mối quan hệ giữa bên nhận già công với bên đặt gia công được xác
định trong hợp đồng gia công. Hợp đồng này thường bao gồm những loại
điều kiện sau đây:
- Về thành phẩm: yêu cầu về số lượng, quy cách phẩm chất, đóng gói
bao bì, thời hạn giao hàng.
- Về nguyên liệu: yều cầu về số lượng và phẩm chất nguyên liệu, định
mức hao phí nguyên liệu, thời hạn giao nguyên liệu.
- Về giá cả gia công: giá này bao gồm chi phí về nhân công, về nguyên
liệu phụ (nếu có), về lãi định mức và chi phí hành chính của bên nhận gia
công.
- Về cách thanh toán và điều kiện thanh toán.
- Về việc nghiệm thu: phương pháp, địa điểm, thời gian nghiệm thu.
- Về các loại phạt và thể thức khiếu nại và bồi thường.
* GIAO DỊCH TÁI XUẤT
1. Khái niệm
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất. Nhiều nước Tây Âu và
Mỹ la-tinh quan niệm tái xuất là xuất khẩu những hàng ngoại quốc từ kho hải
quan, chưa qua chế biến ở nước mình. Anh, Mỹ và một số nước khác lại coi
đó là việc xuất khẩu những hàng ngoại quốc chưa qua chế biến ở trong nước
dù hàng đó đã qua lưu thông nội địa. Như vậy, các nước đều thống nhất quan
niệm tái xuất là lại xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đầy đã
nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về
một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba
nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Vì vậy, người ta
còn gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác (triangular
transaction).
2. Các loại hình tái xuất
Page 24
Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau:
+ Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hóa đi từ nước xuất
khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước
nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hóa là sự vận động của
đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập
khẩu.
+ Chuyển khẩu, trong đó hàng hóa đi thẳng từ nước xuất khẩu sang
nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của
nước nhập khẩu.
Cần phân biệt các loại hình tái xuất khẩu với kinh doanh quá cảnh. Kinh
doanh quá cảnh là kinh doanh dịch vụ vận tải chở hàng nước ngoài từ cửa
khẩu này đến cửa khẩu biên giới khác.
3. Ký kết hợp đồng tái xuất
Người kinh doanh tái xuất thường ký một hợp đồng nhập khẩu và một
hợp đồng xuất khẩu. Hai hợp đồng này về cơ bản không khác những hợp
đồng xuất nhập khẩu thông thường, song chúng có liên quan mật thiết với
nhau. Chúng thường phù hợp với nhau về hàng hóa, bao bì mã hiệu, nhiều
khi cả về thời hạn giao hàng và các chứng từ hàng hóa. Việc thực hiện hợp
đồng nhập khẩu phải tạo cơ sở đầy đủ và chắc chắn cho việc thực hiện hợp
đồng xuất khẩu.
Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất quy định dùng phương thức
thư tín dụng giáp lưng - (back to back L/C). Người tái xuất thường cố dàn xếp
để chậm trả tiền hàng nhập và nhanh chóng thu tiền hàng xuất. Nhờ những
biện pháp đó, người tái xuất thu được cả lợi tức về tiền hàng trong khoảng
thời gian chênh lệch.
Kinh doanh tái xuất đòi hỏi sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả,
sự chính xác và chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán.
Ngoài những phương thức giao dịch trình bày trên đây, từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai, trên thị trường thế giới đã nảy sinh nhiều phương thức
Page 25
giao dịch mới. Do khuôn khổ có hạn của cuốn sách, người viết chỉ xin trình
bày những phương thức cơ bản nhất, chủ yếu nhất.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Chào hàng là gì? Nội dung của nó gồm những gì? Điều kiện hiệu lực
của nó? Có những loại chào hàng nào?
2. Chấp nhận chào hàng là gì? Khi nào thì chấp nhận có hiệu lực? Giá
trị pháp lý của chấp nhận như thế nào?
3. Đơn đặt hàng là gì? Nội dung một đơn đặt hàng gồm những gì? Giá
trị pháp lý của đơn đặt hàng như thế nào? Đơn đạt hàng được sử dụng trong
những trường hợp nào?
4. Thế nào là buôn bán qua trung gian? Trên thị trường ta thường thấy
những trung gian thương mại nào?
5. Hãy phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa các loại trung gian
thương mại.
6. Hãy cho biết khái niệm, đặc điểm của buôn bán đối lưu và nguyên
nhân phát triển phương thức buôn bán này.
7. Hãy trình bày về các loại hình buôn bán đối lưu.
8. Hãy trình bày hình thức, nội dung của hợp đồng buôn bán đối lưu và
những phương pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng đó.
9. Hãy trình bày khái niệm, đặc điểm, tác dụng và các hình thức của
đấu giá quốc tế.
10. Hãy trình bày khái niệm, đặc điểm, tác dụng và các hình thức của
đấu thầu quốc tế.
11. Đấu giá quốc tế cần phải trải qua những bước nào?
12. Đấu thầu quốc tế cần phải trải qua những bước nào?
13. Hãy trình bày khái niệm, đặc điểm và tác dụng của các sở giao dịch
hàng hóa.
Page 26
14. Ở sở giao dịch hàng hóa có những loại hình giao dịch nào? Nội
dung các loại hình giao dịch đó?
15. Gia công quốc tế là gì? Có những loại hình nào? Nội dung của hợp
đồng gia công quốc tế gồm những điều khoản nào?
16. Hãy trình bày khái niệm, đặc điểm và tác dụng của phương thức tái
xuất và hai loại hình tái xuất.
BÀI TẬP
Giả dụ, mỗi quý ta cần xuất khẩu khoảng 100.000 mét lụa tơ tằm vào
thị trường Hồng Kông, giá bán lẻ tại thị trường đó khoảng 10 - 14 đôla Hồng
Kông/1 mét. Ta cần tìm một đại lý bán hàng.
1. Hãy cho biết những điều kiện cần phải tuân theo trong khi lựa chọn
đại lý nhận gửi bán (Đại lý ký gửi) số hàng trên.
2. Hãy trình bày nội dung của hợp đồng Đại lý để gửi bán số hàng nói
trên.
Chương 2. CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ
Trên thị trường thế giới một số khá lớn điều kiện đã được hình thành từ
thực tiễn của việc giao dịch trao đổi, mua bán sản phẩm, trong đó nêu rõ
nghĩa vụ của người bán và người mua về các mặt như: chịu phí tổn và rủi ro
trong việc chuyên chở, làm thủ tục kiểm tra hàng hóa, trách nhiệm giao nhận
đúng phẩm chất và số lượng V.V.. Những điều kiện đó gọi là những điều kiện
giao dịch.
Những điều kiện giao dịch ra đời như là một quy định của pháp luật,
hoặc như là một tập quán hoặc như là những sự giải thích hay những điều
quy ước của một tổ chức kinh tế quốc tế (ví dụ như của Phòng Thương mại
Quốc tế chẳng hạn).
Page 27
Sự hình thành những điều kiện giao dịch nói trên có tác dụng thuận lợi
đối với việc đẩy mạnh buôn bán quốc tế, bởi vì nhờ các điều kiện đó, người
bán và người mua mau hiểu biết ý của nhau hơn, giảm bớt những tranh chấp
với nhau... Vì vậy, khi chào hàng, khi hỏi hàng cũng như khi ký kết và thực
hiện hợp đồng, người ta thường vận dụng các điều kiện giao dịch buôn bán
vào hoàn cảnh cụ thể và biến chúng thành các điều khoản cụ thể.
Những điều kiện giao dịch phần nhiều đều có tính chất kỹ thuật - nghiệp
vụ thuần túy, song việc vận dụng chúng lại có tính chất giai cấp rõ rệt, bởi vì
việc vận dụng đó có thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho một đương sự nào đó
(hoặc cho người bán hoặc cho người mua). Do đó, việc vận dụng các điều
kiện giao dịch vào một hợp đồng cụ thể nào đó thường phải trải qua một quá
trình đấu tranh phức tạp giữa hai bên liên quan. Ngoài ra, việc vận dụng các
điều kiện giao dịch cũng đòi hỏi phải linh hoạt và sáng tạo, bởi vì bản thân các
điều kiện đó cũng được bổ sung, thay đổi và hoàn chỉnh không ngừng.
Trong quá trình buôn bán với nước ngoài, việc vận dụng chính xác các
điều kiện giao dịch có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Đó là do:
Một là, có vận dụng khéo léo và sáng suốt các điều kiện giao dịch,
chúng ta mới thực hiện đúng đắn được các đường lối chủ trương của Đảng
và Chính phủ về công tác ngoại thương.
Hai là, những điều kiện giao dịch, một khi đã được vận dụng và trở
thành nội dung của hợp đồng, sẽ là cơ sở có ý nghĩa bắt buộc trong việc xác
định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên ký kết. Vì vậy, có vận dụng chính xác
những điều kiện đó mới ngăn ngừa được những hiểu lầm, tranh chấp và
những hậu quả tai hại trong khi ký kết và thực hiện hợp đồng.
Ba là, những điều kiện giao dịch công bằng và hợp lý, sau khi đã được
các bên liên quan thỏa thuận, thì không những có tác dụng xác định quyền lợi
và nghĩa vụ của họ trong lần giao dịch đó, mà có thể trở thành cơ sở và tiền lệ
để thỏa thuận những giao dịch mới sau đó. Vì vậy, việc vận dụng chính xác
các điều kiện giao dịch có thể có tác dụng rút ngắn được thời gian đàm phán
hoặc tránh được những thiếu sót xảy ra trong quá trình giao dịch bằng thư từ,
Page 28
điện tín... Trong buôn bán quốc tế có nhiều điều kiện giao dịch, song chủ yếu
gồm những điều kiện dưới đây.
* ĐIỀU KIỆN TÊN HÀNG
"Tên hàng" là điều khoản quan trọng của mọi đơn chào hàng, thư hỏi
hàng, hợp đồng hoặc nghị định thư. Nó nói lên chính xác đối tượng mua bán,
trao đổi. Vì vậy, người ta luôn tìm cách diễn đạt chính xác tên hàng.
Có những cách sau đây để biểu đạt tên hàng:
- Người ta ghi tên thương mại của hàng hóa nhưng còn ghi kèm theo
tên thông thường và tên khoa học của nó.
- Người ta ghi tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra hàng đó.
Ví dụ: rượu vang Bordeaux, thủy tinh Bohemia...
- Người ta ghi tên hàng kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng đó. Ví dụ:
xe máy Honda, xe hơi Ford...
- Người ta ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó. Ví dụ: bia Con hổ
(tiger) thuốc lá Bông sen...
- Người ta ghi tên hàng kèm theo quy cách chính của hàng hóa đó. Ví
dụ: xe tải 10 tấn, Ti-vi màn ảnh màu 14 inches...
- Người ta ghi tên hàng kèm theo công dụng của hàng hóa đó. Ví dụ:
tuyn để làm màn, lưỡi cưa để cưa gỗ có dầu...
- Người ta ghi tên hàng kèm theo số hiệu hạng mục của hàng đó trong
danh mục hàng hóa thống nhất. Ví dụ: Mô-tơ điện, mục 100.101.
Ngoài ra, có khi người ta còn kết hợp một hai phương pháp trên đây
với nhau. Ví dụ: Ti-vi 14 inches, màu của hãng Sony (Sony 14" color TV set).
* ĐIỀU KIỆN PHẨM CHẤT
"Phẩm chất" là điều khoản nói lên mặt "chất" của đối tượng - hàng hóa
mua bán, nghĩa là tính năng (như lý tính, hóa tính, tính chất cơ lý...) quy cách,
kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất... của hàng hóa đó. Để quy định
Page 29
chính xác mặt "chất" như thế của hàng hóa đó, người ta vận dụng trong các
hợp đồng mua bán ngoại thương những phương pháp xác định phẩm chất
như sau:
1. Dựa vào mẫu hàng
Theo phương pháp này chất lượng của hàng hóa được xác định căn
cứ vào chất lượng của một số ít hàng hóa, gọi là mẫu hàng, do người bán
đưa ra và được người mua thỏa thuận. Những hàng hóa mua bán dựa vào
mẫu hàng thường là những hàng hóa khó tiêu chuẩn hóa và khó mô tả, ví dụ:
hàng mỹ nghệ, một số hàng nông sản...
Một hợp đồng bán hàng theo mẫu, như quy định của luật pháp nước
Anh (Sale of goods Act, 1893) chẳng hạn, phải đạt được ba điều kiện là: hàng
hóa phải phù hợp về mặt phẩm chất với mẫu hàng, người mua phải có điều
kiện hợp lý để đối chiếu hàng hóa với mẫu hàng, hàng hóa không được có
những khuyết tật khiến cho hàng đó không tiêu thụ được mà những khuyết tật
này khi xem xét mẫu một cách hợp lý cũng không phát hiện được.
Trong tập quán buôn bán quốc tế, người ta ký hoặc đóng dấu vào ba
mẫu hàng: Một giao cho người bán lưu, một giao cho người mua và một giao
cho người thứ ba được hai bên thỏa thuận chỉ định giữ để phân xử khi cần
thiết.
Cũng có khi người mua đưa ra mẫu hàng trước. Trong trường hợp này,
người bán phải sản xuất ra một mẫu đối (counter sample) để làm cơ sở thỏa
thuận giao dịch. Sau đó hai bên cũng cần làm đầy đủ thủ tục như đã nói ở
trên.
2. Dựa vào phẩm cấp (category) hoặc tiêu chuẩn (standard)
Tiêu chuẩn là những quy định về sự đánh giá chất lượng (các chỉ tiêu
phẩm chất), về phương pháp sản xuất, chế biến, đóng gói, kiếm tra hàng
hóa... Trong khi xác định tiêu chuẩn người ta cũng thường quy định cả phẩm
cấp, ví dụ những yêu cầu về chất lượng hàng loại 1, hàng loại 2 v.v... Vì thế
phẩm cấp cũng là tiêu chuẩn.
Page 30
Khi ký kết hợp đồng mua bán dựa trên tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp,
người ta phải tìm hiểu nội dung của tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó. Chẳng
những thế, do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, phẩm cấp của
năm sau có thể có ý nghĩa khác hẳn năm trước. Ví dụ: Xi măng Việt Nam mác
P.500 theo TCVN 140/84 (năm 1984) bằng với mác P.400 theo TCVN
2232/77 (Báo Nhân dân ngày 20/2/1985). Do đó, khi ký hợp đồng mà chất
lượng xác định theo phương pháp này, hai bên phải ghi chính xác số hiệu tiêu
chuẩn và năm ban hành tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó.
3. Dựa vào quy cách của hàng hóa
Quy cách (specification) là những chi tiết về mặt chất lượng như công
suất, kích cỡ, trọng lượng v.v... của một hàng hóa. Phương pháp xác định
phẩm chất hàng dựa vào quy cách thường được dùng trong việc mua bán
các thiết bị, máy móc, công cụ vận tải...
4. Dựa vào các chỉ tiêu đại khái quen dùng
Khi mua bán những mặt hàng nông sản, nguyên liệu mà chất lượng
của chúng khó tiêu chuẩn hóa, trên thị trường quốc tế người ta thường dùng
một số chỉ tiêu phỏng chừng như FAQ, GMQ...
FAQ là từ viết tắt của câu tiếng Anh (Fair average quality) có ý nghĩa là:
phẩm chất bình quân khá. Theo chỉ tiêu này, người bán hàng từ một cảng
nhất định phải giao theo phẩm chất không thấp hơn phẩm chất bình quân của
loại hàng đó vẫn thường được gửi từ cảng đó, trong một thời kỳ nhất định
(như trong một quý, trong một vụ chẳng hạn). Muốn xác định phẩm chất bình
quân trong một quý thì, trong quý đó, cứ mỗi lô hàng được gửi đến từ một
cảng nhất định, người ta đều lấy mẫu. Đến cuối quý, người ta trộn những
mẫu đó lại và rút ra một mẫu bình quân.
GMQ là từ viết tắt của câu tiếng anh (Good merchantable quality) có
nghĩa là: phẩm chất tiêu thụ tốt. Theo chỉ tiêu này, người bán phải giao hàng
có phẩm chất thông thường được mua bán trên thị trường mà một khách mua
bình thường, sau khi xem xét đẩy đủ, có thể chấp nhận. Nếu hàng hóa có
Page 31
nhiều công dụng mà người mua không nói rõ ý định sử dụng của mình đối với
hàng đó thì người bán giao hàng hóa miễn sao đáp ứng được một trong
những công dụng của nó là được.
Ngoài ra, trong từng ngành buôn bán, tập quán lại còn hình thành
những chỉ tiêu đại khái phù hợp với mặt hàng của ngành đó. Ví dụ, trong
buôn bán ca cao hạt, chỉ tiêu "độ lên men vừa" (fair fermented) có nghĩa là
hàng có 10% hạt lép, hạt hỏng, còn "độ lên men tốt" (good fermented) có
nghĩa là hạt lép, hạt hỏng chỉ chiếm 5% tổng số.
5. Dựa vào hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hóa
Theo phương pháp này, người ta quy định tỷ lệ phần trăm của thành
phần chất chủ yếu chiếm trong hàng hóa. Ví dụ: hàm lượng ta-nanh là 14%
trong vỏ xú. Đồng thời, người ta còn có thể quy định thưởng (bonification) nếu
hàm lượng chất đó cao hơn quy định hoặc phạt nếu hàm lượng chất đó thấp
hơn quy định. Phương pháp này thường dùng trong mua bán nguyên liệu,
lương thực, thực phẩm.
6. Dựa vào số lượng thành phẩm thu được từ hàng hóa đó
Theo phương pháp này, người ta quy định số lượng thành phẩm được
sản xuất ra từ hàng hóa mua bán, ví dụ số lượng dầu lấy được từ hạt có dầu
(như đỗ tương, vừng, lạc, thâu dầu...), số lượng len lấy được từ lông cừu, số
lượng đường kính lấy được từ đường thô... Phương pháp này thường dùng
trong mua bán nguyên liệu hoặc bán thành phẩm.
7. Dựa vào hiện trạng hàng hóa (tale quale)
Phương pháp này thường chỉ được dùng trong buôn bán quốc tế về
hàng nông sản và khoáng sản, khi hợp đồng mua bán ký kết theo điều kiện
"chỉ bán nếu hàng đến" (to arrive sale). Ý nghĩa của nó là "có thế nào, giao
thế nấy". Do đó phẩm chất của hàng giao đúng như mẫu hàng đã lấy được
khi bốc, còn khi hàng đến bến phẩm chất hàng như thế nào người mua phải
nhận như vậy, tức là người mua phải chịu những rủi ro, hư hại về hàng hóa
trong quá trình chuyên chở.
Page 32
8. Dựa vào sự xem hàng trước
Phương pháp này còn được gọi là "đã xem và đồng ý" (inspected -
approved), tức là hàng hóa được người mua xem và đồng ý, còn người mua
phải nhận hàng và trả tiền hàng.
Trong trường hợp hợp đồng đã quy định về phẩm chất nhưng còn thêm
rằng người mua sẽ xem hàng và đồng ý thì nếu đến khi xem hàng người mua
thấy hàng hóa không phù hợp với phẩm chất quy định trong hợp đồng, và
không chấp thuận thì hợp đồng sẽ bị coi là không được thành lập.
Trong trường hợp người mua đã xem hàng và đồng ý trước khi ký hợp
đồng (ví dụ trường hợp đấu giá hoặc mua tại kho người bán) thì sau khi ký
hợp đồng, người mua phải nhận hàng và trả tiền hàng, chứ không thể viện lý
do phẩm chất xấu để từ chối hàng hóa.
9. Dựa vào dung trọng hàng hóa
Dung trọng hàng hóa là trọng lượng tự nhiên của một đơn vị dung tích
hàng hóa. Nó phản ánh tính chất vật lý như hình dạng, kích cỡ, trọng lượng...
và tỷ trọng tạp chất của hàng hóa. Phương pháp xác định phẩm chất dựa vào
dung trọng hàng hóa là phương pháp khá phổ biến trong buôn bán ngũ cốc.
Tuy nhiên, người ta thường sử dụng phương pháp này kết hợp với phương
pháp mô tả.
10. Dựa vào tài liệu ký thuật
Trong việc mua bán máy móc, thiết bị, hàng công nghiệp tiêu dùng lâu
bền, trên hợp đồng mua bán, người ta thường dẫn chiếu đến một tài liệu kỹ
thuật như: bản vẽ kỹ thuật, sơ đồ lắp ráp, bản thuyết minh tính năng và tác
dụng, bản hướng dẫn sử dụng... Trong trường hợp này, người ta còn ký hoặc
đóng dấu vào tài liệu kỹ thuật và quy định rằng tài liệu đó là bộ phận không
tách rời hợp đồng.
11. Dựa vào nhãn hiệu hàng hóa
Page 33
Thường thường đối với những mặt hàng công nghiệp hoặc hàng nông
sản chế biến như đồ hộp, thuốc lá, chè, cà phê, rượu... mỗi nhãn hiệu đại
biểu cho một phẩm cấp nhất định. Ví dụ, chè "Thanh Hương" đại biểu cho
một phẩm chất khác với chè "Ngọc Sơn". Vì vậy, trên hợp đồng, người ta có
thể dẫn chiếu đến nhãn hiệu để nói lên phẩm chất của hàng hóa mua bán.
Thông thường, để xác định chính xác hơn, trong trường hợp này, người ta
còn ghi rõ năm sản xuất (year of production) và xêry sản xuất của loại hàng
có nhãn hiệu đó.
12. Dựa vào mô tả hàng hóa
Theo phương pháp này, trên hợp đồng, người ta nêu lên những đặc
điểm về màu sác, hình dáng, kích thước, tính năng... và các chỉ tiêu khác về
phẩm chất hàng hóa. Phương pháp này được dùng rộng rãi và thường được
dùng kết hợp với các phương pháp khác.
* ĐIỀU KIỆN SỐ LƯỢNG
Nhằm nói lên mặt "lượng" của hàng hóa được giao dịch, điều khoản
này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng (hoặc trọng lượng) của hàng
hóa, phương pháp quy định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng.
1. Đơn vị tính số lượng
Nếu hàng hóa mua bán được tính bằng cái, chiếc, hòm, kiện thì rất dễ
dàng. Những hàng tính theo chiều dài, trọng lượng thể tích và dung tích thì
đơn vị phức tạp hơn nhiều: nếu đơn vị tính không được quy định rõ ràng, các
bên giao dịch dễ có sự hiểu lầm nhau. Nguyên nhân của sự hiểu trái ý của
nhau là do, trong buôn bán quốc tế, nhiều đơn vị đo lường có cùng một tên
gọi nhưng ở mỗi nước lại có một nội dung khác. Ví dụ, một bao bông ở Ai
Cập là 330 kg, Braxin là 180 kg, một bì cà phê ở các nước thường là 60 cân
Anh (27 13 kg) nhưng ở Cô-lôm-bia lại là 70 cân Anh (31,7 kg).
Ngoài ra, một nguyên nhân đáng kể khác nữa là sự áp dụng đồng thời
nhiều hệ thống đo lường trong buôn bán quốc tế. Ngoài các đơn vị thuộc mét
hệ, người ta còn dùng hệ thống đo lường của Anh, của Mỹ v.v...
Page 34
Dưới đây là một số đơn vị đo lường thường được dùng trong buôn bán
quốc tế, ngoài các đơn vị thuộc mét hệ:
- Đơn vị do chiều dài: Inch (2,54 cm): foot (12 inches = 0,304 m); Yard
(3 feet = 0,914 m); mile (1,609 km).
- Đơn vị đo diện tích: Square inch (6,4516 cm2) square foot (2,2903
dm2); square yard (0,836 m2); Acre (0,40468 ha)...
- Đơn vị đo dung tích: Gallon (Anh: 4,546 lít, Mỹ 3,785 lit); Bushel (Anh:
3,637 đêca lít, Mỹ: 3,523 lít); Barrel (158,98 lít).
- Đơn vị do khối lượng (trọng lượng) Grain (0,0648 gam): Dram (1,772
gam); Ounce (28,350 gam trong buôn bán hàng thông thường và 31,1035
gam trong buôn bán vàng bạc); short ton (907,184 kg); long ton (1.016,047
kg); pound (453,59 gam)...
- Đơn vị tính số lượng tập hợp: Tá (12 cái); Gross (12 tá), hộp, đôi...
2. Phương pháp quy định số lượng
Trong thực tiễn buôn bán quốc tế, người ta có thể quy định số lượng
hàng hóa giao dịch bằng hai cách:
Một là, bên bán và bên mua quy định cụ thể số lượng hàng hóa giao
dịch. Đó là một khối lượng được khẳng định dứt khoát. Khi thực hiện hợp
đồng các bên không được phép giao nhận theo số lượng khác với số lượng
đó. Phương pháp này thường được dùng với những hàng tính bằng cái,
chiếc.
Hai là, bên bán và bên mua quy định một cách phỏng chừng về số
lượng hàng hóa giao dịch. Khi thực hiện hợp đồng, các bên có thể giao nhận
theo một số lượng cao hoặc thấp hơn số lượng quy định trong hợp đồng.
Khoản chênh lệch đó gọi là dung sai về số lượng. Điều khoản của đơn chào
hàng, hợp đồng hoặc hiệp định quy định dung sai về số lượng gọi là điều
khoản số lượng phỏng chừng (moreless clause).
Page 35
Điều khoản số lượng phỏng chừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc mua bán những mặt hàng có khối lượng lớn như ngũ cốc, than, quặng,
dầu mỏ... Đó là do việc sản xuất những hàng đó có quy mô lớn, do việc cân
đo hàng đó khó bảo đảm chính xác tuyệt đối, và còn là do khó khăn trong việc
tìm phương tiện chuyên chở phù hợp hoàn toàn với khối lượng hàng. Cho
nên, đối với những mặt hàng này, việc quy định dung sai về số lượng cho
phép tránh được những khó khăn trong khi thực hiện hợp đồng.
Điều khoản này có thể được thực hiện trong hợp đồng bằng cách ghi
chữ "khoảng chừng" (about), “xấp xỉ” (approximately) hoặc "hơn kém"
(moreless), ± (cộng, trừ) hoặc "từ... tấn mét đến... tấn mét".
Phạm vi của dung sai có thể được xác định trong hợp đồng. Nếu
không, nó được hiểu theo tập quán buôn bán hiện hành đối với mặt hàng có
liên quan. Ví dụ, trong tập quán buôn bán hàng ngũ cốc, dung sai là ± 5%,
hàng cà phê là ± 3%, cao su là ± 2,5%, gỗ là ± 10%; máy và thiết bị là ± 5%
về trọng lượng hàng giao.
Hợp đồng cũng có thể quy định về người được hưởng quyền lựa chọn
dung sai như: Do người bán chọn (at Seller’s option), do người mua chọn (at
Buyer’s option) hoặc do bên nào đi thuê tàu thì được chọn (at Charterer’s
option)
Trong nhiều trường hợp, người ta còn thỏa thuận quy định giá hàng
của khoản dung sai về số lượng sao cho một trong hai bên không thể lợi dụng
sự biến động của giá cả thị trường để làm lợi cho mình.
Ngoài việc quy định dung sai về số lượng người ta còn quan tâm đến
địa điểm xác định số lượng và trọng lượng. Nếu lấy trọng lượng được xác
định ở nơi gửi hàng (trọng lượng bốc - Shipped weight) làm cơ sở để xem xét
tình hình người bán chấp hành hợp đồng, hoặc để thanh toán tiền hàng thì
những rủi ro xảy đến với hàng hóa trong quá trình chuyên chở do người mua
phải chịu. Nếu việc thanh toán tiền hàng tiến hành trên cơ sở trọng lượng
được xác định ở nơi hàng đến (trọng lượng dỡ - landed weight) hai bên nhải
căn cứ vào kết quả kiểm tra trọng lượng hàng ở nơi đến. Kết quả này được
Page 36
ghi trong một chứng từ do một tổ chức được các bên thỏa thuận chỉ định tiến
hành kiểm tra và lập nên.
Trong những trường hợp cần thiết, người ta cũng có thể quy định một
tỷ lệ miễn trừ (franchise). Ý nghĩa của việc miễn trừ, trong điều kiện này là:
người bán được miễn trách nhiệm (như trách nhiệm giao bổ sung, hoặc giảm
giá, hoặc bồi thường bằng tiền...) nếu mức hao hụt tự nhiên thấp hơn tỷ lệ
miễn trừ đã được quy định.
3. Phương pháp xác định trọng lượng
Để xác định trọng lượng hàng hóa mua bán, người ta thường dùng
những phương pháp sau đây:
- Trọng lượng cả bì: Đó là trọng lượng của hàng hóa cùng với trọng
lượng của các loại bao bì hàng đó. Những mặt hàng được mua bán theo
trọng lượng cả bì không phải là ít. Những cuộn giấy làm báo, các loại đậu tạp
V. V... khi mua bán, người ta thường tính trọng lượng cả bì.
- Trọng lượng tịnh: Đó là trọng lượng thực tế của bản thân hàng hóa.
Nó bằng trọng lượng cả bì trừ đi trọng lượng của vật liệu bao bì. Từ trọng
lượng cả bì, muốn tính ra trọng lượng tịnh, phải tính được trọng lượng bì. Có
mấy phương pháp tính trọng lượng bì:
+ Theo trọng lượng bì thực tế (actual tare): Đem cân tất cả bao bì rồi
tính tổng số trọng lượng bì. Phương pháp này chính xác nhưng mất nhiều
công và nhiều khi không thể thực hiện được.
+ Theo trọng lượng bì trung bình (average rare): Trong số toàn bộ bao
bì, người ta rút ra một số bao bì nhất định để cân lên và tính bình quân. Trọng
lượng bình quân đó được coi là trọng lượng bì của mỗi đơn vị hàng hóa.
+ Theo trọng lượng bì quen dùng (customary tare): Đối với những loại
bao bì đã được nhiều lần sử dụng trong buôn bán người ta lấy kết quả cân đo
từ lâu làm tiền lệ để xác định trọng lượng bì. Khi gặp những loại bao bì như
thế, người ta tính theo một trọng lượng cố định, gọi là trọng lượng bì quen
dùng.
Page 37
+ Theo trọng lượng bì ước tính (estimated tare). Trọng lượng bao bì
được xác định bằng cách ước lượng, chứ không qua cân thực tế.
+ Theo trọng lượng bì ghi trên hóa đơn (envoiced tare). Trọng lượng bì
được xác định căn cứ vào lời khai của người bán, không kiểm tra lại.
Trong một số trường hợp, để biểu thị chính xác trọng lượng tịnh thực tế
của hàng hóa người ta còn dùng thuật ngữ "trọng lượng tịnh thuần túy" (net
net weight). Ý nghĩa của thuật ngữ này là: Trọng lượng được xác định chỉ bao
gồm trọng lượng của bản thân hàng hóa, không có bất kỳ một loại bao bì nào.
Khác với "trọng lượng tịnh thuần túy, trọng lượng nửa bì bao gồm trọng lượng
của bản thân hàng hóa cộng với trọng lượng của những vật liệu bao bì trực
tiếp.
Đối với một số mặt hàng mà trọng lượng của bao bì rất nhỏ, không
đáng kể, hoặc đơn giá của bao bì không chênh lệch bao nhiêu so với đơn giá
hàng hóa, nhiều khi người ta còn có thể thỏa thuận với nhau tính giá cả của
bao bì theo cách thức "cả bì coi như tịnh" (gross weight for net). Ý nghĩa của
điều khoản này là: Giá cả của bao bì được tính như giá cả của bản thân hàng
hóa và cả hai yếu tố này đều tính theo trọng lượng.
- Trọng lượng thương mại: Đây là phương pháp áp dụng trong buôn
bán những mặt hàng dễ hút ẩm, co đọ ẩm không ổn định và có giá trị kinh tế
tương đối cao như: tơ tằm, lông cừu, bông, len v.v... Trọng lượng thương mại
là trọng lượng của hàng hóa có độ ẩm tiêu chuẩn. Trọng lượng thương mại
thường được xác định bằng công thức:
GTM = GTT * [(100 + Wtc)/ (100 + Wtt)]
Trong đó:
GTM là trọng lượng thương mại của hàng hóa.
GTT là trọng lượng thực tế của hàng hóa.
Wtt là độ ẩm thực tế của hàng hóa.
Wtc là độ ẩm tiêu chuẩn của hàng hóa.
Page 38
- Trọng lượng lý thuyết: Phương pháp này thích hợp với những mặt
hàng có quy cách và kích thước cố định như: thép tấm, thép chữ U, thép chữ
I, tôn lá v.v... và cả trong trường hợp mua bán thiết bị toàn bộ. Theo phương
pháp này, người ta căn cứ vào thể tích, khối lượng riêng và số lượng hàng để
tính toán trọng lượng hàng, hoặc căn cứ vào thiết kế của nó (trường hợp đối
với thiết bị toàn bộ) để xác định trọng lượng hàng hóa cung cấp cho nhau.
Trọng lượng tìm thấy được gọi là trọng lượng lý thuyết.
* ĐIỀU KIỆN BAO BÌ
Trong điều khoản về bao bì, các bên giao dịch thường phải thỏa thuận
với nhau những vấn đề yêu cầu chất lượng của bao bì và giá cả của bao bì.
1. Phương pháp quy định chất lượng của bao bì
Để quy định chất lượng của bao bì, người ta có thể dùng một trong hai
phương pháp sau đây:
- Quy định chất lượng bao bì phải phù hợp với một phương thức vận tải
nào đó. Ví dụ: "Bao bì thích hợp với vận chuyển đường sát", "bao bì đường
biển"...
Sở dĩ người ta có thể thỏa thuận chung chung như vậy, mà vẫn hiểu
nhau được là vì, trong buôn bán quốc tế, đã hình thành một số tập quán quốc
tế về các loại bao bì này.
Theo tập quán đó, bao bì đường biển thường có hình dạng là hình hộp,
ít khi là những hình khác, có độ bên khá đủ để chịu đựng sức ép của những
hàng hóa khác chất xếp trong cùng hầm tàu trong khi chuyên chở có kích
thước là những số nguyên của đơn vị đo lường. Trong chuyên chở hàng hóa
đường biển, ít khi người ta đóng chung những mặt hàng có suất cước khác
nhau vào cùng một kiện hàng, bởi vì trong trường hợp như vậy, các hãng tàu
có quyền áp dụng một suất cước cao nhất trong số các suất cước của hàng
hóa đóng gói chung đó để tính cước cho cả kiện hàng.
Trong chuyên chở đường sắt, bao bì cũng cần khá chắc chắn bởi vì
hàng hóa có thể phải qua nhiều khâu sang toa, dịch chuyển. Đồng thời bao bì
Page 39
đường sắt cũng cần có kích thước phù hợp với quy định của các cơ quan
đường sắt, nơi hang đi qua. Những hàng hóa có bao bì quá dài và có trọng
lượng qua nặng, thường gặp khó khăn trong khi đăng ký xin toa, cũng như khi
bốc dỡ.
Bao bì thích hợp với việc vận chuyển bằng máy bay, phải là bao bì nhẹ,
có kích thước phù hợp với quy định của công ty hàng không. Có như vậy, mới
giảm được chi phí chuyên chở, bởi vì suất cước máy bay cao hơn nhiều so
với suất cước của các phương thức chuyên chở khác. Ngoài ra, để tránh
nguy hiểm cho hàng hóa và công cụ vận tải, người ta tránh dùng những vật
liệu dễ bốc cháy trong việc chế tạo bao bì máy bay.
Điểm lại các tập quán buôn bán có liên quan đến bao bì chúng ta thấy
rằng cách quy định chung chung về chất lượng bao bì vẫn có thể gây nên sự
không thống nhất trong việc giải thích yêu cầu đối với bao bì. Ví dụ, mỗi bên
giao dịch có thể hiểu một cách khác nhau về khái niệm "khá chắc chắn" hoặc
"kích thước phù hợp".
- Quy định cụ thể các yêu cầu về bao bì, như:
+ Yêu cầu về vật liệu làm bao bì, ví dụ: bằng gỗ mới bằng màng mỏng
polyetylen, bằng tre nứa đan, bìa bồi (cardboard), gỗ ghép (fiber board).
+ Yêu cầu về hình thức của bao bì, ví dụ: Hòm (case) bao (bale), thùng
(drum) cuộn (roll), bao tải (gunny bag)...
+ Yêu cầu về kích cỡ của bao bì, ví dụ: mỗi bao 50 kg, đay ép
100kg/kiện v.v...
+ Yêu cầu về số lớp bao bì và cách thức cấu tạo mỗi lớp đó, ví dụ: Lớp
trong có bôi mỡ và phủ giấy nến, lớp giữa làm bằng nilông, lớp ngoài là hòm
gỗ mới dầy không dưới 2cm.
+ Yêu cầu về đai nẹp của bao bì, ví dụ: hòm phải có 3 lượt nẹp, mà bề
rộng từ 2 cm trở lên, mỗi góc hòm phải có sát coóc-ne v.v...
Page 40
Đương nhiên, phương pháp quy định các yêu cầu cụ thể của bao bì có
nhiêu ưu điểm hơn phương pháp quy định chung chung. Song nó đòi hỏi mỗi
bên giao dịch phải có trình độ nhất định, về kiến thức và kinh nghiệm cả trong
lĩnh vực thương phẩm lẫn trong lĩnh vực vận tải.
2. Phương thức cung cấp bao bì
Nói chung, việc cung cấp bao bì được thực hiện bằng một trong ba
cách dưới đây, tùy theo sự thỏa thuận của các bên giao dịch.
Một là, bên bán cung cấp bao bì, đồng thời với việc giao hàng cho bên
mua. Đây là phương thức thông thường nhất, phổ biến nhất.
Hai là, bên bán ứng trước bao bì để đóng gói hàng hóa nhưng sau khi
nhận hàng bên mua phải trả lại bao bì. Nói cách khác, bên bán chỉ bán hàng
hóa còn bao bì được giữ lại tiếp tục sử dụng. Phương thức này chỉ thường
dùng đối với những loại bao bì có giá trị cao hơn giá hàng hoặc những bao bì
sử dụng nhiều lần.
Ba là, bên bán yêu cầu bên mua gửi bao bì đến trước để đóng gói, sau
đó mới giao hàng. Trường hợp này chỉ xảy ra khi nào bao bì quả thật khan
hiếm và khi thị trường thuộc về người bán.
3. Phương thức xác định giá cả của bao bì
Nếu bên bán chịu trách nhiệm cung cấp bao bì, sau đó không thu hồi,
thì hai bên giao dịch thường phải thỏa thuận với nhau việc xác định giá bao
bì. Nói chung việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp:
- Giá của bao bì được tính vào giá cả của hàng hóa, không tính riêng.
Đây là biện pháp hay dùng. Trong trường hợp này người ta khẳng định giá
hàng đã bao gồm giá của bao bì (packing charges included).
- Giá cả của bao bì do bên mua trả riêng. Muốn vậy cần xác định mức
độ chi phí tạo nên giá cả bao bì. Chi phí nay có thể tính theo chi phí thực tế,
có thể tính bằng mức % so với giá hàng. Nhưng cả hai phương pháp này đều
có những điểm không thỏa đáng. Phương pháp trước sẽ khuyến khích bên
Page 41
bán chế tạo bao bì bằng vật liệu đắt tiền hoặc với khối lượng lớn quá mức
cần thiết. Phương pháp sau dễ làm cho giá cả bao bì nhiêu hơn chi phí thực
tế vì rằng chi phí bao bì không có quan hệ trực tiếp với giá cả hàng hóa.
- Giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hóa. Đây là trường
hợp các bên thỏa thuận áp dụng điều khoản “cả bì coi như tịnh" (đã được
trình bày ở "điều kiện về số lượng" trang 45).
* ĐIỆU KIỆN CƠ SỞ GIAO HÀNG
Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc
của việc giao nhận hàng hóa giữa bên bán với bên mua. Những cơ sở đó là:
- Sự phân chia giữa bên bán và bên mua các trách nhiệm tiến hành
việc giao nhận hàng, như các trách nhiệm: thuê mướn công cụ vận tải (thuê
tàu, lưu cước...) bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải quan, nộp thuế
xuất khẩu, nộp thuế nhập khấu v.v...
- Sự phân chia giữa hai bên các chi phí về giao hàng như các chi phí
chuyên chở hàng, chi phí bốc hàng, chi phí dỡ hàng, chi phí lưu kho, chi phí
mua bảo hiểm, tiền thuế...
- Sự di chuyển từ người bán sang người mua những rủi ro và tổn thất
về hàng hóa.
Để nói lên những nội dung trên, quá trình buôn bán quốc tế đã làm nảy
sinh một số thuật ngữ nhất định như: giao tại xưởng (ex work), giao lên tàu
(free on board), tiền hàng + phí bảo hiểm + cước phí (cost insurance freight)
v.v...
Do nội dung của các điều kiện cơ sở giao hàng khá rộng nên mỗi nước,
mỗi khu vực có cách giải thích khác nhau về cùng một điều kiện buôn bán
quốc tế này. Nhiều tổ chức quốc tế đã cố gắng tìm cách thống nhất giải thích
chúng. Nhưng, cho đến nay cách giải thích được nhiều người áp dụng hơn cả
vẫn là "Quy tác quốc tế giải thích các điều kiện thương mại" được nêu trong
cuốn "Điều kiện thương mại quốc tế" gọi là Incoterms (Phiên âm: Incôthơm),
do Phòng Thương mại quốc tế soạn và phát hành. Tuy nhiên, các tập quán
Page 42
buôn bán khác vẫn giữ vai trò khá quan trọng trong sự giải thích, bởi vì bản
thân Incôthơm cũng dẫn chiếu đến tập quán cảng khẩu. Và nếu hợp đồng
không nói rõ sự chấp nhận những điều giải thích của Incôthơm, văn bản này
không áp dụng một cách đương nhiên mà, trong trường hợp này, điều kiện cơ
sở giao hàng được hiểu theo tập quán buôn bán và tập quán vận tải của địa
phương.
Dưới đây xin trình bày tóm tắt nội dung các điều kiện cơ sở giao hàng
đã được giải thích trong Incôthơm (xuất bản năm 1990).
Giao tại xưởng: tùy theo địa điểm giao hàng, người ta có thể gọi điều
kiện này là "giao tại nhà máy" (ex factory) "giao tại mỏ" (ex mine) "giao tại đồn
điền" (ex plantation) "giao tại kho" (ex warehouse)... nhưng tên gọi được lấy
làm tiêu biểu là "giao tại xưởng" (ex work) và ký hiệu quốc tế là EXW.
Theo điều kiện này, người bán phải: đặt hàng hóa dưới quyền định
đoạt của người mua trong thời hạn và tại địa điểm do hợp đồng quy định, nếu
hợp đồng không quy định, tại địa điểm vẫn thường giao hàng đó lên phương
tiện vận tải của người mua. Còn người mua phải nhận hàng tại xưởng của
bên bán, chịu mọi rủi ro và phí tổn để lo liệu việc chuyên chở về địa điểm
đích.
Giao cho người vận tải (free carrier) ký hiệu quốc tế là FCA: theo điều
kiện này người bán phải:
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu nếu có).
- Giao hàng tại địa điểm và trong thời gian quy định cho người vận tải
công cộng đã được người mua chỉ định (người vận tải công cộng ở đây có
thể là tổ chức hàng không, đường sát, đường ô tô, công ty chở hàng bằng
công-tê-nơ...).
- Cung cấp bằng chứng về việc đã giao hàng cho người vận tải.
Còn người mua phải:
- Kịp thời chỉ định người vận tải.
Page 43
- Ký kết hợp đồng vận tải và trả cước.
- Chịu rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã giao cho người
vận tải được chỉ định.
Người vận tải ở đây có thể là công ty vận tải ô tô, công ty hàng không,
đường sắt v.v...
Giao dọc mạn tàu (free alongside ship): ký hiệu quốc tế FAS. Theo điều
kiện này người bán phải:
- Giao hàng dọc mạn con tàu do người mua chỉ định.
- Cung cấp chứng từ hoàn hảo thường lệ chứng minh hàng đã được
đặt thực sự dọc mạn tàu.
Còn người mua phải:
- Kịp thời chỉ định tàu chuyên chở.
- Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả cước.
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần).
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã được thực
sự giao dọc mạn tàu.
Giao lên tàu (free on board), ký hiệu quốc tế FOB. Theo điều kiện này,
người bán phải:
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần).
- Giao hàng lên tàu.
- Cung cấp chứng từ vận tải hoàn hảo chứng minh hàng đã được bốc
lên tàu.
- Chịu chi phí bốc hàng lên tàu theo tập quán của cảng nếu chi phí này
chưa nằm trong tiền cước.
Còn người mua phải:
- Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả cước.
Page 44
- Trả tiền chi phí bốc hàng lên tàu nếu chi phí này được tính vào trong
tiền cước.
- Lấy vận đơn.
- Trả tiền chi phí dỡ hàng.
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua hẳn lan
can tàu ở cảng bốc hàng.
Tiền hàng cộng cước (cost + freight) ký hiệu quốc tế CFR. Theo điều
kiện này người bán phải:
- Ký kết hợp đồng chuyên chở đường biển và trả cước để chuyển hàng
đến cảng đích.
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần).
- Giao hàng lên tàu;
- Cung cấp cho bên mua hóa đơn và vận đơn đường biển hoàn hảo;
- Trả tiền chi phí bốc hàng lên tàu;
- Trả tiền chi phí dỡ hàng nếu chi phí này đã được tính vào tiền cước.
Còn người mua phải:
- Nhận hàng khi hóa đơn và vận đơn đã được giao
cho mình;
- Trả tiền chi phí dỡ hàng nếu chi phí này chưa nằm trong tiền cước;
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua hẳn lan
can tàu ở cảng bốc hàng.
Tiền hàng cộng bảo hiểm cộng cước (cost + insurance + freight): ký
hiệu quốc tế CIF. Theo điều kiện này, người bán phải:
- Ký kết hợp đồng chuyên chở đường biển để chở hàng đến cảng đích;
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần).
Giao hàng lên tàu:
Page 45
- Ký kết hợp đồng bảo hiểm cho hàng hóa theo điều kiện bảo hiểm tối
thiểu với giá trị bảo hiểm bằng giá CIF + 10%.
- Cung cấp cho người mua hóa đơn, vận đơn hoàn hảo và đơn (hoặc
giấy chứng) bảo hiểm.
- Trả tiền chi phí bốc hàng lên tàu.
Trả tiền chi phí dỡ hàng nếu chi phí này đã nằm trong tiền cước
(trường hợp tàu chở hàng là tàu chợ).
Còn người mua phải:
- Nhận hàng theo từng chuyến giao hàng khi hóa đơn, đơn (hoặc giấy
chứng bảo hiểm) và vận đơn được giao cho mình.
- Trả tiền chi phí dỡ hàng nếu chi phí này chưa nằm trong tiền cước.
Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua hẳn lan
can tàu ở cảng bốc hàng.
Cước trả tới đích (carriage paid to...) ký hiệu quốc tế CPT. Theo điều
kiện này người bán phải:
- Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả cước đến địa điểm đích quy định.
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần).
- Giao hàng cho người vận tải đầu tiên.
- Cung cấp cho người mua hóa đơn và chứng từ vận tải thường lệ.
Còn người mua phải:
- Nhận hàng khi hàng đã được giao cho người vận tải đầu tiên và khi
hóa đơn và chứng từ vận tải (nếu tập quán yêu cầu chứng từ vận tải) được
giao cho mình.
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã được giao
cho người vận tải đầu tiên.
Cước và bảo hiểm trả tới đích (carriage and insurance paid to...) ký
hiệu quốc tế CIP. Theo điều kiện này, người bán phải:
Page 46
- Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả cước đến địa điểm đích quy định.
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khấu (nếu cần).
- Giao hàng cho người vận tải đầu tiên.
- Ký kết hợp đồng bảo hiểm cho hàng hóa và trả phí bảo hiểm.
- Cung cấp cho người mua hóa đơn, chứng từ vận tải thường lệ và đơn
bảo hiểm hoặc bằng chứng khác thể hiện là hàng đã được bảo hiểm.
Còn người mua phải:
- Nhận hàng khi hàng đã được giao cho người vận tải đầu tiên và khi
hóa đơn, đơn bảo hiểm và chứng từ vận tải thường lệ (nếu tập quán yêu cầu
chứng từ vận tải) được giao cho mình.
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã được giao
cho người vận tải đầu tiên.
Giao tại tàu (delivered ex ship), ký hiệu quốc tế DES. Theo điều kiện
này, người bán phải:
- Đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua trên tàu tại cảng
dỡ.
- Cung cấp vận đơn hoặc lệnh giao hàng sao cho người mua có thể
nhận hàng tại tàu.
Còn người mua phải:
- Nhận hàng trên tàu tại cảng dỡ hàng.
- Trả tiền chi phí dỡ hàng.
- Lấy giấy phép nhập khẩu, nộp thuế và lệ phí nhập khẩu (nếu cần).
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đã được đặt
dưới quyền định đoạt của mình trên tàu tại địa điểm dỡ hàng thường lệ tại
cảng dỡ.
Giao trên cầu cảng (delivered ex quay), ký hiệu quốc tế DEQ. Theo
điều kiện này, người bán phải:
Page 47
- Đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua trên cầu của cảng
đích.
- Cung cấp vận đơn và/hoặc lệnh giao hàng và các chứng từ cần thiết
sao cho người mua có thể nhận hàng từ cầu cảng.
- Trả tiền chi phí dỡ hàng.
- Lấy giấy phép nhập khẩu, nộp thuế, thuế quan và lệ phí về nhập khẩu
nếu hợp đồng quy định là "trên cầu cảng đã nộp thuế" (DEQ duty paid).
Còn người mua phải:
- Nhận hàng trên cầu cảng của cảng đến.
- Lấy giấy phép nhập khẩu, nộp thuế và lệ phí nhập khẩu nếu hợp đồng
quy định là "người mua phải chịu thuế" (duty on buyer’s account).
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đó đã được đặt
dưới quyền định đoạt của mình trên cầu của cảng dỡ.
Giao tại biên giới (delivered at frontier), ký hiệu quốc tế DAF. Theo điều
kiện này, người bán phải:
- Giao hàng tại biên giới quy định hoặc tại địa điểm quy định trên biên
giới đó sau khi đã hoàn thành thủ tục về xuất khẩu hàng hóa đó.
- Cung cấp cho người mua các chứng từ sao cho người mua có thể
nhận hàng tại biên giới 40 (ví dụ: chứng từ vận tải hoặc giấy biên lai kho
hàng).
Còn người mua phải:
- Nhận hàng tại biên giới quy định hoặc tại địa điểm quy định trên biên
giới đó.
- Trả tiền cước chuyên chở tiếp.
- Lấy giấy phép nhập khẩu, nộp thuế, thuế quan và lệ phí nhập khẩu
(nếu cần).
Page 48
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng đó đã được đặt
dưới quyền định đoạt của mình ở địa điểm giao hàng trên biên giới.
Giao tại đích chưa nộp thuế (delivered duty unpaid) ký hiệu quốc tế
DDU. Theo điều kiện này, người bán phải thực hiện nghĩa vụ như trong điều
kiện DDP trừ nộp thuế quan nhập khẩu và các loại thuế hàng hóa (như VAT
chảng hạn) ở nước nhập khẩu. Các loại thuế này do người mua phải nộp.
Giao tại đích đã nộp thuế (delivered... duty paid), ký hiệu quốc tế DDP.
Theo điểu kiện này, người bán phải:
- Giao hàng tại địa điểm đích quy định.
- Lấy giấy phép nhập khẩu, nộp thuế, thuế quan và lệ phí nhập khẩu
nếu cần (chẳng hạn, người ta có thể quy định cho người bán được miễn thuế
trị giá gia tăng và/hoặc thuế: DDP exclusive of VAT and/or taxes).
- Cung cấp các chứng từ vận tải hoặc biên lai kho hàng sao cho người
mua có thể nhận hàng tại địa điểm đích quy định.
- Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa cho đến khi hàng đó đã được
đặt dưới quyên định đoạt của người mua ở điểm đích quy định.
Còn người mua phải: Nhận hàng tại điểm đích quy định.
Ngoài những điều kiện cơ sở giao hàng đã được giải thích ở trên, trong
buôn bán quốc tế, người ta còn sử dụng cả những biến dạng của những điều
kiện đó như:
- FOB điều kiện tàu chợ (FOB berth terms): Do tiền cước tàu chợ đã
bao gồm cả chi phí bốc hàng và chi phí dỡ hàng riêng người bán không phải
trả chi phí bốc hàng.
- FOB chở tới đích (FOB shipment to destination): Ngoài những nghĩa
vụ như trình bày trong điều kiện FOB của Incôthơm, người bán còn nhận
trách nhiệm thuê tàu chở hàng đến cảng đích, theo sự ủy thác của người mua
và do người mua chịu phí tổn.
Page 49
- FOB san hàng (FOB trimmed) hoặc FOB xếp hàng (FOB stowed):
ngoài những nghĩa vụ như trình bày trong điều kiện FOB của Incôthơm,
người bán còn nhận trách nhiệm và chịu chi phí san hàng hoặc xếp hàng
trong khoang tàu. Rủi ro và tổn thất về hàng hóa chuyển từ người bán sang
người mua sau khi hàng đã được san xong hoặc xếp xong trong khoang tàu.
Sự giải thích về FOB xếp hàng vẫn còn có thể gặp ý kiến trái ngược. Vì
vậy, để tránh sự hiểu lầm, trong hợp đồng cần ghi rõ: "FOB san hàng, mọi chi
phí và rủi ro về san hàng do người bán phải chịu" (FOB Stowed, all costs and
risks associated with stowing for seller’s account).
- FOB dưới cần cẩu (FOB under tackle): rủi ro và tổn thất về hàng hóa
chuyển từ người bán sang người mua kể từ khi móc cẩu đã móc vào hàng
(để đưa vào tàu) tại cảng bốc hàng.
- CFR hàng nổi (CFR afloat) hoặc CIF hàng nổi (CIF afloat): hàng hóa
đối tượng hợp đồng đã ở trên tàu (trên đường đi) từ trước khi hợp đồng được
ký kết.
- CFR lên bờ (CFR landed) hoặc CIF lên bờ (CIF landed): ngoài những
nghĩa vụ như điều kiện CFR hoặc CIF, người bán còn chịu thêm trách nhiệm
và chi phí dỡ hàng lên bờ cảng dỡ, kể cả phí lõng hàng nếu có.
- CIF cộng lệ phí và cộng lãi (CIF c & i): giá hàng là giá CIF cộng thêm
khoản lệ phí ngân hàng và khoản lãi ước tính cho việc chiết khấu hối phiếu.
- CIF cộng hoa hòng (CIF & c): giá hàng là giá CIF cộng thêm hoa hồng
phải trả cho thương nhân trung gian ở nước xuất khẩu.
- CIF cộng hối đoái (CIF & e): giá hàng là giá CIF thêm một khoản tiền
liên quan đến việc chuyển đổi đồng tiền của nước nhập khẩu thành đồng tiền
của nước xuất khẩu. Chữ "hối đoái" trong trường hợp này có nghĩa mơ hồ.
Đôi khi nó chỉ khoản hoa hồng hay phí đổi tiên của ngân hàng. Đôi khi nó chỉ
khoản tiền để bù đắp cho người xuất khẩu về những thiệt hại có thể xảy ra do
biến động của tỷ giá giữa hai đồng tiền.
Page 50
- CIF cộng lãi (CIF & i): giá hàng là giá CIF cộng thêm khoản lãi ước
tính cho việc chiết khấu hối phiếu. Điều kiện này thường được áp dụng trong
việc thương nhân Anh xuất khẩu sang những thị trường xa xôi, do đó chậm
nhận được tiền hàng. Muốn có tiền ngay họ phải đem chiết khấu hối phiếu và
chịu một khoản tiền lãi về việc này. Vì thế muốn giữ nguyên khoản thu nhập
tiền hàng, họ cộng thêm khoản lãi chiết khấu đó vào giá bán CIF.
- CIF cộng bảo hiểm chiến tranh (CIF & W): giá hàng là giá CIF cộng
thêm phí bảo hiểm chiến tranh mà người bán mua bảo hiểm theo yêu cầu của
người mua.
- CIF cộng bảo hiểm có tổn thất riêng (CIF & WA): giá hàng là giá CIF
cộng thêm phí bảo hiểm "có tổn thất riêng" (W.A) mà người bán mua theo yêu
cầu của người mua.
- CFR điều kiện tàu chợ (CFR liner terms) CIF đieu kiện tàu chợ (CIF
liner terms): chi phí bốc dỡ hàng đã tính gộp trong tiền cước và do đó, đã
nằm trong giá bán, người mua không phải trả chi phí dỡ hàng tại cảng đến.
Trong tiếng Anh, thuật ngữ điều kiện tàu chợ có khi viết "liner terms" có khi
viết "berth terms".
- CIF lên bờ đã nộp thuế (CIF landed duty paid): giá hàng là giá CIF
cộng thêm chi phí dỡ hàng lên bờ và tiền thuế nhập khẩu. Như vậy những chi
phí này do người bán phải chịu.
- CIF dưới cần cẩu (CIF under ship’s tackle): rủi ro đối với hàng hóa
chuyển từ người bán sang người mua kể từ khi cần cẩu móc vào hàng (để
đưa vào tàu) tại cảng bốc hàng.
* ĐIỀU KIỆN GIÁ CẢ
Trong giao dịch buôn bán điều kiện giá cả là một điều kiện quan trọng,
điều khoản giá cả gồm cả những vấn đề: đồng tiền tính giá, mức giá, phương
pháp quy định giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và việc
giảm giá.
1. Đồng tiền tính giá
Page 51
Giá cả trong buôn bán quốc tế có thể được thể hiện bằng đồng tiền của
nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu hoặc của một nước thứ ba. Trong việc
lựa chọn đồng tiền tính giá, tập quán buôn bán hiện hành có một ý nghĩa rất
lớn, nhất là đối với những hàng hóa có khối lượng lớn. Ví dụ: trong việc buôn
bán cao su, kim loại mẩu, than... thông thường giá cả được quy định bằng
đồng bảng Anh, trong buôn bán về sản phẩm dầu mỏ, da lông thú - giá cả
thường được quy định bằng đồng đôla Mỹ.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là thị trường thuộc về ai và
người đó muốn dùng đồng tiền nào để tính giá. Người xuất khẩu luôn cố gắng
xác định giá cả bằng đồng tiền tương đối ổn định. Ngược lại, người nhập
khẩu muốn xác định giá cả bằng đồng tiền đang có xu hướng mất giá bởi vì
nếu sau khi mức giá hàng đã được xác định rồi, đồng tiền mới mất giá, họ sẽ
có lợi.
2. Mức giá
Giá cả trong các hợp đồng ngoại thương là giá quốc tế. Việc xuất khẩu
thấp hơn giá quốc tế và nhập khẩu cao hơn giá quốc tế làm tổn hại đến tài
sản quốc gia. Vì vậy, trước khi ký hợp đồng, các bên phải tuân theo những
nguyên tắc xác định giá quốc tế.
3. Phương pháp quy định giá
Tùy theo phương pháp quy định, người ta phân biệt các loại giá sau
đây: Giá cố định, giá quy định sau, giá linh hoạt và giá di động.
Giá cố định (fixed price) là giá cả được quy định vào lúc ký kết hợp
đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thỏa thuận khác. Giá cố định
được vận dụng một cách phổ biến trong các giao dịch nhất là trong giao dịch
về các mặt hàng bách hóa, các mặt hàng có thời hạn chế tạo ngắn ngày...
Giá quy định sau là giá cả không được định ngay khi ký kết hợp đồng
mua bán, mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp
đồng, người ta chỉ thỏa thuận với nhau một thời điểm nào đó và những
nguyên tắc nào đó để dựa vào đó hai bên sẽ gặp nhau xác định giá. Ví dụ:
Page 52
người ta có thể quy định trong hợp đồng rằng giá cả sẽ được xác định theo
thỏa thuận giữa hai bên một tháng trước khi giao hàng. Đối với những hàng
hóa có trao đổi ở các cơ sở giao dịch, người ta có thể quy định rằng giá cả sẽ
được xác định trên cơ sở giá yết bảng ở một sở giao dịch nào đó, vào thời
điểm nào đó. Đối với những mặt hàng không mua bán ở các sở giao dịch thì
người ta xác định căn cứ vào giá trên thị trường chính về mặt hàng đó, ví dụ
dầu lửa căn cứ vào giá ở Trung Cận Đông.
Giá linh hoạt (flexible price) còn gọi là giá có thể chỉnh lại (revisable
price) là giá đã được xác định trong lúc ký kết hợp đồng nhưng có thể được
xem xét lại nếu sau này, vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hóa đó có
sự biến động tới một mức nhất định. Trong trường hợp vận dụng giá này,
người ta phải thỏa thuận với nhau nguồn tài liệu để phán đoán sự biến động
giá cả và thỏa thuận quy định mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường với
giá hợp đồng khi quá mức này, hai bên có thể xét lại giá hợp đồng. Ngày nay,
trong các hợp đồng dài hạn về mua bán nguyên liệu công nghiệp, hàng lương
thực, người ta thường thỏa thuận điều khoản cho phép xét lại giá hợp đồng
khi giá thị trường biến động vượt quá mức độ 2 hoặc 5% so với giá hợp đồng.
Giá di động (sliding scale price) là giá cả được tính toán dứt khoát vào
lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban đầu, có đề cập tới
những biến động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng. Giá di
động thường được vận dụng trong các giao dịch về những mặt hàng có thời
hạn chế tạo lâu dài như thiết bị toàn bộ, tàu biển, các thiết bị lớn trong công
nghiệp... Trong trường hợp này, khi ký kết hợp đồng người ta quy định một
giá ban đầu, gọi là giá cơ sở (basic price) và quy định cơ cấu của giá đó (như
lợi nhuận, chi phí khấu hao, tạp phí v.v...) đồng thời quy định phương pháp
tính toán giá di động sẽ được vận dụng.
Ngày nay, phương pháp tính giá di động được nhiều người vận dụng là
phương pháp do Ủy ban kinh tế châu Âu của Liên hơp quốc đề ra trong văn
bản gọi là "Điều kiện chung cung cấp thiết bị". Theo đó, giá di động được tính
bằng công thức:
Page 53
Trong đó:
P1 là giá cuối cùng, dùng để thanh toán;
P0 là giá cơ sở được quy định khi ký kết hợp đồng;
A, B, C thể hiện cơ cấu giá cả bằng mức % của các yếu tố mà tổng số
là 1;
A là tỷ trọng của chi phí cố định;
B là tỷ trọng của các chi phí về nguyên vật liệu;
C là tỷ trọng của các chi phí về nhân công;
b1. là giá của nguyên vật liệu ở thời điểm xác định giá cuối cùng;
b0 là giá của nguyên vật liệu ở thời kỳ ký kết hợp đồng;
c1 là tiền lương hoặc chỉ số tiền lương ở thời điểm xác định giá cuối
cùng;
c0 là tiền lương hoặc chỉ số tiền lương ở thời kỳ ký kết hợp đồng.
Trong thực tiễn giao dịch, người ta còn sử dụng những phương pháp
khác để tính giá di động hoặc bổ sung những chi tiết nhất định vào công thức
tính giá di động nêu trên đây.
Đôi khi, cùng một lúc người ta có thể vận dụng hỗn hợp nhiều cách quy
định giá, ví dụ, người ta có thể quy định một phần giá hợp đồng là giá cố định,
còn một phần khác sẽ được tính toán theo công thức tính giá di động...
4. Điều kiện cơ sở giao hàng có liên quan tới giá cả
Trong việc xác định giá cả, người ta luôn luôn định rõ điều kiện cơ sở
giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy là vì điều kiện giao hàng đã
bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người bán phải chịu trong việc
giao hàng như: vận chuyển bốc dỡ, mua bảo hiểm, chi phí lưu kho, làm thủ
tục hải quan v.v... Vì vậy, trong các hợp đồng mua bán, mức giá bao giờ cũng
được ghi bên cạnh một điều kiện cơ sở giao hàng nhất định. Ví dụ, hợp đồng
Page 54
bán gạo thơm, cần ghi là USD 260/1 tấn mét CIF Hồng Kông theo giải thích
của Incôthơm 1990.
