Page 1
KINH TẾ VĨ MÔ 2014: ỔN ĐỊNH VỀ LƢỢNG, TRÌ TRỆ VỀ CHẤT,
CHƢA RÕ TƢƠNG LAI
TS.Lê Việt Đức
Trong một bài viết đầu năm 2014 trên Tạp chí nghiên cứu kinh tế (xem ở cuối
bài), tôi đã đề nghị trong năm 2014 và 1-2 năm tiếp theo, Chính phủ cần kiên trì
mục tiêu tăng trưởng GDP chỉ khoảng 5,5-6% để dành tâm sức nâng cao chất lượng
tăng trưởng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường phù hợp, đẩy mạnh tái cơ cấu lại
nền sản xuất, xử lý tốt thị trường bất động sản, làm sạch tình trạng nợ xấu, ổn định
tỷ lệ thu, giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách, đảm bảo cân bằng ngoại thương, giữ
vững được những cân đối vĩ mô, mạnh mẽ đấu tranh chống tham nhũng, cải cách bộ
máy nhà nước và công tác cán bộ theo hướng tận tâm phục vụ đất nước, phục vụ
nhân dân... Làm được những điều đó thì hoàn toàn có thể năng cao hơn nữa tiềm
năng tăng trưởng trung và dài hạn để từ những năm 2017-2020 có thể đưa tốc độ
tăng trưởng kinh tế về 7-7,5%/năm như đã có trong suốt 20 năm đầu đổi mới (1989-
2009). Nguyên tắc tối cần thiết đặt ra trong suốt năm 2014 là: Kiên định không chạy
theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và phát triển hài hòa làm đại cục, ra sức
nâng cao chất lượng tăng trưởng để chấm dứt hoàn toàn cục diện "tăng trưởng
nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm qua. Một năm đã trôi
qua, dưới đây xin điểm lại một số kết quả đã đạt được trong năm 2014 và những
định hướng lớn cho năm 2015.
1.Nền kinh tế tăng trƣởng ổn định ở mức thấp so với tiềm năng; chất
lƣợng tăng trƣởng tiếp tục trì trệ
Nhìn lại lịch sử phát triển trong suốt 4 chục năm gần đây (1975-2014), có thể
thấy rõ nền kinh tế nước ta đã liên tục có những bước thăng trầm khá lớn qua mỗi
giai đoạn chỉ khoảng 5 năm. Đặc biệt, trong mỗi thập niên tính từ các mốc 1980,
1990 và 2000, tốc độ tăng trưởng GDP thường liên tục tăng nhanh trong nửa đầu rồi
suy giảm khá mạnh trong nửa sau. