..THUẬT SỐ LẠC THƯ (KỲ MÔN ĐỘN GIÁP NGUYÊN THUỶ) CHƯƠNG I KHƠI NGUỒN MẠCH Cũng như ta hôm nay người xưa khi quan sát muôn vật, họ luôn luôn thấy có hai loại đối ngược nhau như: Đàn ông - Đàn bà, Đực - Cái… (rồi thì: Ngày - Đêm, Nóng - Lạnh, Sáng - Tối…) Hai đối lập này lại có quan hệ qua lại với nhau, nên dần dần họ hình thành quan điểm mọi vật trong vũ trụ thường luôn có từng cặp tương đối với nhau, quan hệ qua lại với nhau. Tiếp đến là trong những vật mà cân bằng về thành phần cấu tạo họ cũng có thể chia làm hai phần đối lập như thế, nên sau cùng đã đưa đến kết luận là: Một vật hoặc từng cặp vật hoặc một tổ hợp vật có hai phần quan hệ tương đối với nhau, phải theo một qui luật tương giao nào đấy. Thế là hai khái niệm mà người sau gọi là Âm và Dương được hình thành. Từ Âm vốn từ từ Âu của người Lạc Việt có nghĩa là phương Tây, từ Dương cũng thế 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
..THUẬT SỐ LẠC THƯ
(KỲ MÔN ĐỘN GIÁP NGUYÊN THUỶ)
CHƯƠNG IKHƠI NGUỒN MẠCH
Cũng như ta hôm nay người xưa khi quan sát muôn vật, họ luôn luôn thấy có hai loại đối ngược nhau như: Đàn ông - Đàn bà, Đực - Cái… (rồi thì: Ngày - Đêm, Nóng - Lạnh, Sáng - Tối…) Hai đối lập này lại có quan hệ qua lại với nhau, nên dần dần họ hình thành quan điểm mọi vật trong vũ trụ thường luôn có từng cặp tương đối với nhau, quan hệ qua lại với nhau. Tiếp đến là trong những vật mà cân bằng về thành phần cấu tạo họ cũng có thể chia làm hai phần đối lập như thế, nên sau cùng đã đưa đến kết luận là:
Một vật hoặc từng cặp vật hoặc một tổ hợp vật có hai phần quan hệ tương đối với nhau, phải theo một qui luật tương giao nào đấy. Thế là hai khái niệm mà người sau gọi là Âm và Dương được hình thành. Từ Âm vốn từ từ Âu của người Lạc Việt có nghĩa là phương Tây, từ Dương cũng thế vốn từ từ Di có nghĩa là phương Đông. Không rõ thuở xa xưa hai khái niệm trên được gọi là gì, chúng ta tạm thời phải dùng hai từ này vậy.
Và khi hai mặt đối lập trên mà người sau này gọi là Cục tương giao qua lại thì cái gì tương giao?
- Dĩ nhiên là họ thấy các thành phần vật chất của hai cục tạo nên vật thể hay một cặp, một tổ hợp vật thể nói trên tương giao với nhau. Nhưng sự tương giao này thì muôn ngàn kiểu, muôn hình vạn trạng tùy theo những thành phần vật chất cấu tạo nên chúng, nên không thể đưa ra một qui luật chung nhất được.Vì thế họ phải tìm xem những thành phần vật chất của muôn vật từ cái gì chung nhất tạo ra. Đó là cái mà
1
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
người sau này gọi là KHÍ. Ta cũng chẳng rõ khái niệm về bản thể chung nhất này họ gọi là gì. Ta lại cũng tạm dùng từ Khí này thôi. Như thế thì Khí toàn cục, cả cục được chia làm hai “loại” là Khí Âm và Khí Dương: Cái gốc tạo nên hai cục đối lập của chúng. (Loại # mức độ hay trạng thái). Rồi để biểu diễn các khái niệm trên thì họ làm thế nào?
Theo người xưa thì con người là vật thể căn bản nhất vì con người vừa mang tính chất động, vừa có tính chất sống cao cấp nhất nên được họ lấy làm chuẩn để xem xét. Con người được vẽ ra là:
Nên phần dương là và phần âm là . Hai biểu tượng Khí Âm Dương này được dùng trong giai đoạn ban sơ của người xưa nhưng vì bất tiện nên lại được tĩnh lược thành và
. Họ không viết nét Âm dính liền vì dễ bị lộn thành nét Dương. Theo thời gian nét Âm viết như thế cũng bất tiện nên lại biến thành như bây giờ chúng ta đang thấy.
Thế còn khái niệm bản thế KHÍ chung nhất được chia làm hai loại Âm Dương để làm cái gốc cho hai cục vật chất đối lập thì họ biểu diễn thế nào?
Thấy rằng mọi vật thể đều chuyển động, mà chuyển động hoàn hảo nhất là quay tròn đều quanh một tâm nào đó và mỗi vật thể khi tự quay quanh tâm của chính nó đến mức hoàn hảo nhất thì lại cũng mang dạng hình khối cầu, nên người xưa đã vẽ hình tròn để biểu diễn cái khí tạo nên mỗi vật, từng cặp vật hoặc một tổ hợp vật như đã nói ở trước. Thế là ta được mô hình đầu tiên về khí tạo nên chúng như sau:
- Ở đây một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao để biểu diễn khái niệm khí tạo nên chúng người xưa lại không căn cứ vào con người như ở hai khái niệm Âm và Dương?
- Chúng ta dễ dàng nhận ra rằng chuyển động của con người hoặc sinh giới nói chung là loại chuyển động chủ động, có ý chí
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
2
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
chứ không phải là chuyển động tự nhiên như các loại vật thể khác nên họ không thể đặt căn cứ vào đấy được.
Về mặt “Tượng” thì họ lại dùng CÁI BAO, CÁI BỌC của con Hy, con Heo để diễn tả mô hình nêu trên. Cái bao hay cái bọc tức là cái bọng đái của con vật vì nó vừa tròn lại vừa co giãn được. Nếu dùng viên đá tròn hay quả cam chẳng hạn thì không thể diễn tả sự tương giao chuyển hóa của khí được. Còn với “Bao Hy” thì không khí bên trong chuyển vị rõ ràng nên dễ diễn tả sự chuyển hóa của khí hơn (Người xưa thật có phương pháp diễn đạt rất sư phạm!). Từ “Bao” là của người Lạc Việt, khi các dân tộc xung quanh tiếp thu được thì họ đọc là Bào, và vì phải sống chung với nhau nên dân tộc Lạc Việt lại cũng dùng từ Bào. Do vậy học thuyết về khí Âm Dương mới có tên là: Học thuyết Bào Hy (Bào của con Hy). Từ “Bọc” cũng thế, các dân tộc xung quanh đọc là Pọc, là Phọc, là Phục để rồi lại có từ Phục Hy (Bọc của con Hy). Người đời sau không lí giải được tại sao Phục Hy còn có tên là Bào Hy!. Theo ngữ pháp người Hoa thì phải đọc là Hy Bào và Hy Phục mới đúng nên đây là một chứng lý rằng bộ kinh Dịch có nguồn gốc xuất phát từ dân tộc Lạc Việt thuộc cộng đồng các dân tộc Bách Việt xưa tại Trung Nguyên nước Trung Hoa. Ta thấy: Cả đại khối dân tộc Bách Việt luôn gọi nhau là “đồng bào” để chỉ chung một bọc, một bao của hai đại diện âm dương là Âu Cơ và Lạc Long Quân hợp nhất, hay khi giúp đỡ nhau thì họ gọi là Đùm Bọc (đùm chung vào một bọc). Các nước ở Đông phương không có nước nào dùng từ kiểu này cả. Điều này khẳng định rằng: từ DỊCH vốn được người Hoa đọc từ từ DIỆT mà trại lần ra. Còn từ Diệt là tên gốc của người Việt hiện nay. Sách vở Trung Hoa ghi rõ là ở Trung Nguyên ngày xa xưa có các dân tộc Di, Dao, Diệt, Âu… mà Diệt chính là người Lạc Việt lúc bấy giờ. Người đời sau tôn xưng các bậc trí giả tìm ra học thuyết Bào Hy là vua Bào Hy hay Phục Hy thành ra lịch sử Trung hoa mới chép lại như thế. Theo sử thì vua Bào Hy sống 111 năm từ - 4477 đến - 4366, như thêâ bộ Kinh Diệt đã xuất hiện cách đây hơn 6373 năm, trùng với giai đoạn săn bắt vậy.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
3
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Trở lại với mô hình ta lại thấy rõ là nó chưa diễn tả được sự tương giao của 2 khí Âm Dương cấu tạo nên một vật thể, một cặp vật thể, một tổ hợp vật thể có hai cục đối lập. Vậy thì người xưa đã hiểu sự tương giao chuyển hóa của hai khí Âm Dương như thế nào? Theo họ thì là khí Âm chuyển sang bên Dương, và khí Dương chuyển sang bên Âm (chứ không phải là Âm sanh Dương và Dương sanh Âm) để rồi người đời sau lại suy luận rằng khi sự chuyển hóa hoàn chỉnh thì mỗi cục lại có đủ hai khí âm dương cân bằng nhau. Và rồi hai khí này cũng tiếp tục chuyển hóa, cứ thế là một phân thành hai, rồi hai phân thành bốn, thành tám, mười sáu, ba hai , sáu bốn… Nhưng điều này thì không đúng với sự hình thành muôn vật (sẽ được lý giải ở sau). Mọi tồn tại trong vũ trụ không có cái nào là cân bằng tuyệt đối cả. Muôn vật hình thành không phải chỉ theo cách phân chia mà còn tổng hợp nữa, nên các vật thể có mặt trong vũ trụ luôn không cân bằng nhau về khí cấu tạo. Do đó người xưa thấy rằng không thể chia chúng thành hai cục hay bốn cục, tám cục… theo cách phân đôi được mà phải chia thành ba cục hay năm cục, hay bảy cục… thì mới diễn tả các tỉ lệ khí Âm Dương của những vật thể không cân bằng được. Người xưa đã chọn cách phân làm ba cục vì 3 là con số bé nhất phù hợp với yêu cầu nêu trên và thêm nữa là để cho người đời sau dễ học theo hơn! Cục thứ 3 mà họ chọn được gọi là cục Trung tâm tức nơi mà hai khí Âm dương chuyển đổi cho nhau.
Về khí thì chia làm hai nên mỗi cục chỉ có thể mang một khí hoặc là Âm hoặc là Dương vì nếu trong mỗi cục mang cả hai khí âm dương thì ta phải chia làm 5 cục, 7 cục hay 9 cục… tùy thuộc vào tỉ lệ khí trong cục chênh lệch cao nhất. Với 3 cục như trên thì các vật thể luôn bất cân bằng trong vũ trụ xét về khí sẽ ở một trong tám dạng căn bản là:
1. Dương + Dương + Dương
2. Âm + Âm + Âm
3. Dương + Âm + Dương
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
4
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
4. Âm + Dương + Aâm
5. Dương + Dương + Aâm
6. Âm + Âm + Dương
7. Dương + Âm + Aâm
8. Âm + Dương + Dương
Tiếp đến là vấn đề chọn chiều để cách diễn đạt thì theo một thứ tự nhất định. Họ đã chọn chiều từ Dương sang Âm theo thứ tự từng cục một. Còn cách viết là từ dưới lên trên nên 8 dạng khí trên (Người Lạc Việt gọi là 8 quảy hoặc là 8 quải mà người đời sau đọc là 8 quái) được viết như sau:
Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn
Đối với người Việt xưa thì bản thể khí chung nhất trong toàn vũ trụ là cân bằng tuyệt đối nên 8 dạng kết hợp về khí của muôn vật có trong vũ trụ cũng phải được chia làm 2 phần cân bằng và chuyển hóa cho nhau, nên 8 quẻ (đọc trại từ từ Quải) trên với mô hình chuyển hoá đã được vẽ là:
Để phù hợp với mô hình của khí họ lại dùng hình sau:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
5
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Điều cần lưu ý ở đây là 2 mô hình này chỉ diễn tả về bản thể khí chung nhất cho toàn vũ trụ được chia là 8 phần kết hợp riêng lẻ như thế chứ không phải dùng để chỉ riêng cho khí tạo nên một vật thể nào. Nhưng đối với những vật thể mà hình dạng là khối cầu như các hành tinh…, mặt trăng, quả đất hay mặt trời chẳng hạn thì cũng được vận dụng qui luật chung này để tính toán bởi dạng hình khối cầu chứng tỏ khí tạo nên nó là tương đối cân bằng vì khí cân bằng thì vật thể sẽ tự chuyển động tròn quanh tâm của chính nó nên dần dần nó sẽ mang dạng khối cầu. Người xưa cho rằng chuyển động của một vật thể sẽ làm cho nó có dạng khối gì, còn chuyển động là do sự chuyển hóa mà ra chứ chẳng do một cái đẩy ban đầu nào cả. Điều này là hoàn toàn đúng.
Tới đây ta có thể kết luận.
Học thuyết Bào Hy diễn tả mối quan hệ hai mặt của 8 dạng kết hợp căn bản về khí bản thể của muôn vật trong vũ trụ khi ta chia khí bản thể này ra làm 2 loại theo cái biết phân biệt của con người.
Còn cách trình bày theo thứ tự của họ thì hoàn toàn giống như cách viết số theo hệ nhị phân ngày nay nếu ta coi nét Dương là số 0 còn nét âm là số 1.
Cũng tới đây sẽ có các thắc mắc được nêu ra là:
1. Nếu nói người xưa chỉ chia khí toàn cục ra làm 3 cục, 5 cục, 7 cục, …, 17 cục… thì mới có thể diễn tả được sự không cân bằng về khí tạo nên các vật thì tại sao ở 64 quẻ kép họ lại chia toàn cục ra làm 6 cục vì chỉ chia 6 thì theo cách chọn chiều “nhị phân” mới tạo ra được 64 quẻ kép mà thôi?
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
6
CÀN
ĐOÀI
LY
CHẤN
TỐN
KHẢM
CẤN
KHÔN
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- Vấn đề này sẽ được trình bày ở phần sau về 64 quẻ kép 6 nét.
2. Cách thành lập 8 quẻ như trên thì 4 khái niệm: Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm, Thiếu Dương mà từ Hán gọi chung là Tứ tượng không có hay sao?
- Bốn Tượng trên vốn có từ lúc người xưa tìm ra học thuyết Bào Hy như sau: Khi hai khí Âm Dương chuyển đổi cho nhau ở giai đoạn chưa hoàn chỉnh thì:
- Bên khí Âm thì khí Âm sẽ lớn còn khí Dương thì nhỏ.
- Bên khí Dương thì khí Dương sẽ lớn còn khí Âm thì nhỏ.
Vì vậy 4 tiểu cục khí trên mới mang 4 tên như thế và cũng do đó mà mô hình cơ bản đã được vẽ thêm 2 chấm Âm nhỏ và Dương nhỏ như sau:
Dần dần về sau thì 3 quẻ Đoài, Ly, Tốn có 2 nét dương và 1 nét âm lại được gọi là quẻ Dương lớn - Âm nhỏ. Hai Dương là Thái Dương và một Âm là Thiếu Âm. Ba quẻ Chấn, Khảm, Cấn thì được gọi là quẻ Âm lớn - Dương nhỏ. Hai Âm là Thái Âm và một Dương là Thiếu Dương. Còn hai quẻ Càn và Khôn thì gọi là quẻ Thuần Dương và Thuần Âm. Cách gọi này cũng chẳng lợi gì mà cũng chẳng hại gì cho vịêc vận dụng Diệt học vào việc tính toán sau này nhưng 4 tiểu cục trong giai đoạn chưa hoàn chỉnh trên thì rất có ích, chúng ta sẽ thấy rõ
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
7
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
điều này trong các thuật số Diệt học ở sau. Điều đáng chú ý nhất là người Việt xưa đã không ký hiệu Thiếu Âm là
và Thiếu Dương là
vì họ ý thức rất rõ rằng viết như thế sẽ mâu thuẫn với các quẻ kép sau này.
Ví dụ: Quẻ Ký Tế được viết là thì sẽ làm cho
người xem hiểu là quẻ này được thành lập bởi 3 khí Thiếu Âm, mà 3 khí Thiếu Âm thì dầu sao cũng là thuần Âm. Ở đây lại có nét Dương bên trong thì kẹt lắm trong khi đó quẻ đơn Thuần Âm là và quẻ kép thuần Âm là :
Vậy Thiếu âm không phải là khí âm chăng? Nó là loại khí thứ 3 nửa âm nửa dương chăng? Người xưa chỉ chia khí bản thể làm 2 loại Âm và Dương mà thôi. Nếu chia làm 8 loại chắc là tiện lợi hơn nhiều! Thật chẳng thể nào lý giải cho thông cả! Thiếu Âm vẫn mang khí Âm mà thôi nên 4 tượng trên không thể viết như thế được.
3. Còn câu nói kinh điển trong Chu Dịch - Hệ Từ: “Dịch hữu thái cực thị sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quát, bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp” thì phải hiểu sao đây ?
Tương truyền đây là câu nói của Khổng tử…. Nhưng cái quan trọng ở đây là con số 8 (8 quẻ). Khi ta chia toàn cục mà từ Hán gọi là Thái cực làm 3 cục và kết hợp theo một lý luận logic như trước ta được 8 quẻ. Mà đời sau chia làm 2, rồi làm 4, làm 8 lại cũng được 8 quẻ. Vậy ta thử xem cách tìm 8 quẻ theo lối phân đôi này làm sao?
Trước hết dựa vào mô hình khí thái cực của cả vũ trụ họ phân ra làm 2 Nghi: Âm và Dương như hình vẽ.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
8
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Mỗi Nghi lại được chia làm 2 phần Âm và Dương tiếp theo. Bốn phần nhỏ (Tượng) này họ diễn tả bằng cách lấy nét cũ thêm một nét Dương hay một nét Âm ở trên là:
, , , . Phần gọi là Thiếu Âm, phần gọi là Thiếu Dương. Ta có mô hình là:
Rồi mỗi phần tư trên lại cũng chia làm 2 tức ta được 8 phần. Một phần 8 lại lấy 4 kí hiệu trên thêm một nét Dương hay một nét Âm lên nữa ta sẽ được 8 quẻ là:
Với mô hình là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
9
Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Khi thêm một nét vào cho mỗi lần phân đôi họ đều làm như nhau mỗi bên, bên này Dương trước thì bên kia cũng Dương trước nên cuối cùng thứ tự 8 quẻ vẫn là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn theo quỹ đạo chuyển hóa của cách thứ nhất ở trước. Cứ thế họ chia tiếp tục thành 16, rồi 32, rồi 64 như đã biết trong bảng viên đồ Bào Hy. Thật đơn giản và dễ dàng biết bao!
Qua cách thành lập 8 quẻ kiểu này ta có nhận xét lần lượt như sau:
*Khi chia lần thứ nhất họ dùng một vạch âm hoặc dương để chỉ mỗi Nghi.Vậy mỗi Nghi bên là một khí.Khi chia lần thứ 2 họ thêm một vạch âm hoặc dương lên trên vạch cũ. Vậy vạch cũ chỉ cho khí gốc, vạch thứ 2 chỉ cho khí mới sanh vì theo họ hiểu là Âm sanh Dương và Dương sanh Âm , nên trong 4 phần sẽ có 2 phần dương: Một là phần Dương cũ; một là phần Dương mới được sanh từ Âm và hai phần Âm: một là phần Âm cũ ; một là phần Âm mới được sanh từ Dương. Cái mà họ gọi là Thiếu Dương với kí hiệu thật ra cũng chỉ là ¼ (của thái cực) mang khí dương mà thôi.Thiếu Âm cũng thế là ¼ mang khí âm với ký hiệu . Như vậy khi chia lần thứ 3 thành 8 phần mỗi phần thêm một vạch ở trên nữa thì ta vẫn được 4 phần Dương và 4 phần Âm về khí chứ chẳng có gì mới cả. Thế thì 8 quẻ mà họ tạo ra bằng cách này thực chất chỉ là 4 phần nhỏ mang khí Dương như nhau và 4 phần nhỏ mang khí Âm như nhau.
* Còn nếu bảo Thiếu Âm là loại khí thứ ba và Thiếu Dương là loại khí thứ tư nên lần chia sau mới tạo ra 4 quẻ mới. Vậy thì Thái Âm và Thái Dương cũng là khác với Khí Âm và Khí Dương nên mới sanh ra 4 quẻ nữa, mà theo họ thì Âm sanh Dương và Dương sanh Âm kia mà! Lại giống như Thiếu Âm ở trên (thắc mắc 2) bây giờ tới lượt Thái Âm cũng chẳng phải là Khí Âm nữa rồi!
Và Thiếu Dương, Thái Dương cũng thế!
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
10
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Hai Khí Âm Dương biến mất cả rồi thì lấy gì làm ra kinh Dịch!
* Tuy nhiên, cũng có thể lí luận rằng: Chính những phần Âm hay phần Dương nhỏ của khí Thái Cực vũ trụ phân đôi này
( 2 4 8 16 32 64 128….) kết hợp lại với nhau ở những mức độ nào đấy đã tạo nên muôn vật. Điều này thì có vẻ đúng nhưng từ:
là quẻ 1 nét mà suy ra theo cách phân đôi trên rằng:
là quẻ 2 nét.
là quẻ 3 nét.
là quẻ 4 nét.
là quẻ 5 nét.
là quẻ 6 nét.
Thì hoàn toàn không diễn tả đúng thực chất về KHÍ của muôn vật.
* Có một số học giã sau này thì sáng suốt hơn. Họ từ bỏ quan điểm: Âm sanh Dương và Dương sanh Âm mà cho rằng khí Âm chuyển sang bên Dương và khí Dương chuyển sang bên Âm. Nhưng sự chuyển hóa này thì luôn luôn hoàn chỉnh nghĩa là: Âm sẽ chuyển sang Dương
một nửa ( ) lượng khí của nó và Dương thì cũng vậy, nên khi Lưỡng
Nghi sanh Tứ Tượng thì ta cũng có hai phần khí Dương giống nhau và hai phần khí Âm giống nhau. Rồi Tứ Tượng sanh Bát Quái thì ta cũng có bốn phần khí Dương giống nhau và bốn phần khí Âm giống nhau mà thôi. Mà rõ ràng ở tám quẻ thì không phải là như thế: Hai quẻ thì thuần Âm thuần Dương; còn sáu quẻ còn lại thì có Âm có Dương đủ cả, nên
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
11
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
cách giải thích này tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đúng với phương thức hình thành tám quẻ của tự nhiên.
Tóm lại là: cách “Phân đôi”, cách “Chia ra làm hai” trên không thể nào giải quyết được sự hình thành nên tám quẻ cả!!! Dù sự phân chia làm hai liên tiếp này là do: “Sanh ra” hay do “Chuyển bên một nửa” mà có vậy.
(Xem tiếp chương II)
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
12
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG II
TÁM QUẺ TIÊN THIÊN
Một vật thể, một cặp vật thể, một tổ hợp vật thể là những vật chất cụ thể nên mặc dù được cấu tạo nên từ KHÍ bản thể, thì chúng cũng có những quy luật tương giao riêng của chúng tùy thuộc vào các thành phần vật chất của chúng (như đã nói ở trước), nên ở đây câu hỏi đặt ra tiếp theo là.
Đối với một Thái cực thuần khí thì rõ ràng có thể chia làm hai phần khí là Âm và Dương - rồi hai phần khí này chuyển hóa cho nhau cho ta bốn phần là Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm, Thiếu Dương, rồi lại tiếp tục chuyển hóa thế nào mà Thái cực đó cho ta 8 quẻ đơn được? Chứ cứ nói rằng: Căn cứ vào bản thể khí của toàn vũ trụ theo suy luận như trước cho ta 8 quẻ thì ta có quyền suy ra một Thái cực thuần khí nào đó cũng cho ta 8 quẻ tương tự là đã chối bỏ sự chuyển hóa của hai khí Âm Dương rồi vậy?
Hay hỏi khác hơn là: Mối quan hệ giữa sự chuyển hóa với 8 quẻ là thế nào?
* Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cần đi vào một quy luật đặc biệt sau đây: Quy luật DẪN MỘT CỰC BA.