5. Giảm giá
Trong thực tiễn buôn bán quốc tế ngày nay, người ta sử dụng rất nhiều
loại giảm giá. Tính ra có đến gần 20 loại giảm giá.
Nếu xét về nguyên nhân đưa đến giảm giá, chúng ta có thể kể đến các
loại giảm giá như:
Nếu xét về nguyên nhân đưa đến giảm giá, chúng ta có thể kể đến các
loại giảm giá như:
+ Giảm giá do trả tiền sớm: loại giảm giá này được sử dụng khi giá
tham khảo (bảng thời giá, giá chào bán...) đã dự kiến việc bán chịu một thời
hạn ngắn, nhưng nếu người mua lại trả sớm thì được giảm giá. Giảm giá này
thường vào khoảng 2 - 3% của giá tham khảo. Ví dụ, hợp đồng ghi như sau:
3% nếu trả ngay, 2% nếu trả 1 tháng, 1% nếu trả 2 tháng sau khi giao hàng
(COD 3%, one month 2%, two months 1%).
+ Giảm giá thời vụ giành cho những người mua hàng trái thời vụ, nhằm
khuyến khích người mua mua hàng vào lúc nhu cầu ít căng thẳng. Ví dụ, đối
với phân bón nếu mua trái thời vụ chăm bón thì được giảm khoảng 15% so
với giá tham khảo.
+ Giảm giá đổi hàng cũ để mua hàng mới (trade-in) thường vào mức 25
- 30% của bảng thời giá. Loại này giành cho người nào trước đây mua hàng
của một hãng nhất định, sau một thời gian thấy kiểu mẫu lỗi thời lại bán lại
cho hãng đó, nhằm mua hàng mới (cũng của hãng đó).
+ Giảm giá đối với những thiết bị đã dùng rồi đôi khi đạt tới 50% so với
giá thiết bị đó lúc còn mới.
+ Giảm giá do mua với số lượng lớn thường được tính một cách lũy
tiến cùng với số lượng hàng mua bán.
+ v.v...
Page 55
Nếu xét về cách tính các loại giảm giá, chúng ta thấy có các loại giảm
giá:
- Giảm giá đơn thường được biểu hiện bằng một mức % nhất định so
với giá hàng. Ví dụ: Giá một xe đạp 600 Franc Pháp (FF) giảm giá 20%, giá
thanh toán là:
600FF - (600FF X 20%) = 480FF
Đối với máy móc thiết bị sản xuất hàng loạt, giảm giá này có thể bằng
20 - 30%, hoặc có khi tới 30 - 40% so với giá ghi trong bảng thời giá (current
price list).
- Giảm giá kép (còn gọi là giảm giá liên hoàn) là một chuỗi liên hoàn
các giảm giá đơn mà người mua được hưởng bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau:
Ví dụ: giá hàng là 1000FF, giảm giá 4% + 3% + 2% vì mua số lượng
lớn, vì trả tiền mặt, vì khách hàng mua trái thời vụ. Cách tính giá cuối cùng để
thanh toán tiền hàng được thực hiện như sau:
- Sau lần giảm giá thứ nhất, giá hàng còn:
1000FF - 4% = 960FF
- Sau lần giảm giá thứ hai, giá hàng còn:
960FF - 3% = 931,2 FF
- Giá cuối cùng là:
931,2FF - 2% = 912,58FF
- Giảm giá lũy tiến là loại giảm giá có mức tăng dần theo số lượng hàng
được mua bán trong một đợt giao dịch nhất định. Ví dụ:
- Nếu mua đến 10 máy thì mức giảm giá là 5%
- Nếu mua từ 11 đến 20 máy mức giảm giá là 10%
- Nếu mua từ 21 đến 30 máy mức giảm giá là 15%
- Nếu mua từ 31 đến 40 máy thì mức giảm giá là 20%
Page 56
- Nếu mua từ 41 máy trở lên mức giảm giá là 25%
- Giảm giá tặng thưởng (bonus) là loại giảm giá mà người bán thưởng
cho người mua thường xuyên, nếu trong một thời hạn nhất định (như 6 tháng,
1 năm chẳng hạn), tổng số tiền mua hàng đạt tới một mức nhất định. Ví dụ:
- Nếu kim ngạch giao dịch đến 100 triệu FF thì giảm giá 1%.
- Nếu kim ngạch giao dịch từ 101 đến 200 triệu FF giảm giá 3%.
- Nếu kim ngạch giao dịch từ 201 đến 300 triệu FF, giảm giá 5%.
- v.v...
Điểm khác nhau giữa giảm giá này với giảm giá lũy tiến là: giảm giá
tặng thưởng được tính toán trên cơ sở tổng trị giá hàng giao dịch, không hạn
chế loại hàng, còn giảm giá lũy tiến chỉ áp dụng trong việc mua bán một loại
sản phẩm nhất định.
* ĐIỀU KIỆN GIAO HÀNG
Nội dung cơ bản của điều kiện giao hàng là sự xác định thời hạn và địa
điểm giao hàng, sự xác định phương thức giao hàng và việc thông báo giao
hàng.
1. Thời hạn giao hàng
Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng. Nếu các bên giao dịch không có thỏa thuận gì khác, thời hạn này
cũng là lúc di chuyển rủi và tổn thất về hàng hóa từ người bán sang người
mua.
Trong buôn bán quốc tế, người ta có ba kiểu quy định hạn giao hàng
như sau:
- Thời hạn giao hàng có định kỳ: theo phương pháp này, ta có thể xác
định thời hạn giao hàng:
- Hoặc vào một ngày cố định, ví dụ: vào ngày 31-12-1993.
Page 57
- Hoặc vào một ngày được coi là ngày cuối cùng của thời hạn giao
hàng, ví dụ: không chậm quá ngày 31-12-1993.
- Hoặc bằng một khoảng thời gian như: quỹ III năm 1993, tháng 6-1993.
- Hoặc bằng một khoảng thời gian nhất định tùy theo sự lựa chọn của
một trong hai bên, ví dụ: trong vòng 6 tháng sau khi ký hợp đồng tùy theo sự
lựa chọn của người bán; (within 6 months after concluding the contract, at
Seller’s option) từ tháng 2 đến tháng 7 tùy người mua chọn (delivery Feb/July
at Buyer’s option)...
- Thời hạn giao hàng ngay: Theo phương pháp này, các bên giao dịch
có thể thỏa thuận:
- Giao nhanh (prompt).
- Giao ngay lập tức (immediately).
- Giao càng sớm càng tốt (as soon as possible).
- v.v...
Nội dung của những quy định trên đây được giải thích ở từng nơi, từng
vùng, từng ngành một cách khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ người ta giải thích "giao
ngay" là giao trong vòng 5 ngày sau khi ký hợp đồng, "giao gấp” là giao trong
vòng 5 ngày đến 10 ngày sau khi ký hợp đồng.
Trong bản "Quy tắc Thực hành Thống nhất Tín dụng chứng từ" (Bản
sửa đổi năm 1993), Phòng Thương mại Quốc tế giải thích một cách thống
nhất "các từ ngữ đó là yêu cầu gửi hàng trong thời gian 30 ngày kể từ ngày
mở thư tín dụng" (tài liệu của Phòng Thương mại quốc tế, số 500).
- Thời hạn giao hàng không định kỳ: Đây là cách quy định chung chung
ít được dùng. Theo cách này người ta có thể thỏa thuận như:
+ Giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên (Shipment by first available
steamer).
+ Giao hàng khi nào có khoang tàu (Subject to shipping space
available).
Page 58
+ Giao hàng sau khi nhận được L/C (Subject to the opening of L/C).
+ Giao hàng khi nào xin được giấy phép xuất khẩu (Subject to export
licence).
2. Địa điểm giao hàng
Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương
thức chuyên chở hàng hóa và đến điều kiện cơ sở giao hàng. Mặc dù nói
chung điều kiện cơ sở giao hàng đã xác định rõ địa điểm giao hàng, ví dụ khi
thỏa thuận giao hàng theo điều kiện FOB Marseille, FOB Liverpool thì địa
điểm giao hàng đã được quy định rồi. Tuy nhiên, có những điều kiện cơ sở
giao hàng chỉ xác định cảng đến mà không xác định cảng đi (ví dụ điều kiện
CIF, CFR) hoặc có trường hợp hai bên muốn giành giật hơn nữa lợi thế về
mình. Vì thế, hai bên có thể còn phải thỏa thuận quy định địa điểm giao hàng.
Trong buôn bán quốc tế, người ta phân biệt các phương pháp sau đây
về việc quy định địa điểm giao hàng:
- Quy định cảng (ga) giao hàng, cảng (ga) đến, cảng (ga) thông qua.
- Quy định một cảng (ga) và nhiều cảng (ga): trong trường hợp đối
tượng giao dịch là hàng bách hóa người ta thường quy định một địa điểm
hàng đi và hoặc một địa điểm hàng đến. Nhưng khi giao dịch về hàng có khối
lượng lớn, người ta có thể quy định nhiều địa điểm gửi hàng và/hoặc nhiều
địa điểm hàng đến. Ví dụ, cảng đi: Hải phòng / Đà nẵng / TP Hồ Chí Minh;
cảng đến: Luân Đôn / Li-vơ-pun / Hăm-bua.
- Quy định cảng (ga) khẳng định và cảng (ga) lựa chọn: dù có quy định
một hoặc nhiều cảng (ga) nhưng phương pháp trên vẫn khẳng định nơi giao
hàng. Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế nhiều khi người ta còn cho phép một
bên lựa chọn cảng khẩu (optional ports). Trong trường hợp này người ta có
thể quy định bằng một trong hai phương pháp sau:
+ Trong thuật ngữ về điều kiện cơ sở giao hàng, các bên giao dịch lựa
chọn thêm một cảng thứ hai hoặc thứ ba, ví dụ: FOB Hăm-bua/ Rot-tec-
đam/Am-xtec-đam; CIF Luân Đôn/ Rôt-tec-đam/Hăm-bua.
Page 59
+ Các bên giao dịch quy định những cảng chủ yếu của một khu vực
nào đó được coi là cảng lựa chọn đối với một trong hai bên. Ví dụ, nếu các
bên quy định: "CIF European main ports" hoặc "CIF EMP" thì đến lúc giao
hàng, bên mua có thể chỉ định bất cứ một cảng nào đó trong số các cảng chủ
yếu của châu Âu làm cảng hàng đến.
Thật ra, trong cách quy định thứ hai này vẫn có thể xẩy ra tranh chấp
vì, trong số các cảng của châu Âu hiện nay vẫn chưa có một quy định cụ thể
những cảng nào là cảng chủ yếu.
3. Phương thức giao hàng
Thực tiễn giao hàng trong mua bán hàng hóa đã làm nảy sinh nhiều
phương thức giao hàng.
Người ta có thể quy định việc giao nhận được tiến hành ở một nơi nào
đó là giao nhận sơ bộ hoặc là giao nhận cuối cùng. Việc giao nhận sơ bộ
thường được tiến hành ở ngay địa điểm sản xuất hàng hóa hoặc ở nơi gửi
hàng. Việc giao nhận sơ bộ thường có mục đích là bước đầu xem xét hàng
hóa, xác định sự phù hợp về số lượng và chất lượng hàng so với quy định
trong hợp đồng. Trong khi giao nhận sơ bộ, người mua có quyền đòi hỏi khắc
phục khuyết điểm hàng hóa trước khi giao hàng. Việc giao nhận cuối cùng có
mục đích xác nhận việc người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng về các mặt
số lượng, chất lượng hàng, thời gian giao hàng. Qua đó, hai bên thừa nhận
các kết quả kiểm tra hàng hóa đã lấy được ở nơi giao nhận cuối cùng.
Người ta cũng có thể quy định việc giao nhận được tiến hành ở một địa
điểm nào đó là việc giao nhận về số lượng hoặc là việc giao nhận về chất
lượng.
Giao nhận về số lượng là xác định số lượng thực tế của hàng được
giao bằng các phương pháp cân, đo, đếm. Việc giao nhận bằng số lượng
được tiến hành ở đâu là tùy theo điều khoản quy định trong hợp đồng. Ví dụ,
nếu hợp đồng quy định "trọng lượng bốc hàng" thì địa điểm xác định trọng
lượng là cảng gửi hàng, thời gian xác định là khi giao hàng.
Page 60
Giao nhận về chất lượng là việc kiểm tra hàng hóa về tính năng, công
dụng, hiệu suất, kích thước, hình dáng và các chỉ tiêu khác của hàng đó để
xác định sự phù hợp giữa chúng với quy định của hợp đồng. Việc giao nhận
này, tùy theo thỏa thuận của các bên, có thể tiến hành bằng phương pháp
cảm quan hoặc bằng phương pháp phân tích lý tính, hóa tính, cơ học... Cũng
theo sự thỏa thuận đó, việc giao nhận này có thể được tiến hành trên toàn bộ
hàng hóa hoặc chỉ trên cơ sở kiểm tra điển hình. Địa điểm tiến hành việc giao
nhận này cũng phụ thuộc vào quy định của hợp đồng, chẳng hạn như vào các
điều khoản "Phẩm chất bốc hàng" (Shiped quality) hoặc "Phẩm chất dỡ hàng"
(Landed quality) v.v.
4. Thông báo giao hàng
Các điều kiện cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ về thông báo giao
hàng. Nhưng, bên cạnh đó, các bên giao dịch thường vẫn thỏa thuận thêm về
nghĩa vụ thông báo giao hàng. Trong khi thỏa thuận về việc này, người ta
thường quy định về số lần thông báo giao hàng và những nội dung cần được
thông báo.
Trước khi giao hàng, thường có những thông báo của người bán về
việc hàng đã sẵn sàng để giao hoặc về ngày đem hàng ra cảng (ga) để giao,
của người mua về những điểm hướng dẫn người bán trong việc gửi hàng
hoặc về chi tiết của tàu đến nhận hàng.
Sau khi giao hàng, người bán phải thông báo tình hình hàng đã giao và
kết quả việc giao hàng đó. Nhiều khi người ta còn quy định việc thông báo
trước khi tàu vào cảng dỡ hàng (nếu tàu do bên bán thuê)
Nội dung của mỗi thông báo trên là do mục đích của chúng quyết định.
5. Những quy định khác về việc giao hàng
Ngoài những vấn đề nêu trên, trong điều kiện giao dịch, căn cứ vào nhu
cầu của bên mua, vào khả năng của bên bán và vào những đặc điểm của
hàng hóa, người ta có những quy định đặc biệt như:
Page 61
- Đối với những hàng hóa có khối lượng lớn, người ta có thể quy định
"cho phép giao hàng từng đợt" (partial shipment allowed) hoặc buộc phải
"giao một lần" (Total shipment).
- Nếu trên dọc đường đi cần phải thay đổi phương tiện vận chuyển,
người ta có thể quy định "cho phép chuyển tải"
- Nếu cảng gửi hàng ở gần cảng đến, khi hành trình của giấy tờ lại
chậm hơn hành trình hàng hóa, người ta có thể quy định "vận đơn đến chậm
được chấp nhận "(Stale bill of lading acceptable).
- v.v...
* ĐIỀU KIỆN THANH TOÁN TRẢ TIỀN
Trong việc thanh toán tiền hàng được mua hoặc bán, các bên thường
phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiền,
phương thức trả tiền và các điều kiện bảo đảm hối đoái.
1. Đồng tiền thanh toán
Trong buôn bán quốc tế, tiền hàng có thể được thanh toán hoặc bằng
đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc bằng đồng tiền của nước nhập khẩu hoặc
bằng đồng tiần của nước thứ ba. Đồng tiền dùng vào việc thanh toán gọi là
đồng tiền thanh toán (money of payment).
Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp với đồng tiền tính giá (tức đồng
tiền biểu thị giá cả) và cũng có thể không trùng hợp. Khi đồng tiền thanh toán
và đồng tiền tính giá là hai đồng tiền khác nhau, người ta phải xác định tỷ giá
để quy đổi hai đồng tiền đó. Trong đó, đặc biệt người ta lựa chọn:
- Đó là tỷ giá của công cụ thanh toán nào (tỷ giá chuyển tiền bằng điện
hay bằng thư).
- Đó là tỷ giá thị trường tiền tệ nào (ở nước xuất khẩu, ở nước nhập
khẩu hay ở nước thứ ba).
- Đó là tỷ giá mua vào hay tỷ giá bán ra.
Page 62
Vì lợi ích của mình, người xuất khẩu thường muốn chọn đồng tiền
thanh toán là một đồng tiền ít có khả năng mất giá, hoặc dễ dàng đổi ra đồng
tiền khác hoặc dễ dàng đổi ra vàng. Còn tâm lý của người nhập khẩu thì
ngược lại.
2. Thời hạn trả tiền
Thông thường, trong giao dịch, các bên thường trả tiền trước, trả tiền
ngay hoặc trả tiền sau.
Nhiều khi người ta vận dụng kết hợp cả ba kiểu trả tiền đó, ví dụ trong
các hợp đồng về tàu biển thường quy định: 15% trị giá đơn hàng được trả
ngay sau khi ký hợp đồng; 25% sau khi tàu hạ thủy, 55% sau khi người mua
nhận tàu; 5% sau khi hết thời hạn bảo hành.
a) Trong buôn bán quốc tế, người ta hiểu việc trả tiền ngay là việc
thanh toán vào trước lúc hoặc trong lúc người xuất khẩu đặt chứng từ hàng
hóa hoặc đặt bản thân hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua. Việc
trả tiền ngay có thể được tiến hành bằng cách trả toàn bộ tiền hàng ngay một
lúc, hoặc bằng cách trả từng phần.
Việc trả toàn bộ tiền hàng ngay một lúc đòi hỏi người mua phải trả toàn
bộ trị giá hàng theo một trong các điều kiện sau đây: khi nhận được điện báo
của người xuất khẩu về việc đã sẵn sàng để gửi hàng; khi nhận được điện
báo của người chuyên chở về việc đã hoàn thành việc bốc hàng ở địa điểm
gửi hàng; khi toàn bộ chứng từ quy định trong hợp đồng được trao cho người
mua; sau một số ngày hoặc một số giờ ưu huệ nhất định kể từ khi toàn bộ
chứng từ quy định được trao cho người mua.
Việc trả ngay từng phần đòi hỏi người mua phải trả tiền hàng trong một
số đợt được thỏa thuận trong hợp đồng, căn cứ vào các điều kiện giao hàng
hoặc vào mức độ sẵn sàng của hàng hóa.
Việc trả ngay từng phần căn cứ vào điều kiện giao hàng có thể được
quy định như sau: người mua phải trả cho người bán một phần chủ yếu (80 -
95%) của tiền hàng khi người bán đã gửi hàng hoặc đã gửi chứng từ hàng
Page 63
hóa; phần còn lại (5 - 20%) sẽ được trả khi người mua đã nhận hàng hoặc khi
chấm dứt thời hạn bảo hành.
Khi trả ngay từng phần theo mức độ sẳn sàng của hàng hóa, người
mua phải thanh toán tiền hàng trong nhiều đợt căn cứ vào mức độ hoàn
thành các bộ phận riêng biệt của đơn hàng hoặc của hợp đồng. Ví dụ: 10%
tiền hàng trả khi giao xong thiết kế, 70% - khi giao xong thiết bị, 15% khi
nghiệm thu công trình và 5% khi chấm dứt thời hạn bảo hành.
b) Việc trả trước tiền hàng là việc người mua giao cho người bán toàn
bộ hoặc một phần tiền hàng trước khi người bán đặt hàng hóa dưới quyền
định đoạt của người mua hoặc trước khi người bán thực hiện đơn hàng của
người mua. Mức tiền ứng trước nhiều hay ít phụ thuộc vào tầm quan trọng
của hàng hóa giao dịch, thời hạn chế tạo của hàng đó, mối quan hệ giữa các
bên giao dịch và tập quán hình thành trong ngành buôn bán có liên quan.
Ngày nay, thông thường tiền ứng trước chỉ nằm trong phạm vi 5 - 10% của
giá trị đơn hàng. Việc thanh toán tiền ứng trước thường được tiến hành bằng
cách khấu trừ dần vào tiền hàng hoặc bằng cách tính toán dứt khoát vào lúc
kết toán tiền hàng. Số tiền ứng trước chính là khoản tín dụng mà người mua
cung cấp cho người bán.
c) Còn trong việc trả tiền sau, người bán cung cấp cho người mua một
khoản tín dụng theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Khoản tín dụng này được
hoàn trả hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng hóa. Trong những năm gần đây, trên
thị trường thế giới về thiết bị toàn bộ, một loại hợp đồng khá phổ biến là hợp
đồng "chia sản phẩm" (product sharing), theo đó người nhập khẩu hoàn trả tín
dụng cho người xuất khẩu bằng cách giao một phần (khoảng 20 - 40%) sản
phẩm do chính các thiết bị toàn bộ nói trên sản xuất ra.
Trong việc thanh toán có tín dụng (trả trước hoặc trả sau), các bên
thường quan tâm đến số tiền tín dụng, thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng và
điều kiện hoàn trả.
3. Phương thức trả tiền
Page 64
Trong giao dịch trên thị trường thế giới, người ta áp dụng nhiều phương
thức thanh toán khác nhau để trả tiền hàng hóa và dịch vụ. Song phổ biến
hơn cả là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ. Dưới đây
là vài nét về hai phương thức đó.
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán,
sau khi giao hàng hóa hoặc dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền hàng
hóa hoặc dịch vụ đó.
Nếu phiếu nhờ thu không kèm chứng từ phương thức trả tiền là nhờ
thu phiếu trơn (Clean collection) trong đó Ngân hàng không nắm được chứng
từ, người mua có thể dùng bộ chứng từ mà mình đã nhận được bằng bưu
điện hoặc bằng một đường nào khác để nhận hàng đồng thời vẫn trì hoãn
việc trả tiền.
Nếu phiếu nhờ thu kèm với chứng từ gửi hàng, phương thức trả tiền là
"Nhờ thu kèm chứng từ" (Documentary collection) trong đó ngân hàng khống
chế bộ chứng từ. Trong trường hợp này khi người mua muốn có chứng từ để
đi nhận hàng thì phải:
- Trả tiền, gọi là "chứng từ khi trả tiền" (documents against payment -
viết tắt D/P), hoặc
- Chấp nhận trả tiền, gọi là: "chứng từ khi chấp nhận" (Documents
against acceptance - viết tắt: D/A)
So với nhờ thu phiếu trơn, việc nhờ thu bằng chứng từ đã có đảm bảo
hơn cho người bán trong vấn đề thu tiền hàng (vì được Ngân hàng thay mặt
mình để khống chế chứng từ). Tuy nhiên, quyền lợi của người bán vẫn có thể
bị đe dọa như người mua có thể không muốn nhận hàng và từ chối nhận
chứng từ, trong khi hàng đã được gửi đi rồi. Do phương thức nhờ thu không
bảo vệ đầy đủ cho quyền lợi người bán, Bộ Ngoại thương nước ta (nay là Bộ
Thương mại) đã quy định (trong Thông tư số 04BNg T/XNK ngày 18/1/1986)
chỉ được xuất khẩu theo D/A, D/P trong những trường hợp: mặt hàng xuất
khẩu không thuộc loại có giá trị xuất khẩu cao, trị giá của hợp đồng dưới
Page 65
10.000 đô la Mỹ và khi công ty xuất khẩu đã nắm vững khả năng thanh toán
của người mua.
Phương thức tín dụng chứng từ, trong nghiệp vụ buôn bán, là sự thỏa
thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán
hoặc cho bất cứ người nào theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy
đủ các chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một
văn bản gọi là thư tín dụng (letter of credit), viết tắt L/C.
Thư tín dụng có thể thuộc loại có thể hủy ngang được hoặc không hủy
ngang được. Thư tín dụng hủy ngang (revocable L/C) là loại thư tín dụng mà
ngân hàng mở (tức ngân hàng phát hành thư tín dụng) có thể sửa đổi hoặc
hủy bỏ vào bất cứ lúc nào mà không phải báo trước cho người hưởng (bên
bán). Thư tín dụng không hủy ngang (irrevocable L/C) là loại thư tín dụng mà
trong thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền hủy bỏ hay
sửa đổi nội dung thư tín dụng nếu không được sự đồng ý của người hưởng
ngay cả khi người yêu cầu mở thư tín dụng (bên mua) ra lệnh hủy bỏ hay sửa
đổi thư tín dụng đó. Như vậy, thư tín dụng không hủy ngang là cam kết chắc
chắn đối với người bán trong việc thanh toán tiền hàng.
Thư tín dụng không hủy ngang lại có thể được xác nhận bởi một ngân
hàng nào đó theo yêu cầu của ngân hàng mở. Đó là thư tín dụng không hủy
ngang có xác nhận (confirmed irrevicable L/C): "Xác nhận" ở đây có nghĩa là
cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Thông thường ngân hàng xác
nhận là ngân hàng thông báo thư tín dụng tại nước người bán.
Xét về mặt thực hiện, thư tín dụng có thể là trả tiền ngay (at sight) hoặc
trả tiền sau (with deferred payment) hoặc có thể chuyển nhượng được
(transferable) cho người thứ ba.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm hơn so
với phương thức nhờ thư. Đối với người bán, nó đảm bảo chắc chắn thu
được tiền hàng. Đối với người mua, nó bảo đảm rằng việc trả tiền cho người
bán chỉ được thực hiện một khi người bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ
hợp lệ và ngân hàng đã kiểm tra bộ chứng từ đó.
Page 66
4. Điều kiện đảm bảo hối đoái
Trong giai đoạn hiện nay, các đồng tiền trên thế giới thường sụt giá
hoặc tăng giá. Để tránh những tổn thất có thể xảy ra, các bên giao dịch có thể
thỏa thuận những điều kiện đảm bảo hối đoái. Đó có thể là điều kiện bảo đảm
vàng hoặc điều kiện bảo đảm ngoại hối.
Dưới đây là một vài ví dụ về điều kiện bảo đảm vàng (gold clause):
+ "Tổng trị giá hàng ghi trong hợp đồng này trên cơ sở hàm lượng vàng
của một bảng Anh là 2,13281 gam vàng nguyên chất. Nếu khi thanh toán hàm
lượng vàng của đồng bảng Anh có thay đổi thì tổng trị giá hàng cũng phải
thay đổi một cách tương ứng".
+ "Tổng trị giá hàng ghi trong hợp đồng này dựa trên cơ sở giá vàng
trên thị trường Luân Đôn 18 bảng Anh/1 ounce (31,1035 gam) vàng nguyên
chất. Nếu đến khi thanh toán, giá vàng có thay đổi thì tổng trị giá hàng cũng
phải thay đổi một cách tương ứng".
Còn dưới đây là một vài ví dụ về điều kiện bảo đảm ngoại hối (currency
clause):
+ "Phrăng Pháp (FF) được dùng làm đồng tiền ghi giá và đồng tiền
thanh toán trên cơ sở tỷ giá 1 Mác Tây Đức = 2,37 FF. Nếu đến khi thanh
toán tỷ giá này trên thị trường tiền tệ Paris có thay đổi thì tổng trị giá hàng
cũng được điều chỉnh một cách tương ứng".
+ "Tiền hàng trên đây (tính bằng DM) sẽ được thanh toán bằng đồng
FF trên cơ sở tỷ giá giữa hai đồng tiền này vào ngày thanh toán".
- v.v...
* ĐIỀU KIỆN KHIẾU NẠI
Khiếu nại là việc một bên yêu cầu bên kia phải giải quyết những tổn
thất hoặc thiệt hại mà bên kia đã gây ra, hoặc về những sự vi phạm điều đã
được cam kết giữa hai bên. Trong buôn bán quốc tế, về cơ bản những khiếu
nại xoay quanh việc hàng giao không đúng số lượng, chất lượng như đã thỏa
Page 67
thuận, việc chứng từ do người bán xuất trình không phù hợp với tình hình
thực tế giao hàng và việc người bán chậm giao hàng.
Nội dung cơ bản của điều kiện khiếu nại bao gồm các vấn đề: thể thức
khiếu nại, thời hạn khiếu nại, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên có liên quan
đến việc khiếu nại, cách thức giải quyết khiếu nại.
1. Thể thức khiếu nại
Trong buôn bán quốc tế, khiếu nại phải làm bằng văn bản và gồm
những chi tiết sau; tên của hàng hóa bị khiếu nại, số lượng/trọng lượng hàng,
địa điểm để hàng, lý do khiếu nại yêu cầu cụ thể của người mua về việc giải
quyết khiếu nại.
Đơn khiếu nại thường phải được gửi bằng thư bảo đảm kèm theo tất cả
những điều kiện cần thiết để chứng minh sự kiện như: Biên bản giám định,
biên bản của cơ quan bảo hiểm, vận đơn, bảng kê chi tiết, giấy chứng nhận
phẩm chất hàng hóa, phiếu đóng gói... Tất cả những chứng từ này đều phải
dẫn chiếu đến số hiệu của hợp đồng và số hiệu của chứng từ vận tải có liên
quan.
Ngày khiếu nại được tính từ ngày mà bưu điện nơi gửi đóng dấu lên
thư bảo đảm.
2. Thời hạn khiếu nại
Thời hạn khiếu nại được quy định phụ thuộc trước hết vào sự so sánh
lực lượng giữa các bên giao dịch, vào tính chất hàng hóa và tính chất của
việc khiếu nại. Thường thường nếu người mua càng có ưu thế trong quan hệ
với người bán bao nhiêu thì thời hạn khiếu nại càng dài bấy nhiêu. Thời hạn
khiếu nại đối với hàng tươi sống thường ngắn hơn với hàng thông thường,
thời hạn đối với hàng tiêu dùng ngắn hơn so với thời hạn khiếu nại về thiết bị
máy móc. Thời hạn khiếu nại về phẩm chất bao giờ cũng dài hơn thời hạn
khiếu nại về số lượng bởi vì những khuyết tật về phẩm chất bao giờ cũng khó
phát hiện ngay được.
Page 68
Nếu bên khiếu nại để quá thời hạn khiếu nại đã được thỏa thuận, đơn
khiếu nại có thể bị từ chối.
3. Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên liên quan
Thường thường người ta thỏa thuận rằng khiếu nại của người mua
không thể là cơ sở để người nay từ chối nhận những lô hàng tiếp theo thuộc
cùng một hợp đồng. Đặc biệt, người ta còn quy định nghĩa vụ của người mua
phải:
- Để nguyên trạng hàng hóa, có sự bảo quản cẩn thận, đồng thời báo
cho người bán biết về nơi để hàng và về thời hạn hàng đó sẵn sàng để kiểm
tra lại;
- Lập biên bản giám định về tất cả những khuyết tật đã được phát hiện,
theo những nguyên tắc hiện hành ở nước người mua.
- Gửi cho người bán đơn khiếu nại lập đúng theo thủ tục và đúng trong
thời hạn đã được thỏa thuận.
Người bán có quyền kiểm tra cơ sở khiếu nại của người mua bằng
cách xem xét hàng hóa tại chỗ. Sau một số ngày nhất định kể từ khi nhận
được khiếu nại, người bán phải cử đại diện đến để kiểm tra lại hàng hóa hoặc
phải ủy nhiệm cho một tổ chức trung lập tiến hành việc này. Người bán cũng
phải xem xét đơn khiếu nại trong thời hạn quy định và thông báo quyết định
của mình đối với đơn khiếu nại. Nếu người bán không trả lời đơn khiếu nại
trong khoảng thời hạn đã được thỏa thuận, thì tùy theo sự thỏa thuận, người
mua có thể coi như người bán đã công nhận việc khiếu nại và có quyền đưa
ra trước cơ quan trọng tài, trong đó mọi chi phí trọng tài đều do người bán
chịu.
4. Cách thức giải quyết khiếu nại
Việc khiếu nại có thể được giải quyết bằng một trong những biện pháp
sau đây:
Page 69
- Giao tiếp những hàng hóa bị thiếu hụt hoặc bằng những đợt giao
hàng riêng, hoặc bằng cách giao thêm trong đợt giao hàng sau;
- Chuyên chở trở lại những hàng đã bị khiếu nại và hoàn lại tiền cho
người mua;
- Sửa chữa khuyết tật của hàng hóa đã khiếu nại với phí tổn do người
bán chịu;
- Thay thế những hàng đã bị khiếu nại bằng hàng hóa khác phù hợp với
điều kiện kinh tế - kỹ thuật đã được thỏa thuận với mọi chi phí thay thế hàng
đều do người bán chịu;
- Giảm giá đối với số hàng đã bị khiếu nại hoặc đánh sụt giá toàn bộ lô
hàng theo tỷ lệ thuận với mức khuyết tật;
- Khấu trừ một số tiền nhất định về hàng hóa bị khiếu nại trong khi
thanh toán lô hàng sau của cùng một hợp đồng hoặc của một hợp đồng khác.
Đối với những hàng chuyên dụng, thông thường, người ta dùng biện
pháp thay thế hoặc sửa chữa số hàng bị khiếu nại. Còn trong giao dịch về
nguyên liệu và lương thực, người ta thường dùng biện pháp hạ giá hoặc đánh
sụt giá số hàng bị khiếu nại.
* ĐIẾU KIỆN BẢO HÀNH
Bảo hành là sự bảo đảm của người bán về chất lượng hàng hóa trong
một thời gian nhất định. Thời hạn này gọi là thời hạn bảo hành. Thời hạn này
được coi là thời hạn giành cho người mua phát hiện những khuyết tật của
hàng hóa.
Trong điều kiện bảo hành, người ta thường thỏa thuận về phạm vi bảo
đảm của hàng hóa, thời hạn bảo hành và trách nhiệm của người bán trong
thời hạn bảo hành.
1. Phạm vi bảo đảm của người bán
Page 70
Chất lượng của hàng hóa thể hiện qua nhiều chỉ tiêu. Trong số các chỉ
tiêu đó, phạm vi mà người bán bảo đảm phụ thuộc chủ yếu vào tính chất của
hàng hóa.
Trong các hợp đổng mua bán hàng công nghiệp tiêu dùng lâu ngày
(như đồng hồ, rađiô, xe máy...) điều khoản bảo hành thường chỉ quy định
rằng người bán bảo đảm khả năng làm việc bình thường của hàng hóa. Trái
lại, trong cac hợp đồng mua bán thiết bị tiêu chuẩn hóa, người bán bảo đảm
chất lượng hàng phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật đã được ban hành và bảo
đảm khả năng hoạt động tốt của thiết bị. Còn trong các hợp đồng mua bán
thiết bị toàn bộ, hoặc tàu biển hoặc các thiết bị phức tạp khác, thì phạm vi bảo
hành cao hơn nhiều. Thường thường, ngoài chỉ tiêu về khả năng hoạt động
tốt của thiết bị, việc bảo hành còn bao gồm cả tính hiện đại của công trình,
tính kinh tế của việc khai thác, việc duy trì được công suất thiết kế v.v...
2. Thời hạn bảo hành
Thời hạn bảo hành có thể là một vài tháng cho đến một vài năm. Nếu
trong quan hệ giao dịch, lợi thế thuộc vê người mua thì thời hạn này được
kéo dài. Nếu các bên giao dịch không thỏa thuận được với nhau về thời hạn
này, người ta thường áp dụng tập quán buôn bán của ngành hàng hóa có liên
quan để xác định thời hạn bảo hành.
Thời hạn bảo hành có thể được tính hoặc từ ngày giao hàng cho người
mua; hoặc từ ngày giao hàng cho người tiêu thụ đầu tiên; hoặc từ lúc người
mua nhận được thông báo của người bán về việc hàng đã sẵn sàng để giao;
hoặc từ ngày máy móc thiết bị (nếu hàng hóa giao dịch là máy móc thiết bị)
được đưa vào sản xuất.
3. Trách nhiệm của người bán trong thời hạn bảo hành
Trừ khi bên giao dịch có sự thỏa thuận khác, nếu ngay trong thời hạn
bảo hành, người mua phát hiện thấy khuyết tật của hàng hóa hoặc thấy sự
không phù hợp với quy định của hợp đồng thì người bán phải chịu trách
nhiệm và phí tổn về việc sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, hoặc thay thế
Page 71
hàng đã giao bằng hàng hóa mới có chất lượng tốt hơn và phù hợp quy định
của hợp đồng. Nếu người bán không kịp thời khắc phục khuyết tật hàng hóa,
người mua có thể tiến hành việc này với phí tổn do người bán phải chịu. Nếu
các bên không thỏa thuận với nhau về việc khắc phục khuyết tật hàng hóa,
người mua có quyền từ chối nhận hàng hoặc có quyền đòi người bán phải
giảm giá một cách thỏa đáng.
Trong điều kiện bảo hành, người ta còn quy định cả những trường hợp
không được bảo hành. Chẳng hạn việc bảo hành không được áp dụng đối với
những bộ phận chóng hao mòn của máy móc thiết bị hoặc của phụ tùng thay
thế, đối với sự hao mòn tự nhiên của hàng hóa, đối với những thiệt hại do bên
mua gây ra như: Lắp ráp không đầy đủ hoặc không đúng với hướng dẫn của
người bán, bảo quản không cẩn thận, sử dụng quá tải v.v...
* ĐIỀU KIỆN VỀ TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH
Trong giao dịch trên thị trường thế giới, người ta thường quy định
những trường hợp mà, nếu xảy ra, bên đương sự được hoàn toàn hoặc,
trong chừng mực nào đó, miễn hay hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp
đồng. Những trường hợp như vậy thường xảy ra sau khi ký hợp đồng, có tính
chất khách quan và không thể khắc phục được. Những điều khoản nói về
những trường hợp như vậy thường có tên là "trường hợp bất khả kháng"
hoặc "trường hợp miễn trách nhiệm"
Những trường hợp bất khả kháng có thể chia ra làm hai loại:
- Loại có thời hạn dài thường là các trường hợp như: cấm xuất khẩu
hoặc cấm nhập khẩu, chiến tranh, phong tỏa, quản chế ngoại tệ v.v...
- Loại có thời hạn ngắn thường là các trường hợp như: hỏa hoạn, thiên
tai, đóng cửa các kênh lạch ở cảng, đi chệch đường vì chiến tranh v.v...
Khi quy định điều khoản "Trường hợp bất khả kháng" người ta quy định
bằng một trong hai cách: hoặc chỉ quy định những tiêu chuẩn để xác định một
sự kiện là trường hợp bất khả kháng hoặc quy định theo lối liệt kê các sự kiện
sẽ được coi là trường hợp bất khả kháng.
Page 72
Khi vận dụng phương pháp thứ hai, thường thường người bán muốn kể
ra một số lượng tối đa những trường hợp có thể xảy ra, kể cả những trường
hợp thiếu nguyên liệu, không đủ nhân công, không thuê được phương tiện
vận tải v.v...
Khi gặp trường hợp bất khả kháng thì thời hạn thực hiện hợp đồng
được kéo dài trong một thời gian tương ứng với thời gian xảy ra trường hợp
bất khả kháng, cộng với cả thời gian khắc phục hậu quả của nó.
Tuy nhiên, nếu những trường hợp bất khả kháng kéo dài quá một thời
gian nào đó đã được thỏa thuận quy định thì một bên có quyền xin hủy hợp
đồng mà không phải bồi thường. Thời hạn này lâu mau cần phải được thỏa
thuận với nhau giữa các bên giao dịch có tính đến các yếu tố: Thời hạn thực
hiện hợp đồng, tính chất của hàng hóa và tập quán buôn bán.
Ví dụ: Nếu hợp đồng có thời hạn thực hiện dưới 12 tháng thời hạn quy
định nói trên thường không quá 6 tháng. Đối với hàng mau hỏng như hàng
tươi sống chẳng hạn, hợp đồng thường quy định thời hạn nói trên trong
khoảng 15 - 30 ngày, còn đối với máy móc thiết bị - khoảng 2 - 3 tháng.
Trong điều kiện trường hợp bất khả kháng, người ta cũng quy trách
nhiệm của bên gặp trường hợp đó như: phải lập tức báo tin cho bên kia bằng
văn bản về lúc bắt đầu và lúc chấm dứt sự kiện... Đồng thời người ta cũng
thỏa thuận chỉ định một tổ chức có thể chứng nhận về diễn biến của sự kiện.
Tổ chức này thường thường là Phòng Thương mại ở nơi xảy ra sự kiện.
* ĐIỀU KIỆN TRỌNG TÀI
Khuynh hướng phổ biến ngày nay trên thế giới là sử dụng trọng tài để
giải quyết tranh chấp về hợp đồng, ít dùng tới biện pháp tòa án. Sở dĩ như
vậy vì biện pháp trọng tài có nhiều ưu điểm (như: thủ tục đơn giản, xét xử kín
v.v...)
Khi các bên giao dịch thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì
họ phải xác định một loại hình trọng tài. Nếu đó là trọng tài quy chế
(Institutional arbitration), tức là trọng tài hoạt động thường xuyên theo một quy
Page 73
chế định sẵn, thì họ phải tuân theo quy chế đó. Nếu là trọng tài vụ việc (ad
hoc) thì họ phải quy định tất cả những gì liên quan đến việc thành lập và cách
hoạt động của Ban trọng tài đó.
Trong trường hợp thứ hai nói trên, những vấn đề thường quy định là
địa điểm trọng tài, trình tự tiến hành trọng tài, luật áp dụng vào xét xử, việc
chấp hành tài quyết.
1. Địa điểm trọng tài: Có liên quan chặt chẽ đến việc chọn luật áp
dụng vào sự xét xử. Địa điểm của trọng tài có thể là ở nước xuất khẩu, ở
nước nhập khẩu; hoặc ở nước bị cáo, hoặc ở nước nguyên cáo; hoặc ở nước
thứ ba. Trong khi giao dịch với các công ty tư bản chủ nghĩa, chúng ta thường
tranh thủ thỏa thuận địa điểm trọng tài hoặc tại nước ta, hoặc tại một nước
anh em, hoặc tại nước của bên bị cáo.
2. Trình tự tiến hành trọng tài, nói chung, có những bước sau đây:
a) Thỏa hiệp trọng tài: các bên giao dịch thỏa thuận đưa tranh chấp ra
một hội đồng trọng tài. Có khi thỏa thuận này được ghi trên hợp đồng, có khi
đó là một thỏa thuận bổ sung sau khi ký hợp đồng.
b) Tổ chức ủy ban trọng tài: ủy ban trọng tài có thể được thành lập
bằng một trong hai cách sau:
+ Mỗi bên chọn một trọng tài viên. Các trọng tài viên chọn ra một trọng
tài thứ ba (third arbitrator). Trọng tài viên thứ ba có thể làm chủ tịch ủy ban
trọng tài.
+ Hai bên cùng chọn một trọng tài viên để xét xử.
c) Tiến hành xét xử: sau khi được tổ chức xong, ủy ban trọng tài xác
định ngày, giờ xét xử và thông báo cho các bên liên quan biết. Đến ngày xét
xử, dù các bên hoặc đại diện của họ vắng mặt, hội nghị vẫn cứ tiến hành. Khi
xét xử, hai bên liên quan phải cung cấp bằng chứng đầy đủ.
d) Hòa giải: mặc dù đã đưa ra trọng tài, nhưng nếu hai bên đồng ý hòa
giải thì vụ kiện coi như thủ tiêu.
Page 74
e) Tài quyết: quyết định của Ủy ban trọng tài (được thành lập theo
cách thứ nhất) phải được thông qua bằng đa số. Quyết định đó là chung thẩm
và có giá trị bắt buộc đối với các bên liên quan.
f) Chi phí trọng tài: Theo tập quán của nhiều nước, mọi chi phí trọng
tài đều do bên thua kiện chịu. Tuy nhiên, tốt nhất là các bên thỏa thuận cụ thể
về vấn đề này.
3. Luật dùng để xét xử hoặc được hai bên thỏa thuận quy định trước
hoặc do ủy ban trọng tài lựa chọn, hoặc được chọn căn cứ vào địa điểm trọng
tài, nếu các bên không thỏa thuận trước.
4. Chấp hành tài quyết: Hai bên cũng cần thỏa thuận quy định trước
việc chấp hành tài quyết nhằm bảo đảm cho tài quyết được thực hiện đầy đủ.
* ĐIỀU KIỆN VẬN TẢI
Trong điều kiện vận tải, người ta thỏa thuận với nhau về những vấn đề
sau:
- Xác định cảng bốc và/hoặc dỡ hàng, địa điểm giao hàng, địa điểm
chuyển tải.
- Phân chia chi phí bốc và dỡ hàng giữa người bán với người mua.
- Lựa chọn mẫu nào của hợp đồng thuê tàu hoặc lựa chọn mẫu nào
của vận đơn để ký kết hợp đồng vận tải biển.
- Trình tự thông báo về tàu đến cảng bốc (dỡ) hàng.
- Mức bốc (dỡ) hàng và cách tính thời gian bốc dỡ.
- Mức thưởng phạt bốc dỡ và cách thanh toán thưởng phạt này.
- Chỉ định người bốc dỡ, đại lý tàu biển và đại lý giao nhận.
Ngoài những điều kiện trên đây, trong quá trình giao dịch tùy tình hình
cụ thể, các bên có thể đề ra những điều kiện khác. Ví dụ:
Page 75
- Điều kiện cấm chuyển bán, thu hẹp quyền hạn của bên mua, không
cho bên mua được bán lại hàng hóa mà mình đã mua theo một hợp đồng
nhất định.
- Điều kiện về quyền lựa chọn cho phép một bên được lựa chọn về một
số nội dung nào đó của hợp đồng như: lựa chọn về số lượng dung sai, lựa
chọn cảng giao hàng v.v...
- Điều kiện chế tài quy định các loại phạt, phạt bội ước, bồi thường thiệt
hại mà bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng phải chịu.
- Điều kiện quy định trình tự thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng.
- Điều kiện cấm chuyển nhượng quyền lợi và nghĩa vụ của hợp đồng
cho một bên thứ ba, nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của bên cùng ký
kết hợp đồng.
- v.v...
Các điều kiện trên đây đều có tính chất tùy ý, cho phép hai bên được tự
nguyện vận dụng. Nhưng một khi đã được vận dụng vào hợp đồng, chúng trở
thành bắt buộc đối với các bên ký kết và phải được thực hiện nghiêm chỉnh.
Trong buôn bán quốc tế, nhiều công ty hoặc hiệp hội công nghiệp ghi
sẵn những điều kiện giao dịch có lợi cho mình vào một văn bản gọi là "hợp
đồng mẫu" (Standard form contract); hoặc "điều kiện chung bán hàng"
(General conditions of sale); hoặc "điều kiện chung giao hàng" (General
conditions for delivery of goods) của họ. Mỗi khi đàm phán để ký kết hợp
đồng, họ đưa ra một dự thảo sẵn của hợp đồng để làm căn cứ thảo luận. Tuy
nhiên, nếu gặp đối thủ yếu thế hơn so với họ, hoặc đối thủ có sơ xuất trong
việc kiểm tra các điều khoản của hợp đồng, họ cũng không ngần ngại buộc
đối thủ phải chấp nhận các điều kiện do họ đưa ra.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy trình bày tầm quan trọng và phương pháp quy định điều khoản
tên hàng trong các hợp đồng mua bán ngoại thương.
Page 76
2. Để quy định số lượng hàng trong các hợp đồng mua bán ngoại
thương, người ta cần chú ý đến những vấn đề gì?
3. Trong việc mua bán hàng hóa ngoại thương, người ta thường dùng
đến những loại trọng lượng nào? Cách xác định các loại trọng lượng đó?
Trọng lượng đó được xác định ở đâu?
4. Hãy trình bày các phương pháp quy định phẩm chất hàng hóa trong
các hợp đồng xuất nhập khẩu.
5. Khi cần lựa chọn một phương pháp nào đó để quy định chất lượng
hàng hóa trong hợp đồng, chúng ta phải xem xét những nhân tố nào?
6. Điều khoản bao bì hàng hóa thường bao gồm những nội dung gì?
7. Hãy trình bày nghĩa vụ của các bên theo các điều kiện EXW, FCA,
FOB, CFR, CIF, DAF, DDP và DDU.
8. Hãy so sánh nghĩa vụ của người bán theo điều kiện CIF và CIP
9. Hãy so sánh nghĩa vụ của người bán theo điều kiện CFR và CPT.
10. Hãy so sánh nghĩa vụ của người bán theo điều kiện FOB và FCA.
11. Hãy trình bày nghĩa vụ người mua FOB trong việc thuê tàu đến
nhận hàng.
12. Hãy trình bày nghĩa vụ của người bán CIF trong việc thuê tàu và
mua bảo hiểm.
13. Khi sử dụng Incoterms ta cần chú ý những gì?
14. Hãy trình bày về giá cố định, giá quy định sau, giá được xét lại và
giá trượt.
15. Có những loại giảm giá chủ yếu nào và thực chất của chúng.
16. Hãy trình bày các cách quy định về thời hạn giao hàng và địa điểm
giao hàng.
17. Nhờ thu là gì? Các loại nhờ thu?
Page 77
18. Tín dụng chứng từ là gì? Trình tự tiến hành L/C và các loại L/C
thường dùng trong buôn bán ngoại thương?
19. Khi quy định tiền hàng được trả bằng L/C thì điều khoản thanh toán
cần quy định những gì?
20. Thế nào là trường hợp bất khả kháng? Hậu quả nào sẽ xảy ra nếu
gặp trường hợp bất khả kháng? Cách quy định trường hợp bất khả kháng
trong hợp đồng?
21. Trọng tài là gì? Cách thức tiến hành trọng tài trong ngoại thương ra
sao? Cách quy định trong hợp đồng?
22. Thế nào là bảo hành? Hãy nói về bảo hành chung, bảo hành cơ khí,
bảo hành thực hiện và nghĩa vụ các bên trong việc bảo hành.
BÀI TẬP
Bài tập 1. Hãy đánh dấu chéo (x) vào những chỗ thích hợp để chỉ rõ đó
là nghĩa vụ của bên bán hay của bên mua (bảng trang bên)
Bài tập 2. Một hợp đồng xuất khẩu ghi bán 345 tấn ± 10% đay tơ có độ
ẩm 10%. Khi giao hàng để thực hiện hợp đồng đó, chúng ta thấy độ ẩm thực
tế lên tới 15% và giá hàng đang có khuynh hướng giảm sút. Vậy chúng ta có
thể giao bao nhiêu?
Bài tập 3. Một hợp đồng nhập khẩu tàu thủy ghi giá FOB cảng nước
ngoài 3 triệu GBP, trong đó phí cố định 10%, phí nguyên vật liệu 50%, chi phí
nhân công 40%. Khi thanh toán giá nguyên vật liệu tăng 10%, chi phí nhân
công tăng 5%. Bạn hãy tính giá CIF Hải Phòng, biết rằng chi phí lai dắt từ
nước ngoài về Hải Phòng là 0,2 triệu GBP, suất phí bảo hiểm 0,5%.
Bài tập 4. Trong một hợp đồng xuất khẩu than đá đi Mác-xây (Pháp) có
ghi:
- Tên hàng: Than đá
- Phẩm chất: Loại tốt, nhiệt lượng 1500 cal/1kg, có độ bốc và độ tro
trung bình.
Page 78
- Giá cả: 35 đôla/1 tấn CIF cảng đến.
- Giao hàng: Quý IV.
- Thanh toán: Bằng L/C không hủy ngang.
Bạn hãy phân tích các điều khoản trên và, nếu cần, sửa lại 5 điều
khoản đó cho tốt hơn.
Bài tập 5. Chúng ta thỏa thuận bán 500 tấn cà phê chè cho một thương
nhân Singapore theo điều kiện FOB, giá 1000 đôla/1 tấn, giao hàng quý III.
Bạn hãy dự thảo các điều khoản sau đây của hợp đồng xuất khẩu đó:
Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, giá cả, giao hàng, thanh toán,
trường hợp bất khả kháng, trọng tài.
Chương 3. CHUẨN BỊ GIAO DỊCH, ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
* NHỮNG CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ ĐỂ GIAO DỊCH
Hoạt động kinh doanh đối ngoại thường phức tạp hơn các hoạt động
đối nội vì rất nhiều lẽ, chẳng hạn như: bạn hàng ở cách xa nhau, hoạt động
chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật pháp, hệ thống tiền tệ - tài chính
khác nhau v.v... Do đó, trước khi bước vào giao dịch, đơn vị kinh doanh cần
phải chuẩn bị chu đáo. Kết quả của việc giao dịch phụ thuộc phần lớn ở sự
chuẩn bị đó. Công việc chuẩn bị có thể bao gồm hai bộ phận chủ yếu: Nghiên
cứu tiếp cận thị trường và lập phương án kinh doanh.
1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Ngoài việc nắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách,
luật lệ quốc gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, đơn vị kinh
doanh ngoại thương cần phải nhận biết hàng hóa kinh doanh, nắm vững thị
trường và lựa chọn khách hàng.
a) Nhận biết hàng hóa
Page 79
Hàng hóa mua bán phải được tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm
để hiểu rõ giá trị, công dụng, nắm được những đặc tính của nó và những yêu
cầu của thị trường về hàng hóa đó như: quy cách phẩm chất bao bì, cách
trang trí bên ngoài, cách lựa chọn phân loại...
Để chủ động trong việc giao dịch mua bán, còn cần nắm vững tình hình
sản xuất của mặt hàng đó như: thời vụ, khả năng về nguyên vật liệu, công
nhân, tay nghề, nguyên lý chế tạo...
Về mặt tiêu thụ, phải biết mặt hàng định lựa chọn đang ở giai đoạn nào
của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc
tiêu thụ một mặt hàng bao gồm bốn giai đoạn: (i) thâm nhập, (ii) phát triển, (iii)
bão hòa, (iv) thoái trào. Việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn (i)
và (ii) gặp thuận lợi lớn nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn (iv)
nhưng nhờ thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến
hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá v.v...) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được
xuất khẩu.
Để lựa chọn mặt hàng kinh doanh, một căn cứ nữa cũng được xét tới là
tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Tỷ suất này trong trường hợp xuất khẩu, là
tổng số chi tiêu (có tính cả lãi định mức) bằng tiền Việt Nam để có được một
đơn vị ngoại tệ. Còn trong trường hợp nhập khẩu, đó là tổng số tiền VN thu
được khi phải chi tiêu một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu.
Ví dụ về tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu mặt hàng A (giá FOB Hải Phòng 500
USD/1 tấn):
- Chi phí thu mua và bao bì 1 tấn hàng 1.700.000 đồng
- Chi phí vận tải và bốc hàng lên tàu 300.000 đồng/2.000.000 đồng
- Thuế xuất khẩu 5% X 2.000.000 = 100.000 đồng/2.100.000 đồng
- Trích từ quỹ dự phòng 3% X 2.100.000 = 63.000 đồng/ 2.163.000
đồng
Page 80
- Thuế lợi tức 50% của doanh lợi (định mức doanh lợi 15%): 50% X
15% X 2.163.000 = 162.225 đồng/ 2.325.225 đồng
- Lãi ngân hàng (2,7% tháng) 2,7% X 3 tháng X 2.325.225 = 188.343
đồng/ 2.513.568 đồng
Cộng toàn bộ 2.513.568 đồng
Tỷ lệ ngoại tệ xuất khẩu mặt hàng A là: 500 USD/2.513.568đ VN = 1
USD/5027đ VN
Ví dụ về việc tính tỷ suất ngoại tệ mặt hàng nhập khẩu M (có giá CIF
Hải Phòng 1.600 USD/1 tấn).
- Giá nhập khẩu theo điều kiện CIF: 1.760 USD
- Thuế nhập khẩu 10% 1.600 USD/ 1.760 USD
- Lãi định mức 15% X 1.760 = 264 USD
- Lãi vay ngân hàng 1% tháng: 1% X 3 tháng X 1.760 = 52,8 USD
- Thuế lợi tức 50% X 264 = 132 USD/ 2.208,8 USD
Cộng toàn bộ: 2.208,8 USD
Do giá buôn bán trong nước 2.208.800 đồng VN/1 tấn, tỷ suất ngoại tệ
nhập khẩu mặt hàng này là:
2.208.800đ VN/2208,8 USD = 10.000đ VN/1USD
b) Nắm vững thị trường ngoài nước
Đối với những đơn vị kinh doanh đối ngoại, việc nghiên cứu thị trường
nước ngoài có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trong việc nghiên cứu đó, những nội dung cần nắm vững về một thị
trường nước ngoài là: những điều kiện chính trị - thương mại chung, luật
pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận
tải và tình hình giá cước...
Bên cạnh những điểm trên đây, đơn vị kinh doanh còn cần nắm vững
những điều có liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường
Page 81
nước ngoài đó, như: Dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng,
những kênh tiêu thụ (các phương thức tiêu thụ), sự biến động giá cả...
c) Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa
chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều
kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt
động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện
như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách
hàng khác thì bất lợi. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh
trong giai đoạn chuẩn bị là lựa chọn khách hàng.
Để lựa chọn khách hàng, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo,
tự giới thiệu, mà cần tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương
nhân, khả năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trong kinh
doanh.
Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương
pháp chủ yếu là:
- Điều tra qua tài liệu và sách báo. Phương pháp này còn gọi là nghiên
cứu tại phòng làm việc (desk research). Đây là phương pháp phổ biến nhất và
tương đối ít tốn kém. Tài liệu thường dùng để nghiên cứu là các bản tin giá cả
- thị trường của VNTTX và của Trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo
cáo của cơ quan Thương vụ VN ở nước ngoài, các báo và tạp chí như: MOCI
(Pháp), Far Eastern Economic Review (Anh) Financial Time (Anh), Who’s who
in England v.v...
- Điều tra tại chỗ (Field research). Theo phương pháp này, người ta cử
người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân.
Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm
được những thông tin chắc chắn và toàn diện.
Ngoài hai phương pháp trên đầy, người ta còn có thể sử dụng các
phương pháp như: Mua, bán thử; mua dịch vụ thông tin của các công ty điều
Page 82
tra tín dụng (Credit Information Bureau); thông qua người thứ ba để tìm hiểu
khách hàng v.v...
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu
tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định
trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
a) Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân
Trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về
tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh.
b) Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình
hình có liên quan.
c) Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh
doanh bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng, với
giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào v.v...
d) Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này là công cụ để đạt
tới mục tiêu đề ra. Những biện pháp này có thể bao gồm biện pháp trong
nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá
thu mua V.V..) và cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng cáo,
lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý v.v...)
e) Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh danh. Hiệu quả kinh tế
của một hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác
nhau, trong đó chủ yếu là:
- Chi tiều tỷ suất ngoại tệ mà cách tính toán đã được trình bày trên đây
(Mục "Nhận biết hàng hóa");
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn T tính theo công thức:
T = S/ (B+A+)
Page 83
Trong đó:
S là tổng số tiền (kể cả tự có và đi vay) bỏ ra để kinh doanh
B là lãi
A là khấu hao
I là khoản trả tiền lợi tức và tiền vay
- Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi
Rb tính theo công thức:
Rb = [(B + A)/S] *100
- Chi tiêu điểm hòa vốn (Break-even point) tính toán như sau:
Nếu gọi Xi là số lượng hàng hóa bán ra để thu hồi vốn, d là những chi
phí cố định (như chi phí quản lý hành chính, chi phí nhà xưởng, trụ sở...), p là
giá bán một đơn vị hàng hóa, v là chi phí khả biến để sản xuất, thu mua một
đơn vị hàng hóa thì: Tổng số thu về khi bán Xi hàng là pXi tổng số chi ra khi
bán Xi hàng là d + vXi. Tại điểm hòa vốn ta có:
pxi = d + vxi
Từ đó: xi = d/(p – v)
Gọi s là tổng doanh thu bán hàng trong kỳ, tức s = px và V là tổng chi
phí khả biến, tức V = vx, ta có công thức sau đây để tính doanh thu ở điểm
hòa vốn So:
S0 = d/(1 – V/S)
Gọi t là thời gian trong kỳ hoạt động, to là thời gian đạt hòa vốn, ta có:
to = So/S *t
Tóm lại về đại thể, nội dung phương án kinh doanh thường bao gồm
những điểm sau: nhận định tình hình hàng hóa, thị trường và khách hàng;
nhận định tình hình, dự đoán xu hướng thị trường và thương nhân, mục tiêu
(tối đa và tối thiểu); biện pháp, hành động cụ thể; sơ bộ đánh giá hiệu quả.
Page 84
Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để
thực hiện phương án. Họ xây dựng tổ chức kinh doanh XNK, tiến hành quảng
cáo, bắt đầu chào hàng, chuẩn bị hàng hóa v.v...
Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường để chuẩn bị giao dịch xuất
nhập khẩu, các đơn vị tiến hành việc tiếp xúc với khách hàng bằng biện pháp
quảng cáo.
Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau, người xuất khẩu
và người nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng
với nhau về các điều kiện giao dịch. Trong buôn bán quốc tế những bước
giao dịch chủ yếu sau:
1. Hỏi giá (inquiry)
Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch.
Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị
người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất,
số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả mà người mua có thể trả
cho mặt hàng đó thường được người mua giữ kín, nhưng để tránh mất thời
gian hỏi đi hỏi lại người mua nêu rõ những điều kiện mà mình mong muốn để
làm cơ sở cho việc quy định giá: loại tiền, thể thức thanh toán, điều kiện cơ
sở giao hàng...
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá. Người hỏi giá
thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh nhau
để so sánh lựa chọn bản chào hàng thích hợp nhất. Tuy nhiên, nếu người
mua hỏi giá nhiều nơi quá sẽ gây nên trên thị trường ảo tưởng là nhu cầu quá
căng thẳng. Đó là điều không có lợi cho người mua.
2. Phát giá (chào hàng) (offer)
Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng và như vậy phát giá có
thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán thì phát giá
là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình.
Page 85
Trong chào hàng người ta nêu rõ: tên hàng, quy cách phẩm chất, số
lượng, giá cả điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh
toán, bao bì, ký mã hiệu, thể thức giao nhận hàng... Trường hợp hai bên đã
có quan hệ mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao hàng điều chỉnh
thì chào hàng có khi chỉ nêu những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó
như tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá, thời hạn giao hàng. Những
điều kiện còn lại sẽ áp dụng như những hợp đồng đã ký trước đó hoặc theo
điều kiện chung giao hàng giữa hai bên.
Trong mậu dịch quốc tế, người ta phân biệt hai loại chào hàng chính:
chào hàng cố định (firm offer) và chào hàng tự do (free offer):
Chào hàng cố định là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một
người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm
vào lời đề nghị của mình. Thời gian này gọi là thời gian hiệu lực của chào
hàng. Trong thời gian hiệu lực, nếu người mua chấp nhận hoàn toàn chào
hàng đó thì hợp đồng coi như được ký kết. Nếu trong chào hàng cố định
người bán không quy định rõ thời hạn hiệu lực thì thời hạn này được tính theo
"thời hạn hợp lý". Thời hạn này thường do tính chất loại hàng, do khoảng
cách về không gian giữa hai bên và cũng nhiều khi do tập quán quy định.
Loại chào hàng không ràng buộc trách nhiệm người phát ra nó là chào
hàng tự do. Việc chào hàng "tự do" cần phải làm rõ khi chào hàng, thường
bằng cách ghi "chào hàng không cam kết" (without engagement). Cùng một
lúc, với cùng một lô hàng, người ta có thể chào hàng tự do cho nhiều khách
hàng. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện của chào hàng tự
do không có nghĩa là hợp đồng được ký kết. Người mua cũng không thể trách
cứ người bán nếu sau đó người bán không ký kết hợp đồng với mình.
3. Đặt hàng (order)
Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra
dưới hình thức đặt hàng.
Page 86
Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hóa định mua và tất cả
những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ
thường xuyên. Bởi vậy, ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: tên hàng, quy
cách, phẩm chất, số lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt
đối với lần đặt hàng đó. Về những điều kiện khác, hai bên áp dụng điều kiện
chung đã thỏa thuận với nhau hoặc theo nhưng điều kiện của hợp đồng đã ký
kết trong lần giao dịch trước.