Khi một Thái cực thuần khí bắt đầu chuyển hóa thì nó cũng đồng thời chuyển động quanh tự thân vì hai khí Âm Dương chuyển sang bên kia. Chuyển động tự quay này có vận tốc tăng dần với gia tốc dương càng lúc càng lớn vì lượng hai khí Thiếu Âm và Thiếu Dương đang lớn nhanh cũng với gia tốc dương càng lúc càng lớn. Nhưng cũng chính sự tự quay này lại hạn chế sự chuyển hóa nên đến một giới hạn nào đó thì vận tốc của nó phải đều đồng thời với lượng khí chuyển bên cũng đều theo chứ không lớn nhanh lên nữa. Trong thời gian hai khí chuyển sang bên kia để hình thành Thiếu Âm và Thiếu Dương thì theo quy luật Âm Dương hút nhau: Bên khí Dương thì hút Thiếu Âm, Bên khí Âm thì hút Thiếu Dương nên đến thời điểm tới hạn khi lực hút đã đạt đến cực điểm thì hai khí Âm Dương đủ lớn mạnh để đứng riêng ra thành một thành phần của mỗi bên trong Thái cực cho ra bên Âm là quẻ
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
13
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tốn, bên Dương là quẻ Chấn. Ta có thể xác quyết là 2 quẻ này hình thành đầu tiên vì ta thấy trong quẻ Tốn có đến 2 hào Dương trong 4 quẻ bên Âm, còn quẻ Chấn thì có 2 hào Âm trong 4 quẻ bên Dương. Tăng tốc thì phải tốn nhiều nhiên liệu là thế! Không rõ bằng phương pháp nào người xưa đã tính toán được thời gian hình thành 2 quẻ trên lại đúng với thời gian mà Thái cực tự quay quanh mình được một vòng. Chắc chắn phải có các công thức về mối liên hệ giữa các lượng khí chuyển bên và vòng quay mà chúng ta chưa biết. Trong vòng quay thứ
nhất này lượng khí chuyển bên là tức là 2 hào trong 4 quẻ 12 hào ở
mỗi bên.
Tiếp đến vòng quay thứ hai thì lượng khí chuyển qua cho mỗi
bên là vì hai lí do: Một là khí chính mỗi bên phải hút vào để cân
bằng với 2 hào của khí chuyển qua ở vòng 1; Hai là lúc này vận tốc tự quay của Thái cực là đều. Lực hút vào để cân bằng với 2 hào khí mới chuyển qua ở 2 quẻ Tốn và Chấn rất mạnh so với vòng một (do vận tốc
quay đều chứ không nhanh lên nữa) nên đã đẩy “dư” ở mỗi quẻ ra
ngoài (quẻ Tốn là Hào Dương và quẻ Chấn là Hào Âm) tạo nên 2 quẻ Khảm và Ly ở hai bên (hoặc ta có thể nói cách khác là: Do dòng khí chuyển bên là liên tục nên ở mỗi bên thì khí chính không thể bức ra hết
khí chuyển qua ở vòng 1 được (nếu tính cả vòng 2 là ) chúng chỉ
có thể chiếm được để thành lập 2 quẻ Khảm và Ly mà thôi). Còn
Hào “dư” tức hào “còn lại” thì kết hợp chặt chẽ với khí mới chuyển
qua vì dòng khí là liên tục nên tạo ra 2 quẻ Tốn và Chấn mới.
Như vậy là trong vòng 2 này ta được 2 quẻ Tốn và Chấn mới, còn 2 quẻ Tốn và Chấn cũ thì chuyển thành Khảm và Ly.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
14
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Qua đến vòng thứ ba thì lượng khí chuyển qua mỗi bên cũng
vẫn là vì vận tốc quay đã đều, ta lại được 2 quẻ Tốn và Chấn mới
nữa. Còn 2 quẻ Tốn và Chấn vòng thứ hai thì chuyển thành 2 quẻ Khảm và Ly thứ hai. Riêng 2 quẻ Khảm và Ly thứ nhất thuộc vòng quay thứ hai thì khí chính không loại bỏ khí chuyển hóa nữa vì phải có khí đối ngược để hút và hơn nữa là lúc này mỗi bên đã chuyển sang bên kia hết
lượng khí của mình. Nhưng ở mỗi bên thì lại có sự sắp xếp mới để
phù hợp với khí của chính mình: Bên Âm thì khí Âm chiếm cục trung tâm và cục âm nên quẻ Khảm chuyển thành quẻ Cấn, Bên Dương thì khí Dương chiếm cục trung tâm và cục dương nên quẻ Ly chuyển thành quẻ Đoài.
Thế là sau 3 vòng quay ta có được 6 quẻ với 3 quẻ mỗi bên
chiếm lượng khí của nó nên mỗi bên còn lại lượng khí chính, đó
chính là 2 quẻ Khôn và Càn vậy.
Đến đây có thể có ý kiến cho rằng: Biết đâu ở vòng 1 Thái cực tạo ra 2 quẻ Tốn, Chấn yên vị, rồi vòng 2 lại tạo ra 2 quẻ Khảm, Ly yên vị. Rồi vòng 3 lại tạo tiếp 2 quẻ Cấn, Đoài yên vị thì sao? Ai đảm bảo, chứng minh cho suy luận ở trước là đúng?
- Ta đã biết một khí động thì muôn khí động, mà khí thì không bao giờ là tĩnh chỉ, nên khi 2 khí chuyển bên thì không thể nào các quẻ cố định được cả. Dẫu thế nào đi nữa thì quy luật trên vẫn cho ta kết luận là: “Sự chuyển hóa khí của một Thái cực tạo ra 8 quẻ bên trong nó ở 3 vòng quay đầu tiên”.
Tóm lại, quan điểm của người Việt xưa có thể phát biểu như sau: Khí Thái cực chứa 2 Nghi, chuyển hóa qua lại tạo nên 4 Tượng rồi cuối cùng chuyển sang hình thành 8 quẻ đơn Diệt. Cách nói này của các bậc trí giả được truyền miệng trong muôn dân từ Bách Việt đến Tam miêu, nên khi cộng đồng các dân tộc trên bị người Tây Bắc Trung Hoa thôn tính thì họ tiếp thu lại. Nhưng tiếp thu được lời nói mà chẳng hiểu nội dung, họ thấy Thái cực là 1, rồi Nghi là 2, rồi Tượng là 4 và Quẻ là
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
15
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
8. Hơn nữa từ “Sang” của người Lạc Việt thì các dân tộc khác đọc không rõ ràng nên họ đã chuyển thành “Sanh”.Bởi thế nên ông Khổng Tử khi lên kinh đô nhà Chu học hành về đã viết lại là: “Dịch hữu Thái cực, thị sinh lưỡng nghi…”. Vì ông ta vốn là một con người cẩn thận! Câu nói này cũng có thể đúng nếu hiểu “Sanh” là “Chuyển sang” như là: “Dịch là Thái cực, chuyển sang Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi chuyển sang Tứ Tượng. Tứ Tượng chuyển sang Bát Quái”. Nhưng khổ nỗi là người đời sau đã hiểu từ “Sanh” là “chia ra” theo dạng: 1 chia ra 2, rồi 2 chia ra 4, rồi 4 chia ra 8, muôn đời nay vẫn là như thế, không biết gì về quy luật chuyển hóa Âm Dương “Dẫn 1 cực 3” cả. Đã thế đàng sau còn thêm cái đuôi “Bát Quái định cát hung, Cát hung sinh đại nghiệp” theo quan điểm Kinh Diệt là để bói toán của họ!
Trở lại với 8 quẻ sau 3 vòng quay đầu tiên thì: - Bên Âm là 4 quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn với 3 quẻ Khảm, Cấn, Khôn thuộc phần Thái Âm còn Thiếu Dương là quẻ Tốn. - Bên Dương là 4 quẻ Chấn, Ly, Đoài, Càn với Thiếu Âm là quẻ Chấn và 3 quẻ thuộc phần Thái Dương là Ly, Đoài, Càn. Tám quẻ này hút nhau từng cặp một qua Tâm Thái cực là:
Khôn Càn, Tốn Chấn, Khảm Ly, Cấn Đoài
nên chúng tạm thời ổn định không thay đổi dạng nữa, trong đó Tốn và Chấn được coi là 2 quẻ Thiếu Dương và Thiếu Âm nên khi diễn tả mầm mống 8 quẻ tiềm ẩn để giảng dạy cho dân chúng, người xưa đã đổi chỗ 2 quẻ này tạo nên một mô hình “Bát quái dân gian” trong dân tộc Lạc Việt mà chúng ta thường thấy treo trước cửa nhà hoặc trên cây Đòn Dông nhà người Việt hiện nay.
Có người đã gọi cách sắp xếp này là “Bát quái Trung Thiên” là không đúng, mà phải gọi là Bát Quái “Tiền tiên thiên” thì mới tạm đúng được.
Vấn đề đặt ra tiếp theo là sau 3 vòng quay đầu tiên, thì ở các vòng quay sau (vì theo quán tính) 8 quẻ tiên thiên sẽ thế nào hay vẫn giữ y nguyên trạng và chỉ chuyển động tròn mà thôi?
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
16
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- Như trên đã nói 8 quẻ đã ổn định nên chúng chỉ chuyển động chứ không thay đổi dạng cấu tạo. Theo người xưa thì cứ mỗi 3 vòng quay sau đó, 8 quẻ sẽ thay đổi vị trí 1 lần.
Do quá trình hình thành 8 quẻ là: Tốn Khảm Cấn Khôn bên âm và Chấn Ly Đoài Càn bên dương, nên ta suy ra là sau 3 vòng quay tiếp theo sự chuyển đổi vị trí sẽ là: Càn tới Tốn, Tốn tới Khảm, Khảm tới Cấn, Cấn tới Khôn, Khôn tới Chấn, Chấn tới Ly, Ly tới Đoài, Đoài tới Càn và cứ thế tiếp tục ở những 3 vòng quay sau.
Cứ như thế sau từng 3 vòng quay, 8 quẻ lại chuyển đổi vị trí một lần cho đến một thời gian nào đó và do một tác động nào đó làm cho
lượng khí chuyển bên vượt quá con số hoàn chỉnh nên 8 quẻ của
Thái cực không thể liên kết với nhau được và chúng phải tách rời ra thành các phần riêng lẻ, để rồi kết hợp với các phần tách rời của những Thái cực khác trong vũ trụ. Sự kết hợp này diễn ra như sau:
- Nếu 1 quẻ kết hợp với 1 quẻ lần lượt thì ta sẽ có 64 quẻ 6 hào tức là 82 = 64.
- Nếu 1 quẻ kết hợp với 2 quẻ lần lượt thì ta sẽ có 512 quẻ 9 hào tức là 83 = 512.
- Nếu 1 quẻ kết hợp với 3 quẻ lần lượt thì ta sẽ có 4096 quẻ 12 hào tức là 84 = 4096.
- Nếu 1 quẻ kết hợp với 4 quẻ lần lượt thì ta sẽ có 32768 quẻ 15 hào tức là 85 = 32768.
…......................
- Nếu 1 quẻ kết hợp với 7 quẻ lần lượt thì ta sẽ có 16.777.216 quẻ 24 hào tức là 88 = 16.777.216.
……………………
Đây chính là nguyên tắc thành lập các loại quẻ kép, quẻ ba, quẻ bốn, … quẻ tám… của người xưa. Nguyên tắc này trả lời cho ta thắc mắc ở trước: Tại sao ở 64 quẻ kép người xưa lại chia 1 vật thể, 1 cặp
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
17
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
vật thể hay 1 tổ hợp vật thể thành 6 cục. Điều này có nghĩa là ta chỉ có thể chia chúng thành 3 cục, 6 cục, 9 cục...vv mà thôi. Khi ta chia làm 6 cục chẳng hạn thì vật thể đó sẽ được chia ra làm 64 phần về khí cấu tạo theo thứ tự như trong bảng viên đồ Phục hy đã biết.
Nhưng vấn đề cần lưu ý là: Đây chỉ là nguyên tắc thành lập các quẻ kép vì trong thực tế các quẻ đơn của các Thái cực không phải luôn bằng nhau về lượng khí (các Thái cực to nhỏ khác nhau). Thực tế hình thành muôn vật thể phức tạp hơn nhiều…
Tiếp tục trở lại với Thái cực cùng 8 quẻ bên trong của nó thì:
Trong trường hợp một Thái cực đang tự quay mà không có một tác động bên ngoài nào vào nó cả thì sao? Như ta đã biết nó sẽ tự quay theo quán tính nhưng thực tế là: Thái cực tự quay không phải với vận tốc đều không thay đổi mà phải chậm dần dần đi vì lực hút của các cặp Âm Dương: Tốn Chấn, Khảm Ly, Cấn Đoài, Khôn Càn qua chung một tâm hay nói đúng hơn là qua chung một trục xuyên tâm chung cho 8 quẻ.Chính vì vận tốc tự quay chậm dần đều nên vị trí các quẻ sau mỗi 3 vòng quay lại thay đổi chỗ cho nhau như đã trình bày ở trên. Vận tốc tự quay này càng chậm thì lực hút càng mạnh làm cho Thái cực co nhỏ dần dần lại, cho đến khi nào vận tốc bằng Không thì sự dồn nén của khí đã đạt tới mức tuyệt đối làm cho nó phải tự nổ tung ra thành rất nhiều mảnh nhỏ (chứ không phải 8 mảnh) vì áp suất và nhiệt độ cực cao bên trong mang các tỉ lệ khí Âm Dương khác nhau… Trong không gian bao la vô cùng tận vốn đã tồn tại vô số các khối khí bản thể. Mỗi khối khí bản thể đều theo qui luật chung là:
1. Khí Âm Dương chuyển hóa sanh ra 8 quẻ ở 3 vòng quay đầu tiên.
2. Thái cực khí bản thể với 8 quẻ bên trong tự quay tiếp tục với vận tốc giảm dần dần đồng thời với thể tích cũng co nén nhỏ dần do sức hút của 4 cặp quẻ Âm Dương qua chung một tâm.
3. Sự co nén thể tích của Thái cực này đến một mức nào đó thì sẽ tạo nên ở tâm của nó các loại vật chất nào đấy mà ngày nay gọi là
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
18
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tiền vật chất. Vì theo người xưa vật chất là sự kết hợp tuyệt đối chặt chẽ của hai lượng khí Âm Dương mà có.
4 .Do tính chất của khí là động chứ không bao giờ tĩnh chỉ nên khi vận tốc tự quay bằng Không thì Thái cực khí bản thể đã co nén đến mức nhỏ nhất của nó và cũng là lúc nó nổ tung ra trong không gian bao la làm bắn ra các yếu tố tiền vật chất lẫn những khối khí Âm Dương lớn nhỏ ở nhiều mức độ khác nhau như vụ nổ Big Bang của vũ trụ chúng ta.
5. Những khối khí Âm Dương cân bằng lại tạo thành những thái cực thuần khí mới to nhỏ khác nhau và cũng tiếp tục quá trình hình thành các quẻ của chúng với một hình dạng mới nào đấy vì chúng vẫn đang chuyển động thẳng ra xa. Những khối khí nào bất cân bằng thì bức ra làm nhiều phần để tự tìm kiếm sự cân bằng nhỏ hơn bằng cách kết hợp với các khối bất cân bằng khác…vv
6. Riêng những khối khí Âm Dương cực nhỏ cũng là những Thái cực mang đủ hai khí Âm Dương nhưng ở mức độ nhỏ tuyệt đối. Do lực nổ tung cực mạnh làm chúng chuyển động thẳng với tốc độ lớn tuyệt đối nên trở thành ánh sáng (Theo logic thì người xưa phải nhận thức như vậy) trong không gian bao la để rồi tự kết hợp và kết hợp với các yếu tố tiền vật chất của các Thái cực nói trên mà hình thành nên vũ trụ vật chất hôm nay…
Qua trên đây ta thấy người Việt xưa tuy lí luận đơn giản nhưng cũng đã nhận thức đúng và rất sáng tỏ sự hình thành nên vũ trụ chúng ta. Thật là đáng khâm phục biết bao!!! Thiết nghĩ các nhà Thiên văn học đương đại cũng cần phải tham khảo để làm sáng tỏ hơn về lịch sử hình thành vũ trụ này !
Sau khi khí đã chuyển thành vật chất như những vật thể, những cặp vật thể hay những tổ hợp vật thể thì họ đã xem chúng là Tượng của một Thái cực lớn hay nhỏ nào đấy (gọi là Thái Cực Tượng) Còn những vật thể không cân bằng thì vật thể đó phải là Tượng của một quẻ nào đấy (gọi là Quái Tượng) trong Thái Cực Tượng của nó. Thái Cực Tượng và Quái Tượng thì không phải người xưa chỉ dùng cho vật chất, mà còn dùng cho cả mọi sự vật, mọi hiện tượng xã hội và nhân sinh nữa
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
19
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
… Vì theo họ KHÍ là cái gốc tạo nên tất cả kể cả sự sống của muôn loài.
Các vật thể trong vũ trụ thì thường có hai dạng là: Dạng khối cầu và dạng hình tròn hay đĩa dẹt. Ở dạng khối cầu thì chắc chắn là một Thái cực tượng nên tâm vẫn là một điểm cố định ở trung tâm, nhưng ở dạng thứ hai thì ta lại có hiện tượng là cục Âm chuyển động tròn quanh cục Dương như hệ mặt trời chúng ta là một ví dụ:Mặt trời là cục dương, còn các hành tinh quay xung quanh nó là cục Âm . Trong trường hợp này thì: Ở mỗi một thời điểm T1. T2, Tn nào đấy ta mới có được tâm của Thái cực tượng là trung điểm của 2 cục Âm Dương như hình vẽ dưới đây:
Như vậy khi cả hệ quay tròn thì những điểm tâm của Thái cực tượng dạng này sẽ tạo thành quỹ tích là một đường tròn nằm ở khoảng giữa hai cục vật chất đang chuyển động.
Một điều quan trọng cần phải lưu ý nữa là:Theo cách trình bày của người xưa thì ở mỗi quẻ:- Hào hạ 1 : Chỉ cục trung tâm.- Hào trung 2 : Chỉ cục dương.- Hào thượng 3 : Chỉ cục âm. Mà qua cách hình thành 8 quẻ của tự nhiên được trình bày ở
trước, thì 4 quẻ bên Âm : Tốn, Khảm, Cấn, Khôn sẽ có hào 2 là cục Âm và hào 3 là cục Dương thì có mâu thuẫn không ?
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
20
Quỹ Đạo Tâm
____
__ __
Tâm
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Đáp : Không có gì mâu thuẫn ở đây cả !Vì đứng trên cái nhìn từ Dương sang Âm cũng tức là theo chiều
thuận của hệ nhị phân thì hai cục Âm và Dương bị đổi ngược lại, nên 4 quẻ trên phải được viết như thế và theo thứ tự như thế là hoàn toàn chính xác.
Riêng cục trung tâm thì không có thay đổi gì cả .
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
21
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG III
BẢNG LẠC THƯTHÁI CỰC TƯỢNG KHÔNG THỜI GIAN VỀ SỐ VÀ QUẺ
(Ta tạm dùng từ Lạc Thư theo nghĩa của người đời sau vì nghĩa gốc của nó là sách của xứ Lạc)
Người Việt xưa xem Không gian và Thời gian của thiên hà chúng ta là Thái cực tượng lớn nhất mà xem là một Thái cực tượng thì cũng có nghĩa là hợp nhất làm một . Thế nên về Số của Không - Thời gian cũng phải hợp nhất.
Không gian là Có và được chia làm 10 trường: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý nên số của Không gian là 10.
Thời gian là Không vì bản chất là không có, chỉ do sự sinh diệt của vạn vật mới có, nên số của Thời gian là không (0).
Số Trung tâm của 0 đến 10 là 5 được gọi là số hợp nhất của Không - Thời gian.
Các cặp số tiến từ 0 đến 5 và từ 10 xuống 5 là 1-9, 2-8, 3-7, 4-6 đối xứng nhau qua số 5 được coi là 2 phần Âm Dương về số của Thái cực tượng Không - Thời gian được viết theo quỹ đạo chuyển hóa là:
4 9 8
3 5 7
2 1 6
(Không viết cặp số 0 và 10 vì đã được hợp nhất trong số 5 trung bình cộng).
Như vậy bảng số trên được chia làm 2 phần Âm - Dương là:
4 9 8
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
22
Phần Âm Phần
Dươngg
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
3 5 7
2 1 6
Hai phần Âm Dương thì phải có Thiếu Dương và Thiếu Âm thì mới đúng cho một Thái cực số nên người xưa đã lấy 2 số là 2 và 8 chuyển đổi vị trí để làm Thiếu Dương và Thiếu Âm.
Thế là ta có bảng số đại diện cho Không - Thời gian hợp nhất như sau:
4 9 2
3 5 7
8 1 6
- Hỏi: Tại sao lại lấy 2 số là 2 và 8 làm Thiếu Dương và Thiếu Âm mà không lấy các số khác?
- Đáp: Khi người xưa tìm ra các ma phương bậc 3x3 với các tâm 4, 5, 6, 7… theo phương pháp suy luận như trên, họ luôn luôn thấy 2 số kề 2 số khởi đầu đại diện cho 2 phần Âm Dương chuyển đổi cho nhau thì bảng số mới tạo thành 1 Thái cực số được nên gọi 2 số này là Thiếu Dương và Thiếu Âm. Trong bảng Tâm 5 ở trên thì số 2 là số kề của số 1 đại diện phần Âm về số, còn số 8 là số kề của số 9 đại diện phần Dương về số.
Các ma phương bậc 3 x 3 tâm khác cũng tương tự
Ví dụ 1: Ma phương Tâm 4 là:
3 8 7
2 4 6
1 0 5
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
23
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Thì số 7 kề số 8 và số 1 kề số 0 là 2 số Thiếu Dương và Thiếu Âm, khi chuyển đổi vị trí cho nhau sẽ tạo ra 1 Thái cực số từ 0 đến 8 là:
3 8 1
2 4 6
7 0 5
(Mô hình Thái cực vẽ 2 chấm Thiếu Âm và Thiếu Dương ở 2 góc là do đây vậy).
Ví dụ 2: Ma phương tâm 6 là:
5 10 9
4 6 8
3 2 7
Thì số 9 kề số 10 và số 3 kề số 2 là 2 số Thiếu Dương và Thiếu Âm, khi chuyển đổi vị trí cho nhau sẽ tạo ra một Thái cực số từ 2 đến 10 là:
5 10 3
4 6 8
9 2 7
Cách thành lập trên đây vẫn đúng cho cả số Âm nên họ coi các ma phương bậc 3x3 là những Thái cực số với cách tìm ra bằng học thuyết Âm Dương - Thái cực của họ, còn các số đã nêu được gọi là Thiếu Dương và Thiếu Âm là hoàn toàn hợp lý. Hơn thế nữa cách tìm ma phương này còn cho phép họ vận dụng các bảng số vào thực tế vũ trụ và nhân sinh chính xác tuyệt hảo chứ không phải là một suy lý toán học vô bổ như chúng ta ngày nay.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
24
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Sau khi có được bảng Thái cực Lạc Thư hợp nhất Thời gian và Không gian về Số, họ phải tìm cách hợp nhất thời gian và không gian vào 8 Quẻ vì Không - Thời gian đã là một Thái cực tượng thì phải có Lưỡng Nghi, có Tứ Tượng, có Bát Quái vậy. Nhưng điều khó khăn là bảng Thái cực số này thì chỉ có 9 số (Bảng Thái cực Tâm 5) nên:
- Về thời gian phải lấy 9 đơn vị mà phải thuộc về 8 quẻ.
- Về không gian 10 Trường cũng phải chia thành 9 và cũng phải thuộc về 8 quẻ.
Người xưa cho rằng Thời gian của Thiên Hà chúng ta được đo bằng sự chuyển động của Hệ mặt trời quay xung quanh Tâm Thiên Hà nên đã lấy chuyển động này để xét quẻ Thời gian: Hai quẻ Khảm và Ly là 2 quẻ đối xứng nhau hoàn chỉnh và đủ 2 phần Âm Dương nên:
- Quẻ Khảm là Thái Âm có một Thiếu Dương (2 hào Âm kèm 1 hào Dương) làm đại diện cho phần Âm của không gian là bên tâm của Thiên Hà
- Quẻ Ly là Thái Dương có một Thiếu Âm bên trong làm đại diện cho phần Dương của không gian là bên Hệ mặt trời.
Vì Thời gian luôn luôn đối xứng nhau hoàn chỉnh qua bất cứ thời điểm nào nên 6 quẻ còn lại được xếp đối xứng hoàn toàn qua trục Khảm Ly.
Đối xứng hoàn toàn có nghĩa là đối xứng về Hào cũng như về Chiều.
Ví dụ:
Quẻ Tốn ( ) là 1 Âm và 2 Dương tính từ dưới lên thì đối
xứng với quẻ Cấn ( ) là 1 dương và 2 âm tính từ trên xuống.
Tương tự quẻ Chấn đối xứng với quẻ Đoài, quẻ Khôn đối xứng với quẻ Càn.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
25
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Hào
Âm
giả
m
Tốn Ly Cấn
Hào
dươ
ng tă
ng
Chấn Đoài
Khôn Khảm Càn
Cách sắp xếp trên là Hào Dương giảm thì hào Âm tăng hoặc hào Âm giảm thì hào Dương tăng tức là cũng đối xứng luôn. Nhưng ở đây còn một vấn đề nữa là: 2 quẻ Càn và Khôn phải được xếp ở đầu Khảm của trục Khảm Ly vì người xưa cho rằng 2 khí Thuần Dương và Thuần Âm của vũ trụ phát ra từ tâm Thiên Hà tạo ra 9 cặp sao khí sẽ được đề cập trong phần tính toán của Thuật số Lạc Thư ở sau.
Đọc thứ tự các quẻ của Thái Cực tượng thời gian theo quỹ đạo tương tác chuyển hóa 2 khí Âm Dương hình số (Theo chữ Giáp cốt số 5 được viết là tức là mô phỏng theo quỹ đạo chuyển hóa của khí Thái cực) và phải đọc từ Tâm ra Ngoài tức là từ quẻ Khảm ta sẽ có tên 8 quẻ Thời gian cũng như quỹ đạo Thời gian như sau:
Tốn 4 Ly 9 Cấn 8
Chấn 3 5 Đoài 7
Khôn 2 Khảm 1 Càn 6
Cách đọc này phải qua Tâm vì thời gian thì không thể đứt quãng được.
Đem 9 quẻ Thời gian vào bảng Thái cực Lạc Thư số (Trung cung ở Tâm tạm coi là 1 quẻ). Mỗi quẻ mang một số họ có bảng cửu cung thuận về quỹ đạo Thời gian như sau:
Tốn 4 Ly 9 Khôn 2
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
26
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Chấn 3 5 Đoài 7
Cấn 8 Khảm 1 Càn 6
Bảng 1: Đọc Thuận
Có 1 cách đọc thứ 2 từ Ngoài vào Tâm và ngược chiều tức là từ quẻ Ly với số khởi đầu phần dương là 6 họ được bảng cửu cung nghịch là:
Tốn 2 Ly 6 Khôn 4
Chấn 3 1 Đoài 8
Cấn 7 Khảm 5 Càn 9
Bảng 2: Đọc Nghịch
Đến đây họ đã có 9 đơn vị Thời gian thuộc về 8 quẻ và 1 trung cung trong bảng Thái cực Lạc Thư hợp nhất Không – Thời gian nên được người đời sau gọi là Thời Gian Cửu Cung.
* Nhưng vì số và quẻ của bảng là hợp nhất của Không Thời gian nên số và quẻ cũng phải là của 10 trường không gian: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.(Từ Hán gọi là 10 CĂN hay 10 CAN)
Mười Trường trên được chia ra như sau:
- Phần Dương bên Hệ mặt trời gồm 4 trường.
Giáp: Trường không gian của quả đất.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
27
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Ất: Trường không gian của mặt trời.(từ Việt gọi là Ác có nghĩa là mặt trời)
Bính: Trường không gian của mặt trăng.
Đinh: Trường không gian của các hành tinh quay xung quanh mặt trời.
- Phần Trung gian giữa Hệ mặt trời và Tâm Thiên Hà gồm 2 trường Mậu, Kỷ thuộc Dương và Âm mà tâm của trục này chính là hệ Bắc Cực (người Việt xưa xem 7 sao Bắc Đẩu quay quanh sao Bắc cực tạo thành một hệ làm tâm cho trục không gian Mậu-Kỷ).
- Phần Âm bên Tâm Thiên Hà : gồm 4 trường: Canh, Tân, Nhâm, Quý đối ứng lại với 4 trường bên Hệ mặt trời.
Vì 2 trường trung gian Mậu Kỷ làm trục đối xứng cho 8 trường của 2 phần Âm Dương nên được đặt vào 2 cung 8 Cấn và 2 Khôn của bảng Lạc Thư. Hai cung này là Thiếu Dương và Thiếu Âm của Thái cực Lạc Thư. Về thời gian đã lấy 2 cung 1 Khảm và 9 Ly làm trục đối xứng, nên về không gian phải lấy 2 cung này để quỹ đạo chuyển hóa của Thái cực tượng Không Thời gian mới là số được. Họ chọn 2 cung này là hoàn toàn hợp với bảng Thái cực số của Không Thời gian.
Trường Mậu thuộc Dương nên đặt ở phần Âm là Cung 8, Trường Kỷ thuộc Âm nên đặt ở phần Dương là cung 2. Số 5 ở Trung cung giữa trục 8 và 2 sẽ là số hợp nhất của 2 Trường Mậu - Kỷ. Khi hợp chúng sẽ là 5, khi phân ra chúng sẽ là 8 và 2 (điều này được vận dụng nhiều sau này. Đây cũng là lí do để họ chia không gian lại có 2 Trường Trung gian Mậu và Kỷ).
Còn lại 4 Trường Giáp Ất Bính Đinh thuộc phần Dương bên Hệ mặt trời và 4 Trường Canh, Tân, Nhâm, Quý thuộc phần Âm bên Tâm Thiên Hà họ phải đưa vào 6 quẻ 2 bên là Chấn, Tốn, Ly và Đoài, Càn, Khảm.
Tốn 4 Ly 9 (Kỷ 2)
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
28
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Chấn 3 5 Đoài 7
(Mậu 8) Khảm 1 Càn 6
- Trong 4 Trường Giáp Ất Bính Đinh (thuộc Dương nên đặt bên Âm) thì 2 trường Giáp Ất lại cũng thuộc Dương nên chiếm 2 số bên Âm là 3 và 4 tức là 2 quẻ Chấn và Tốn, còn 2 Trường Bính và Đinh thuộc Âm nên chiếm số bên dương là 9 tức là quẻ Ly.
- Trong 4 Trường Canh, Tân, Nhâm, Quý (thuộc Âm nên đặt bên Dương) thì 2 Trường Canh Tân lại thuộc Âm nên chiếm 2 số bên dương là 7 và 6 tức là 2 quẻ Đoài và Càn, còn 2 Trường Nhâm, Quý thuộc Dương nên chiếm số bên Âm là 1 tức là quẻ Khảm.
Vậy là cuối cùng về không gian 10 trường cũng chia được làm 9 và cũng thuộc về 8 quẻ Không - Thời gian hợp nhất của Bảng Lạc Thư (Thái cực tượng của Không - Thời gian) là:
Tốn 4 Ly 9 Khôn 2
(Ất) (Bính + Đinh) (Kỷ)
Chấn 35
Đoài 7
(Giáp) (Canh)
Cấn 8 Khảm 1 Càn 6
(Mậu) (Nhâm + Quý) (Tân)
Tám quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài của 10 trường không gian đọc theo vòng tròn chuyển động của hệ Bắc Cực thì được người đời sau gọi là HẬU THIÊN BÁT QUÁI vì thứ tự đã thay đổi khác với 8 quẻ ban đầu gọi là Tiên Thiên Bát Quái.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
29
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Ta đã biết chữ Giáp Cốt (hậu thân của chữ Khao Đẩu) đã viết số 5 là . Tại sao lại viết như thế?
Rõ ràng vì nó là tâm của bảng Lạc Thư hợp nhất không thời gian với quỹ đạo chuyển hóa Âm Dương như sau:
Mô hình gồm 2 trục chính là:
- Trục thời gian Khảm - Ly
- Trục không gian Cấn – Khôn
Tám quẻ sắp xếp theo thứ tự trên chính là 8 quẻ của Không gian hợp nhất với Thời gian vậy.
Bảng Lạc Thư với mô hình Bát Quái này đã được người Lạc Việt vận dụng vào cơ chế cai trị, vào địa lý của đất nước cho đến cuối thời đại “tất cả” các vua Hùng nên có tên là Bát Quái Văn Lang hay Bát Quái Văn Vương tức là Bát Quái của vua nước Văn (Lang). Sau khi chiếm phần lớn Trung nguyên người Tây Bắc đã mạo tên tác giả là Văn Vương nhà Châu. Nhưng vì sau nhiều ngàn năm bị xóa sạch gốc gác nên tác quyền Kinh Diệt, Lạc Thư (với 8 quẻ Bát Quái Văn Vương) cũng như bảng Hà Đồ (ở sau) đã bị thay đổi cho mãi đến tận ngày nay! Theo họ thì Bảng Lạc Thư về số là do Vua Đại Vũ nhà Hạ tìm ra, còn 8 quẻ Hậu Thiên thì do Châu Văn Vương tìm ra. Mà như trên ta đã thấy Bảng Lạc Thư là bảng chỉ cả Số và Quẻ cùng một lúc của Không gian
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
30
Chuyển hóa qua tâm 5
Ly Khôn
Cấn Khảm
Tốn
Chấn
Đoài
Càn
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
và Thời gian hợp nhất thành một Thái cực tượng: có Số thì có Quẻ, có Quẻ thì có Số, không thể phân ra làm 2 được. Do không giải thích được nó (mà mãi đến ngày nay vẫn chưa giải thích được!) họ đã gán cho Đại Vũ phần đầu, Châu Văn Vương phần cuối cách nhau tới hơn 1.000 năm, nên đấy chỉ là sự tuyên truyền sai lạc mà thôi.
Theo sự nghiên cứu hiện nay thì Thuật số Kỳ môn độn giáp có mặt thời Nhà Hạ mà Thuật số này thì phải dùng 8 quẻ Hậu Thiên. Vậy thời ấy cư dân Bách Việt (Bách Diệt) dùng loại quẻ gì khi Châu Văn Vương còn chưa samh ra đời!
Ta có thể nói chắc chắn rằng bảng Lạc Thư với Thời Gian Cửu Cung và Không gian Bát Quái Hậu Thiên của nó là của dân tộc Lạc Việt đã ra đời trước năm 2357 trước Công nguyên của thời Vua Nghiêu ở phương Bắc. Vì cổ sử Trung Hoa đã có ghi rằng: “Năm Mậu Thân đời Vua Nghiêu có sứ giả người Việt thường ở phương Nam mang đến kinh đô Bình Dương biếu cho Vua (Nghiêu) một con rùa thần rộng hơn 3 thước trên lưng có khắc chữ Khao Đẩu ghi việc từ khi mở trời đất cho đến mãi về sau. Vua (Nghiêu) sai người chép lại gọi là Lịch Rùa”. Mà lịch rùa của dân tộc Việt Thường (tức là dân Lạc Việt) thì phải dùng đến 8 quẻ Hậu Thiên của bảng Lạc Thư. Còn thuật số Lạc Thư thì hoàn toàn được sáng tạo trên cơ sở là bảng Lạc Thư nên nghĩa gốc của từ Lạc Thư là: sách của dân Lạc hay xứ Lạc thì mới đúng được.
Một điều nữa là dòng sông Lạc của dân tộc Lạc Việt không phải là dòng sông Tạc Thủy đổ vào sông Hoàng Hà ở phía Bắc, mà là ở tại vùng đất phía Nam nơi Lạc Long Quân cư ngụ, vì mãi tới đời Hạ Đại Vũ thì mới tiến đánh đến vùng đất này, còn bảng Lạc Thư thì đã có từ trước đó rất lâu. Gọi sông Tạc Thuỷ thành sông Lạc là cũng nhằm mục đích hợp lý hoá cho sự tuyên truyền ở trên vậy.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
31
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
PHỤ LUẬN THÊM
Như vậy con số 5 của Thái cực tượng Không - Thời gian của dân tộc Lạc Việt chẳng dính dáng gì với Lý thuyết Ngũ hành sau này cả. Nhưng điều ngẫu nhiên kỳ thú lại là cùng chung một con số 5.
Thế nên khi tiếp thu được Kinh Diệt, Bảng Lạc Thư, Hà Đồ cùng thuật số Lạc Thư, mặc dù biết rất rõ lý thuyết Ngũ Hành không thể là cơ sở để suy ra 8 quẻ hợp nhất Không - Thời gian cũng như số của chúng, mà chỉ có thể lồng ghép theo vì sự trùng hợp về số 5 mà thôi, họ đã nghiên cứu lâu dài lồng ghép được cả hai lý thuyết làm một trong tất cả các bộ môn, nhưng về bản chất là hoàn toàn sai khác. Vì thế đã dẫn tới sự kìm hãm các phát kiến khoa học từ học thuyết Âm Dương - Thái cực vì chỉ có học thuyết biện chứng này mới là khoa học chân chính, còn lý thuyết Ngũ Hành (đã bao ngàn năm chẳng dẫn đến một phát kiến khoa học nào cả) thì bản chất của nó là như sau:
Có một vật, một cái gì đó thì phải có cái sinh vật đó, có cái khắc vật đó. Rồi vật đó cũng phải sinh một cái mới và cũng sẽ khắc một cái mới khác chứ không đi vào nội dung biện chứng của quá trình sinh hay khắc đó (sinh # trợ giúp và khắc # phá hoại).
Với bản chất như vậy mà khi thấy con số 5 của không thời gian hợp nhất trùng hợp, họ lại chia ngay vật chất làm 5 loại, thời gian làm 5 thời, nhân sự làm 5 vân vân… đem lồng ghép vào thì tuy vẫn ăn khớp nhưng tai hại cho nhận thức của nhân loại về sau là vô cùng. Thí dụ như con người có 5 tạng hay 5 ngón tay - chân không phải do 5 hành mà do sự tiến hóa Âm Dương của không thời gian tạo nên. Hay như lý thuyết Phật giáo con người tiến hóa từ vật chất đến tinh thần là Ngũ uẩn thì cũng là sự tiến hóa theo không thời gian hợp nhất mà thành. May mắn thay cho đạo Phật chưa bị lý thuyết ngũ hành nhào nặn hành hạ!
Đã thế lại ra sức tuyên truyền tất cả là của họ đến nỗi Khổng Tử sau này cũng phải lầm lẫn nên cuối đời đã phải than là: “Thêm cho ta mấy năm nữa để học Dịch thì sẽ không mắc sai lầm lớn”. Mặc khác họ cương quyết xóa sạch nguồn gốc kinh Diệt ,Lạc Thư, Hà Đồ với Thuật
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
32
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
số Lạc Thư, vì nó là một lợi khí để tính thiên thời trong chiến tranh ngày xưa và mọi di tích văn hóa Lạc Việt… Thời Bắc thuộc họ gọi phần đất dân tộc Lạc Việt tràn xuống sinh sống là Giao Châu (Châu của người Dao) vì vào thời kỳ này họ coi như đã tiêu diệt xong dân tộc Việt rồi vậy!
Thơ về Lạc Thư
Long Ly Quy Khảm
Lạc Chấn Lân Đoài
Tốn Khôn Càn Cấn
Tám Tượng Muôn Đời
Làm Nhà Bát Quái
Không Thời Lạc Thư
Giữa Nhà Bố Cái An Cư
Tổ Tiên Lạc Việt Bọc Hy Cho Người
Việt Nam Con Cháu Giống Nòi
Đời Đời Lưu Dấu Sách Trời Lạc Thư
Thiện Nhơn
Ghi chú: Theo vòng tròn Bát Quái Hậu Thiên,người Lạc Việt đã dùng 4 biểu tượng cho 4 hướng chính là:
- Con Long (là hình ảnh của đường xích đạo) chỉ cho phương Nam nóng ấm tạo nên mưa nắng.
- Con Lân chỉ cho phương Tây âm u, bóng tối.- Con Quy chỉ cho phương Bắc lạnh lẽo, khô khan.- Con Chim Lạc (mà sau này người đời sau đổi thành con
phụng) chỉ cho phương Đông sáng sủa, ánh sáng.- Còn ở Trung cung thì họ dùng hình ảnh Mặt trời 5 nhánh để
chỉ cho vua chúa ngự trị (Về sau này khi chuyển về phương Nam thì họ mới dùng Mặt trời 14 nhánh vì vòng 3 bảng Lạc Thư là 5 + 9 = 14).
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
33
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG IV
VẬN DỤNG BẢNG LẠC THƯ CỬU CUNGVÀO KHÔNG - THỜI GIAN CỦA QUẢ ĐẤT
Tâm không gian của bảng Lạc thư là Hệ Bắc cực với bảy sao Bắc đẩu quay quanh sao Bắc cực mỗi vòng là một năm của quả đất thì lại luôn tương ứng nhất với vùng Trung nguyên nước Trung hoa : Khi cán sao Bắc đẩu ở điểm thấp nhất thì ở đây là Tiết Đông chí , khi nằm ngang bên này là Tiết Xuân phân, khi cao nhất là Tiết Hạ chí , khi nằm ngang bên kia là Tiết Thu phân nên người xưa cho rằng: Vùng này là nơi đại diện chuẩn nhất của quả đất cho bảng Lạc thư .Còn nơi đây phía Bắc thì lạnh lẽo, phía Nam thì nóng nực nên họ đã đặt 2 quẻ Khảm-Ly vào đấy. Thế là 6 quẻ còn lại cũng được định vị như sau:
(Nam)Tốn Ly Khôn
(Đông) Chấn 5 Đoài (Tây)Cấn Khảm Càn
(Bắc)
Về không gian thì như thế, còn về thời gian thì:Không - Thời gian là hợp nhất trong bảng Thái cực Lạc thư tâm
5 ( ) nên đơn vị Thời gian là CHI cũng phải hợp nhất với đơn vị Không gian là CAN (đọc trại từ từ CĂN là gốc mà ra).
Can thì thuộc có, thuộc Dương được chia làm 10.
Chi thì thuộc không, thuộc Âm được chia làm 12.
Về Thời gian thì bản chất là Đồng nhất, những căn cứ vào số 10 của Không gian gấp đôi số tâm 5 của bảng Lạc Thư mà 6 là số âm của số 5 dương nên được chia làm 12 quãng: Tý, Sửu, Dần… Không gian Can có 10, Thời gian Chi có 12 nên phải là 60 thì Can và Chi mới hợp nhất trọn vẹn được. Nhưng 60 thì chưa tròn số 9 của Thái cực Không - Thời gian, mà phải là 180 thì mới trọn được. Không Thời gian lớn nhất của quả đất theo hệ Can Chi là năm thì phải 180 năm - nhỏ nhất là giờ
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
34
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
thì phải là 180 giờ. Vì thế tính toán về năng lượng (gọi là sao khí) tác dụng vào quả đất theo Năm thì con số 180 năm là căn bản, theo Giờ thì 180 giờ là căn bản. - 180 giờ là 15 ngày, mà ngày thì cũng tính theo hệ Can - Chi nên một năm 365 ngày vừa không tròn số 180 Can - Chi ngày, vừa không tròn số Can - Chi giờ nếu đổi 365 ngày ra giờ (4380 giờ). Con số tính toán cho Không - Thời gian hợp nhất là 360 ngày tức là 4320 giờ là con số gần nhất với con số 365 ngày thực tế được chọn là Thời gian lý thuyết cho 1 năm.
Đem 360 ngày hợp nhất với 8 quẻ Không gian thì mỗi quẻ là 45 ngày. Mỗi quẻ có 3 hào thì mỗi hào là 15 ngày (hợp nhất 15 ngày với 1 hào).
Để tiến tới 1 Can giờ hợp nhất với 1 Chi giờ như đã nói trên là con số 60 Can - Chi giờ, người ta chia 15 ngày tức 180 giờ thành 3 Nguyên (hay 3 Hầu).
Mỗi nguyên là 60 giờ hay 5 ngày.
Trong 60 giờ thì 10 Can chỉ hợp nhất với 10 Chi còn dư 2 Chi nên lại phải hợp nhất tiếp tục và đủ 6 lần thì 10 Can mới hợp nhất trọn vẹn với 12 Chi. Cứ mỗi lần 10 Chi giờ hợp nhất với 10 Can giờ thì gọi là 1 NGHI tức là Thời gian Thích Nghi vào Không gian. Mười Can Chi giờ thì không có tên gọi riêng nên người xưa mượn tên Can để gọi như sau:
1. 10 Can Chi giờ từ Giáp Tý đến Quý Dậu là nghi Mậu.
2. 10 Can Chi giờ từ Giáp Tuất đến Qúy Mùi là nghi Kỷ.
3. 10 Can Chi giờ từ Giáp Thân đến Qúy Tỵ là nghi Canh.
4. 10 Can Chi giờ từ Giáp Ngọ đến Qúy Mão là nghi Tân.
5. 10 Can Chi giờ từ Giáp Thìn đến Qúy Sửu là nghi Nhâm.
6. 10 Can Chi giờ từ Giáp Dần đến Qúy Hợi là nghi Quý.
- Tại sao lại mượn như thế mà không mượn các từ A, B, C… nào khác ? Điều này có lý do của nó sẽ được trình bày ở phần bảng 6 Nghi - 3 Kỳ tiếp theo.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
35
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
15 ngày hợp nhất với một hào của quẻ thì được gọi là 1 Tiết Kỳ Môn (chúng ta tạm mượn từ Hán vì chẳng rõ ngày xưa gọi là gì) nên 1 năm 360 ngày có 24 tiết kỳ môn.
- Còn 5 ngày ¼ của năm thực tế dư ra thì sao?
Cách giải quyết của người xưa là cứ 3 năm số dư 15 ngày tạo ra 1 tiết nhuận. Nhưng ¼ ngày (5 giờ 48’46’’) còn lại sau 4 năm sẽ dư 1 ngày, sau 8 năm sẽ dư 2 ngày… nên phải có trường hợp 2 năm rưỡi đã cho ta một tiết nhuận.
- Vì mốc thời gian quả đất khởi đầu từ tiết Đông Chí nên tiết nhuận sau 3 năm phải đặt trước tiết Đông Chí tức là Tiết Đại Tuyết để tiết Đông Chí nối tiếp sẽ vẫn là khởi đầu, còn 2 năm rưỡi đã nhuận thì phải đặt tiết nhuận là Mang Chủng để tiết Hạ Chí nối tiếp. (Bấy giờ thì tiết Hạ Chí) lại là tiết khởi đầu và cứ thế tiếp tục mãi mãi cho tới ngày nay.
Đây chính là lịch Âm Dương của người Việt xưa, nó khác với Âm Lịch lấy 1 năm 354 ngày nên phải nhuận tới 1 tháng, và với Dương lịch lấy 365 ngày nên phải nhuận 1 ngày. Về Lịch thì như thế, nhưng tính toán về năng lượng vũ trụ (tức là SAO KHÍ) cho mỗi can chi năm hay mỗi can chi giờ thì thế nào?
Căn cứ vào bảng Lạc Thư Không - Thời gian hợp nhất thành 9 số 9 cung, người xưa đã chia các sao khí tác dụng vào quả đất thành 9 loại, mỗi cung 1 loại vậy là 1 tiết ở tại mỗi cung ta có 180 sao khí, nếu mỗi giờ là 1 sao khí: Giáp Tý 1 sao khí, Ất Sửu 1 sao khí…. Nhưng thực tế thì mỗi tiết khí khi thì trên 180 giờ, khi thì dưới 180 giờ nên mỗi sao khí của 1 Can - Chi Giờ lý thuyết vừa nói sẽ tác dụng vào quả đất có lúc dài hơn 1 giờ có lúc ngắn hơn 1 giờ (Đông Phương).
Ví dụ: Tiết Vũ Thủy năm Giáp Thân 2004 khởi đầu từ giờ Canh Thân ngày 29 tháng Giêng đến hết giờ Mậu Ngọ ngày 15 tháng 2 (ÂL) tức là chỉ kéo dài 179 giờ nên về sao khí 180 giờ Lý thuyết ở Tiết vũ Thủy, mỗi sao khí chỉ tác dụng1 thời gian là 119 phút 20 giây tại quả đất mà thôi (Thiếu 40 giây mới đủ 1 giờ Đông Phương).
Khi 1 tiết thực tế nhiều hơn 180 giờ thì ngược lại Thời gian 1 sao khí tác dụng sẽ lớn hơn 1 giờ Đông Phương.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
36
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Qua ví dụ này ta chỉ tính 1 tiết thực tế bằng giờ Can Chi còn ngày nay ta đã tính được 1 tiết thực tế đến số phút giây thì sự tính toán sẽ phải chi tiết hơn nữa. Thêm vào đó giờ can chi từng vị trí trên quả đất lại còn thay đổi từng ngày, từng ngày, từng tháng trong năm. Tháng này giờ Tý lúc 0 giờ (đồng hồ) nhưng tháng sau giờ Tý lại có thể là 0 giờ 10 phút nên còn phải đối chiếu kỹ lưỡng sâu sắc hơn 1 lần nữa trong phán đoán về Thời gian cho 1 bảng số Lạc Thư sau này.