4. Hoàn giá (Counter-offer)
Khi người nhận được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp thuận
hoàn toàn chào hàng (đặt hàng) đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị
mới này là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng trước coi như hủy bỏ. Trong
buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi
đến kết thúc.
5. Chấp nhận (Acceptance)
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng
(hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được thành lập.
Một chấp thuận muốn có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải đảm bảo những
điều kiện dưới đây:
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận;
- Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng (đặt
hàng);
- Phải chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của chào hàng;
- Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra để nghị.
6. Xác nhận (Confirmation)
Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thỏa thuận với nhau về điều
kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thỏa thuận, gửi cho đối
phương. Đó là văn kiện xác nhận. Văn kiện do bên bán gửi thường gọi là giấy
Page 87
xác nhận bán hàng, do bên mua gửi là giấy xác nhận mua hàng. Xác nhận
thường được thành lập thành 2 bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho
bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại một bản.
Trong những bước giao dịch trên thì chào hàng và đặt hàng là hai khâu
được quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến hợp đồng.
Khi xây dựng bản chào hàng người xuất khẩu luôn chú ý viết gọn, rõ
ràng, không để xảy ra tình trạng có thể giải thích theo nhiều cách vừa dễ gây
tranh chấp, vừa mất thời gian hỏi đi, hỏi lại. Ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn
ngữ mà người được chào hàng quen dùng. Nội dung bản chào hàng phải hấp
dẫn, có tính thuyết phục. Điều này chỉ có thể có được nếu người xuất khẩu
hiểu rõ món hàng mình định chào bán và nắm được yêu cầu của khách hàng
để giới thiệu cho thích hợp. Ngoài khả năng hấp dẫn của bản thân mặt hàng,
còn có sự hấp dẫn của các điều kiện giao dịch. Những điều kiện giao dịch
đưa ra vừa phải thích hợp với hàng hóa và khả năng của mình vừa phải phù
hợp với tập quán, thói quen của thị trường, của khách hàng. Những điều kiện
về bao bì, giao nhận, điều kiện cơ sở giao hàng cần được cân nhắc kỹ lưỡng
trên cơ sở có hiểu biết chắc chắn về những yêu cầu, thể lệ, thủ tục... của thị
trường. Giá cả là điều kiện thu hút nhất sự chú ý của khách hàng. Giá cao sẽ
không hấp dẫn khách hàng. Giá quá hạ sau này sẽ khó nâng lên nếu tình
hình thị trường hàng hóa không có gì thay đổi. Mặt khác giá hạ không phải
bao giờ cũng là một yếu tố kích thích tiêu thụ nếu như hàng hóa không đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của người mua. Định giá hàng là một công việc rất phức
tạp, đòi hỏi phải đánh giá đúng tình hình thị trường, hiểu biết kỹ lưỡng giá trị
mặt hàng định chào bán và nhưng mặt hàng cạnh tranh, nắm được cấu thành
của giá, các chi phí liên quan... cũng như đánh giá được đúng đắn khách
hàng trong quan hệ với mình. Khi nêu giá hàng phải nêu thêm rõ điều kiện, cơ
sở giao hàng. Người xuất khẩu có thể nêu thêm những khoản giảm giá sẽ
dành cho người mua: giảm giá do mua bán lần đâu, do mua với số lượng lớn,
do quan hệ lâu năm... (khi xây dựng giá hàng xuất, xét giá hàng nhập người
ta thường lập phương án giá).
Page 88
Bản chào hàng gửi đi có thể là để trả lời thư hỏi mua hàng. Trường hợp
này người chào hàng đáp ứng sát nhất nhũng điều kiện giao dịch mà người
mua hàng mong muốn.
Nếu gửi bản chào hàng một cách chủ động, người chào hàng phải cân
nhắc nhiều vấn đề: Gửi đi đâu, gửi cho ai, gửi vào lúc nào? Chào hàng cố
định hay chào hàng tự do? Vấn để này do tình hình thị trường và nhiều điều
kiện khách quan quyết định. Trường hợp cầu lớn hơn cung hoặc người xuất
khẩu giữ độc quyền về mặt hàng đó thì chào hàng tự do thường được sử
dụng. Cũng có khi người xuất khẩu dùng chào hàng tự do để thăm dò thị
trường. Nhưng hiện nay thông thường cung lớn hơn cầu, người bán ở thế
yếu hơn người mua. Mặt khác người mua ít quan tâm đến các chào hàng tự
do. Họ không tin là sau khi chấp nhận thì hợp đồng sẽ được ký kết. Trong lúc
đó thời gian trôi đi và có thể họ bỏ lỡ cơ hội mua hàng. Bởi vậy người xuất
khẩu thường sử dụng chào hàng cố định.
Số lượng bản chào hàng gửi đi cũng cần được cân nhắc. Không phải
cứ gửi nhiều chào hàng cho nhiều khách hàng sẽ bán được hàng nhanh hơn,
nhiều hơn. Các khách hàng có thể có mối liên hệ với nhau, họ có thể đánh giá
người xuất khẩu có một lượng hàng lớn muốn bán nhanh. Do đó họ sẽ trì
hoãn hay từ chối việc mua hàng để đợi giá xuống.
Khi đặt hàng, cần xác định chính xác tên hàng, phẩm chất, quy cách, số
lượng hàng cần đặt mua... Tên hàng cần ghi đúng tên gọi của hàng đó trên thị
trường quốc tế. Phẩm chất quy cách cần đáp ứng yêu cầu của tiêu dùng và
sản xuất trong nước, phù hợp với trình độ kỹ thuật hiện đại. Số lượng hàng
đặt mua phải là số lượng đặt hàng tiết kiệm (economic order quantity - gọi tắt
là EOQ). Số lượng này được tính như sau:
Nếu gọi chi phí mua vào (acquistition cost) là d; nhu cầu hàng năm
(annual demand) là A; trị giá mỗi đơn hàng là Q; chi phí đặt mua mỗi đơn
hàng (procurement cost per order) là p thì chi phí đặt mua hàng năm là AP/Q;
nếu gọi chi phí vận tải tính theo tỉ lệ bình quân hàng đặt mua là S và chi phí
vận tải lưu kho hàng năm là ta có SQ/2, ta có:
Page 89
d = AP/Q + SQ/2
Đây là hàm số mà muốn tìm trị số tối thiểu, ta phải lấy đạo hàm và quy
đạo hàm đó về không:
d' = - AP/Q2 + S/2 = 0
Do đó: AP/Q2 = S/2 và Q2 = 2AP/S
Vì vậy Q= căn của 2AP/S
* CÁC HÌNH THỨC ĐÀM PHÁN
1. Đàm phán giao dịch qua thư tín
Ngày nay thư từ và điện tín vẫn còn là phương tiện chủ yếu để giao
dịch giữa những người xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường
qua thư từ. Ngay khi sau này hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc
duy trì quan hệ cũng phải thông qua thư tín thương mại.
So với việc gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được
nhiều chi phí. Hơn nữa trong cùng một lúc, lại có thể giao dịch trao đổi với
nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để
cân nhắc suy nghĩ tranh thủ ý kiến nhiều người và có thể khéo léo dấu kín ý
định sự thực của mình.
Nhưng việc giao dịch qua thư tín thường đòi hỏi nhiều thời gian chờ
đợi, có thể cơ hội mua bán tốt sẽ trôi qua. Việc sử dụng điện tín khắc phục
được phần nào nhược điểm này. Với một đối phương khéo léo, già dặn thì
việc phán đoán ý đồ của họ qua lời lẽ trong thư là một việc rất khó khăn. Khi
sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán cần phải luôn luôn nhớ rằng thư từ là
"sứ giả" của mình đến với khách hàng, người ta sẽ phê phán, đánh giá mình
qua những thư từ mình gửi đến. Bởi vậy cần phải lưu ý hết sức trong việc viết
thư, gửi thư... Những nhà kinh doanh lâu năm nhận thấy giao dịch bằng thư
tín phải đảm bảo những yêu cầu: lịch sự, chính xác, khẩn trương và kiên
nhẫn.
Page 90
Giấy viết thư cần được chuẩn bị chu đáo. Trên tiêu đề in rõ ràng và đầy
đủ: tên, địa chỉ, số điện thoại, địa chỉ điện tín... của đơn vị. Thư chỉ viết trên
một mặt giấy. Mỗi thư chỉ nên đề cập một vấn đề kinh doanh. Lời lẽ trong thư
cần lịch sự, đúng mức, phù hợp với cách xưng hô, chào hỏi của mỗi nước,
mỗi thứ tiếng, tránh cộc lốc và cũng tránh cầu kỳ. Xu hướng hiện nay là viết
ngắn gọn, rõ ràng. Thứ tiếng dùng viết thư nên là thứ tiếng khách quen dùng,
như vậy dễ gây thiện cảm và dễ thu hút sự chú ý của khách.
Nội dung của thư thương mại bao giờ cũng hết sức chính xác. Tránh
những sự hiểu nhầm do trình bày không rõ ràng, không khúc triết hoặc do sử
dụng từ ngữ không chính xác. Mọi lý lẽ được diễn đạt đầy đủ, nhưng không
rườm rà. Cần nhớ rằng mỗi nước có một cách hiểu khác nhau về từng vấn đề
liên quan tới buôn bán như đơn vị đo lường, cách bao bì, đóng gói, cách trả
tiền, sự phân chia các chi phí trong giao nhận bốc dỡ... bởi thế khi đề cập đến
mỗi vấn đề, cần phải thật chi tiết, cụ thể, rõ ràng về quan niệm của mình hoặc
những yêu cầu của mình nêu ra. Không bao giờ nên nghĩ rằng chắc đối
phương cũng hiểu vấn đề này như cách mình hiểu.
Sự khẩn trương trong trao đổi thư tín cần được chú ý thích đáng. Tất
cả mọi thư tín gửi đến đều phải được trả lời một cách nhanh chóng dù rằng
mình chưa có cơ hội bán hàng. Việc trì hoãn trả lời, thậm chí quên không trả
lời thư của khách hàng, sẽ gây những ấn tượng xấu. Một nhà kinh doanh tốt
bao giờ cũng cố gắng mở rộng quan hệ với nhiều khách hàng.
Trong giao dịch bằng thư tín đức tính kiên nhẫn là cần thiết. Kiên nhẫn
trả lời khách hàng về mọi vấn đề. Kiên nhẫn theo đuổi khách hàng bằng nhiều
thư liên tiếp và quan hệ trong thời gian dài. Kinh nghiệm cho thấy rằng, khi
lựa chọn, những khách hàng quen biết, có giao dịch thư từ trước đó, được ưu
tiên hơn những khách hàng mới xuất hiện lần đầu.
2. Giao dịch đàm phán qua diện thoại
Việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch tiến
hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí
tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các cuộc trao đổi bằng điện thoại
Page 91
thường phải hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết,
mặt khác trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng
chứng cho những thỏa thuận, quyết định trong trao đổi bởi vậy điện thoại chỉ
được dùng trong những trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ,
hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thảo luận xong, chỉ còn
chờ xác nhận một vài chi tiết... Khi phải sử dụng điện thoại, cần chuẩn bị thật
chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác.
Sau khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán
thỏa thuận.
3. Giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về mọi điều kiện giao
dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy
nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho
những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không
có kết quả. Nhiều khi đàm phán qua thư từ kéo dài nhiều tháng mới đi đến ký
kết hợp đồng. Trong khi đó đàm phán trực tiếp chỉ 2, 3 ngày đã có kết quả.
Hình thức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều điều kiện
phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng
lớn, những hợp đồng có tính chất phức tạp...
Việc hai bên mua bán trực tiếp gặp gỡ nhau tạo điều kiện cho việc hiểu
biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt lâu dài với nhau.
Cũng phải thấy rằng đây là hình thức đàm phán khó khăn nhất trong
các hình thức đàm phán. Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người tiến hành đàm
phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh, nhạy... để có thể
tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm được ý đồ, sách lược đối phương, nhanh
chóng có biện pháp đối phó trong những trường hợp cần thiết hoặc quyết
định ngay tại chỗ khi thấy thời cơ ký kết đã chín muồi. Mất bình tĩnh, không tự
chủ sẽ dễ lộ ý định của mình để đối phương nắm được. Trong trao đổi trực
tiếp, nên tránh bàn bạc tham khảo ý kiến của nhau trước mặt đối phương để
Page 92
trả lời cho đối phương. Mỗi lần gặp gỡ nhau thường tốn kém về các chi phí đi
lại, tiếp đón, quà cáp, cho nên gặp gỡ nhau mà không đi đến kết quả gì là
điều mà cả hai bên đều không mong muốn. Chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi tiến
hành đàm phán trực tiếp là việc hết sức cần thiết.
Cần xác định rõ mục đích, yêu cầu của đợt đàm phán, dư kiến những
biện pháp để đạt được những kết quả mong muốn. Mỗi bên đều phải nghiên
cứu kỹ về hàng hóa mình định mua bán, các điều kiện giao dịch định đưa ra
trao đổi... Quan trọng là việc tìm hiểu kỹ khách hàng mình sẽ gặp. Tính tình,
tác phong, trình độ... đều cần được chú ý. Cần phải để nhiều công sức vào
việc dự đoán cho được ý định của khách hàng, dự kiến những yêu cầu hoặc
những nhận xét mà khách hàng sẽ nêu ra đối với quy cách phẩm chất mặt
hàng, về các điều kiện giao dịch về giá cả, về những hợp đồng đã ký kết
trước đó, về tình hình thực hiện những hợp đồng đó... Cần tránh hai khuynh
hướng: Một khuynh hướng cho rằng chẳng cần chuẩn bị gì nhiều cũng có thể
đàm phán thành công, ỷ vào những hiểu biết và kinh nghiệm vốn có... Một
khuynh hướng khác thì chuẩn bị quá lâu, quá cầu toàn. Việc chuẩn bị đàm
phán cần làm chi tiết, chu đáo nhưng phải nhanh.
Trước giai đoạn này, người ta thường lập phương án đàm phán. Trong
phương án đàm phán nêu rõ mục đích của khách hàng, dự kiến những vấn
đề khách hàng sẽ nêu ra và cách giải quyết những vấn đề đó. Sách lược đàm
phán phải được nghiên cứu chuẩn bị thật kỹ. Có thể chuẩn bị nhiều sách lược
ứng với từng tình huống. Những yêu cầu đạt được trong đàm phán cũng
được đề ra với nhiều mức (yêu cầu tối đa, yêu cầu tối thiểu...). Bên cạnh là
những biện pháp dự kiến bao gồm từ thành phần đàm phán, đến các bước
thăm dò, cách trình bày ý kiến, các điều kiện giao dịch với những nhân
nhượng khuyến khích... và nhất là về giá cả mua bán. Phương án này được
lập dựa trên phương án giao dịch, nhằm thực hiện phương án giao dịch. Nó
cần phải dựa trên những nhân tố cụ thể của lần đàm phán cụ thể đối với một
khách hàng nhất định. Và như vậy nó có những yêu cầu rõ rệt cần đạt được
trong lần đàm phán.
Page 93
Bên cạnh phương án đàm phán, các cán bộ kinh doanh còn có phương
án tiếp đãi. Trong phương án này có nêu rõ ràng những người tiếp đón, đàm
phán, dự kiến bố trí chương trình làm việc, giải trí, tặng phẩm, chiêu đãi. Khi
tiếp đón khách hàng, cần phải gây thiện cảm ngay từ bước đầu. Nhã nhặn,
quan tâm, nhiệt tình, nhưng đúng mức, không quá vồ vập.
Trong đàm phán, cần theo dõi lời nói, cách phát biểu và những thái độ
biểu lộ của khách hàng để phán đoán được ý định và điều quan tâm thực sự
của khách hàng. Tất nhiên, khách hàng sẽ tìm cách che dấu, nhưng những
cán bộ giàu kinh nghiệm, chuẩn bị kỹ càng, đã tìm hiểu sâu công việc và
khách hàng vẫn có khả năng thăm dò, phát hiện được. Trong quá trình đàm
phán, nên tránh những căng thảng không cần thiết. Ý kiến hai bên có thể đối
lập nhau, nhưng thái độ vẫn phải mêm mỏng lịch sự. Trong một số trường
hợp, người ta tránh việc phân biệt thắng bại rõ ràng mà tìm cách ngăn ngừa
trước không để đối phương đưa ra những ý kiến đối lập, tìm cách làm đối
phương thống nhất, công nhận dần từng lập luận mình đưa ra, để cùng đưa
đến một kết luận thống nhất. Điều này chỉ có thể làm được nếu người đàm
phán nắm được ý đồ của đối phương và giành được chủ động trong đàm
phán.
Việc ký kết hợp đồng trong đàm phán cần được tiến hành kịp thời khi
điều kiện ký kết đã chín muồi. Không nên nôn nóng trong việc ký kết dù thấy
thời gian đàm phán đã sắp hết. Nếu một bên nắm được bên kia có ý nhất
định phải ký hợp đồng trong đợt đàm phán thì sẽ lợi dụng để ép buộc bên kia
phải có nhiều nhượng bộ. Nhiều hợp đồng được ký kết khi tiễn khách ra sân
bay. Nhưng cũng không nên vì thế mà không ký ngay khi có điều kiện.
Người tiến hành đàm phán nên biết ngôn ngữ dùng để đàm phán, vì
như vậy, sẽ dễ chủ động, linh hoạt và nâng cao được tốc độ đàm phán.
Khi cần dùng phiên dịch, người phiên dịch cũng nên được chuẩn bị
trước để nắm được nội dung đàm phán. Việc này giúp người phiên dịch rất
nhiều trong việc hiểu và do đó dịch được trung thành ý tứ của hai bên.
Page 94
Khi đàm phán có đông người tham dự, nên để một người thống nhất
phát ngôn để tránh sơ hở trong đối đáp. Cũng nên tránh việc bàn bạc trao đổi
ý kiến với nhau ngay trước mặt khách hàng. Việc này vừa không lịch sự, vừa
không có lợi. Phải luôn giả thiết rằng khách hàng cũng hiểu ngôn ngữ của
mình.
Mỗi buổi đàm phán đều được ghi biên bản theo sổ theo dõi đàm phán.
Việc theo dõi này rất có lợi cho việc tìm hiểu khách hàng một cách chu đáo
hơn. Có lợi cho việc rút kinh nghiệm cả ngay trong quá trình đàm phán và sau
này.
* CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA VÀ TÍNH GIÁ HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU
Giá cả là yếu tố quan trọng trong giao dịch ngoại thương. Vì vậy, khi
chuẩn bị đàm phán ký kết hợp đồng, người kinh doanh xuất nhập khẩu phải
tiến hành kiểm tra và tính giá. Công việc này có thể có hai giai đoạn: Một là
quy dẫn giá và hai là lựa chọn các phương pháp kiểm tra và tính giá.
I - QUY DẪN GIÁ
Việc mua bán ngoại thương phải được tiến hành trên cơ sở giá quốc tế.
Để tìm hiểu giá quốc tế, chúng ta phải tham khảo giá cả đã hình thành ở các
sở giao dịch, các trung tâm đấu giá quốc tế, các cuộc đấu thầu quốc tế, hoặc
qua giá bán buôn của các nước kinh doanh chủ yếu về mặt hàng có liên
quan, qua giá bình quân thống kê, giá đã chào hàng hoặc giá đã ký kết hợp
đồng... Trong rất nhiều trường hợp, những giá tính được lại không phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh đang giao dịch. Do đó, chúng ta phải tiến hành
quy dẫn giá đó về điều kiện thích hợp. Việc quy dẫn giá có thể gồm:
1. Quy dẫn về cùng một đơn vị đo lường.
2. Quy dẫn về cùng một đơn vị tiền tệ.
3. Quy dẫn về cùng một điều kiện cơ sở giao hàng. Trong việc quy dẫn
này, ta phải làm một số con toán như sau:
Page 95
Ta gọi tiền hàng là c (cost), phí bảo hiểm là I (insurance), cước phí là F
(freight), suất phí bảo hiểm là R (rate of fremium) và tỷ lệ lãi dự tính là p
(imaginary profit).
Nếu cần biết giá FOB trong khi đã có giá CIF thì ta có
FOB = CIF – 1 – F = CIF – R.(CIF +p.CIF) – F
POB = CIF – RCIF (1 + p) – F (1)
Nếu cần biết giá CIF, ta có thể tính như sau:
CIF = C + 1 + F
CIF = C + RCIF (1 + p) + F
CIF – RCIF (1 + p) = C + F
Do đó:
CIF = (C + F)/[I - R(1 + p)] (2)
Từ công thức tổng quát (2) trên đây ta có thể gặp hai trường hợp cụ
thể:
- Nếu tiền lãi dự tính là 10% tức p = 10% = 0,1 thì:
CIF = (C + F)/ (1 – 1.1R)
- Nếu không tính tiền lãi dự tính thì p = 0 và:
CIF = (C + F)/(1 – R)
4. Quy dẫn về mặt thời gian: Giá cả hình thành ở các thời gian khác
nhau tạo nên chỉ số giá cả khác nhau. Nếu gọi P1 là giá hiện nay (đang cần
biết) và P0 là giá thời kỳ gốc, gọi I1 là chỉ số giá hiện này và I0 là chỉ số giá
thời kỳ gốc, ta có:
P1/P0=I1/I0
Do đó: P1=P0*(I1/I0)
Page 96
5. Quy dẫn về điều kiện tín dụng: giữa giá hàng thanh toán ngay PCOD
với giá hàng có tín dụng (tức giá mua bán chịu) Per có mối quan hệ với nhau
thông qua hệ số ảnh hưởng Ker. Theo đó:
Ker=PCOD/Per (3)
Nói cách khác hệ số ảnh thưởng tín dụng là tỷ số giữa giá hàng tiền
ngay và già hàng mua bán chịu. Chẳng hạn, nếu một xe hơi (loại 12 chỗ ngồi)
có giá tiền ngay là 20.000 USD nhưng nếu mua chịu trong 6 tháng người mua
phải trả 25.000 USD thì hệ số ảnh hưởng tính dụng Ker là:
Ker= 20.000/25.000= 0,8
Như vậy, bao giờ cũng thấy PCOD <= Per cho nên Ker <=1
II - LỰA CHỌN CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA VÀ TÍNH GIÁ
Có nhiều phương pháp để kiểm tra và tính giá hàng xuất nhập khẩu.
Trong đó, ba phương pháp cơ bản nhất là:
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp xác định trị giá riêng.
- Phương pháp tính toán phỏng chừng.
Đó là phương pháp đối chiếu các chỉ tiêu về kỹ thuật và về thương mại
của một mặt hàng để rút ra kết luận về giá cả.
Đối với mỗi mặt hàng, cách so sánh và số chỉ tiêu để so sánh lại khác
nhau. Ví dụ: đối với mặt hàng len, các chỉ tiêu kỹ thuật dùng để so sánh là: độ
dài, độ mảnh, độ bên, độ kéo dài, độ dãn dài, độ mềm, độ sạch, độ đồng đều,
v.v... Còn đối với máy móc như động cơ điêden chẳng hạn, thì các chỉ tiêu kỹ
thuật dùng để so sánh lại là: cấu trúc, công suất, mức tiêu hao nhiên liệu và
dầu mỡ, phương pháp làm mát máy, hệ số hữu hiệu, trình độ thuận tiện trong
khi thao tác, độ hao mòn của các chi tiết, chi phí khai thác, trị giá trọng lượng,
trị giá phụ tùng thay thế v.v...
Bên cạnh các chỉ tiêu kỹ thuật, trong khi so sánh người ta còn phải chú
ý đến những chỉ tiêu kinh doanh, như: điều kiện giao hàng, trị giá bao bì, thời
Page 97
hạn tín dụng, điều kiện cơ sở giao hàng, loại ngoại tệ dùng để thanh toán
v.v...
Trong phương pháp so sánh, người ta thường lấy những chỉ tiêu kỹ
thuật và chỉ tiêu thương mại của một đơn vị chào hàng nào đó, hoặc của một
hợp đồng nào đó đã được ký kết để làm "chuẩn". Trên cơ sở đó, người ta so
sánh, đối chiếu với những tài liệu cạnh tranh khác để rút ra kết luận. Không
thể bỏ qua những yếu tố khác như: mua với số lượng nhiều thường được rẻ
hơn mua lặt vặt, quan hệ cung cầu có lợi cho người mua hay người bán, việc
cố tình giảm giá thiết bị cơ bản để rồi nâng giá phụ tùng thay thế, v.v...
Dưới đây là ví dụ về sự so sánh giá hai xe du lịch để xác định giá xe
Volkswagen có mầu sơn, số lượng ghế ngồi, trình độ thuận tiện khi lái xe, hệ
thống làm mát máy và hệ thống giảm xóc giống như xe Fiat.
Người ta lấy giá xe Fiat làm giá "chuẩn", nghĩa là mỗi chỉ tiêu ở xe Fiat
là 100% và có bảng so sánh sau đây:
Chỉ tiêu so sánhFIAT VOLKSWAGEN
Số liệu % Số liệu %
- Tốc độ (km/giờ) 150 100 125 -6,7%
- Động cơ (mã lực) 85 100 60 -29,5%
- Mức tiêu hao nhiên liệu
trong 100 km (tính bằng lít) 7,5 100 7,0 + 7%
Giá (£) 1950 100 X -39,2%
Như vậy nếu các chỉ tiêu thương mại như nhau thì giá một xe
Volkswagen phải là:
1.950.60,8/100 = 1.185,6 Bảng Anh
Khi so sánh giá về mặt hàng dệt, người ta chú ý
Page 98
- Nguyên liệu tơ sợi của hai loại hàng dệt phải như nhau, ví dụ đều là tơ
tự nhiên hay đều là sợi Vixco-dơ, hoặc nếu là tơ pha len thì tỷ lệ pha phải như
nhau.
- Tổ chức dệt phải như nhau: cùng vân điểm, hoặc cùng vân chéo.
- Đơn vị trọng lượng và chiều dài như nhau.
Ví dụ: Vải sorento và vải samson cùng làm bằng một nguyên liệu tơ sợi
(35% bông, 65% polyester), cùng chỉ số sợi 68/2 * 34/2, vải sorento rộng 90
cm, nặng 150 g/m2, trước đây ta đã mua theo giá 0,90 USD/1 mét. Nay định
lấy giá đó là "chuẩn" để kiểm tra giá vải samson có chiều rộng là 140 cm,
nặng 190 g/m2. Bằng phương pháp so sánh, ta được giá vải samson là:
0,90USD*140/90*190/150=1,77USD
2. Phương pháp xác định trị giá riêng
Trong thực tiễn người ta có một số cách xác định trị giá riêng. Cách
thường dùng nhất là xác định trị giá riêng theo trọng lượng và theo công suất.
a) Trị giá riêng tính theo trọng lượng: còn gọi là trị giá trọng lượng, là
thương số giữa giá máy và trọng lượng của máy.
Ví dụ: một máy công cụ trị giá 30.000 Mark, nặng 5.000 kg thì trị giá
trọng lượng là 6 Mark/1kg.
Trị giá trọng lượng là một chỉ tiêu rất đơn giản, chỉ thường được dùng
để so sánh gần đúng và so sánh bước đầu thôi. Và mặt hàng thường được
dùng trị giá trọng lượng để xác định cũng là những thiết bị có nhiều kim loại
và phí tổn gia công chế tạo lại chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong giá cả như:
nồi hơi, cần cẩu, xe lăn đường, thiết bị đập quặng, v.v...
Khi xác định giá máy theo trị giá trọng lượng, người ta còn phải chú ý
đề phòng trường hợp người chế tao cố tình làm tăng trọng lượng của máy
một cách không cần thiết để giảm một cách giả tạo trị giá trọng lượng. Ví dụ,
máy công cụ nói trên được đổ thêm gang cho thành 6.000 kg thì trị giá trọng
lượng còn là 5 Mark/1kg trong khi đó giá 1kg gang chỉ chưa đầy 1 Mark.
Page 99
Những cán bộ nghiệp vụ và cán bộ vật giá có kinh nghiệm thường theo
dõi trị gia trọng lượng về mặt hàng của mình qua các hợp đồng ký kết và qua
sách báo. Trên cơ sở đó, họ lập nên những đồ thị để có thể kiểm tra và tính
giá một cách dễ dàng.
Ví dụ đồ thị (a) giá những máy đòi hỏi phải có thiết bị đặc biệt mới chế
tạo được (trọng lượng càng tăng, trị giá trọng lượng càng giảm)
Đồ thị (b) giá máy chế tạo đồng loạt (trọng lượng càng tăng thì trị giá
trọng lượng càng tăng).
Giả sử hãng A chào bán một máy (thuộc loại mà khi chế tạo cần có
trang bị đặc biệt) nặng 1.500 kg với giá 8.000 Marks, nhưng theo đồ thị (a) giá
1 kg máy đó chỉ co 4,6 Mark. Vậy giá của máy đó có thể chỉ là 6.900 Mark,
hãng A đã nói thách 1.100 Mark.
Trong khi dùng trị giá trọng lượng để phân tích giá cả, người ta cần chú
ý đến tác động của những tiến bộ kỹ thuật và của sự sản xuất dây chuyền,
bởi vì tiến bộ kỹ thuật có thể làm cho trị giá trọng lượng thay đổi, và việc sản
xuất hàng loạt mặt hàng nào đó cũng có thể giảm bớt trị giá trọng lượng của
nó.
b) Trị giá riêng tính theo công suất của một máy là trị giá của một ki-lô-
oát, một tấn hơi, một tấn trọng tải v.v... của máy đó. Trị giá riêng tính theo
công suất thường được dùng vào việc kiểm tra trị giá của những máy năng
lượng như động cơ điêden, động cơ điện, tuốc bin, nồi hơi v.v...
Trong khi tính trị giá riêng của máy móc, thiết bị, người ta chú ý thấy có
một hệ số giữa những trị giá riêng đó và gọi hệ số đó là hệ số hãm giá. Hệ số
hãm giá là tỷ số giữa trị giá riêng của một máy (hay của một bộ máy) có công
suất lớn hơn so với trị giá riêng của một máy (hay bộ máy) có công suất nhỏ
hơn nhưng cùng thuộc về một loại.
Sở dĩ có hệ số hãm giá là vì giá máy không biến đổi theo tỷ lệ thuận
trực tiếp với công suất của nó, không phải hễ công suất gấp 2 thì giá cũng
gấp 2 lần. Trong thực tế, mức đô tăng của giá máy lại nhỏ hơn mức độ tăng
Page 100
của công suất. Điều này thể hiện rõ trên đồ thị biểu diễn trị, giá riêng của một
máy đieden tính theo công suất của nó như sau:
Theo đồ thị trên đây, hệ số hãm giá K giữa một máy có công suất 1.000
mã lực với một máy có công suất 2.000 mã lực là:
(4 đôla/ mã lực)/(5 đôla/ mã lực)=0,8
Khi xác định được hệ số hãm giá, ta có thể dễ dàng tính được giá máy
có công suất lớn hơn. Giả dụ, qua tài liệu cạnh tranh ta đã biết trị giá riêng
của máy 1.000 mã lực là:
4.000/1.000= 4 đôla/ mã lực
Như vậy trị giá riêng của máy 2.000 mã lực là:
4 đôla/mã lực * K = 4 đôla/mã lực * 0,8 = 3,2 đôla/mã lực.
Do đó máy đieden 2.000 mã lực có thể là:
2.000 mã lực * 3,2 đôla/mã lực = 6,400 đôla
Từ sự tính toán trên đây, ta có thể lập ra công thức tính giá một máy
lớn hơn khi đã biết giá của máy nhỏ.
Nếu d là giá trị của máy có công suất nhỏ.
P1 là giá máy có công suất lớn
K là hệ số hãm giá
W1 là công suất của máy lớn
P1 = dKW1
Ngược lại, giá P2 của máy có công suất nhỏ W2 là:
Trong đó:
P2= D* ((1/K)*W2)
P2: Giá của máy nhỏ
D: Trị giá riêng của máy nhỏ
W2: Công suất của máy nhỏ
Page 101
3. Phương pháp tính giá phỏng chừng
Đối với những hàng hóa nhập khẩu lần đầu tiên, không có tài liệu cạnh
tranh để áp dụng hai phương pháp trên, người ta còn dùng cách tính phỏng
chừng trong việc kiểm tra và tính giá.
Cơ sở để tính phỏng chừng là những kinh nghiệm, là sự phán đoán
một cách tương đối có luận cứ về những yếu tố cấu thành giá cả.
Ví dụ, một hãng buôn bán chào bán một loại cầu dao cắt điện với giá
6.800 Yên. Dựa vào cách tính gần đúng, ta kiểm tra lại thấy như sau:
- Nguyên và vật liệu 2.400 Yên
- Tiền lương 600 Yên
- Chi phí kinh doanh và tạp phí 600 Yên
- Tiền lời 2.600 Yên
Cộng 6.200 Yên
Như vậy, hãng có thể đã phát giá cao hơn ý đồ muốn bán là 200 Yên.
Kết quả tính toán này chỉ gần đúng vì các đại lượng thực tế của những
yếu tố cấu thành giá cả (như trị giá nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí
kinh doanh, mức lãi v.v...) đều là những số liệu bí mật. Vả lại, trình độ trang bị
của mỗi xí nghiệp một khác, và trình độ trang bị khác nhau thì những chi phí
sản xuất cũng khác nhau. Mặt khác, chế độ trợ cấp xuất khẩu ở mỗi một
nước khác nhau. Muốn tính toán gần đúng, cần phải trừ bớt đi các số tiền
được hưởng về ưu đãi xuất khẩu, bởi vì kinh nghiệm cho hay rằng công ty
nào được hưởng ưu đãi xuất khẩu sẽ mạnh dạn hạ giá cho ta.
Trong ví dụ trên, giả dụ, hãng buôn đó được tiền thưởng xuất khẩu 400
Yên thì giá phỏng chừng mà hãng đó có thể chấp nhận là khoảng:
6200 Yên - 400 Yên = 5800 Yên
Ngoài những phương pháp cơ bản trên đây, ngày nay người ta còn có
nhiều phương pháp khác để kiểm tra và tính giá. Một trong những phương
Page 102
pháp ấy là phương pháp tính bằng các hệ số tưowng quan. Nội dung của
phương pháp này dùng hàm số tương quan, giữa giá cả và thông số kỹ thuật
của máy (công suất hay tốc độ quay của động cơ) để xác định cơ số x trong
công thức:
P1/P2= (N1/N2)X
Trong đó: P1 = giá máy lớn
P2 = giá máy nhỏ
N1 = năng suất máy lớn
N2 = năng suất máy nhỏ
Khi tính toán giá cả, đơn vị kinh doanh cần xem xét toàn diện. Tuy mặt
giá cả được chú trọng nhiều, nhưng nhiều khi đơn chào hàng có giá cao hơn
lại được lựa chọn để ký kết, ví dụ khi:
- Vì lợi ích chính trị, cần mở rộng việc buôn bán với một thị trường nào
đó.
- Vì mua hàng trong khuôn khổ nghị định thư hoặc giao dịch đối lưu.
- Vì phẩm chất hàng khác nhau: chẳng hạn, đầu nối ống dẫn nước
bằng gang là 2 Mác và đấu nối bằng sát pha kền là 3 Mác thì cần chọn loại
thứ 2 vì loại thứ hai bền hơn loại thứ nhất nhiều.
- v.v...
* KÝ KẾT HỘP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp
đồng mua bán ngoại thương.
Ở các nước tư bản, hợp đồng có thể được thành lập dưới hình thức
văn bản hoặc hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên (tacit agreement).
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn
bản.
Page 103
Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể được thành lập bằng nhiều
cách như:
(+) Hợp đồng gồm một văn bản trong đó ghi rõ nội dung mua bán, mọi
điều kiện giao dịch đã thỏa thuận và có chữ ký của hai bên.
(+) Hợp đồng gồm nhiều văn bản như những điện báo, thư từ giao dịch.
Chẳng hạn, hợp đồng gồm 2 văn bản như đơn chào hàng cố định của người
bán và chấp nhận của người mua hoặc đơn đặt hàng của người mua và chấp
nhận của người bán.
Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất
nhập khẩu của ta trong quan hệ với các nước. Hình thức hợp đồng bằng văn
bản là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên. Nó xác định
rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những
hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm. Ngoài ra hình thức văn bản còn
tạo thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp
đồng.
Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số đặc điểm như sau:
- Cần có sự thỏa thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần
thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản
nào đó sẽ rất khó khăn và bất lợi.
- Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. Trước khi ký kết bên
kia xem xét lại kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thỏa thuận đã đạt
được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một
cách khéo léo những điểm chưa thỏa thuận và bỏ qua không ghi vào những
điều đã thống nhất.
- Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phản
ánh đúng nội dung đã thỏa thuận, không để tình trạng mập mờ, có thể suy
luận ra nhiều cách.
Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán
để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến.
Page 104
- Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những đặc điểm
của hàng hóa định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội...
của nước người bán, người mua, từ đặc điểm và quan hệ giữa hai bên.
Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện
hành ở nước người bán hoặc ở nước người mua.
- Người đứng ra kỹ kết hợp đồng phải đúng là người có thẩm quyền ký
kết.
- Ngôn ngữ dùng để xây dựng hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ mà cả hai
bên cùng thông thạo.
Một hợp đồng mua bán ngoại thương thường gồm những phần sau:
Số hợp đồng
Ngày và nơi ký hợp đồng
Tên và địa chỉ của các bên ký kết.
Các điều khoản của hợp đồng như:
- Tên hàng - quy cách phẩm chất – số lượng - bao bì, ký mã hiệu
- Giá cả - đơn giá, tổng giá
- Thời hạn và địa điểm giao hàng - điều kiện giao nhận
- Điều kiện thanh toán
- Điều kiện khiếu nại, trọng tài
- Điều kiện bất khả kháng
- Điều kiện cấm tái xuất...
- Chữ ký của hai bên.
Với những hợp đồng phức tạp nhiều mặt hàng thì có thêm các phụ kiện
là bộ phận không tách rời của hợp đồng.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Page 105
1. Tại sao cần phải nghiên cứu thị trường và thương nhân trước khi
giao dịch đàm phán? Nghiên cứu thị trường và thương nhân gồm những nội
dung gì và phương pháp nghiên cứu thế nào?
2. Phương án kinh doanh là gì? Nội dung của phương án đó gồm
những gì?
3. Tỷ suất ngoại tệ là gì? Ý nghĩa của chỉ tiêu này và phương pháp xác
định nó?
4. Mỗi hình thức đàm phán sau đây có những ưu khuyết điểm gì: Qua
thư tín, qua điện thoại, qua gặp gỡ? Nguyên tắc tiến hành mỗi cách đàm phán
đó?
5. Để kiểm tra và đánh giá hàng ngoại thương, người ta thường dùng
những phương pháp nào?
6. Hãy chứng minh công thức tính lượng đặt hàng tiết kiệm EOQ và
cho thí dụ về cách tính đó.
7. Nội dung chính của hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm những gì?
Trong nội dung đó, cần quan tâm đến điều nào nhất? Tại sao?
BÀI TẬP
Bài tập 1. Chúng ta muốn mua 10 xe con và nhận được 2 đơn chào
hàng sau đây:
Đơn thứ nhất chào giá FOB Tokyo 10.000 USD/cái; trả tiền: 80% - 4
tháng sau khi giao hàng, 10% - 6 tháng sau khi giao hàng, 10% - 8 tháng sau
khi giao hàng.
Đơn thứ hai chào giá CIF Hải Phòng 10.900 USD/cái; trả tiền: 20% - 2
tháng sau khi giao hàng, 30% - 4 tháng sau khi giao hàng, 50% - 5 tháng sau
khi giao hàng.
Biết rằng tiền cước Tokyo - Hải Phòng 500 USD/cái, suất phí bảo hiểm
(R) 0,4 %, bạn hãy tính toán để lựa chọn 1 trong 2 đơn chào hàng nói trên.
Page 106
Bài tập 2. Chúng ta nhận được hai thư hỏi mua về 500 tấn than cám
loại I, giao hàng quý III năm nay.
Thư thứ nhất đặt giá 35 USD/1 tấn FOB Hải Phòng, trả tiền: 60% - 1
tháng sau khi giao hàng, 20% - 8 tháng sau khi giao hàng và 20% - 12 tháng
sau khi giao hàng.
Thư thứ hai đặt giá 57 USD/1 tấn CIF Hồng Kông, trả tiền: 30% - 2
tháng sau khi giao hàng, 30% - 6 tháng sau khi giao hàng và 40% - 10 tháng
sau khi giao hàng.
Biết rằng cước Hải Phòng - Hồng Kông 20 USD/1 tấn, suất phí bảo
hiểm 0,25%, lãi suất cho vay của ngân hàng 6% năm. Bạn hãy tính toán để
lựa chọn một trong hai thư hỏi hàng trên.
Bài tập 3. Chúng ta có ý định bán 500 tấn quặng apatit cho công ty
Thomas and Son (Rotterdam) với giá CIF 55 USD/tấn, giao trong quỹ III. Bạn
hãy làm đơn chào hàng phù hợp với ý định đó sao cho chặt chẽ và có khả
năng thực hiện.
Chương 4. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết, đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu - với tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện
hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật
quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo
uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện
các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu
phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả
của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành
các khâu công việc sau đây:
Page 107
Dục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương
thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa, thuê tàu
hoặc lưu cước, kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hóa, làm thủ tục hải quan,
giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu
nại (nếu có).
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến
hành các khâu công việc sau đây:
Xin giấy phép nhập khẩu, mở L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán
bàng L/C), thuê tàu hoặc lưu cước, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, nhận
hàng từ tàu chở hàng, kiểm tra hàng hóa (kiểm dịch và giám định), giao hàng
cho đơn vị đặt hàng nhập khẩu, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại (nếu có) về
hàng hóa bị thiếu hụt hoặc tổn thất.
Như vậy, nói chung trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương, đơn vị kinh doanh xuất nhập khau phải tiến hàng các công việc dưới
đây:
* XIN GIẤY PHÉP XUẤT NHẬP KHẨU
Giấy phép xuất nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước
quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh
nghiệp phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng đó.
Ngày nay, trong xu thế tự do hóa mậu dịch, nhiều nước giảm bớt số mặt hàng
cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến.
Ở nước ta, theo Nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 kể từ ngày 1/2/1996
trở đi, chỉ còn 9 trường hợp sau đây cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu
chuyến: Hàng xuất nhập khẩu mà nhà nước quản lý bằng hạn ngạch; Hàng
tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ duyệt; Máy
móc thiết bị nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách; Hàng của doanh nghiệp
được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam; Hàng phục vụ thăm
dò, khai thác dầu khí; Hàng dự hội chợ triển lãm; Hàng gia công; Hàng tạm
Page 108
nhập tái xuất; Hàng xuất nhập khẩu thuộc diện cần điều hành để bảo đảm cân
đối cung cầu trong nước.
Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập
khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: hợp đồng, phiếu hạn
ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch), hợp đồng ủy thác xuất
nhập khẩu (nếu đó là trường hợp xuất nhập khẩu ủy thác), giấy báo trúng
thầu của Bộ Tài chính (nếu là hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài)...
Nếu hàng xuất nhập khẩu qua nhiều cửa khẩu, cơ quan Hải quan sẽ
cấp cho doanh nghiệp ngoại thương một phiếu theo dõi. Mỗi khi hàng thực tế
được giao nhận ở cửa khẩu, cơ quan Hải quan cửa khẩu đó sẽ trừ lùi vào
phiếu theo dõi đó (theo công văn số 208/TCHQ - GSQL ngày 20/3/1996 của
Tổng cục Hải quan).
Việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được phân công như sau:
+ Bộ Thương mại (các phòng cấp giấy phép) cấp những giấy phép xuất
nhập khẩu hàng mậu dịch, nếu hàng đó thuộc 1 trong 9 trường hợp nêu ở
trên.
+ Tổng cục Hải quan cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu dịch.
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất hoặc nhập
khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên chở bằng
một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. Đơn xin
giấy phép (và các chứng từ đính kèm) phải được chuyển đến Phòng (hoặc
Tổ) cấp giấy phép của Bộ Thương mại. Sau 3 ngày kể từ ngày nhận được
đơn đó, Phòng (hoặc Tổ) cấp giấy phép phải trả lời kết quả (Thông tư
21/KTĐN/VT ngày 23/10/1989).
* CHUẨN BỊ HÀNG XUẤT KHẨU
Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải
tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là
hợp đồng đã ký với nước ngoài và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh
toán bằng L/C).
Page 109
Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: thu gom
tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng
xuất khẩu.
1. Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu
Việc mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn.
Trong khi đó sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản, là một nền sản
xuất manh mún, phân tán, vì vậy, trong rất nhiều trường hợp, muốn làm thành
lô hàng xuất khẩu, chủ hàng xuất nhập khẩu phải tiến hành thu gom tập trung
từ nhiều chân hàng (cơ sở sản xuất - thu mua). Cơ sở pháp lý để làm việc đó
là ký kết hợp đồng kinh tế giữa chủ hàng xuất nhập khẩu với các chân hàng.
Hợp đồng kinh tế về việc huy động hàng xuất khẩu có thể là hợp đồng
mua bán hàng xuất khẩu, hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng
ủy thác thu mua hàng xuất khẩu, hợp đồng nhận ủy thác xuất khẩu, hợp đồng
liên doanh liên kết xuất khẩu... Hợp đồng dù thuộc loại nào đều phải được ký
kết theo những nguyên tắc, trình tự và nội dung đã được quy định trong
"Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế" do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ban hành
ngày 25/9/1989.
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong chương IX.
2. Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu
Trong buôn bán quốc tế, tuy không ít mặt hàng để trần hoặc để rời,
nhưng đại bộ phận hàng hóa đòi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong quá
trình vận chuyển và bảo quản. Vì vậy, tổ chức đóng gói, bao bì, kẻ mã hiệu là
khâu quan trọng của việc chuẩn bị hàng hóa.
Muốn làm tốt được công việc bao bì đóng gói, một mặt cần phải nắm
vững loại bao bì đóng gói mà hợp dồng quy định, mặt khác cần nắm được
những yêu cầu cụ thể của việc bao gói để lựa chọn cách bao gói thích hợp.
a) Loại bao bì:
Page 110
Trong buôn bán quốc tế, người ta dùng rất nhiều loại bao bì. Các loại
thông thường là:
- Hòm (case, box): Tất cả những hàng có giá trị tương đối cao, hoặc dễ
hỏng đều được đóng vào hòm. Người ta thường dùng các loại hòm gỗ
thường (wooden case), hòm gỗ dán (plywood case), hòm kép (double case),
hòm gỗ dát kim khí (metallized case) và hòm gỗ ghép (fiberboard case).
- Bao (bag): Một số sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu hóa chất
thường được đóng vào bao bì. Các loại bao bì thường dùng là: bao tải (gunny
bag), bao vải bông (cotton bag), bao giấy (paper bag) và bao cao su (ruber
bag).
- Kiện hay bì (bale): Tất cả các loại hàng hóa có thể ép gọn lại mà
phẩm chất không bị hỏng thì đều đóng thành kiện hoặc bì, bên ngoài thường
buộc bằng dây thép.
- Thùng (barrel, drum): Các loại hàng lỏng, chất bột và nhiều loại hàng
khác nữa phải đóng trong thùng. Thùng có loại bằng gỗ (wooden barrel), gỗ
dán (plywood barrel), thùng tròn bằng thép (steel drum), thùng tròn bằng
nhôm (aluminium drum) và thùng tròn gỗ ghép (fiberboard drum).
Ngoài mấy loại bao bì thường dùng trên đây, còn có sọt (crate), bó
(bundle), cuộn (roll), chai lọ (bottle), bình (carboy), chum (jar)...
Các loại bao bì trên đây là bao bì bên ngoài (outer packing). Ngoài ra
còn có loại bao bì bên trong (inner packing) và bao bì trực tiếp (immediate
packing).
Vật liệu dùng để bao gói bên trong là giấy bìa bồi (cardboard), vải bông,
vải bạt (tarpauline), vải đay (gunny), giấy thiếc (foil), dầu (oil) và mỡ (grease).
Trong bao gói có khi còn phải lót thêm một số vật liệu, thí dụ: phoi bào
(excelsior, wood shaving), giấy phế liệu (paper waste), nhựa xốp (stiropore)
v.v... có khi vải bông cũng được dùng để lót trong.
Trong mấy thập kỷ gần đây, người ta dùng chất tổng hợp để chế ra vật
liệu bao gói như các màng mỏng PE, PVC, PP hay PS.
Page 111
Ngoài ra người ta còn phát triển việc chuyên chở bằng con-tê-nơ
(container), cá bản (flat), thùng lều (thiết bị đóng gộp hàng máy bay - igioo)
vừa tiết kiệm bao gói, vừa thuận tiện cho việc bốc dỡ và xếp đặt hàng trên
phương tiện vận tải.
b) Những nhân tố cần được xét đến khi đóng gói:
Yêu cầu chung về bao bì đóng gói hàng hóa ngoại thương là "an toàn,
rẻ tiền và thấm mỹ". Điều này có nghĩa là: Bao bì phải đảm bảo sự nguyên
vẹn về chất lượng và số lượng hàng hóa từ nơi sản xuất đến tay người tiêu
dùng, phải bảo đảm hạ giá thành sản phẩm nhưng đồng thời phải bảo đảm
thu hút sự chú ý của người tiêu thụ. Khi lựa chọn loại bao bì, loại vật liệu làm
bao bì và phương pháp bao bì, chủ hàng xuất nhập khẩu phải xét đến những
điều đã thỏa thuận trong hợp đồng, thứ đến phải xét đến tính chất của hàng
hóa (như lý tính, hóa tính, hình dạng bên ngoài, màu sắc, trạng thái của hàng
hóa) đối với những sự tác động của môi trường và của điều kiện bốc xếp
hàng... Ngoài ra, cần xét đến những nhân tố dưới đây:
+ Điều kiện vận tải: khi lựa chọn bao bì, người ta phải xét đến đoạn
đường dài, phương pháp và thời gian của việc vận chuyển, khả năng phải
chuyển tải ở dọc đường, sự chung đụng với hàng hóa khác trong quá trình
chuyên chở...
+ Điều kiện khí hậu: Đối với những hàng hóa giao cho các nước có độ
ẩm không khí cao (tới 90%) và nhiệt độ trung bình tới 30 - 40°c, hoặc hàng
hóa đi qua những nước có khí hậu như vậy, bao bì phải là những loại đặc biệt
bền vững. Thường thường, đó là những hòm gỗ hoặc bằng kim khí được hàn
hoặc gắn kín. Bên trong bao bì là lớp giấy không thấm nước và/hoặc màng
mỏng PE. Những bộ phận chế bằng kim loại, dễ bị han rỉ, cần bôi thêm dầu
mỡ ở mặt ngoài.
+ Điều kiện về luật pháp và thuế quan: Ở một số nước, luật pháp cấm
nhập khẩu những hàng hóa có bao bì làm từ những loại nguyên liệu nhất
định. Ví dụ: ở Mỹ và Tân-tây-lan, người ta cấm dùng bao bì bằng cỏ khô, rơm,
gianh, rạ v.v... Một vài nước khác lại cho phép nhập khẩu loại bao bì như vậy
Page 112
nếu chủ hàng xuất trình những giấy tờ chứng nhận rằng các nguyên liệu bao
bì đã được khử trùng.
Ngoài ra, phương pháp bao bì đóng gói và vật liệu bao bì đóng gói còn
trực tiếp ảnh hưởng tới mức thuế nhập khẩu. Ở một số nước thuộc khối liên
hiệp Anh, hải quan đòi hỏi phải xuất trình những chứng từ về xuất xứ của bao
bì để áp dụng suất thuế quan ưu đãi cho những hàng hóa nhập từ các nước
trong liên hiệp Anh.
Đối với những hàng chịu thuế theo trọng lượng, có một số nước thu
thuế theo "trọng lượng tịnh luật định" là trọng lượng còn lại sau khi đã lấy
trọng lượng cả bì của hàng hóa trừ đi trọng lượng bì do hải quan quy định
sẵn. Trong trường hợp này, rõ ràng trọng lượng của bao bì có thể ảnh hưởng
tới mức thuế quan nhập khẩu.
+ Điều kiện chi phí vận chuyền: Cước phí thường được tính theo trọng
lượng cả bao bì hoặc thể tích của hàng hóa. Vì vậy rút bớt trọng lượng của
bao bì hoặc thu hẹp thể tích của hàng hóa sẽ tiết kiệm được chi phí vận
chuyển. Ngoài ra muốn giảm được chi phí vận chuyển còn phải đề phòng
trộm cắp trong quá trình chuyên chở. Muốn thỏa mãn được những điều kiện
này, người ta thường dùng bao bì vừa nhẹ, vừa bền chắc, tận dụng không
gian của bao bì, thu nhỏ bản thân hàng hóa lại, đồng thời không để lộ dấu
hiệu của hàng hóa được gói bên trong bao bì...
3. Việc kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu
Ký mã hiệu (marking) là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng
hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết
cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc bảo quản hàng hóa.
Kẻ ký mã hiệu là một khâu cần thiết của quá trình đóng gói bao bì
nhằm:
- Bảo đảm thuận lợi cho công tác giao nhận
- Hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ
hàng hóa.
Page 113
Ký mã hiệu cần phải bao gồm:
+ Những dấu hiệu cần thiết đối với người nhận hàng như: tên người
nhận và tên người gửi, trọng lượng tịnh và trọng lượng cả bì, số hợp đồng, số
hiệu chuyến hàng, số hiệu kiện hàng.
+ Những chi tiết cần thiết cho việc tổ chức vận chuyển hàng hóa như:
tên nước và tên địa điểm hàng đến, tên nước và tên địa điểm hàng đi, hành
trình chuyên chở, số vận đơn, tên tàu, số hiệu của chuyến đi.
+ Những dấu hiệu hướng dẫn cách xếp đặt, bốc dỡ và bảo quản hàng
hóa trên đường đi từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, như: dễ vỡ, mở chỗ này,
tránh mưa, nguy hiểm v.v...
Việc ký mã hiệu cần phải đạt được yêu cầu sau: Sáng sủa, dễ đọc,
không phai màu, không thấm nước, sơn (hoặc mực) không làm ảnh hưởng
đến phẩm chất hàng hóa.
Để làm hình thành một lô hàng, ngoài những công việc trên đây, đơn vị
kinh doanh xuất khẩu còn phải kiểm tra hàng hóa và lấy giấy chứng nhận sự
phù hợp của hàng hóa với quy định của hợp đồng (giấy chứng nhận phẩm
chất, giấy chứng nhận kiểm dịch v.v...).
* KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG
1. Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng xuất khẩu
Trước khi giao hàng, người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng
về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì (tức kiểm nghiệm) hoặc nếu
hàng hóa xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan
bệnh (tức kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật).
Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch được tiến hành ở hai cấp: Ở cơ sở và ở
cửa khẩu. Trong đó việc kiểm tra ở cơ sở (tức ở đơn vị sản xuất, thu mua,
chế biến như ở các nông trường, xí nghiệp, trạm, trại v.v...) có vai trò quyết
định nhất và có tác dụng triệt để nhất. Còn việc kiểm tra hàng hóa ở cửa khẩu
có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế.
Page 114
Việc kiểm nghiệm ở cơ sở là do tổ chức "kiểm tra chất lượng sản
phẩm" (KCS) tiến hành. Tuy nhiên thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách
nhiệm chính về phẩm chất hàng hóa. Vì vậy, trên giấy chứng nhận phẩm
chất, bên cạnh những chữ ký của bộ phận KCS, phải có chữ ký của thủ
trưởng đơn vị.
Việc kiểm địch thực vật ở cơ sở là do phòng bảo vệ thực vật (của
huyện, quận hoặc ở nông trường) tiến hành. Việc kiểm dịch động vật ở cơ sở
là phòng (hoặc trạm) thú y (của huyện, quận hoặc của nông trường) tiến
hành.
Cục thú y và Cục bảo vệ thực vật đều có chi nhánh ở các cửa khẩu
(như cảng, ga quốc tế). Công ty giám định hàng hóa xuất nhập khẩu cũng đặt
ở đó các trạm và các chi nhánh công ty. Do đó, nếu có yêu cầu kiểm tra hàng
hóa ở cửa khẩu trước khi gửi hàng xuất khẩu, chủ hàng phải đề nghị các cơ
quan chứng nhận (về phẩm chất hoặc về sự kiểm dịch) đối với hàng hóa
trong thời hạn chậm nhất là 7 ngày trước khi hàng được bốc xuống tàu.
2. Kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu
Theo tinh thần của Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 và Thông tư
Liên Bộ Giao thông Vận tải - Ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1975, hàng
nhập khẩu khi về qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tùy
theo chức năng của mình phải tiến hành công việc kiểm tra đó.
Cơ quan giao thông (ga, cảng) phải kiểm tra niêm phong cặp chì trước
khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Nếu hàng có thể có tổn thất hoặc xếp
đặt không theo lô, theo vận đơn thì cơ quan giao thông mời công ty giám định
lập biên bản giám định dưới tàu (Survey Report). Nếu hàng chuyên chở
đường biển mà bị thiếu hụt, mất mát, phải có "Biên bản kế toán nhận hàng
với tàu" (Report on Receipt of cargo) còn nếu bị đổ vỡ - phải có "Biên bản
hàng đổ vỡ hư hỏng" (Cargo outturn report). Nếu tàu chở hàng đã nhổ neo rồi
việc thiếu hụt mới bị phát hiện, chủ hàng phải yêu cầu VOSA cấp "giấy chứng
nhận hàng thiếu" (Certificate of shortlanđed cargo).
Page 115
Đơn vị kinh doanh nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trên vận
đơn, phải lập thư dự kháng (letter of reservation) nếu nghi ngờ hoặc thực sự
thấy hàng có tổn thất, phải yêu cầu lập biên bản giám định (Survey report)
nếu hàng hóa thực sự có tổn thất, thiếu hụt, không đồng bộ không phù hợp
với hợp đồng.
Các cơ quan kiểm dịch phải thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch nếu hàng
nhập khẩu là động vật hoặc thực vật.
* THUÊ TÀU LƯU CƯỚC
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê
tàu chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau đây: Những điều khoản
của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện
vận tải.
Chẳng hạn nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là
CIF hoặc C and F (cảng đến) hoặc của hợp đồng nhập khẩu là FOB (cảng đi)
thì chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê tàu biển để chở hàng. Tàu này có thể
là tàu chuyến nếu hàng có khối lượng lớn và để trần (bulk cargo). Đó có thể là
tàu chợ (liner) nếu là hàng lẻ tẻ, lặt vặt, đóng trong bao kiện (general cargo)
và trên đường hàng đi có chuyến tàu chợ (regular line). Việc thuê khoang tàu
chợ còn gọi là lưu cước (Booking a ship’s space).
Nếu ở điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CPT (cảng
đến) hoặc CIP (cảng đến) hoặc của hợp đồng nhập khẩu là FCA (cảng đi), thì
chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê container hoặc tàu Ro/Ro để chở hàng.
Trong trường hợp chuyên chở bằng container, hàng được giao cho người vận
tải theo một trong hai phương thức:
- Nếu hàng đủ một container (Full container load - FCL), chủ hàng phải
đăng ký thuê container, chịu chi phí chở container rỗng từ bải container
(Container yard - CY) về cơ sở của mình, đóng hàng vào container, rồi giao
cho người vận tải.
Page 116
- Nếu hàng không đủ một container (Less than container load - LCL),
chủ hàng phải giao hàng cho người vận tải tại ga container (container freight
station - CFS).
Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin
về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy,
trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường ủy thác việc thuê
tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải như: Công ty thuê tàu và môi giới
hàng hải (Vietfracht), Công ty đại lý tàu biển (VOSA)...
Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa hai bên ủy thác thuê tàu với
bên nhận ủy thác thuê tàu là hợp đồng ủy thác. Có hai loại hợp đồng ủy thác
thuê tàu:
+ Hợp đồng ủy thác thuê tàu cả năm.
+ Hợp đồng ủy thác chuyến.
Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển của hàng
hóa để lựa chọn loại hình hợp đồng cho thích hợp.
* MUA BẢO HIỂM
Hàng hóa chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế
bảo hiểm hàng hóa đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại
thương.
Các chủ hàng xuất nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm, đều mua
tại các công ty Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm
bao (open policy) hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến (voyage policy). Khi
mua bảo hiểm bao, chủ hàng (tức đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu) ký hợp
đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng xuống tàu xong chủ hàng chỉ gửi đến
Công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là: "Giấy báo bắt đầu vận
chuyển". Khi mua bảo hiểm chuyến, chủ hàng phải gửi đến Công ty bảo hiểm
một văn bản gọi là "Giấy yêu cầu bảo hiểm". Trên cơ sở "Giấy yêu cầu..." này,
chủ hàng và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Page 117
Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm.
Có ba điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A) bảo
hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện
C). Cũng có một số điều kiện, bảo hiểm phụ như: vỡ, rò, gỉ, mất trộm, mất cắp
và không giao hàng, gỉ và ôxi hóa, hư hại do móc cẩu, dây bẩn do dầu hoặc
mỡ... Ngoài ra, còn một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: bảo hiểm chiến
tranh (war risk), bảo hiểm đình công, bạo động và dân biến (strike, riost and
civil commotion - viết tắt: SRCC). Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo
hiểm được trình bày tóm tắt ở trang bên.
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau:
- Điều khoản hợp đồng: chẳng hạn khi bán CIF, chúng ta chỉ mua bảo
hiểm theo điều kiện “C”.
- Tính chất hàng hóa.
- Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
- Loại tàu chuyên chở.
* CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO HIỂM ĐƯỜNG BIỂN
Rủi ro được bảo hiểm
Rủi ro không được bảo hiẻm
Điều kiện A Điều
kiện BĐiều
kiện C
Bảo hiểm chiến tranh
Bảo hiểm đình công
1. Cháy nổ
2. Mắc cạn đắm lật tàu
3. Phương tiện đuờng bộ bị lật, trật ray
4. Đâm va với vật khác không phải nước
5. Dỡ hàng ở cảng lánh nạn
6. Động đất, núi lửa phun, sét đánh
7. Hy sinh tổn thất chung
8-a Vứt hàng xuống biển
8- b. Nước biến cuốn hàng xuống biển
Page 118
9. Nước biển, sông hồ tràn vào tàu, thuyền
10. Mất nguyên kiện khi bốc dỡ
11. Chi phí hạn chế tổn thất
12. Mất trộm, mất cắp, không giao
13. Thiệt hại do chất đống hoặc nhiệt độ
14. Dây bẩn vì tiếp xúc hàng khác
15. Dò ri
16. Vỡ và mọi loại tổn thất riêng
Ngoại
trừ
1. Lỗi cố ý của nguời được bảo hiểm
2. Hao hụt bình thường dọc đường
3. Bao bì không thích đáng
4. Tiềm tật hoặc bản chất của đối
tượng
5. Chậm giao
6. Chủ tàu không có khả năng chi trả
7. Lợi dụng khu vực chiến tranh
nguyên tử
8. Cố tình phá hoại
9. Rủi ro chiến tranh
10. Rủi ro đình công
* LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN
Hàng hóa khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập
khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước
chủ yếu sau đây:
1. Khai báo hải quan
Chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hóa lên tờ khai (customs
declaration) để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Yêu cầu của
việc khai này là trung thực và chính xác. Nội dung của tờ khai bao gồm những
mục như: Loại hàng (hàng mậu dịch, hàng trao đổi tiểu ngạch biên giới, hàng
Page 119
tạm nhập tái xuất...), tên hàng, số, khối lượng, giá trị hàng, tên công cụ vận
tải, xuất khẩu hoặc nhập khẩu với nước nào... tờ khai hải quan phải được
xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác, mà chủ yếu là: giấy phép xuất
nhập khẩu, hóa đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
2. Xuất trình hàng hóa
Hàng hóa xuất nhập khẩu phải được sáp xếp trật tự, thuận tiện cho việc
kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các
kiện hàng. Yêu cầu của việc xuất trình hàng hóa cũng là sự trung thực của
chủ hàng.