Còn 1 điều cần chú ý nữa là tên giờ: Giờ khởi đầu tiết Vũ thủy thực tế là Canh Thân, còn giờ khởi đầu tiết Vũ thủy lý thuyết là Giáp Tý, nên khi ta tính toán sao khí cho giờ Giáp Tý lý thuyết tức là ta tính cho giờ Canh Thân thực tế vậy. Tiếp tục giờ Ất Sửu lý thuyết là giờ Tân Dậu thực tế (16h40’VN) vv và cứ thế tiếp tục…
Phương pháp tính toán như trên trong thuật số Lạc Thư được gọi là phép Siêu Thời Tiếp Khí (vượt thời gian để tiếp sao khí) gồm 2 việc chính là:
1. Dùng giờ Lý thuyết của Tiết Lý thuyết để tính toán.
2. Đổi Thời gian từng giờ Lý thuyết (2 giờ đồng hồ) sang Thời gian thực tế trong từng Tiết (dài hay ngắn hơn hai giờ đồng hồ)
PHỤ CHÚ
Nguyên lý tạo nên Gìơ Can Chi Căn cứ vào Thời gian cửu cung và sự hợp nhất Không Thời gian
thì muốn tính toán được năng lượng bên ngoài vũ trụ thiên hà tác dụng vào quả đất trong thời gian 1 tiết kỳ môn, ta phải cần 1 con số nhỏ nhất là 180 [bội số của 9 và 60 ] nên người xưa đã phải chia 1 tiết kỳ môn thành 180 quãng tức là 1 ngày phải là 12 quãng can chi. Các con số lớn hơn như 360, 540 vv hay như con số 900 [tức là chia 1 ngày thành 60 giờ] thì cũng có thể tính toán được, nhưng là quá lớn nên sự tính toán sẽ rắc rối mà thôi.Hơn nữa dưới giờ can chi theo thuật số Lạc thư thì sẽ phải có 1 đơn vị nhỏ hơn là Khắc nữa [ sẽ được trình bày ở sau] nên giờ can chi chính thức được chọn làm đơn vị căn bản .Con số 12 giờ cho mỗi ngày lại hoàn toàn phù hợp với chu kỳ tuần hoàn của các chi nên
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
37
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
lại dễ tính toán hơn cho các thuật số sau này. Tuy nhiên vì thời gian 1 năm thực tế lại không đúng 24 tiết kỳ môn nên lịch Aâm dương phải có các tiết nhuận như đã trình bày ở trước, và tính toán thì cũng phải siêu thời tiếp khí thì mới đúng được.Điều này là do lý thuyết Lạc thư thì quá tổng quát để áp dụng tính toán vào thời gian từng năm của quả đất mà ra.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
38
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG VBẢNG SỐ LẠC THƯ KỂ GIỜ
Muốn thành lập 1 bảng số Lạc Thư cần phải thực hiện các bước sau:
1. Lập bảng 6 Nghi - 3 Kỳ.
2. Tìm Trực - Phù, Trực - Sử
3. An 3 Kỳ -Bát tướng và 3 vòng sao kỳ.
4. Tìm Cửa cùng 8 quẻ kép của Cửa.
* Phần cuối cùng là phán đoán bảng số: Tính toán vào Thời gian thực tế
MỤC 1BẢNG LỤC NGHI - TAM KỲ
SỐ SAO KHÍ CỦA KHÔNG - THỜI GIAN 10 GIỜ
Như đã biết ở phần trước cứ 10 chi giờ hợp nhất với 10 can giờ như Giáp Tý, Ất Sửu ...đến Quý Dậu được gọi là 1 Nghi. Can Chi hợp nhất trọn vẹn cho ta 6 Nghi: Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Tại sao lại không lấy các từ nào khác mà lại lấy tên 6 Can này để đặt tên NGHI.?
Theo bảng Lạc Thư Không - Thời gian thì:
- Thời gian khởi đầu từ quẻ KHẢM của trục Khảm - Ly.
- Không gian khởi đầu từ quẻ CẤN của Trục Cấn - Khôn. Khí bản thể của Thời gian và Không gian chuyển hóa qua Tâm 5 ( ) của 2 trục này.
Theo người xưa thì:
- Phần Âm là Tâm Thiên Hà.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
39
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- Còn Hệ Mặt trời là phần Dương thì quay xung quanh giống như cơ cấu 1 nguyên tử của khoa học ngày nay. Từ Tâm Thiên Hà liên tục “2 khí” chính là Âm Dương của hệ được phát ra, 60 giờ Can Chi hợp nhất thì tạo nên 6 cặp sao khí nên người xưa đã lấy 6 Can khởi đầu từ Mậu là Mậu, Kỷ, Canh, Tân , Nhâm, Quý để hợp nhất với 60 giờ từ Giáp Tý đến Quý Hợi là thế.
Sau khi hợp nhất được 6 NGHI và có 6 cặp sao khí thì vấn đề là phải tìm xem đó là sao khí gì khi căn cứ vào bảng Lạc Thư có 9 cung mang 9 cặp số thuận, nghịch được người xưa xem là những số chỉ thị cho sao khí (năng lượng) của quẻ KHÔNG - THỜI GIAN hợp nhất. 9 cặp sao khí đó là: 1 - 5, 2 - 4, 3 - 3, 4 - 2, 5 - 1, 6 - 9, 7 - 8, 8 -7, 9- 6.Tìm hiểu tính cách của từng sao khí họ đã quy chúng vào các tên sao là:
Số 1: Sao lọng : Sao khí Thiên Bồng(Tên Ngũ Hành là Nhứt Bạch Thuỷ)Số 2: Sao ong: Sao khí Thiên Nhuế(Tên Ngũ Hành là Nhị Hắc Thổ)Số 3: Sao xung: Sao khí Thiên Xung(Tên Ngũ Hành là Tam Bích Mộc)Số 4: Sao đở trời: Sao khí Thiên Phụ(Tên Ngũ Hành là Tứ Lục Mộc)Số 5: Sao chim: Sao khí Thiên Cầm(Tên Ngũ Hành là Ngũ Hoàng Thổ)Số 6: Sao tâm: Sao khí Thiên Tâm(Tên Ngũ Hành là Lục Bạch Kim)Số 7: Sao trụ : Sao khí Thiên Trụ(Tên Ngũ Hành là Thất Xích Kim)Số 8: Sao gánh : Sao khí Thiên Nhậm(Tên Ngũ Hành là Bát Bạch Thổ)Số 9: Sao ương: Sao khí Thiên Ương(Tên Ngũ Hành là Cửu Tử Hoả)
* Cách tìm 6 cặp sao khí của 6 Nghi như sau:
Vì 2 tiết Đông Chí và Hạ Chí khởi đầu cho 2 thời kỳ khí hậu trái ngược nhau tương ứng với 2 phần Âm Dương của Không gian vũ trụ thiên hà là 2 quẻ Khảm và Ly nên cũng là tương ứng với Khảm - Ly của địa bàn quả đất. Ta có sự hợp nhất Không - Thời gian hàng năm là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
40
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
1 Từ Đông Chí
* Tiết Đông Chí
* Tiết Tiểu Hàn
* Tiết Đại Hàn
* Tiết Lập Xuân
* Tiết Vũ Thủy
* Tiết Kinh Trập
* Tiết Xuân Phân
* Tiết Thanh Minh
* Tiết Cốc Vũ
* Tiết Lập Hạ
* Tiết Tiểu Mãn
* Tiết Mang Chủng
2. Từ Hạ Chí
* Tiết Hạ Chí
* Tiết Tiểu Thử
* Tiết Đại Thử
* Tiết Lập Thu
* Tiết Xử Thử
* Tiết Bạch Lộ
* Tiết Thu Phân
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
41
Hợp nhất quẻ KHẢM ở cung số 1 – 5
Hợp nhất quẻ CẤN ở cung số 8 - 7
Hợp nhất quẻ CHẤN ở cung số 3 - 3
Hợp nhất quẻ TỐN ở cung số 4 - 2
Hợp nhất quẻ LY ở cung số 9 - 6
Hợp nhất quẻ KHÔN ở cung số 2 - 4
Hợp nhất quẻ ĐOÀI ở cung số 7 - 8
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
* Tiết Hàn Lộ
* Tiết Sương Giáng
* Tiết Lập Đông
* Tiết Tiểu Tuyết
* Tiết Đại Tuyết
Mỗi quẻ có 3 hào, mỗi hào hợp nhất với 1 Tiết nên số hào hay số sao khí của từng tiết khí sẽ là:
Ví dụ: Để tìm số hào hay số sao khí của Tiết Vũ thủy quẻ Cấn - Số 8 - 7 là số Sao Khí của 45 ngày quẻ Cấn (Khi tính toán ta chỉ cần lấy số Thuận (số dương) còn số Ngịch ta sẽ điền theo sau). Quẻ Cấn gồm 3 hào hợp nhất với 3 tiết là:
- Lập Xuân: Hợp nhất với hào Hạ.
- Vũ Thủy: Hợp nhất với hào Trung.
- Kinh Trập: Hợp nhất với hào Thượng.
Từ số 8 của quẻ Cấn ta tính lên 8, 9, 1 hay tính xuống 8, 7, 6 để có số hào (hay số sao khí) của mỗi tiết. Trong trường hợp trên vì 3 tiết Lập Xuân, Vũ Thủy, Kinh Trập nằm sau tiết Đông Chí sao khí Dương số 8 đi lên, sao khí Âm số 7 đang đi xuống mà vì ta chỉ tính cho số sao khí Dương còn số sao khí Âm sẽ điền theo sau nên ta tính lên là:
- Lập Xuân số 8 - Vũ Thủy số 9, Kinh trập là số 1 vì theo vòng số cửu cung bảng Lạc Thư.
Mỗi tiết được chia làm 3 Nguyên, mỗi nguyên 5 ngày = 60 giờ được gọi là 1 cục và số hào (hay số sao khí) của 1 tiết sẽ là số cục (hay số sao khí) của nguyên đầu tiên trong tiết. Vậy số cục của Thượng nguyên tiết Vũ thủy là 9.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
42
Hợp nhất quẻ CÀN ở cung số 6 - 9
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Mỗi nguyên có 6 NGHI nên số cục (hay số sao khí) của nguyên lại cũng là số sao khí của Nghi Mậu là Nghi đầu tiên trong 6 Nghi. Số cục của Thượng nguyên tiết Vũ thủy là 9 nên số 9 này cũng là số sao khí của Nghi Mậu Thượng nguyên tiết Vũ thủy.
Tính thuận tiếp tục ta sẽ có số sao khí các Nghi sau là:
Nghi Kỷ : Số 1
Nghi Canh : Số 2
Nghi Tân : Số 3
Nghi Nhâm : Số 4
Nghi Quý : Số 5
Sau 6 Nghi của Thượng nguyên thì sẽ đến Nghi Mậu của nguyên giữa (Trung nguyên) mang số 6 (Tiếp sau số 5). Số 6 này cũng chính là số cục của Trung nguyên tiết Vũ thủy.
Tương tự như trên số sao khí của Trung nguyên này là:
Nghi Mậu : Số 6
Nghi Kỷ : Số 7
Nghi Canh : Số 8
Nghi Tân : Số 9
Nghi Nhâm : Số 1
Nghi Quý : Số 2
Vậy Nghi Mậu của Hạ nguyên tiết Vũ thủy sẽ mang số sao khí là 3, số 3 này cũng chính là số cục của Hạ nguyên tiết Vũ thủy - Ta cũng có số sao khí của các Nghi hạ nguyên là:
Nghi Mậu : Số 3
Nghi Kỷ : Số 4
Nghi Canh : Số 5
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
43
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Nghi Tân : Số 6
Nghi Nhâm : Số 7
Nghi Quý : Số 8
(Ta có thể lập sẵn bảng số quẻ, số hào, số cục, số nghi của cả năm để dễ tính toán nhanh nếu muốn).
Vậy là chúng ta đã có số 6 cặp sao khí cho 6 Nghi tùy thuộc chúng ở vào nguyên nào của tiết nào. Bảng số sao khí của 6 Nghi được gọi là Bảng Lục Nghi của Thuật số Lạc Thư.
(Chú ý: cách tính trên là tính theo lý thuyết chưa Siêu thời Tiếp khí để đi vào thời gian thực tế)
Vì Nghi là sự hợp nhất của Thời gian 10 giờ với 1 Can, nên về Thời gian thì số Nghi là số chỉ loại cặp sao khí trong 10 giờ đó, còn về Không gian thì số Nghi chỉ con số không gian của Can đó mà trong bảng Lạc Thư thứ tự của 10 trường không gian theo quỹ đạo chuyển hóa là:
(Ly)
(Tốn) Ất Bính Đinh Kỷ (Khôn)
(Chấn) Giáp Canh (Đoài)
(Cấn) Mậu Quý – Nhâm Tân (Càn)
(Khảm)
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
44
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Nên khi 6 Nghi đã cho ta số 6 Can: Mậu Kỷ, Canh Tân, Nhâm Quý thì tiếp tục ta sẽ tìm được số của các Can sau bằng cách tính theo thứ tự không gian trên là:
Ví dụ: 6 Nghi của Tiết Vũ thủy Thượng nguyên.
Mậu 9 Tân 3
Kỷ 1 Nhâm 4
Canh 2 Quý 5
Thì 4 Can còn lại Giáp Ất Bính Đinh sẽ mang số:
Đinh 6
Bính 7
Ất 8
Giáp? Vì chưa biết mang số nào.
Các số Nghi vốn từ 9 số của bảng Lạc Thư Không Thời gian, nên về Không gian chỉ có thể là 9 số từ 1 đến 9 chứ không thể có số nhỏ hơn 1 hay lớn hơn 9 được, mà ở đây Không gian 10 trường thì 9 trường Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Đinh Bính Aát đã chiếm hết 9 số nên trường Giáp chưa biết mang số nào. Người Lạc Việt xưa gọi là số Giáp ẩn trốn. Từ Hán thì gọi là Độn Giáp. Vấn đề này sẽ được trình bày ở phần tìm Trực Phù tiếp sau:
Các số của 3 trường Đinh Bính Ất là số chỉ Can Không gian mà Không gian và Thời gian thì hợp nhất nên về Thời gian chúng cũng hợp nhất với 10 giờ. Vậy nên:
+ Đinh 6, Bính 7, Ất 8 hợp nhất với 10 giờ Nghi Mậu.
+ Đinh 7, Bính 8, Ất 9 hợp nhất với 10 giờ Nghi Kỷ.
+ Đinh 8, Bính 9, Ất 1 hợp nhất với 10 giờ Nghi Canh.
+ Đinh 9, Bính 1, Ất 2 hợp nhất với 10 giờ Nghi Tân.
+ Đinh 1, Bính 2, Ất 3 hợp nhất với 10 giờ Nghi Nhâm.
+ Đinh 2, Bính 3, Ất 4 hợp nhất với 10 giờ Nghi Quý.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
45
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Và sao khí của 3 trường Đinh (các hành tinh quay xung quanh mặt trời) Bính (Mặt trăng) và Ất (Mặt trời) phát ra trong từng 10 giờ sẽ mang số sao khí là số của 3 trường Ất Bính Đinh vừa mới tìm ra ở trên.
Ba trường Ất Bính Đinh khi chuyển qua tính toán về sao khí theo Thời gian bây giờ được gọi là 3 Kỳ.
Vậy là cuối cùng ta có bảng 6 Nghi - 3 Kỳ (Lục Nghi - Tam Kỳ) được trình bày theo các lóng tay để dễ tính toán khi ngày xa xưa chưa có phương tiện giấy bút như sau:
Giáp ?
Mậu 9 Tân 3 Ất 8
Kỷ 1 Nhâm 4 Bính 7
Canh 2 Quý 5 Đinh 6
Như vậy là trong 10 giờ từ Giáp Tý đến Quý Dậu thuộc Nghi Mậu, Thượng nguyên tiết Vũ thủy, bên Vũ tru ïthiên hà là cặp sao khí số 9 - 6 (điền thêm số nghịch là số 6 vào) tức là 2 sao khí Dương Âm mang tên tiếng Việt là Sao Ương và Sao Tâm (Thiên Anh và Thiên Tâm). Bên hệ Mặt trời là 3 năng lượng mang số 8, 7, 6 hay còn gọi là 3 kỳ: Ất 8, Bính 7, Đinh 6. Người xưa chưa đặt tên cho từng sao khí bên Hệ này là vì mỗi sao khí còn chia làm 12 loại nhỏ sau này và cũng để tránh lầm lẫn mà cho rằng:
Sao Khí số 8 của Ất Kỳ là: Sao gánh (Thiên Nhậm)
Sao Khí số 7 của Bính Kỳ là: Sao trụ (Thiên Trụ)
Sao Khí số 6 của Đinh Kỳ là: Sao tâm (Thiên Tâm)
nên người xưa dùng chữ Kỳ thay vì chữ NGHI mặc dù Thời gian cũng là 10 giờ như bên Nghi.
* Chú ý: Khi tính cho các Tiết sau Hạ chí thì ta tính ngược lại cách tính trên.
* Sau Đông Chí gọi là Dương độn thì tính Thuận.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
46
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
* Sau Hạ Chí gọi là Âm độn thì tính Nhgịch.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
47
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
BẢNG TỔNG HỢP SỐ QUẺ, SỐ HÀO, SỐ CỤC(Chỉ tính theo SAO - KHÍ dương)
Quẻ Tiết Số hào
Số cụcThượng nguyên
Trung nguyên
Hạ nguyên
Khảm1 – 5
Đông Chí 1 1 7 4Tiểu Hàn 2 2 8 5Đại Hàn 3 3 9 6
Cấn8 - 7
Lập Xuân 8 8 5 2Vũ Thủy 9 9 6 3
Kinh Trập 1 1 7 4
Chấn3 – 3
Xuân Phân 3 3 9 6Thanh Minh 4 4 1 7
Cốc Vũ 5 5 2 8
Tốn4 – 2
Lập Hạ 4 4 1 7Tiểu Mãng 5 5 2 8
Mang Chủng 6 6 3 9
Ly9 – 6
Hạ Chí 9 9 3 6Tiểu Thử 8 8 2 5Đại Thử 7 7 1 4
Khôn2 – 4
Lập Thu 2 2 5 8Xử Thử 1 1 4 7Bạch Lộ 9 9 3 6
Đoài7 – 8
Thu Phân 7 7 1 4Hàn Lộ 6 6 9 3
Sương Giáng 5 5 8 2
Càn6 – 9
Lập Đông 6 6 9 3Tiểu Tuyết 5 5 8 2Đại Tuyết 4 4 7 1
- Từ số Cục chúng ta có thể tìm ra số 6 Nghi và 3 Kỳ nên không đi vào chi tiết quá cho bảng tổng hợp này.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
48
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- Bảng số cục này chỉ tính số Dương - số Âm sẽ được điền theo - Số Âm là số sao khí chính của Thuật số Lạc Thư tính cho năm (kể năm).
MỤC 2
TÌM TRỰC PHÙ, TRỰC SỬ
A. TRỰC PHÙ:
Trực Phù là phù đang trực
Phù là lá Phù của người xưa giống như cái phù hiệu của chúng ta ngày nay.
Mỗi quẻ Không Thời gian hợp nhất trong Bảng Lạc Thư gồm có 2 phần: Phù và Sử. Phù của quẻ Ly chẳng hạn là cặp sao khí số 9 - 6. Thiên Anh và Thiên Tâm, của quẻ Khảm là cặp sao số 1 - 5, Thiên Bồng và Thiên Cầm…vv
Cặp sao Thiên Anh và Thiên Tâm vừa tìm được cho “Nghi Mậu – Thượng nguyên tiết Vũ Thủy” chính là phù của quẻ Ly hợp nhất Không Thời gian trong bảng Lạc Thư. Khi chúng ta tìm được chúng tác dụng xuống mặt đất vào 1 giờ nào đấy (vùng Trung Nguyên nơi đại diện cho Không gian Lạc Thư địa bàn vừa trình bày ở trước) tại vị trí nào thì gọi là chúng đang trực ở đấy.
Bảng Lạc Thư áp dụng cho vùng trên thì gọi là Địa bàn còn cặp sao khí 9 - 6 vừa tìm được theo bảng Lạc Thư thì gọi là Thiên Bàn.
Tại Thiên Bàn thì cặp sao phù của quẻ Ly được viết là:
Thiên AnhHay
Thiên AnhMậu 9 9
(Không viết sao khí âm)Viết như trên có nghĩa là sao khí Thiên Anh đang thuộc về Can
Mậu và đang ở cung 9.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
49
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Trong 10 giờ của Nghi Mậu thì mỗi giờ mang 1 Can khác nhau. Thế nên sao Thiên Anh mỗi giờ cũng sẽ thuộc về 1 Can giờ nào đó: giờ Giáp Tý thì thuộc Can Giáp, giờ Ất Sửu thì thuộc Can Ất… nên được viết cho địa bàn là:
Thiên Anh,
Thiên Anh,
Thiên Anh…v…v…
Giáp Ất Bính
(Thời gian là của địa bàn, nhưng vẫn là giờ lý thuyết).
Bây giờ việc phải làm là Tìm số các Can của 10 giờ Nghi Mậu để vào giờ nào ta biết sao khí này đang trực ở đâu.
Ta đã biết số của Can Mậu 10 giờ là 9. Từ đây ta suy theo thứ tự quỹ đạo Không gian Lạc Thư là:
Mậu 9 Tân 3 Ất 8
Kỷ 1 Nhâm 4 Bính 7
Canh 2 Quý 5 Đinh 6
(giống bảng Lục - Nghi - Tam Kỳ gốc)
Giả sử tính cho giờ Ất Sửu của Nghi Mậu này thì ta có:
Thiên Anh=
Thiên AnhẤt 8
Tức là vào giờ Ất Sửu Sao Thiên Anh đang trực ở Can Ất số 8. Ta đưa vào bảng Lạc Thư địa bàn để dần dần hình thành bảng số Lạc thư vì sách này lấy ví dụ giờ Ất Sửu Nghi Mậu, Thượng nguyên Tiết Vũ Thủy lý thuyết đã nói ở trước làm mẫu.
4 9 2
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
50
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
3 5 7
Thiên Anh 8 1 6
(Thiên Tâm)
Ở đây cần phải chú ý là đối với các Nghi sau: Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý thì cách tìm can giờ cũng căn cứ vào thứ tự quỹ đạo Lạc Thư như thế, tức là cũng tính từ Mậu Kỷ… cho đến Ất Giáp.
Ví dụ: Số Can giờ từ Giáp Tuất đến Quý Mùi của Nghi Kỷ là:
Giáp?
Mậu 1 Tân 4 Ất 9
Kỷ 2 Nhâm 5 Bính 8
Canh 3 Quý 6 Đinh 7
Ta thấy số can giờ của Nghi này tăng lên một số so với bảng 6 Nghi 3 Kỳ ở Nghi Mậu, tức là mỗi Nghi ta có 1 bảng 6 Nghi 3 Kỳ mang số mới. Các Nghi sau: Canh, Tân, Nhâm, Quý ta cũng tăng dần lên (hay giảm xuống) như thế. Chúng ta cần phải lưu ý để tính Trực Phù các giờ của những Nghi sau cho đúng.
VẤN ĐỀ SỐ GIÁP ĐỘN
Từ Hán gọi là “Độn giáp” là không chính xác phải nói là số của Can Giáp ẩn trốn thì mới đúng vì không phải Can Giáp ẩn ở Can khác mà là số của Can Giáp ẩn ở số của các can khác. Vậy số của can Giáp là số gì mà gọi là ẩn ở số Can khác vì Trường Không gian thì có 10 mà khi hợp nhất với Thời gian thì chỉ có 9 cung 9 số trong bảng Lạc Thư.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
51
+
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Muốn tìm được số Can Giáp 10 giờ ở bảng 6 Nghi 3 Kỳ gốc vừa để biết con số chỉ thị cho năng lượng của quả đất vừa để tính toán cho các cặp sao khí Trực Phù, người xưa quy 10 trường theo thứ tự 10 số là:
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Phần số Dương Phần số Âm
Chia 10 số trên thành 2 phần Âm Dương ta sẽ có các cặp số hợp nhau theo thứ tự là:
Trường Giáp mang số 1 hợp với Trường Kỷ số 6 mà Trường Kỷ là một cặp Âm Dương với Trường Mậu mang số 5 nên hợp với 6 thì phải xung với 5. Vậy là ta có các cặp số xung nhau theo thứ tự là:
Chú ý: Hợp hay xung ở đây chỉ là Hợp – Xung về số chứ không phải về Thực chất.
Vậy số của Can Giáp hợp với số Can Kỷ và xung với số Can Mậu, mà trong bảng Lạc Thư phối hợp Không gian và Thời gian thì số Can Mậu là 8 và số Can Kỷ là 2 (chỉ tính số Dương) nên ta nói: số Can Giáp xung với 8 và hợp với 2.
Trong bảng 6 Nghi, ta đã từ 6 số 6 Nghi mà tính số các Can: Đinh, Bính, Ất. Ở đây ta cũng dùng 6 số 6 Nghi để tính số của Giáp vậy. Trong 6 số 6 Nghi thì: Khi thì có số 8, khi thì có số 2, khi thì có cả 2 số 8 và 2.
- Khi có số 8 thì số của Giáp phải xung với 8 tức là nó mang số 2.
- Khi có số 2 thì số của Giáp phải hợp với 2 tức là nó mang số 8. Vì để xung hay hợp thì cũng phải ở bên đối ngược cả.
- Khi có cả 2 số 8 lẫn 2 thì số của Giáp vừa xung vừa hợp nên nó mang số 5 là số hợp nhất của 8 và 2.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
52
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Vì chỉ có 6 Nghi mỗi Nghi mang 1 số mà 3 số 2, 5, 8 thì cách quãng nhau 3 số nên 6 Nghi chỉ có thể có 2 số hoặc 2 và 5, hoặc 5 và 8 hoặc 8 và 2 nên lúc nào số của Giáp cũng trùng với 1 số ở bên Kỳ: hoặc của Đinh, hoặc của Bính, hoặc của Ất. Do vậy người Tây Bắc sau khi có được chữ viết (chữ Hán) đã gọi thuật số Lạc Thư là: Kỳ Môn Độn Giáp nghĩa là: Giáp độn Cửa bên Kỳ (vấn đề Cửa sẽ đề cập ở sau). Ta thấy số của Gíap luôn độn ở bên Kỳ vì nó vốn là 1 thành viên của Hệ mặt trời vậy.(Các nhà ngũ hành thì nói Gíap độn ở hành Thổ vì nó thuộc Mộc nên khắc Thổ)
Trở lại với bảng 6 Nghi của Thượng nguyên Tiết Vũ Thủy là:
Mậu 9 Tân 3
Kỷ 1 Nhâm 4
Canh 2 Quý 5
Ta thấy có 2 số 2 và 5 nên số Can Giáp 10 giờ là 8 tức là trùng với số của Ất Kỳ. Vậy ta có thể viết:
Giáp 8
Mậu 9 Tân 3 Ất 8
Kỷ 1 Nhâm 4 Bính 7
Canh 2 Quý 5 Đinh 6
Đây cũng chính là số 10 Can của Nghi Mậu. Tiếp tục ta suy ra số 10 Can Nghi Kỷ sẽ là:
Giáp 9
Mậu 1 Tân 4 Ất 9
Kỷ 2 Nhâm 5 Bính 8
Canh 3 Quý 6 Đinh 7
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
53
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Số 10 Can Nghi Canh sẽ là:
Giáp 1
Mậu 2 Tân 5 Ất 1
Kỷ 3 Nhâm 6 Bính 9
Canh 4 Quý 7 Đinh 8
Chú ý: Người xưa tính bảng số Lạc thư trong lóng 3 ngón tay chỉ có 9 đốt vì thế sau này các nhà viết sách chỉ ghi 9 Can (là 6 Nghi - 3 Kỳ) mà thôi, không ghi Can Giáp mà chỉ nói Can Giáp độn ở Ất hay ở Bính, ở Đinh là thế.
Thế là nếu tính Trực Phù cho giờ Giáp Tý Nghi Mậu Thượng nguyên tiết Vũ Thủy ta sẽ được:
Thiên Anh=
Thiên AnhGiáp 8
Nếu giờ Giáp Tuất Nghi Kỷ ta sẽ được:
Thiên Bồng=
Thiên BồngGiáp 9
….v…v….
- Hỏi: Vậy sẽ có 2 giờ khác nhau có Trực Phù giống nhau.
- Đáp: Đúng vậy! Nhưng các thành tố khác của 2 bảng số (của) 2 giờ sẽ khác nhau.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
54
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Vì Không gian và Thời gian của vũ trụ là hợp nhất thành bảng Lạc Thư, mà từ trước đến giờ ta coi Không gian là cố định để tính toán cho Thời gian nên Thời gian là thay đổi.
Đến giờ Ất Sửu ta đang tính toán, nếu ngược lại ta coi giờ này là cố định thì Không gian phải thay đổi( Người Lạc việt xưa đã biết định luật Tương đối trước cả Einstein vậy!) mà “đại diện” của Không gian là 9 cặp sao khí trong bảng Lạc Thư với các số thứ tự của các cung trong bảng là:
1-5, 2-4, 3-3, 4-2, 5-1, 6-9, 7-8, 8-7, 9-6
Vậy nên trong giờ Ất Sửu cố định này, khi cặp sao khí Thiên Anh 9 và Thiên Tâm 6 đang trực ở cung Cấn 8 thì các cặp sao khí khác cũng đang trực theo thứ tự trên là:
9 - 6 : Cấn 8
1 - 5 : Ly 9
2 - 4 : Khảm 1
3 - 3 : Khôn 2
4 - 2 : Chấn 3
5 - 1 : Tốn 4
6 - 9 : Trung cung là Tâm bảng Lạc Thư
7 - 8 : Càn 6
8 - 7 : Đoài 7
Điền các cặp sao này vào bảng Lạc Thư địa bàn ta có bảng sau:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
55
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
+
T. Cầm
+
T. Bồng
+
T. Xung
T. Bồng T. Cầm T. Xung
+
T. Phụ
+
T. Tâm
+
T. Nhậm
T. Nhuế T. Anh T. Trụ
+T. Anh
+T. Nhuế
+T. Trụ
T. Tâm T. Phụ T. Nhậm
Chú ý:
1. Khi tính cho các giờ sau tiết Hạ chí thì các cặp sao sẽ chạy ngược là:
5-1, 4-2, 3-3, 2-4, 1-5, 9-6, 8-7, 7-8, 6-9
2. Quy tắc trên cho ta: - Tại 1 vùng địa bàn cố định ta có thể tính toán năng lượng theo Thời gian giờ, ngày, năm, tháng trước. Đây là phần dự đoán tuyệt hảo của Thuật số Lạc Thư.
- Tại 1 thời điểm cố định ta có thể biết các địa bàn khác nhau đang chịu tác động của loại năng lượng nào để hành động thích hợp.
B. TRỰC SỬ:
Trực Sử là Sử đang trực hay rõ hơn là Sử của cái đang trực.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
56
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Phù là loại sao khí của Không Thời gian trong 1 Nghi 10 giờ.
Sử là dạng thức sử dụng của sao khí đó trong mỗi Chi giờ hay nói đúng hơn là mỗi quẻ của Chi giờ.
Người xưa không tính Sử quẻ Không Thời gian của 1 Phù ở Thiên Bàn vì không cần thiết, mà chỉ tính Sử của từng Chi giờ để biết vào giờ cần tính thì cặp sao Phù đó đang mang dạng thức sử dụng nào vì cặp sao khí làm Phù không phải cố định mà thay đổi dạng theo quẻ Thời gian.
Mỗi quẻ có 1 dạng thức sử dụng riêng gọi là Sử.
Ví dụ: Quẻ Ly ( ) có hào hạ là hào dương với hào 2 là hào âm thì thuận hợp. Rồi hào trung âm này với hào thượng dương lại cũng thuận hợp nên khí Dương của quẻ Ly được sáng sủa, do đó ta có sử của quẻ Ly là Kiểng (từ Hán đọc là Cảnh) là sáng. Cặp sao khí Thiên Anh 9 và Thiên Tâm 6 là phù của quẻ Ly, là 2 sao khí Dương Âm của quẻ Ly nên khí Thiên Anh Dương trong quẻ này cũng sẽ sáng sủa (Sử Cảnh).
Sử các quẻ khác cũng được suy luận tương tự và được trình bày trong phần phán đoán bảng số Lạc Thư ở sau:
Ở đây ta có 9 Sử trong bảng Lạc Thư gốc là:
- Quẻ Ly : Sử Cảnh : Sáng sủa
- Quẻ Khảm : Sử Hưu : Hưu nhàn
- Quẻ Khôn : Sử Tử : Chết mất
- Quẻ Chấn : Sử Thương : Thương tổn
- Quẻ Tốn : Sử Đổ : Đóng lại
- Trung Cung: Được coi là 1 quẻ với 2 hào Âm Dương cân bằng nên có dạng thức sử dụng là TRUNG.
- Quẻ Càn : Sử Khai : Triển khai
- Quẻ Đoài : Sử Kinh : Lo sợ
- Quẻ Cấn : Sử Sinh : Sinh vượng
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
57
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Trở lại với cặp sao phù Thiên Anh và Thiên Tâm của 10 giờ Nghi Mậu, Thượng Nguyên Tiết Vũ Thủy. Vào giờ Ất Sửu tính toán ta phải tìm xem nó mang sử gì. Công việc này gọi là Tìm Trực Sử.
Trường Giáp là trường làm gốc của bảng Lạc Thư nên 9 cặp sao phù của 8 quẻ và 1 trung cung vào giờ Giáp là giờ thuộc trường không gian Giáp sẽ phải mang Sử gốc của chúng như bảng Sử vừa trình bày ở trên vì Không gian và Thời gian vốn là hợp nhất.
Ta có bảng Sử của 9 phù giờ Giáp là:
+Thiên Phụ
ĐỔ +Thiên Anh
CẢNH +Thiên Nhuế
Thiên Nhuế Thiên Tâm Thiên Phụ
+Thiên Xung
THƯƠNG +Thiên Cầm
TRUNG +Thiên Trụ
Thiên Xung Thiên Bồng Thiên Nhậm
+Thiên Nhậm
SINH +Thiên Bồng
HƯU +Thiên Tâm
Thiên Trụ Thiên Cầm Thiên AnhThôøi gian thì tính baèng Chi nhöng cöù 10 Chi
lieân tieáp thì gheùp vôùi 10 Can Khoâng gian cuõng lieân tieáp neân ta coù theå noùi: Theo Thôøi gian töøng giôø: Giaùp AÁt Bính Ñinh Maäu Kyû Canh Taân Nhaâm Quyù caùc caëp Sao Phuø seõ thay ñoåi daïng thöùc söû duïng theo quyõ ñaïo queû Thôøi gian nhö sau:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
58
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Sao khíGiờ
Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
+T. Anh
Cảnh Hưu Tử Thương Đổ Trung Khai Kinh Sinh Cảnh T. Tâm
+T. Bồng
Hưu Tử Thương Đổ Trung Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu T. Cầm
+T. Nhuế
Tử Thương Đổ Trung Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử T. Phụ
+T. Xung
Thương Đổ Trung Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử Thương T. Xung
+T. Phụ
Đổ Trung Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử Thương Đổ T. Nhuế
+T. Cầm
Trung Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử Thương Đổ Trung T. Bồng
+T. Tâm
Khai Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử Thương Đổ Trung Khai T. Anh
+T. Trụ
Kinh Sinh Cảnh Hưu Tử Thương Đổ Trung Khai KinhT.Nhậm
+T.Nhậm
Sinh Cảnh Hưu Tử Thương Đổ Trung Khai Kinh Sinh T. Trụ
Như vậy vào giờ Ất Sửu 9 cặp sao khí vừa tìm được tại địa bàn Lạc thư mang 9 Sử là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
59
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Thiên Cầm+Thiên Bồng Thiên Bồng+Thiên Cầm Thiên Xung+Thiên XungSử Khai Sử Tử Sử Đổ
TỐN LY KHÔN
Thiên Phụ+Thiên Nhuế Thiên Tâm+Thiên Anh Thiên Nhậm+Thiên TrụSử Trung Sử Kinh Sử Cảnh
CHAÁN TRUNG CUNG ÑOAØI
Thieân Anh+Thieân Taâm
Thieân Nhueá+Thieân Phuï
Thieân Truï+Thieân
NhaämSöû Höu Söû Thöông Söû Sinh
CAÁN KHAÛM CAØN
QUY LUAÄT TRUNG CUNG
Vôùi baûng Laïc Thö (ñòa baøn) vöøa tìm ñöôïc treân, ngöôøi xöa coøn tìm ra 1 qui luaät ñaëc bieät nöõa ñeå hoaøn chænh noù. Ñoù laø qui luaät Trung Cung nhö sau:
Trung Taâm baát kì Thaùi cöïc gì laø nôi thaønh toá caáu thaønh vaät ñoù, söï ñoù luoân luoân caân baèng hai maët AÂm Döông. Thaønh toá maát caân baèng hai maët AÂm Döông khoâng theå toàn taïi taïi trung taâm Thaùi cöïc aáy ñöôïc maø phaûi bò ñaåy ra ngoaøi ngay, coøn thaønh toá caân baèng luoân luoân chieám cöù trung taâm. Theá neân 9 caëp sao khí vöøa tìm ñöôïc trong baûng Laïc Thö, caëp sao khí Thieân Phuï + Thieân Nhueá mang Söû Trung seõ chuyeån vaøo Trung cung vì noù caân baèng 2 khí AÂm Döông, coøn caëp sao Thieân
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
60
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Taâm + Thieân Anh treân tính toaùn mang söû Kinh ñang ôû Trung cung seõ bò ñaåy ra ngoaøi cung Chaán theá choã cho caëp sao Thieân Phuï + Thieân Nhueá vöøa boû troáng, neân ta coù baûng Phuø – Söû môùi cho giôø AÁt Söûu, Nghi Maäu, Thöôïng nguyeân Tieát Vuõ Thuûy laø:
Thiên Cầm+Thiên Bồng Thiên Bồng+Thiên Cầm Thiên Xung+Thiên XungSử Khai Sử Tử Sử Đổ
Cung TỐN Cung LY Cung KHÔN
Thiên Tâmï+Thiên Anh Thiên Phụ+Thiên Nhuế Thiên Nhậm+Thiên TrụSử Kinh Sử Trung Sử Cảnh
Cung CHẤN TRUNG CUNG Cung ĐOÀI
Thiên Anh+Thiên Tâm Thiên Nhuế+Thiên Phụ Thiên Trụ+Thiên NhậmSử Hưu Sử Thương Sử Sinh
Cung CẤN Cung KHẢM Cung CÀN
Sao KhíGiờ
Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm QuýT.Anh
Cảnh Sinh Kinh Khai Trung Đổ Thương Tử Hưu CảnhT.TâmT.Bồng
Hưu Cảnh Sinh Kinh Khai Trung Đổ Thương Tử HưuT.CầmT.Nhuế
Tử Hưu Cảnh Sinh Kinh Khai Trung Đổ Thương TửT.Phụ
T.XungThương Tử Hưu Cảnh Sinh Kinh Khai Trung Đổ Thương
T.XungT.Phụ
Đổ Thương Tử Hưu Cảnh Sinh Kinh Khai Trung ĐổT.Nhuế
Chú ý: Khi tính Sử cho các giờ sau tiết Hạ Chí thuộc Âm độn thì ta phải tính theo bảng ngược lại với bảng sử dương độn như dưới đây:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
61
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
T.CầmTrung Đổ Thương Tử Hưu Cảnh Sinh Kinh Khai Trung
T.BồngT.Tâm
Khai Trung Đổ Thương Tử Hưu Cảnh Sinh Kinh KhaiT.AnhT.Trụ
Kinh Khai Trung Đổ Thương Tử Hưu Cảnh Sinh KinhT.NhậmT.Nhậm
Sinh Kinh Khai Trung Đổ Thương Tử Hưu Cảnh SinhT.Trụ
Vậy là ta có 8 Tướng đối ứng về lực cân bằng với 8 cặp sao khí xung quanh .Tám tướng này có thể nằm ở cung Ất Kỳ hoặc Bính Kỳ hoặc Đinh Kỳ tác dụng. Ta gọi Kỳ tác dụng đó là KỲ CHỦ của cung đó. Tùy thuộc vào Kỳ chủ mà tính chất của 8 tướng tại địa bàn cũng thay đổi đôi phần. Còn tại Trung cung cặp sao khí cân bằng Âm Dương tác động thì Hệ Mặt trời cũng kết hợp 3 kỳ cộng với năng lượng quả đất tạo ra 1 vị Vua Giáp cân bằng với nó. Để dễ nhớ khi Ất kỳ ở Trung cung thì gọi là vua Ất, Bính Kỳ thì gọi là Vua Bính, Đinh Kỳ thì Vua Đinh. Tính chất vua này cũng thay đổi như 8 tướng trên.
Ta có bảng số giờ Ất Sửu mang đủ Sao – Sử và Kỳ – Tướng là:Thiên Cầm+Thiên Bồng Thiên Bồng+Thiên Cầm Thiên Xung+Thiên Xung
SỬ KHAI SỬ TỬ SỬ ĐỔĐinh Kỳ: T Thái Âm Ất Kỳ: T Lục Hợp Bính Kỳ: T Câu Trận
Thiên Tâmï+Thiên Anh Thiên Phụ+Thiên Nhuế Thiên Nhậm+Thiên TrụSỬ KINH SỬ TRUNG SỬ CẢNH
Ất Kỳ: T Đằng Xà Bính Kỳ: vua Đinh Kỳ: T Chu Tước
Thiên Anh+Thiên Tâm Thiên Nhuế+Thiên Phụ Thiên Trụ+Thiên NhậmSỬ HƯU SỬ THƯƠNG SỬ SINH
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
67
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Bính Kỳ: T Trực Phù Đinh Kỳ: T Cửu Thiên Ất Kỳ: T Cửu Địa
Voøng taùm töôùng treân laø voøng töôùng Döông ñoän tính cho caùc giôø sau tieát Ñoâng Chí. Vì töông öùng vôùi quõy ñaïo cöûu cung cuûa Thôøi gian chaïy nghòch, sau Haï Chí ta cuõng coù voøng töôùng AÂm ñoän laø:
Thiên Anh+Thiên Tâm Thiên Nhuế+Thiên Phụ Thiên Trụ+Thiên NhậmSử Hưu Sử Thương Sử Sinh
Bính Kỳ:Trực Phù Đinh Kỳ: Cửu Thiên Ất Kỳ: Cửu ĐịaThiên lao - Ngọc đường Bạch hổ Thiên đức - Kim quỹThiên tào - Ngũ phù Thiên dược Địa dược - Thiên quan
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
77
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tử phù - Quan phù Thiếu âm Tang môn - Thiếu dươngCỬA ĐỔ CỬA THƯƠNG CỬA SINH
Khi Can giờ mang số 5 tức là cặp sao phù hạ xuống địa bàn Lạc Thư tại Trung Cung thì nó chẳng bao giờ mang Sử Trung cả nên nó sẽ bị đẩy ra 1 cung ngoài ngay, ta lấy cung ngoài này làm cung của Can giờ để chạy vòng cửa.
(Trong thuật số Lạc Thư cặp sao Trực Phù không bao giờ vừa ở Trung Cung lại vừa mang sử Trung cả. Chỉ ỡ bảng Lạc thư gốc không chuyển động thì cặp sao khí Thiên cầm + Thiên Bồng mới ở Trung cung và mang sử Trung mà thôi.Điều này là do nguyên lý thành lập bảng Lạc thư và bảng 6 Nghi 3 Kỳ đã dẫn đến hệ quả như thế)
Ví dụ: Cũng bảng 6 Nghi 3 Kỳ tính cho giờ Ất Sửu.
Mậu 9 Tân 3 Ất 8
Kỷ 1 Nhâm 4 Bính 7
Canh 2 Quý 5 Đinh 6
Nhưng nếu ta tính cho giờ Quý Dậu thì cặp sao phù: Thiên Anh sẽ hạ xuống 5 (Trung Cung). Tính Sử cho cặp sao Thiên Anh (+ Thiên Tâm) này thì chúng mang Sử Cảnh nên bị đẩy ra cung 1 để cặp sao Thiên Cầm + Thiên Bồng mang Sử Trung ở cung 1 nhảy vào Trung Cung.
Nên ta lấy Cửa Hưu của Can Quý (giờ Quý Dậu) tại cung 1 (cung Khảm) để chạy cửa như thường.
Một điều cần lưu ý là: Vòng 10 Can chạy theo vòng tròn Bát Quái Hậu Thiên mà không tùy thuộc vào Thời gian Cửu Cung (như 8 tướng) nên nó chỉ có 1 quỹ đạo thuận, không có vòng cửa nghịch tức là nó giống 3 vòng Sao Kỳ vừa nói ở trước.
Bây giờ thì Tám Cung Lạc Thư địa bàn là Tám Cửa. Mỗi cửa có 2 loại năng lượng tác động. Một của Vũ trụ Thiên Hà, một của Hệ mặt trời. Không hiểu hết Thuật số Lạc Thư người đời sau thấy rằng:
Đứng ở Trung Cung thì chúng ta đang bị vây bọc bởi chúng một cách
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
78
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
chặt chẽ như sắt thép, nên các nhà ngũ hành quen tư tưởng chiến đấu đã gọi bảng số Lạc Thư địa bàn là Trận đồ Bát Môn Kim Tỏa và vận dụng
nó vào sự sắp xếp quân đội trong trận chiến để dồn quân địch vào những vùng mang năng lượng (sao khí) xấu hầu dành lấy chiến thắng
cuối cùng. Vì theo họ quy luật “khí” toàn cục và tiểu cục là không có gì sai khác. Vận dụng Thuật số Lạc Thư tính cho năm (kể năm) họ tính
toán từng vùng thuộc các nước xung quanh để phát động các cuộc chiến tranh xâm lược đúng lúc mang khí lực xấu nhất. Nhưng gậy ông sẽ đập lưng ông nếu các nước xung quanh nắm được thuật số này nên họ đã dấu biệt đi và đưa nó vào 1 trong “Tam đại mật thuật”, 1 trong 3 bộ
Thiên thư phải bất khả lậu ra ngoài. Họ đổi tên thuật số Lạc Thư thành Kỳ Môn Độn Giáp (giáp độn cửa bên kỳ) để dành tác quyền mình… và
còn nhiều nữa…v..v…
CHÚ Ý QUAN TRỌNGBảng Lạc Thư cửu cung là bảng hợp nhất Không gian và Thời
gian về quẻ và số, nhưng điều này hoàn toàn không chi phối gì 9 cặp sao khí phát ra từ Tâmï, dù Hệ mặt trời quay xung quanh Tâm ở vị trí nào và ở Thời gian nào thì Tâm thiên hà vẫn liên tục phát ra cặp khí Âm Dương của nó (mà ta đã chia làm 9 loại sao khí). Thế nên ta chỉ có thể vận dụng nguyên lý Không – Thời gian kết hợp để tính dạng thức sử dụng của nó (Sử) và định vị trường Không gian của nó (Cửa) mà thôi. Do đó mà Sử và Cửa của 1 cặp sao khí nào đó từng giờ Can – Chi sẽ có thể khác nhau (hoặc trùng nhau) là điều bình thường.
Ví dụ: Vào giờ Giáp Tý của bảng 6 Nghi – 3 Kỳ ở trên cặp sao khí Thiên Anh + Thiên Tâm mang Sử Cảnh nhưng lại thuộc trường Giáp nên tại địa bàn nó mang cửa Thương. Giờ Ất Sửu mang Sử Hưu nhưng lại thuộc cửa Đổ của Không gian Ất. Tới giờ Bính Dần hay Đinh Mão thì nó mới thuộc cửa Cảnh được, nhưng lúc này Sử của nó đã là Tử và Thương rồi vậy. Khi phán đoán cho địa bàn Lạc Thư ta sẽ tìm mối quan hệ Bát Biến của Thời gian và Không gian cho từng cặp sao khí ở mỗi cung sau. Cũng vì trên mà thuật số Lạc Thư luôn luôn lấy thời gian đủ 10 Can để tính cho một cặp sao Khí vì trong Thời gian này cặp sao khí mới chuyển biến đủ 9 Sử theo Thời gian Cửu Cung và định vị đủ ở 10 Trường Bát Quái Hậu Thiên. Nói chung là trọn vẹn cho cả 2 quỹ đạo bảng Lạc Thư.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
79
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
B. PHẦN CỬA
1. QUẺ VÀ SỐ CỦA PHẦN CỬA:
Mỗi Cung địa bàn bây giờ là 1 Cửa (1 quẻ Không gian của 1 Thời gian nào đấy) chiếm 1 góc 450 với Tâm là Trung tâm của Trung Cung(Vì bảng Lạc Thư vốn là hình tròn). Nhưng bán kính càng lớn thì cung 450 của mỗi cửa càng rộng, nên để tính toán chi tiết hơn cho địa bàn, người xưa đã chia mỗi cửa làm 8 Phần, mỗi Phần Cửa chiếm 1 quẻ kép riêng dù 8 phần đều mang chung 1 tập hợp năng lượng như nhau bằng cách sau:
Như đã trình bày ở trước thì: Một Thái Cực có thể chia thành 8 quẻ đơn, mà cũng có thể chia thành 64 quẻ kép hoặc 512 quẻ ba hoặc 4096 quẻ bốn…. Khi coi một Thái cực gồm 64 quẻ kép thì vì cùng xếp theo thứ tự: “Nhị phân” như 8 quẻ đơn Tiên Thiên nên ta có 8 loại quẻ kép là: “Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn” đặt trên Càn, đặt trên Đoài, đặt trên Ly, đặt trên Chấn, đặt trên Tốn, đặt trên Khảm, đặt trên Cấn, đặt trên Khôn. Do vậy, khi chia một quẻ đơn Hậu Thiên ở bảng Thái Cực Lạc Thư áp dụng cho Không gian trong 1 giờ gọi là Cửa làm 8 Phần Cửa để hợp nhất với Thời gian một Khắc (1 Khắc = 1/8 giờ) thì người xưa không thể thay đổi thứ tự các quẻ kép được mà chỉ xếp cho phù hợp với vòng tròn Thái cực Hậu Thiên như là:
Ví dụ: Cửa Đổ giờ Ất Sửu sẽ có 8 Phần Cửa theo vòng tròn Bát Quái Hậu Thiên là:
Phần Cửa 1: quẻ Càn trên Tốn.
2: quẻ Đoài trên Tốn.
3: quẻ Ly trên Tốn.
4: quẻ Chấn trên Tốn.
5: quẻ Tốn trên Tốn.
6: quẻ Khảm trên Tốn.