3. Thực hiện các quyết định của hải quan
Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hóa, hải quan sẽ ra những quyết
định như: cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi
qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...) cho hàng đi
qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế; hàng không được xuất (hoặc nhập) khẩu...
nghĩa vụ của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó. Việc vi
phạm các quyết định đó thuộc tội hình sự.
* GIAO NHẬN HÀNG VỚI TÀU
1. Giao hàng xuất khẩu
Hàng xuất khấu của ta được giao, về cơ bản, bằng đường biển và
đường sắt. Nếu hàng hóa được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến
hành các việc sau:
- Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu, lập bảng đăng ký hàng
chuyên chở cho người vận tải (Đại diện hàng hải, hoặc thuyền trưởng hoặc
Công ty Đại lý tàu biển) để đổi lấy sơ đồ xếp hàng (Stowage plan).
- Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.
- Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó (mate’s receipt) và đổi biên lai thuyền phó lấy
vận đơn đường biển.
Page 120
Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng (clean on
board B/L) và phải chuyển nhượng được (negotiable).
Nếu hàng hóa được giao bằng container khi chiếm đủ một container
(FCL), chủ hàng phải đăng ký thuê Container, đóng hàng vào Container và
lập bảng kê hàng trong container (container list). Khi hàng giao không chiếm
hết một container (LCL), chủ hàng phải lập "bản đăng ký hàng chuyên chở"
(cargo list). Sau khi đăng ký được chấp thuận, chủ hàng giao hàng đến ga
container cho người vận tải.
Nếu hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời
đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng
hóa và khối lượng hàng hóa. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc
xếp hàng, niêm phong cặp chì và làm các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu
là vận đơn đường sắt.
2. Giao nhận hàng nhập khẩu
Theo Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 "các cơ quan vận tải (ga,
cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hóa nhập khẩu trên các phương tiện vận
tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho,
lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty
đã nhập hàng đó".
Do đó, đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải, hoặc trực tiếp hoặc thông
qua một đơn vị nhận ủy thác giao nhận (như Vietrans chẳng hạn), tiến hành:
- Ký kết hợp đồng ủy thác cho cơ quan vận tải (ga, cảng) về việc giao
nhận hàng từ tàu ở nước ngoài về.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu
từng năm, từng quý, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ,
vận chuyển, giao nhận.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hóa (như vận
đơn, lệnh giao hàng...) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan
vận tải.
Page 121
- Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu (nếu
hàng nhập khẩu cho một đơn vị trong nước) về dự kiến ngày hàng về, ngày
thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày toa xe chở hàng về sân ga giao
nhận.
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc
xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.
- Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản
(nếu cần) về hàng hóa và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề
xảy ra trong việc giao nhận.
Trong trường hợp hàng nhập khẩu được xếp trong container, có thể có
một trong hai khả năng sau:
+ Nếu hàng đủ một Container (FCL), cảng giao container cho chủ hàng
nhận về cơ sở của mình và hải quan kiểm hóa tại cơ sở.
+ Nếu hàng không đủ một container (LCL), cảng giao container cho chủ
hàng có nhiều hàng nhất mang về cơ sở để dỡ hàng, phân chia, với sự giám
sát của hải quan.
* LÀM THỦ TỤC THANH TOÁN
1. Thanh toán bằng thư tín dụng
a) Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định việc thanh toán bằng thư tín dụng,
đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở thư
tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả
năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó. Nếu L/C
không đáp ứng được những yêu cầu này, cần phải buộc người mua sửa đổi
lại, rồi ta mới giao hàng.
Khi lập bộ chứng từ thanh toán, những điểm quan trọng cần được quán
triệt là: nhanh chóng, chính xác, phù hợp với những yêu cầu của L/C cả về
nội dung lẫn hình thức.
Page 122
b) Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Khi hợp đồng nhập khẩu quy định tiền hàng thanh toán bằng L/C, một
trong các việc đầu tiên mà bên mua phải làm để thực hiện hợp đồng đó là
việc mở L/C.
Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì, phụ thuộc vào thời
gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi
đến thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu).
Căn cứ để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở
L/C, Tổng công ty hoặc Công ty xuất nhập khẩu dựa vào căn cứ này để điền
vào một mẫu gọi là: "Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu".
Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng và
giấy phép nhập khẩu được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai
ủy nhiệm chi: một ủy nhiệm chi để ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và
một ủy nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C.
Khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng ngoại thương,
đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu chứng từ hợp lệ,
trả tiền cho ngân hàng. Có như vậy, đơn vị kinh doanh nhập khẩu mới nhận
được chứng từ để đi nhận hàng.
2. Thanh toán bằng phương thức nhờ thu
Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương
thức nhờ thu thì, ngay sau khi giao hàng, đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải
hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để ủy thác cho
ngân hàng việc thu đòi tiền.
Chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh
chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương
thức nhờ thu thì sau khi nhận chứng từ ở ngân hàng ngoại thương, đơn vị
kinh doanh nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định,
Page 123
nếu trong thời gian này, đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính
đáng từ chối thanh toán thì ngân hàng xem như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ.
Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên
bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các
bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài.
* KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu
phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần
lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại là người bán, nếu hàng có chất lượng hoặc số
lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn
giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ...
Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng bị tổn thất trong quá trình
chuyên chở hoặc nếu sự tổn thất đó do lỗi của người vận tải gây nên.
Đối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hóa - đối tượng của
bảo hiếm bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba
gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như
biên bản giám định, COR, ROROC hay CSC v.v...), hóa đơn, vận đơn đường
biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại công ty bảo hiểm) v.v...
2. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu bị
khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc
xem xét yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu). Việc giải quyết phải
khẩn trương kịp thời và có tình có lý.
Nếu khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, chủ hàng xuất khẩu có thể
giải quyết bằng một trong những phương pháp như:
- Giao hàng thiếu;
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng;
Page 124
- Sửa chữa hàng hỏng;
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hóa
giao vào thời gian sau đó.
3. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thỏa đáng, hai bên có thể
kiện nhau tại Hội đồng trọng tài (nếu có thỏa thuận trọng tài) hoặc tại Tòa án.
* NHỮNG CHỨNG TỪ CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG
Những chứng từ cơ bản của quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương là những chứng từ xác nhận việc chấp hành hợp đồng đó, như
là xác nhận việc người bán giao hàng, việc chuyên chở hàng, việc bảo hiểm
hàng hóa, việc làm thủ tục hải quan...
Những chứng từ này bao gồm nhiều loại, mỗi loại có nội dung và hình
thức khác nhau. Nhưng nói chung, chúng đều được trình bày trên những mẫu
in sẵn. Những chi tiết chung cho nội dung của tất cả các chứng từ là: Tên của
Tổng công ty hoặc công ty xuất nhập khẩu, địa chỉ, số điện thoại và điện tín
của nó, tên chứng từ, ngày tháng và nơi lập chứng từ, số hợp đồng và ngày
tháng ký kết hợp đồng, tên tàu chở hàng và số vận đơn, tên hàng và mô tả
hàng hóa, số lượng (số lượng kiện, trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh), loại
bao bì và ký mã hiệu hàng hóa.
Căn cứ vào chức năng của chúng, các chứng từ được chia thành các
loại: chứng từ hàng hóa, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm, chứng từ kho
hàng và chứng từ hải quan.
* CHỨNG TỪ HÀNG HÓA
Chứng từ hàng hóa có tác dụng nói rõ đặc điểm về giá trị, chất lượng
và số lượng của hàng hóa. Những chứng từ này do người bán xuất trình và
người mua sẽ trả tiền khi nhận được chúng. Những chứng từ chủ yếu của
loại này là hóa đơn thương mại, bảng kê chi tiết, phiếu đóng gói, giấy chứng
nhận phẩm chất.
Page 125
1. Hóa đơn thương mại (Commercial invoice) là chứng từ cơ bản của
khâu công tác thanh toán. Nó là yêu cầu của người bán đòi hỏi người mua
phải trả số tiền hàng đã được ghi trên hóa đơn. Hóa đơn nói rõ đặc điểm
hàng hóa, đơn giá và tổng trị giá của hàng hóa; điều kiện cơ sở giao hàng;
phương thức thanh toán; phương thức chuyên chở hàng.
Hóa đơn thường được lập làm nhiều bản và được dùng trong nhiều
việc khác nhau: hóa đơn được xuất trình chẳng những cho ngân hàng để đòi
tiền hàng, mà còn cho công ty bảo hiểm để tính phí bảo hiểm khi mua bảo
hiểm hàng hóa, cho cơ quan quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu để xin
cấp ngoại tệ, cho hải quan để tính tiền thuế.
Theo chức năng của nó, hóa đơn có thể được phân loại thành:
Hóa đơn tạm thời (Provisional invoice) là hóa đơn dùng trong việc
thanh toán sơ bộ tiền hàng trong các trường hợp như: giá hàng mới là giá
tạm tính; việc nhận hàng về số lượng và chất lượng được thực hiện ở cảng
đến, hàng hóa được giao làm nhiều lần mà mỗi lần chỉ thanh toán một phần,
cho đến khi bên bán giao xong mới thanh toán dứt khoát v.v...
Hóa đơn chính thức (Final invoice) là hóa đơn dùng để thanh toán cuối
cùng tiền hàng.
Hóa đơn chi tiết (Detailed invoice) các tác dụng phân tích chi tiết các bộ
phận của giá hàng.
Hóa đơn chiếu lệ (Proforma invoice) là loại chứng từ có hình thức như
hóa đơn, nhưng không dùng để thanh toán bởi vì nó không phải là yêu cầu
đòi tiền. Tuy nhiên điểm giống nhau trong chức năng của nó với hóa đơn
thông thường là: nó nói rõ giá cả và đặc điểm của hàng hóa. Vì vậy nó có tác
dụng đại diện cho số hàng hóa gửi đi triển lãm, để gửi bán hoặc có tác dụng
làm đơn chào hàng hoặc để làm thủ tục xin nhập khẩu.
Hóa đơn trung lập (Neutral invoice) trong đó không ghi rõ tên người
bán.
2. Bảng kê chi tiết (Specification)
Page 126
Là chứng từ về chi tiết hàng hóa trong kiện hàng. Nó tạo điều kiện
thuận tiện cho việc kiểm tra hàng hóa. Ngoài ra nó có tác dụng bổ sung cho
hóa đơn khi lô hàng bao gồm nhiều loại hàng có tên gọi khác nhau và có
phẩm cấp khác nhau.
3. Phiếu đóng gói (Packing list)
Là bảng kê khai tất cả các hàng hóa đựng trong một kiện hàng (hòm,
hộp, container) v.v... Phiếu đóng gói được đặt trong bao bì sao cho người
mua có thể dễ dàng tìm thấy, cũng có khi được để trong một túi gắn ở bên
ngoài bao bì.
4. Giấy chứng nhận phẩm chất (Certificate of quality)
Là chứng từ xác nhận chất lượng của hàng thực giao và chứng minh
phẩm chất hàng phù hợp với các điều khoản của hợp đồng. Nếu hợp đồng
không quy định gì khác, giấy chứng nhận phẩm chất có thể do xưởng hoặc xí
nghiệp sản xuất hàng hóa cấp, cũng có thể do cơ quan kiểm nghiệm (hoặc
giám định) hàng xuất khẩu cấp.
Trong số các giấy chứng nhận phẩm chất, người ta phân biệt giấy
chứng nhận phẩm chất thông thường và giấy chứng nhận phẩm chất cuối
cùng có tác dụng khẳng định kết quả của việc kiểm tra phẩm chất (Final
certificate). Giấy chứng nhận phẩm chất cuối cùng có tác dụng khẳng định kết
quả của việc kiểm tra phẩm chất ở một địa điểm nào đó, do hai bên thỏa
thuận.
5. Giấy chứng nhận số lượng (Certificate of quantity)
Là chứng từ xác nhận số lượng của hàng hóa thực giao. Chứng từ này
được dùng nhiều trong trường hợp hàng hóa mua bán là những hàng tính
bằng số lượng (cái, chiếc) như: chè gói, thuốc lá đóng bao, rượu chai v.v...
Giấy này có thể do công ty giám định cấp.
* CHỨNG TỪ VẬN TẢI
Page 127
Chứng từ vận tải là chứng từ do người chuyên chở cấp để xác nhận
rằng mình đã nhận hàng để chở. Các chứng từ vận tải thông dụng nhất là:
- Vận đơn đường biển; biên lai thuyền phó; biên lai của cảng; giấy gửi
hàng đường biển, v.v...
- Vận đơn đường sắt, khi hàng được chuyên chở bằng đường sắt;
- Vận đơn đường không, khi hàng được chuyên chở bằng máy bay.
1. Vận đơn đường biển (Bill of lading - viết tắt là B/L)
Là chứng từ do người chuyên chở (chủ tàu, thuyền trưởng) cấp cho
người gửi hàng nhằm xác nhận việc hàng hóa đã được tiếp nhận để chở.
Vận đơn đường biển có ba chức năng cơ bản:
- Là biên lai của người vận tải về việc đã nhận hàng để chở;
- Là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở đường biển;
- Là chứng chỉ về quyền sở hữu hàng hóa;
Thực hiện chức năng thứ nhất, vận đơn nói rõ tình trạng của hàng hóa
khi bốc lên tàu và tình hình đặc biệt của việc xếp hàng lên tàu, ví dụ: "hàng
trên boong", "hàng đã bốc", "hàng nhận để chở", "bao bì rách"? v.v...
Chức năng thứ hai của vận đơn chỉ thể hiện khi hàng được chở trên
các tàu chợ. Nếu tàu chở hàng là tàu chuyến thì hợp đồng chuyên chở đường
biển là hợp đồng thuê tàu (charter-party). Trong trường hợp này vận đơn vẫn
còn thực hiện chức năng thứ nhất (làm biên lai nhận hàng để chở) và chức
năng thứ ba (chứng chỉ sở hữu hàng hóa).
Thực hiện chức năng thứ ba, vận đơn cho phép người nắm được bản
gốc (original) của vận đơn có quyền định đoạt hàng hóa; có quyển nhận hàng
từ tàu biển; có quyền bán hoặc chuyển nhượng hàng hóa ghi trên vận đơn.
Vận đơn có nội dung như sau: ở mặt trước, người ta ghi rõ tên người
gửi hàng, tên tàu, số hiệu của chuyến đi, tên hàng, ký mã hiệu, số lượng kiện,
trọng lượng cả bì, tên người nhận hàng (hoặc "theo lệnh" v.v...), tình hình trả
Page 128
cước, tình hình xếp hàng, số bản gốc đã được lập, ngày tháng cấp vận đơn.
Ở mặt sau, người ta in sẵn những điều khoản được áp dụng vào vận đơn.
Những loại vận đơn đường biển được nói đến một cach phổ biến trong
buôn bán quốc tế là vận đơn đích danh, vận đơn theo lệnh và vận đơn vô
danh. Vận đơn đích danh là vận đơn trong đó có ghi rõ tên người nhận hàng.
Vận đơn theo lệnh là vận đơn theo đó người chuyên chở sẽ giao hàng theo
lệnh của người gửi hàng hoặc theo lệnh của người nhận hàng. Trong trường
hợp mục "người nhận hàng" chỉ ghi "theo lệnh" người chuyên chở sẽ giao
hàng cho người nào được người gửi ký hậu chuyển nhượng; và trong trường
hợp ghi "theo lệnh người nhận hàng” - cho người nào được người nhạn hang
ky hậu chuyển nhượng. Vận đơn vô đanh là vận đơn theo đó người chuyên
chở sẽ giao hàng cho người nào cầm được và xuất trình vận đơn đó.
Trong trường hợp một lô hàng được giao cho nhiều người nhận hàng
khác nhau, vận đơn dùng vào việc chia lẻ hàng như vậy mang tên là "lệnh
giao hàng" (Delivery order).
Vận đơn đường biển được lập thành một số bản gốc, những bản gốc
này hình thành một bộ vận đơn. Trên nhưng bản gốc, người ta đóng dấu "bản
gốc" (original). Ngoài bộ vận đơn gồm các bản gốc, thuyền trưởng còn ký
phát một số bản sao trên đó có đóng dấu "bản sao" (copy). Bản sao không có
giá trị pháp lý như bản gốc. Bản sao thường chỉ cần thiết cho những việc
thông báo giao hàng, kiểm tra hàng hóa, thống kê hải quan v.v...
2. Biên lai thuyền phó (Mate’s receipt)
Là giấy xác nhận của thuyền phó phụ trách về hàng hóa trên tàu về
việc đã nhận hàng chuyên chở. Trong biên lai thuyền phó, người ta ghi kết
quả của việc kiểm nhận hàng hóa mà các nhân viên kiểm kiện của tàu (Ship’s
tallymen) đã tiến hành trong khi hàng hóa được bốc lên tàu.
Biên lai thuyền phó không phải là chứng chỉ sở hữu hàng hóa vì thế
người ta thường phải đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển, trừ
trường hợp điều kiện của hợp đồng mua bán cho phép.
Page 129
3. Giấy gửi hàng đường biển (Sea waybill)
Giấy gửi hàng đường biển là chứng từ thay thế cho vận đơn đường
biển. Tuy nhiên, giấy gửi hàng đường biển thường được ký phát đích danh
cho nên không có tác dụng chuyển nhượng (negotiable). Nó chỉ được dùng
trong trường hợp hai bên mua bán quen thuộc nhau và thường thanh toán
bằng cách ghi sổ.
4. Phiếu gửi hàng (shipping note)
Phiếu gửi hàng là do chủ hàng giao cho người chuyên chở để đề nghị
lưu khoang xếp hàng lên tàu. Đây là một cam kết gửi hàng và là cơ sở để
chuẩn bị lập vận đơn.
5. Bản lược khai hàng (Manifest)
Bản lược khai hàng là chứng từ kê khai hàng hóa trên tàu (cargo
manifest), cung cấp thông tin về tiền cước (freight manifest). Bản lược khai
thường do đại lý tàu biển soạn và được dùng để khai hải quan và để cung
cấp thông tin cho người giao nhận hoặc cho chủ hàng.
6. Vận đơn đường sắt (Waybill, bill of freight, railroad bill of lading)
Là chứng từ vận tải cơ bản trong việc chuyển chở hàng hóa bằng
đường sắt. Vận đơn đường sắt có chức năng là bằng chứng của hợp đồng
chuyên chở hàng hóa bằng đường sắt và là biên lai của cơ quan đường sắt
xác nhận đã nhận hàng để chở.
Trong vận đơn đường sắt thường có những chi tiết cơ bản như: tên
người gửi hàng; tên, địa chỉ người nhận hàng; tên ga đi; tên ga đến và tên
của ga biên giới thông qua; tên hàng, số lượng kiện, trọng lượng cả bì của
hàng hóa; tiền cước chuyên chở.
Cơ quan đường sắt thường ký phát một bản chính của vận đơn đường
sắt và một số bản phụ (duplicate). Bản chính được gửi kèm theo hàng và sẽ
được trao cho người nhận hàng. Bản phụ được trao cho người gửi hàng để
Page 130
người này dùng trong việc của mình như: thanh toán tiền hàng, thông báo
giao hàng...
7. Vận đơn đường không (Air waybill hoặc Aircraft bill of lading)
Là chứng từ do cơ quan vận tải hàng không cấp cho người gửi hàng để
xác nhận việc đã nhận hàng để chở. Chức nắng của vận đơn đường không là
làm bằng chứng của hợp đồng chuyên chở đã được ký kết và làm biên lai
nhận hàng để chở.
Vận đơn đường không do người gửi hàng điền vào ba bản chính rồi
được giao cho người chuyên chở cùng với hàng hóa. Bản thứ nhất có đóng
dấu "để cho người chuyên chở" thì do người gửi hàng ký tên. Bản thứ hai có
đóng dấu "để cho người nhận hàng" thì do người chuyên chở và người nhận
hàng cùng ký tên. Bản thứ ba có chữ ký của người chuyên chở được trả lại
cho người gửi hàng sau khi người chuyên chở đã nhận hàng.
Nội dung của vận đơn bao gồm những chi tiết như: tên người gửi, tên
và địa chỉ người nhận, tên sân bay đi, tên sân bay đến, trị giá hàng, tên hàng,
trọng lượng cả bì của hàng hóa...
* CHỨNG TỪ BẢO HIỂM
Chứng từ bảo hiểm là chứng từ do tổ chức bảo hiểm (trong trường hợp
mua bảo hiểm ở nước ta, đó là Công ty Bảo hiểm Việt nam - Bảo Việt) cấp
nhằm hợp thức hóa hợp đồng bảo hiểm và được dùng để điều tiết quan hệ
giữa tổ chức bảo hiểm với người được bảo hiểm. Trong mối quan hệ này, tổ
chức bảo hiểm nhận bồi thường cho những tổn thất xảy ra vì những rủi ro
nhất định đến với người mua bảo hiểm, còn người được bảo hiểm phải nộp
cho tổ chức bảo hiểm một số tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn bảo hiểm và giấy chứng
nhận bảo hiểm:
1. Đơn bảo hiểm (Insurance policy)
Page 131
Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp, bao gồm những điều khoản chủ
yếu của hợp đồng bảo hiểm, và nhằm hợp thức hóa hợp đồng này. Đơn bảo
hiểm gồm:
- Các điều khoản chung có tính chất thường xuyên, trong đó, người ta
quy định rõ trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Các điều khoản riêng biệt về đối tượng bảo hiểm (như tên hàng, số
lượng, ký mã hiệu, tên phương tiện chở hàng...) và về việc tính toán phí bảo
hiểm (như giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm đã được
thỏa thuận v.v...)
2. Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance certificate)
Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để xác
nhận một lô hàng nào đó đã được bảo hiểm theo điều kiện của một hợp đồng
bảo hiểm dài hạn.
Nội dung của giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ bao gồm những điều
khoản nói lên đối tượng được bảo hiểm, các chi tiết cần thiết cho việc tính
toán bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm đã thỏa thuận.
* CHỨNG TỪ KHO HÀNG
Chứng từ kho hàng là những chứng từ do xí nghiệp kho hàng cấp cho
người chủ hàng nhằm xác nhận đã nhận hàng để bảo quản và xác nhận
quyền sở hữu đối với hàng hóa đó.
Chứng từ kho hàng phổ biến nhất là: biên lai kho hàng và chứng chỉ lưu
kho.
1. Biên lai kho hàng (Warehouse’s receipt)
Là chứng từ do xí nghiệp kho hàng cấp để biên nhận đã lưu kho một số
hàng hóa nhất định, trong một thời hạn nhất định khi người chủ hàng đã trả
một khoản tiền nhất định. Hàng hóa sẽ được giao cho người chủ hàng hoặc
cho một người nào đó được người chủ hàng chuyển nhượng bằng cách ký
hậu trên biên lai kho hàng.
Page 132
2. Chứng chỉ lưu kho (Warrant)
Là chứng từ do xí nghiệp kho hàng cấp cho người chủ hàng để xác
nhận hàng hóa đã được tiếp nhận bảo quản trong kho. Chứng chỉ lưu kho
gồm 2 phần: phần chứng nhận lưu giữ hàng và phần chứng nhận cầm cố.
Phần chứng nhận cầm cố được dùng để vay tiền với sự bảo đảm bằng số
hàng đang được lưu kho. Muốn nhận được hàng hóa từ xí nghiệp kho hàng,
người đi nhận hàng phải xuất trình đồng thời cả hai phần nói trên của chứng
chỉ lưu kho.
* CHỨNG TỪ HẢI QUAN
Chứng từ hải quan là những chứng từ mà theo chế độ hải quan, người
chủ hàng phải xuất trình cho cơ quan hải quan khi hàng hóa ngang qua biên
giới quốc gia. Trong số các chứng từ hải quan, chúng ta thường gặp các loại
chứng từ sau: Tờ khai hải quan, giấy phép xuất nhập khẩu, giấy chứng nhận
xuất xứ, hóa đơn lãnh sự, giấy chứng nhận kiểm dịch động vật, giấy chứng
nhận kiểm dịch thực vật.
1. Tờ khai hải quan (Entry, Customs declaration)
Là khai báo của chủ hàng cho cơ quan hải quan để thực hiện thủ tục
hải quan khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa. Theo điều lệ Hải quan Việt
Nam tờ khai hải quan phải được nộp cho cơ quan hải quan ngay sau khi hàng
đến cửa khẩu; tờ khai hải quan phải được đính kèm với giấy phép xuất nhập
khẩu, bảng kê chi tiết hàng hóa, vận đơn (bản sao) đối với hàng nhập khẩu
(theo Nghị định 171/HĐBT ngày 27/5/1991).
2. Giấy phép xuất nhập khẩu (Export/Import licence)
Là chứng từ do Bộ Thương mại cấp, cho phép chủ hàng được xuất
khẩu hoặc nhập khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định, có cùng tên hàng,
từ một nước nhất định, qua một cửa khẩu nhất định, trong một thời gian nhất
định.
Nội dung của giấy phép xuất nhập khẩu bao gôm: tên và địa chỉ của
người bán (hoặc người mua), tên và địa chỉ của người xin xuất/nhập khẩu; số
Page 133
hiệu và ngày tháng của hợp đồng; tên của cửa khẩu giao nhận, phương tiện
vận tải; tên hàng, nhãn hiệu, quy cách phẩm chất, số lượng hoặc trọng lượng,
giá đơn vị và tổng trị giá, thời hạn hiệu lực của giấy phép.
3. Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of origin)
Là chứng từ do cơ quan có thẩm quyền (Phòng Thương mại và Công
nghiệp) cấp để xác nhận nơi sản xuất hoặc khai thác ra hàng hóa.
Chứng từ này cần thiết cho cơ quan hải quan để tùy theo chính sách
của Nhà nước vận dụng các chế độ ưu đãi khi tính thuế. Đồng thời, trong
chừng mực nhất định, nó nói lên phẩm chất của hàng hóa - nhất là những thổ
sản - bởi vì đặc điểm địa phương và điều kiện sản xuất ở đó có ảnh hưởng
tới chất lượng hàng hóa.
Nội dung của chứng từ này bao gồm: Tên và địa chỉ của người mua;
tên và địa chỉ của người bán; tên hàng, số lượng, ký mã hiệu; lời khai của chủ
hàng về nơi sản xuất hoặc khai thác hàng; xác nhận của cơ quan có thẩm
quyền.
Ngày nay có 5 loại giấy chứng nhận xuất xứ: Form A dùng để thực hiện
chế độ ưu đãi phổ cập GSP; Form B là mẫu giấy thông thường; Form O và
Form X dùng cho cà phê xuất khẩu và Form D (do Bộ Thương mại cấp) để
thực hiện biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) giữa các nước ASEAN.
4. Hóa đơn lãnh sự (Consular invoice) là hóa đơn trên đó lãnh sự của
nước nhập khẩu đang công tác tại nước xuất khẩu chứng thực về giá cả và
tổng trị giá của lô hàng.
Một số nước quy định rằng lãnh sự có thể ký trực tiếp trên hóa đơn
thương mại. Một số nước khác lại quy định rằng hóa đơn lãnh sự phải được
lập trên những giấy in sẵn và phải được lãnh sự kiểm tra lại và thị thực.
Việc xuất trình hóa đơn lãnh sự cho cơ quan hải quan là bắt buộc ở
những nước mà thuế nhập khẩu được tính theo trị giá hàng (ad valorem
duty).
Page 134
5. Các giấy chứng nhận kiểm dịch và giấy chứng nhận vệ sinh
Là chứng từ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp cho chủ
hàng để xác nhận hàng hóa đã được an toàn về mặt dịch bệnh, sâu hại, nấm
độc...
Giấy chứng nhận kiểm dịch động vật (Vaterinary certificate) do cơ quan
thú y cấp khi hàng hóa là động vật (súc vật, cầm thú) hoặc có nguồn gốc động
vật (lông cừu lông thú, len, trứng v.v...) hoặc khi bao bì của chúng có nguồn
gốc động vật, đã được kiểm tra và xử lý chống các dịch bệnh.
Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật (Phytosanitaiy certificate), do cơ
quan bảo vệ thực vật cấp khi hàng hóa là thực vật, thảo mộc, hoặc có nguồn
gốc thực vật (hạt giống, bông, thuốc lá V.V...) đã được kiểm tra và xử lý
chống các dịch bệnh, nấm độc, cỏ dại là đối tượng kiểm dịch.
Trong các giấy chứng nhận kiểm dịch trên đây các cơ quan có thẩm
quyền xác nhận rằng ngoài việc đã kiểm tra và xử lý về dịch bệnh - đối tượng
kiểm dịch; chúng còn xuất phát từ vùng an toàn về dịch bệnh.
Giấy chứng nhận vệ sinh (Sanitary certificate) do cơ quan có thẩm
quyền về kiểm tra phẩm chất hàng hóa hoặc về y tế cấp cho chủ hàng, sau
khi đã kiểm tra hàng hóa (là thực phẩm, đồ uống, đồ hộp…) và thấy trong đó
không có vi trùng gây bệnh cho người dùng.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy trình bày các bước thực hiên hợp đồng xuất khẩu theo điều kiện
FOB và theo điều kiện FCA (hàng giao bằng container)?
2. Hãy trình bày các bước thực hiện hợp đồng nhập khẩu theo điều
kiện CIF (hàng giao bằng container)?
3. Hãy trình bày nội dung công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu để thực
hiện hợp đồng đã ký?
4. Hãy trình bày những chứng từ pháp lý ban đầu cần thu thập khi hàng
nhập khẩu bị tổn thất, hư hỏng, đổ vỡ, mất mát.
Page 135
5. Sau khi hàng xuất đã được kiểm nghiệm và đã qua thủ tục hải quan,
bạn còn cần phải làm những gì để có thể giao hàng lên tàu và lấy vận đơn?
6. Nếu tiền hàng được thanh toán bằng L/C thì trước và sau lúc giao
hàng doanh nghiệp cần phải làm thế nào để thực hiện đúng hợp đồng xuất
khẩu?
7. Hãy trình bày những trường hợp có thể khiếu nại người bán, người
vận tải, người bảo hiểm?
8. Hãy cho biết nội dung, hình thức và tác dụng của các loại hóa đơn
mà ta thường gặp trong giao dịch xuất nhập khẩu.
9. Khi thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu chúng ta thường gặp hoặc
thường phải làm những loại chứng từ nào?
10. Nếu hàng xuất trong container, bạn phải làm những gì để giao được
hàng?
11. Nếu hàng nhập đựng trong container, bạn nhận hàng thế nào?
BÀI TẬP
Bài tập 1. Chúng ta thỏa thuận mua 1000 tấn phân Urê từ CHLB Nga
theo giá FOB Vladivostok 160 USD/1 tấn, hàng giao quý IV, thanh toán bằng
L/C. Bạn hãy dự thảo hợp đồng nhập khẩu đó.
Bài tập 2. Trên cơ sở hợp đồng đã được lập ra theo dữ kiện của bài tập
1 trên đây, bạn hãy làm các thủ tục để mở L/C cho người bán được hưởng.
Bài tập 3. Nếu hàng ở bài tập 1 trên đây về đến cảng Hải Phòng, bạn
thấy 50 bao bị ướt và 50 bao bị thiếu. Bạn phải lấy những chứng từ gì để
chứng minh? Bạn hãy lập hồ sơ khiếu nại về hai tổn thất trên đây.
Chương 5. QUẢNG CÁO VÀ NHÃN HIỆU TRONG NGOẠI THƯƠNG
* KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA QUẢNG CÁO
Page 136
Quảng cáo là sự tuyên truyền giới thiệu về hàng hóa và dịch vụ nhằm
thu hút sự chú ý của những người có thể là người mua, gây sự thích thú đối
với hàng hóa và dịch vụ đó và cuối cùng làm cho họ trở thành khách hàng
thực tế của tổ chức kinh doanh hàng hóa và dịch vụ đó.
Tác dụng của quảng cáo đối với người mua có thể tóm tắt qua 4 pha
(phase) sau:
- A (gây chú ý: attention)
- I (gây thích thú: interest)
- D (gây ham muốn: desire)
- A (thúc đẩy hành động mua hàng: action)
Căn cứ vào mục đích của nó, người ta phân biệt các loại quảng cáo:
Quảng cáo ban đầu, quảng cáo cạnh tranh và quảng cáo củng cố.
- Quảng cáo ban đầu nhằm mục đích giới thiệu hàng hóa và dịch vụ,
chất lượng của nó, nguyên tắc sử dụng, địa điểm bán và địa điểm phục vụ
(nếu nói về dịch vụ) v.v... Loại quảng cáo này cần phải thuyết phục được
người tiêu thụ về sự cần thiết và lợi ích của việc mua hàng hóa hoặc sử dụng
dịch vụ được quảng cáo. Loại quảng cáo này còn có tên gọi là quảng cáo
thông tin (Informative advertising).
- Quảng cáo cạnh tranh (competitive advertising) có mục đích đề cao
hàng hóa hoặc dịch vụ được quảng cáo so với mặt hàng hoặc dịch vụ tương
tự do các hãng khác sản xuất, do đó thuyết phục người tiêu thụ mua những
hàng hóa hoặc dịch vụ được quảng cáo.
- Quảng cáo củng cố (persuasive advertising) có mục đích duy trì sự
thích thú của người tiêu thụ với hàng hóa hoặc dịch vụ được quảng cáo.
Căn cứ vào nội dung của nó, người ta phân biệt: Quảng cáo hàng hóa
và quảng cáo công ty. Quảng cáo hàng hóa nhằm giới thiệu, đề cao, tạo ra
nhu cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ được quảng cáo. Quảng cáo công ty nhằm
giới thiệu về tổ chức kinh doanh mặt hàng hoặc dịch vụ có liên quan, đề cao
Page 137
uy tín của tổ chức kinh doanh đó và thông qua đó, giới thiệu hàng hóa hoặc
dịch vụ và cách thức mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ.
Căn cứ vào địa điểm tiến hành quảng cáo, người ta chia ra các loại:
quảng cáo trong nước và quảng cáo xuất khẩu (còn gọi là quảng cáo ngoại
thương). Do đặc điểm của thị trường ngoài nước, quảng cáo xuất khẩu có nội
dung, phương hướng và hình thức khác với quảng cáo trong nươc.
Căn cứ vào đối tượng được quảng cáo, người ta chia ra: quảng cao
tiêu thụ và quảng cáo tiêu dùng. Quảng cáo tiêu thụ nhằm vào đối tượng là
người mua nói chung, những người này có thể mua hàng về tái chế, để lắp
ráp với hàng khác, để bán lại... Còn quảng cáo tiêu dùng nhằm vào các đối
tượng là những người sử dụng hàng hóa mua được vào việc thỏa mãn nhu
cầu của bản thân mình.
Mang bản chất XHCN, quảng cáo xuất khẩu của nước ta có mục đích
chủ yếu là thông báo hàng hóa, hướng dẫn tiêu dùng, giải thích giá trị của
hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Nó là một khâu nghiệp vụ kinh doanh ngoại
thương, vừa có tính khoa học vừa có tính chất nghệ thuật cao. Cả về hình
thức lẫn nội dung, nó phải xuất phát từ yêu cầu phục vụ những nhiệm vụ
chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
* NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC QUẢNG CÁO
Hình thức, phương tiện và phương pháp quảng cáo xuất khẩu là rất
phong phú. Có thể dùng lời lẽ bài bản thuyết minh, giới thiệu hay âm thanh,
màu sắc, có thể dùng các loại phương tiện như: báo chí, đài phát thanh, vô
tuyến truyền hình, phim ảnh, triển lãm... có thể dùng một trong những hình
thức và phương tiện đó, hoặc cũng có thể kết hợp các hình thức và phương
tiện quảng cáo đó, trực tiếp giao dịch với khách hàng để quảng cáo hay thông
qua một tổ chức trung gian, một nhân vật nổi tiếng để quảng cáo. Song dù
dưới hình thức nào, phương tiện gì, phương pháp quảng cáo nào thì nội dung
quảng cáo cũng chỉ tương tự như nhau.
Nội dung chủ yếu của quảng cáo cho một mặt hàng là:
Page 138
- Về phẩm chất, chất lượng hàng hóa: các thành phần hàng hóa; tỉ lệ
các chất (nếu hàng hóa là hóa chất, nguyên liệu...), thành phần các chất, tỉ lệ
các chất dinh dưỡng (nếu là thực phẩm), các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật (máy
móc thiết bị)...
- Về hiệu quả, công dụng hay lợi ích của việc dùng hàng hóa này;
- Về phương pháp sử dụng hàng hóa đó. Hướng dẫn phương pháp sử
dụng, bảo quản nó. Nói lên những lợi ích, tiện nghi, sự giản đơn, dễ dàng, dễ
điều khiển (nếu là máy) dễ bảo quản...
- Về đặc điểm của hàng, căn cứ vào yêu cầu thị hiếu khách hàng và
đặc điểm thị trường mà nhấn mạnh đặc điểm của hàng. Như khả năng nhiệt
đới hóa, khả năng sửa chữa, đồng bộ (máy móc thiết bị) thời hạn bảo hành.
- Về điều kiện mua bán và giá cả.
- Về địa điểm bán, hoặc nơi trưng bày, triển lãm.
- Về địa chỉ của đơn vị xuất nhập khẩu hoặc cơ quan đại diện cho đơn
vị đó.
- Cách thức gửi đơn đặt hàng.
Đó là những điểm cơ bản mà một quảng cáo cho một mặt hàng thường
nêu lên. Tùy theo mặt hàng và đặc điểm thị trường mà có thể thêm bớt điểm
này hay điểm khác. Nếu lấy ví dụ thực tế hoặc dẫn lời ca ngợi, lời nhận xét
của những khách hàng hay tổ chức, của nhân vật nổi tiếng để chứng minh
phẩm chất tốt của hàng hóa được quảng cáo thì quảng cáo càng có sức
thuyết phục.
* CÁC PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC QUẢNG CÁO
Tùy theo tình hình và đặc điểm cụ thể của từng mặt hàng, của từng thị
trường tiêu thụ và tùy theo khả năng quảng cáo của mình mà quyết định lựa
chọn hình thức phương tiện, phương pháp quảng cáo nào cho thích hợp nhất
hiệu quả nhất, nghĩa là chi phí quảng cáo ít tốn kém nhất mà số lượng người
có thể là người mua hàng nhận được tin quảng cáo đạt tới mức cao nhất.
Page 139
Mặt hàng xuất khẩu của ta trong những năm tới chủ yếu là hàng nông
sản (bao gồm cả nông sản chế biến) và hàng tiêu dùng (sản phẩm công
nghiệp nhẹ). Công tác quảng cáo của ta phải đặc biệt chú trọng cải tiến để
phù hợp với đặc điểm từng mặt hàng của từng thị trường tiêu thụ.
Người ta thường dùng các phương tiện chủ yếu sau để quảng cáo xuất
khẩu:
Đăng ảnh hàng hóa cùng với lời giới thiệu trên báo chí. Đây là hình
thức quảng cáo được áp dụng rộng rãi và thường đạt kết quả cao. Dùng báo
chí, tập san để quảng cáo người ta có thể thông báo tin tức một cách rộng rãi,
kịp thời và thường xuyên, có thể đăng đi đăng lại nhiều lần một mục quảng
cáo, chi phí quảng cáo bằng báo chí, tập san tương đối rẻ so với các phương
tiện quảng cáo khác.
Có rất nhiều loại báo chí, tập san phát hành trong phạm vi một nước.
Có báo chí, tập san phổ thông, phạm vi người đọc rộng, có báo chí tập san
chuyên ngành, phạm vi người đọc ít hơn nhưng có nhiều loại báo chí, tập san
được lưu hành và dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Do vậy phải tính toán
chọn đăng quảng cáo trên loại báo chí nào cho thích hợp và đạt được hiệu
quả cao.
Nói chung khi chọn đăng quảng cáo ở báo nào, tập san nào là phải căn
cứ vào những điều kiện chủ yếu sau:
a) Tính chất của tờ báo: tập san, báo chính trị hay báo kinh tế, phổ
thông hay chuyên ngành, chính sách đối ngoại của ta có cho phép sử dụng
báo và tập san đó không.
b) Phạm vi phát hành tờ báo: tập san phát hành rộng hẹp đến đâu, nó
có lưu hành ở khu vực mình định quảng cáo không.
c) Chi phí quảng cáo đắt hay rẻ: chi phí này phụ thuộc vào diện tích mà
quảng cáo chiếm chỗ và thời gian đăng quảng cáo. Giá quảng cáo cao hay
thấp khác nhau cũng còn tùy thuộc vào tính chất của báo, tập san, phụ thuộc
vào số lượng phát hành và tiêu thụ của tờ báo...
Page 140
2. Các loại ấn loát phẩm
Đó là bài giới thiệu, những tranh ảnh minh họa (nếu có), bao gồm cả
giấy rời lẫn sách hay bài quảng cáo gửi qua đường bưu điện cho các khách
hàng hoặc đại lý môi giới bán hàng ở nước ngoài. Hình thức quảng cáo này
rất phong phú. Nó bao gồm rất nhiều thể loại (catalô, bảng giá, tập sách nhỏ,
ảnh, bưu ảnh, lịch, thiếp chúc mừng nhân dịp ngày lễ...), trong đó catalô là
hình thức được áp dụng rộng rãi nhất để quảng cáo các mặt hàng máy móc
thiết bị.
Quảng cáo bằng các loại ấn loát phẩm có ưu điểm là nội dung quảng
cáo có thể khá tỉ mỉ, chi tiết, có thể gửi đúng đối tượng quảng cáo và liên hệ
trực tiếp với họ.
3. Quảng cáo ngoài trời
Đó là những tranh hay bảng sơn quảng cáo dọc đường ray trên quảng
trường, mái nhà, sân ga, trạm xe, hoặc ở nơi chuyên để quảng cáo hoặc dán
vào các phương tiện vận tải (trong hoặc ngoài toa tàu), hoặc dùng các loại
đèn điện có màu sắc khác nhau để quảng cáo trên các đường phố. Hoặc hiện
đại hơn là dùng máy bay nhả khói trắng viết thành chữ trên bầu trời. Đây là
hình thức quảng cáo được áp dụng rộng rãi ở các nước phát triển.
Hình thức quảng cáo này thích hợp với nhiều đối tượng, tuyên truyền
được rộng, chi phí quảng cáo rẻ. Hình thức này thích hợp hơn với mặt hàng
máy móc. Tất nhiên muốn sử dụng được các phương tiện này ở nước ngoài
thì phải được luật pháp nước ấy cho phép.
4. Tham gia tổ chức triển lãm, hội chợ quốc tế
Sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các nước là một tất yếu lịch
sử. Sự trao đổi hàng hóa giữa các nước là điều kiện không thể thiếu được.
Để mở rộng kinh doanh, phát triển sản xuất, tranh thủ thị trường, từ lâu các
nước đã tổ chức các cuộc triển lãm để trưng bày và quảng cáo hàng hóa của
mình một cách quy mô. Đồng thời đây cũng là nơi tụ họp, gặp gỡ các nhà
kinh doanh để đàm phán, ký kết hợp đồng.
Page 141
Người ta thường tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ, các cuộc trưng
bày hàng hóa để giới hiệu những thành tựu xây dựng kinh tế của nước mình
và qua đó họ hiểu biết thêm về khả năng xuất nhập khẩu của mình để tạo
điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán và ký kết các hiệp định, hợp đồng
trao đổi hàng hóa giữa các nước với nhau đạt kết quả tốt.
Việc gửi hàng trưng bày trong các cuộc hội chợ hoặc triển lãm quốc tế
hoặc chủ động tổ chức triển lãm, trưng bày hàng ở trong hoặc ngoài nước rõ
ràng là một hình thức tuyên truyền quảng cáo hàng hóa một cách hiện đại,
quy mô lớn và thường thu được kết quả tốt. Nó thu hút được sự chú ý của
nhiều người trong giới kinh doanh công thương nghiệp. Hình thức này rất
thích hợp đối với những mặt hàng khó biến chất - nhất là hàng máy móc thiết
bị... và để thu được kết quả tốt, việc chuẩn bị về mọi mặt để tham gia tổ chức
hội chợ, triển lãm phải hết sức tỉ mỉ, toàn diện và chu đáo.
Hiện nay có nhiều nước đã áp dụng hình thức hội chợ hoặc triển lãm
có tính chất chuyên đề (chuyên ngành) để quảng cáo các loại thiết bị máy
móc. Ngoài hình thức quảng cáo quy mô lớn và hiện đại trên, người ta còn
thường tổ chức phòng trưng bày, các tủ kính quảng cáo cho các mặt hàng
hoặc chuyên cho mặt hàng nào đó.
Hình thức quảng cáo bằng các cuộc hội chợ, triển lãm, các phòng trưng
bày... có ưu điểm là người ta có thể vận dụng một cách tổng hợp các ưu điểm
của các phương tiện quảng cáo khác (vừa dùng các loại quảng cáo in sẳn, lại
vừa thuyết minh trực tiếp, có thể vừa xem phim lại vừa xem thao diễn trực
tiếp, tiếp xúc trực tiếp với hàng và chủ hàng, đặt quan hệ buôn bán vừa trước
mắt lại vừa lâu dài...) Do đó hiệu quả quảng cáo khá cao.
Hiện nay hàng năm thế giới tổ chức nhiều hội chợ nổi tiếng như: Hội
chợ Lai-xích (Đức), hội chợ Pô-dơ-nan (Ba Lan), hội chợ An-giê v.v...
5. Phát thanh, vô tuyến truyền hình và điện ảnh
Phát thanh, vô tuyến truyền hình và điện ảnh là những phương tiện kỹ
thuật hiện đại đã được sử dụng vào việc quảng cao xuất khẩu. Qua đài phát
Page 142
thanh, vô tuyến truyền hình người ta có thể thông báo, giới thiệu hàng một
cách nhanh chóng, kịp thời, phạm vi quảng cáo rộng, đạt kết quả khá (nhất là
đối với những mặt hàng tiêu dùng của nhân dân).
Phim quảng cáo đại thể gồm 2 loại: một loại dùng để quảng cáo hàng
tiêu dùng, loại khác dùng để quảng cáo các hàng máy móc, thiết bị, nguyên
liệu... Loại thứ nhất chủ yếu dùng để chiếu trong các rạp chiếu bóng, chiếu
trên đài vô tuyên truyền hình, thường chiếu trước phim truyện và thời gian
chiếu rất ngắn. Loại thứ hai dùng để giới thiệu hàng với đại lý môi giới với
những đoàn đại biểu thương mại nước ngoài, chiếu trên vô tuyến truyền hình
hoặc ở các hội chợ, triển lãm, các phòng trưng bày hoặc gửi thẳng ra nước
ngoài. Những phim này thường dài, thời gian chiếu trên dưới nửa tiếng. Chi
phí quảng cáo theo các phương tiện này hiện nay còn đắt so với các phương
tiện khác. Ở một số nước dân tộc chủ nghĩa, mức sống của nhân dân lao
động còn thấp các phương tiện còn thiếu thì hình thức quảng cáo này ít mang
lại hiệu quả thích đáng.
6. Gửi tặng phẩm, quà biếu
Một phẩn rất nhỏ hàng xuất khẩu được dùng làm quà biếu tặng cho đối
tượng quảng cáo hoặc đại lý môi giới bán hàng cho mình. Những tặng phẩm
này là hàng tiêu dùng (hoặc một vài đơn vị máy móc) như là một ít chè hoặc
cà phê vải vóc, bút máy, sổ hoặc lịch, đài bán dẫn, máy thu thanh, ôtô, máy
cày... Những tặng phẩm này được gửi biếu trong những dịp thích hợp như
ngày lễ, ngày tết, hoặc nhân dịp có đoàn ngoại giao hoặc kinh tế đi thăm...
Trong những vật phẩm này hoặc đi kèm với những vật phẩm này có thể có
những bài giới thiệu, thuyết minh cho vật phẩm.
Trong những năm gần đây, các nước phát triển áp dụng hình thức này
rất nhiều. Đây là hình thức quảng cáo khá tinh vi và tế nhị. Nó có thể nhanh
chóng tranh thủ được tình cảm của người được quảng cáo để kích thích hoặc
mau chóng gây thói quen ưa dùng hàng của mình.
Vì vậy mặc dù phí tổn của hình thức quảng cáo này rất lớn đi chăng
nữa người ta vẫn sử dụng rộng rãi. Ngoài các phương tiện đó, đối với một số
Page 143
không ít hàng hóa mà bao bì và sản phẩm có ích được coi như là một tổ hợp
(diêm, thuốc lá, rượu chai, đồng hồ, máy ảnh, máy khâu, máy thu thanh máy
thu hình...) thì nhãn hiệu hàng hóa cùng với sự trang trí những lời giải thích
trên bao bì của chúng lại là sự quảng cáo của chính hàng hóa đó. Nhãn hiệu
và sự trình bay bên ngoài của bao bì đối với mặt hàng này có giá trị quảng
cáo rất lớn.
* TỔ CHỨC QUẢNG CÁO
Tiền đề phát triển của công tác tuyên truyền quảng cáo là hàng hóa
xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, kim ngạch xuất
khẩu ngày càng tăng thì càng đòi hỏi và càng tạo điều kiện cho công tác
tuyên truyền quảng cao phát tnển. Công tác quảng cáo tuyên truyền tiến hành
tốt thì lại càng thúc đẩy xuất khẩu, làm mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy nhanh
tốc độ và quy mô xuất khẩu. Chính vì thế mà cơ quan quảng cáo xuất khẩu
đều được thành lập ở các nước (và được coi như là cơ quan xuc tiến xuất
khẩu).
Ở các nước công nghiệp phát triển do cạnh tranh gay gắt nhằm tranh
giành thị trường và khách hàng để tiêu thụ, việc tổ chức quảng cáo xuất khẩu
lại càng trở nên cấp thiết đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu. Các hãng lớn,
nhất là các hãng tư bản độc quyền, đều tự đảm nhận lấy việc quảng cáo cho
hàng hóa của mình. Họ chiếm trong tay hoặc khống chế được các phương
tiện quảng cáo. Còn các nhà xuất khẩu khác hoặc là thuê đại lý quảng cáo
(phí đại lý thường từ 15% đến 20% giá trị quảng cáo) hoặc là ủy thác công tác
quảng cáo cho các đại lý bán hàng của mình ở nước ngoài (chi phí quảng cáo
thường chia đôi, mỗi bên chịu một nữa).
Các tổ chức ngoại thương cũng thường ủy thác cho các đại lý bán
hàng của mình ở nước tiêu thụ đứng ra quảng cáo và cũng thường thuê các
đại lý quảng cáo ở các nước ngoài tiến hành tuyên truyền cho hàng hóa của
mình. Cũng như các loại đại lý khác, đại lý quảng cáo xuất hiện nhan nhản
trong các nước phát triển. Vì vậy mõoi khi muốn thuê một đại lý quảng cáo
Page 144
cần phải điều tra nghiên cứu tỉ mỉ và thận trọng các tổ chức đại lý quảng cáo
ở nước đó và ký kết hợp đồng, kiểm tra thực hiện hợp đồng chặt chẽ.
Ở nước ta, chúng ta chưa có nhiều hàng để xuất khẩu, mặt hàng của
chúng ta chưa phong phú lắm. Tuy nhiên công tác tổ chức quảng cáo đang
trở nên cần thiết. Hiện nay nghiệp vụ quảng cáo của ta còn chưa ổn định. Tuy
vậy công tác quảng cáo xuất khẩu đã được hình thành và đã có phần phát
triển. Bước đầu ta đã có kinh nghiệm và đã chú ý đi sâu nghiên cứu nghiệp vụ
quảng cáo. Đó là những điều kiện tốt để chúng ta góp phần đẩy mạnh xuất
khẩu trong bước đi ban đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta hiện nay, các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và Phòng
Thương mại và Công nghiệp là cơ quan chủ yếu có trách nhiệm tiến hành
quảng cáo.
Nhiệm vụ của Phòng Thương mại và Công nghiệp gồm có:
- Nghiên cứu tình hình quảng cáo tại các thị trường nước ngoài, đề ra
phương hướng, kế hoạch quảng cáo hàng năm và giúp đỡ các đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu vạch ra kế hoạch quảng cáo.
- Theo dõi đôn đốc các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện kế
hoạch quảng cáo và sử dụng kinh phí quảng cáo.
- Phối hợp với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu để tiến hành các
loại quảng cáo cho thích hợp.
- Nghiên cứu các hình thức, phương pháp quảng cáo đối với từng mặt
hàng ở từng thị trường.
Kinh doanh dịch vụ quảng cáo là các công ty quảng cáo. Ví dụ: Công ty
Triển lãm và quảng cáo xuất nhập khẩu (Vinexad) có chức năng nhận làm
thuê cho các tổ chức trong nước về biên soạn, thiết kế, ấn loát, phát hành các
công cụ quảng cáo như catalogue, phim ảnh, pa-nô..., tổ chức triển lãm ở
nước ta và nước ngoài.
Page 145
Các khoản chi phí về quảng cáo đều do các tổng công ty (hoặc đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu) chịu trách nhiệm và hạch toán vào lỗ lãi kinh
doanh. Đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiệm vụ:
- Hàng năm đề ra kế hoạch quảng cáo và giành ngân quỹ kinh doanh
để làm quảng cáo.
- Đề ra yêu cầu phương hướng biên soạn (nếu không thuê Vinexad
biên soạn) nội dung quảng cáo.
- Phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp và/hoặc Vinexad để
thống nhất về phương pháp và hình thức quảng cáo.
- Thanh toán các khoản chi phí về quảng cáo của đơn vị mình.
* NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để nhận biết hạng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có
thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc.
1. Ý nghĩa và tác dụng của nhãn hiệu
Người sản xuất dùng nhãn hiệu để chỉ rõ hàng hóa đó do mình sản
xuất ra. Người sản xuất lớn, kinh doanh nghiêm chỉnh, dùng nhãn hiệu để giữ
uy tín, mở mang kinh doanh. Còn đối với những người tiêu dùng thì nhờ có
nhãn hiệu mà có thể phân biệt được các mặt hàng do các xí nghiệp khác
nhau sản xuất, có thể dễ dàng nhận rõ được những hàng mà chính mình ưa
thích, đã quen dùng và do đó lựa chọn và mua được những thứ hàng thích
hợp với yêu cầu của mình. Như vậy nhãn hiệu hàng hóa là điều kiện cần thiết
cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Trên thị trường, hàng hóa (sản
phẩm công nghiệp) nào không có nhãn hiệu thì coi như hàng hóa đó kém
phẩm chất.
Page 146
Nhờ vậy mà chất lượng hàng hóa thường được bảo đảm ở mức độ
nhất định và ngăn ngừa, hạn chế được sự làm giả hàng hóa. Ngoài ra, nhãn
hiệu còn góp phần quảng cáo cho chính hàng hóa đó nữa.
Ở nước ta, nhãn hiệu hàng hóa cùng với sự giữ vững và nâng cao
phẩm chất của hàng hóa ấy còn có nghĩa bảo vệ và phát triển uy tín của xí
nghiệp sản xuất, của tổng công ty kinh doanh xuất khẩu nói riêng và bảo vệ
phát triển uy tín của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung.
2. Nguyên tắc cấu tạo nhãn hiệu
Nhãn hiệu của một hàng hóa là tên gọi tượng trưng của hàng hóa đó.
Có bao nhiêu thứ loại hàng hóa thì có bấy nhiêu tên gọi. Cách sáng tác nhãn
hiệu cho một loại hàng hóa rất phong phú. Không thể kể hết được các loại
hình của các loại nhãn hiệu. Song điều đó không có nghĩa là cấu tạo của
nhãn hiệu là vô nguyên tắc.
Về cơ bản nhãn hiệu có thể hình thành bằng chữ, bằng hình vẽ hoặc
bằng cách phối hợp cả hình vẽ lẫn chữ với nhiễu màu sắc khác nhau. Dùng
những phương tiện này nhà xuất bản có thể tạo nên rất nhiều loại hình nhãn
hiệu khác nhau phù hợp với từng mặt hàng của từng đối tượng tiêu thụ. Theo
tập quán quốc tế, chúng ta không dùng các loại nhãn hiệu sau đây:
- Giống quốc kỳ, quốc huy hay quân kỳ của nước nào đó.
- Huy hiệu hay giống huy hiệu của một đoàn thể xã hội nào đó.
- Trùng hoặc giống hệt một nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc đã được
dùng.
- Chân dung của một người khác mà chưa được sự đồng ý của người
đó.
- Chân dung hay tên lãnh tụ.
- Dùng tên địa lý...
Ở nước ta theo Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa (ban hành bởi Nghị định
197/HĐBT ngày 14/2/1982 và bổ sung bởi Nghị định 84 HĐBT ngày
Page 147
20/3/1990), các dấu hiệu dưới đây không được chấp nhận là nhãn hiệu hàng
hóa:
a) Các dấu hiệu không có khả năng phân biệt như tập hợp các dạng
hình học đơn giản, các chữ số chữ cái hoặc những chữ không có khả năng
phát âm như một từ ngữ, trừ trường hợp đặc biệt các dấu hiệu này đã sử
dụng rộng rãi và được tín nhiệm từ trước.
b) Các dấu hiệu quy ước, các hình vẽ và tên gọi thông thường của
hàng hóa đã được sử dụng rộng rãi, mọi người đều biết.
c) Các dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất chủng
loại, chất lượng, số lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị... mamg
tính chất mô tả hàng hóa.
d) Các dấu hiệu làm hiểu sai lệch về xuất xứ, tính năng, công dụng của
hàng hóa hoặc các dấu hiệu có tính chất lừa đảo người tiêu dùng.
e) Các dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra,
dấu bảo hành... của các tổ chức trong hay ngoài nước.
f) Các dấu hiệu mang hình quốc kỳ, quốc huy, biểu tượng quốc gia, ảnh
lãnh tụ, ảnh anh hùng dân tộc, địa danh Việt Nam cũng như của nước ngoài;
các tên gọi, biểu tượng của các tổ chức quốc tế nếu không được các cơ quan
có thẩm quyền tương ứng cho phép.
g) Các dấu hiệu trái với pháp luật Nhà nước, trật tự và đạo đức xã hội
chủ nghĩa.
h) Các dấu hiệu giống hoặc tương tự với nhãn hiệu hàng hóa đã đăng
ký trước tại Việt Nam hoặc đã được bảo hộ theo một Hiệp ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia, cho cùng một loại hàng hóa.
3. Chế độ đăng ký nhãn hiệu
Hàng hóa phải có nhãn hiệu, đó là đòi hỏi của người bán, người tiêu
thụ lẫn người sản xuất đối với nhau. Ngày nay ít thấy hàng hóa sản phẩm
công nghiệp lại không có nhãn hiệu.
Page 148
Chế độ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa là sản phẩm của một nền sản xuất
hàng hóa (lớn). Nó gắn liền với quyền sở hữu công nghiệp, nó liên quan tới
việc giữ vững và nâng cao phẩm chất hàng hóa. Nó hạn chế khả năng làm
hàng giả, bán hàng kém phẩm chất.
Hiện nay, ở nhiều nước nhất là những nước công nghiệp phát triển,
đều đã có những cơ quan chuyên môn đăng ký nhãn hiệu. Người có nhãn
hiệu hàng mới muốn được quyền sở hữu và sử dụng nhãn hiệu đó phải làm
đơn xin đăng ký ở cơ quan này. Cơ quan đăng ký xét thấy đơn xin phù hợp
với luật lệ hiện hành và nếu thấy không có ai phản đối thì cơ quan đăng ký
chính thức phê chuẩn thừa nhận sự đăng ký và từ đó nhà sản xuất mới có
quyển sở hữu và sử dụng nhãn hiệu đó.
Chế độ đăng ký nhãn hiệu của các nước không hoàn toàn giống nhau,
nói chung có thể phân ra 3 loại:
- Được quyền hưởng nhãn hiệu do sử dụng trước nhất.
- Được quyền hưởng nhãn hiệu do đăng ký trước.
- Được quyền hưởng nhãn hiệu nếu sau khi đăng ký một thời gian
không có ai kháng nghị.
Trên thị trường thế giới nhãn hiệu hàng hóa cũng có giá trị đáng kể như
ở thị trường trong nước. Vì vậy năm 1883 nhiều nước đã ký ở Paris và năm
1891 lại ký ở Madrid công ước về đăng ký nhãn hiệu quốc tế mà thế giới gọi
là: "Công ước quốc tế bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp". Theo những Công
ước này thì một nhãn hiệu muốn được đăng ký ở các nước tham gia công
ước phải được đăng ký trước ở trong nước hội viên và khi đã đăng ký được ở
trong một nước hội viên thì chỉ cần thông báo cho các nước hội viên khác biết
là coi như đã được đăng ký ở tất cả các nước hội viên khác.
Ở nước ta ngày nay, Cục sáng chế phát minh thuộc ủy ban Khoa học
Kỹ thuật Nhà nước là cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ đăng ký nhãn
hiệu hàng hóa, sáng chế, bí quyết kỹ thuật. Phòng Thương mại và Công
nghiệp là một tổ chức giúp các nhà sáng chế Việt Nam đăng ký sáng chế
Page 149
nhãn hiệu của ta ở nước ngoài và giúp các nhà sáng chế nước ngoài đăng ký
sáng chế nhãn hiệu của họ ở Việt Nam.
Theo quy định hiện hành ở nước ta, muốn được bảo hộ pháp lý nhãn
hiệu hàng hóa, chủ của nó phải nộp hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu và các
khoản lệ phí đăng ký. Mỗi hồ sơ chỉ sử dụng cho một nhãn hiệu và phải kèm
theo danh mục các loại hàng hóa sẽ mang nhãn hiệu đó. Trong một tháng, kể
từ ngày nhận được hồ sơ, Cục sáng chế xem xét hồ sơ về mặt hình thức và
thủ tục. Trong phạm vi 6 tháng tính từ ngày công bố tính hợp lệ của hồ sơ,
Cục sáng chế ra quyết định cấp hoặc không cấp Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu.
Nhãn hiệu được bảo hộ thì được đăng ký trong sổ đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa quốc gia.
Nếu những nhãn hiệu hàng hóa tương tự gây nhầm lẫn hoặc giống
nhau do hai hay nhiều người nộp hồ sơ đăng ký cho cùng một loại hàng thì
quyền ưu tiên thuộc về người nộp hồ sơ sớm nhất và được xác nhận trên cơ
sở:
- Ngày Cục sáng chế nhận được hồ sơ đăng ký hoặc ngày gửi hồ sơ
qua bưu điện.
- Ngày nộp đầu tiên của một nước khác theo quy định của Hiệp ước mà
Việt Nam tham gia.
- Ngày trưng bày hiện vật có mang nhãn hiệu hàng hóa tại một cuộc
triển lãm chính thức ở Việt Nam, nếu hồ sơ xin đăng ký được nộp trong vòng
6 tháng kể từ ngày hiện vật được trưng bày tại triển lãm.
Chủ của nhãn hiệu có thể xin đăng ký ở nước ngoài sau khi đã nộp hồ
sơ xin đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam, nếu các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia không quy định một thể thức khác.
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực trong vòng 10 năm tính
từ ngày ưu tiên. Thời hạn này có thể kéo dài mỗi lần 10 năm nếu chủ của
Page 150
nhãn hiệu có đơn xin gia hạn trong vòng 6 tháng trước khi hết hạn giấy chứng
nhận.
Chủ nhãn hiệu có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc từng phân
quyền sử dụng nhãn hiệu với điều kiện người được chuyển nhượng phải đảm
bảo tính năng và chất lượng của hàng hóa mang nhãn hiệu đó.
Giấy chứng nhận bị đình chỉ hiệu lực khi:
- Chủ nhãn hiệu có đơn xin từ bỏ sự bảo hộ pháp lý nhãn hiệu.