7: quẻ Cấn trên Tốn.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
80
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
8: quẻ Khôn trên Tốn.
Các Cửa còn lại cũng thành lập 8 quẻ kép tương tự và cũng xếp tương tự
Vì Cửa và Phần Cửa là phần địa bàn chịu tập hợp năng lượng bên ngoài tác dụng thì rất quan trọng trong bảng số Lạc Thư nên chúng ta tạm mượn từ Hán để đặt tên cho Phần Cửa.
Ta có 8 Phần Cửa của cửa Đổ là:
1. Cấu (là tên gọi của quẻ kép: Càn trên Tốn)
2. Đại quá (là tên gọi của quẻ kép: Đoài trên Tốn)
3. Đỉnh (là tên gọi của quẻ kép: Ly trên Tốn)
4. Hằng (là tên gọi của quẻ kép: Chấn trên Tốn)
5. (Thuần) Tốn (là tên gọi của quẻ kép: Tốn trên Tốn)
6. Tỉnh (là tên gọi của quẻ kép: Khảm trên Tốn)
7. Cổ (là tên gọi của quẻ kép: Cấn trên Tốn)
8. Thăng (là tên gọi của quẻ kép: Khôn trên Tốn)
Tương tự ta điền tên các Phần Cửa của 7 Cửa còn lại một cách dễ dàng.
Cửa Đổ thuộc quẻ Tốn vốn mang 2 số 4 và 2 đang ở địa bàn tại Cung 8 nên số 4 thì Xung với số 8 (chỉ lấy số dương). Thế nên ta cũng cần phải tìm số của 8 Phần Cửa để tính toán sự Xung hay Hạp với số của địa bàn bằng cách sau:
HÀØ ĐỒ: BẢNG QUẺ SỐ CỦA KHÔNG GIAN (10 TRƯỜNG)
Mười trường Không gian mang 10 số chỉ thị là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 (trong đó 8 Cửa đã chiếm 8 số là 1, 2, 3, 4 và 6, 7, 8, 9 còn dư 2 số là 5 và 10). Khi ta đọc chúng theo qũy đạo Không gian Bát quái Hậu
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
81
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
thiên giống như Cửa thì 2 số 5 và 10 là Tâm của 2 dãy số 1, 2, 3, 4 và 6, 7, 8, 9 của 8 Cửa như hình dưới đây:
Ghép lần lượt các số của 3 phần: phần Âm, phần Dương và Trung tâm để hình thành các quẻ số theo 6 cách:
1. Phần Âm trước, phần Dương giữa, Trung tâm sau chót.
2. Phần Dương trước, phần Âm giữa, Trung tâm sau chót.
3. Phần Trung tâm trước, phần Âm giữa, phần Dương sau chót.
4. Phần Trung tâm trước, phần Dương giữa, phần Âm sau chót.
5. Phần Âm trước, Trung tâm giữa, phần Dương sau chót.
6. Phần Dương trước, Trung tâm giữa, phần Âm sau chót.
Mỗi cách ghép đều cho ta 1 bảng số với 32 quẻ số cả.
Ví dụ: Ghép theo cách thứ tự 4 ta được 32 quẻ số là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
Mỗi cách ghép thành bảng số như trên, người xưa đều vẽ thành 1 bảng 3 vòng tròn số để dễ ghi nhớ được người đời sau gọi là Hà Đồ có nghĩa bản đồ gương sen vì cách ghi số ở thời kỳ này chỉ dùng các chấm đen trắng làm cho bảng số trông giống như mặt gương sen lốm đốùm (Hà có nghĩa là Sen như Hà Nguyệt là tháng Sen, tháng 6 của người xưa).
Bảng đồ số cách ghép thứ 4 được vẽ theo thứ tự:
- Vòng 1 là 2 số 5 dương - Trục dọc và 10 âm - Trục ngang.
- Vòng 2 là 4 số 1, 2 dương - Trục dọc và 3,4 âm - Trục ngang.
- Vòng 3 là 4 số 6, 7 dương - Trục dọc và 8,9 âm - Trục ngang.
Ta có bảng Hà Đồ là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
83
7
2
5-10
1
6
8 3 4 9
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Quay 3 vòng tròn sao cho 3 số của 3 vòng thẳng hàng ta sẽ có được 32 quẻ số nói trên.
Năm cách ghép quẻ số còn lại khi vẽ thành bảng Hà Đồ ta chỉ cần thay đổi thứ tự 3 vòng tròn là xong. Chúng cũng cho ta 32 quẻ số như trên mà thôi.
Nhưng vì cách lập quẻ của người xưa, thì theo thứ tự là:
Hào Hạ là phần Trung tâm (cục Trung tâm)
Hào Trung là phần Dương (cục Dương)
Hào Thượng là phần Âm (cục Âm)
Trong mỗi phần (Cục) thì hào Dương trước, hào Âm sau, nên cách ghép thứ 4 được coi là bảng Hà Đồ chính thức được lưu truyền tới ngày nay.
Như vậy 10 trường Không gian luôn cho ta 4 quẻ Càn, 4 quẻ Khảm, 4 quẻ Cấn, 4 quẻ Chấn, 4 quẻ Tốn, 4 quẻ Ly, 4 quẻ Khôn, 4 quẻ Đoài về số.
Vì 4 quẻ Tốn về số của cửa Đổ là 10.1.7, 10.1.9, 10.3.7, 10.3.9 mỗi quẻ đều chứa 2 số phần Dương và phần Âm tương ứng với 2 Phần Cửa (cũng như 2 quẻ của 2 Phần Cửa) một Dương một Âm nên số của Phần Cửa là:
1. Cấu số 1
2. Đại quá số 7
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
84
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
3. Đỉnh số 1
4. Hằng số 9
5. Tốn số 3
6. Tỉnh số 7
7. Cổ số 3
8. Thăng số 9
Từ các số của các Phần Cửa trên ta sẽ xét chúng Xung hay Hạp với cung số 8 của địa bàn để sự phán đoán bảng số thì cụ thể hơn… còn số tâm là số 10 (hoặc 5) thì cũng xét với số 5 của Trung cung địa bàn để biết sự xung hay hạp ở trên là mạnh lên hay yếu đi mà thôi.
Trong trường hợp này 8 Phần Cửa đều mang số Dương nên hạp với số 8 địa bàn và sẽ rất hạp vì số tâm 10 cũng hạp với số 5 ở Trung cung.
Đến đây chúng ta đã hoàn tất bảng số Lạc thư chuẩn bị đi vào phần phán đoán bảng số, nhưng sẽ còn 1 thắc mắc lớn là: Tại sao trong bảng số thì phần tính toán bên vũ trụ thiên hà các sao khí lại có Trực sử còn các sao khí bên hệ mặt trời thì không ? Câu hỏi này tác giả xin để các bạn tự trả lời lấy để làm món quà cho vui vậy !
5. Tuaát: Gioáng nhö Chi Ngoï hoaøn toaøn nhöng naèm ôû cuoái phaàn AÂm neân toát keùm hôn sao Thanh Long ñoâi chuùt (vì AÂm cöïc chuyeån qua Döông). Ta ñöôïc sao Kim Quyõ.
6. Hôïi: Gioáng hoaøn toaøn Chi Muøi, nhöng vì naèm ôû cuoái phaàn AÂm neân toát keùm hôn sao Minh Ñöôøng chuùt ít. Ta ñöôïc sao Thieân Ñöùc.
Töø Chi Ngoï tôùi Chi Hôïi, ta ñaõ ñöôïc 6 Sao khí. Töø tính AÂm – Döông ñoái ngöôïc cuûa 12 Chi ta seõ suy ra 6 Sao khí coøn laïi. Qua baûng tính AÂm – Döông
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
104
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
toång hôïp cuûa 12 Chi ta coù caùc caëp chi ñoái nghòch laø:
Tyù ≠ Hợi Sửu ≠ Tuất
Dần ≠ Dậu Mão ≠ Thân
Thìn ≠ Mùi Tỵ ≠ Ngọ
Ta suy ra 6 Sao khí của 6 Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ là:
7. Tý: Bạch Hổ ≠ Thiên Đức của Hợi
8. Sửu: Ngọc Đường ≠ Kim Quỷ của Tuất
(Sao này là 1 sao xấu nên có thể tên gốc của nó là: Ngục Đường)
9. Dần: Thiên Lao ≠ Chu Tước của Dậu
10. Mão: Nguyên Vũ ≠ Thiên Hình của Thân.
11. Thìn: Tư Mệnh ≠ Minh Đường của Mùi.
12. Tỵ: Câu Trận ≠ Thanh Long của Ngọ.
Trong 6 Chi này thì có 2 Chi Tý và Thìn đều Thuần Dương, chống lại năng lượng của Thái Dương Ất. Trong hai sự chống đẩy này thì người xưa lại chia làm 2 trường hợp: một thắng, một thua, mà thắng thì vẫn tốt. Thế nên ta lại có:
- Năng lực thuần Dương Chi Tý thua năng lượng Thái Dương Ất nên sao Bạch Hổ là xấu.
- Ngược lại, năng lực Thuần Dương chi Thìn thắng năng lượng Thái Dương Ất nên sao Tư Mệnh là tốt.
*Vòng Bính Kỳ: Thiếu Dương là Bính, Thiếu Âm là Giáp nên tiêu chuẩn xét đoán tốt xấu giống như vòng Ất. Thái Dương Ất khởi ở
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
105
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Ngọ (Trục Tý Ngọ) nên Thiếu Dương Bính khởi ở Dậu (Trục Mão Dậu) ta có:
1.Dậu: 2 âm trong đó có chi âm kết hợp tốt với thiếu Dương cho ta một sao khí tốt là Ngũ Phù.
2.Tuất: 2 âm kết hợp tốt nhưng vì là chi Dương nên ta được sao Thiên Tào trung bình yếu.
3.Hợi: chi này thuần Âm kết hợp rất tốt cho ta sao Địa Phù.
4.Tí: chi nay thuần Dương chống trái với Thiếu Dương thua cuộc cho ta một sao xấu là Phong Bá.
5.Sửu: chỉ có 1 chi âm nên kết hợp không tốt lắm ta được sao Lôi Công trung bình.
6.Dần: chỉ có 1 âm là cặp Âm nên cho ta sao khá xấu là Vũ Sư.
7.Mão: hai âm trong đó có 1 chi Âm nên cho ta một sao tốt là Phong Vân.
8.Thìn: chi này thuần Dương chống trái với Thiếu Dương thắng cuộc cho ta một sao tốt là Đường Phù.
9.Tỵ: chỉ có 1 âm là chi Âm nên kết hợp không tốt lắm cho ta một sao trung bình là Quốc Ấn.
10.Ngọ: 2 âm kết hợp tốt nhưng là chi Dương nên cho ta một sao trung bình yếu là Thiên Quan.
11.Mùi: chi này thuần Âm nên kết hợp rất tốt cho ta một sao tốt là Địa Dược.
12.Thân: chi này chỉ có một phần Âm nên cho ta một sao xấu là Thiên Dược (có lẽ là Thiên Tặc).
* Vòng Đinh Kỳ: Thái Âm là Đinh, Thiếu Âm là Giáp, hai Âm đẩy nhau nên tiêu chuẩn xét đoán tốt xấu là căn cứ vào sự đẩy lùi năng
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
106
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
lượng Đinh Kỳ là chính: Năng lực của quả đất càng đẩy lùi năng lượng của Đinh Kỳ thì càng tốt. Ngược lại càng kết hợp thì càng xấu. Vòng này khởi hành ngược lại với vòng Ất tức là từ Chi Tý, ta lần lượt có các sao khí sau:
1. Tý: Chi này thuần Dương hoàn toàn, kết hợp với Đinh Kỳ, chẳng có một lực đẩy lùi nào cả cho ta một sao xấu là Thái Tuế.
2. Sửu: Có một lực đẩy lùi của bản thân Chi Âm, nhưng ở cặp Dương và phần Dương nên lực đẩy lùi không mạnh lắm cho ta một sao dưới trung bình là Thiếu Dương.
3. Dần: Bản thân là Chi Dương, tuy ở cặp Âm nhưng cũng lại thuộc phần Dương nên kết hợp khá mạnh với Thái Âm (Đinh Kỳ) cho ta một sao khá xấu là Tang Môn.
4. Mão: Chi này 2 Âm chính, 1 Dương phụ là phần Dương nên lực đẩy lùi khá tốt cho ta một sao khá tốt là Thiếu Âm.
5. Thìn: Chi này thuần Dương giống như chi Tý cho ta một sao xấu là Quan Phù.
6. Tỵ: Giống như Chi Sửu cho ta 1 sao trung bình yếu là Tử Phù.
Đến đây, đối chiếu tính Âm Dương tổng hợp của 12 Chi ta có thêm 6 sao khí tiếp theo là:
7. Ngọ: Tuế Phá ≠ Tử Phù của Tỵ. Sao này xung phá lại với Thái Tuế ngang ngửa nên không phải là một sao xấu.
8. Mùi: Long Đức ≠ Quan Phù của Thìn.
9. Thân: Bạch Hổ ≠ Thiếu Âm của Mão.
10. Dậu: Phúc Đức ≠ Tang Môn của Dần.
11. Tuất: Điếu Khách ≠ Thiếu Dương của Sửu.
12. Hợi: Bệnh Phù ≠ Thái Tuế của Tý.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
107
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tương tự như vòng Ất Kỳ, trong 6 Chi này có 2 Chi Thuần Âm chống trái với năng lượng Thái Âm Đinh là Mùi và Hợi, một thắng một thua.
- Năng lực Thuần Âm Chi Mùi thắng năng lượng Thái Âm Đinh cho ta một sao tốt là Long Đức.
- Ngược lại năng lực Chi Hợi thì thua cho ta một sao xấu là Bệnh Phù.
Cần chú ý là đối với Ất Kỳ và Bính Kỳ thì đầu (Tý) thua, đuôi (Thìn) thắng. Còn đối với Đinh Kỳ thì ngược lại đầu (Mùi) thắng, đuôi (Hợi) thua.
Sau khi điểm qua cách phán đoán 36 sao khí trên đây ta nhận thấy phương pháp trên chỉ cho ta biết một cách tổng quát tính chất về LÝ của chúng mà không thể biết được cụ thể chúng tốt xấu như thế nào đối với sinh giới về mặt này, mặt nọ… Để đạt được điều này thì cần phải có 2 yếu tố là:
- Thực tế kinh nghiệm của sinh giới mà nhất là con người sống ở địa bàn Giáp để đối chiếu.
- Địa hình sông – núi tại từng vùng thuộc địa bàn Giáp, vì một sao khí với tính chất chung nào đó khi tác dụng xuống các vùng địa hình khác nhau sẽ gây nên những trạng thái khí hậu khác nhau và rồi sẽ ảnh hưởng đến sinh giới và cuộc sống của sinh giới cũng khác nhau.
Thế nên để có thể có một hình tượng chung nhất của từng sao khí người xưa đã làm như sau:
1. Sinh vật hóa 12 Chi thành 12 loại thú là:
Tý: con chuột; Sửu: con trâu; Dần: con cọp
Mão: con mèo; Thìn: con long (con vật tưởng tượng đại diện cho đường xích đạo nóng nực ở phương nam làm nước bốc hơi tạo nên mưa nắng nên từ Hán Việt của các sử gia đời sau : Lạc Long Quân có nghĩa là
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
108
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
vua cai trị vùng đất từ sông Lạc cho đến đường xích đạo)
Tỵ: con rắn; Ngọ: con ngựa; Mùi: con dê
Thân: con khỉ; Dậu: con gà; Tuất: con chó
Hợi: con heo.
2. Quy chuẩn hóa 3 loại năng lượng Ất, Bính, Đinh:
- Năng lượng Ất được qui là năng lượng mặt trời vào một ngày nắng nhất trong tiết Hạ Chí, lúc giờ Ngọ trong điều kiện địa hình trung bình không có gì đặc biệt.
- Năng lượng Bính được quy là năng lượng mặt trăng vào ngày rằm thuộc 2 tiết Thu Phân và Hàn Lộ, lúc giờ Dậu cũng trong điều kiện bình thường.
- Năng lượng Đinh được quy là năng lượng các hành tinh… vào đêm tối nhất trong tiết Đông Chí lúc giờ Tý cũng trong điều kiện bình thường.
* Vào những giờ này từng loại năng lượng tác dụng lên “sinh vật Chi” ở trước gây nên hậu quả gì thì đó chính là tính chất cụ thể của sao khí đó.
Ví dụ như năng lượng Ất Kỳ vào giờ Ngọ đã nói tác dụng lên chuột sẽ làm chuột mất sức khỏe, mệt mỏi tức là năng lượng Ất Kỳ ở Chi Tý cho ta sao Bạch Hổ ở trước. Nhưng nếu tác dụng lên ngựa thì làm cho ngựa hưng phấn ít nhiều tức là năng lượng Ất Kỳ ở Chi Ngọ cho ta sao Thanh Long ở trước.
Còn như năng lượng Đinh Kỳ được qui chuẩn là năng lượng đêm tối nhất trong tiết Đông Chí vào lúc giờ Tý. Năng lượng lúc này tác dụng lên chuột sẽ làm cho chúng “hấp thu” tốt gây nên tình trạng hoạt động cắn phá lung tung tức là năng lượng Đinh Kỳ ở Chi Tý cho ta sao Thái Tuế ở trước.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
109
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Nhưng nếu tác dụng lên gà thì lại làm chúng ngủ tốt, tăng sức khỏe tức là năng lượng Đinh Kỳ ở Chi Dậu cho ta sao Phúc Đức ở trước.
Cứ như thế ta có thể suy ra tính chất cụ thể (một cách hình tượng) của 36 sao khí dễ dàng hơn, nhưng đồng thời phải phối hợp với tính chất lý thuyết căn bản ở trước để sự phán đoán mang độ chuẩn xác cao.
Còn về vấn đề các sao khí này gây nên hậu quả khí hậu như thế nào ở từng vùng địa bàn Lạc Thư thì ngoài tính chất lý thuyết như trước ra, ta còn phải xét đến yếu tố địa hình vùng chúng tác động. Thời gian đã quá lâu xa, giờ đây khí hậu quả đất bị quá nhiều yếu tố làm thay đổi… nên muốn xét đoán chính xác thì chúng ta phải nghiên cứu thống kê lại từ đầu cho từng vùng thì mới có thể rút ra tính chất cụ thể được.
Sau hết là phán đoán về nhân sự (công việc con người thực hiện) thì cũng như ở phần 9 sao khí của Vũ trụ thiên hàï, người đời sau đã đưa ra nhiều loại Tượng cho từng sao khí. Các bạn có thể tham khảo ở các sách Kỳ Môn khác tùy thích, rồi đúc rút kinh nghiệm phán đoán của mình về từng loại công việc để xác định tính chất các sao về những mặt này ngày càng chính xác hơn, bởi vì đa phần các Tượng nói trên đều mang tên theo quan điểm ngũ hành hoặc cơ cấu chính trị phong kiến cả.
Một điều quan trọng nữa khi phán đoán cho từng cung là: Mỗi cung luôn có một Kỳ chủ hoặc Ất, hoặc Bính, hoặc Đinh nên gặp Kỳ nào làm chủ thì ta lấy sao khí thuộc vòng Kỳ đó làm chính, còn các sao khí thuộc 2 vòng Kỳ kia thì ở mức độ phụ. Ví dụ cũ giờ Ất Sửu: Khi phán đoán cho cung 8 Cấn thì vì Kỳ Bính làm Kỳ chủ nên ta lấy cặp sao Ngũ Phù và Thiên Tào làm chính, còn cặp sao Ngọc Đường, Thiên Lao của Kỳ Ất và Quan Phù, Tử Phù của Kỳ Đinh thì là phụ.
Đến đây thì một thắc mắc lại được đặt ra là: Đối với 4 cung 4 góc Cấn, Tốn, Khôn, Càn mỗi cung luôn luôn có 2 sao khí của mỗi vòng Kỳ thì sao? Phán đoán thế nào?
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
110
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Điều này được giải thích là do các cặp Chi của chúng (Sửu – Dần, Thìn – Tỵ, Mùi – Thân, Tuất - Hợi) vốn không chính hướng nên tại từng cung thì nửa giờ đầu sẽ chịu tác động của sao khí trước và nửa giờ sao thì chịu tác động của sao khí sau. Do vậy, về Không gian tương ứng ta có nửa giờ đầu thì sao khí trước tác động lên nửa cung (2205), nửa giờ sau thì sao khí sau tác động lên nửa cung còn lại theo chiều thuận Bát Quái Hậu Thiên đã biết ở Phần Cửa ở trước.
Đối với từng Phần Cửa thì vì 36 Sao Khí của Hệ mặt trời tác dụng trực tiếp xuống địa bàn, nên theo thứ tự Thời gian 8 Khắc trong 1 giờ, mỗi sao khí sẽ mạnh dần lên từ khắc 1 đến khắc 4 và yếu dần đi từ khắc 5 đến khắc 8 chứ không như 9 cặp sao khí của vũ trụ.
Tám tướng của Hệ này thì cũng tương tự như thế.
PHỤ LUẬN THÊMMỗi cung của địa bàn Lạc Thư có thể gặp 36 sao khí của Hệ mặt
trời. Người thông suốt cả 36 trường hợp gọi là người có 36 phép Địa Chi. Mỗi cung cũng có gặp 8 Cửa với 9 cặp Sao khí của Vũ trụ thiên hà. Người thông suốt cả 72 trường hợp thì gọi là người có 72 phép Thiên Can. Còn người thông suốt cả 108 trường hợp thì gọi là Tướng. Điều này xuất phát ở thời người Tây Bắc gọi nước của cộng đồng các dân tộc Bách Việt là øxứ VĂN (trái với nước VŨ của họ) thì người chịu trách nhiệm 108 trường hợp của 1 cung, hướng dẫn dân Lạc biết thời tiết, thời khí vận dụng vào cuộc sống hằng ngày, hằng tiết, hằng năm thì được gọi là Hầu, người vận dụng vào quân sự để chống giặc thì gọi là Tướng. Còn người thông suốt cả 8 cung (108 x 8 = 864 trường hợp) thì gọi là Quân ở tại Trung cung trông coi Lạc Hầu, Lạc Tướng (từ Hán việt), chăn dắt muôn dân. Thế nên, Vua Lạc Việt có tên là Lạc Long Quân và chia nước làm 15 bộ (con số của Lạc Thư) thì mỗi bộ có Lạc Hầu và Lạc Tướng trông coi là vậy. Thời Bắc thuộc, hễ ai là người còn biết Thuật số Lạc Thư thì sẽ bị tiêu diệt ngay để giữ độc quyền. Các Lạc tướng Chu Diên, Mê Linh thời Hai Bà Trưng là những bằng chứng về chủ trương này vậyï.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
111
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
2. Phán đoán 8 Tướng 1 Vua:Như đã trình bày ở trước: Tướng và Vua là những Lực tác động
của 3 Kỳ hợp nhất cân bằng với các cặp sao khí bên vũ trụ, nên chúng vừa tùy thuộc vào cặp sao khí nào bên vũ trụ thiên hà lại vừa tùy thuộc vào Kỳ nào làm chủ bên Hệ mặt trời và cũng còn liên hệ với các sao khí của 3 Kỳ trong Hệ mặt trời nữa. Do đó khi thể hiện vào địa bàn Lạc Thư thì rất khó cho chúng ta về cách thức phán đoán chúng. Tuy thế, nhưng căn cứ vào Vòng 8 Tướng, mà khởi đầu là Tướng Trực Phù luôn luôn hạ xuống địa bàn theo Can giờ (vì sao Trực Phù hạ xuống địa bàn theo Can giờ, nên tướng Trực Phù ứng phó theo) rồi theo vòng tròn Bát Quái Hậu Thiên của 10 Can để xếp 7 Tướng tiếp theo, ta suy ra rằng: Dù 8 Tướng là của 3 Kỳ hợp nhất để đối ứng cân bằng với các cặp sao khí nhưng tính chất của chúng là giống với tính chất 10 Trường Không gian vì Không gian Can và Thời gian Chi là 1 cặp Âm Dương hợp nhất và Hệ mặt trời với bên vũ trụ cũng là 1 cặp Âm Dương hợp nhất trong đó 8 Tướng của Hệ mặt trời thì chạy theo vòng tròn Bát Quái Hậu Thiên của 10 Can để đối ứng với 9 cặp sao khí bên vũ trụ chạy theo quỹ đạo cửu cung của 10 Chi. Do vậy, ta có tính chất tổng quát của 8 Tướng là:
1. Tướng Trực Phù: Giống tính chất tổng quát của trường Ất vì là điểm mấu chốt khởi đầu sự đối ứng với sao khí bên Vũ tru ï(Trường Aât đứng đầu bên Nghi). Tính chất chung nhất là sáng sủa, quang minh. Can Ất vốn thuộc Âm nhưng vì Can Giáp làm Vua nên người xưa đã coi nó là Dương đúng như tính chất thực tế của nó (người đời sau thì nói: Vì Giáp độn nên Ất trở thành Thái Ất).
2. Tướng Đằng Xà: Giống tính chất tổng quát của Trường Bính (mặt trăng) là hư ảo, mông lung.
3. Tướng Thái Âm: Giống tính chất tổng quát của Trường Đinh là âm nhu, bền bĩ.
4. Tướng Lục Hợp: Giống tính chất tổng quát của 2 Trường Mậu và Kỷ hợp nhất ( Hệ Bắc cực) nên là hợp cả các bên.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
112
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
5. Tướng Câu Trận và Bạch Hổ: Hai Tướng này đều giống tính chất tổng quát của Trường Canh là bao vây, sát phạt. Câu Trận thì bao vây, Bạch Hổ thì thương sát.
6. Tướng Chu Tước và Huyền Vũ: Giống tính chất tổng quát của Trường Tân: khi thì ấm áp, khi thì lạnh lẽo.
7. Tướng Cửu Địa: Giống tính chất tổng quát của Trường Nhâm là tối tăm, âm u như chín tầng đất sâu.
8. Tướng Cửu Thiên: Giống tính chất tổng quát của Trường Quý là mênh mông, thênh thang như 9 tầng trời cao.
Sau hết là vị Vua ở Trung cung đối ứng cân bằng với cặp sao khí mang Sử Trung. Tính chất của vị Vua này là giống tính chất tổng quát của Trường Giáp (Quả đất) chúng ta: sống động cân bằng.
Chung nhất là như thế, nhưng khi bảng số chuyển động thì một Tướng có thể gặp bất cứ Can nào (tức là Cửa nào) tại địa bàn, nên người xưa đã chia các tướng ra làm 3 loại theo tính chất của chúng là:
- Riêng Tướng Lục Hợp thì Trung bình vì là giống tính chất tổng quát của 2 Trường Mậu – Kỷ hợp nhất.
Vì vòng 10 Can thay đổi nên khi 1 Tướng hạ xuống địa bàn tại một Can Dương hay Âm thì tính chất thể hiện sẽ thay đổi. Tướng Dương ở Can Dương la đúng vị trí nên sẽ hoạt động tốt đẹp còn ở Can Âm thì hoạt động sẽ khó khăn hơn. Tướng Âm thì cũng thế. Riêng Tướng Lục Hợp thì gặp Can nào cũng hoạt động trung bình.
Ví dụ cũ giờ Ất Sửu tại cung 8 Cấn ta có Tướng Dương là Trực Phù (Thiên Ất) gặp Can Ất (Cửa Đổ) nên không gian tại vùng này sơ bộ là sáng sủa quang minh. Còn tại cung 3 Chấn tiếp theo ta có Tướng
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
113
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Dương là Đằng Xà gặp 2 Can là Bính và Đinh (Cửa Cảnh) thì nửa giờ đầu gặp Can Bính tướng này hoạt động tốt cho ta không gian sơ bộ là dịu dịu mông lung, nửa giờ sau gặp Can Đinh (Can Âm) thì hiện trạng này sẽ giảm đi để chuẩn bị cho Tướng mới và Can mới (Cửa mới) của giờ sau.
Cũng vì cách phán đoán như trên nên người đời sau đúc rút kinh nghiệm soạn ra hẳn một công thức là “BÁT TƯỚNG HỘI BÁT MÔN” vì Can tạo ra Môn như đã biết ở trước. Thế là ta có sẵn 64 trường hợp để phán đoán cho 8 Tướng. Các bạn có thể tham khảo ở các sách Kỳ Môn khác để biết thế nào!
Tại mỗi cung địa bàn ta còn có một Kỳ Chủ: hoặc Ất, hoặc Bính, hoặc Đinh mà 8 Tướng vốn là của 3 Kỳ tạo nên, nên khi xét đoán ta phải xem coi Tướng ở Can đó (Cửa đó) đang thuộc vào kỳ chủ nào vì 1 Tướng Dương thuộc Kỳ chủ Dương như Ất hoặc Bính thì sức mạnh tác dụng xuống địa bàn sẽ mạnh lên (dĩ nhiên Ất làm tăng lực hơn Bính), còn ngược lại gặp Kỳ chủ là Đinh thì sẽ giảm lực đi ít nhiều. Một Tướng Âm thì cũng suy đoán tương tự.
Ở trường hợp cung 8 trên, tướng Dương Trực Phù thuộc Kỳ chủ là Bính thì ta có thể nói lực hoạt động tuy mạnh nhưng chưa tối đa được, tức là Không gian cung này cũng chưa được thật trong sáng lắm.
Còn về vị Vua ở Trung cung thì hễ Kỳ nào làm Vua thì ảnh hưởng của Kỳ đó ở các cung cùng Kỳ là trọn vẹn, ở các cung khác Kỳ thì không trọn vẹn lắm, như trong bảng số trên thì Bính Kỳ làm Vua nên Kỳ chủ Bính ở cung 8 Cấn là có tác dụng trọn vẹn lên Tướng Trực Phù đang được phán đoán ở đây.
Cuối cùng ta còn phải xét mỗi Tướng phối hợp với loại sao khí vòng nào trong 3 vòng Ất, Bính, Đinh để biết tính chất tổng hợp về khí hậu của Tướng đó tạo ra ở từng cung địa bàn. Trong trường hợp cung 8 trên thì cặp sao khí chính là Ngũ Phù và Thiên Tào của Kỳ chủ Bính thì tương đối tốt nên chắc là khí hậu ở vùng này phải tương đối trong sáng,
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
114
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
dù 2 cặp sao của vòng Ất và vòng Đinh thì đang xấu nhưng ảnh hưởng không đáng kể vì chúng không trực thuộc Kỳ chủ Bính của cung này.
Như đã nói ở trước nếu xét kĩ lưỡng hơn ta cũng phải xét thêm cặp sao khí bên Vũ trụ Thiên Hà mà mỗi Tướng đối ứng nữa. Nhưng như thế là quá chi tiết, ta nên xét thêm yếu tố địa hình sông núi ở vùng cung đó đại diện là cần thiết hơn vì rõ ràng nó là yếu tố phối hợp rất lớn với yếu tố Thiên thời của thuật số.
Qua phần phán đoán trên ta thấy tính chất của 8 Tướng một Vua chỉ tác dụng về phần không gian thế nào, rồi ảnh hưởng lên khí hậu như thế nào mà không nói gì về tác dụng vào nhân thể và nhân sự. Tại sao lại như thế?
Điều này được giải thích là bởi công dụng của chúng là đối ứng cân bằng với các cặp Sao Khí của vũ trụ thiên hà trong Không gian, nên tác dụng trong không gian là chính. Môi trường, khí hậu trong không gian do đó phải bị ảnh hưởng của chúng là vậy. Tuy như thế nhưng đối với bảng số giờ sanh của một cá nhân để dự đoán cuộc đời họ, thì đa số nhà dự đoán đời sau đều cho chúng là một yếu tố rất quan trọng vì như đã biết ở trước không gian trong quẻ đơn Diệt Bảng Lạc Thư là chỉ về phần vật chất của con người, mà ở đây tính chất của 8 Tướng lại giống tính chất của 10 Trường Không gian trong bảng Lạc Thư. Thế nên họ đã đưa ra “Tượng” của chúng khá chi tiết nhất là về Nhân tượng thì lại càng rõ nét hơn. Các bạn có thể tham khảo các sách Kỳ Môn khác nếu thích thú lãnh vực dự đoán này.
Còn đối với các nhà quân sự thì chúng cũng rất có giá trị trong trận đồ hành quân chiến đấu của họ. Các bạn nếu có hứng thú thì có thể tìm hiểu ở các sách khác (như 72 Cục của Hoàng Thạch Công chẳng hạn…)
CHÚ Ý:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
115
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Chúng ta còn một phần Phán Đoán Về Số Xung – Hạp nữa. Những số Xung và Hạp với số của Cung địa bàn thì rất quan trọng trong phán đoán về nhân sự, công việc làm của con người, nhất là để tính số mạng trong Bảng số Giờ và Khắc sinh ra của một con người. Nhưng vì tác giả không tìm được những qui luật rõ ràng, (mặc dù các sách Kỳ Môn khác cũng có đưa ra một số phương pháp phán đoán cho từng trường hợp một) nên không thể trình bày ra đây được. Các bạn phải tự nghiên cứu tìm tòi cho chính mình mà thôi. Xin thông cảm!
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
116
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
PHỤ LUẬN THÊM
Theo lịch sử thì Vua Hoàng Đế (Đế sông Hoàng Hà khoảng hơn 2697 năm trước Công Nguyên) đã chế ra “Chỉ Nam xa” để đánh nhau với Si Vưu họ Khương ở phía Nam (Trắc Lộc).vì Xi Vưu luyện âm dương làm trời đất tối tăm u ám. Vậy tình hình nước Trung Hoa lúc này là thế nào? Bộ Kinh Diệt do ai nắm giữ?
Theo sách “Lĩnh Nam Trích Quái” thì Xi Vưu là kẻ bề tôi thân cận của Đế Lai, mà Đế Lai (con Đế Nghi) là anh con bác của Lạc Long Quân (con Kinh Dương Vương) cùng thuộc họ Thần Nông đang cai trị trung nguyên nước Trung Hoa. Vậy ta có thể nói lúc này: Vua Hoàng đế chỉ mới bắt đầu dựng nghiệp từ phương Bắc tiến xuống Trung nguyên.
Sử nói rằng: “Đầu óc Xi Vưu cứng như đồng sắt, luyện Âm – Dương làm trời đất tối tăm u ám”. Điều này chứng tỏ rằng Xi Vưu hay các dân tộc thuộc họ Thần Nông cai trị đã biết dùng học thuyết Âm – Dương Thái Cực vào đời sống thực tế.
Một việc nữa củng cố điều này là sách sử đã xếp các dân tộc nguyên thủy phía Nam sông Hoàng Hà trở vào là thuộc chủng tộc Tam Miêu và từ Hán xưa gọi xứ này là Miêu Cương là vì các dân tộc ở đây đã biết dùng 3 gạch để ghi chép và tính toán mọi chuyện.
Thế là tới đời Đế Lai phần đất của anh Kinh Dương Vương là Đế Nghi ở phía Bắc đã bị người Tây Bắc chiếm cứ trên danh nghĩa(vì cũng chưa cai trị hết tất cả các dân tộc ở đấy), chỉ còn lại phần đất phía Nam của Kinh Dương Vương với tên nước là Xích Quỹ (Từ Hán của các sử gia đời sau có nghĩa là đất nước kéo dài tới đường đỏ tức là đường Xích Đạo) do Lạc Long Quân cai trị(một cách lỏng lẻo mang tính chất tự trị là chính). Lúc này và dĩ nhiên là từ trước nữa người Lac Việt đã dùng thuật số Lạc Thư vào việc phân chia địa lý và bộ máy cai trị đất nước tức là trước và sau năm 2879 trước Công nguyên của Kinh Dương Vương. Vậy bảng Lạc Thư nói là của Đại Vũ tìm ra là hoàn toàn vô lý vì vua Đại Vũ nhà Hạ là năm 2205 trước Công Nguyên, tức
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
117
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
là sau Hoàng đế khoảng 492 năm và sau Kinh Dương Vương nước Văn hơn 600 năm.
Từ trước thời Đại Vũ người Tây Bắc đã gọïi xứ họ, kể cả vùng đất chiếm được của Đế Lai là nước Vũ, nên ông Vua này mới xưng là Đại Vũ, còn nước Xích Quỷ thì họ gọi là xứ Văn. Do vậy, 8 quẻ Hậu Thiên mới có tên là Bát Quái Văn Vương có nghĩa là: Bát Quái của Vua nước Văn.
Từ đất nước của Thần Nông tới Đế Nghi, Đế Lai, rồi nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương, nước Văn Lang của các vua Hùng (dùng từ Lang đọc trại từ từ “Long” để ghép với từ Văn hàm ý là Âm – Dương hợp nhất ) đã liên tục bị người Tây Bắc tiến chiếm. Tới thời Đại Vũ thì chắc chắn đã tiến đánh đến xứ Lạc vì 2 lí do sau:
- Đại Vũ trị thủy vùng sông Lạc.
- Thiên Vũ Cống Kinh Thư (chuyện hiến cống cho nước Vũ) có kê khai thổ sản đất Kinh và đất Dương của Kinh Dương Vương (người đồng bằng nước Việt ngày nay được gọi là người Kinh, còn không có người Dương vì nơi này thuộc 1 tộc Việt khác với Lạc việt)).
Mà vùng sông Lạc là vùng dân tộc Lạc Việt sinh sống nên chắc chắn là họ đã bắt các bậc trí thức nước Văn (Lang) mà hơn cả là Văn Vương đem về giam ở đất Vũ Lý (Dũ Lý là vùng đất lao lý của nước Vũ) để học tập kinh Diệt và Thuật số Lạc Thư, nhưng vì đang cần chinh chiến nên họ chú tâm vào Thuật số Lạc Thư nhiều hơn là Kinh Diệt, để rồi khi nhà Châu sau này làm chủ phần lớn nước Trung Hoa thì mới đào sâu về Kinh Diệt. Rồi nhà này lại dựng lên câu chuyện Văn Vương của họ bị giam ở ngục Dũ Lý của nhà Thương nghiên cứu ra Thoán Từ của 64 quẻ Diệt và chuyển 8 quẻ Bát Quái Tiên Thiên thành 8 quẻ Bát Quái Hậu Thiên. Đây chẳng qua là sự giành giật tác quyền lần thứ hai mà thôi…Lời Thoán là của người Lạc Việt vậy. Riêng lời Hào thì có thể là của triều đại nhà Châu viết thêm vào bộ kinh Diệt.Nhà Châu viết thêm lời Hào chứng tỏ rằng họ không phải là tác giả cửa lời Thoán vì theo nguyên lý hình thành các quẻ kép thì không thể viết lời cho từng hào được.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
118
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
(Việc tiến đánh vùng Sông Lạc của Đại vũ có thể xảy ra vào thời đại thứ 5 của các vua Hùng vì ở thời đại thứ 6 thì dân Lạc việt đã đánh đuổi quân nhà Thương như chúng ta đã biết.qua câu chuyện Thánh Gíong vậyï)
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
119
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG VI:
LỊCH RÙA LẠC VIỆT
Người Lạc Việt Xưa ta đã có Lịch. Đó là sự thật hiển nhiên, cổ sử Trung Hoa đã xác định rõ. Nhưng cho tới nay ta vẫn chưa biết nhiều về lịch này. Ở đây căn cứ vào học thuyết Âm Dương, Thái Cực Tượng Thời Không với thuật số Lạc Thư của nó, ta có thể suy luận ra, phát họa lại Lịch Rùa Lạc Việt như sau:
Nguyên lý căn bản của Lịch pháp này là hợp nhất Thiên Không và Địa Thời làm một vì Không gian và Thời gian vốn là Thái Cực Tượng gốc tạo nên sự sống của muôn loài hôm nay.
Thiên Không được chia làm 10 Long (10 Trường Không gian) vì thuộc Dương (Từ Hán đã sửa lại là 10 Căn). Địa Thời được chia làm 12 Quy (12 quãng Thời gian) vì thuộc Âm (Từ Hán đã sửa lại là 12 Chi). Nên khi hợp nhất sẽ cho ta 60 cặp Dương – Âm của Không Thời gian. Dùng 60 cặp này để đặt tên cho Thời gian giờ, ngày, tháng, năm chính là nguyên tắc của Lịch Rùa Lạc Việt.
Thời gian thì cần phải lấy một mốc khởi đầu nào đấy. Ở trước ta đã có mốc khởi đầu hằng năm. Còn một mốc khởi đầu nữa là của Thời gian vũ trụ.
Hằng năm thì khởi đầu từ tiết Đông Chí Ngày hoặc Giờ - Còn thời gian vũ trụ thiên hà theo người xưa thì khởi đầu từ tiết Hạ Chí Năm của vũ trụ thiên hà cách năm giáp Thân này là 10155921 năm (số tuế tích của Thái Ất). Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Số tuế tích là số gì? Từ đâu mà có? Rồi thì tại sao năm khởi đầu của vũ trụ thiên hà lại thuộc tiết Hạ Chí Năm?...
- Quả đất chúng ta theo Hệ mặt trời quay quanh Tâm Thiên Hà thì miên viễn không thể tính toán được (khoa học ngày nay ước lượng là 250 triệu năm 1 vòng) nên để dễ tính toán người xưa phải chọn một mốc Thời gian nào đấy: Bảng Lạc Thư là bảng hợp nhất Không Thời gian, mà về Không gian thì Hệ mặt trời quay quanh Tâm Thiên Hà, còn
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
120
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tâm có sự sống của Thái Cực là Quả đất thì lại quay quanh Mặt trời, nên về Thời gian người xưa phải lấy vòng quay của quả đất quanh mặt trời để tính cho Mặt trời quay quanh Tâm thiên hà thì mới gọi là Hợp Nhất được. Mà lấy vòng quay của quả đất quanh mặt trời thì phải căn cứ vào quỹ đạo của nó để xác định sự cân bằng của Hệ mặt trời cũng như của cả Thái cực Tượng Không – Thời gian. Vì cân bằng thì cũng được coi như là ĐỨNG YÊN, nên Thời gian mà quỹ đạo quả đất quay quanh mặt trời là hình tròn tuyệt đối, chứng tỏ Lực Âm – Dương của Quả đất và Mặt trời là cân bằng nhau thì được coi là năm số KHÔNG (0) của Thời gian. Khi qũy đạo quả đất bắt đầu lệch qua hình bầu dục thì được coi là năm thứ 1 của vũ trụ (Người Lạc Việt gọi là năm Mở Trời đất trong lịch Rùa) với tên gọi là Giáp Tý trong 60 Hoa Giáp. Vì lấy Thời gian 1 vòng quay của quả đất quanh Mặt trời gọi là năm đem tính cho Mặt trời quay quanh Tâm vũ trụ nên cách tính trên mới có tên là Lịch Thái Ất (theo từ Hán Văn). Vậy năm Giáp Tý đầu tiên là năm Thái Ất thứ 1. Tính đến nay năm Giáp Thân 2004 là năm Thái Ất thứ 10.155.921.
* Làm thế nào để người xưa tính được cách đây 10.155.921 năm thì quỹ đạo quay của quả đất là hình tròn tuyệt đối.
* Người xưa đã dùng cách so sánh quỹ đạo năm họ đang sống với qũy đạo hình tròn rồi tính toán với mức độ chuyển lệch hàng năm mà tính ra con số trên kể cả trong trường hợp sự chuyển lệch có gia tốc dương.
Thời gian lý thuyết quả đất quay quanh mặt trời là 4320 giờ 1 vòng, nên vì âm dương tương hợp họ đã lấy 4320 năm làm 1 chu kỳ tương hợp . Mà lấy 4320 năm tương hợp thì lại cũng phải hợp nhất với 8 quẻ Bát Quái Hậu Thiên, nên 540 năm thì hợp nhất với 1 quẻ, rồi 180 năm hợp nhất với 1 hào…vv
Trục Khảm – Ly là trục Thời gian của bảng Lạc Thư Không – Thời gian: mà Thời gian giờ tính cho quả đất quay quanh mặt trời (phần Dương) thì hợp nhất với đầu Khảm nên Thời gian năm tính cho quả đất quay quanh Tâm Thiên Hà (phần Âm) phải hợp nhất với đầu Ly. Mà
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
121
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
quẻ Ly thì mỗi hào cũng hợp nhất với 180 năm gọi là 1 Tiết vũ trụ nên Tiết đầu tiên của nó phải là Hạ Chí vậy.
(Với con số tuế tích hiện nay là 10.155.921 năm thì đã hợp nhất với 8 quẻ: Ly Khôn Đoài Càn Khảm Cấn Chấn Tốn được 2350 vòng 4320 năm). Hiện nay năm Giáp Thân là vòng thứ 2351 được 3921 năm.
* Câu hỏi được đặt ra tiếp theo là: Vậy thì năm thứ 1 của vũ trụ (Thái Ất thứ 1) tính từ tiết nào của năm? Người xưa tính toán là tính cho địa bàn Giáp vốn ở Bán Cầu Bắc nên khởi đầu của năm thứ 1 vẫn phải tính từ Tiết Đông Chí, tức là lúc đường xích đạo vào tận cùng Chí Tuyến Nam .
- Từ đây ta suy ra rằng ngày Giáp Tý đầu tiên cũng phải là ngày khởi đầu mang tiết Đông Chí đầu tiên ấy.
- Còn về Giờ thì căn cứ vào qui luật Âm Dương: Dương khởi từ Âm, Âm khởi từ Dương nên nửa đêm đã được chọn làm giờ Tý. Vậy là ngày Giáp Tý đầu tiên có giờ Giáp Tý phải là của đêm trước đấy.
- Riêng về Tháng thì được chia làm 2 loại: Một là tháng theo Tiết Khí, hai là Tháng theo Tuần Trăng.
1. Tháng Tiết Khí: Theo nguyên lý Lạc Thư thì đơn vị chính là Tiết chứ không phải là tháng tiết khí nhưng vì để đối chiếu với loại tháng Tuần Trăng nên người xưa cũng dùng loại tháng tiết khí như sau:
Đông Chí + Tiểu Hàn làm tháng Tý.
Đại Hàn + Lập Xuân làm tháng Sửu.
……..
Loại tháng này số ngày hàng tháng trồi trụt không cố định nhưng lại được dùng để tính tóan thực tế cho năng lượng của nhiều Trường Không Gian (Can) tác động vào quả đất chúng ta. Đa phần các thuật số ( mà nhất là thuật số Lục nhâm) đều dùng loại tháng này, nhưng nó lại không phổ cập trong dân gian. Điểm khởi đầu của loại tháng này cũng là ngày Giáp Tý đầu tiên ở trên.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
122
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
2. Tháng Tuần Trăng: Thấy rằng mặt trăng tuy là một hành tinh nhỏ và đang là vệ tinh cho Quả đất, nhưng lại rất gần với quả đất với năng lượng tác dụng tới quả đất khá lớn, nên người xưa đã đưa nó vào một trong 10 Can để tính toán. Mà tính toán cho riêng nó thì phải theo chu kì quay của nó xung quanh Quả đất, thế nên ta lại có loại tháng tính theo Tuần trăng như đã biết với cách tính: Tháng thiếu, tháng đủ, tháng nhuận để sao cho vừa tròn con số 12 Chi lại vừa theo chu kỳ sáng tối của nó. Loại tháng này chỉ được dùng trong Thuật số Thái Âm tính riêng năng lượng của Mặt trăng tác động tới Quả đất mà thôi.
(Nguyên lý của Thuật số Thái Âm coi Quả đất và Mặt trăng là một Thái cực tượng với hai phần: Mặt Trăng thuộc phần Âm; Quả đất thuộc phần Dương. Cả hai tác động qua lại với nhau, nên họ đã vận dụng qui luật Diệt học để tính toán hậu quả của năng lượng Mặt trăng tác động vào quả đất chúng ta. Rất tiếc Thuật số này đã bị mai một, nay chỉ còn lại một số tên Thần Sát trong hệ thống Nguyệt lệnh của Thuật Trạch Cát trong dân gian).
Tuy nhiên, loại tháng này lại được dùng nhiều trong việc ghi chép các loại Lịch sử sinh hoạt xã hội nên đã thông dụng mãi đến hôm nay.
Về mốc khởi đầu thì như thế. Vấn đề đặt ra tiếp theo là: Tại sao người xưa lại lấy các đơn vị Thời gian là: Giờ, Ngày, Tiết, Năm? Như ta đã biết Quả đất là nơi duy nhất chứa sự sống của Thái Cực Tượng Thời Không có 10 Can nên nó được làm gốc để tính toán mọi chuyện liên quan đến sự sống. Thời gian thì là thước đo sự sinh diệt của muôn loài (nếu muôn loài không sinh diệt thì chẳng thể biết đến thời gian). Thế nên chuyển động của Quả đất phải được chọn làm đơn vị để đo Thời gian. Do đó phải lấy Giờ, Ngày, Tiết, Năm là vậy.
Thế nhưng vấn đề căn bản là tính toán năng lượng của các Can (các Trường) tác động vào quả đất chúng ta. Công việc này không thể
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
123
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
có ngay từng loại năng lượng nào cụ thể mà phải tính toán mới biết được. Muốn tính toán thì phải căn cứ vào gốc Can và Chi của từng đơn vị thời gian với các mốc khởi đầu của từng loại đã được chọn ở trước.
Trước hết là “tính” năng lượng của Vũ trụ Thiên Hà. Người xưa đã dùng nguyên lý Thời gian và Không gian hợp nhất để tìm ra loại năng lượng dẫn đầu mà người sau này gọi là “sao khí làm Phù” rồi từ đó tính ra các loại sao khí khác. Loại sao khí làm phù được tính theo mốc Thời gian vũ trụ đo bởi vòng quay của quả đất nên là chung cho cả quả đất chứ không phải riêng cho địa bàn Giáp nên đã được coi là “Vận khí Thời gian”. Và họ đã đưa vào Lịch pháp thời gian nên Lịch Rùa Lạc Việt còn được gọi là “Lịch Vận Khí Cửu Tinh”.