- Chủ nhãn hiệu không còn tồn tại hoặc không tiếp tục hoạt động mà
không có người thừa kế.
- Chủ nhãn hiệu không sử dụng mà không chuyển nhượng cho người
khác trong thời hạn 5 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận.
Bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào sử dụng nhãn hiệu của người khác
mà không được phép, sử dụng những dấu hiệu giống hoặc tương tự có khả
năng làm cho người tiêu dùng lầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người
khác, cho các loại hàng đã được liệt kê trong danh mục đều được coi là vi
phạm độc quyền sử dụng của chủ nhãn hiệu. Chủ nhãn hiệu có quyền yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm quyền sử dụng
nhãn hiệu của mình.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Quảng cáo là gì? Quảng cáo hàng xuất khẩu nhằm những mục tiêu
gì?
2. Hãy trình bày phương châm của quảng cáo và sự vận dụng phương
châm đó vào việc quảng cáo hàng xuất khẩu của ta.
3. Hiệu quả của quảng cáo thể hiện ở chỗ nào? Hãy trình bày cách xác
định hiệu quả của quảng cáo hàng xuất khẩu.
4. Để quảng cáo hàng xuất khẩu, chúng ta có thể vận dụng những
phương tiện quảng cáo nào? Phương tiện này có những ưu khuyết điểm gì?
Page 151
5. Nhãn hiệu là gì? Nhãn hiệu có tác dụng gì? Cần phải chú ý những gì
khi thiết kế một nhãn hiệu cho hàng xuất khẩu?
6. Chế độ đăng ký nhãn hiệu nhằm mục đích gì? Hãy cho biết các hệ
thống đăng ký nhãn hiệu trên thế giới. Nội dung chủ yếu của Công ước Paris
về nhãn hiệu gồm những gì?
BÀI TẬP
Doanh nghiệp của bạn mới được thành lập, cần thuê một công ty
quảng cáo soạn thảo và in một tờ gấp (plier) để tuyên truyền về doanh nghiệp
của bạn. Bạn hãy cho biết những công việc phải làm và những nội dung chính
của hợp đồng mà bạn sẽ ký với công ty quảng cáo đó.
Chương 6. NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ
* KHÁI NIỆM VỀ THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ TÌNH HÌNH BUÔN BÁN THIẾT BỊ TOÀN BỘ
Trong buôn bán quốc tế, người ta thường hiểu thiết bị toàn bộ là một
tập hợp những máy móc và dụng cụ cần thiết cho việc thực hiện những quá
trình công nghệ nhất định. Trong nhiều trường hợp đó có thể chỉ là thiết bị
cho một dây chuyền sản xuất, chủ yếu bao gồm những thiết bị cơ bản có liên
quan đến công tác chính của dây chuyền này. Thường thường các tập hợp
và thiết bị dụng cụ nói trên hoặc thành những phân xưởng riêng hoặc thành
những bộ phận của một xí nghiệp đang được xây dựng hay đã được xây
dựng xong. Trong các trường hợp khác, tập hợp thiết bị và dụng cụ đó chẳng
những bao gồm các thiết bị công nghệ, mà còn bao gồm cả các thiết bị phụ
trợ. Đó là trường hợp bộ tập hợp thiết bị và dụng cụ được giao để xây dựng
cả một xí nghiệp, một công trình lớn, nhất là những xí nghiệp, những công
trình được xây dựng ở các nước kém phát triển. Ví dụ, khi xây dựng một nhà
máy hóa chất ở các nước đang phát triển thì ngoài các thiết bị trực tiếp dùng
cho việc sản xuất hóa chất, người ta còn phải nhập khẩu các thiết bị lò hơi,
Page 152
thiết bị động lực, thiết bị điện, phương tiện vận tải, những ống dẫn hơi, ống
dẫn nước và nhiều loại thiết bị khác nữa.
Trong cơ cấu xuất khẩu những năm gần đây của các nước tư bản phát
triển, máy móc thiết bị chiếm khoảng 30%, còn thiết bị toàn bộ chiếm khoảng
10 - 15% của khối lượng xuất khẩu về máy móc, thiết bị. Sự phát triển nhanh
chóng của ngành buôn bán này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sau:
Một là sự thành lập các quốc gia trẻ tuổi, vừa mới thoát khỏi chế độ
thực dân, đang xây dựng một nền kinh tế dân tộc độc lập. Họ cần nhập thiết
bị toàn bộ để phục vụ chủ trương công nghiệp hóa đất nước.
Hai là sự tiến bộ khoa học kỹ thuật nhanh chóng. Đặc biệt sự tiến bộ
khoa học kỹ thuật lại diễn ra trong điều kiện của quy luật phát triển không đều
của chủ nghĩa tư bản. Do đó, việc sản xuất những thiết bị tiên tiến hiện đại tập
trung vào một số nước. Các nước khác muốn có thiết bị đó thì cần phải nhập
khẩu.
Ba là, trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế gay gắt, sự thay đổi thiết bị, kể
cả thiết bị toàn bộ, diễn ra rất nhanh chóng. Các nước phải nhập khẩu thiết bị
toàn bộ để đổi mới trang thiết bị cho nền sản xuất nước mình.
* CÁC GIAI ĐOẠN NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ
Muốn xây dựng một công trình thiết bị toàn bộ, từ khâu nghiên cứu đến
khâu hoàn thiện công trình, người ta phải thực hiện sáu (6) giai đoạn sau:
1. Nghiên cứu khả thi (Feasibility study)
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là nghiên cứu một cách khái quát
các mặt kinh tế - kỹ thuật, xã hội của công trình để khẳng định khả năng có
thể đưa công trình vào sản xuất kinh doanh có lãi, có hiệu quả cao.
Mục tiêu đặt ra của giai đoạn nghiên cứu này là nắm vững nguồn
nguyên liệu của xí nghiệp, tình hình thị trường của sản phẩm, tình hình vốn
đầu tư (trong và ngoài nước), những vấn để môi trường, khả năng thu hồi
vốn.
Page 153
Kết quả nghiên cứu của giai đoạn này thể hiện trong bản "Luận chứng
kinh tế kỹ thuật" của công trình. Văn bản này còn có tên là "Bản nghiên cứu
khả thi".
2. Thiết kế kỹ thuật sơ bộ (Preliminary engineering)
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là tìm ra một dây chuyền sản xuất
công nghệ đảm bảo để vận hành, tiêu thụ một cách ít nhất nguyên liệu và
năng lượng cho một đơn vị sản phẩm, đồng thời đảm bảo không gây tiếng ồn
và ô nhiễm môi trường. Ngay trong giai đoạn này, người ta phải tính toán cân
nhắc kỹ mặt kinh tế của công trình.
3. Thiết kế kỹ thuật cơ bản (Basic engineenng)
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là tìm ra được các thông số kỹ thuật
của từng thiết bị cũng như của cả dây chuyền. Trên cơ sở đó chọn nhập khẩu
những thiết bị thích hợp với quy mô công trình, phù hợp với những yêu cầu
đặt ra từ giai đoạn trước. Tiếp theo, giai đoạn này còn phải thiết kế mặt bằng
của công trình, thiết kế hệ thống cấp thoát nước, thiết kế chống sét...
Giai đoạn này cũng phải khẳng định một lần nữa sự đảm bảo thu hồi
vốn của công trình.
4. Thiết kế kỹ thuật chi tiết (Detail engineering)
Đây là giai đoạn rất quan trọng, đảm bảo khi công trình hoàn thành thì
vận hành dễ dàng, bảo dưỡng đơn giản, ít tốn kém và đồng bộ.
Những tài liệu kỹ thuật nước ngoài cần phải được sao chép, sửa chữa
cho phù hợp với thực tế hoàn cảnh của địa phương.
Trong giai đoạn này, người ta phải tìm mọi biện pháp giải quyết những
điểm chưa ăn khớp giữa các công đoạn.
5. Cung cấp thiết bị và xây lắp công trình (Implementation)
Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng và khó khăn. Đại diện hai bên phải
thảo luận để phân công cung cấp thiết bị, việc cung cấp thiết bị phải thực hiện
đúng tiến độ thi công.
Page 154
Để giải quyết những vấn đề phức tạp thường xảy ra trên công trường,
người ta thành lập bộ phận hiện trường. Bộ phận này có nhiệm vụ bảo đảm:
hoàn thành thi công đúng thời gian quy định, chất lượng kỹ thuật tốt và vốn
sử dụng trong phạm vi đã được duyệt.
6. Chạy thử và đưa vào sản xuất (Commissioning and start-up)
Nhiệm vụ của giai đoạn này là kiểm tra từng máy, từng công đoạn sản
xuất, kiểm tra toàn bộ dây chuyền sản xuất bằng cách chạy thử không tải,
chạy thử có tải. Giai đoạn này là thời kỳ tốt nhất cho việc thực tập của cán bộ
công nhân vận hành dưới sự hướng dẫn kiểm tra của các chuyên gia của
hãng bán thiết bị và các chuyên gia đào tạo.
Cuối giai đoạn này, người ta tiến hành kiểm tra, kiểm kê và đánh giá
các thiết bị và dụng cụ đã được cung cấp. Các quy trình sản xuất cũng phải
được hoàn tất trong giai đoạn này.
* CÁC PHƯƠNG THỨC NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ
Trong khi nhập khẩu thiết bị toàn bộ, người ta có thể ký hợp đồng chỉ
mua một hoặc một số dịch vụ, hàng hóa kể trên đây (xem các giai đoạn nhập
khẩu thiết bị toàn bộ), ví dụ: hợp đồng chỉ thuê làm nghiên cứu khả thi, hợp
đồng mua thiết kế sơ bộ... Người ta cũng có thể ký hợp đồng mua bao
(package job) toàn bộ hoặc phần lớn các dịch vụ, hàng hóa kể trên. Cụ thể,
người nhập khẩu (người chủ công trình) có thể lựa chọn một trong bốn
phương thức sau:
1. Phương thức tự quản (in-house method), trong đó người chủ công
trình tự lập dự án, thiết kế, thi công và chỉ nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật
liệu.
2. Phương thức cổ truyền (conventional method), trong đó người chủ
công trình phải lựa chọn một đơn vị tư vấn chịu trách nhiệm lập dự án, khảo
sát, thiết kế và soạn các quy chế, giúp chủ công trình tổ chức đấu thầu và
giám sát việc thi công, xây lắp của nhà thầu.
Page 155
3. Phương thức quản lý dự án (Project Management Methed) trong đó
người chủ công trình thuê một công ty tư vấn thay mặt cho mình đứng ra giao
dịch với các đơn vị thiết kế đơn vị cung ứng thiết bị và đơn vị xây lắp. Công ty
tư vấn đứng ra giám sát, quản lý dự án với tư cách người làm thuê cho người
chủ công trình nhưng không phải là người tổng thâu xây dựng theo kiểu chìa
khóa trao tay dưới đây.
4. Phương thức chìa khóa trao tay (turn-key method), trong đó người
chủ công trình chỉ quan hệ với một đơn vị tổng thầu, đơn vị này chịu trách
nhiệm toàn bộ quá trình nhập khẩu và xây lắp hoàn chỉnh để giao cho người
chủ công trình chỉ việc vận hành.
Tùy theo mức độ dịch vụ mà người tổng thầu cung cấp, việc mua bán
"chìa khóa trao tay" có thể phân thành:
- Chìa khóa trao tay thuần túy (classical/light/full turn-key): Người bán
(người tổng thầu) có trách nhiệm chuyển thêm cho người mua (người chủ
công trình) một số hướng dẫn về vận hành.
- Chìa khóa kỹ thuật trao tay (Plus/heavy tum-key): Người bán giúp đỡ
người mua thêm về kỹ thuật nhưng không bảo đảm kết quả vận hành đạt sản
lượng và quy cách phẩm chất theo thiết kế.
- Sản phẩm trao tay (Product-in hand tum-key): Người bán chịu thêm
trách nhiệm đào tạo cho người mua một đội ngũ cán bộ công nhân đảm bảo
vận hành công trình đạt sản lượng, quy cách quy định.
- Thị trường trao tay (Market-in-hand tum-key): Người bán đảm nhận
thêm trách nhiệm giúp người mua trong hoạt động marketing, đào tạo đội ngũ
quản lý, kinh doanh...
Ngày nay, một số hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ lại còn được ký
kết theo phương thức "xây dựng + vận hành + chuyển giao" (tiếng Anh là:
Build + Operate + Transfer, viết tắt BOT). Đây cũng là một phương thức mới
ra đời, trong đó người bán thiết bị toàn bộ đảm nhận một số khá lớn công việc
của 6 giai đoạn kể trên kia.
Page 156
* HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ
Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ thường có các điều khoản như
sau:
- Đối tượng (hay mục đích) của hợp đồng
- Các định nghĩa
- Giá cả và trị giá của hợp đồng
- Điều kiện cơ sở giao hàng, các điều kiện giao nhận
- Thời hạn giao hàng
- Bao bì và ký mã hiệu
- Điều kiện thanh toán
- Kiểm tra và thử nghiệm
- Tài liệu kỹ thuật
- Bảo hành
- Vận hành và kiểm tra vận hành
- Giúp đỡ kỹ thuật
- Trường hợp bất khả kháng
- Phạt
- Hủy hợp đồng
- Khiếu nại và trọng tài
- Các quy định chung v.v...
Dưới đây chúng ta nghiên cứu một số điều khoản của hợp đồng này.
1. Đối tượng (hay mục đích) của hợp đồng
Trong điều khoản này, người ta thường quy định một cách đầy đủ, toàn
diện và bao quát về đối tượng mua bán và (khối lượng) nghĩa vụ mà người
bán phải thực hiện.
Page 157
Về đối tượng của hợp đồng, người ta có thể quy định rõ cả công suất,
mục đích xây dựng và địa điểm xây dựng thiết bị toàn bộ. Ví dụ đối tượng
hợp đồng được ghi trong một hợp đồng như sau: xây dựng một nhà máy
cung cấp nước uống ở Đà Lạt có công suất 20.000 m3/ngày 20 giờ.
Về khối lượng nghĩa vụ của người bán (tùy theo sự thỏa thuận của các
bên có liên quan) người ta có thể buộc người bán phải ghi rõ hoặc:
- Cung cấp thiết bị, vật liệu.
- Làm và giao các thiết kế (thiết kế sơ bộ, thiết kế kỹ thuật hay thiết kế
thi công).
- Cung cấp các dịch vụ kỹ thuật.
- Cung cấp phụ tùng thay thế.
Trong việc cung cấp thiết bị, vật liệu và phụ tùng, người bán thường
muốn dành quyền thay đổi quy cách. Người mua cần quy định rõ ràng sự thay
đổi đó phải trên cơ sở sự thỏa thuận bằng văn bản.
2. Các định nghĩa
Vì trong một hợp đồng mua bán thiết bị toàn bộ có nhiều thuật ngữ
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, muốn đảm bảo ngắn gọn mà vẫn chính xác,
tạo thuận lợi cho việc trao đổi thư từ và điện tín, người ta đề ra mục định
nghĩa nhằm giải thích mọi vấn đề cần thiết. Ví dụ, trong mục này người ta
định nghĩa rằng thuật ngữ "nhà máy" chỉ đối tượng của hợp đồng, thuật ngữ
"bên mua" chỉ Tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật,
thuật ngữ "người thầu phụ" chỉ một người thứ ba nào đó được bên bán thu
hút vào việc xây dựng công trình v.v...
3. Giá cả và trị giá của hợp đồng
Trong mục này, người ta quy định rõ: giá cố định hay giá di động, nếu
là giá di động thì nguồn tài liệu để tính toán lại giá đó như thế nào, đồng tiền
tính giá là đồng tiền nào v.v...
Page 158
Trong nhiều hợp đồng người ta còn quy định trị giá của một tấn trọng
lượng tịnh lý thuyết của từng nhóm hàng để trên cơ sở đó, các bên có thể tạm
thanh toán với nhau trong quá trình giao hàng.
4. Điều kiện cơ sở giao hàng
Tùy theo khả năng thuê tàu, các bên có thể quy định những điều kiện
cơ sở giao hàng khác nhau cho từng nhóm hàng khác nhau. Có khi thiết bị
được giao theo điều kiện FOB (cảng nước người bán) mà phụ tùng hoặc vật
liệu lại được giao theo điều kiện CIF (cảng nước người mua). Cũng có khi tất
cả đối tượng mua bán đều được giao theo một điều kiện cơ sở.
5. Thời hạn giao hàng
Thường thường việc giao hàng được thực hiện theo một tiến trình
(harmonogramme) nhất định. Tiến trình này được lập ra trên cơ sở lịch thi
công mà người mua và người bán đã thỏa thuận.
Thời hạn này bắt đầu được tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực, hoặc từ
ngày người mua hoàn thành một nghĩa vụ nhất định (ví dụ giao số liệu thiết
kế, gửi kết quả mẫu thí nghiệm, ứng tiền trước...).
6. Kiểm tra và thử nghiệm
Trong mục này, người ta thường quy định sự phân chia trách nhiệm về
việc kiểm tra và thử nghiệm, cơ quan tiến hành việc đó và địa điểm kiểm tra
cuối cùng.
7. Tài liệu kỷ thuật
Trong mục này, người ta thường quy định: tài liệu kỹ thuật gồm những
loại gì? bằng tiếng nước nào? được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ thuật
nào? việc xét duyệt thiết kế thực hiện theo trình tự nào?
Người mua thường yêu cầu quy định quyền của người mua được cử
cán bộ kỹ thuật tới theo dõi quá trình thiết kế và quy định trách nhiệm của
người bán về việc đảm bảo tính chính xác của thiết kế, cũng như các tài liệu
kỹ thuật khác.
Page 159
Người bán thường yêu cầu quy định việc giữ bí mật tài liệu và quyền sở
hữu về tài liệu.
8. Bảo hành
Việc bảo hành đối với thiết bị toàn bộ thường gồm 3 nội dung: bảo
hành chung, bảo đảm cơ khí và bảo đảm các chỉ tiêu thực hiện.
Trong việc bảo hành chung, người bán phải đảm bảo cung cấp thiết bị
và dịch vụ kỹ thuật để công trình đạt được các chỉ tiêu xác định về công suất
và chất lượng. Trong phần này, nhiều hợp đồng quy định rằng người bán phải
đảm bảo giao thiết bị mới sản xuất, thiết bị đã được nhiệt đới hóa, thiết bị đáp
ứng yêu cầu về kỹ thuật công nghệ hiện đại và giải quyết đầy đủ các vấn đề
thi công xây dựng.
Trong việc bảo đảm cơ khí, người bán thỏa thuận với người mua thời
hạn cụ thể cho việc bảo hành, ví dụ 18 tháng kể từ ngày ký biên bản nghiệm
thu công trình hoặc từ ngày đưa vào sản xuất.
Trong việc bảo đảm các chỉ tiêu thực hiện, cả người bán cùng với
người mua quy định rõ các chỉ tiêu chất lượng cần được bảo đảm như: công
suất, phẩm chất sản phẩm, mức tiêu hao nhiên liệu v.v...
9. Vận hành và kiểm tra thử
Sau khi xây dựng xong, đại diện của người mua và của người bán
thành lập một Ban nghiệm thu để kiểm tra từng bộ phận cũng như toàn bộ
công trình. Nó xem xét việc chạy thử từng máy, từng phân xưởng và toàn bộ
nhà máy để kiểm tra các thông số kỹ thuật. Việc cho chạy thử như vậy có thể
qua các giai đoạn:
+ Thử không tải (No-load test).
+ Thử có tải (Load test).
+ Thử quá tải (Over load test).
+ Thử các chỉ tiêu chất lượng (Performance test).
10. Giúp đỡ kỷ thuật
Page 160
Những quy định về giúp đỡ kỹ thuật có thể là một điều khoản, có thể là
một phụ lục hợp đồng hoặc là một hợp đồng riêng. Trong phần này, người ta
nêu rõ:
+ Khối lượng công việc và phạm vi giúp đỡ kỹ thuật. Ví dụ làm quy
hoạch, giám sát thiết kế, giám sát thi công, hướng dẫn vận hành...
+ Những yêu cầu về trình độ chuyên gia, số lượng chuyên gia, thời gian
công tác của họ.
+ Nhiệm vụ của các chuyên gia.
+ Quy định về chế độ làm việc tại công trường, chế độ ăn ở đi lại của
chuyên gia, chế độ lương bổng của họ.
+ Việc thay thế chuyên gia.
+ v.v...
11. Phạt
Trong các hợp đồng mua bán thiết bị toàn bộ, người ta thường quy định
nhiều loại phạt như phạt vì chậm giao hàng, phạt vì hàng giao không đồng bộ,
phạt vì thiết bị không đạt các chỉ tiêu công suất hoặc chất lượng sản phẩm
không đạt yêu cầu...
Trong nhiều trường hợp, hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ lại gắn
liền với hợp đồng mua bán công nghệ (xin xem chương VII sau đây). Vì vậy
khi nghiên cứu hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, chúng ta phải đồng thời
nghiên cứu cả hợp đồng mua bán công nghệ.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Thiết bị toàn bộ là gì? Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ có ý nghĩa đặc
biệt gì trong quan hệ giữa người bán với người mua?
2 Tại sao trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai tỷ trọng
buôn bán thiết bị toàn bộ lại tăng lên trong buôn bán quốc tế?
Page 161
3. Muốn nhập khẩu thiết bị toàn bộ, chúng ta phải thực hiện những
bước nào?
4. Bạn hãy so sánh ưu điểm và nhược điểm của các phương thức nhập
khẩu tự quản, nhập khẩu cổ truyền, nhập khẩu bằng quản lý dự án và nhập
khẩu chìa khóa trao tay.
5. Bạn hãy so sánh việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nhiều hợp
đồng và bằng một hợp đồng. Cách nào tốt hơn?
BÀI TẬP
Bạn hãy dự thảo các điều khoản sau đây của hợp đồng nhập khẩu một
dây chuyền ép dầu lạc theo thiết kế do người bán đưa ra: bảo hành, giúp đỡ
kỹ thuật, kiểm tra và thử nghiệm.
Chương 7. NGHIỆP VỤ MUA BÁN CÔNG NGHỆ
* CÔNG NGHỆ VÀ MUA BÁN CÔNG NGHỆ
1. Khái niệm
Trước đây trên thị trường quốc tế, người ta đã quen dùng khái niệm kỹ
thuật (technique) với ý nghĩa là công cụ, giải pháp, kiến thức được sử dụng
trong sản xuất, tiếp dó, khái niệm công nghệ (technologie) xuất hiện với ý
nghĩa ban đầu còn rất hẹp, chỉ là tuần tự các giải pháp kỹ thuật trong một dây
chuyền sản xuất. Từ những năm 60 trở lại đây, việc mua ban công nghệ đã
trở thành một hoạt động sôi nổi trong giới kinh doanh của thế giới. Do đó ý
nghĩa của khái niệm công nghệ được mở rộng và hoạt động công nghệ được
luật pháp quốc tế xem là một đối tượng điều chỉnh. Từ đó, đã ra đời nhiều
định nghĩa về công nghệ. Định nghĩa của ESCAP được nhiều người chấp
nhận, theo đó: Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế
biến vật chất hoặc thông tin.
Với quan niệm như thế, người ta phân chia công nghệ gồm "phần
cứng" như máy móc, thiết bị và "phân mềm" gồm kỹ năng, kiến thức, phương
Page 162
pháp, bí quyết... Vì vậy, sẽ là sai lầm những ai hiểu việc mua bán công nghệ
đồng nhất với việc mua bán thiết bị (thiết bị lẻ và thiết bị toàn bộ). Thật ra,
mua bán công nghệ bao gồm việc mua bán cả bốn yếu tố: trang thiết bị
(Technoware); kỹ năng (Humanware); thông tin (Inforware) và tổ chức
(Organware).
Qua kinh nghiệm thực tế của mình UNCTAD đã đưa ra mấy loại hoạt
động thuộc phạm trù công nghệ như sau:
1. Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư.
2. Thu thập thông tin về một số kỹ thuật sẵn có.
3. Thiết kế kỹ thuật.
4. Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị.
5. Phát triển công nghệ sản xuất tức là các tri thức về bản thân quá
trình sản xuất.
Ngoài ta, theo UNCTAD, cũng có thể xếp vào phạm trù công nghệ
những yếu tố sau:
1. Tri thức về quản lý và vận hành các phương tiện sản xuất.
2. Thông tin thị trường.
3. Năng lực cải tiến tại chỗ để nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
Theo "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam"
do Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành tháng
12/1988 thì hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm:
1. Chuyển giao quyền sở hữu hoặc sử dụng sáng chế, giải pháp hữu
ích hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
2. Chuyển giao các bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn dưới
dạng phương án công nghệ, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật có
hoặc không kèm theo thiết bị.
Page 163
3. Cung cấp các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ công nghệ, kể cả đào tạo và
thông tin.
Như vậy, ta có thể xác định công nghệ là những kiến thức về quá trình
chế biến vật chất (hoặc thông tin), kiến thức ấy hàm chứa trong những thông
tin, trong các phương tiện, thiết bị và con người tham gia vào quá trình chế
biến vật chất (thông tin) đó.
Để có công nghệ, người ta có thể thực hiện một trong hai cách:
a) Tự tiến hành nghiên cứu khoa học.
b) Mua của nước ngoài (nhập khẩu) thông qua các hợp đồng chuyển
giao công nghệ.
Như vậy, thuật ngữ "chuyển giao công nghệ" là một từ chung để chỉ
"việc mua bán công nghệ".
Theo UNCTAD việc mua bán công nghệ được thưc hiện thông qua ba
phương thức cơ bản:
- Mua bán không kèm li-xăng.
- Mua bán có kèm li-xăng.
- Bán công nghệ kèm đầu tư tư bản.
2. Nội dung hợp đồng mua bán công nghệ
Theo pháp lệnh: "Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt
Nam", hợp đồng mua bán công nghệ phải bao gồm các điều khoản chính sau
đây:
1. Đối tượng chuyển giao công nghệ: tên, nội dung, đặc điểm công
nghệ và kết quả đạt được.
2. Giá cả, điều kiện và phương thức thanh toán.
3. Địa điểm, thời hạn và tiến độ chuyển giao.
4. Điều khoản liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
5. Thời hạn hiệu lực, điều kiện sửa đổi và kết thúc hợp đồng.
Page 164
6. Cam kết của hai bên về chất lượng và độ tin cậy, bảo bành, phạm vi
bí mật của công nghệ và các cam kết khác để bảo đảm không có những sai
sót trong công nghệ và chuyển giao công nghệ.
7. Việc đào tạo liên quan đến chuyển giao công nghệ.
8. Thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng
chuyển giao công nghệ; luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp.
3. Phê duyệt của Nhà nước đối với hợp đồng mua bán công nghệ
Sau khi ký kết hợp đồng, đương sự Việt Nam phải lập hồ sơ xin chuẩn
y hợp đồng. Hồ sơ này bao gồm:
- Đơn xin chuẩn y hợp đồng.
- Hợp đồng chuyển giao công nghệ và các phụ lục kèm theo.
- Bản giải trình về mục tiêu và khả năng thực hiện của công nghệ được
chuyển giao.
- Những thông tin liên quan đến tư cách pháp lý của các bên tham gia
hợp đồng.
Hợp đồng và những văn bản kèm theo phải làm bằng tiếng Việt Nam và
tiếng nước ngoài thông dụng. Văn bản tiếng Việt Nam và văn bản tiếng nước
ngoài thông dụng đó đều có giá trị ngang nhau.
Hồ sơ trên đây phải được chuyển giao đến cơ quan quản lí khoa học
các cấp (ủy ban khoa học kỹ thuật Nhà nước hoặc ủy ban Khoa học kỹ thuật
cấp tỉnh, thành phố).
* MUA BÁN SÁNG CHẾ (MUA BÁN LI-XĂNG)
1. Khái niệm về mua bán sáng chế
Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, đối tượng của đại đa số các
hợp đồng mua bán là sáng chế và bí quyết kỹ thuật.
Page 165
Sáng chế là một giải pháp sáng tạo hữu ích có tính chất hoàn toàn mới,
có khả năng áp dụng để giải quyết nhiệm vụ nào đó trong lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, y tế hoặc quốc phòng.
Bí quyết kỹ thuật là những kinh nghiệm hoặc kiến thức kỹ thuật để sản
xuất những sản phẩm nhất định hoặc để áp dụng một quy trình công nghệ
nào đó một cách tốt nhất, hoặc để nâng cao chất lượng một sản phẩm kỹ
thuật nào đó mà, nếu không có kinh nghiệm và kiến thức này thì không thể
sản xuất được sản phẩm, hoặc không thể tiến hành việc sản xuất một cách
chính xác và có hiệu quả kinh tế như thế.
Người có sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật, hay người thừa kế hợp pháp
của người này, có thể được một cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận về đặc quyền đối với sáng tạo kỹ thuật của mình, giấy chứng
nhận đó là bằng sáng chế còn gọi là patăng (patent).
Người chủ của sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật có thể tự mình khai
thác sáng tạo kỹ thuật của mình, cũng có thể bán hoặc chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ quyền lợi của mình cho một người khác. Nếu người chủ
của sáng tạo kỹ thuật đem bán hoặc chuyển nhượng toàn bộ quyền lợi của
mình, do bằng sáng chế đem lại, thì đó là bán bằng sáng chế. Nếu người này
bán hay chuyển nhượng một phần quyền lợi về sáng chế hoặc bí quyết kỹ
thuật thì người này cấp cho người mua một văn bản gọi là giấy phép dùng
sáng chế (tức li-xăng - license). Hợp đồng ký kết về việc này gọi là hợp đồng
mua bán sáng chế (còn gọi là hợp đồng mua bán li-xăng).
Trong buôn bán quốc tế, có một số loại hợp đồng mua bán sáng chế:
hợp đồng về li-xăng giản đơn, hợp đồng về li-xăng toàn quyền và hợp đồng
về li-xăng đặc quyền.
Theo hợp đồng về li-xăng giản đơn người bán sáng chế vẫn giữ quyền
sử dụng sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bản thân mình và vẫn có quyền
cấp những giấy phép tương tự cho các người khác.
Page 166
Theo hợp đồng về li-xăng đặc quyền, người bán sáng chế trao cho
người mua quyền sử dụng đặc biệt đối với sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật
trong một phạm vi đã được quy định trong hợp đồng. Người bán bị mất quyền
cấp những giấy phép tương tự cho người khác và mất quyền sử dụng sáng
chế đó trên lãnh thổ đã quy định.
Khi mua bán theo hợp đồng về li-xăng đặc quyền, người ta vẫn thường
hạn chế những quyền được trao cho bên mua bằng những điều khoản như:
quy định về thời hạn hiệu lực của giấy phép; quy định lãnh thổ có hiệu lực của
giấy phép; quy định về số lượng hoặc thể loại hoặc quy cách của sản phẩm
được sản xuất theo sáng chế hay bí quyết kỹ thuật đó.
Theo hợp đồng về li-xăng toàn quyền, người bán sáng chế chuyển cho
người mua toàn bộ quyền lợi của mình về sáng tạo kỹ thuật trong suốt thời
hạn hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên người bán li-xăng vẫn có quyền sở
hữu đối với sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật và có thể hủy bỏ hợp đồng khi đủ
điều kiện, cũng như có thể chấm dứt hợp đồng khi hết thời hạn hiệu lực của
hợp đồng.
Người mua sáng chế, trong phạm vi quyền hạn của mình, có thể bán lại
sáng chế cho một người thứ ba... Hợp đồng mua bán sáng chế, trong trường
hợp này, là hợp đồng vẽ li-xăng phụ thuộc (sub-license).
Để tiện trình bày, trong nhiều trường hợp của bài này, chúng tôi dùng
chung chữ "sáng chế" để chỉ chung cho sáng chế và bí quyết kỹ thuật.
2. Trị giá của sáng chế và những nhân tố ảnh hưởng đến nó
Trong việc mua bán sáng chế và những bí quyết kỹ thuật, công tác
phức tạp nhất là công tác xác định trị giá của li-xăng. Cơ sở của việc tính toán
trị giá của li-xăng là việc xác định khoản lãi mà người mua sáng chế sẽ thu
được do việc sử dụng sáng chế. Một bộ phận của khoản lãi này trở thành thù
lao cho người bán sáng chế. Do đó mức thù lao được bên mua sáng chế và
bên bán sáng chế xác định căn cứ vào loại hợp đồng mua bán sáng chế và
căn cứ vào nhiều yếu tố khác nữa. Trong số các nhân tố này trước hết phải
Page 167
kể đến mức độ gia công của đối tượng trong li-xăng, trình độ hoàn bị về kỹ
thuật để ứng dụng sáng chế trong công nghiệp. Thường thường người ta
phân biệt ra ba mức độ gia công của một sáng chế: ý đồ sáng chế; sáng chế
đã xin cấp bằng nhưng chưa sử dụng và sáng chế đã ứng dụng trong công
nghiệp.
Ý đồ sáng chế có giá trị thấp nhất bởi vì nó đòi hỏi còn phải chi phí
nhiều để kiểm tra lại tính hữu ích của nó trong thực tế ứng dụng và để tiếp tục
nghiên cứu đến nơi đến chốn.
Một sáng chế đã xin cấp bằng nhưng chưa được áp dụng trong công
nghiệp thường có giá trị cao hơn ý đồ sáng chế ở chỗ nó đã được pháp luật
bảo vệ. Khi bán li-xăng về loại sáng chế này, người bán sẽ mất đi hoàn toàn
hoặc một phần kiểm soát đối với sáng chế, nhưng người mua chịu mọi rủi ro
trong việc bảo vệ những quyền lợi do bằng sáng chế đem lại và trong việc
cung cấp tín dụng để tổ chức sản xuất.
Đối với một sáng chế đã được ứng dụng trong công nghiệp và đã được
bảo vệ về pháp lý thì mức thù lao về sáng chế phụ thuộc vào khối lượng và
tính chất của quyền lợi được chuyển cho người mua, vào tình hình thị trường,
dung lượng thị trường và một số nhân tố khác.
Vì mức tiền thù lao về li-xăng phụ thuộc vào khối lượng và tính chất của
quyền lợi chuyển cho bên mua, cho nên khi bán li-xăng đặc quyền, bên bán
sáng chế thường giành được trong khoản lãi của người mua sáng chế gấp 2 -
3 lần so với bán li-xăng giản đơn. Có khi thu thập của bên bán tới 50% khoản
lãi của bên mua. Thường thường, khi bán li-xăng giản đơn, phần thu nhập
của bên bán không quá 1/3 mức lãi của bên mua.
Phần của người bán trong khoản lãi còn phụ thuộc vào sự phân chia
trách nhiệm và chi phí bảo vệ quyền lợi về pa-tăng một khi có sự vi phạm của
kẻ khác, giữa bên mua với bên bán, bên nào chịu những chi phí đó thì có
quyền đòi hỏi phần cao hơn trong mức lãi về việc sử dụng sáng chế.
Page 168
Trị giá li-xăng của sáng chế đã được cấp bằng bao giờ cũng cao hơn trị
giá li-xăng của sáng chế chưa được cấp bằng. Cả khối lượng giúp đỡ kỹ
thuật mà bên sáng chế giành cho bên mua cũng ảnh hưởng đến mức tiền thù
lao về li-xăng. Nếu sản phẩm được chế tạo theo sáng chế lại có dung lượng
thị trường tiêu thụ càng cao thì bên sáng chế có thể đòi chi phần lãi về li-xăng
sáng chế ít đi; nhưng để bù lại trong trường hợp này, bên sáng chế lại lấy thù
lao bằng cách đòi mức % trích nộp từ giá trị sản lượng của hàng hóa, gọi tiền
kỳ vụ (royalty). Đó chính là lý do tại sao có hiện tượng mức tiền trả theo hợp
đồng mua bán li-xăng về hàng tiêu dùng lại thấp hơn mức trả theo hợp đồng
mua bán sáng chế về công cụ sản xuất.
Phần lãi do sử dụng li-xăng đem lại còn chịu ảnh hưởng của thời hạn
hiệu lực của li-xăng đó. Thời gian này càng dài thì mức lãi càng thấp, bởi vì
trong thời gian này có thể sẽ xuất hiện những sáng chế mới trong lĩnh vực có
liên quan, do đó rủi ro về sự hao mòn vô hình của đối tượng của li-xăng sẽ
tăng lên.
Nếu trên thị trường mua bán sáng chế lại xuất hiện những người cạnh
tranh, với những bằng sáng chế tương tự, thì mức tiền thù lao về li-xăng càng
giảm mạnh.
Mức thuế đánh vào tiền lãi và tiền thù lao li-xăng cũng có ảnh hưởng
lớn đến giá trị của sáng chế.
Trên thực tế, việc xét đến tất cả những nhân tố ảnh hưởng đến tiền thù
lao li-xăng là một việc rất phức tap. Nhưng trong khi tính toán, cần phải đánh
giá một cách tương đối chính xác từng yếu tố một để có thể thấy được trị giá
đúng đắn của sáng chế.
Để tính toán trị giá của li-xăng người ta thường dùng những số liệu cơ
sở sau đây: chi phí tổ chức sản xuất theo sáng chế trong điều kiện của nước
người mua lợi ích kinh tế của người mua (tức là khoản thu do sáng chế đem
lại) khi sử dụng li-xăng đã mua; giá xí nghiệp hoặc giá bán buôn sản phẩm do
sáng chế đó làm ra; giá bán lẻ (nếu tiền thù lao li-xăng lại tính theo giá bán
Page 169
lẻ); lượng sản xuất, tiêu thụ vể sản phẩm chế tạo theo li-xăng ở tại lãnh thổ
mà, theo hợp đồng người mua được độc quyền v.v...
Để làm thí dụ, chúng ta hãy xem xét bảng tính toán trị giá của li-xăng kỹ
thuật sản xuất ben-zôn bằng cách tổng hợp trong điều kiện của nước Anh
trong một năm, tính bằng xu Anh (pence) đối với một cân Anh (pound -
453,59 gam).
Phương pháp tổng hợp cổ điển
Quy trình tổng hợp trực tiếp
1. Trị giá nguyên liệu
- Ben-xôn
- Axit sunphuaric
- Anhydrit sunphuarơ
- Xut côtxtic
4.88
1.88
…
2,92
4,90
1,60
0,80
4,04
Cộng
Trị giá của phản ứng hữu ích
(sunphat natri)
9,60
3,81
10,84
5,98
Cộng 5,79 4,86
2. Khấu hao - tính trong 10 năm.
Sửa chữa, kiểm tra kỹ thuật
3,35
1,20
2,85
1,00
3. Tiền lương công nhân (tính
06,5 xu Anh/một giờ)
0,36 0,24
4. Nhiên liệu, điện năng 1,25 0,75
5. Chi phí quản lý hành chính
thuế, bảo hiểm v.v...
1,00 1,00
Tổng hợp giá thành 12,95 10,70
Với giá trị bán buôn ben-zôn 14 xu Anh/1 cân Anh, lợi nhuận của nhà
kinh doanh khi áp dụng phương pháp cũ là (14 - 12,95 =) 1,05 xu Anh, và khi
Page 170
áp dụng sáng chế là (14 - 10,70 =) 3,30 xu Anh tính trên 1 cân Anh. Như vậy,
hiệu quả kinh tế của việc áp dụng sáng chế là:
3,30 - 1,05 = 2,25 xu Anh/1 cân Anh.
Với công suất của nhà máy là 7,5 nghìn tấn dài (2240 cân Anh), hiệu
quả kinh tế hàng năm là:
(2,25 X 7500 X 2240)/100= 378.000 Bảng Anh
Theo điều kiện thời hạn hiệu lực 10 năm của hợp đồng mua bán li-xăng
hiệu quả kinh tế đạt được là 1.564.900 bảng Anh.
Trong thực tiễn buôn bán quốc tế, khi bán li-xăng đặc quyền, người bán
thường lấy 20 - 35% hiệu quả kinh tế thu được. Trong trường hợp đó, nếu
người bán sáng chế lấy 30% hiệu quả kinh tế, trị giá của li-xăng đặc quyền là:
378.000 X 30% = 113.400 bảng Anh.
3. Nội dung của hợp đồng mua bán li-xăng
Nội dung của hợp đồng mua bán li-xăng là những sự thỏa thuận tiến tới
xác lập quan hệ khoa học kỹ thuật nhằm ứng dụng những sáng chế và bí
quyết kỹ thuật và đưa chúng vào sản xuất. Cùng với mối quan hệ đó, những
quan hệ về tài chính, về sản xuất, về tiêu thụ sản phẩm, về quản lý xí
nghiệp... cũng nảy sinh giữa bên bán và bên mua.
Từ thực tiễn buôn bán đã ra đời nhiều loại hợp đồng mẫu về mua bán
sáng chế. Những hợp đồng mẫu này do nhiều tổ chức quốc gia và quốc tế
thảo ra như các tổ chức Liên hiệp quốc, các hãng công nghiệp, các hiệp hội...
Nội dung của hợp đồng mua bán li-xăng có thể bao gồm những điều
khoản cơ bản sau đây:
a) Các bên trong hợp đồng: hợp đồng mua bán li-xăng bao giờ cũng
bắt đầu bằng việc chỉ rõ chủ thể của hợp đồng, tên của hai bên, tư cách pháp
lý và địa chỉ của họ.
b) Điều khoản chung: trong điều khoản chung người ta ghi rõ số hiệu
và ngày tháng cấp bằng sáng chế là cơ sở của hợp đồng, đồng thời quy định
Page 171
quyền sở hữu của bên bán với bằng sáng chế và ý định của bên mua sử
dụng những quyền hạn xuất phát từ giấy phép dùng sáng chế đã được thỏa
thuận. Nếu hợp đồng dựa trên cơ sở một bí mật sản xuất thì trong điều khoản
chung, người ta thường nhấn mạnh quyền sở hữu của bên bán đối với bí mật
đó. Nếu sáng chế mới chỉ được đăng ký xin cấp bằng, người ta cũng ghi rõ số
hiệu và ngày tháng của đơn vị xin cấp bằng hoặc tờ biên nhận đơn xin cấp
bằng.
c) Đối tượng của hợp đồng mua bán li-xăng.
Đối tượng của hợp đồng mua bán li-xăng là: sáng chế đã được cấp
bằng, hoặc quy trình công nghệ, hoặc bí quyết kỹ thuật, hoặc hình mẫu công
nghiệp, hoặc nhãn hiệu hàng hóa.
Đối tượng quan trọng nhất của hợp đồng mua bán li-xăng là sáng chế
đã được cấp bằng. Trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng bên mua phải
thừa nhận và bảo vệ các quyền của bên bán xuất phát từ bằng sáng chế đó.
Để loại trừ khả năng bên mua sử dụng sáng chế vào những mục đích chưa
lường trước được, đồng thời để xác định chính xác giới hạn trách nhiệm của
mình với hiệu quả kỹ thuật của sáng chế, bên bán thường mô tả rất chi tiết
sáng chế và quy định rõ việc bảo đảm những đặc tính kỹ thuật nhất định.
Khi bán sáng chế hoặc quy trình công nghệ kèm với những thiết bị
phức tạp, người ta còn quy định cả việc truyền đạt bí quyết kỹ thuật như là
một đối tượng của hợp đồng.
Khi đối tượng của hợp đồng bao gồm bí quyết kỹ thuật, người ta quy
định rõ những điều kiện truyền đạt bí quyết này, nhằm tránh việc lợi dụng
không thích đáng của bên mua. Cụ thể, người ta có thể quy định: các bí quyết
kỹ thuật được thừa nhận thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của bên bán trong
suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng cũng như sau khi hết thời hạn dó.
Điều khoản này của hợp đồng còn quy định việc giữ bí mật hoàn toàn
đối với các tài liệu được giao và cách thức truyền đạt các tài liệu đó cho công
nhân của bên mua.
Page 172
Đối tượng của hợp đồng còn có thể là nhãn hiệu hàng hóa. Thường
thường, bên sáng chế được hưởng quyển sử dụng nhãn hiệu đó cùng với
quyển sử dụng sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật. Nhưng nhãn hiệu hàng hóa
cũng có thể là đối tượng của một hợp đồng độc lập.
Hiện nay, những loại hợp đồng tiêu biểu nhất là những hợp đồng cho
bên mua được phép sử dụng sáng chế đã được cấp bằng hoặc quy trình
công nghệ cùng với những kiến thức kỹ thuật, bí quyết kỹ thuật và cả nhãn
hiệu hàng hóa.
d) Loại li-xăng được thỏa thuận:
Một điều khoản quan trọng của hợp đồng là điều khoản quy định loại li-
xăng được thỏa thuận: đó là li-xăng đơn giản, li-xăng đặc quyền hay li-xăng
toàn quyền.
Khi lựa chọn loại li-xăng, người ta thường căn cứ vào đặc điểm của
sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật được ký kết và vào dung lượng thị trường
của nước hay lãnh thổ có hiệu lực của li-xăng. Chẳng hạn, đối với thị trường
mà dung lượng không lớn lắm thì người bán nên cấp li-xăng đặc quyền, bởi vì
những người mua li-xăng giản đơn có thể có sự cạnh tranh không cần thiết
với nhau trên thị trường của nước có hiệu lực cuối cùng có thể làm giảm giá
sản phẩm và ảnh hưởng đến số tiền thù lao về li-xăng dùng sáng chế.
e) Các điều kiện thanh toán:
Tiền thù lao sáng chế được thanh toán theo nhiều hình thức khác nhau.
Tùy theo cách tính toán, tiền thù lao có thể chia làm:
1) Tiền trả kỳ vụ (Royalty): được quy định bằng mức % cố định mà bên
mua phải trả cho bên bán theo từng thời kỳ quy định (như hàng năm, hàng
quý, hàng tháng), số tiền này được tính toán theo giá trị của sản phẩm chế
tạo trên cơ sở sáng chế hoặc theo số tiền bán sản phẩm đó; hoặc theo đơn vị
sản phẩm làm ra hay bán ra dưới dạng một mức % nhất định của giá cả hay
giá thành hàng hóa; hoặc theo một thỏa thuận riêng nào đó (như trên cơ sở
công suất quy định của thiết bị, trên cơ sở nguyên liệu được chế biến theo
Page 173
phương pháp công nghệ của sáng chế, trên cơ sở trị giá sản phẩm trị giá hay
số lượng của các linh kiện được dùng trong quá trình sản xuất v…v)
Theo thực tiễn buôn bán sáng chế ngày nay, mức kỳ vụ thường xuyên
tính trung bình là 2 - 10% trong đó phổ biến là 3 - 5%. Mức kỳ vụ thường thay
đổi tùy theo loại giấy phép được thỏa thuận, thời hạn hiệu lực của hợp đồng,
khối lượng sản phẩm được chế tạo, giá bán của sản phẩm, thị trường tiêu thụ
sản phẩm ở trong hay ngoài nước.
Để đảm bảo quyền lợi của mình, đôi khi bên bán còn đòi đưa thêm vào
hợp đồng điều khoản về mức thù lao tối thiểu. Điều khoản này còn nhằm mục
đích khuyến khích bên mua nhanh chóng tổ chức và mở rộng sản xuất, nhằm
tránh hành vi thiếu thiện chí của bên mua (như mua sáng chế mà không
nhằm ứng dụng nào khác chẳng hạn). Trong các điều khoản này, người ta
thường quy định rằng, trong một thời kỳ nhất định, nếu số tiền trả kỳ vụ không
đạt tới mức tối thiểu thì bên mua phải trả khoản chênh lệch, sao cho bằng
mức tối thiểu.
2) Mức dự phần vào khoản lãi của người mua là khoản thù lao trả cho
người bán sáng chế, được tính bằng một mức % trên khoản lãi mà người
mua thu được trên cơ sở áp dụng sáng chế. Mức này thường vào khoảng từ
20 - 30% trong trường hợp mua bán li-xăng độc quyền và chỉ dưới 10% trong
trường hợp mua bán li-xăng giản đơn.
3) Tiền trả gọn là tổng số tiền thù lao đã được quy định sẵn trong hợp
đồng. Việc thanh toán thù lao sáng chế bằng tiền trả gộp được áp dụng trong
các trường hợp sau: khi sáng chế được bán kèm theo với thiết bị, khi tính
chất nhất thời của hợp đồng đòi hỏi phải xác định ngay trị giá của hợp đồng,
khi bên mua là một hãng ít quen biết, khi mua bán bí mật sản xuất (trong
trường hợp này tiền trả gộp giống như một đảm bảo cho những tổn thất, khi
có bất đồng), khi bên mua không muốn cho bên bán kiểm soát việc sử dụng
sáng chế, khi luật lệ của nước người mua gây trở ngại cho việc chuyển tiền
lãi ra nước ngoài.
Page 174
Tiền trả gọn có thể được trả một lần hoặc trả dần, hình thức thù lao này
cũng vẫn giúp người bán có thể thu được toàn bộ tiền thù lao trong một thời
gian ngắn hơn so với các hình thức khác.
4) Tổng số tiền mặt là số tiền được quy định trong hợp đồng mà người
mua phải trả trong một hoặc nhiều lần, trong thời hạn quy định hoặc sau khi
một số điều khoản của hợp đồng đã được thực hiện.
Hình thức thanh toán thù lao này thường được áp dụng như một cách
bổ sung cho những hình thức thù lao khác.
5) Tiền trả bằng chứng khoán có giá (như cổ phiếu hoặc trái phiếu) là
một hình thức thanh toán được áp dụng độc lập hoặc kết hợp trong việc trả
thù lao cho người bán sáng chế.
6) Thanh toán bằng cách trao đổi tài liệu kỹ thuật là hình thức trong đó,
bên sáng chế đồng thời là bên mua; hai bên trao đổi sáng chế cho nhau
(feedback).
Trong điều khoản thanh toán, người ta còn quy định về các vấn đề như:
đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, cơ sở để tính trị giá của sản
phẩm được chế tạo ra hoặc được bán ra và cách thức thanh toán các khoản
khấu trừ v.v...
f) Trách nhiệm của bên bán trong hợp đồng mua bán sáng chế:
Về cơ bản, bên bán phải đảm bảo cho bên mua thực hiện được những
quyền đã chuyển cho bên mua trên cơ sở hợp đồng đã ký kết. Do đó, bên
bán bao giờ cũng phải chịu trách nhiệm về tính mới mẻ của sáng chế, về hiệu
quả kinh tế của sáng chế trong phạm vi được bên bán đảm bảo, về việc
thường xuyên nộp thuế bằng sáng chế để duy trì hiệu lực của bằng sáng chế
về việc chuyển giao những cải tiến kỹ thuật có liên quan đến sáng chế.
Ngoài ra, đôi khi hợp đồng còn quy định trách nhiệm của bên bán phải
giúp đỡ bên mua tổ chức sản xuất, cung cấp phụ tùng, dụng cụ, cụm chi tiết
hay bán thành phẩm và nguyên liệu. Có khi hợp đồng còn có điều khoản đặc
biêht buộc bên bán phải đảm bảo giúp cho bên mua có đủ khả năng sản xuất
Page 175
ra sản phẩm được sản xuất tại xí nghiệp của bên bán, khi bên mua sử dụng
đúng đắn những tài liệu kỹ thuật đã nhận được.
g) Trách nhiệm của bên mua trong hợp đồng mua bán li-xăng:
Trách nhiệm của bên mua là trả tiền thù lao kịp thời và đầy đủ. Để thực
hiện trách nhiệm này, bên mua phải xuất trình kịp thời bảo lãnh của ngân
hàng, phải chịu các khoản chi phí có liên quan đến việc đổi tiền và chuyển
tiền trả cho bên bán.
Ngoài ra, hợp đồng còn ràng buộc bên mua trách nhiệm phải sử dụng
đối tượng của hợp đồng mua bán sáng chế, phải nghiêm khắc tuân theo
những chỉ dẫn kỹ thuật của bên bán và phải sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng như chất lượng của sản phẩm chế tạo tại xí nghiệp của bên bán.
Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng, bên mua không được trực tiếp
hay gián tiếp cạnh tranh với hàng do bên bán làm ra.
Đôi khi, người ta còn quy định việc bên mua phải tổ chức một số công
việc về quảng cáo cho các sản phẩm sản xuất theo sáng chế đã thỏa thuận.
h) Thời hạn hiệu lực của li-xăng. Những điều kiện chấm dứt hiệu lực của hợp đồng mua bán li-xăng:
Thời hạn hiệu lực của hợp đồng mua bán li-xăng phụ thuộc trước tiên
vào thời gian có lợi cho việc khai thác sáng chế. Bên bán sáng chế thường
thích ký kết những hợp đồng dài hạn, nếu thời hạn hiệu lực của bằng sáng
chế sắp hết; bởi vì trong trường hợp này, bên bán vẫn thu được tiền thù lao
ngay cả khi bằng sáng chế hết hiệu lực. Thời hạn hiệu lực dài hạn của hợp
đồng còn có lợi cho bên bán khi đối tượng của hợp đồng là bí mật sản xuất,
bởi vì nhờ đó mà bí mật không bị lộ trong một thời gian khá dài. Ngược lại,
nếu bên bán muốn bản thân mình chiếm được thị trường để tự mình sẽ bán
hàng của mình, sau khi kết thúc thời hạn hiệu lực của hợp đồng, hoặc nếu
bên mua là hãng không quen biết thì bên bán cố gắng hạn chế bớt thời gian
hiệu lực của hợp đồng sao cho càng ngắn càng tốt; đồng thời bên bán sẽ còn
Page 176
đưa vào hợp đồng điều kiện cho phép chấm dứt hợp đồng trước thời hạn như
vì lý do vi phạm hợp đồng hoặc vì bên mua phá sản...
Trước kia, hợp đồng mua bán li-xăng thường có thời hạn hiệu lực 15 -
20 năm. Trong thời gian gần đây thời hạn này có khuynh hướng giảm đi. Điều
này có nguyên nhân trước hết là sự hao mòn vô hình nhanh chóng của máy
móc, thiết bị và quy trình công nghệ. Ngày nay, phổ biến nhất là các hợp đồng
có thời hạn hiệu lực khoảng 5-10 năm.
4. Một số điều khoản hạn chế trong hợp đồng mua bán li-xăng
a) Hạn chế xuất khẩu: Thường bên bán sáng chế không muốn bên mua
đưa ra thị trường cạnh tranh với họ. Do đó, trong một số điều khoản bên bán
có thể đòi cấm hoàn toàn việc xuất khẩu, hoặc họ yêu cầu bên mua sáng chế
khi xuất khẩu phải xin phép hoặc trao đổi trước. Ở Việt Nam, theo điều lệ
201/HĐBT ngày 28/12/1988, điều khoản cấm xuất khẩu được coi là bất hợp
pháp.
b) Hạn chế về ấn định giá: Nếu bên mua sáng chế sau này sản xuất có
giá rẻ hơn so với bên bán sáng chế thì bên bán đòi ấn định phải bán sản
phẩm theo một mức giá cao, do đó không thể cạnh tranh được với bên bán.
Điều lệ của nước ta cũng không cho phép áp dụng kiểu ấn định giá này đối
với những sản phẩm mà Việt Nam phải nhập li-xăng của nước ngoài.
c) Hạn chế về khối lượng sản xuất: Theo đó bên bán sáng chế buộc
bên mua không được phép sản xuất quá một khối lượng quy định. Luật lệ của
nhiều nước cũng như luật lệ của ta không cho phép thi hành hạn chế này.
d) Hạn chế tự do mua nguyên liệu, vật liệu: Theo đó, bên bán sáng chế
buộc phải mua các sản phẩm của họ. Nhiều nước đã phản đối điều khoản
này.
e) Hạn chế vi phạm sử dụng: Theo đó, người bán sáng chế yêu cầu
người mua chỉ được phép sử dụng một lãnh vực cụ thể nào đó. về vấn đề
này, luật lệ của nhiều nước cũng không chấp nhận.
Page 177
Ngoài ra còn một số hạn chế khác như vấn đề tiêu thụ sản phẩm,
không gian và thời gian sử dụng v.v... Nói chung điều lệ của mỗi nước có quy
định một khác về những điều khoản hạn chế này.
* MUA BÁN DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Khái niệm về dịch vụ kỹ thuật và các loại hình của chúng
Trong vòng 10 - 15 năm gần đây, việc mua bán các dịch vụ kỹ thuật đã
trở thành một ngành buôn bán độc lập trên thị trường thế giới. Những dịch vụ
này có thể chia làm hai nhóm: nhóm thứ nhất có các dịch vụ có liên quan đến
việc xây dựng một công trình cụ thể nào đó như: nghiên cứu sơ bộ vấn đề
đầu tư vào một xí nghiệp; xác định doanh lợi của việc đầu tư đó; lựa chọn
phương án tối ưu cho việc đầu tư; làm thiết kế sơ bộ; thiết kế kỹ thuật và thiết
kế thi công; chuẩn bị những cuộc đàm phán theo dõi thực hiện quá trình thi
công, cung cấp và thực hiện các công tác. Nhóm thứ hai là các dịch vụ có tính
chất tổng hợp nhất như: nghiên cứu những điều kiện kinh tế tài chính và xã
hội của một nước, của một khu vực, hoặc của một xí nghiệp nào đó; cải tiến
tổ chức và quản lý sản xuất; giải quyết những vấn đề năng lượng và những
vấn đề về sử dụng nhân công, phát triển cấu trúc hạ tầng v.v... Trong các
nước tư bản chủ nghĩa, những dịch vụ này tập hợp trong khái niệm "dịch vụ
in-gi-nia-rinh" (Engineering).
Thời kỳ đầu, dịch vụ in-gi-nia-rinh xuất hiện ở nước Anh trong lĩnh vực
xây dựng dân dụng. Ở thời kỳ đó, dịch vụ in-gi-nia-rinh chỉ bao gồm những
dịch vụ thuộc lao động trí óc, có liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với
việc xây dựng một công trình hay chế tạo một sản phẩm. Vì thế theo nguồn
gốc xuất phát của nó người ta định nghĩa in-gi-nia-rinh là tổng hợp những
công trình nghiên cứu và luận chứng (theo quan điểm tối ưu) về kinh tế kỹ
thuật trước khi lập đề an đối với quy trình công nghệ hoặc đối với tiêu bản
được tiến hành trong phòng thí nghiệm hoặc trong thực tiễn, việc làm thiết kế
công nghiệp từ khâu sơ khảo đến khâu thiết kế chi tiết cho một sản phẩm
hoặc cho một công trình. Kể cả việc lập biên bản chi tiết trang bị phù hợp với
yêu cầu của người đặt hàng và việc cung cấp những dịch vụ tiếp theo hoặc
Page 178
cho ý kiến tư vấn khi đưa sản phẩm đó vào sản xuất và sử dụng có tính chất
công nghiệp trong quá trình xây lắp và vận hành.
Trong thực tế hiện nay, các dịch vụ in-gi-nia-rinh không còn chỉ bó hẹp
ở phạm vi sản phẩm của lao động trí óc, với những công trình nghiên cứu,
những đề án thiết kế và những ý kiến tư vấn về kỹ thuật mà trong nhiều
trường hợp, dịch vụ in-gi-nia-rinh được thực hiện kèm theo với việc cung cấp
thiết bị, bao thầu xây dựng công trình cho đến khi hoàn chỉnh.
Trở thành đối tượng của hợp đồng ngoại thương có thể là một trong
những dịch vụ kỹ thuật kể trên đây, cũng có thể là tổng hợp toàn bộ những
dịch vụ đó kèm với việc cung cấp thiết bị và bao thầu xây dựng công trình
theo điều kiện "chìa khóa trao tay" (tum-key); tức là đặt toàn bộ xí nghiệp đã
xây dựng xong và đã đưa vào sản xuất dưới quyền định đoạt vào tay của
người đặt hàng.
Thực hiện những dịch vụ trên đây, trên thị trường tư bản chủ nghĩa, có
thể là kỹ sư - cố vấn độc lập, những công ty in-gi-nia-rinh chuyên nghiệp hoặc
những hãng công nghiệp. Các kỹ sư cố vấn là những công ty in-gi-nia-rinh
chuyên nghiệp chỉ cung cấp các dịch vụ kỹ thuật thuộc lĩnh vực lao động trí
óc. Còn các hãng công nghiệp thường kinh doanh kết hợp các dịch vụ kỹ
thuật với những hoạt động sản xuất; thậm chí có khi hãng công nghiệp chỉ
nhận cung cấp dịch vụ kỹ thuật nào đó nếu người đặt hàng đồng ý mua thiết
bị do hãng đó sản xuất.
2. Những điều khoản chủ yếu của hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trên thị trường quốc tế
Tùy theo đặc điểm và khối lượng dịch vụ kỹ thuật được mua bán, trên
thực tế, người ta sử dụng nhiều loại hợp đồng khác nhau. Khi mua bán dịch
vụ tư vấn kỹ thuật hoặc hợp đồng thuê chuyên gia để làm những công việc
nhất định. Còn khi mua bán dịch vụ thi công, người ta thường ký kết hợp
đồng bao thầu hoặc hợp đồng giúp đỡ kỹ thuật thi công (hợp đồng xây lắp...).
Page 179
Trong trường hợp các dịch vụ kỹ thuật được cung cấp cùng với thiết bị
máy móc, người ta có thể hoặc liệt kê các dịch vụ thành một điều khoản của
hợp đồng mua bán thiết bị hoặc ký kết một hợp đồng riêng. Trong buôn bán
giữa các nước, người ta thường áp dụng những hợp đồng mẫu do các liên
đoàn quốc gia hoặc các liên đoàn quốc tế của các hãng kỹ thuật, hoặc do ủy
ban kinh tế Châu Âu của Liên hiệp quốc thảo ra. Trong số những hợp đồng
mẫu đó, đáng chú ý nhất là "Mẫu hợp đồng quốc tế giữa người đặt hàng với
người hướng dẫn kỹ thuật" và "Điều kiện chung quốc tế của hợp đồng giữa
người đặt hàng với người hướng dẫn kỹ thuật (IGRA 1963)" "Mẫu hợp đồng"
và "Điều kiện chung" này do "Liên đoàn quốc tế của các kỹ sư cố vấn"
(Federation Internationale des ingeneurs conseillers - gọi tắt là: FIDIC) thảo
ra.
1. Một số điểm trong điều kiện chung của hợp đồng giữa người đặt hàng với người hướng dẫn kỹ thuật "IGRA 1963"
a) Đối tượng của hợp đồng:
Đối tượng của hợp đồng này là việc thực hiện bất kỳ loại dịch vụ kỹ
thuật nào của người kỹ sư - cố vấn bao gồm việc cung cấp ý kiến tư vấn về
các vấn đề kỹ thuật, việc thiết kế các công trình và giám sát thi công các công
trình đó.
b) Quyền hạn và nghĩa vụ của người đặt hàng và của người kỹ sư cố vấn:
Theo điều khoản này, người kỹ sư - cố vấn phải hoạt động trong lĩnh
vực chuyên môn của mình như một người cố vấn trung thực và như một
người trung gian vô tư giữa người đặt hàng với người nhận bao thầu công
trình; còn người đặt hàng phải cung cấp cho kỹ sư cố vấn tất cả những số liệu
hiện có và cần thiết đối với kỹ sư - cố vấn để thực hiện những nghĩa vụ của
mình.
Để đảm bảo, trong một phạm vi nào đó, tính trung thực và vô tư của kỹ
sư - cố vấn, hợp đồng quy định rằng thù lao duy nhất của kỹ sư - cố vấn là số
Page 180
tiền mà hợp đồng đã xác định. Kỹ sư - cố vấn không được nhận bất kỳ một
khoản hoa hồng, một khoản tiền gián tiếp nào khác, cũng không thu lợi nhuận
trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách lợi dụng những hiểu biết của mình về thiết
kế các quy trình công nghệ hay về thiết kế sản phẩm mới.
Trách nhiệm của kỹ sư - cố vấn là xác nhận những công việc đã hoàn
thành để dựa vào đó làm căn cứ, người đặt hàng trả tiền cho người bao thầu.
Hợp đồng có thể cho phép người kỹ sư - cố vấn được nhờ một kỹ sư -
cố vấn khác hoặc một chuyên viên khác giúp đỡ, nếu việc này đã được người
đặt hàng thỏa thuận trước bằng văn bản. Những chi phí về việc này do kỹ sư
- cố vấn phải chịu.
c) Cách xác định thù lao cho kỹ sư – cố vấn:
Thù lao của kỹ sư - cố vấn có thể là một trong ba dạng dưới đây:
- Một khoản tiền tính trên cơ sở tiền lương theo thời gian cộng với các
phụ phí;
- Một mức % tính theo trị giá của công việc cộng với những phụ phí;
- Một khoản tiền xác định cộng với các phụ phí;
Mức lương ngày của kỹ sư - cố vấn, mức % của trị giá công việc hoặc
khoản tiền xác định đều được hai bên thỏa thuận ghi rõ trên hợp đồng.
Trong hợp đồng người ta cũng liệt kê tất cả những dịch vụ bổ sung có
thể xảy ra, đồng thời xác định rõ khái niệm "trị giá của công việc".
d) Điều kiện thanh toán:
Mỗi khi hoàn thành một giai đoạn công việc, người đặt hàng phải tạm
ứng tiền thù lao trả cho kỹ sư - cố vấn vào những thời hạn đã được thỏa
thuận trong hợp đồng. Tới khi kết toán, người ta mới tính lại các khoản tiền đã
tạm ứng, tiền thù lao tính theo thời gian cũng như các khoản phụ phí đều phải
được thanh toán hàng tháng. Nếu không có quy định gì khác tất cả các khoản
tiền phải trả đều thanh toán vào tài khoản của kỹ sư - cố vấn, ở tại ngân hàng
nước mình.
Page 181
e) Đồng tiền chi trả:
Đồng tiền của nước người kỹ sư - cố vấn được dùng làm đồng tiền
thanh toán. Nếu các bên lựa chọn đồng tiền của nước khác thì hợp đồng phải
quy định rõ tỷ giá chuyển đổi từ đồng tiền thanh toán sang đồng tiền của
nước người kỹ sư - cố vấn.
Ngoài những điều khoản trên đây, người ta còn có thể đưa vào hợp
đồng những điều khoản quy định cách thức chuẩn bị, ký kết, sửa đổi và chấm
dứt hợp đồng, cách thức giải quyết tranh chấp, cách thức điều hòa quan hệ
giữa hai bên khi công trình là đối tượng hợp đồng bị hư hỏng hay bị phá hoại
v.v...
2. Một số điều khoản của hợp đồng thầu (contract agreement)
a) Các bên của hợp đồng:
Trong quan hệ hợp đồng bao thầu, một bên - gọi là người thầu - phải
chịu chi phí và rủi ro hoàn thành trong một thời hạn nhất định một công việc
xác định do người đặt thầu giao cho làm, hoặc bằng vật liệu của người đặt
thầu hoặc bằng vật liệu của mình còn người đặt hàng phải tiếp nhận và trả
tiền cho công việc mà người thầu đã hoàn thành.
Trong quan hệ này, người thầu là một nhà kinh doanh độc lập. Người
này tự tổ chức lấy công việc, tự xác định lấy những phương pháp thực hiện
công việc. Khi cần thiết, và có sự thỏa thuận, người này có thể thu hút các
hãng khác vào làm việc với tư cách người thầu phụ (Sub-contractor) nhưng
bản thân vẫn chịu trách nhiệm trước người đặt thầu. Đối với người thầu phụ,
người thầu với danh nghĩa người thầu chính (General contractor) phải ký kết
hợp đồng với người thầu phụ. Hợp đồng này không liên quan đến người đặt
thầu.
Khi người thầu chịu trách nhiệm cung cấp những thiết bị thì trong hợp
đồng, người này mang tên là người cung cấp. Nhưng bản chất của quan hệ
hợp đồng vẫn là hợp đồng bao thầu.
Page 182
b) Đối tượng của hợp đồng này có thể là việc thực hiện từng dịch vụ
hay toàn bộ các dịch vụ kỹ thuật; kể từ khi làm nhiệm vụ thiết kế, làm thiết kế
cho đến khi đưa xí nghiệp vào sản xuất và đạt được công suất thiết kế.
c) Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng:
Người đặt thầu thường có trách nhiệm cung cấp cho người thầu bản đồ
và các tài liệu cần thiết khác, tổ chức cho chuyên gia của. Người thầu đến
thăm ở những khu vực dự định tiến hành công việc, cung cấp cho các chuyên
gia này phương tiện để đi lại và các vật liệu cần thiết. Sau khi hoàn thành
những nhiệm vụ đã được quy định trong hợp đồng, các chuyên gia của người
thầu phải báo cáo cho người đặt thầu biết về những công việc đã làm và
những kết quả đã đạt được. Thường thường, người thầu còn tiến hành lựa
chọn khu đất thi công và thu thập các số liệu ban đầu.
Trước khi làm dự kiến thi công, người thầu phải làm xong các bản thiết
kế. Những thiết kế này được lập ra trên cơ sở bản nhiệm vụ thiết kế do người
đặt thầu làm ra và trên cơ sở các số liệu ban đầu do người đặt thầu cung cấp.
Trong thiết kế sơ bộ, người thầu phải xác định được những chỉ tiêu kinh tế -
kỹ thuật chủ yếu của công trình; sơ đồ bố trí các công trình và các thiết bị;
nhu cầu về nguyên liệu, nước, nhiên liệu, số lượng nhân công và chuyên gia;
đồng thời kê khai chi tiết, các thiết bị cơ bản và vật liệu chủ yếu cần thiết cho
công trình. Thiết kế đó còn phải bao gồm cả những số liệu thi công, trong đó
có khối lượng công việc xây lắp, nhu cầu về vật liệu xây dựng và nhu cầu về
nhân công. Trên cơ sở thiết kế sơ bộ, người thầu làm thiết kế thi công.
Sau khi làm xong các bản thiết kế, người thầu cử chuyên gia đến nước
người đặt thầu để giám sát việc thực hiện những công việc đề ra trong thiết
kế.
Trong hợp đồng người ta thường dùng chữ "lắp máy" để chỉ tất cả công
việc lắp ráp, hiệu chỉnh và đưa thiết bị vào hoạt động sản xuất. Một dạng đặc
biệt của việc lắp máy là giám sát lắp ráp, nghĩa là theo dõi hướng dẫn kỹ
thuật về lắp ráp thiết bị khi người đạt thầu tự tiến hành xây dựng công trình.
Page 183
Trong trường hợp này, người đặt thầu chịu trách nhiệm làm mọi việc chuẩn bị
lắp ráp, cung cấp dụng cụ gá lắp và vật liệu phụ, điện nước v.v...
Người thầu phải đảm bảo hoàn thành công việc trong thời hạn quy
định. Còn người đặt thầu phải kịp thời tiếp nhận công việc đã hoàn thành.
d) Trị giá của công việc:
Trị giá của công việc có thể được xác định: hoặc bằng một tổng số tiền
vốn được cung cấp tài chính về tất cả mọi công việc nói chung hoặc bằng
tổng số chi phí đã được khái toán, trong đó liệt kê rõ các loại công việc và trị
giá của từng công việc.
e) Thanh toán:
Trong điều khoản này, người ta quy định phương pháp xác định tiền
thù lao cho người thầu và các hình thức thanh toán tiền này. Thông thường,
người ta còn quy định việc bồi hoàn các chi phí thực tế mà người thầu đã chi
cộng với những khoản thù lao; hoặc quy định việc trả gọn một khoản tiền
được xác định trước. Theo cách thứ nhất, người thầu được bồi hoàn các
khoản chi phí có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng cộng với tiền thù lao
tính theo mức độ % so với chi phí sản xuất. Còn cách thứ hai, người thầu chỉ
nhận một khoản tiền trả gọn, người đặt thầu không biết đến những khoản chi
tiêu mà người thầu bỏ ra.
Trong hợp đồng bao thầu, người ta còn quy định trách nhiệm của người
thầu khi vi phạm hợp đồng, quy định cách giải quyết tranh chấp, cách thức
hủy bỏ hay điều chỉnh hợp đồng v.v...
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Công nghệ học là gì? Giữa công nghệ học và kỹ thuật có mối quan
hệ thế nào?
2. Nội dung hợp đồng mua bán công nghệ thường bao gồm những điều
khoản nào?
Page 184
3. Thế nào là sáng chế? Sáng chế có đặc điểm gì? Giữa sáng chế và
phát minh có gì giống nhau và có gì khác nhau?
4. Bí quyết kỹ thuật là gì? Bí quyết kỹ thuật có những đặc điểm gì?
5. Pháp luật bảo vệ thế nào đối với người chủ của sáng chế?
6. Hãy phân biệt li-xăng và pa-tăng?
7. Hãy trình bày sự khác nhau giữa li-xăng toàn quyền, li-xăng đặc
quyền và li-xăng giản đơn.
8. Trị giá của một li-xăng phụ thuộc vào những nhân tố nào?
9. Hợp đồng mua bán li-xăng có những điều khoản chủ yếu nào?
10. Engineering là gì? Ý nghĩa của nó đối với việc xuất khẩu máy móc
thiết bị ra sao?
BÀI TẬP
Chúng ta thỏa thuận thuê một kỹ sư trưởng người nước ngoài để
hướng dẫn ta sản xuất que hàn dưới nước, với mức lương 3000 USD/1
tháng. Thời gian thuê là 6 tháng. Bạn hãy dự thảo hợp đồng thuê chuyên gia
đó.
Chương 8. NGHIỆP VỤ THUÊ VÀ CHO THUÊ THIẾT BỊ
* KHÁI NIỆM VỀ THUÊ VÀ CHO THUÊ THIẾT BỊ
Cho thuê thiết bị là việc một xí nghiệp này (gọi là người cho thuê) giao
cho một xí nghiệp khác (gọi là người đi thuê) được quyền sử dụng máy móc
thiết bị theo những điều kiện nhất định, trong một thời hạn nhất định. Để đền
bù lại việc đó, người đi thuê phải trả một khoản tiền nhất định, trong những kỳ
hạn nhất định, cho xí nghiệp cho thuê.
Về bản chất kinh tế, việc cho nước ngoài thuê thiết bị cũng là một
phương thức di chuyển thiết bị ra thị trường ngoài nước (để xuất khẩu). Đồng
thời đầy lại là một hình thức đặc biệt của việc cung cấp vốn xuất khẩu.
Page 185
Tuy nhiên, việc tiêu thụ máy móc và thiết bị qua hình thức cho thuê có
những đặc điểm khác hẳn với việc bán đoạn (mua đứt) hàng hóa đó ở chỗ:
- Khi cho thuê, người xuất khẩu vẫn còn giữ quyền sở hữu đối với máy
móc thiết bị. Còn khi bán đoạn máy móc thiết bị thì quyền sở hữu hàng đó
chuyển từ người xuất khẩu sang người nhập khẩu, nếu hợp đồng không quy
định gì khác, hoặc ngay vào lúc ký kết hợp đồng hoặc vào lúc giao hàng.
- Việc tiêu thụ máy móc thiết bị bằng cách cho thuê không giúp cho
người xuất khẩu thu hồi toàn bộ giá trị hàng hóa vào một lúc hoặc vào một
thời kỳ nhất định như khi bán đoạn. Trong hình thức cho thuê thiết bị, giá trị
của thiết bị được thực hiện một cách dần dần thông qua việc thu tiền thuê
trong suốt một thời gian dài. Chính vì đặc điểm này, xét về mặt tài chính, việc
tiêu thụ bằng cách cho thuê máy móc thiết bị rất giống việc bán chịu (bán
trong điều kiện có tín dụng) dài hạn.
Việc thuê và cho thuê thiết bị ở phạm vi quốc tế là việc mới bắt đầu
phát triển từ những năm 60 của thế kỷ này. Nhưng nó đã được chuẩn bị từ
lâu bởi nghiệp vụ cho thuê ở phạm vi quốc gia. Ngày nay, nghiệp vụ thuê và
cho thuê thiết bị, ở cả phạm vi quốc gia lẫn trong phạm vi quốc tế, đều phát
triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau những năm 70 sang đầu thập kỷ 80. Đến
cuối những năm 80 đã có tới trên 700 công ty cho thuê thiết bị hoạt động
trong 56 nước.
Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự phát triển nhanh như vậy là sự tiến
bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật. Sự tiến bộ như vũ bão của khoa học
kỹ thuật đã làm cho máy móc thiết bị hao mòn vô hình nhanh chóng. Do đó
các chủ xí nghiệp buộc phải luôn luôn đổi mới công cụ sản xuất. Vận dụng
phương thức thuê thiết bị, họ sẽ được lợi ở chỗ vừa khỏi bị đọng vốn, vừa
khỏi sợ thiết bị "chóng già".
những nước tư bản phát triển, Nhà nước thường có chính sách
khuyến khích đổi mới tư bản cố định. Họ thường đề ra những biện pháp ưu
đãi đối với các công ty kinh doanh cho thuê thiết bị khi các công ty này nhập
Page 186
khẩu thiết bị mới. Ví dụ ở Anh khi các công ty này nhập khấu thiết bị thì được
giảm thuế từ 25 đến 100%.
Đối với nhà xuất khẩu, việc cho thuê thiết bị đem lại lợi nhuận cao hơn
việc bán đứt. Theo tài liệu của báo chí Mỹ, một thiết bị trị giá bán tiền ngay là
100.000 USD, nếu được bán chịu trong 5 năm thì giá sê là 112.000 USD. Nếu
nó được bán theo điều kiện trả kỳ hạn trong vòng 10 năm và đặt trước 25% trị
giá thiết bị thì người mua phải trả tới 132.000USD. Nếu thiết bị đó được đem
cho thuê trong thời hạn 5 năm thì nhà xuất khẩu sẽ thu về được 140.000
USD.
* CÁC LOẠI HÌNH THUÊ VÀ CHO THUÊ THIẾT BỊ
Trong thực tiễn buôn bán, người ta chia nghiệp vụ thuê và cho thuê
thiết bị làm hai loại hình chính:
- Leasing là hình thức cho thuê dài hạn (tới 15 năm). Đối tượng của
hợp đồng thường là những thiết bị kỹ thuật công nghiệp, kể cả thiết bị toàn
bộ. Những công ty kinh doanh leasing thường chỉ đơn thuần làm chức năng
tài chính, với nghiệp vụ cung cấp vốn (financing) cho những hoạt động về việc
giao cho người đi thuê quyền sử dụng những thiết bị cần thiết. Có chủ xí
nghiệp bán nhà máy của mình cho hãng leasing rồi sau đó lại thuê lại để kinh
doanh. Trong trường hợp này, nghiệp vụ đi thuê có tên gọi là nghiệp vụ thuê
lại (tiếng Anh là lease-back).
- Renting (còn gọi là "hiring") là cho thuê ngắn hạn, thường dưới 3 năm.
Đối tượng cho thuê, trong trường hợp này, chủ yếu là những thiết bị tiêu
chuẩn hóa như ôtô, máy kéo, toa xe, máy làm đường như bulldozer,
autograder, seraper v.v... Những công ty kinh doanh "renting" thường là
những xí nghiệp buôn bán thông thường, có một số máy nhàn rỗi dành vào
việc cho thuê và có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật với nghiệp vụ chuyên môn
cung cấp dịch vụ lắp ráp, khai thác những máy móc nói trên. Công ty cũng
thường bổ sung "giàn" máy móc của mình bằng cách mua những máy móc
mới nhất, hoàn chỉnh nhất.
Page 187
Ngoài hai loại hình thuê và cho thuê thiết bị trên đây, trong thực tiễn
buôn bán quốc tế, người ta còn sử dụng một nghiệp vụ mang tính chất "nửa
thuê, nửa mua". Đó là nghiệp vụ thuê — mua (tiếng Anh hire-purchase).
Trong nghiệp vụ này, công ty cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản cho đến khi
hết thời hạn hợp đồng. Sau khi người thuê thực hiện đầy đủ các điều kiện quy
định của hợp đồng về việc trả tiền thuê và trả tiền tài sản, người này sẽ trở
thành chủ sở hữu về tài sản đã thuê. Nói cách khác, đầy là loại hợp đồng mà
một đương sự trước là thuê, sau là mua tài sản - đối tượng của hợp đồng.
Trong ba loại hình nghiệp vụ kể trên đây, nghiệp vụ leasing là nghiệp vụ
chủ yếu nhất. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế đã nắm lấy nghiệp vụ này, coi
đây là công cụ làm giàu có hiệu quả ở nhiều nơi. Ví dụ, công ty Tài chính
Quốc tế (International Financial Company - IFC) - một chi nhánh của Ngân
hàng Quốc tế phục hưng và phát triển IBRD - đã tổ chức các công ty leasing
ở Colombia, Jordanie, Thái Lan, Nam Triều Tiên, Sri-Lanca, Philippine,
Uruguay.
* HỢP ĐỒNG THUÊ THIẾT BỊ
Cũng như nhiều loại hợp đồng khác, hợp đồng thuê thiết bị là một hợp
đồng ứng thuận (consensual contract) và là một hợp đồng đền bù (onerous
contract). Trong đó cả bên cho thuê lẫn bên đi thuê đều có nghĩa vụ tương
ứng.
Nghĩa vụ cơ bản của người cho thuê là phải kịp thời giao thiết bị trong
tình trạng thích hợp với việc sử dụng, sao cho người đi thuê có thể sử dụng
và khai thác được.
Đối với người đi thuê, nghĩa vụ cơ bản là phải trả tiền thuê thiết bị. Tiền
thuê có thể được trả làm nhiều lần, từng tuần, từng tháng hay từng quý. Cũng
có trường hợp tiền thuê được trả ngay lúc thuê (thường là trường hợp thời
hạn thuê dưới 1 tháng). Trong trường hợp này, hợp đồng leasing được gọi là
"hợp đồng thuê trả trước" (prepaid lease).
Page 188
Người đi thuê còn có trách nhiệm sử dụng thiết bị theo đúng công dụng
của nó, không được làm hư hỏng thiết bị. Ví dụ trong trường hợp thuê xe ô tô
vận tải, người ta không cho phép người đi thuê chở một vật đang bốc cháy và
không được chở hàng vào khu vực đang cháy.
Khi hợp đồng đã hết hiệu lực, người đi thuê hoặc phải hoàn lại thiết bị
phù hợp với tình trạng lúc nhận, có trừ đi những hao mòn định mức, hoặc có
thể mua lại thiết bị đã thuê. Theo thống kê ở Mỹ, trong số 100 hợp đồng cho
thuê đã được ký kết thì 95 hợp đồng kết thúc bằng cách bán thiết bị cho
người thuê hoặc cho một người khác.
Về việc bảo dưỡng máy và thiết bị trong thời gian cho thuê cũng như về
việc tính tiền khấu hao, tùy theo sự thỏa thuận giữa hai bên, hợp đồng có thể
quy định điều này thuộc nghĩa vụ của người đi thuê, hoặc của người cho
thuê.
Trong thực tiễn, người ta sử dụng hai loại hợp đồng sau đây:
a) Hợp đồng tài chính (Financial lease): theo hợp đồng này, công ty cho
thuê không chịu bất kỳ chi phí nào về bảo quản tài sản cũng như những chi
phí khác có thể xảy ra đối với tài sản cho thuê sau khi hợp đồng đã được ký
kết. Không bên nào được phép hủy hợp đồng trước thời hạn. Quyền sở hữu
đối với tài sản thuê, sau khi hợp đồng chấm dứt, tùy thuộc vào sự thỏa thuận
đạt được trong hợp đồng, cụ thể là: người đi thuê có thể mua đứt tài sản thuê
hoặc có thể tiếp tục thuê lại tài sản, hoặc có thể hoàn trả lại tài sản cho người
chủ tài sản.
Hợp đồng thuê tài chính thường có thời hạn hiệu lực khoảng từ 3 đến 7
năm.
Hợp đồng thuê tài chính có một số biến tướng như:
* Hợp đồng "bear lease", trong đó người đi thuê còn làm thêm một số
chức năng của người cho thuê như: làm thủ tục nhận và trả tiền đăng ký biển
số cho thiết bị (nhất là khi thiết bị được thuê là thiết bị vận tải).
Page 189
* Hợp đồng "cost plus lease", trong đó người cho thuê, với một số tiền
thu thêm, còn làm một số công việc về bảo dưỡng máy.
b) Hợp đồng thuê sử dụng (Operating lease): Theo hợp đồng này,
người cho thuê phải chịu mọi chi phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cho thuê.
Để làm được nghĩa vụ này, người cho thuê phải thông thạo chuyên môn về kỹ
thuật sửa chữa và bảo dưỡng máy móc cho thuê để có thể phục vụ người đi
thuê. Sau khi hợp đồng hết hiệu lực, tài sản được hoàn trả lại cho người chủ
tài sản (người cho thuê). Những tài sản thuê theo loại hợp đồng này thường
là những tài sản chóng bị lạc hậu.
Hợp đồng thuê sử dụng thường có thời hạn hiệu lực ngắn (không quá 3
năm).
* TRÌNH TỰ LẬP VÀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THUÊ THIẾT BỊ
1. Trước khi làm hợp đồng
Người đi thuê liên hệ với nhà kinh doanh tài sản để xác định loại tài sản
cần thuê, sau đó liên hệ với hãng "leasing" bằng cách ghi đầy đủ các chi tiết
của tài sản cần thuê như: Loại tài sản, tính năng, tác dụng, kích cỡ, thời hạn
sử dụng, địa điểm định lắp đặt tài sản, đại lý bán hàng hay nhà sản xuất, thời
hạn hợp đồng, chi tiết công trình, điều kiện tài chính của người đi thuê để cho
hãng leasing xem xét.
2. Lập hợp đồng
Sau khi chấp nhận đơn của người đi thuê, hãng leasing liên hệ với nhà
kinh doanh tài sản để có thêm các chi tiết như: thời hạn hợp đồng, số tiền
thanh toán v.v... Sau khi thỏa thuận về các điều kiện của hợp đồng, hãng
leasing và người đi thuê cùng nhau dự thảo và ký kết hợp đồng.
3. Sau khi ký hợp đồng
Trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết, hãng leasing thu xếp mua loại tài
sản mà người đi thuê đã yêu cầu, rồi trực tiếp giao tài sản đó cho người đi
thuê. Người đi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê tài sản theo những
Page 190
điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng
(tức trong thời hạn thuê), người đi thuê chịu trách nhiệm bảo quản tài sản và
hãng leasing tiến hành mua bảo hiểm tài sản.
4. Chấm dứt hợp đồng
Quyền sử dụng đối với tài sản sau khi chấm dứt hợp đồng, như đã trình
bày ở trên, thực tế tùy thuộc ở sự thỏa thuận đạt được trong hợp đồng. Tiền
thuê tài sản mà hãng leasing đòi hỏi người đi thuê phải thanh toán phụ thuộc
vào những chi phí có liên quan, suất lãi hiện hành, chi phí vận hành, những
rủi ro thương mại trong thời gian hiệu lực của hợp đồng v.v... Hãng leasing có
thể thu tiền thuê trước theo một tỉ lệ nhất định. Tuy nhiên, tỷ lệ thu trước này
lại phụ thuộc vào khả năng vay vốn của người đi thuê.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Leasing là gì? Leasing có tác động thế nào đối với buôn bán quốc
tế?
2. Thuê mua là gì? Nghĩa vụ của người đi thuê và người cho thuê
thường được, quy định thế nào trong hợp đồng thuê mua?
3. Chúng ta có thể gặp những loại nào về hợp đồng thuê thiết bị?
Người cho thuê và người đi thuê có nghĩa vụ thế nào trong mỗi trường hợp
thuê như thế?
BÀI TẬP
Chúng ta cần có 40 xe tải có trọng tải 40 tấn/cái, nhưng lại đang thiếu
vốn. Giá bán tiền ngay của xe đó là 100.000 USD/cái. Giá đi thuê mỗi xe đó là
2000 USD/1 tháng/cái. Thời hạn thuê được bắt đầu tính từ ngày giao xe
xuống tàu. Cước phí chở đi và chở về do người đi thuê chịu.
Trong khi đó, lãi suất tiền vay ngân hàng là 6% năm.
Bạn hãy tính toán để cân nhắc việc đi vay tiền để mua với việc đi thuê
40 xe tải này, trong đó việc nào có lợi hơn cho doanh nghiệp của bạn?
Page 191
Chương 9. THU MUA, CUNG ỨNG HÀNG XUẤT KHẨU
* TÌM HIỂU NGUỒN HÀNG XUẤT KHẨU
Nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa có hai khâu liên hệ mật thiết với nhau:
(a) thu mua, huy động hàng xuất khẩu từ các đơn vị kinh tế trong nước và (b)
ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài. Thu mua hàng xuất
khẩu là tiền đề vật chất của xuất khẩu hàng hóa.
Muốn tổ chức tốt việc thu mua, huy động hàng xuất khẩu, một mặt cần
quán triệt quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến
khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, đơn vị ngoại thương phải
có biện pháp phân loại và quản lý tốt từng loại nguồn hàng, đi sâu nghiên cứu
nguồn hàng để phát triển nguồn hàng, có phương thức huy động thích hợp.
I - PHÂN LOẠI NGUỒN HÀNG XUẤT KHẨU
Các nguồn hàng xuất khẩu có thể được phân loại theo ba (03) tiêu
thức:
1. Phân loại theo chế độ phân cấp quản lý gồm có:
- Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Đây là những mặt
hàng mà Nhà nước đã cam kết giao cho nước ngoài trên cơ sở những hiệp
định (hiệp định thương mại, hiệp định hợp tác sản xuất, hiệp định hợp tác
khoa học v.v...) hoặc nghị định thư hàng năm. Sau khi đã ký kết các hiệp định
hoặc nghị định thư với nước ngoài, Nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị
sản xuất, để các đơn vị này phải giao nộp hàng xuất khẩu. Vì thế, đối với đơn
vị ngoại thương nguồn hàng này khá được bảo đảm cả về mặt số lượng, chất
lượng và thời hạn giao hàng.
- Nguồn hàng ngoài kế hoạch: Nguồn hàng ngoài kế hoạch gồm những
mặt hàng sản xuất lẻ tẻ. Các tổ chức kinh doanh xuất khẩu căn cứ vao nhu
cầu của thị trường ngoài nước tiến hành sản xuất, thu mua, chế biến theo số
lượng, chất lượng và thời hạn giao hàng đã hoặc sẽ được thỏa thuận với
khách hàng nước ngoài.
Page 192
2. Phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng
Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu có thể mua, huy động (như đổi hàng,
cho gia công, cho làm đại lý thu mua):
- Từ các xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương.
- Từ các xí nghiệp nông, lâm nghiệp trung ương và địa phương.
- Từ các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
- Từ các cơ sở công ty hợp doanh.
- Từ các hợp tác xã, tư nhân, hộ gia đình.
- Từ các xí nghiệp bán buôn.
- Từ các xí nghiệp sản xuất của xí nghiệp thương nghiệp.
- Từ các xí nghiệp trực tiếp thuộc cơ quan mình.
3. Phân loại nguồn hàng theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu, gồm có:
- Nguồn hàng trong địa phương là nguồn hàng nằm trong khu vực hoạt
động của đơn vị kinh doanh đó. Ví dụ, đối với một công ty liên hiệp ngoại
thương tỉnh, nguồn hàng trong tỉnh là nguồn hàng trong địa phương.
- Nguồn hàng ngoài địa phương là nguồn hàng không thuộc phạm vi
phân công cho đơn vị ngoại thương đó thu mua, nhưng đơn vị đã tranh thủ
lập được quan hệ cung cấp hàng xuất khẩu.
Trong mối quan hệ giữa hai nguồn hàng trên đây, phương châm giải
quyết là: cố gắng tận thu mua đối với nguồn hàng trong địa phương, tranh thủ
điều kiện thuận lợi khai thác nguồn hàng ngoài địa phương, hết sức tránh việc
"tranh mua" với tổ chức ngoại thương ở địa phương sở tại.
Ngoài những nguồn hàng đã kể trên đây, đối với những xí nghiệp và
liên hiệp xí nghiệp được giao quyền trực tiếp xuất khẩu thì nguồn hàng quan
trọng nhất là những sản phẩm của chính xí nghiệp mình hoặc của các xí
nghiệp thành viên.
Page 193
II - NGHIÊN CỨU NGUỒN HÀNG XUẤT KHẨU
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng, đơn vị ngoại thương phải
nghiên cứu nguồn hàng. Thông qua việc nghiên cứu nguồn hàng, ta có thể
nắm được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của các đơn vị trong ngành, và
ngoài ngành, trong địa phương và ngoài địa phương, quốc doanh và tư doanh
để khai thác, huy động cho xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng cũng còn tạo cơ sở chắc chắn cho việc ký kết
và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng: phương pháp lấy mặt
hàng làm đơn vị nghiên cứu và phương pháp lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị
nghiên cứu.
Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này, người ta
nghiên cứu tình hình khả năng sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng. Dùng
phương pháp này, người ta làm phiếu theo dõi đối với từng mặt hàng. Nói
chung, ở mỗi phiếu đều có những khoản mục như sau:
PHIẾU THEO DÕI MẶT HÀNG X
Yêu cầu của khách hàng
Nguồn hàng đã có quan hệ
Nguồn hàng chưa có quan hệ
Số
lượng
Giá trị Tên
người
cung
cấp
Số
lượng
Giá trị Tên
người
cung
cấp
Số
lượng
Giá trị
Dùng phương pháp này, ta có thể biết được tình hình chung về khả
năng sản xuất và nhu cầu xuất khẩu từng mặt hàng. Nhưng muốn tìm hiểu cụ
thể tình hình sản xuất của từng cơ sở thì phải vận dụng phương pháp thứ hai
sau đây.
Page 194
Lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu: Theo phương pháp này,
người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở
sản xuất. Năng lực này thể hiện thông qua các chỉ tiêu: số lượng và chất
lượng hàng cung cấp hàng năm, giá thành, tình hình trang thiết bị, trình độ kỹ
thuật, số lượng công nhân, trình độ tổ chức và quản lý.
Phương pháp này giúp ta nắm tình hình của từng xí nghiệp hoặc từng
địa phương, nhưng lại không nắm được tình hình sản xuất và tiêu thụ từng
mặt hàng. Do đó, các tổ chức kinh doanh xuất khẩu thường phải dùng cả hai
phương pháp để bổ sung lẫn cho nhau.
* LỰA CHỌN PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH HÀNG XUẤT KHẨU
Trong quan hệ giữa đơn vị ngoại thương với các đơn vị "chân hàng"
(tức đơn vị sản xuất, thu mua, chế biến hàng xuất khẩu), ba phương thức
giao dịch sau đây thường được vận dụng: xuất khẩu ủy thác, liên doanh, liên
kết xuất khẩu và thu mua hàng xuất khẩu.
I - XUẤT KHẨU ỦY THÁC
Trong phương thức xuất khẩu ủy thác, đơn vị "chân hàng" gọi là bên ủy
thác, giao cho đơn vị ngoại thương, gọi là bên nhận ủy thác, tiến hành xuất
khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận
ủy thác) nhưng với chi phí của bên ủy thác, về bản chất pháp lý, bên nhận ủy
thác là một đại lý hoa hồng của bên ủy thác. Cho nên phí ủy thác thực chất là
tiền thu lao (hoa hồng) trả cho đại lý. Trong trường hợp này, đơn vị ngoại
thương chắc chắn có hàng để giao cho khách hàng nhằm mục đích thực hiện
hợp đồng xuất khẩu.
II - LIÊN DOANH LIÊN KẾT XUẤT KHẨU
Trong phương thức này, đơn vị "chân hàng" cùng bỏ vốn kinh doanh
chung với đơn vị ngoại thương, lãi cung hưởng, lỗ cùng chịu, lãi lỗ và rủi ro
phân chia theo số vốn đóng góp của mỗi bên. Phần vốn góp của đơn vị chân
hàng thường là trị giá của bản thân hàng xuất khẩu, của đơn vị ngoại thương
Page 195
là khoản tiền để thu mua bổ sung hoặc để gia công, tái chế, đóng gói bao bì
và để chi những tạp phí về việc xuất khẩu.
III - THU MUA HÀNG XUẤT KHẨU
Phương thức thu mua trong trường hợp thu mua hàng nông lâm, thủy
sản được vận dụng khác với trường hợp thu mua hàng công nghiệp và thủ
công nghiệp.
1. Thu mua nông, lâm, thủy sản, đơn vị ngoại thương thường áp dụng những hình thức:
- Ký kết hợp đồng sản xuất, khai thác, đánh bắt với các đơn vị sản xuất
nông, lâm, thủy sản.
- Thu mua tự do từ những người sản xuất nhỏ trên cơ sở tự do thỏa
thuận về giá cả và các điều kiện giao dịch trong mỗi lần mua bán.
- Gia công nông nghiệp, trong đó đơn vị ngoại thương giao giống, phân
bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc cho đơn vị sản xuất nông nghiệp để đơn
vị này trồng trọt hoặc chăn nuôi ra thành phẩm xuất khẩu. Sau khi giao nộp
thành phẩm, đơn vị sản xuất được hưởng thù lao gia công.
- Đổi hàng đổi hạt, trong đó đơn vị ngoại thương giao cho đơn vị sản
xuất hàng tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất để đổi lấy sản phẩm xuất khẩu.
2. Thu mua công nghệ phẩm và hàng thủ công mỹ nghệ, đơn vị ngoại thương thường áp dụng những hình thức như:
- Bao tiêu (tức thu mua toàn bộ) đối với các xí nghiệp hoặc hợp tác xã
thủ công chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.
- Đặt hàng, trong đó đơn vị ngoại thương căn cứ vào nhu cầu của thị
trường ngoài nước đặt đơn vị sản xuất làm hàng xuất khẩu, đơn vị sản xuất
phải tự lo liệu cho mình những nguyên vật liệu cần thiết.
- Gia công, trong đó đơn vị ngoại thương giao nguyên vật liệu cho đơn
vị sản xuất để sau một thời gian sản xuất, sẽ thu hồi thành phẩm và trả cho
đơn vị sản xuất tiền thù lao (gọi là phí gia công).
Page 196
- Bán nguyên liệu ra, mua thành phẩm vào, trong đó đơn vị ngoại
thương tiến hành thu mua hàng xuất khẩu trên cơ sở bán nguyên liệu, theo
một định mức thỏa thuận cho đơn vị sản xuất để đơn vị này sản xuất ra hàng
xuất khẩu từ nguyên liệu nói trên.
- Đổi hàng, trong đó đơn vị ngoại thương giao cho đơn vị sản xuất một
hoặc một số lô hàng (tư liệu sản xuất hoặc vật liệu tiêu dùng) để đổi lấy sản
phẩm xuất khẩu.
Các hình thức thu mua trên đây có thể được vận dụng hoặc riêng rẽ,
hoặc kết hợp với nhau, tuy theo tình hình thị trường tùy theo yêu cầu của đơn
vị sản xuất, trên cơ sở chính sách của Nhà nước về quản lý nguyên liệu và
khuyến khích ngành nghề.
* HỢP ĐỒNG KÝ KẾT VỚI ĐƠN VỊ CHÂN HÀNG HÀNG XUẤT KHẨU
I - HỢP ĐỒNG GIAO DỊCH GIỮA CÁC ĐƠN VỊ TRONG NƯỚC ĐỀU LÀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Khái niệm
Việc giao dịch kinh tế giữa các đơn vị trong nước (trong đó có giao dịch
về hàng xuất khẩu) đều được tiến hành trên cơ sở tự nguyện ký kết hợp
đồng, gọi là hợp đồng kinh tế, theo đúng pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước
ban hành ngay 25/9/1989. Theo Pháp lệnh này, "Hợp đồng kinh tế là sự thỏa
thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện
công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy
định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế
hoạch của mình" (điều 1).
2. Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế là:
- Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các
chuẩn mực kinh tế - kỹ thuật.
- Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng.
Page 197
- Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế
của mình.
- Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo
đảm về tài sản của bên ký hợp đồng.
3. Các bên ký kết hợp đồng kinh tế là:
- Pháp nhân với pháp nhân.
- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
4. Người ký hợp đồng kinh tế phải là đại diện hợp pháp của pháp
nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh.
Người đứng đầu của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh
doanh có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký hợp đồng
kinh tế. Người được ủy quyền chỉ được ký hợp đồng kinh tế trong phạm vi
được ủy quyền và không được ủy quyền lại cho người thứ ba.
5. Nội dung của hợp đồng kinh tế bao gồm:
a. Ngày, thàng, năm ký hợp đồng kinh tế.
b. Tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên, họ tên
người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
c. Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc
giá trị quy ước đã thỏa thuận.
d. Chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng
hóa hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc.
đ. Giá cả.
e. Bảo hành.
f. Điều kiện nghiệm thu, giao nhận.
g. Phương thức thanh toán.
h. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Page 198
i. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế.
k. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế.
l. Các thỏa thuận khác.
Khi ký kết hợp đồng, các bên có quyền thỏa thuận áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng như: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài
sản theo quy định của pháp luật.
Các bên ký kết có thể làm chứng thư hợp đồng kinh tế tại cơ quan công
chứng, hoặc đăng ký ở cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
6. Việc thay đổi, đình chỉ, thanh lý hợp đồng kinh tế được làm bằng
văn bản trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Hợp đồng được thanh lý khi:
- Nó đã được thực hiện xong;
- Thời hạn hiệu lực của nó đã hết và các bên không thỏa thuận kéo dài
thời hạn đó;
- Nó bị đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ;
- Khi nó không được tiếp tục thực hiện do bên nhận chuyển giao nghĩa
vụ không đủ điều kiện thực hiện hợp đồng hoặc do bên ký kết phải giải thể.
7. Trách nhiệm tài sản của bên vi phạm hợp đồng kinh tế là phải trả
cho bên bị vi phạm tiền phạt bội ước từ 2% đến 12% giá trị phân hợp đồng bị
vi phạm và trong trường hợp có thiệt hại, bên vi phạm còn phải bồi thường
thiệt hại cho bên bị vi phạm.
8. Các tranh chấp phát sinh khi thực hiện hợp đồng kinh tế được giải
quyết bằng cách tự thương lượng giữa các bên với nhau và, nếu việc tự
thương lượng không có kết quả, được đưa ra giải quyết tại Tòa án kinh tế.
II - NHỮNG LOẠI HỢP ĐỒNG KINH TẾ THƯỜNG GẶP TRONG GIAO DỊCH CUNG ỨNG HÀNG XUẤT KHẨU
Page 199
Trong việc thu mua và cung ứng hàng xuất khẩu, người ta thường ký
kết những loại hợp đồng sau đây:
1. Hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu
Theo hợp đồng mua bán này, đơn vị "chân hàng" chuyển vào quyển sở
hữu của đơn vị ngoại thương một hoặc một số lô hàng xuất khẩu nhất định;
còn đơn vị ngoại thương có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu có thể là hợp đồng một chiều, nếu
đơn vị ngoại thương chỉ mua hàng xuất khẩu; hoặc có thể là hợp đồng hai
chiều nếu đơn vị ngoại thương vừa mua hàng xuất khẩu, vừa bán hàng đối
lưu. Hợp đồng hai chiều lại có thể là hợp đồng hai chiều có ứng trước vật tư,
nếu đơn vị ngoại thương giao vật tư đối lưu ngay từ trước thời vụ gieo trồng
để tới khi cuối vụ thu hoạch mới nhận hàng xuất khẩu.
Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu, ngoài
điều khoản tên hàng và số lượng ra, các bên thường chú trọng tới mấy điều
khoản sau đây:
- Phẩm chất hàng hóa cần được xác định căn cứ vào yêu cầu của thị
trường ngoài nước, nếu đã có hợp đồng hoặc đơn đặt hàng của nước ngoài,
hoặc nếu đã có kinh nghiệm về việc tiêu thụ mặt hàng đó trên thị trường ngoài
nước. Ngoài những trường hợp đó, phẩm chất hàng phải phù hợp với quy
định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước (TCVN, TCN) hoặc tiêu
chuẩn chất lượng của đơn vị đã đăng ký tại cơ quan tiêu chuẩn - đo lường -
chất lượng theo đúng quy định về đăng ký chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa.
- Giá cả hàng hóa là do các bên thỏa thuận trên cơ sở tham khảo về
tình hình thị trường, về giá cả của loại hàng tương tự, về chi phí sản xuất...
Tuy nhiên, nếu muốn khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, giá đó phải
được xác định sao để không những bù đắp được chi phí sản xuất mà người
sản xuất còn có lãi.
- Thời hạn giao hàng cần được xác định phù hợp với thời hạn giao
hàng đã cam kết với nước ngoài.
Page 200
- Về bao bì, đóng gói, nguyên tắc chung là khuyến khích đóng gói bao
bì hoàn chỉnh tại nơi sản xuất, thu mua, chế biến. Chỉ đối với những hàng mà
phẩm chất có thể bị thay đổi bởi ảnh hưởng của khí hậu thời tiết và những
hàng chưa hoàn chỉnh cỡ, mã thì đơn vị ngoại thương mới phải phân loại, làm
đồng bộ rồi tái chế đóng gói bao bì hoàn chỉnh.
- Việc thanh toán tiền hàng thường được thực hiện chủ yếu thông qua
các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như: Nhờ thu, ủy nhiệm chi,
séc bảo chi, séc định mức, séc chuyển khoản, thư tín dụng. Ngoài ra, trong
một số trường hợp các bên ký kết củng có khi thỏa thuận thanh toán bằng
tiền mặt.
2. Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu
Theo hợp đồng gia công này, đơn vị ngoại thương giao nguyên vật liệu
hoặc bán thành phẩm cho đơn vị sản xuất và yêu cầu đơn vị sản xuất gia
công, chế biến chúng thành ra sản phẩm xuất khẩu. Đơn vị ngoại thương sau
khi nhận thành phẩm xuất khẩu phải trả phí gia công.
Về bản chất pháp lý, hợp đồng gia công khác hẳn với hợp đồng lao
động. Theo hợp đồng lao động, người lao động không phải chịu rủi ro và chi
phí trong quá trình gia công. Còn theo hợp đồng gia công, người sản xuất
phải chịu mọi rủi ro và chi phí để chế biến từ nguyên vật liệu ra loại thành
phẩm mà hợp đồng đã quy định.
Trong hợp đồng gia công, người ta thường chú trọng đến các điều
khoản như:
- Điều khoản về tên gọi, số lượng và chất lượng thành phẩm;
- Điều khoản về chủng loại, số lượng và chất lượng nguyên vật liệu;
- Điều khoản về định mức hao phí nguyên vật liệu;
- Điều khoản về giao hàng (thời hạn, địa điểm, điều kiện giao hàng và
về nghiệm thu (địa điểm, thời hạn và phương thức nghiệm thu).
Page 201
- Điều khoản về chi phí gia công, bao gồm: tiền thù lao gia công, chi phí
nguyên vật liệu phụ mà bên nhận gia công tự mua sắm, chi phí bao bì đóng
gói và làm thủ tục xuất nhập khẩu.
- Điều khoản về thanh toán.
3. Hợp đồng đại lý thu mua hàng xuất khẩu
Theo hợp đồng loại này, đơn vị ngoại thương ủy nhiệm cho đơn vị nội
thương, hợp tác xã mua bán hoặc cho cá nhân (có đăng ký kinh doanh) tiến
hành thu mua hàng xuất khẩu tại một địa phương nhất định. Đơn vị ngoại
thương phải trả cho đơn vị thu mua một khoản thù lao nhất định gọi là phí đại
lý thu mua.
Trong hợp đồng đại lý thu mtua, người ta phải quy định cụ thể về các
vấn đề như:
- Những yêu cầu đối với hàng hóa: tên hàng, quy cách, phẩm chất, sự
phân loại, sơ chế, đóng gói bao bì...
- Địa bàn thu mua;
- Giá thu mua (giá tối thiểu va giá tối đa);
- Thời hạn và địa điểm giao hàng; phương thức giao hàng, phương
thức nghiệm thu;
- Thù lao đại lý: thù lao này có thể tính thành mức % so với doanh số,
hoặc thành khoản chênh lệch giữa giá mua vào của đại lý với giá bán cho
đơn vị ngoại thương;
- Thanh toán, bao gồm: thanh toán tiền hàng, thanh toán thù lao đại lý
và thanh toán những khoản chi mà đơn vị thu mua đã phải ứng chi.
4. Hợp đồng ủy thác xuất khẩu
Theo hợp đồng này đơn vị "chân hàng" (gọi là bên ủy thác) ủy thác cho
đơn vị ngoại thương (gọi là bên nhận ủy thác) tiến hành xuất khẩu những
hàng hóa nhất định với danh nghĩa của bên nhận ủy thác nhưng với chi phí
do bên ủy thác chịu. Theo Thông tư của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương
Page 202
mại) số 03 BNgT/XK ngày 11/01/1984 thì trách nhiệm của hai bên trong hợp
đồng ủy thác xuất khẩu như sau:
Bên ủy thác xuất khẩu có trách nhiệm đối với hàng hóa cho đến tận lúc
hàng được chuyển cho khách hàng ở nước ngoài; chỉ được ủy thác cho một
đơn vị xuất khẩu, phải chuẩn bị hàng hóa, đóng gói hàng hoàn chỉnh và vận
chuyển hàng đến cảng (nếu không có khả năng đóng gói, bao bì vận chuyển
thì có thể giao cho bên nhận ủy thác làm với chi phí do bên nhận ủy thác
chịu); cung cấp các thông tin cần thiết cho việc chào bán; trả chi phí ủy thác.
Bên nhận ủy thác phải khẩn trương giao dịch đàm phán, ký hợp đồng
xuất khẩu với điều kiện có lợi nhất; phải làm mọi việc cần thiết để giải quyết
khiếu nại (nếu có) một cách hợp tình, hợp lý, theo yêu cầu của bên ủy thác,
giúp đỡ bên ủy thác về phẩm chất, bao bì, làm thủ tục v.v... với chi phí do bên
ủy thác chịu.
5. Hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu
Theo hợp đồng này, đơn vị chân hàng và đơn vị ngoại thương cùng
chung vốn, chung sức, chung chịu rủi ro để kinh doanh xuất khẩu.
Hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu có thể là liên kết nhất thời
(trong một việc giao dịch xuất khẩu nào đó) có thể là liên kết kinh doanh trong
một đơn vị thời gian (6 tháng, một năm)... Sự liên kết kinh doanh cũng có thể
đối với một hoặc một số mặt hàng.
Hợp đồng liên doanh thường có những nội dung như: số vốn góp của
mỗi bên, phương pháp và hình thức góp vốn; trách nhiệm của mỗi bên trong
hoạt động kinh doanh (như xin hạn ngạch, thu mua và bao bì đóng gói, vận
chuyển và giao nhận, nộp thuế và làm thủ tục thanh toán v.v...); cách hạch
toán lỗ lãi; thời hạn và phương pháp quyết toán, cách rút vốn và đình chỉ kinh
doanh v.v...
* TIẾP NHẬN BẢO QUẢN VÀ XUẤT KHO GIAO HÀNG XUẤT KHẨU
I - TIẾP NHẬN HÀNG
Page 203
Trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết, đơn vị "chân hàng" giao hàng
cho đơn vị ngoại thương và đơn vị ngoại thương phải tiếp nhận hàng đó.
1. Chuẩn bị nhận hàng
Muốn tiếp nhận tốt hàng xuất khẩu, đơn vị ngoại thương phải chuẩn bị
chu đáo. Việc chuẩn bị này gồm các mặt sau:
a. Chuẩn bị kho chứa, tức là căn cứ vào loại hàng sẽ nhận, số lượng
của nó, đặc điểm về phẩm chất và bao bì của nó để chuẩn bị diện tích kho,
bãi và vị trí để hàng cho phù hợp với quy hoạch của kho.
b. Chuẩn bị phương tiện bốc dỡ - vận chuyển phù hợp với loại hàng,
khối lượng hàng sẽ nhận, phù hợp với khoảng cách từ nơi nhận hàng đến nơi
chứa hàng.
c. Chuẩn bị thiết bị và dụng cụ cần thiết để cân, đo, đong, đếm, kiểm
nghiệm...
d. Chuẩn bị cán bộ và công nhân tiếp nhận, căn cứ vào đặc điểm và
khối lượng hàng hóa.
e. Chuẩn bị các giấy tờ và chứng từ cần thiết theo thủ tục quy định.
2. Nhận hàng
a) Nhận hàng theo số lượng: Nhận theo số lượng là việc người nhận
hàng kiểm tra số lượng hàng thực nhận và đối chiếu với số lượng hàng trên
chứng từ kèm theo (như hợp đồng kinh tế, phiếu giao, hóa đơn, vận đơn
v.v...)
Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng loại hàng và cách đóng gói mà
có thể dùng phương pháp cân, đo hoặc đong hoặc đếm.
Việc nhận hàng theo số lượng phải do bên nhận hàng trực tiếp thực
hiện và có bên giao hàng tham gia để kịp thời phát hiện những sự mất mát,
thừa thiếu hàng hóa.
Đối với những hàng hóa nhận từ các cơ quan vận tải (sắt, thủy, bộ)
không có người của đơn vị giao hàng đi theo thì bên nhận hàng cùng với đại
Page 204
diện của cơ quan vận tải phải tiến hành kiểm tra sơ bộ khi hàng còn ở trên
phương tiện vận tải, xác định xem hàng có bị mất mát ở dọc đường hoặc còn
nguyên niêm phong cặp chì. Sau đó mới nhận hàng bằng cách cân, đo, đong,
đếm để xác định so lượng.
b) Nhận hàng theo chất lượng: Nhận theo chất lượng là xác định hàng
hóa có đúng phẩm chất, quy cách, kích thước, đồng bộ theo quy định hay
không. Nội dung của việc nhận theo chất lượng bao gồm những sự xác định
về:
- Tính chất cơ, lý, hóa của hàng hóa;
- Hình thái, màu sắc, kích thước, đề tài của hàng hóa;
- Sự đồng bộ của hàng hóa;
- Số lượng hàng hư hỏng và mức độ hàng hư hỏng;
- Số lượng hàng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu;
- Ký mã hiệu hàng hóa.
Việc tiếp nhận hàng theo số lượng và chất lượng phải được tiến hành
đồng thời và phải hoàn thành đồng thời trong một thời gian ngắn nhất nhằm
tránh lãng phí thời gian, phương tiện và nhân công, tránh để hàng hóa lưu
kho bãi quá lâu gây nên hư hỏng, mất mát.
II – BẢO QUẢN HÀNG TRONG KHO
Mục đích của việc bảo quản hàng xuất khẩu trong kho là để tiếp tục làm
thủ tục xuất khẩu, hoặc đẻ chờ đợi người mua mở L/C, chờ đợi phương tiện
vận tải, hoặc có khi để phân loại tái chế v.v...
Nội dung công việc này gồm có các khâu sau đây:
1. Bố trí hợp lý địa điểm bảo quản hàng, cụ thể là:
- Lựa chọn các loại kho có kiến trúc phù hợp với tính chất của từng loại
hàng;
- Xác định vị trí cho từng nhóm hàng;
Page 205
- Xếp đặt hàng bảo đảm giãn cách cần thiết giữa các vị trí chất xếp,
giữa vị trí chất xếp với các tường kho và mái kho;
- Bố trí cách ly những hàng kỵ nhau. Ví dụ: Không để hàng dễ tỏa mùi
bên cạnh hàng dễ hút mùi, hàng dễ bốc cháy bên cạnh hàng dễ bén lửa,
hàng có hàm lượng nước cao bên cạnh hàng dễ hút nước.
2. Chất xếp hàng hóa một cách khoa học, nhằm vừa tiết kiệm diện tích
kho chứa, vừa bảo quản chất lượng hàng, vừa bảo đảm dễ chăm sóc và dễ
xuất kho.
Ba phương pháp cơ bản để chất xếp là: đổ đống, xếp thành chồng và
xếp lên giá hàng.
3. Điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm trong kho bằng những cách như: thông
gió, hút ẩm (bằng silicagen, calci chlorure, vôi sống...) hoặc tăng thêm độ ẩm
(đối với hàng rau quả tươi, xăng dầu...); chống nóng cho hàng hóa; hạn chế
tác động có hại của ánh nắng; ngăn cản hơi nước và ôxy ăn mòn kim loại.
4. Trị trùng bọ, nấm mốc, chuột, mối.
5. Thực hiện chế độ vệ sinh kho tàng.
6. Phòng chống thiên tai và kẻ gian phá hoại.
7. Quản lý tốt định mức hao hụt hàng hóa để giảm thiểu định mức này.
Ill - XUẤT KHO GIAO HÀNG
Việc xuất kho giao hàng có thể có nhiều mục đích khác nhau như: để
xuất khẩu, để đưa gia công chế biến, để bán trong nước, để điều chuyển giữa
các kho v.v... Nhưng dù có mục đích nào, việc xuất kho giao hàng đều phải
đúng với các thủ tục quy định và phải có đầy đủ các văn bản hợp lệ.
1. Chuẩn bị giao hàng
Trước khi xuất kho giao hàng, cần làm những việc cụ thể như:
a) Đối chiếu lệnh xuất kho với hàng hóa thực có ở kho.
b) Hoạch định thời gian và trình tự giao các loại hàng.
Page 206
c) Chuẩn bị hàng hóa về các mặt: phân lô, phân loại, kiểm tra bao bì và
ký mã hiệu, xác định số lượng.
d) Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện vận chuyển, nhân lực và địa điểm để
tiến hành giao hàng.
2. Giao hàng
a) Hướng dẫn công nhân bốc hàng để tránh nhầm lẫn và tránh làm
hỏng hàng.
b) Soát lại số lượng kiện và tình trạng của bao bì, ký mã hiệu.
c) Cùng với người nhận hàng tiến hành kiểm tra về số lượng và chất
lượng hàng.
d) Người giao hàng và người nhận hàng ký "phiếu xuất kho" hoặc
"phiếu giao hàng".
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Để huy động hàng xuất khẩu, chúng ta có những phương thức nào?
Mỗi phương thức đó có những ưu điểm nào, nhược điểm nào?
2. Hợp đồng kinh tế là gì? Nó có những gì khác và giống hợp đồng mua
bán ngoại thương?
3. Để thu mua hàng xuất khẩu, chúng ta có thế phải ký kết những loại
hợp đồng nào? Mỗi loại hợp đồng đó có nội dung gì?
4. Bản chất pháp lý của hợp đồng ủy thác xuất khẩu là gì? Trong quan
hệ hợp đồng ủy thác xuất khẩu, trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên thế nào?
5. Hãy trình bày mối quan hệ giứa hợp đồng kinh tế thu mua hàng xuất
khẩu với hợp đồng xuất khẩu ký kết với người mua ở nước ngoài.
6. Giá hàng xuất khẩu được xác định thế nào?
7. Hàng xuất khẩu được công ty xuất khẩu trả tiền cho đơn vị cung ứng
theo những phương thức nào?
BÀI TẬP
Page 207
Giả dụ doanh nghiệp của bạn đã ký hợp đồng xuất khẩu No.U-T/04/92
(xem phụ lục số 1 dưới đây) với nước ngoài. Để thực hiện hợp đồng đó, bạn
phải ký hợp đồng kinh tế mua số lạc nhân đủ giao cho nước ngoài. Bạn hãy
dự thảo hợp đồng kinh tế đó.
Chương 10. GIAO DỊCH TRONG NƯỚC VỀ HÀNG NHẬP KHẨU
Các đơn vị kinh tế trong nước muốn nhập khẩu hàng hóa (hoặc bằng
ngoại tệ tự có, hoặc được Nhà nước cấp ngoại tệ) nhiều khi gặp khó khăn
như: không có hạn ngạch nhập khẩu, chưa được phép trực tiếp nhập khẩu,
chưa có kinh nghiệm trực tiếp giao dịch với thị trường ngoài nước v.v... Trong
những trường hợp đó, họ phải nhập khẩu thông qua đơn vị ngoại thương. Mối
quan hệ giữa hai đơn vị này được xác định từ lúc có đơn hàng nhập khẩu đến
lúc nhận hàng nhập khẩu, thanh toán và khiếu nại (nếu có).
* ĐƠN ĐẶT HÀNG NHẬP KHẨU
1. Ý nghía của đơn đặt hàng nhập khẩu trong quan hệ giữa đơn vị ngoại thương với đơn vị đặt hàng
Một khi muốn nhập khẩu hàng hóa, dù dưới hình thức ủy thác nhập
khẩu (bằng vốn ngoại tệ tự có) hay dưới hình thức mua đoạn của đơn vị
ngoại thương, các đơn vị đặt hàng phải có đơn đặt hàng. Như vậy, đơn đặt
hàng tạo cơ sở cho việc lập quan hệ giữa hai bên.
Dựa trên đơn đặt hàng, đơn vị ngoại thương ký kết hợp đồng kinh tế
với đơn vị đặt hàng, lập đơn hàng ngoại và ký kết hợp đồng với nước ngoài.
Do đó, đơn đặt hàng là một tài liệu pháp lý ban đầu cho các hoạt động nghiệp
vụ nhập khẩu. Chính vì thế, theo Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973, nếu đơn
vị ngoại thương đã căn cứ vào đơn đặt hàng để đàm phán với nước ngoài và
được nước ngoài chấp nhận thì đơn vị đặt hàng dù có ký hợp đồng hay từ
chối ký hợp đồng với đơn vị ngoại thương cũng phải nhận hàng và trả tiền
hàng (điều 13).
Page 208
2. Nội dung đơn đặt hàng
Đơn hàng thường gồm những nội dung sau đây:
- Tên và địa chỉ đơn đặt hàng, số hiệu tài khoản và ngân hàng giao
dịch;
- Số và ngày tháng lập đơn đặt hàng;
- Tên hàng (bằng tiếng Việt và ngoại ngữ);
- Quy cách phẩm chất (cần có dung sai);
- Mục đích sử dụng;
- Số lượng (cần ghi rõ số lượng tối thiểu, tối đa);
- Ước giá
- Thời hạn và địa điểm hàng về ở Việt Nam.
3. Điều kiện để đơn đặt hàng có hiệu lực
- Đơn hàng phải phù hợp với hạn ngạch nhập khẩu (NK) do Bộ Thương
mại cấp, hoặc phải phù hợp với kế hoạch xuất nhập khẩu đã được đăng ký tại
Bộ Thương mại (nếu là mặt hàng NK trong phạm vi Nghị định thư hoặc là
hàng nhập khẩu ngoài Nghị định thư mà không cần hạn ngạch).
- Đơn hàng phải đầy đủ thủ tục quy định cho việc lập đơn hàng. Chẳng
hạn, nếu là hàng ủy thác nhập khẩu thì đơn hàng phải kèm với chứng nhận
của Ngân hàng về việc đơn vị đặt hàng có vốn ngoại tệ. Nếu là hàng nhập
khẩu bằng vốn ngân sách thì đơn hàng phải được cấp có thấm quyền phê
duyệt.
- Nội dung của đơn đặt hàng phải rõ ràng, ví dụ, không gây ra hiểu lầm
giữa mặt hàng này với mặt hàng khác.
* HỢP ĐỒNG KINH TẾ VỀ HÀNG NHẬP KHẨU
Cũng như mọi nghiệp vụ kinh tế khác ở nước ta, hoạt động hợp đồng
cũng phải thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế. Chế độ
hợp đồng kinh tế đã được giới thiệu tóm tắt ở chương IX. Trong chương này,
Page 209
chúng tôi chỉ xin trình bày một số nét đặc thù của hợp đồng kinh tế về nhập
khẩu theo chế độ ủy thác NK (bằng vốn tự có) và hợp đồng kinh tế về nhập
khẩu bằng vốn do ngân sách cấp.
1. Hợp đồng ủy thác nhập khẩu
Theo hợp đồng này, đơn vị đặt hàng gọi là bên ủy thác giao cho đơn vị
ngoại thương gọi là bên nhận ủy thác, tiến hành nhập khẩu một số lô hàng
nhất định. Bên nhận ủy thác phải ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu với
danh nghĩa của mình nhưng bằng chi phí của bên ủy thác.
Trên cơ sở thông tư số 03 BNgT/XK ngày 11/1/1984 của Bộ Ngoại
thương (nay là Bộ Thương mại), ta thấy trách nhiệm của bên ủy thác và bên
nhận ủy thác nhập khẩu như sau:
- Bên ủy thác nhập khẩu phải: Đưa đơn hàng kèm theo xác nhận của
ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về khả năng thanh toán, tham gia giao
dịch mua hàng, khi hàng về phải mở hòm trong vòng 1 tháng và nếu phát hiện
hàng không đúng hợp đồng hoặc hàng tổn thất, phải để nguyên trạng đồng
thời mời công ty Giám định tới lập biên bản giám định, phải trả chi phí ủy thác.
- Bên nhận ủy thác phải: ký hợp đồng nhập khẩu với điều kiện có lợi
cho bên ủy thác; thực hiện các thủ tục hải quan, kiểm tra chất lượng, báo tin
hàng về... và giúp đỡ mọi mặt để bên ủy thác có thể nhận hàng; tiến hành cac
biện pháp hạn chế tổn thất nếu hàng về có hư hỏng tổn thất.
2. Hợp đồng mua bán hàng nhập khẩu
Theo hợp đồng này, đơn vị ngoại thương chịu mọi rủi ro và chi phí để
nhập khẩu hàng hóa cho đơn vị đặt hàng trên cơ sở đơn đặt hàng của đơn vị
đặt hàng, còn đơn vị đặt hàng phải nhận hàng và trả tiền hàng.
Theo Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973, một số nội dung sau đây đã
được quy định cho mối quan hệ hợp đồng mua bán hàng nhập khẩu:
a) Về đối tượng của hợp đồng và thời hạn giao hàng:
Page 210
Đơn vị ngoại thương phải ký kết hợp đồng với nước ngoài theo đúng
đơn đặt hàng về các mặt tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, điều kiện
kỹ thuật và thời hạn giao hàng.
Nếu cần thay đổi về quy cách, phẩm chất, thời hạn giao hàng v.v... khi
ký hợp đồng với nước ngoài, đơn vị ngoại thương phải có sự thỏa thuận của
đơn vị đặt hàng, nếu không đơn vị đặt hàng có quyền từ chối nhận hàng và
không thanh toán tiền hàng.
Sau khi đơn vị ngoại thương đã ký hợp đồng với nước ngoài theo đúng
đơn đặt hàng thì đơn vị đặt hàng không được điều chỉnh đơn đặt hàng, trừ
trường hợp có thể thương lượng được với nước ngoài.
b) Về giá hàng nhập khẩu:
Ngày nay, người ta thường tính giá này bằng giá bán lẻ trừ đi chiết
khấu thương nghiệp (bán buôn và bán lẻ) hoặc bằng giá nhập khẩu nguyên tệ
theo điều kiện CIF cảng Việt Nam nhân với tỉ giá hối đoái hiện hành cộng với
phí và lãi của đơn vị ngoại thương.
c) Về thanh toán tiền hàng nhập khẩu:
Phương thức thanh toán được áp dụng là: Nhờ thu có chấp nhận có cải
tiến. Theo phương pháp này, trước khi hàng về, đơn vị ngoại thương phải gửi
"hóa đơn báo trước" cho đơn vị đặt hàng để, nếu chấp nhận hóa đơn đó, đơn
vị đặt hàng phải chuẩn bị tiền hàng và gửi vào tài khoản ở ngân hàng.
Khi hàng về, đơn vị ngoại thương phải xuất trình cho ngân hàng bộ
chứng từ thanh toán gồm: lệnh giao hàng có đóng dấu ghi rõ ngày dỡ lô hàng
đầu tiên ra khỏi tàu biển; hóa đơn bán hàng, giấy nhờ thu, các giấy tờ khác
mà hai bên đã thỏa thuận.