Các sao khí vũ trụ thì được chia làm 2 loại:
- Sao khí Dương chạy thuận là: 1 2 3 4 5 6 7 8 9…
- Sao khí Âm chạy nghịch là: 5 4 3 2 1 9 8 7 6…
Vì quả đất quay quanh Tâm thiên hà là quay quanh Tâm của phần Âm, nên để tính toán loại sao khí tác động vào quả đất theo Năm, người xưa đã chọn loại sao khí Âm chạy nghịch. Điều này là do qui luật Âm Dương tương phản nhau: Khi tính cho Thời gian Giờ của quả đất quay quanh mặt trời thì đã dùng loại sao khí Dương, nên giờ đây phải dùng sao khí Âm là thế.
Do vậy ta tạm gọi các sao khí Âm là sao khí Dương, còn các sao khí Dương là sao khí Âm. Cách gọi này là để phù hợp với Thuật số Lạc Thư kể Năm sau này.
Sau đây là cách tính cụ thể cho vòng thứ 2351 hiện nay của Lịch Rùa Lạc Việt.
- 540 năm đầu hợp nhất với quẻ Ly: Sao khí Thiên Tâm số 6 làm Phù.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
124
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- 540 năm thứ hai hợp nhất với quẻ Khôn: Sao khí Thiên Phụ số 4 làm Phù.
- 540 năm thứ ba hợp nhất với quẻ Đoài: Sao khí Thiên Nhậm số 8 làm Phù.
- 540 năm thứ tư hợp nhất với quẻ Càn: Sao khí Thiên Anh số 9 làm Phù.
- 540 năm thứ năm hợp nhất với quẻ Khảm: Sao khí Thiên Cầm số 5 làm Phù.
- 540 năm thứ sáu hợp nhất với quẻ Cấn: Sao khí Thiên Trụ số 7 làm Phù.
- 540 năm thứ bảy hợp nhất với quẻ Chấn: Sao khí Thiên Xung số 3 làm Phù.
- 540 năm chót từ 1864 đến 2403 hợp nhất với quẻ Tốn: Sao khí Thiên Nhuế số 2 làm Phù.
Ta suy ra: Tiết đầu Lập Hạ từ 1864 đến 2043 Sao khí Thiên Nhuế số 2 làm Phù.
Tiết giữa Tiểu Mãn từ 2044 đến 2223: Sao khí Thiên Bồng số 1 làm Phù.
Tiết cuối Mang Chủng từ 2224 đến 2403: Sao khí Thiên Anh số 9 làm Phù.
Tiếp tục ta suy ra 3 nguyên của Tiết đầu Lập Hạ là: Thượng Nguyên 60 năm từ 1864 đến 1923: Sao khí Thiên Nhuế số 2 làm Phù.
Trung nguyên 60 năm từ 1924 đến 1983: Sao khí Thiên Cầm số 5 làm Phù.
Hạ Nguyên 60 năm từ 1984 đến 2043: Sao Khí Thiên Nhậm số 8 làm Phù
* Tại sao sao khí làm Phù của 3 Nguyên lại cách nhau mà không theo thứ tự?
- Đó là vì cứ mỗi 10 năm thì lại hợp nhất với một Can không gian như ta đã biết là:
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
125
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Thượng Nguyên: Mậu 2 Tân 8
Kỷ 1 Nhâm 7
Canh 9 Quý 6
Trung Nguyên: Mậu 5 Tân 2
Kỷ 4 Nhâm 1
Canh 3 Quý 9
Hạ Nguyên: Mậu 8 Tân 5
Kỷ 7 Nhâm 4
Canh 6 Quý 3
Mỗi 10 năm hợp nhất thì gọi là 1 Nghi có một sao khí làm Phù. Cụ thể của Tiết Lập Hạ ở trên là các sao khí số:
2 1 9 8 7 6 5 4 3 2 1 9 8 7 6 5 4 3.
Mỗi một năm trong từng Nghi lại cũng có một sao khí làm Phù tính từ sao 10 năm nên 10 năm đầu của Hạ Nguyên (1984 - 1993) được tính là:
Giáp Tý: 1984 Sao khí Thiên Nhậm số 8 làm Phù.
Ất Sửu: 1985 Sao khí Thiên Trụ số 7 làm Phù.
Bính Dần: 1986 Sao khí Thiên Tâm số 6 làm Phù.
Đinh Mão: 1987 Sao khí Thiên Cầm số 5 làm Phù.
Mậu Thìn: 1988 Sao khí Thiên Phụ số 4 làm Phù.
Kỷ Tỵ: 1989 Sao khí Thiên Xung số 3 làm Phù.
Canh Ngọ: 1990 Sao khí Thiên Nhuế số 2 làm Phù.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
126
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Tân Mùi: 1991 Sao khí Thiên Bồng số 1 làm Phù.
Nhâm Thân: 1992 Sao khí Thiên Anh số 9 làm Phù.
Quí Dậu: 1993 Sao khí Thiên Nhậm số 8 làm Phù.
Rồi cứ thế tính tiếp tục cho từng 10 năm sau nữa ta sẽ có bảng sao khí làm Phù Hạ Nguyên này như sau: (chỉ tính sao khí Dương).
Người sau này lấy lọai sao khí làm Phù từng năm này làm bản mệnh cửu cung về thời gian (Cung Phi hay cung Phù) cho đàn ông và các sao khí Âm tương ứng cho đàn bà nhưng vì không nắm rõ qui tắc tìm các số cục cho mỗi 180 năm, nên họ đã dùng số cục 1 – 4 – 7 thời Đại Vũ tính sao theo thứ tự: 1 9 8 7 6 5 4 3 2 1 … là sai lầm. Khi thời gian hợp nhất với 8 quẻ Không Gian thì khí Âm mà ta lấy làm khí Dương để tính cho thời gian vũ trụ thiên hà chỉ chạy ngược ở 4 quẻ: Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, còn 4 quẻ: Ly, Khôn, Đoài, Càn thì chạy thuận. nên tính đến năm 2403 thì Thời gian hợp nhất với quẻ Tốn chấm dứt. Sang năm 2404 trở về sau thì các sao khí lại chạy thuận theo số cục của từng 180 năm mang nó cho đến hết quẻ Càn thì mới đổi chiều. Chúng ta cần lưu ý!
Sau đó là Thời gian hàng năm: Cứ 45 ngày hợp nhất với 1 quẻ có 1 sao khí làm Phù; 15 ngày hợp nhất với 1 hào có 1 sao khí làm Phù; 5 ngày tức là 1 Nguyên 60 giờ có một sao khí làm Phù và 10 giờ gọi là
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
127
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
1 Nghi có 1 sao khí làm Phù; rồi 1 giờ cũng có 1 sao khí làm Phù. Có người lại lấy sao khí làm Phù của giờ làm Bản mệnh Cửu Cung thật chẳng biết đúng sai thế nào!
Còn về tên gọi cho Thời gian vũ trụ thì cũng vì tương hợp với quả đất (4320 giờ là 1 năm) họ đã gọi 4320 năm là 1 năm của Vũ trụ thiên hà tức là họ xem như Hệ mặt trời quay được 1 vòng quanh tâm thiên hà. Thế nên:
- 1 Tháng Vũ trụ là: năm quả đất.
- 1 Ngày Vũ trụ là: năm quả đất.
- 1 Giờ Vũ trụ là: năm quả đất.
Tính đến năm 2004 này thì chúng ta đang ở vào: Năm Quý Dậu, Tháng 11 (gọi theo Lịch Kiến Dần là Tháng Tý) ngày 27, giờ Thân của Vũ trụ. Hiện nay có câu nói lưu truyền lại từ ngàn xưa là: “Một giờ trên Trời bằng một năm dưới Đất” chính là do cách gọi trên đây mà có!
Loại lịch trên khi người Lạc Việt đem biếu cho Vua Nghiêu, vì khắc lên lưng Rùa nên họ đã gọi là Lịch Rùa và cũng vì dùng Bát Quái Hậu Thiên làm cơ sở nên Kinh Diệt Hậu thiên họ lại gọi là Kinh Dịch Qui Tàng (tàng chứa trong con Rùa).
Còn quyển Kinh Diệt thời “Phục Hy” thì được gọi là Kinh Dịch Liên Sơn vì do bởi thời Hoàng Đế đánh chiế vùng đất của Đế Lai, họ đã tìm thấy bảng Viên Đồ Phục Hy khắc trên các núi đá nên mới có tên như thế. Câu nói :Nhà Hạ dùng Dịch Liên Sơn, nhà Thương dùng Dịch Quy Tàng, nhà Châu dùng Dịch Văn Vương … là chỉ nhằm mục đích hợp thức hoá cho Châu Văn Vương mà thôi.
Từ trước thời Hoàng đế, người Tây Bắc chưa biết đến Kinh Diệt mà họ chỉ thấy các dân tộc phương Nam dùng ba gạch để ghi chép nên họ gọi là dân Tam Miêu. Sau khi chiếm phần đất của Đế Lai thì họ mới biết đến Kinh Diệt Liên Sơn nên lại gọi các dân tộc dùng chung Kinh Diệt (mà cụ thể hơn là các dân tộc còn lại của Kinh Dương Vương lúc này do Lạc Long Quân cai quản một cách tự trị) là dân Bách Diệt. Do vậy phải nói là dân Tam Miêu dùng Dịch Liên Sơn, dân Bách Việt
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
128
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
(nước Văn) dùng dịch Quy Tàng thì mới đúng sự thật được. Vì rõ ràng là 8 quẻ Tiên Thiên với 64 quẻ kép Viên Đồ Phục Hy và lời Thoán truyền miệng của nó đã có từ trước thời Hoàng Đế, còn dịch Quy Tàng là 8 quẻ Hậu Thiên với ba thuật số đặt căn bản trên bảng Lạc Thư Không Thời gian hợp nhất.
Câu hỏi đặt ra ở đây là phần lịch rùa tính cho thời gian vũ trụ trên dùng để làm gì? Như đã nói ở trước nó được tạo ra là để tính toán năng lượng của 9 trường không gian tác động vào quả đất chúng ta sẽ được trình bày ở chương sau.
Một vấn đề cần phải được xác định rõ nữa là: năm Nhâm Tuất của Kinh Dương Vương bắt đầu nước Xích Quỷ (mà sau này gọi là nước Văn Lang) là năm nào?
Như ta đã biết: Đế Lai là anh con nhà Bác của Lạc Long Quân bị Hoàng đế thôn tính đất nước sau năm 2697 trước Công nguyên, mà năm này tính theo lịch Thái Ất thì hoàn toàn chính xác là năm Giáp Tý. Vậy nên năm Nhâm Tuất của Kinh Dương Vương (chú ruột của Đế Lai và là cha của Lạc Long Quân) phải là năm -2759 hoặc là năm -2819 thì mới đúng hơn là năm -2879, vì từ – 2879 đến – 2697 thì con số chênh lệch 182 năm là quá lớn đối với tuổi thọ 1 đời người vậy.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
129
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
PHỤ LUẬN THÊM
Hiện tượng: “Thất Diệu Tề Nguyên” là gì ? Sự thật về nó như thế
nào ?
Theo sách vở xưa nay thì đây là hiện tượng 7 Diệu gồm: Mặt trời,
Mặt trăng và 5 hành tinh mang tên ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa,
Thổ cùng với Quả Đất chúng ta xếp thẳng hàng cách đây 10155921
năm. Người đời sau coi đây là điểm khởi đầu của vũ trụ Thời - Không
thì thế nào ?
Ta thấy ngay là không bao giờ có chuyện này xảy ra là vì các
hành tinh quay xung quanh Mặt trời mỗi cái nằm trên một mặt phẳng
riêng nên chúng chẳng thể nào thẳng hàng được cả. Chúng chỉ có thể
tạo ra một mặt phẳng ở một thời điểm nào đấy mà thôi! Nhưng xa xưa
nếu có trường hợp trên mà lấy làm điểm khởi đầu cho Mặt trời hay hệ
Mặt trời quay xung quanh Tâm thiên hà để được coi như là (hệ Mặt
trời) từ đứng yên bước sang chuyển động đầu tiên thì có được không ?
Câu trả lời là “Không” vì các lý do sau đây:
1. Ngoài 5 hành tinh vừa kể, thì Hệ Mặt trời còn nhiều hành tinh
nữa, nên 5 hành tinh trên chưa thể là cả phần Âm của Hệ Mặt trời được.
2. Còn khi tất cả các hành tinh quay xung quanh Mặt trời tạo
thành một mặt phẳng mà coi là cả Hệ từ đứng yên bước sang chuyển
động đầu tiên thì rõ ràng chẳng hợp với logic một chút nào cả huống hồ
gì chỉ có 5 hành tinh của Mặt trời khi tạo thành một mặt phẳng mà lấy
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
130
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
làm điểm khởi đầu của thời gian vũ trụ? Lúc ấy Hệ Mặt trời và đặc biệt
là Quả đất đang ở trong tình trạng như thế nào ? Chẳng có câu trả lời
nào cho rõ ràng và hợp lý ở đây. Hơn nữa hệ Mặt trời cũng chẳng phải
là tâm của thái cực tượng Không- Thời gian. Thuật số Lạc thư là để tính
toán cho Quả đất chứ không phải là tính toán cho Hệ Mặt trời. Thuật số
Thái Ất thì cũng thế nó dùng qui luật Diệt học để tính riêng cho năng
lượng của Hệ mặt trời tác dụng xuống quả đất chúng ta…
3. Rồi thì dùng phương pháp nào, căn cứ vào gì, để tính ra con số
Tuế Tích của Thái Ất quay quanh Tâm vũ trụ Thiên Hà vì lúc ấy chưa
có loài người để quan sát hiện tượng Thất Diệu Tề Nguyên.
Nguyên là người Lạc Việt xưa do nắm vững thái cực Thời Không,
họ đã chia không gian ra làm 10 Trường… và sáng tạo ra ba thuật số
chính cùng một số thuật số phụ để tính toán năng lượng của 9 Trường
tác động vào quả đất là:
- Thuật số Kỳ Môn Độn Giáp tức là thuật số Lạc Thư tính năng
lượng của Hệ Mặt trời và Vũ trụ Thiên Hà một cách tổng quát.
- Thuật số Long - Quy tức là thuật số Lịch Rùa (Từ Hán gọi là
thuật số Thái Ất) tính năng lượng của Hệ Mặt trời là chính.
- Thuật số 6 Nhâm (Từ Hán gọi là Lục Nhâm thời khóa) dùng để
dự đoán công việc con người và xã hội trước tác động của 2 loại năng
lượng trên.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
131
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
- Thuật số Thái Tuế tính riêng năng lượng Trường Đinh mà đặc
biệt là của Sao Tuế.
- Thuật số Thái Âm (tên này theo từ Hán gọi) tính riêng năng
lượng Trường Bính (Mặt trăng).
. . .v. . .v. . .
Ngày nay tất cả đã bị thất truyền, nếu còn thì cũng ở tình trạng
tam sao thất bản vì nhiều lí do, nhưng chủ yếu vẫn là do tư tưởng độc
quyền cho dòng tộc mình của các triều đại phong kiến mà ra.
Tác giả tin rằng trong thời đại khoa học này chúng ta sẽ tìm lại
được tất cả, vì những tư duy của người xưa chắc chắn vẫn còn tiềm ẩn
trong Thái Cực tư tưởng của mỗi một chúng ta.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
132
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
CHƯƠNG VII
THUẬT SỐ LẠC THƯ KỂ NGÀY, KỂ THÁNG, KỂ NĂM
( Nhật Kỳ Môn, Nguyệt Kỳ Môn, Niên Kỳ Môn)
Thời gian được người xưa tính toán qua 4 đơn vị là: Giờ - Ngày -
Tháng - Năm. Thế nên khi có 1 thuật số nào còn lưu lại trong cộng
đồng dân tộc Bách Việt, thì người đời sau họ nghỉ ngay là phải có đủ cả
4 loại cho các đơn vị thời gian, hoặc là thuật số đó phải được vận dụng
cho cả 4 đơn vị thời gian. Do vậy mà ngày nay ta còn thấy nhiều sách
vở viết về Nhật Kỳ Môn, Nguyệt Kỳ Môn và Niên Kỳ Môn. Điều này
có thể đúng cũng có thể không vì các đơn vị thời gian không phải là
ước số hoặc bội số cố định của nhau: 8 khắc là 1 giờ, 12 giờ là 1 ngày,
29 hay 30 ngày là 1 tháng, 12 hay 13 tháng là 1 năm… Sau đây chúng
ta sẽ lần lượt đi vào các loại còn lại của Thuật Số (Kỳ Môn) để xem thế
nào…?
MỤC 1
THUẬT SỐ LẠC THƯ KỂ NĂM
(KỲ MÔN ĐỘN GIÁP KỂ NĂM)
A. KHỞI ĐỘNG
Theo người xưa thì:
Quả đất chúng ta có ba chuyển động đồng thời là:
1. Tự chuyển động quay tròn xung quanh trục của chính nó.
2. Chuyển động xung quanh mặt trời.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
133
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
3. Theo Mặt trời chuyển động chuyển động xung quanh Tâm
Thiên Hà.
Chuyển động thứ nhất được đo bằng Giờ Can Chi nhưng trong
từng Giờ nó vẫn chuyển động một quãng nào đấy trên quĩ đạo quay
xung quanh Mặt trời nên đã được qui theo chuyển động thứ hai và tạo
thành thuật số Lạc Thư Kể Giờ ở trước. Chuyển động thứ hai được đo
bằng ngày, tháng, năm Can Chi, mà đặc biệt là năm Can Chi thì còn
được dùng để đo chuyển động thứ ba. Chuyển động thứ hai của Quả đất
là chuyển động của một phần Âm quanh Tâm một hệ Dương là Mặt trời
thì thuận hợp nên ta đã dùng các Sao Khí thuận để tính toán. Còn
chuyển động thứ ba của Quả đất quanh Tâm vũ trụ thiên hà thì ngược
lại là chuyển động của một phần Âm quanh Tâm một hệ Âm nên để
tính toán cho quả đất thuật số Lạc Thư kể năm (tính cho năm) phải lấy 9
Sao Khí trong bảng cửu cung nghịch (bảng 2 ở trước) làm khí Dương
là:
- Thiên Cầm 5 ở Cung Khảm
- Thiên Phụ 4 ở Cung Khôn
- Thiên Xung 3 ở Cung Chấn
- Thiên Nhuế 2 ở Cung Tốn
- Thiên Bồng 1 ở Trung Cung
- Thiên Anh 9 ở Cung Càn
- Thiên Nhậm 8 ở Cung Đoài
- Thiên Trụ 7 ở Cung Cấn
- Thiên Tâm 6 ở Cung Ly
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
134
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Lấy 9 Sao Khí của bảng cửu cung nghịch làm Khí Dương như
trên có nghĩa là đem 9 Sao Khí trên vào bảng cửu cung thuận như sau:
Còn 9 Sao Khí thuận bây giờ lại trở thành khí Âm. Thế nên ta
cần phải lưu ý là khí Dương (chạy) theo số thứ tự nghịch:
5 4 3 2 1 9 8 7 6 v.v khi chuyển động trên
quĩ đạo thuận của thời gian và ngược lại…
Từ đây ta thấy ngay là chỉ có tên cặp Sao Khí và số của chúng là
đảo ngược còn phương thức tính toán sẽ chẳng có thay đổi gì. Thế
nhưng muốn thành lập được một bảng số Lạc Thư cho năm thì ta cũng
phải có số cục của từng 60 năm Hoa Giáp. Vấn đề này được tính toán
theo con số 4320 năm tương hợp như sau: Cứ: - 60 năm là một nguyên
năm
- 180 năm là một tiết năm
- 540 năm là một quẻ năm
* Đủ tám quẻ năm tức là 4320 năm là một chu kỳ tương hợp.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
135
N. Nhuế 2 T.Tâm 6 T.Phụ 4
T.Xung 3 T.Bồng 1 T.Nhậm 8
T.Trụ 7 T.Cầm 5 T.Anh 9
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
Như đã biết ở chương Lịch Rùa Lạc Việt, năm nay Giáp Thân
2004 thì đang thuộc vào tiết vũ trụ Lập Hạ (gọi tắc là Tiết Năm Lập
Hạ), Hạ Nguyên, Nghi Canh, Sao Khí Thiên Tâm làm Phù theo bảng 6
Nghi 3 Kỳ như sau:
Mậu 8 Tân 5 Ất 9
Kỷ 7 Nhâm 4 Bính 1
Canh 6 Quý 3 Đinh 2
Từ bảng 6 Nghi 3 Kỳ này ta có thể thành lập bảng số Lạc Thư
cho bất kỳ năm nào trong 60 năm từ 1984 đến 2043, nhưng ở đây còn
có vấn đề phải bàn thêm trước khi đi vào bảng số mẫu năm Giáp Thân
2004:
* Cách hợp nhất Thời gian với Không gian ở trên vẫn dùng
vòng thuận Bát Quái Hậu Thiên là vì ta vẫn dùng bảng cửu cung
thuận để tính cho quả đất.
* Tại sao tất cả sách Kỳ Môn Độn Giáp đều lấy số cục mọi tiết
năm từ xưa đến giờ luôn là 1.4.7 mà không thay đổi theo từng tiết một ?
- Lý do là năm 2005 trước Công Nguyên khởi đầu nhà Hạ, cách
đây 4209 năm thì là năm Thái Ất thứ 10151712. Tính theo qui tắc trên
là thuộc vào Trung nguyên tiết năm Tiểu Mãn (được 12 năm) với số cục
là 4, rồi 60 năm Hạ Nguyên tiếp theo mang số cục là 7. Như vậy trước
nhà Hạ 12 năm tức thời ông Cổn cha của Đại Vũ vì “trị thủy” không
xong bị chặt chân thì thuộc vào Thượng Nguyên Tiết Tiểu Mãn mang
số cục là 1. Khi tiếp thu được thuật số Lạc Thư từ Văn Vương hoặc các
bậc trí thức nước Văn bị giam ở Vũ Lí, Đại Vũ thấy nó quá lợi ích
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
136
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
trong việc tính thiên thời cho chiến tranh, muốn giữ độc quyền cho
dòng tộc mình nên đã dấu biệt qui tắc tính cục cho tiết năm đi. Do vậy
người đời sau không biết cứ mãi dùng số cục 1.4.7. hết 180 năm này
đến 180 năm khác luôn luôn. Thật là tai hại về sau đó chỉ vì quyền lợi
riêng của một dòng tộc phong kiến mà thôi!
Ta thấy: Nếu tiết năm hiện nay từ 1864 đến 2043 mang số cục là
1.4.7 thì phải thuộc vào một trong 2 tiết năm của vũ trụ là Tiểu Mãn
hoặc Cốc Vũ mà từ hai tiết này tính trở lại đến năm Thái Ất thứ nhất thì
năm này lại không nằm ở đầu một quẻ nào cả. Điều này vô lí vì Thời
gian hợp nhất với Không gian không thể hợp nhất với một phần quẻ
được ! Có một vài học giã không thông hiểu Thuật Số Lạc Thư lại lấy
Sao Khí của bảng Cửu Cung Thuận tính cho Giờ đem tính cho Năm,
nên nói từ năm 1864 đến năm 2043 là thuộc tiết Sử Thử với số cục là
1.4.7, nhưng nếu ta cứ tính lui đến năm Thái Ất thứ nhất thì cũng như
trên mà thôi, chẳng nằm ở đầu một quẻ nào cả !
Mong các bạn kiểm tra lại để chân lí của người xưa khỏi bị mai
một thêm nữa.
Saùch do taùc giaû gôûi taëng dieãn ñaøn vietlyso.com
137
Nguyễn Thiện Nhơn - 2004
BẢNG TỔNG HỢP SỐ QUẺ - SỐ HÀO - SỐ CỤC
Quẻ Tiết HàoSố Cục
Thượng Nguyên
Trung Nguyên
Hạ Nguyên
Ly Hạ Chí 6 6 3 96-9 Tiểu Thử 7 7 4 1
Đại Thử 8 8 5 2Khôn Lập Thu 4 4 1 74-2 Xử Thử 5 5 2 8
Chaïy voøng 8 Cöûa theo chieàu Thuaän ta coù baûng
soá laø:
T.Anh (+.T.Tâm) T.Phụ (+T.Nhuế) T.Nhuế (+T.Phụ)Sử Khai Sử Tử Sử Đổ
Bính: Chu Tước Đinh: Cửu Địa Ất: Cửu ThiênChâu Tước - Kim Quỷ Thiên Đức Bạch Hổ - Ngọc ĐườngĐường Phù- Quốc Ấn Thiên Quan Thiên Dược - Địa DượcTuế Phá - Long Đức Bạch Hổ Phúc Đức - Điếu Khách