Trong phạm vi 5 ngày kể từ ngày dỡ lô hàng đầu tiên ra khỏi tàu biển,
đơn vị đặt hàng phải trả tiền hàng nhập khẩu. Quá thời hạn đó, ngân hàng
bên mua sẽ tự động trích tài khoản của đơn vị đặt hàng để trả cho đơn vị
ngoại thương. Nếu đơn vị đặt hàng đã nhận được hàng mà chưa có chứng từ
thanh toán thì chỉ phải trả tiền hàng cho đơn vị ngoại thương trong phạm vi 5
Page 211
ngày kể từ ngày ngân hàng chuyển giấy nhờ thu và chứng từ thanh toán hàng
nhập cho đơn vị đặt hàng (theo Thông tư Liên Bộ Tài chính - Ngoại thương -
Ngân hàng số 13 TT/LB ngày 10/7/1974).
* GIAO NHẬN VÀ KIỂM TRA HÀNG NHẬP KHẨU
Những quy định sau đây tại Nghị định 200/CP ngày 31 12/1973 vẫn có
hiệu lực đối với hàng nhập khẩu, dù hàng đó nhập khẩu theo hợp đồng ủy
thác hay theo hợp đồng mua bán (đặt hàng).
1. Về người tiếp nhận hàng nhập khẩu
Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 đã một lần nữa khẳng định sự phân
công đã được nêu lên từ trước (Nghị định 38/CP ngày 8/3/1962) là: Các cơ
quan giao thông (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các
phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa đó trong quá trình
xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng
của đơn vị ngoại thương. Muốn vậy, đơn vị ngoại thương phải ký hợp đồng
ủy thác cho cơ quan giao thông (ga, cảng).
2. Về địa điểm giao hàng
Hàng nhập khẩu, về nguyên tắc, được đơn vị ngoại thương giao cho
đơn vị đặt hàng tại cảng Việt Nam (nếu hàng về đường biển) hoặc tại biên
giới Việt Nam (nếu hàng về bằng đường bộ, đường sắt). Theo yêu cầu của
đơn vị đặt hàng, đơn vị ngoại thương có thể giao hàng tại một địa điểm ấn
định trong hợp đồng kinh tế. Trong trường hợp này, đơn vị đặt hàng phải chịu
thêm phí vận chuyển từ cảng hoặc biên giới về đến địa điểm giao hàng.
3. Về thông báo giao hàng
Để chuẩn bị cho công việc giao nhận được tốt, đơn vị ngoại thương
phải thông báo tình hình hàng hóa từ nước ngoài về cho đơn vị đặt hàng
được biết. Trong trường hợp hàng về đường biển, phải có thông báo hai lần:
- Lần thứ nhất: ít nhất 7 ngày trước khi tàu đến cảng Việt Nam (địa
điểm hoa tiêu).
Page 212
- Lần thứ hai: trong vòng 24 giờ sau khi tàu đến cảng Việt Nam (địa
điểm hoa tiêu).
Nếu hàng về từ một cảng châu Á thì chỉ cần báo một lần, sau khi tàu
đến cảng Việt Nam theo cách thức báo lần thứ hai trên đây.
4. Trình tự giao nhận hàng
Khi nhận được giấy báo của đơn vị ngoại thương, đơn vị đặt hàng cử
người đến gặp đại diện của đơn vị ngoại thương tại ga hoặc cảng để nhận
"lệnh giao hàng", sau đó mang lệnh giao hàng cùng với hồ sơ chứng từ ra ga
hoặc cảng để nhận hàng.
Nếu chậm cử người đến nhận hàng, đơn vị đặt hàng phải chịu phí tổn
lưu kho, lưu bãi và chịu mọi rủi ro tổn thất do việc chậm trễ đó gây nên.
Nếu đơn vị đặt hàng mang phương tiện vận tải đến nhận hàng mà cảng
(hoặc ga) không giao hàng đúng thời hạn quy định thì cảng (hoặc ga) phải bồi
thường mọi phí tổn cho đơn vị đặt hàng.
Hàng giao theo số lượng ghi trên vận đơn.
Hàng được giao theo lô, theo vận đơn. Nếu hàng xếp trên tàu biển
(hoặc toa xe) không theo đúng lô, vận đơn thì khi dỡ hàng, cảng (hoặc ga)
phải chọn lọc, sắp xếp cho đúng lô hàng, vận đơn.
Đối với hàng hư hỏng, thừa thiếu cảng (ga) phải xếp riêng và có biên
bản kèm theo.
5. Kiểm tra và khiếu nại hàng nhập khẩu
Khi nhận hàng nhập khẩu, đơn vị đặt hàng phải tiến hành kiểm tra, phát
hiện thiếu hụt, mất mát, tổn thất để kịp thời khiếu nại đòi bồi thường.
Đối với hàng giao lẻ, nếu số lượng, trọng lượng hàng bị thừa thiếu thì
cảng (ga) phải lập biên bản thừa thiếu với đơn vị đặt hàng và gửi cho đơn vị
ngoại thương một bản sao. Nếu cảng (ga) không chịu lập biên bản giao nhận
thì đơn vị đặt hàng báo cho đại diện đơn vị ngoại thương cùng với hải quan
Page 213
lập biên bản. Biên bản này có giá trị pháp lý và cảng (ga) phải bồi thường nếu
việc thiếu hụt hàng đó do những thiếu sót về quản lý của cảng (ga) gây nên.
Đối với hàng bị tổn thất hay nghi là bị tổn thất thì, trước khi nhận hàng,
đơn vị đặt hàng phải yêu cầu công ty giám định (VINACONTROL) làm giám
định tại địa điểm giao hàng.
Đối với nhứng lô hàng lớn được giao theo phương thức nguyên toa,
nguyên tàu, thì sau khi giao hàng xong cho đơn vị đặt hàng, cảng (ga) phải
kết toán và, nếu thiếu hụt, mất mát phải có biên bản giao nhận hợp lệ.
Đối với hàng giao nguyên đai, nguyên kiện, khi về kho của mình đơn vị
đặt hàng mới phát hiện thiếu hụt, hư hỏng bên trong hoặc quy cách phẩm
chất không phù hợp với hợp đồng thì đơn vị đặt hàng phải giữ nguyên trạng
hàng hóa và báo ngay cho đơn vị ngoại thương biết để cử người xem xét và
xin giám định. Quá 5 ngày kể từ ngày báo, nếu đơn vị ngoại thương không trả
lời, đơn vị đặt hàng phải yêu cầu công ty giám định (VINACONTROL) đến xét
nghiệm và lập biên bản giám định để đòi bồi thường.
Đơn vị đặt hàng phải kiểm tra và phát hiện mất mát, thiếu hụt, sai quy
cách, tổn thất trong thời gian ngắn nhất:
- Trong vòng 30 ngày đối với thiếu hụt về số lượng, trọng lượng.
- Trong vòng 45 ngày đối với hàng sai quy cách phẩm chất.
Thời hạn này tính từ ngày dỡ hàng tại phương tiện vận tải nước ngoài
về, trừ trường hợp có quy định riêng trong hợp đồng kinh tế.
Quá thời hạn kể trên, đơn vị ngoại thương có quyền từ chối việc khiếu
nại của đơn vị đặt hàng.
* MỘT SỐ NÉT RIÊNG TRONG GIAO DỊCH HÀNG NHẬP LÀ THIẾT BỊ TOÀN BỘ
Trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đơn vị đặt hàng và đơn vị ngoại
thương vừa phải tuân thủ Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 (về Điều lệ
nhập khẩu), vừa phải tuân thủ những văn bản pháp quy riêng cho mặt hàng
Page 214
này. Đặc biệt trong số các văn bản đó, có Thông tư của Hội đồng Chính phủ
số 07/TTg ngày 6/1/1961.
Khái niệm
Theo Thông tư 07/TTg ngày 6/1/1961, "thiết bị toàn bộ là nhà máy, cơ
sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cơ sở khoa học hay thí nghiệm, bệnh
viện, trường học, công trình kiến trúc, công trình thủy lợi, công trình giao
thông bưu điện v.v... nhờ nước ngoài thiết kế hoặc giúp ta thiết kế, do nước
ngoài cung cấp thiết bị, nguyên liệu sản xuất thử, hướng dẫn xây lắp và sản
xuất thử. Ngoài ra, căn cứ vào tình hình đặc biệt, có thể có một số thiết bị tuy
không đủ các điều kiện trên nhưng được ủy ban Kế hoạch Nhà nước duyệt là
thiết bị toàn bộ, thì cũng được coi là thiết bị toàn bộ.
Thay đổi số lượng, quy cách và lịch thi công
Sau khi hợp đồng đã được ký với nước ngoài, mọi thay đổi về số
lượng, quy cách thiết bị và lịch thi công đều phải được bàn bạc thống nhất
giữa đơn vị ngoại thương với đơn vị đặt hàng. Sự thay đổi đó chỉ được thể
hiện nếu nước ngoài thỏa thuận. Chi phí do sự thay đổi đó gây ra sẽ tính theo
nguyên tắc: bên nào yêu cầu có sự thay đổi đó thì bên đó phải chịu chi phí.
Trong trường hợp thiết bị toàn bộ được nhập khẩu bằng vốn ngân sách
Nhà nước (Trung ương) cấp, nếu sự thay đổi số lượng và quy cách thiết bị lại
ảnh hưởng đến công suất thiết kế của công trình thì sự thay đổi đó phải được
ủy ban Xây dựng Nhà nước duyệt. Việc thay đổi lịch trình thi công trong
trường hợp này cũng phải được ủy ban Xây dựng Nhà nước cho phép.
Kiểm tra hàng nhập khẩu
Thiết bị toàn bộ nhập khẩu thường qua hai lần kiểm tra:
- Lần đầu, các thiết bị, dụng cụ, nguyên liệu sản xuất thử về đến nước
ta đều phải được kiểm tra những hàng lẻ và thiết bị lẻ nhập khẩu, theo đúng
quy định đã được trình bày ở mục "giao nhận và kiểm tra hàng nhập khẩu"
thuộc chương này.
Page 215
- Lần thứ hai, sau khi công trình vừa hoàn thành, một Ban nghiệm thu
sẽ được thành lập gồm các đại diện của đơn vị đặt hàng, của đơn vị thi công,
của người bán (bên cung cấp thiết bị toàn bộ) để tiến hành kiểm kê và đánh
giá từng hạng mục. Nếu có hư hỏng, mất mát, thiếu hụt, đổ vỡ..., Ban này sẽ
tùy trường hợp xử lý mà khiếu nại đòi bồi thường.
Thanh toán tiền hàng
Trình tự tiến hành thanh toán thiết bị toàn bộ cũng được thực hiện
giống như đối với hàng lẻ và thiết bị lẻ (xem mục "Hợp đồng kinh tế về hàng
nhập khẩu" tiểu mục 2 điểm c). Tuy nhiên ngân hàng làm nhiệm vụ thanh toán
hàng thiết bị toàn bộ là hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển, chứ không
phải là ngân hàng công thương hay ngân hàng nông nghiệp. Ví dụ:
Nếu thiết bị toàn bộ do các Bộ, các ngành Trung ương đặt hàng bằng
vốn ngân sách Trung ương, Bộ chủ quản phải căn cứ vào số vốn đầu tư xây
dựng cơ bản và theo kế hoạch hàng về mà lập hạn mức vốn hàng quý để xin
ngân sách Nhà nước cấp. Hạn mức này phải gửi vào tài khoản ở Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Trung ương để sẵn sàng thanh toán tiền hàng nhập
khẩu.
Nếu thiết bị toàn bộ phân phối cho địa phương và thanh toán bằng vốn
trợ cấp của ngân sách Trung ương, khi có chứng từ thanh toán hàng nhập
của đơn vị ngoại thương, Bộ Tài chính dùng vốn thuộc ngân sách Trung
ương trợ cấp kiến thiết cơ bản cho ngân sách địa phương thông qua Ngân
hàng Đầu tư Phát triển Trung ương, làm các thủ tục cấp phát và thanh toán
thẳng cho đơn vị ngoại thương.
Nêu thiết bị toàn bộ nhập khẩu thuộc các công trình xây dựng của địa
phương và do vốn tự có của ngân sách địa phương thanh toán, Ủy ban Nhân
dân Tỉnh, Thành phố chỉ định đơn vị phụ trách nhập hàng: đơn vị này phải xin
hạn mức của địa phương và gửi vào ngân hàng Đầu tư Phát triển của địa
phương để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Page 216
1. Hãy trình bày nội dung và giá trị hiệu lực của đơn đặt hàng trong mối
quan hệ giữa công ty xuất nhập khẩu với đơn vị trong nước đặt mua hàng
nhập khẩu.
2. Để mua bán hàng nhập khẩu ở trong nước chúng ta có những loại
hợp đồng nào? Hãy phân tích nội dung của những hợp đồng.
3. Hàng nhập khẩu được giao từ Công ty xuất nhập khẩu cho đơn vị
đặt mua hàng đó tại đâu? Vào thời điểm nào? Chi phí giao nhận này được
phân chia thế nào giữa đơn vị đặt mua với công ty xuất nhập khẩu?
4. Một khi hàng nhập khẩu về đến nơi trong tình trạng thiếu, mất, hư
hỏng, đơn vị đặt mua phải làm những thủ tục nào và lấy những chứng từ nào
để khiếu nại đòi bôi thường? Thời hạn khiếu nại là bao lâu?
5. Nếu hàng nhập khẩu là thiết bị toàn bộ thì việc giao nhận tiến hành
như thế nào? Trách nhiệm của công ty xuất nhập khẩu đối với hàng thiếu,
mất, hư hỏng như thế nào?
BÀI TẬP
Một nhà máy có trụ sở tại Thái Nguyên đã đặt mua 50 tấn hàng A, hàng
giao tại ga Yên Viên. Khi hàng về đến Yên Viên, nhà máy đã yêu cầu cơ quan
đường sắt để nguyên các toa đó và lai dắt về Thái Nguyên. Khi hàng dỡ tại
Thái Nguyên thì phát hiện thấy thiếu hụt, mất mát trên đường Yên Viên - Thái
Nguyên một số lượng hàng đáng kể. Bạn hãy phân tích về việc phân chia chi
phí dỡ hàng và việc phân chia trách nhiệm đối với số hàng bị thiếu mất đó.
PHỤ LỤC SỐ 1
UNION OF PRODUCTION AND IMPORT-EXPORT
No. 551 Tràng Tiền Street - Hanoi - Vietnam
Cable address: UPROSEXIM HANOI
Tel: 3.45359
Page 217
To TECKOSA PTE LTD
Singapore
Dear Sirs,
We are learned from the "Vietnam Foreign Trade Journal” that you are
interested in agricultural products.
We are experienced exporter of such products as nee, groundnut, soja
beans, maize etc...
Enclosed are our illustrated catalogue and price list covering products
we are dealing with.
Taking this opportunity we have the pleasure to firmly offer to you
groundnut kernel on the following terms:
- Name of goods: Groundnut Kernel North grade I
- Quality: Grain size: 2200 kernels max / 1kg
Moisture: 10%
Foreign matters: 5%
- Quantity: about 17,000.00 metric tons.
- Price: USD 510.00/1MT CNF Singapore.
- Time of delivery: Sept. - Nov. 1992
- Payment: By irrevocable L/C, at sight.
Hoping to hear from you at soonest, we are.
Yours faithfully,
UPROSEXIM
* BẢN DỊCH
Kính gửi: Công ty TECKOSA PTE LTD
Singapore
Page 218
Thưa các ngài,
Chúng tôi được biết từ Tạp chí Ngoại thương Việt Nam rằng quý ngài
đang quan tâm đến các sản phẩm nông nghiệp.
Chúng tôi là người xuất khẩu có kinh nghiệm về các sản phẩm như
gạo, lạc, đậu tương, ngô, v.v... Chúng tôi gửi kèm theo đây Catalo và bảng
giá về những sản phẩm mà chúng tôi kinh doanh.
Nhân dịp này, chúng tôi vui sướng chào bán cố định cho các ông lạc
nhân theo những điều kiện sau đây:
Tên hàng: Lạc nhân phẩm cấp miền Bắc loại I.
- Phẩm chất: Cỡ hạt: tối đa 2200 hạt/lkg
Thủy phần: 10%
Tạp chất: 5%
- Số lượng: khoảng 17.000 tấn mét.
- Giá cả: 510 USD/1MT CNF Singapore.
- Hạn giao: Tháng 9 - 11/1992.
Trả tiền: Bằng L/C không hủy ngang, trả ngay.
Hy vọng nhận được trả lời sớm nhất.
Xin gửi lời chào trân trọng.
UPROSEXIM
CONTRACT N°. U-T/04/92
Between LIÊN HIỆP SẢN XUẤT DỊCH VỤ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU
(Union of Productin Service and Import - Export)
No. 551Trangtien Street - Hanoi - Vietnam
Cable Address: UPROSEXIM HANOI hereinafter referred as the Seller,
Page 219
And TECKOSA PTE LTD
No. 110 Hongkong Street Singapore 01056 Cable address; TECKOSA
SINGAPORE hereinafter referred as the Buyer,
It is agreed that the Seller commits to sell and the Buyer commits to buy
the following described goods upon the terms and conditions hereinafter set
forth:
Article 1: Commodity:
Vietnamese Groundnut kernels, North grade I (Scientific name:
ARACHIS HYPOGEA L)
Article 2: Quality
- Grain size: 2200 kernels max/1kg.
- Moisture: 10%.
- Aflatoxin: Negative.
- Foreign matters: 5%.
Article 3: Quantity
17,000 Metric tons moreless 5%
Article 4: Packing
The goods must be packed in new jute bags of 50 kg net each.
Article 5: Price
- Unit price: USD 510.00/1MT
- Total price; about USD 8,670,000.00
- These prices are understood CFR Singapore as per Incoterms 1990,
packing charges included.
Article 6: Shipment
a- Shipment shall be made during the period of September to
November 1992.
Page 220
b- Shipment shall be made by vessels of about 3,000 - 10,000 tons,
unless otherwise separately agreed.
c- Port of loading: Haiphong Port - Vietnam Port of discharge:
Singapore.
Article 7: Loading / unloading conditions
a- Rate of loading / discharge
Cargo to be loaded / unloaded at the average rate of 1,500 metric tons
per WWDSHEX e.u.
b- Laytime commencement
Laytime shall commence at 1.00 p.m if NOR is given before noon and at
8.00 a.m. next working day if NOR is given in the afternoon office hour (from
1.30 p.m to 4.30 p.m).
NOR can be submitted WIBON, WIPON, WFPON. WCCON.
c- Demurrage / Despatch money
If vessel longer detained than the time allowed, the Buyer shall pay the
Seller demurrage at the rate below per running day or pro-rata for time lost.
If vessel sooner unloaded, the Seller shall pay the Buyer despatch
money at the rate below per running day or pro-rate for time saved.
Vessel size Demurrage / Despatch money
7000 DWT below USD 2,000 / USD 1,000
7000 DWT over USD 3,000 / USD 1,500
Demurrage or Despatch money for each vessel to be settled by
telegraphic transfer remittance.
The demurrage and despatch money can be paid by offsetting their
amounts.
Article 8: Inspection of goods
Page 221
In respect to quality and to weight for each shipment certificate of
inspection and certificate of weight issued by VINACONTROL at loading port
shall be taken as final.
All claim by the Buyer shall be made within 30 days after arrival of the
goods at port of destination.
Article 9: Payment
For each shipment the Buyer must open an irrevocable Letter of Credit,
at sight, in us Dollars covering full value lodged with the Bank for Foreign
Trade of Vietnam (Hanoi) by a Bank agreed by both parties. L/C must reach
the Seller no later than 15 days prior expected shipment time and be valid 30
days. TTR is acceptable.
The such L/C shall be available for payment against presentation of the
following documents:
a- Bill of exchange at sight, drawn under the Buyer,
b- Full set(s) of clean on board ocean bill(s) of lading marked "Freight
prepaid",
c- Commercial invoice in quadruplicate.
d- Packing list in duplicate, e- Phytosanitiry certificate in duplicate, f-
Certificate of Origin in duplicate, g- Certificate of quality and of aflatoxin in
duplicate.
Article 10: Force majeure
The contracting parties are not responsible for the non-performance of
any contract obligation in case of usually recognized force majeure.
As soon as occured the condition under which force majeure has been
invoked, i.e. extra ordinary, unforeseenable and irresistible event, a cable
should be sent to the other for information.
A certificate of Force majeure issued by the competent Government
Authorities will be sent to the other party within 7 days.
Page 222
As soon as the condition under which force majeure has been invoked
has been ceased to exist, this contract will enter immediately into force.
Article 11: Penalty
In the event that the Buyer fails to open L/C under this contract in due
time, the Seller will have the right to demand from the Buyer the payment of a
penalty in the amount equivalent to 1% per day of the contract amount.
Should the Seller fails to deliver the goods in due time, the Buyer will have the
right to demand from the Seller the payment of a penalty of 1% per day of the
value of goods not delivered.
Article 12: Arbitration
Any disputes arising out from this contract, if the two parties cannot
reach an amicable arrangement
for them, must be refered to arbitration. Arbitration to be held in the
country of the defending party. Awards by arbitration to be final and binding
both parties. All charges relating to arbitrations to be bom by the losing party.
Made in Hanoi on July 18th 1992
For and on behalf of the Buyer
For and on behalf of the Seller
HỘP ĐỒNG SỐ U-T/04/92
Một bên là LIÊN HIỆP SẢN XUẤT DỊCH VỤ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU
Số 551 phố Tràng Tiền Hà Nội Việt Nam,
Điện tín: UPROSEXIM HANOI, dưới đây gọi là bên bán, và
Một bên là CKOSA PTE LTD,
Số 110 Phố Hồng Kông, Singapore,
Điện tín: TECKOSA Singapore, dưới đây gọi là bên mua.
Page 223
Đã có sự thỏa thuận rằng bên bán cam kết bán và bên mua cam kết
mua những hàng hóa mô tả dưới đây theo các điều kiện và điều khoản ghi
dưới đây:
Điều 1: Tên hàng
Lạc nhân Việt Nam, Loại 1 miền Bắc.
Tên Khoa học: Arachis Hypogea L.
Điều 2: Phẩm chất
Cỡ hạt: tối đa 2200 hạt/lkg.
Thủy phần: 10%.
Hàm lượng Aflatocxin: Không có.
Tạp chất: 5%.
Điều 3: Số lượng
17.000 tấn mét, hơn kém 5%.
Điều 4: Bao bì
Hàng phải được đóng trong bao đay mới 50 kg tịnh.
Điều 5: Giá cả
- Đơn giá: 510 USD/1 MT
- Tổng giá: Khoảng 8.670.000 USD
- Những giá trên đây là giá CFR Singapore theo Incoterms 1990, bao
gồm cả chi phí bao bì.
Điều 6: Gửi hàng
a- Hàng được gửi trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1992.
b- Hàng được gửi theo tàu khoảng 3000 đến 10000 tấn, trừ phi có quy
định riêng khác.
c- Cảng bốc hàng là cảng Hải Phòng Cảng dỡ hàng: Singapore.
Page 224
Điểu 7: Điều kiện bốc dỡ
a- Mức bốc dỡ
Hàng được bốc dỡ theo mức trung bình 1500 tấn mét mỗi ngày làm
việc tốt trời không kể ngày lễ, ngày chủ nhật, có làm không tính.
b- Bắt dầu thời hạn bốc dỡ
Thời hạn bốc dỡ bắt đầu từ 1 giờ chiều nếu thông báo sẵn sàng được
trao trước 12 giờ và bắt đầu 8 giờ sáng ngày làm việc hôm sau nếu thông báo
sẵn sàng được trao vào giờ làm việc chiều (từ 1h30 đến 4h30).
Thông báo có thể được trao: Dù tàu có cặp cầu hay không, dù tàu đã
được tự do tiếp xúc với bờ hay chưa, dù đã hoàn thành thủ tục hải quan hay
chưa.
c- Thưởng phạt bốc dỡ
Nếu tàu phải ở lại dài hơn thời gian cho phép, bên mua phải trả cho
bên bán tiền phạt theo mức ghi dưới đây cho mỗi ngày trời hoặc theo tỷ lệ với
thời gian tiêu phí.
Nếu tàu được dỡ hàng sớm hơn, bên bán phải trả cho bên mua tiền
thưởng theo mức dưới đây cho mỗi ngày trời hoặc theo tỷ lệ với thời gian tiết
kiệm được.
Cỡ tàu Phạt/Thưởng
Dưới 7000 tấn USD 2000/USD 1000
Từ 7001 tấn trở lên USD 3000/USD 1500
Tiền thưởng phạt cho mỗi tàu được trả bằng chuyển tiền điện.
Tiền thưởng phạt có thể thanh toán bù trừ cho nhau.
Điều 8: Kiểm tra hàng hóa
Đối với phẩm chất và trọng lượng của mỗi chuyến gửi từ cảng bốc
VINACONTROL sẽ cấp giấy chứng nhận kiểm nghiêm và giấy chứng nhận
trọng lượng, giấy này coi là chứng từ quyết định cuối cùng.
Page 225
Mọi khiếu nại của người mua phải tiến hành trong vòng 30 ngày sau khi
hàng đến cảng đến.
Điều 9: Trả tiền
Đối với mỗi lần giao hàng, bên mua phải mở một L/C không hủy ngang,
trả tiền ngay, bằng US Dollar, để trả cho toàn bộ trị giá hàng, chuyển đến
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ một ngân hàng do hai bên thỏa thuận.
L/C phải đến tay bên bán ít nhất 15 ngày trước thời gian dự định giao hàng và
có giá trị 30 ngày, chấp nhận TTR, L/C này sẳn sàng thanh toán khi xuất trình
những chứng từ sau:
a- Hối phiếu trả tiền ngay, ký phát cho bên mua.
b- Trọn bộ ba bản gốc vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng, ghi rõ "cước đã
trả".
c- Hóa đơn thương mại: 4 bản.
d- Phiếu đóng gói: 2 bản.
e- Giấy chứng nhận kiểm định thực vật: 2 bản.
f- Giấy chứng nhận xuất xứ: 2 bản.
g- Giấy chứng nhận phẩm chất và độc tố aflatocxin: 2 bản
Điều 10: Trường hợp bất khả kháng
Các bên ký kết sẽ không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng trong trường hợp vẫn thường được công nhận là trường
hợp bất khả kháng.
Ngay khi xảy ra điều kiện gây nên trường hợp bất khả kháng, nghĩa là
sự kiện bất thường, không lường trước được và không khắc phục được, một
bức điện thông báo phải được gửi đi để báo tin cho bên đối tác. Thông báo
này phải có xác nhận của chính quyền địa phương và gửi cho bên đối tác
trong vòng 7 ngày. Ngay khi chấm dứt điều kiện phát sinh bất khả kháng, hợp
đồng này có hiệu lực lại ngay.
Page 226
Điều 11: Phạt
Khi bên mua không mở L/C kịp thời theo hợp đồng này, bên bán có
quyền đòi hỏi bên mua phải nộp phạt một số tiền bằng 1% tính theo mỗi ngày
và theo số tiền của hợp đồng. Nếu bên bán không giao hàng, bên mua có
quyền đòi bên bán phải nộp phạt là 1% mỗi ngày tính trên cơ sở trị giá của
hàng chậm giao.
Điều 12: Trọng tài
Mọi tranh chấp xảy ra từ hợp đồng này, nếu hai bên không thể đi đến
hòa giải, đều phải đưa ra trọng tài. Trọng tài được tổ chức ở nước bị cáo.
Phán quyết của trọng tài được coi là chung thẩm và ràng buộc cả hai bên.
Mọi chi phí về trọng tài là do bên thua kiện chịu.
Làm tại Hà Nội ngày 18 tháng 7 năm 1992
Thay mặt bên mua
Đã ký
Thay mặt bên bán
Đã ký
Our ref No. Hanoi, August 18th 1992
TO UNION OF PRODUCTION AND IMPORT - EXPORT
(UPROSEXIM) - HANOI
ADVICE OF DOCUMENTARY LETTER OF CREDIT
Credit No.: SL 16890
for: USD 90,780.00
Dear Sir(s),
We advice you that we have received a teletransmission dated 18th
August 1992.
From Mitsubishi Bank LTD., Singapore Branch.
Reading in substance as shown on the attached sheet.
Page 227
Please note that this letter solely an advice and conveys no
engagement by us. And please further note that in case of message we
received by teletransmission. Ae assume no responsibility for any error and/or
translation of the teletransmission and we reserve the right to make such
corrections as may be found neccessary.
You are requested to check the credit terms carefully. In the event that
you do not agree with, the terms and conditions of the L/C No. 16890 and if
you feel unable to comply with any of the terms and conditions please arrange
an amendment of the credit/amendment through your contacting party (the
Applicant for credit).
This letter must be presented for each drawing hereunder.
Yours faithfully,
Bank for Foreign Trade of Vietnam
- 11504 VCB VT 231 1534
B
BISHIBK RS 13
411504 VCB VT
DATE: 18TH 1992
TO: BANK FOR FOREIGN TRADE OF THE SOCIALIST OF VIETNAM
HANOI
TEST: 39-620 FOR USD86,700-00 VALUE AUG 18, 1992 BETWEEN
OUR HO TOKYO AND YOURSELVES.
WE HEREBY ISSUE OUR IRREVOCABLE DOCUMENTARY LETTER
OF CREDIT
NO: SL 16890
BENEFICIARY: UNION OF PRODUCTION SERVICE AND
IMPORT-EXPORT STR, HANOI VIETNAM
Page 228
(UPROSEXIM HANOI)
ACCOUNTEE: TECKOSA PTE LTD, 110 HONG KONG STREET,
SINGAPORE 0105
AMOUNT: USDLRS 86,700-00 (UNITED STATES DOLLARS EIGHTY
SIX THOUSAND AND SEVEN HUNDRED ONLY)
PRESENTATION OF DOCUMENTS MUST BE EFFECTED NOT
LATER THAN 20 SEP 1992 AT NEGOTIATING BANK’S COUNTER IN
VIETNAM AND ALSO WITHIN 10 DAYS AFTER THE DATE OF ISSUANCE
OF THE TRANSPORT DOCUMENTS.
CREDIT IS AVAILABLE BY NEGOTIATION WITH ANY BANK
AGAINST BENEFICIARY’S DRAFT(S) AT SIGHT DRAWN ON APPLICANT
ACCOMPANIED BY THE FOLLOWING DOCUMENTS.
SIGNED COMMERCIAL INVOICE IN FOUR COPIES
INSURANCE IS TO BE EFFECTED BY BUYER
FULL SET OF CLEAN ON BOARD OCEAN BILLS OF LADING MADE
OUT OR ENDORSED TO THE ORDER OF THE MITSUBISHI BANK LTD
MARKED FREIGHT PREPAID NOTIFY ACCOUNTEE.
EVIDENCING SHIPMENT OF:
170 METRIC TONS GROUNDNUT KERNELS, NORTH GRADE I 2200
PCS MAX/100GM AT USD510-00 PER METRIC TON CNF SINGAPORE.
FROM VIETNAM TO SINGAPORE
CERTIFICATE OF VIETNAMESE ORIGIN IN DUPLICATE
CERTIFICATE OF QUALITY AND OF AFLATOXIN IN DUPLICATE
PACKING LIST IN DUPLICATE
PHYTOSANITARY CERTIFICATE IS REQUIRED
SHIPMENT MUST BE EFFECTED NOT LATER THAN SEP 10, 1992
PARTIAL SHIPMENTS ARE PERMITTED.
Page 229
TRANSSHIPMENT IS PROHIBITED.
SPECIAL INSTRUCTIONS
1) ALL BANKING CHARGES OUTSIDE SINGAPORE INCLUDING
REIMBURSEMENT AND PAYMENT COMMISSION ARE FOR ACCOUNT
OF BENEFICIARY.
2) CERTIFICATE ISSUED BY VINACONTROL CERTIFYING THAT
AFLAT OXiN LESS THAN 5PPB IN THE GROUNDNUT KERNELS IS
REQUIRED.
3) SHIPMENT MUST BE EFFECTED BY CONTAINERS ONLY.
4) SHIPPER IS TO NOTIFY COMMERCIAL UNION ASS CO PTE, N04
ROBINSON ROAD 05-00 COMMERCIAL UNION BUILDING SINGAPORE
0105 BY REGISTERED AIRMAIL ADVISING DETAILS OF SHIPMENT.
WITHIN THREE DAYS AFTER SHIPMENT DATE AND QUOTING
OPEN COVER NOTE C77/155. A COPY OF THIS NOTIFICATION AND THE
RELATIVE POSTAL RECEIPT ARE REQUIRED FOR NEGOTIATION.
5) 5 PCT MORE OR LESS BOTH IN AMOUNT AND QUANTITY
ALLOWED SPECIAL INSTRUCTIONS TO THE NEGOTIATING BANK
ALL THE DOCUMENTS BE FORWARDED DIRECTLY TO us BY TWO
CONSECUTIVE REGISTERED AIRMAILS.
UPON RECEPT OF THE RELATIVE DRAFTS AND SHIPPING
DOCUMENTS STRICTLY IN COMPLIANCE WITH THE L/C TERMS WE
WILL REMIT TO YOU THE DRAFT AMOUNT LESS OUR TELEX
CHARGES AS PER YOUR INSTRUCTIONS!
ALL DRAFTS so DRAWN MUST INDICATE LETTER OF CREDIT
NUMBER, DATE OF THIS CABLE AND NAME OF ISSUING BANK OF THIS
CREDIT.
THE AMOUNT OF EACH DRAWING UNDER THIS CREDIT MUST BE
ENDORSED BY THE NEGOTIATING BANK ON THE REVERSE HEREOF.
Page 230
WE HEREBY ENGAGE WITH THE DRAWERS, ENDORSERS AND
BONA FIDE HOLDERS OF DRAFTS DRAWN UNDER AND IN
COMPLIANCE WITH THE TERM OF THIS CREDIT THAT SUCH DRAFTS
WILL BE DULY HONORED UPON PRESENTATION TO THE DRAWEE
PROVIDED THAT SUCH DRAFTS ARE PRESENTED WITHIN THE
VALIDITY OF THIS CREDIT. THE ADVISING BANK IS KINDLY REQUIRED
TO DELIVER THIS CREDIT TO THE BENEFICIARY URGENTLY.
EXCEPT SO FAR AS OTHERWISE EXPRESSLY STATED, THIS
DOCUMENTARY CREDIT IS SUBJECT TO UNIFORM CUSTOMS AND
PRACTICE FOR DOCUMENTARY CREDITS (1993 REVISION).
INTERNATIONAL CHAMBER OF COMMERCE PUBLICATION NO 400
THIS TELEX CONSTITUTES AN OPERATIVE INSTRUMENT AND MAIL
CONFIRMATION WILL NOT FOLLOW.
FULLSTOP.
MISUBISHI BANK LTD SINGAPORE BRANCH (SUF)
411504 VCB VT
BISHIBK RS 21913
MESSAGE: 446 - RECEIVED ON 18/08/92 AT 15 H 33 ELAPESED
10MN 24
DISCONECT CODE: 13
Bank for Foreign Trade of Vietnam
UPROSEXIM UNION OF PRODUCTION - SERVICE AND
IMPORT- EXPORT
No. 551 Trang Tien Street - Hanoi Cable Address:
UPROSEXIM
Page 231
Tel: 345359
Hanoi Sep. 10, 1992
To: COMMERCIAL UNION ASS CO PLC No. 4 Robinson Road Hex 05-
00 Commercial Uinion Building Singapore 0105
Re: Open cover No. C77/155
We would like to advise you the following details of shipment of:
Commodity: Groundnut Kernels, North Grade 1, 220 PCS
Max/100GH
Quantity delivered: 3,500 bags.
Net weight: 180.136 MT
Gross weight: 180.136 M/T
Vessel’s name: KJESPERSEN
B/L No. 13/S Dated: Sep. 09th, 1992
B/L No. 22-S Dated: Sept. 10th, 1992
Container No/Scal:
SZDU 2783142/165 SZDU 2753301/26
MMMU 3424923/23 SZDU 2044375/24
SZDU 2819380/22 SZDU 2439570/25
MMMU 0220335/27 SZDU 2560447/38
MMMU 0142398/28 MMMU 4043135/30
MMMU 3231550/39
ETD Vietnam: Sept. 10, 1992
ETA Singapore: Sept. 17, 1992
Yours faithfully, General Director
Page 232
(Signed)
GIẤY CHỨNG NHẬN NƠI SẢN XUẤT CERTIFICATE OF ORIGIN
NGƯỜI NHẬN: TECKOSA PTE LTD (BUYER): 110 HONG KONG
STREET, SINGAPORE 0105
NGƯỜI GỬI: UNION OF PRODUCTION SERVICE AND IMPORT
(CONSIGNOR): EXPORT
Mã và Số hiệu
Mark and
Numbers
Tên hàng
Description of goods
Trọng lượng và
số lượng Weight
& Quantity
Số của hóa đơn
Number of
Invoices
GROUNDNUT
KERNELS, NORTH
GRADE 1,220 PCS
MAX/100GM AT
USD 510-00PER
METRIC TON CNF
SINGAPORE
3,560 bags
N.w: 178,000 M/T
G.w: 180.136 M/T
29 Dated: Sep.
10, 1992
Phòng Thương mại và Công nghiệp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam chứng nhận hàng hóa kê trên là sản xuất tại Việt nam
The Chamber of Commerce and Industry of the Socialist Republic of
Vietnam hereby certifies the above - mentioned goods are of Vietnam origin.
No HH/28/92
Ngày 11 tháng 9 năm 1992
Phòng Thương mại và Công nghiệp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam CHAMBER OF COMMERCE AND INDUSTRY OF THE SOCIALIST
REPUBLIC OF VIETNAM
(Signed)
Page 233
PHỤ LỤC SỐ 2
CONTRACT N° 12 / Mich / 92-NK
Between LIÊN HIỆP SẢN XUẤT DỊCH VỤ XUẤT NHẬP KHẨU
(Union of production service and Import Export)
No. 551 Trang Tien Street Hanoi
Cable Address: UPROSEXIM HANOI
Tel: 345359
Hereinafter called the Buyer
And: Michell International Commodities Ltd.
11/F Baskenvile House 22 - Ice House Street Central Hong Kong
Telex: 66516 HK
Hereinafter called the Seller,
It is mutually agreed to sign this contract covering the following terms
and conditions:
Article I: Commodity, Price terms, Packing
1. Name of commodity:
Scoured wool M414 and M342
2. Specifications, quality:
Scoured wool type M342 and Scoured wool type M414
Quality as per sealed sample, confirmed by both parties.
3. Country of origin:
New Zealand
4. Maker’s name:
Michel
5. Quantity:
Page 234
100 MT consist of type M414/50MT
Type 342/50MT
6. Price:
- Unit price: USD 2.35/kg FOB Haiphong net weight for type M414
USD 2.32/kg FOB Haiphong net weight for type M342
- Amount: USD 233,500.00
Two hundred thirty three thousand five hundred US Dollars only.
The above mentioned prices are understood to be CIF Haiphong on the
option of the Buyer in accordance with Incoterms 1990 packing included.
7. Packing: as per Export standard Seaworthy packing
8. Marking: On the both sides of each package, the following indications
should be noted in indelible ink:
- Name of consigner: Michel International Commodities Ltd.
- Name of consignee: UPROSEXIM HANOI
- Contract number: 12/Mich/92-NK
- Marks 0508/55217/M342-M414
- Package No.: Net weight, Gross weight, Measurement
- Port of destination: Haiphong port Together with warning signals of
umbrella and arrow (for the right laying of carton boxes)
Article II: Delivery terms, Insurance and Payment
1. Preadvice of delivery: Before transporting the goods to the port of
loading at the date stipulated, the Seller must advise 20 days before by cable
or telex to the Buyer: number of L/C, number of contract, name of the goods,
value, quantity, net weight, gross weight, cubage, date for arrival of the goods
at the loading port.
Page 235
2. Advice of delivery: Within 24 hours after loading the Seller should
cable or telex the Buyer: contract number, quantity, gross weight, number of
bales, invoice value, name of carrying vessel, bill of lading number, sailing
date, ETA for import formalities. The expenses resulted from the failure of the
Seller such shipment advice in time will be for the Seller’s account.
3. Shipping marks: 0508/63217/M342 or M414 UPROSEXIM HANOI
4. Shipping time: May/93: 50 MT June/93: 50MT
5. Port of departure: New Zealand port
6. Port of destination: Haiphong port
7. Transhipment: Within 24 hours after transhipment, the Seller should
advise by cable or telex the Buyer the name of transhipment vessel and Bill of
lading, place and date transhipment for making import procedures.
8. Shipping documents: The Seller must send 3 sets of documents to
the Buyer. Each set of documents comprises: Bill of lading, invoice, packing
list, certificate of quality, certificate of weight. Among 3 sets of documents, one
set of which will be accompanying the cargo on carrying vessel (no need
invoice enclosed) and 24 hours after the vessel sailing, 2 sets should be sent
by registered airmail to the Buyer.
9. Insurance; The goods will be insured by the Seller with condition "all
risks" and "war risks".
10. Terms of payment: By L/C at sight in favour of Michell Co. Ltd
through the Vietcombank Hanoi paid by UPROSEXIM Hanoi. L/C will be
opened 30 days prior to time of shipment. The payment is to be made upon
Presentation of the following documents.
- Original and clean "shipped on board" bill of lading, made out to order,
marked "Freight pre-paid" 3ex
- Signed commercial invoice 3ex
- Packing list 3ex
Page 236
- Insurance Policy 2 orig., 1 copy
- Certificate of quality issued by maker 3ex
- Certificate of origin issued by Chamber of Commerce and Industruy
3ex
- Test or inspection certificate issued by testing Organisation or Maker
3ex
- Confirmation of cable advice for telex) for shipment, lcopy.
- Receipt of shipmaster acknowledging due receipt of 03 sets of non-
negotiable document for transmission to Uprosexim at the Haiphong port 3
copies.
Article III: Claim and Arbitration
Upon receiving the goods the Buyer shall have the goods inspected. If
their quality and specifications are not in conformity with those mentioned in
this contract, the Buyer shall have the right to make claiưi to the Seller. All
claim by the Buyer shall be made within 90 days with regard to the apparent
defects and 180 days with regard to latent defects after arrival of the goods at
port of destination and shall be confirmed in writing by registered airmail
together with particulars of survey report of "Vinacontrol" of the Socialist
Republic of Vietnam which should be regarded as final.
The claim arising out of this contract will be first settled amicably, should
it not be possible to reach such settlement this claim with be settled by the
Vietnam International Arbitration Centre attached to the Chamber of
Commerce and Industry of the Socialist - Republic of Vietnam.
- The award of this Committee should be considered as final and is
binding to both parties.
Article IV: Penalty against delay in delivery.
Page 237
In case the Seller fails to deliver the goods under this contract on time
the Buyer shall be entitled to demand from the Seller the payment of a penalty
as follows:
This penalty is caculated from the first day of delay in delivery and at
the rate of 0.05 PCT per day of the amount not delivered for the first 30 days
and 0.08 PCT per day for following 30 days and 0.12 PCT per day for sequent
delaying days. However, the total of once penalty should not exceed 10PCT of
amount of the goods not delivered.
Article V: Force Majeure
Force majeure circumstance must be notified by cable or telex by the
one party 1X5 the other within seven days. After such cable notification, a
certificate of Force majeure issued by the competent Government Authorities
will be sent to the other party. Beyond this time force majeure circumstance
shall not be taken into consideration.
Article VI: Other Conditions
- All amendments and alterations to this contract are valid only after
written confirmation by both sides.
- All negotiation either in writing 'or in oral forms which were made prior
to this conclusion and in different explanation way of this contract are not
valid.
- All charges, expenses and taxes occured in the Seller’s country
relating to the execution of this contract are for the Seller’s account, but those
in the Buyer’s country will be for the Buyer’s account.
- In case of doubt as to the interpretation of commercial terms contained
in this present text, both parties shall refer to the International Commercial
terms (Incoterms 1990).
Made at Hanoi this day of April 11th 1993 in English language into eight
copies, of which four copies each party.
Page 238
For the Seller
(Signed)
For the Buyer
(Signed)
HỢP ĐỒNG (nhập khẩu) số 12/MICH/92-NK
Giữa: Liên hiệp sản xuất dịch vụ xuất nhập khẩu
Số 551 phố Tràng Tiền Hà Nội,
Điện tín: UPROSEXIM Điện thoại: 345359,
Dưới dây gọi là bên Mua,
và: Michel International Commodities Ltd.
11/F Baskenvile House 22 - Ice House
Street Central Hong Kong
Telex: 66516 HK
Dưới đây gọi là bên Bán
Đã thỏa thuận cùng nhau ký hợp đồng với những điều khoản và điều
kiện sau:
Điều I: Tên hàng, giá cả, bao bì
1. Tên hàng: len chải M414 và M-342
2. Quy cách phẩm chất:
Len chải loại M342 và loại M414
Phẩm chất như mẫu đóng dấu và xác nhận bởi hai bên.
3. Nước xuất xứ: New Zealand
4. Tên người sản xuất: Michel
5. Số lượng: 100MT gồm: Loại M414/50MT
Loại M342/50MT
6. Giá cả: Đơn giá: USD 2,35/kg tịnh, loại M414;
Page 239
USD 2,32/kg tịnh, loại M342. Tổng giá: 233.500 USD.
Những giá trên đây được hiểu là giá CIF Hải Phòng tùy theo sự lựa
chọn của bên mua phù hợp với Incôthơm 1990, kể cả bao bì.
7 Bao bì: Phù hợp tiêu chuẩn xuất khẩu - bao bì có thể chuyển vận
đường biển.
8. Ký mã hiệu: Ở hai mặt của mỗi kiện hàng, những chỉ dẫn sau đây
phải được ghi bằng mực không phai:
- Tên người gửi:
Michell International Commodities Ltd.
- Tên người nhận: UPROSEXIM Hà Nội
- Số hợp đồng: 12/Mich/92-NK
- Kỹ mã số hiệu 0508/55217/M342-M414
- Kiện số, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, kích thước.
- Cảng đến: Cảng Hải Phòng
Cùng với những ký hiệu nhắc nhở là cái ô và mũi tên (ở bên phải thùng
hàng).
Điểu II: Điều kiện giao hàng, bảo hiểm và trả tiền
1. Thông báo trước khi giao: Bên Bán phải thông báo bằng điện tín
hoặc telex cho bên Mua 20 ngày trước khi vận chuyển hàng ra cảng để bốc
hàng vào ngày quy định: số L/C, số hợp đồng, tên hàng, trị giá, số lượng,
trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, thể tích, ngày hàng đến cảng bốc.
2. Thông báo giao hàng: Trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi bốc hàng
bên Bán phải gửi điện tín hoặc telex cho bên Mua: số hợp đồng, số lượng,
trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh, số kiện, trị giá hóa đơn, tên tàu chở hàng,
số vận đơn, ngày khởi hành, ngày dự kiến tàu đến để bên mua làm thủ tục
nhập khẩu. Những chi phí do việc bên Bán không thông báo kịp thời sẽ do
bên Bán chịu.
Page 240
3. Ký hiệu gửi hàng: 0508/55217/M342-M414
4. Thời hạn gửi hàng: Tháng Năm/93: 50MT
Tháng Sáu/93: 50MT
5. Cảng đi: Cảng New Zealand
6. Cảng đến: Cảng Hải Phòng
7. Chuyển tải: Trong vòng 24 giờ sau khi chuyển tải, bên Bán phải
thông báo bằng điện tín hoặc telex cho bên Mua tên tàu chuyển tải và vận
đơn địa điểm và ngày chuyển tải để làm thủ tục nhập khẩu.
8. Chứng từ gửi hàng: Bên Bán phải gửi cho bên Mua 3 bộ chứng từ.
Mỗi bộ chứng từ gồm: vận đơn, hóa đơn, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận
phẩm chất, giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận trọng lượng. Trong số
3 bộ đó, một bộ sẽ được gửi kèm theo hàng trên tàu chở hàng (không cần
kèm hóa đơn), và 24 giờ sau khi tàu khởi hành 2 bộ phải được gửi bằng thư
bảo đảm cho bên Mua.
9. Bảo hiểm: Hàng hóa sẽ do bên Bán mua bảo hiểm theo điều kiện
mọi rủi ro và rủi ro chiến tranh.
10. Điều kiện trả tiền: Bằng L/C trả ngay cho Michell Co. Ltd. được
hưởng thông qua Vietcombank Hanoi do Uprosexim trả tiền. L/C sẽ được mở
30 ngày trước thời hạn giao hàng. Việc trả tiền phải được tiến hành trên cơ
sở xuất trình những chứng từ sau:
- Bản gốc vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng, lập theo lệnh, ghi rõ "cước
đã trả" 3 bản
- Hóa đơn thương mại 3 bản
- Phiếu đóng gói 3 bản
- Đơn bảo hiểm 2 bản gốc, 1 bản sao
- Giấy chứng nhận phẩm chất do người sản xuất cấp 3 bản
- Giấy chứng nhận xuất xứ do Phòng Thương mại cấp 3 bản
Page 241
- Giấy chứng nhận thử nghiệm do tổ chức kiểm nghiệm của người sản
xuất cấp 3 bản
- Giấy xác nhận điện báo giao hàng 1 bản sao
- Biên lai của thuyền trưởng xác nhận đã được đầy đủ 3 bộ chứng từ
không giao dịch được để chuyển cho Uprosexim tại cảng Hải Phòng 3 bản
sao.
Điều III: Khiếu nại và trọng tài
Khi nhận được hàng bên Mua phải kiểm tra hàng. Nếu phẩm chất và
quy cách không phù hợp với hợp đồng, bên Mua có quyền khiếu nại bên Bán.
Mọi khiếu nại của bên Mua phải được làm trong vòng 90 ngày đối với khuyết
tật dễ thấy và 180 ngày đối với khuyết tật kín, tính từ sau ngày hàng tới cảng
đến và sẽ được xác nhận bằng thư bảo đảm gửi máy bay, cùng với những dữ
kiện của biên bản giám định của Vinacontrol của nước CHXHCN Việt Nam,
biên bản này được coi là cuối cùng.
Khiếu nại xảy ra về hợp đồng này trước tiên phải được giải quyết bằng
thương lượng, nếu không thể giải quyết được, đơn khiếu nại phải do Trung
tâm Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp nước
CHXHCN Việt Nam giải quyết.
Quyết định của Trung tâm này được coi là chung thẩm ràng buộc cả hai
bên.
Điều IV: Phạt chậm giao hàng
Trong trường hợp bên Bán không giao hàng của hợp đồng này đúng
hạn, bên Mua có quyền đòi bên Bán phải nộp phạt như sau:
Phạt này được tính từ ngày đầu tiên chậm giao theo mức 0,05% mỗi
ngày của số tiền hàng không giao đối với 30 ngày đầu và 0,08% mỗi ngày đối
với 30 ngày tiếp theo và 0,12% mỗi ngày đối với những ngày sau đó.
Tuy nhiên tổng số tiền phạt không quá mức 10% của số tiền hàng
không giao.
Page 242
Điều V: Trường hợp bất khả kháng
Một bên phải thông báo cho bên kia về trường hợp bất khả kháng trong
vòng 7 ngày. Sau khi điện báo như vậy, đương sự phải gửi cho bên kia một
giấy chứng nhận của nhà cầm quyền về trường hợp bất khả kháng. Quá thời
hạn này, sự kiện không được coi là bất khả kháng.
Điểu VI: Các điều kiện khác
- Mọi sự bổ sung và sửa đổi hợp đồng chỉ có hiệu lực khi có xác nhận
bằng văn bản của hai bên.
- Mọi thương lượng dù bằng văn bản hoặc bằng miệng trước khi ký
hợp đồng và trong việc giải thích hợp đồng đều không còn hiệu lực.
- Mọi chi phí và thuế khóa ở nước bên Bán có liên quan đến việc thực
hiện hợp đồng này đều do bên Bán chịu, còn chi phí ở nước bên Mua do bên
Mua chịu.
- Khi còn nghi ngại về việc giải thích điều kiện thương mại trong hợp
đồng này, hai bên sẽ theo bản Điều kiện Thương mại Quốc tế (Incôthơm
1990).
Làm tại Hà Nội ngày 11/4/1993 bằng tiếng Anh, thành tám bản, mỗi bên
giữ bốn bản.
Thay mặt bên Bán
Đã ký
Thay mặt bên Mua
Đã ký
PHỤ LỤC SỐ 3
PROCESSING CONTRACT N° 01/GC
Date: Hanoi Dec. 24th 1992
Between CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU QUẦN ÁO VIỆT NAM
(Vietnam company for import-export of Garments)
Page 243
Address: 333 Láng Thượng Street Hà Nội.
Cable: VIGARIMEXCO
Tel. 3.45358
Represented by Mr. Võ Nết Na - Director.
Hereinafter called: VIGARIMEX
and SHINSAN TRADING Ltd Co.
Address: 1-7-20 Yeasu, Chou-ku, Tokyo SHINSAN, Tel: 397.456.224
Represented by: Mr. Tanaka Kovure - Director Hereinafter called: SHINSAN
The both parties have agreed to conclude the present contract for
processing children’s garment for which Shinsan is to deliver material (fabric
and accessories) to Vigarimex and Vigarimex is responsible to undertake the
processing under the following terms and conditions.
Article I: Made - up goods and Quantity
Children’s Garments (size 100 - 160)
- One piece: 30,000 pieces
- Two piece: 30,000 pieces
- Single jacket: 40,000 pieces.
Article II: Quality and specification
Quality of the goods must be about as per sealed counter sample
marked signatures of both sides in the possession of Vigarimex and Shinsan
and Vinacontrol.
Article III: Materials
Shinsan shall supply to Vigarimex the materials (fabric and accessories)
for processing the garment with 3% loss allowance on the basis of CIF
Haiphong under the baby L/C at 180 days after B/L date, established by
Vigarimex. Description, quantity and unit price shall be agreed by both parties.
Page 244
Article IV: Price
Vigarimex shall deliver to Shinsan the made - up goods on the basis
FOB Haiphong under the master L/C at sight, established by Shanko Songyo.
The prices is to be understood as:
* Unit price (FOB Haiphong)
= CMT + (consumption X 1.03) X unit price of fabric (CIF Haiphong) +
Acessories cost per piece + cost of printing / embroidering.
* CMT is consisted of charges to be born by Vigarimex in production,
finishing, inspection, packing (carton box shall be prepared by Vigarimex),
inland transportation of materials and made-up goods, shipment and taxes.
Table of CMT (including cost of sewing yarn)
- One piece USD 7/dz
- Two piece USD 9/dz
- Single jacket USD 9/dz
* Embroidering cost (includes cost of yarn) per 1000 strokes: USD
1.00/dz.
Article V: Payment
a) Master L/C covering made-up goods: Irrevocable L/C at sight
established by Shanko Songyo in favour of Vigarimex.
b) Baby L/C covering materials: Irrevocable L/C established by
Vigarimex soon after receipt of the master L/C, at 180 days after B/L date, in
favour of Shanko Songyo,
Article VI: Time of shipment
a) Material (fabric and accessories): To be shipped by the end of June
1993.
b) Made-up goods: To be partially shipped from November-December
1993.
Page 245
First shipment: 10,000 pieces over per lot, or one twenty - feet -
container.
Article VII: Inspection of goods
Materials and made-up goods must be inspected by VINACONTROL at
Haiphong port. Results of the such inspection must be taken as final.
In case that Shinsan sends his expert(s) to Vigarimex’s premise, any
written confirmation by the said expert(s) shall be taken as final. In that case,
any costs for living, accommodation and transport of the said expert(s) shall
be bom by Shinsan.
Article VIII: Penalty
The delivery time stipulated by the present contract (Article VI) cannot
be delayed without preliminary agreement between Shinsan and Vigarimex.
Should however all the supplies or part of them be delayed, unless a cause of
"Force majeure" according to international regulation has occured, the
following penalties will apply:
- First month: 1 % of the value of the delayed goods.
- Second month and following: 1% of the value of the dalayed goods per
month.
Article IX: Arbitration
Each and every dispute that may arise between Shinsan and Vigarimex
whether as regards int'erpretation or as regards execution of the present
contract, shall be setted by the Vietnam International Arbitration centre (No 33
Ba Trieu Street Hanoi) under the Rules of this centre. The decision of the
arbitration board, which shall be legally binding, shall be final. Shinsan and
Vigarimex shall not have the right to appeal against it.
Article X: others
a) Designs/instructions (such as patterns, marking, pictures) are to be
supplied by Shinsan to Vigarimex before arrival of materials.
Page 246
b) Other details relating to the delivery in compliance with Inco terms
1990.
For and on behalf of
VIGARIMEX
Agreed
Signature
For and on behalf of
SHINSAN Ltd. Co.
Agreed
Signature
HỢP ĐỒNG GIA CÔNG số 01/GC
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 1992
Giữa: Công ty xuất nhập khẩu quần áo Việt Nam.
Địa chỉ 333 phố Láng Thượng - Hà Nội, Điện tín: Vigarimex.
Điện thoại: 3.45358, do ông Võ Nết Na - Giám đốc đại diện, dưới đây
gọi là "Vigarimex".
Với: SHINSAN TRADING Ltd. Co., địa chỉ 1-70-20
Yeasu Chuo-ko, Tokyo. Điện tín SHINSAN, điện thoại 397.456.224, do
ông Tanaka Kovure giám đốc đại diện, dưới đây gọi là "Shinsan".
Hai bên thỏa thuận ký kết hợp đồng này về việc gia công quần áo trẻ
em mà Shinsan phải giao nguyên liệu (chính và phụ) cho Vigarimex và
Vigarimex chịu trách nhiệm gia công theo những điều khoản và điều kiện sau
đây:
Điều I: Tên và số lượng thành phẩm
Quần áo trẻ em (Cỡ 100 - 160)
- Một mảnh vải liền: 30.000 chiếc
- Hai mảnh vải can: 30.000 chiếc
- Áo bờ-lu-dông đơn 40.000 chiếc
Điều II: Phầm chất quy cách
Page 247
Chất lượng hàng phải tương tự như mẫu đối đã được đóng dấu, có
chữ ký hai bên, do Vigarimex và Shinsan và Vinacontrol giữ.
Điều III: Nguyên vật liệu
Shinsan phải cung cấp cho Vigarimex nguyên vật liệu (chính và phụ) để
gia công quần áo, với 3% hư hao cho phép, trên cơ sở CIF Hải Phòng theo
L/C loại nhỏ trả tiền 180 ngày sau ngày ký phát vận đơn do Vigarimex mở.
Tên hàng, số lượng và đơn giá do hai bên thỏa thuận.
Điều IV: Giá cả
Vigarimex phải giao hàng thành phẩm cho Shinsan theo điều kiện FOB,
theo L/C chủ, trả tiền ngay, do Shinsan Songyo mở.
Giá hàng được hiểu như sau:
* Đơn giá: (FOB Hải Phòng) = Phí gia công + (Tiêu hao nguyên vật liệu
X 1,03) X đơn giá nguyên liệu chính + chi phí nguyên vật liệu phụ + chi phí
in/thêu.
* Chi phí gia công bao gồm những chi phí do Vigarimex chịu để sản
xuất, hoàn chỉnh, kiểm tra, đóng gói (hộp các-tông do Vigarimex chuẩn bị),
chuyên chở nội địa về nguyên liệu và thành phẩm, gửi hàng và thuế má.
Bảng kê phí gia công (gồm cả chỉ may)
- Loại một mảnh vải liền 7 đoola/1 tá
- Loại hai mảnh vải can 9 đôla/1 tá
- Áo bờ-lu-dông dơn 9 đôla/1 tá
* Chi phí thêu (gồm cả tiền chỉ) tính theo 1000 mũi: 1 đôla/1 tá.
Điều V: Trả tiền:
a) L/C chủ đề trả tiên thành phẩm là L/C không hủy ngang, trả tiền
ngay, do Shanko Songyo mở cho Vigarimex.
Page 248
b) L/C loại nhỏ để trả tiền nguyên vật liệu là L/C không hủy ngang, do
Vigarimex mở ngay sau khi nhận được L/C chủ, trả tiền 180 ngày sau ngày ký
phát vận đơn, cho bên Shanko Songyo hưởng.
Điều VI: Thời gian giao hàng:
a) Nguyên vật liệu (chính và phụ): phải được gửi vào hạ tuần tháng 6
năm 1993.
b) Hàng thành phẩm: phải được giao dần từ tháng 11 đến tháng 12
năm 1993.
Đợt đầu giao 10.000 chiếc hoặc hơn nữa theo lô hoặc trong một
container 20 feet.
Điều VII: Kiểm tra hàng hóa
Nguyên vật liệu và hàng thành phẩm phải do VINACONTROL kiểm tra
lại tại cảng Hải Phòng. Kết quả kiểm tra đó được coi là cuối cùng (quyết định).
Trong trường hợp Shinsan cử chuyên gia đến cơ sở của Vigarimex,
mọi xác nhận bằng văn bản của chuyên gia đó sẽ được coi là quyết định cuối
cùng. Trong trường hợp này, mọi chi phí về ăn, ở, đi lại của chuyên gia đó do
Shinsan chịu.
Điều VIII: Phạt
Thời gian giao hàng do hợp đồng này quy định (điều VI) không thể
được kéo dài nếu không có sự thỏa thuận trước giữa Shinsan và Vigarimex.
Tuy nhiên, nếu toàn bộ hoặc một phần lô hàng bị kéo dài thì, trừ trường hợp
do nguyên nhân trường hợp bất khả kháng mà các quy định quốc tế công
nhận, các mức phạt sau đây sẽ được áp dụng:
Tháng đầu: 1% của giá trị hàng giao chậm, từ tháng thứ hai trở đi: hàng
tháng 1% của trị giá hàng giao chậm hàng tháng.
Điều IX: Trọng tài
Mọi tranh chấp xảy ra giữa Shinsan và Vigarimex dù thuộc về sự giải
thích hoặc về việc thực hiện hợp đồng này, sẽ được giải quyết tại Trung tâm
Page 249
Trọng tài Quốc tế Việt Nam (số 33 phố Bà Triệu Hà Nội) theo những quy tắc
của Trung tâm này. Quyết định của Trung tâm Trọng tài là quyết định chung
thẩm, ràng buộc cả hai bên. Shinsan và Vigarimex không có quyền chống án.
Điều X: Những điều khoản khác
a) Shinsan phải cung cấp cho Vigarimex những bản vẽ/bản hướng dẫn
(như mẫu kiểu, nhãn mã, tranh vẽ) trước khi nguyên vật liệu đến nơi.
b) Mọi chi tiết khác liên quan đến việc giao hàng và vận chuyển hàng
phải được giải thích theo Incôthơm 1990.
Thay mặt Vigarimex
Đã kỹ
Thay mặt Shinsan Ltd Co.
Đã ký
PHỤ LỤC SỐ 4
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUỐC TẾ
(Công ước Viên 1980)
Các nước thành viên của công ước này:
+ Coi trọng những mục tiêu tổng quát ghi trong các Nghị quyết về sự
thành lập một nền trật tự kinh tế quốc tế mới mà Đại hội đồng Liên hợp quốc
đã chấp nhận trong khóa họp bất thường lần thứ sáu,
+ Cho rằng việc chấp nhận các quy tắc thống nhất điều chỉnh các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế có tính đến các hệ thống xã hội, kinh tế và
pháp lý khác nhau sẽ thúc đẩy việc loại trừ các trở ngại pháp lý trong thương
mại quốc tế và sẽ hỗ trợ cho việc phát triển thương mại quốc tế, đã thỏa
thuận những điều sau:
PHẦN 1. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I. PHẠM VI ÁP DỤNG
Điều 1.
Page 250
1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a) Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc.
b) Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật
của nước thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối
quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là
từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính
chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định
phạm vi áp dụng Công ước này.
Điều 2. Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a) Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi
người bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết
hợp đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua
để sử dụng như thế.
b) Bán đấu giá.
c) Để thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác khác theo luật.
d) Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông
hoặc tiền tệ.
e) Tàu thủy, máy bay và các tàu chạy trên đệm không khí.
f) Điện năng.
Điều 3.
1. Được coi là hợp đồng mua bán các hợp đồng cung cấp hàng hóa sẽ
chế tạo hay sản xuất, nếu bên đặt hàng không có nghĩa vụ cung cấp phần lớn
các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo hay sản xuất hàng hóa đó.
Page 251
2. Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng trong đó nghĩa vụ
của bên giao hàng chủ yếu là phải thực hiện một công việc hoặc cung cấp
các dịch vụ khác.
Điều 4.
Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các
quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó.
Trừ trường hợp có quy định khác được nêu trong Công ước, Công ước
không liên quan tới:
a) Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc của bất cứ điều khoản nào của
hợp đồng, hoặc bất kỳ tập quán nào.
b) Hậu quả mà hợp đồng có thể có đối với quyền sở hữu các hàng hóa
đã bán.
Điều 5. Công ước này không áp dụng cho trách nhiệm của người bán
trong trường hợp hàng của người bán gây thiệt hại về thân thể hoặc làm chết
một người nào đó.
Điều 6. Các bên có thể loại bỏ việc áp dụng Công ước này hoặc với
điều kiện tuân thủ điều 12, có thể làm trái với bất cứ điều khoản nào của
Công ước hay sửa đổi hiệu lực của các điều khoản đó.
Chương 1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 7
1. Khi giải thích Công ước này, cần chú trọng đến tính chất quốc tế của
nó, đến sự cần thiết phải hỗ trợ việc áp dụng thống nhất Công ước và tuân
thủ trong thương mại quốc tế.
2. Các vấn đề liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Công ước này
mà không quy định thẳng trong Công ước thì sẽ được giải quyết chiếu theo
các nguyên tắc chung mà từ đó Công ước được hình thành hoặc nếu không
có các nguyên tắc này, thì chiếu theo luật được áp dụng theo quy phạm của
tư pháp quốc tế.
Page 252
Điều 8
1. Nhằm phục vụ Công ước này, tuyên bố và cách xử sự khác của một
bên được giải thích theo đúng ý định của họ nếu bên kia đã biết hoặc không
thể không biết ý định ấy.
2. Nếu điểm trên không được áp dụng thì tuyên bố cách xử sự khác
của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó
được đặt vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ
hiểu như thế.
3. Khi xác định ý muốn của một bên hoặc cách hiểu của một người có
lý trí sẽ hiểu thế nào, cần phải tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc
đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong mối quan hệ tương hỗ của họ,
các tập quán và mọi hành vi sau đó của hai bên.
Điều 9
1. Các bên bị ràng buộc bởi tập quán mà họ đã thỏa thuận và bởi các
thực tiễn đã được họ thiết lập trong mối quan hệ tương hỗ.
2. Trừ phi có thỏa thuận khác thì có thể cho rằng các bên ký hợp đồng
có ngụ ý áp dụng những tập quán mà họ đã biết hoặc cần phải biết và đó là
những tập quán có tính chất phổ biến trong thương mại quốc tế và được các
bên áp dụng một cách thường xuyên đối với hợp đồng cùng chủng loại trong
lĩnh vực buôn bán hữu quan để điều chỉnh hợp đồng của mình hoặc điều
chỉnh việc ký kết hợp đồng đó.
Điều 10. Nhằm phục vụ Công ước này:
a) Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương
mại của họ sẽ được coi là trụ sở nào đó có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với
hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới những tình huống
mà các bên đều biết hoặc đều dự đoán được vào bất kỳ lúc nào trước hoặc
vào thời điểm hợp đồng.
Page 253
b) Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú
thường xuyên của họ.
Điều 11. Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác
nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của
hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng
những lời khai của nhân chứng.
Điều 12. Bất kỳ quy định nào của điều 11, điều 29 hoặc phần thứ hai
của Công ước này cho phép hợp đồng mua bán, việc thay đổi hoặc đình chỉ
hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên hoặc đơn chào hàng và chấp nhận
đơn chào hàng hay bất kỳ sự thể hiện ý chí nào của các bên được lập và
không phải dưới hình thức viết mà dưới bất cứ hình thức nào sẽ không được
áp dụng khi dù chỉ một trong số các bên có trụ sở thương mại đặt ở nước là
thành viên của Công ước mà nước đó đã tuyên bố bảo lưu theo điều 96 của
Công ước này. Các bên không được quyền làm trái với điều này hoặc sửa đổi
hiệu lực của nó.
Điều 13. Theo tinh thần của Công ước này, điện báo và telex cũng
được coi là hình thức văn bản.
PHẦN 2. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG
Điều 14
1. Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định
được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của
người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận
chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định
số lượng và giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức
xác định những yếu tố này.
2. Một đề nghị gửi cho những người không xác định chỉ được coi là một
lời mời làm chào hàng, trừ phi người đề nghị đã phát biểu rõ ràng điều trái lại.
Điều 15
Page 254
1. Chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người được chào hàng.
2. Chào hàng dù là loại chào hàng cố định, vẫn có thể bị hủy nếu như
thông báo về việc hủy chào hàng đến người được chào trước hoặc cùng lúc
với chào hàng.
Điều 16
1. Cho tới khi hợp đồng được giao kết, người chào hàng vẫn có thể thu
hồi chào hàng, nếu như thông báo về việc thu hồi đó tới nơi người được chào
hàng trước khi người này gửi thông báo chấp nhận chào hàng.
2. Tuy nhiên, chào hàng không thể bị thu hồi:
a) Nếu nó chỉ rõ, bằng cách ấn định một thời hạn xác định để chấp
nhận hay bằng cách khác, rằng nó không thể bị thu hồi, hoặc.
b) Nếu một cách hợp lý người nhận coi để ước là không thể thu hồi
được và đã hành động theo chiều hướng đó.
Điều 17. Chào hàng, dù là loại cố định, sẽ mất hiệu lực khi người chào
hàng nhận được thông báo về việc từ chối chào hàng.
Điều 18
1. Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng
biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng. Sự im lặng
hoặc bất tác vì không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận.
2. Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận
được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự
chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người
này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định
như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch,
trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng
sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các
tình tiết bắt buộc ngược lại.
Page 255
3. Tuy nhiên nếu do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có
giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập quán thì người được chào
hàng có thể chứng tỏ sự chấp thuận của mình bằng cách làm một hành vi nào
đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng hay trả tiền chẳng hạn dù họ
không thông báo cho người chào hàng thì chấp nhận chào hàng chỉ có hiệu
lực từ khi những hành vi đó được thực hiện với điều kiện là những hành vi đó
phải được thực hiện trong thời hạn đã quy định tại điểm trên.
Điều 19
1. Một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có
chứa đựng những điểm bổ sung, bớt đi hay các sửa đổi khác thì được coi là
từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá.
2. Tuy nhiên một sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào hàng
nhưng có chứa dựng các điều khoản bổ sung hay những điều khoản khác mà
không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng thì được coi là
chấp nhận chào hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không biểu hiện
bằng miệng để phản đối những điểm khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự
phản đối của mình cho người được chào hàng. Nếu người chào hàng không
làm như vậy, thì nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung của chào hàng với
những sự sửa đổi nêu trong chấp nhận chào hàng.
3. Các yếu tố bổ sung hay sửa đổi liên quan đến các điều kiện giá cả,
thanh toán, đến phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao
hàng, đến phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến sự giải quyết các tranh
chấp được coi là những điều kiện làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của
chào hàng.
Điều 20
1. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy định
trong điện tín hay thư bắt đầu tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc
vào ngày ghi trên thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày, bưu điện
đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng
Page 256
quy định bằng điện thoại, bằng telex hoặc bằng phương tiện thông tin liên lạc
khác, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng.
2. Các ngày lễ chính thức hay ngày nghỉ việc rơi vào khoảng thời hạn
được quy định để chấp nhận chào hàng không được trừ, khi tính thời hạn đó.
Tuy nhiên, nếu thông báo về việc chấp nhận chào hàng không thể giao tại địa
chỉ của người chào hàng vào ngày cuối cùng của thời hạn quy định bởi vì
ngày cuối cùng đó là ngày lễ hay ngày nghỉ việc tại nơi có trụ sở thương mại
của người chào hàng, thì thời hạn chấp nhận chào hàng sẽ được kéo dài tới
ngày làm việc đầu tiên kế tiếp các ngày đó.
Điều 21
1. Một chấp nhận chào hàng muộn màng cũng có hiệu lực của một
chấp nhận nếu người chào hàng phải thông báo miệng không chậm trễ cho
người nhận chào hàng hoặc gửi cho người này một thông báo về việc đó.
2. Nếu thư từ hay văn bản khác do người nhận chào hàng gửi đi chứa
đựng một sự chấp nhận chậm trễ mà thấy rõ rằng nó đã được gửi đi trong
những điều kiện mà, nếu sự chuyển giao bình thường, nó đã đến tay người
chào hàng kịp thời, thì sự chấp nhận chậm trễ được coi như chấp nhận đến
kịp thời, trừ phi không chậm trễ người chào hàng thông báo miệng hoặc gửi
thông báo bằng văn bản cho người được chào hàng biết người chào hàng coi
chào hàng của mình đã hết hiệu lực.
Điều 22. Chấp nhận chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo về việc hủy
chào hàng tới nơi người chào hàng trước hoặc cùng một lúc khi chấp nhận có
hiệu lực.
Điều 23. Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ lúc sự chấp nhận chào
hàng có hiệu lực chiều theo các quy định của công ước này.
Điều 24. Theo tinh thần của phần II Công ước này, một chào hàng, một
thông báo chấp nhận chào hàng hoặc bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng
được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi được thông tin bằng lời nói
với người này, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người
Page 257
được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu
họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường
trú của họ.
Phần 3. MUA BÁN HÀNG HÓA
Chương 1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 25. Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ
bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong
một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp
đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý
trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh
tương tự.
Điều 26. Một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu
được thông báo cho bên kia biết.
Điều 27. Bởi vì trong phần II của Công ước này không có quy định gì
khác nên, trong trường hợp, nếu thông báo yêu cầu hay thông tin khác đã
được thực hiện bởi một bên của hợp đồng chiếu theo phần III này và bằng
một phương tiện thích hợp với hoàn cảnh, thì một sự chậm trễ hoặc lầm lẫn
trong việc chuyển giao thông tin hoặc sự thông tin không đến người nhận,
cũng sẽ không làm bên đó mất quyền viện dẫn các thông tin của mình.
Điều 28. Nếu một bên có quyên yêu cầu bên kia phải thi hành một
nghĩa vụ nào đó thì chiếu theo các quy định của Công ước này, Tòa án không
bị bắt buộc phải ra phán quyết buộc bên kia thực hiện thực sự hợp đồng trừ
trường hợp nếu tòa án ra phán quyết đó trên cơ sở luật nước mình đới với
các hợp đồng mua bán tương tự không do Công ước này điều chỉnh.
Điều 29
1. Một hợp đồng có thể được sửa đổi hay chấm dứt bằng thỏa thuận
đơn thuần giữa các bên.
Page 258
2. Một hợp đồng bằng văn bản chứa đựng một điều khoản quy định
rằng mọi sự sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng phải được các bên làm bằng
văn bản thì không thể bị sửa đổi hay chấm dứt theo thỏa thuận giữa các bên
dưới một hình thức khác. Tuy nhiên hành vi của một bên có thể không cho
phép họ được viện dẫn điều khoản ấy trong chừng mực nếu bên kia căn cứ
vào hành vi này.
Chương 2. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN
Điều 30. Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan
đến hàng hóa và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa theo đúng quy định
của hợp đồng và của Công ước này.
Mục I: Giao hàng và chuyển giao chứng từ:
Điều 31: Nếu người bán không bắt buộc phải giao hàng tại một nơi
nhất định nào đó, thì nghĩa vụ giao hàng của người này là:
a) Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hóa, thì
người bán phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho
người mua.
b) Nếu trong những trường hợp không dự liệu bởi điểm nói trên, mà đối
tượng của hợp đồng mua bán là hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải
được trích ra từ một khối lượng dự trữ xác định hoặc phải được chế tạo hay
sản xuất ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết rằng hàng hóa đã có
hay đã phải được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người bán
phải có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó.
c) Trong các trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới
quyền định đoạt của người mua tại nơi nào mà người bán có trụ sở thương
mại vào thời điểm ký kết hợp đồng.
Điều 32
1. Nếu chiếu theo hợp đồng hay Công ước này, người bán giao hàng
cho một người chuyên chở, và nếu hàng không được cá biệt hóa một cách rõ
Page 259
ràng dành cho mục đích của hợp đồng bằng cách ghi ký mã hiệu trên hàng
hóa, bằng các chứng từ chuyên chở hay bằng một cách khác, thì người bán
phải thông báo cho người mua biết về việc họ đã gửi hàng kèm theo chỉ dẫn
về hàng hóa.
2. Nếu người bán có nghĩa vụ phải thu xếp việc chuyên chở hàng hóa,
thì họ phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện
tới đích, bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và
theo các điều kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó.
3. Nếu người bán không có nghĩa vụ phải bảo hiểm hàng hóa trong quá
trình hàng chuyên chở, thì họ phải cung cấp cho người mua, nếu người này
yêu cầu, mọi thông tin cần thiết mà họ có thể giúp người mua ký kết hợp đồng
bảo hiểm.
Điều 33. Người bán phải giao hàng:
a) Đúng vào ngày giao hàng mà hợp đồng đã quy định, hay có thể xác
định được bằng cách tham chiếu vào hợp đồng.
b) Vào bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian được hợp đồng ấn
định hay có thể xác định được khoảng thời gian giao hàng bằng cách tham
chiếu vào hợp đồng, nếu như không thể căn cứ vào các tình tiết để biết ngày
giao hàng mà người mua ấn định là ngày nào.
c) Trong trường hợp khác, trong một thời hạn hợp lý sau khi hợp đồng
được ký kết.
Điểu 34. Nếu người bán có nghĩa vụ phải giao các chứng từ có liên
quan đến hàng hóa thì họ phải thi hành nghĩa vụ này đúng thời hạn, đúng địa
điểm và đúng hình thức như quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp
người bán giao chứng từ trước kỳ hạn, thì họ có thể, trước khi hết thời hạn
quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất kỳ điểm nào không phù hợp trong
chứng từ với điều kiện là việc làm này không gây cho người mua một trở ngại
hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên, người mua vẫn có quyền đòi người bán bồi
thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.
Page 260
Mục II: Tính phù hợp của hàng hóa và quyền của người thứ ba.
Điều 35
1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy
định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.
2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng
hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
a) Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng
hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.
b) Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán
đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký kết hợp đồng, trừ trường hợp
nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến
hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không
hợp lý.
c) Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà
người bán đã cung cấp cho người mua.
đ) Hàng không được đóng bao bì theo cách thông thường cho những
hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích
hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hóa đó.
3. Người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng
hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như
người mua đã biết hoặc khống thể không biết về việc hàng không phù hợp
vào lúc ký kết hợp đồng.
Điều 36
1. Người bán chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này,
về mọi sự không phù hợp nào của hàng hóa mà sự không phù hợp đó vào lúc
chuyển giao rủi ro sang người mua, ngay cả khi sự không phù hợp của hàng
hóa chỉ được phát hiện sau đó.
Page 261
2. Người bán cũng chịu trách nhiệm về mọi sự không phù hợp của
hàng hóa xảy ra sau thời điểm đã nói ở điểm trên và là hậu quả của việc
người bán vi phạm bất cứ một nghĩa vụ nào của mình, kể cả việc không thể
hoàn toàn đảm bảo rằng trong một thời hạn nào đó, hàng hóa vẫn thích hợp
cho mục đích sử dụng thông thường hay mục đích cụ thể hoặc vẫn duy trì
được những tính chất hay đặc tính đã quy định.
Điều 37. Trong trường hợp giao hàng trước thời hạn, người bán có
quyền, cho tới trước khi hết hạn giao hàng, giao một phần hay một số lượng
thiếu, hoặc giao hàng mới thay cho hàng đã giao không phù hợp với hợp
đồng, hoặc khắc phục mọi sự không phù hợp của hàng hóa đã giao với điều
kiện là việc làm đó của người bán không gây cho người mua một trở ngại hay
phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên người mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại
chiếu theo Công ước này.
Điều 38
1. Người mua phải kiểm tra hàng hoặc bảo đảm đã có sự kiểm tra hàng
trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tùy tình huống cụ
thể.
2. Nếu hợp đồng có quy định về việc chuyên chở hàng hóa, thì việc
kiểm tra hàng có thể được đòi lại đến lúc hàng tới nơi đến.
Nếu địa điểm đến của hàng bị thay đổi trong thời gian hàng đang trên
đường vận chuyển hoặc hàng được người mua gửi đi tiếp và khi đó người
mua không có khả năng hợp lý để kiểm tra hàng hóa, còn người bán đã biết
hay đáng lẽ phải biết khi ký kết hợp đồng về khả năng đổi lộ trình hay gửi tiếp
đó, thì việc kiểm tra có thể được dời lại đến khi hàng tới nơi đến mới.
Điều 39
1. Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp
hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về
việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát
hiện hay đáng lẽ đã phải phát hiện ra sự không phù hợp đó.
Page 262
2. Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc
hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán
biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực
sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo
hành quy định trong hợp đồng.
Điều 40. Người bán không có quyền viện dẫn các quy định của các
điều 38 và 39 nếu như sự không phù hợp của hàng hóa liên quan đến các
yếu tố mà người bán đã biết hoặc không thể không biết và họ đã không thông
báo cho người mua.
Điều 41. Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi
bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người
mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy.
Tuy nhiên, nếu những quyền hạn và yêu sách đó được hình thành trên cơ sở
sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ khác thì nghĩa vụ của người bán sẽ
được điều chỉnh theo điều 42.
Điều 42. Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi
bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu công
nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không biết vào
thời điểm ký kết hợp đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên
được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.
a) Chiếu theo pháp luật của quốc gia nơi hàng hóa sẽ được bán lại hay
sử dụng bằng cách khác, nếu các bên có dự đoán vào lúc ký kết hợp đồng
rằng hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng bằng cách khác tại quốc gia đó,
hoặc là:
b) Trong mọi trường hợp khác – chiếu theo luật pháp của quốc gia có
trụ sở thương mại của người mua.
Trong các trường hợp sau đây, người bán không bị ràng buộc bởi
nghĩa vụ nêu trên, nếu:
Page 263
a) Vào lúc ký kết hợp đồng, người mua đã biết hoặc không thể không
biết về sự hiện hữu của quyền lợi hay yêu sách nói trên, hoặc là:
b) Quyền lợi hay yêu sách bắt nguồn từ sự kiện người bán đã tuân theo
các bản thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay những số liệu cơ sở do
người mua cung cấp.
Điều 43
1. Người mua mất quyền khiếu nại dựa vào các quy định của điều 41
và 42 nếu như họ không thông báo cho người bán những tin tức về tính chất
của quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba, trong một thời hạn hợp lý kể
từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về quyền hoặc yêu sách đó.
2. Người bán không có quyền viện dẫn những sự quy định từ điểm 1
nêu trên nếu người bán đã biết về quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba
và về tính chất của quyền hạn hay yêu sách đó.
Điều 44. Bất chấp những quy định của điểm 1 điều 39 và khoản 1 điều
43, người mua có thể giảm giá chiếu theo điều 50 hay đòi bồi thường thiệt
hại, ngoại trừ khoản lợi bị bỏ lỡ, nếu người mua có lý do hợp lý để giải thích
vì sao họ không thông báo tin tức cần thiết cho người bán.
Mục III: Các biện pháp bảo hộ pháp lý trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng
Điều 45
1. Nếu người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát
sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người mua có căn cứ để:
a) Thực hiện những quyền hạn của mình theo quy định tại các điều từ
46 đến 52.
b) Đòi bồi thường thiệt hại như đã quy định tại các điều từ 74 đến 77.
2. Người mua không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng
quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
Page 264
3. Không một thời hạn trì hoãn nào có thể được Tòa án hay Trọng tài
ban cho người bán khi người mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp
lý nào trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng.
Điều 46
1. Người mua có thể yêu cầu người bán phải thực hiện nghĩa vụ, trừ
phi người mua sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý không hợp với yêu cầu
đó.
2. Nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì người mua có thể đòi
người bán phải giao hàng thay thế nếu sự không phù hợp đó tạo thành một
sự vi phạm cơ bản hợp đồng và yêu cầu về việc thay thế hàng phải được đặt
ra cùng một lúc với việc thông báo những dữ kiện chiếu theo điều 39 hoặc
trong một thời hạn hợp lý sau đó.
3. Nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, người mua có quyền
đòi người bán phải loại trừ sự không phù hợp ấy, trừ những trường hợp khi
điều này không hợp lý xét theo tất cả các tình tiết. Việc yêu cẩu loại trừ sự
không phù hợp của hàng hóa so với hợp đồng phải được tiến hành hoặc là
cùng một lúc với thông báo những dữ kiện chiếu theo điều 39 hoặc trong một
thời hạn hợp lý sau đó.
Điều 47
1. Người mua có thể cho người bán thêm một thời hạn bổ sung hợp lý
để người bán thực hiện nghĩa vụ.
2. Trừ phi người mua đã được người bán thông báo rằng người bán sẽ
không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn bổ sung đó, người mua
không được sử dụng đến bất cứ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường
hợp người bán vi phạm hợp đồng trước khi thời hạn bổ sung kết thúc. Tuy
nhiên ngay cả trong trường hợp này người mua cũng không mất quyển đòi
bồi thường thiệt hại do người bán chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ của
mình.
Điều 48
Page 265
1. Với điều kiện tuân thủ quy định của điều 49 người bán có thể, ngay
cả sau khi hết thời hạn giao hàng, loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện
nghĩa vụ của mình, phí tổn do người bán chịu, với điều kiện là điều đó không
kéo theo một sự chậm trễ vô lý mà không gây ra cho người mua những trở
ngại phi lý hay tình hình bất định về việc người bán phải hoàn trả các phí tổn
mà người mua gánh chịu. Tuy nhiên ngừời mua duy trì quyền đòi bồi thường
thiệt hại chiếu theo Công ước này.
2. Nếu người bán yêu cầu người mua cho biết là người mua có chấp
nhận việc loại trừ thiếu sót nói trên của người bán hay không và nếu người
mua không đáp ứng yêu cầu này của người bán trong một thời hạn hợp lý, thì
người bán có thể loại trừ thiếu sót đó trong phạm vi thời hạn mà người bán đã
ghi trong đơn yêu cầu. Người mua không thể, trước khi mãn hạn ấy, sử dụng
bất cứ biện pháp bảo hộ pháp lý nào không thích hợp cho việc thi hành nghĩa
vụ của người bán.
3. Nếu người bán thông báo cho người mua rằng người bán sẽ thực
hiện việc loại trừ thiếu sót trong một thời hạn ấn định thì cần hiểu rằng thông
báo nói trên bao gồm cả yêu cầu người mua cho biết họ chấp nhận việc loại
trừ thiết sót hay không chiếu theo quy định của khoản 2 nói trên.
4. Yêu cầu hay thông báo của người bán theo quy định của các khoản
2 hay 3 của điều này sẽ không có hiệu lực nếu người mua không nhận được.
Điều 49
1. Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
a) Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ
phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu
đến hợp đồng, hoặc:
b) Trong trường hợp không giao hàng: nếu người bán không giao hàng
trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1
điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian
được gia hạn này.
Page 266
2. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người bán đã giao hàng thì người
mua sẽ mất quyền hủy hợp đồng nếu người mua đã không tuyên bố hủy hợp
đồng.
a) Khi người mua giao hàng chậm trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc
pgười mua đã biết rằng việc giao hàng đã được thực hiện.
b) Đối với mọi trường hợp vi phạm trừ trường hợp giao hàng chậm trễ,
trong một thời hạn hợp lý:
i) Kể từ lúc người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về sự vi phạm đó.
ii) Sau khi đã hết mọi thời hạn mà người mua đã gia hạn thêm cho
người bán chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc sau khi người bán đã tuyên bố
rằng, họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn đã được gia
hạn thêm đó, hoặc:
iii) Sau khi đã hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán đã yêu cầu chiếu
theo khoản 2 điều 48 hay sau khi ngươi mua đã tuyên bố là họ không chấp
nhận cho người bán thực hiện nghĩa vụ
Điều 50. Trong trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, dù
tiền hàng đã được trả hay chưa, người mua có thể giảm giá hàng theo tỷ lệ
căn cứ vào sự sai biệt giữa giá trị thực của hàng hóa vào lúc giao hàng và giá
trị của hàng hóa nếu hàng phù hợp hợp đồng vào lúc giao hàng. Tuy nhiên,
nếu người bán loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ chiếu theo
điều 37 hoặc điều 48 hoặc nếu người mua từ chối chấp nhận việc thực hiện
của người bán chiếu theo các điều này thì người mua không được giảm giá
hàng.
Điều 51
1. Nếu người bán chỉ giao một phần hàng hóa hoặc nếu chỉ một phần
hàng hóa đã giao phù hợp với hợp đồng thì các điều 46 đến 50 sẽ được áp
dụng đối với phần hàng hóa thiếu hoặc phần hàng không phù hợp với hợp
đồng.
Page 267
2. Người mua chỉ được tuvên bố hủy bỏ toàn bộ hợp đồng, nếu việc
không thực hiện hợp đồng hoặc một phần hàng giao không phù hợp hợp
đồng cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng.
Điều 52
1. Nếu người bán giao hàng trước thời hạn quy định thì người mua
được quyền lựa chọn hoặc chấp nhận hoặc từ chối việc giao hàng đó.
2. Nếu người bán giao một số lượng nhiều hơn số lượng quy định trong
hợp đồng, thì người mua có thể chấp nhận hay từ chối việc giao số lượng
phụ trội, nếu người mua chấp nhận toàn bộ hoặc một phần số lượng phụ trội
nói trên thì người mua phải trả tiền hàng phụ trội. Nếu người mua chấp nhận
toàn bộ hoặc một phần số lượng phụ trội nói trên thì người mua phải trả tiền
hàng phụ trội theo giá hợp đồng quy định.
Chương 3. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI MUA
Điều 53. Người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng
theo quy định của hợp đồng và của Công ước này.
Mục I. Thanh toán tiền hàng
Điều 54. Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của người mua bao gồm việc
áp dụng các biện pháp và tuân thủ các thủ tục mà hợp đồng hoặc luật lệ đòi
hỏi để có thể thực hiện được thanh toán tiền hàng.
Điều 55. Trong những trường hợp, nếu hợp đồng đã được ký kết một
cách hợp pháp, nhưng trong hợp đồng không quy định giá cả một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp, hoặc không quy định cách xác định giá thì được phép suy
đoán rằng, các bên, trừ phi có quy định trái ngược, đã có ngụ ý dựa vào giá
đã được ấn định cho loại hàng hóa như vậy khi hàng hóa này được đem bán
trong những điều kiện tương tự của ngành buôn bán hữu quan.
Điều 56. Nếu giá cả được ấn định theo trọng lượng của hàng hóa thì
trong trường hợp có nghi ngờ, giá sẽ được xác định theo trọng lượng tịnh.
Điều 57
Page 268
1. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng tại một
địa điểm quy định nào đó thì họ phải trả tiền cho người bán:
a) Tại nơi có trụ sở thương mại của người bán hoặc:
b) Tại nơi giao hàng hoặc chứng từ nếu việc trả tiền phải được làm
cùng lúc với việc giao hàng hoặc chứng từ.
2. Người bán phải gánh chịu mọi sự gia tăng phí tổn để thực hiện việc
thanh toán do sự thay đổi địa điểm của trụ sở thương mại của mình sau khi
hợp đồng được ký kết.
Điều 58
1. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải trả tiền vào một thời hạn cụ
thể nào nhất định, thì họ phải trả khi, chiếu theo hợp đồng và Công ước này,
người bán đặt dưới quyền định đoạt của người mua, hoặc hàng hóa hoặc các
chứng từ nhận hàng. Người bán có thể đặt điều kiện phải thanh toán như vậy
để đổi lại việc họ giao hàng hoặc chứng từ.
2. Nếu hợp đồng quy định việc chuyên chở hàng hóa, người bán có thể
gửi hàng đi với điều kiện là hàng hay chứng từ nhận hàng chỉ được giao cho
người mua khi người mua thanh toán tiền hàng.
3. Người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng trước khi họ
có thể kiểm tra hàng hóa, trừ những trường hợp mà có thể thức giao hàng
hay trả tiền do các bên thỏa thuận không cho phép làm việc đó.
Điều 59
Người mua phải trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định hoặc có thể
được xác định theo hợp đồng và Công ước này, mà không cần phải có một
lời yêu cầu hay việc thực hiện một thủ tục nào khác về phía người bán.
Mục II: Nhận hàng
Điều 60. Nghĩa vụ nhận hàng của người mua gồm:
a) Thực hiện mọi hành vi mà người ta có quyền chờ đợi ở họ một cách
hợp lý để cho phép người bán thực hiện việc giao hàng, và.
Page 269
b) Tiếp nhận hàng hóa.
Mục III. Các biện pháp bảo hộ pháp lý trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng
Điều 61
1. Nếu người mua không thực hiện một nghĩa vụ nào đó theo hợp đồng
mua bán hay bản Công ước này, thì người bán có thể:
a) Thực hiện các quyền quy định tại các điều 62 và 65.
b) Đòi bồi thường thiệt hại như quy định tại các điều từ 74 đến 77.
2. Người bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng
quyền áp dụng các biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
3. Không một thời hạn gia hạn nào có thể được tòa án hay Trọng tài
ban cho người mua khi người bán viện dẫn một biện pháp bảo hộ pháp lý nào
đó mà họ có quyền sử dụng trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng.
Điều 62. Người bán có thể yêu cầu người mua trả tiền, nhận hàng hay
thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện
pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với các yêu cầu đó.
Điều 63
1. Người bán có thể chấp nhận cho người mua một thời hạn bổ sung
hợp lý để thực hiện nghĩa vụ của mình.
2. Trừ phi nhận được thông báo của người mua cho biết sẽ không thực
hiện nghĩa vụ trong thời gian ấy, người bán, trước khi mãn hạn, không thể
viện dẫn bất cứ một biện pháp bảo hộ pháp lý nào mà họ được sử dụng trong
trường hợp người mua vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, do sự việc này, người
bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại vì người mua chậm thực hiện
nghĩa vụ
Điều 64
1. Người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng:
Page 270
a) Nếu sự kiện người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo
hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng,
hoặc.
b) Nếu người mua không thi hành nghĩa và trả tiền hoặc không nhận
hàng trong thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo
khoản 1 điều 63 hay nếu họ tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy.
2. Tuy nhiên trong những trường hợp khi người mua đã trả tiền, người
bán mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu họ không làm việc này:
a) Trong trường hợp người mua chậm thực hiện nghĩa vụ trước khi
người bán biết nghĩa vụ đã được thực hiện, hoặc:
b) Trong trường hợp người mua vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào khác
ngoài việc chậm trễ - trong một thời hạn hợp lý:
Kể từ lúc người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết sự vi phạm đó, hoặc:
- Sau khi hết mọi thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận chiếu theo
khoản 1 điều 63 hay sau khi người mua đã tuyên bố rằng họ sẽ không thực
hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn bổ sung đó.
Điều 65
1. Nếu theo hợp đồng người mua phải xác định hình dáng, kích thước
hay những đặc điểm khác đặc trưng của hàng hóa và nếu người mua không
làm điều ấy vào thời hạn đã thỏa thuận hay trong một thời hạn hợp lý kể từ
lúc nhận được yêu cầu của người bán, thì người bán có thể tự mình xác định
hàng hóa chiếu theo nhu cầu của người mua mà họ có thể biết mà không làm
hại đến các quyền lợi khác.
2. Nếu chính người bán tự mình thực hiện việc xác định hàng hóa, họ
phải báo chi tiết cho người mua biết nội dung việc xác định và cho người mua
một thời hạn hợp lý để người này có thể xác định khác. Nếu, sau khi nhận
được thông báo của người bán mà người mua không sử dụng khả năng này
Page 271
trong thời hạn nói trên, thì sự xác định hàng hóa do người bán thực hiện có
tính chất bắt buộc.
Chương 4. CHUYỂN RỦI RO
Điều 66. Việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa xảy ra sau khi rủi ro
chuyển sang người mua không miễn trừ cho người này nghĩa vụ phải trả tiền,
trừ phi việc mất mát hay hư hỏng ấy là do hành động của người bán gây nên.
Điều 67
1. Khi hợp đồng mua bán quy định việc vận chuyển hàng hóa và người
bán không bị buộc phải giao hàng tại nơi xác định, rủi ro được chuyển sang
người mua kể từ lúc hàng được giao cho người chuyên chở thứ nhất để
chuyển giao cho người mua chiếu theo hợp đồng mua bán. Nếu người bán bị
buộc phải giao hàng cho một người chuyên chở tại một nơi xác định, các rủi
ro không được chuyển sang người mua nếu hàng hóa chưa được giao cho
người chuyên chở tại nơi đó. Sự kiện người bán được phép giữ lại các chứng
từ nhận hàng không ảnh hưởng gì đến sự chuyển giao rủi ro.
2. Tuy nhiên, rủi ro không được chuyển sang người mua nếu hàng hóa
không được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích của hợp đồng hoặc bằng
cách ghi ký mã hiệu trên hàng hóa, bằng các chứng từ chuyên chở, bằng một
thông báo gửi cho người mua hoặc bằng bất cứ phương pháp nào khác.
Điều 68. Người mua nhận rủi ro về mình đối với những hàng hóa bán
trên đường vận chuyển kể từ lúc hàng hóa được giao cho người chuyên chở
là người đã phát chứng từ xác nhận một hợp đồng vận chuyển. Tuy nhiên,
nếu vào lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán đã biết hoặc đáng lẽ phải
biết sự kiện hàng hóa đã bị mất mát hay hư hỏng và đã không thông báo cho
người mua về điều đó thì việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa do người bán
phải gánh chịu.
Điều 69
1. Trong các trường hợp không được nêu tại các điều 67 và 68, các rủi
ro được chuyển sang người mua khi người này nhận hàng hoặc, nếu họ
Page 272
không làm việc này đúng thời hạn quy định, thì kể từ lúc hàng hóa được đặt
dưới quyền định đoạt của người mua và người mua đã vi phạm hợp đồng vì
không chịu nhận hàng.
2. Tuy nhiên, nếu người mua bị buộc phải nhận hàng tại một nơi khác
với nơi có xí nghiệp thương mại của người bán, rủi ro được chuyển giao khi
thời hạn giao hàng phải được thực hiện và người mua biết rằng hàng hóa đã
được đặt dưới quyền định đoạt của họ tại nơi đó.
3. Nếu hợp đồng mua bán liên quan đến hàng hóa chưa được cá biệt
hóa, hàng chỉ được coi là đã đặt dưới quyền định đoạt của người mua khi nào
nó được đặc định hóa rõ ràng cho mục đích của hợp đồng này.
Điều 70. Nếu người bán gây ra một sự vi phạm chủ yếu đối với hợp
đồng, thì các quy định của những điều 67, 68, 69 không ảnh hưởng đến
quyền của người mua sử dụng các biện pháp bảo hộ pháp lý trong trường
hợp xảy ra vi phạm như vậy.
Chương 5. CÁC ĐIỀU KHOẢN CHUNG CHO NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA
Mục I: Vi phạm trước và các hợp đồng giao hàng từng phần
Điều 71
1. Một bên có thể ngừng việc thực hiện nghĩa vụ của mình nếu có dấu
hiệu cho thấy rằng sau khi hợp đồng được ký kết, bên kia sẽ không thực hiện
một phần chủ yếu những nghĩa vụ của họ bởi lẽ:
a) Một sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong khả năng thực hiện hay
trong khi thực hiện hợp đồng.
b) Cung cách sử dụng của bên kia trong việc chuẩn bị thực hiện hay
trong khi thực hiện hợp đồng.
2. Nếu người bán đã gửi hàng đi khi phát hiện những lý do nêu trong
khoản trên, họ có thể ngăn cản không để hàng hóa được giao cho người mua
ngay cả nếu người này giữ trong tay chứng từ cho phép họ nhận hàng. Mục
Page 273
này chỉ liên quan đến các quyền của người mua và người bán đối với hàng
hóa.
3. Một bên nào ngừng việc thực hiện hợp đồng, không phụ thuộc vào
việc đó xảy ra trước hay sau khi gửi hàng đi, thì phải gửi ngay một thông báo
về việc đó cho bên kia và phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nếu bên kia cung
cấp những bảo đảm đầy đủ cho việc thực hiện nghĩa vụ của họ.
Điều 72
1. Nếu trước ngày quy định cho việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển
nhiên rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, bên kia có
thể tuyên bố hợp đồng bị hủy.
2. Nếu có đủ thời giờ, bên nào có ý định tuyên bố hợp đồng bị hủy thì
phải gửi một thông báo hợp lý cho bên kia để cho phép họ cung cấp những
bảo đảm đầy đủ rằng họ sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình.
3. Các quy định của khoản trên không áp dụng nếu bên kia đã tuyên bố
rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Điều 73.
1. Nếu hợp đồng quy định giao hàng từng phần và nếu sự kiện một bên
không thực hiện một nghĩa vụ có liên quan đến một lô hàng cấu thành một sự
vi phạm chủ yếu đến hợp đồng về lô hàng đó thì bên kia có thể tuyên bố hủy
hợp đồng về phần lô hàng đó.
2. Nếu sự kiện một bên không thực hiện một nghĩa vụ có liên quan đến
bất cứ lô hàng nào cho phép bên kia có lý do xác đáng để cho rằng sẽ có một
sự vi phạm chủ yếu đến hợp đồng với các lô hàng sẽ được giao trong tương
lai thì họ có thể tuyên bố hủy hợp đồng đối với các lô hàng tương tự với điều
kiện phải làm việc đó trong một thời hạn hợp lý.
3. Người mua tuyên bố hủy hợp đồng đối với bất kỳ lô hàng nào có thể
cùng một lúc, tuyên bố hợp đồng bị hủy đối với các lô hàng đã giao hoặc đối
với các lô hàng sẽ được giao trong tương lai nếu, do tính liên kết, các lô hàng
Page 274
này không thể sử dụng được cho những mục đích do hai bên đã dự tính vào
lúc ký kết hợp đồng.
Mục II: Bồi thường thiệt hại
Điều 74. Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng
là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải
chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này
không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu được
hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có
thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc
đáng lẽ phải biết.
Điều 75. Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong
một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, người mua đã mua hàng thay thế
hay người bán đã bán lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận
phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mua thế hay bán lại hàng cũng
như mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo điều
74.
Điều 76
1. Khi hợp đồng bị hủy và hàng có một giá hiện hành, bên đòi bồi
thường thiệt hại có thể, nếu họ đã không mua hàng thay thế hay bán lại hàng
chiếu theo điều 75, đòi nhận phần chênh lệch giữa giá ấn định trong hợp
đồng và giá hiện hành vào lúc hủy hợp đồng, cùng mọi khoản tiền bồi thường
thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo điều 74. Mặc dầu vậy, nếu bên đòi
bồi thường thiệt hại đã tuyên bố hủy hợp đồng sau khi đã tiếp nhận hàng hóa,
thì giá hiện hành vào lúc tiếp nhận hàng hóa được áp dụng và không phải là
giá hiện hành vào lúc hủy hợp đồng.
2. Theo mục đích của điều khoản trên đây, giá hiện hành là giá ở nơi
mà việc giao hàng đáng lẽ phải được thực hiện hoặc nếu không có giá hiện
hành tại nơi đó, là giá hiện hành tại một nơi nào mà người ta có thể tham
Page 275
chiếu một cách hợp lý, có tính đến sự chênh lệch trong chi phí chuyên chở
hàng hóa.
Điều 77. Bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải
áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn
chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu họ
không làm điều đó, bên vi phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm bớt một khoản
tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn chế
được.
Mục III: Tiền lãi
Điều 78. Nếu một bên chậm thanh toán tiền hàng hay mọi khoản tiền
thiếu khác, bên kia có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó mà không
ảnh hưởng đến quyền đòi bồi thường thiệt hại mà họ có quyền đòi hỏi chiếu
theo điều 74.
Mục IV. Miễn trách
Điều 79
1. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một
nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy
là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ
đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng
hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.
2. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba
mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực
hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
a) Được miễn trách chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b) Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của
khoản trên được áp dụng cho họ.
3. Sự miễn trách được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời
kỳ tồn tại trở ngại đó.
Page 276
4. Bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho
bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện
nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ
khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó
thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận
được thông báo.
5. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng
mọi quyền khác ngoài quyền được bôi thường thiệt hại chiếu theo Công ước
này.
Điều 80. Một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa
vụ của bên kia trong chừng mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do
những hành vi hay sơ suất của chính họ.
Mục V: Hậu quả của việc hủy hợp đồng
Điều 81
1. Việc hủy hợp đồng giải phóng hai bên khỏi những nghĩa vụ của họ,
trừ những khoản bồi thường thiệt hại có thể có. Việc hủy hợp đồng không có
hiệu lực đối với quy định của hợp đồng liên quan đến việc giải quyết các tranh
chấp hay đến các quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong trường hợp hợp
đồng bị hủy.
2. Bên nào đã thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng có thể đòi
bên kia hoàn lại những gì họ đã cung cấp hay đã thanh toán khi thực hiện
hợp đồng. Nếu cả hai bên đều bị buộc phải thực hiện việc hoàn lại, thì họ phải
làm việc này cùng một lúc.
Điều 82
1. Người mua mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng hay đòi người bán
phải giao hàng thay thế nếu họ không thể hoàn lại hàng hóa trong tình trạng
về thực chất giống như tình trạng khi họ nhận hàng đó.
2. Điều khoản trên không áp dụng:
Page 277
a) Nếu sự kiện không thể hoàn lại hàng hóa hoặc không thể hoàn lại
hàng hóa trong tình trạng về thực chất giống như tình trạng khi người mua
nhận không phải do một hành động hay một sự sơ suất của họ.
b) Nếu hàng hóa hay một phần hàng hóa không thể sử dụng được
hoặc bị hư hỏng theo kết quả của việc kiểm tra quy định tại điều 38, hoặc.
c) Nếu trước khi nhận thấy hay đáng lẽ phải nhận thấy rằng hàng hóa
không phù hợp hợp đồng, người mua đã bán toàn phần hay một phần hàng
hóa trong khuôn khổ một nghiệp vụ kinh doanh thông thường hay đã tiêu
dùng hoặc biến đổi toàn thể hay một phần hàng hóa đúng theo thể thức sử
dụng bình thường.
Điều 83. Người mua đã mất quyền tuyên bố hủy hợp đồng hay đòi
người bán phải giao hàng thay thế chiếu theo điều 82, vẫn duy trì quyền sử
dụng biện pháp bảo hộ pháp lý khác mà họ có theo hợp đồng và Công ước
này.
Điều 84
1. Nếu người bán bị buộc phải hoàn lại giá tiền, họ cũng phải trả tiền lãi
trên tổng số của giá tiền đó kể từ ngày người mua thanh toán.
2. Người mua phải trả cho người bán số tiền tương đương với mọi lợi
nhuận mà họ đã được hưởng từ hàng hóa hay một phần hàng hóa:
a) Khi họ phải hoàn lại toàn thể hay một phần hàng hóa, hoặc.
b) Khi họ không thể hoàn lại toàn thể hay một phần hàng hóa hay
không thể hoàn lại hàng trong tình trạng về thực chất giống như tình trạng họ
đã nhận và mặc dầu vậy họ đã tuyên bố hợp đồng bị hủy hay đã đòi người
bán phải giao hàng thay thế.
Mục VI: Bảo quản hàng hóa
Điều 85. Khi người mua chậm trễ nhận hàng hay không trả tiền, hoặc
trong những trường hợp khi việc trả tiền và việc giao hàng phải được tiến
hành cùng một lúc, nếu hàng hóa còn ở dưới quyền định đoạt hay kiểm soát
Page 278
của người bán thì người bán phải thực hiện những biện pháp hợp lý trong
những tình huống như vậy để bảo quản hàng hóa. Người bán có quyền giữ
lại hàng hóa cho tới khi nào người mua hoàn trả cho họ các chi phí hợp lý.
Điều 86
1 Nếu người mua đã nhận hàng và có ý định sử dụng quyền từ chối
không nhận hàng chiếu theo hợp đồng hay Công ước này, thì họ phải thi
hành các biện pháp hợp lý trong những tình huống như vậy, để bảo quản
hàng hóa. Người mua có quyền giữ lại hàng hóa cho tới khi nào người bán
hoàn trả cho họ các chi phí hợp lý.
2. Nếu hàng hóa gửi đi cho người mua đã được đặt dưới quyền định
đoạt của người này tại nơi đến và nếu người mua sử dụng quyền từ chối
hàng thì họ phải tiếp nhận hàng hóa chi phí do người bán chịu với điều kiện là
người mua có thể làm việc này mà không phải trả tiền hàng và không gặp trở
ngại hay các chi phí không hợp lý. Quy định này không áp dụng nếu người
bán hiện diện tại nơi đến hay tại nơi đó có người có thẩm quyền để nhận
hàng hóa cho người bán và chi phí do người bán chịu. Những quyền lợi và
nghĩa vụ của người mua khi người này tiếp nhận hàng hóa chiếu theo khoản
này được điều chỉnh bằng quy định tại khoản trên.
Điều 87. Bên nào bị buộc phải có những biện pháp để bảo quản hàng
hóa có thể giao hàng vào kho của người thứ ba, chi phí bên kia phải chịu, với
điều kiện là các chi phí này phải hợp lý.
Điều 88
1. Bên nào phải bảo quản hàng hóa chiếu theo các điều 85 hay 86 có
thể bán hàng đi bằng cách thích hợp nếu bên kia chậm trễ một cách phi lý
trong việc tiếp nhận hàng hóa hay lấy lại hàng hoặc trong việc trả tiền hàng
hay các chi phí bảo quản, nhưng phải thông báo cho bên kia trong những
điều kiện hợp lý, ý định phát mãi hàng.
2. Nếu hàng hóa thuộc loại hàng mau hỏng hay khi việc bảo quản nó sẽ
gây ra các chi phí phi lý thì bên nào có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa chiếu
Page 279
theo các điều 85 hay 86 phải tiến hành các biện pháp hợp lý để bán hàng đi.
Theo khả năng của mình họ phải thông báo cho bên kia biết ý định phát mại.
3. Bên bán hàng có quyền giữ trong khoản thu do việc bán hàng đem
lại một số tiền ngang với các chi phí hợp lý trong việc bảo quản và phát mại
hàng hóa. Họ phải trả phần còn lại cho bên kia.
Phần 4. NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Điều 89. Tổng thư ký Liên hiệp quốc được chỉ định là người giữ lưu
chiểu bản Công ước này.
Điều 90. Công ước này không ảnh hưởng đến hiệu lực của bất kỳ một
điều ước quốc tế nào đã được hay sẽ được ký kết mà bao gồm những quy
định liên quan đến các vấn đề là đối tượng điều chỉnh của Công ước này, với
điều kiện là các bên của hợp đồng phải có trụ sở thương mại tại các quốc gia
thành viên của điều ước quốc tế đó.
Điều 91
1. Công ước này sẽ để ngỏ cho các bên ký kết tại phiên họp bế mạc
của hội nghị Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, và sẽ để
ngỏ cho các quốc gia ký kết tại trụ sở Liên hợp quốc ở NEW YORK, cho tới
này 30-11 1981.
2. Công ước này phải được sự phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y các
quốc gia ký tên.
3. Công ước này sẽ nhận sự gia nhập tất cả các quốc gia không ký tên,
kể từ ngày Công ước để ngỏ cho các bên ký kết.
4. Các văn bản phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y hay gia nhập sẽ được
giao cho Tổng thư ký Liên hợp quốc lưu giữ.
Điều 92
1. Mọi quốc gia thành viên có thể, vào lúc ký kết, phê chuẩn, chấp
nhận, chuẩn y hay gia nhập, tuyên bố sẽ không bị ràng buộc phần thứ hai,
hay phần thứ ba của Công ước này.
Page 280
2. Một quốc gia thành viên, chiếu theo điều khoản trên, đưa ra một
tuyên bố về phần thứ hai hay phần thứ ba của Công ước này, sẽ không được
coi là một quốc gia thành viên theo nghĩa của khoản 1 điều 1 của Công ước
này về các vấn đề quy định trong phần của bản Công ước có liên quan đến
tuyên bố đó.
Điều 93
1. Nếu một quốc gia thành viên mà bao gồm hai hay nhiều đơn vị lãnh
thỗ, trong đó theo hiến pháp của quốc gia các hệ thống pháp luật khác nhau
được áp dụng cho các vấn đề là đối tượng điều chỉnh của Công ước này thì
quốc gia đó có thể, vào lúc ký kết, phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y hay gia
nhập, tuyên bố rằng Công ước này sẽ áp dụng cho tất cả các đơn vị lãnh thổ
hay chỉ cho một hay nhiều đơn vị và có thể bất cứ lúc nào sửa đổi tuyên bố
đó bằng một tuyên bố khác.
2. Các tuyên bố này sẽ được thông báo cho người giữ lưu chiểu và
trong các tuyên bố này phải nêu rõ Công ước được áp dụng tại những đơn vị
lãnh thổ nào.
3. Nếu chiếu theo một tuyên bố được làm đúng theo điều này thì Công
ước này được áp dụng cho một hay nhiều đơn vị lãnh thổ của một quốc gia
thành viện, nhưng không phải cho tất cả, và nếu trụ sở thương mại của một
bên hợp đồng đóng tại quốc gia đó, thì theo mục đích của Công ước này, trụ
sở thương mại đó sẽ được coi là không đóng một quốc gia thành viên, trừ phi
trụ sở thương mại đó đóng tại một đơn vị lãnh thổ nơi Công ước được áp
dụng.
4. Nếu một quốc gia thành viên không ra tuyên bố chiếu theo khoản
một điều này thì Công ước sẽ áp dụng cho tất cả các đơn vị lãnh thổ của
quốc gia đó.
Điều 94
1. Hai hay nhiều quốc gia thành viên, khi áp dụng các quy tắc pháp lý
tương tự hay giống nhau về những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của
Page 281
Công ước này, bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố không áp dụng Công ước
cho các hợp đồng mua bán hoặc cho việc ký kết các hợp đồng này trong
những trường hợp khi các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia này. Các
quốc gia có thể cùng nhau ra tuyên bố nói trên hoặc trao cho nhau những
tuyên bố đơn phương về vấn đề này.
2. Nếu một quốc gia thành viên đối với các vấn đề được điều chỉnh bởi
Công ước này, áp dụng các quy tắc pháp lý tương tự hoặc giống với các quy
tắc pháp lý của một hay nhiều quốc, gia không phải là thành viên thì quốc gia
đó có thể, bất cứ lúc nào, tuyên bố rằng bản Công ước sẽ không áp dụng cho
các hợp đồng mua bán hay cho việc ký kết các hợp đồng mua bán hay cho
việc ký kết các hợp đồng này nếu các bên có trụ sở thương mại tại các quốc
gia không phải là thành viên công ước.
3. Khi một quốc gia liên quan đến một tuyên bố được làm chiếu theo
khoản trên sau đó trở thành một quốc gia thành viên, thì tuyên bố này, kể từ
ngày bản Công ước nay có hiệu lực đối với quốc gia thành viên mới đó, sẽ có
hiệu lực như một tuyên bố được làm chiếu theo khoản 1, với điều kiện là quốc
gia thành viên mới đó, chấp nhận tuyên bố này hay ra một tuyên bố đơn
phương có tính chất tương hỗ.
Điều 95
Mọi quốc gia có thể tuyên bố, khi nộp văn bản phê chuẩn, chấp nhận,
chuẩn y hay gia nhập, rằng quốc gia đó sẽ không bị ràng buộc bởi các quy
định tại đoạn b khoản 1 điều thứ nhất của Công ước này.
Điều 96
Nếu luật của một quốc gia thành viên quy định hợp đồng mua bán phải
được ký kết hay xác nhận bằng văn bản thì quốc gia đó có thể bất cứ lúc nào
tuyên bố chiếu theo điều 12, rằng mọi quy định của các điều 11, 29 hay của
phần thứ hai Công ước này cho phép một hình thức khác với hình thức văn
bản cho việc ký kết, sửa đổi hay chấm dứt hợp đồng mua bán, hay cho mọi
chào hàng, chấp nhận chào hàng hay sự thể hiện ý định nào khác sẽ không
Page 282
áp dụng nếu như chí cẩn một trong các bên có trụ sở thương mại tại quốc
gia.
Điều 97
1. Các tuyên bố được làm chiếu theo bản Công ước này vào lúc ký kết
phải được xác nhận khi phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y.
2. Các tuyên bố và sự xác nhận các tuyên bố phải được làm bằng văn
bản và chính thức thông báo cho người giữ lưu chiểu.
3. Các tuyên bố sẽ có hiệu lực vào ngày Công ước này bắt đầu có hiệu
lực đối với quốc gia ra tuyên bố. Tuy nhiên các tuyên bố mà người giữ lưu
chiểu chính thức nhận được sau ngày Công ước có hiệu lực sẽ có hiệu lực
vào ngày đầu tháng tiếp theo sau khi hết một thời hạn 6 tháng kể từ ngày
người giữ lưu chiểu nhận làm tuyên bố. Các tuyên bố đơn phương và tương
hỗ được làm chiếu theo điều 94 sẽ có hiệu lực vào ngày đầu tháng tiếp theo
sau khi hết một thời hạn 6 tháng kể từ ngày người giữ lưu chiểu nhận được
tuyên bố cuối cùng.
4. Bất cứ quốc gia nào ra một tuyên bố chiếu theo Công ước này đều
có thể bất kỳ lúc nào rút lui tuyên bố đó bằng một thông báo chính thức bằng
văn bản cho người giữ lưu chiểu. Sự thu hồi này sẽ có hiệu lực vào ngày đầu
tháng tiếp theo sau khi hết thời hạn 6 tháng kể từ ngày người giữ lưu chiểu
nhận được thông cáo.
5. Sự thu hồi một tuyên bố được chiếu theo điều 94 kể từ ngày có hiệu
lực cũng sẽ chấm dứt hiệu lực của mọi tuyên bố tương hỗ của một quốc gia
khác chiếu theo điều này.
Điều 98. Không một bảo lưu nào được cho phép ngoài các bảo lưu
được cho phép bởi Công ước này.
Điều 99
1. Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực với điều kiện tuân thủ các quy
định của khoản 6 điều này, vào ngày đầu tháng tiếp theo sau khi hết một hạn
Page 283
kỳ 12 kể từ ngày văn bản phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y hay gia nhập thứ
mười được đệ trình kể cả những văn bản chứa đựng một tuyên bố được làm
chiếu theo điều 92.
2. Khi một quốc gia phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y Công ước này
hoặc gia nhập Công ước sau ngày văn bản phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn
y, gia nhập thứ mười được đệ trình, Công ước ngoại trừ phần không chấp
nhận sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với quốc gia đó với điều kiện tuân thủ các quy
định của khoản 6 điều này vào ngày đầu tháng tiếp theo sau khi hết một thời
hạn 12 tháng kể từ ngay văn bản phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y hay gia
nhập được đệ trình.
3. Mọi quốc gia phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y Công ước này hay
gia nhập Công ước và là thành viên của Công ước Luật thống nhất về ký kết
các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế làm tại La-Haye ngày 1-7-1964
(Công ước La-Haye 1964 về ký kết hợp đồng) hoặc của Công ước Luật thống
nhất về mua bán hàng hóa quốc tế làm tại La-Haye ngày 1-7-1964 (công ước
La-Haye 1964 về mua bán) hoặc là thành viên của cả hai Công ước La-Haye,
sẽ phải đồng thời hủy bỏ, tùy trường hợp, Công ước La-Haye 1964 về mua
bán bay Công ước La-Haye về ký kết hợp đồng hoặc cả hai Công ước bằng
cách gửi một thông cáo với mục đích này cho Chính phủ Hà Lan.
4. Một quốc gia thành viên của Công ước La-Haye 1964 về mua bán
hàng hóa mà phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y Công ước này (tức Công
ước Viên 1980) hoặc gia nhập Công ước này và tuyên bố hay đã tuyên bố
chiếu theo điều 92 rằng họ không bị rằng buộc bởi phần thứ hai của Công
ước sẽ hủy bỏ vào lúc phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y hay gia nhập, bản
Công ước La-Haye 1964 về mua bán hàng hóa bằng cách gửi một thông cáo
với mục đích đó cho Chính phủ Hà Lan.
5. Mọi quốc gia thành viên của Công ước La-Haye 1964 về ký kết hợp
đồng mà phê chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y Công ước này, hoặc gia nhập
Công ước này và tuyên bố hay đã tuyên bố chiếu theo điều 92 rằng họ không
bị rằng buộc bởi phần thứ ba của Công ước sẽ hủy bỏ vào lúc phê chuẩn,
Page 284
chấp nhận, chuẩn y hay gia nhập, bản Công ước La-Haye 1964 về ký kết hợp
đồng bằng cách gửi một thông cáo với mục đích đó cho Chính phủ Hà Lan.
6. Vì mục đích của điều này, các sự phê chuẩn, chấp nhận, chuẩn y và
gia nhập Công ước này của các quốc gia thành viên của Công ước La-Haye
1964 về ký kết hợp đồng hay Công ước La-Haye 1964 về mua bán hàng hóa
chỉ bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày các thông báo hủy bỏ của các quốc gia đó
đối với hai Công ước nói trên cũng sẽ có hiệu lực. Người giữ lưu chiểu bản
Công ước này sẽ thỏa thuận với Chính phủ Hà Lan, vốn là người giữ lưu
chiểu các Công ước 1964, để đảm bảo sự phối hợp cần thiết về vấn đề này.
Điều 100
1. Công ước này áp dụng cho việc ký kết các hợp đồng trong những
trường hợp khi một đề nghị ký kết hợp đồng được làm vào ngày Công ước
bắt đầu có hiệu lực hoặc sau ngày đó đối với các quốc gia thành viên nội tại
đoạn a khoản 1 điều thứ nhất hoặc đối với quốc gia thành viên nói ở đoạn b
khoản 1 điều thứ nhất.
2. Công ước này chỉ áp dụng cho các hợp đồng được ký kết vào đúng
ngày hoặc sau ngày Công ước bát đầu có hiệu lực đối với các quốc gia thành
viên nói tại đoạn a khoản 1 điều thứ nhất hoặc đối với quốc gia thành viên nói
ở đoạn b khoản 1 điều thứ nhất.
Điều 101
1. Mọi quốc gia thành viên có thể hủy bỏ Công ước này hoặc phân thứ
hai hay thứ ba của Công ước, bằng một thông cáo chính thức bằng văn thư
gửi cho người giữ lưu chiểu.
2. Sự hủy bỏ sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày đầu tháng tiếp theo sau
khi hết một thời hạn 12 tháng kể từ ngày người giữ lưu chiểu nhận được
thông cáo. Nếu thông cáo ấn định một thời hạn dài hơn cho sự bắt đầu có
hiệu lực của việc hủy bỏ Công ước thì sự hủy bỏ sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ
khi kết thúc thời hạn này sau ngày người giữ lưu chiểu nhận được thông báo.
Page 285
Làm tại Viên, ngày mười một tháng tư năm một ngàn chín trăm tám
mươi, thành một bản chính mà các bản tiếng Anh, Ả Rập, Tây Ban Nha,
Trung Quốc, Nga, Pháp đều là bản chính thức.
Để chứng thực các vị đặc mệnh toàn quyền ký tên dưới đây được các
Chính phủ của mình ủy quyền, đã ký vào bản Công ước này.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1. CÁC PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH MUA BÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
- Giao dịch thông thường
- Giao dịch qua trung gian
- Buôn bán đối lưu
- Đấu giá quốc tế
- Đấu thầu quốc tế
- Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa
- Giao dịch tại hội chợ và triển lãm
- Gia công quốc tế
- Giao dịch tái xuất
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 2. CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ
- Điều kiện tên hàng
- Điều kiện phẩm chất
- Điều kiện số luợng
- Điều kiện bao bì
Page 286
- Điều kiện cơ sở giao hàng
- Điều kiện giá cả
- Điều kiện giao hàng
- Điều kiện thanh toán trả tiền
- Điều kiện khiếu nại
- Điều kiện bảo hành
- Điều kiện về trường hợp miễn trách
- Điều kiện trọng tài
- Điều kiện vận tải
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 3. CHUẨN BỊ GIAO DỊCH, ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
- Những công việc chuẩn bị để giao dịch
- Các bước giao dịch
- Các hình thức đàm phán
- Các phương thức kiểm tra và tính giá hàng xuất nhập khẩu
- Ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 4. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG
- Xin giấy phép xuất nhập khẩu
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu
- Kiểm tra chất lượng
- Thuê tàu lưu cước
- Mua bảo hiểm
- Làm thủ tục hải quan
Page 287
- Giao nhận hàng với tàu
- Làm thủ tục thanh toán
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
- Những chứng từ cơ bản trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương
- Chứng từ hàng hóa
- Chứng từ vận tải
- Chứng từ bảo hiểm
- Chứng từ kho hàng
- Chứng từ hải quan
- Câu hỏi ôn tập và bài tập
Chương 5. QUẢNG CÁO VÀ NHÃN HIỆU TRONG NGOẠI THƯƠNG
- Khái niệm và mục đích của quảng cáo
- Nội dung và hình thức của quảng cáo
- Các phương tiện và phuơng thức quảng cáo
- Tổ chức quảng cáo
- Nhãn hiệu hàng hóa
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 6. NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ
- Khái niệm về TBTB và tình hình buôn bán TBTB
- Cái giai đoạn nhập khẩu TBTB
- Các phương thức nhập khẩu TBTB
- Hợp đồng nhập khẩu TBTB
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 7. NGHIỆP VỤ MUA BÁN CÔNG NGHỆ
Page 288
- Công nghệ và mua bán công nghệ
- Mua bán sáng chế
- Mua bán dịch vụ kỹ thuật
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 8. NGHIỆP VỤ THUÊ VÀ CHO THUÊ THIẾT BỊ
- Khái niệm thuê và cho thuê thiết bị
- Các loại hình thuê và cho thuê thiết bị
- Hợp đồng thuê thiết bị
- Trình tự lập và chấm dứt hợp đồng thuê thiết bị
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 9. THU MUA VÀ CUNG ỨNG HÀNG XUẤT KHẨU
- Tìm hiểu nguồn hàng xuất khẩu
- Lựa chọn phương thức giao dịch hàng xuất khẩu
- Hợp đồng ký kết với đơn vị chân hàng hàng xuất khẩu
- Tiếp nhận bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Chương 10. GIAO DỊCH TRONG NƯỚC VỀ HÀNG NHẬP KHẨU
- Đơn đặt hàng nhập khẩu
- Hợp đồng kinh tế về hàng nhập khẩu
- Giao nhận và kiểm tra hàng nhập khẩu
- Một số nét riêng trong giao dịch hàng nhập là TBTB
- Câu hỏi ôn tập, bài tập
Phụ lục 1. Hợp đồng Xuất khẩu
Phụ lục 2. Hợp đồng nhập khẩu
Page 289
Phụ lục 3. Hợp đồng gia công
Phụ lục 4. Công ước Liên hộp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế
(Công ước Viên 1980)
---//---
KỸ THUẬT NGHIỆP VỤ NGOẠI THƯƠNG
(Tái bản có bổ sung)
Tác giả: PGS. VŨ HỮU TỬU
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
HÀ NỘI - 1996
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc PHẠM VĂN AN
Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý
Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương
GS. PTS. BÙI XUÂN LƯU
Biên soạn: PGS. VŨ HỮU TỬU
Biên tập và sửa bản in: TRƯƠNG BÍCH CHÂU
Mã số: 7L112A6
In 3.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm tại Công ty Thiết bị In - Bộ Văn hoá Thông
tin. Trích ngang số 1399 NXB Giáo Dục cấp ngày 30-8-1996. In xong và nộp
lưu chiểu tháng 10 năm 1996.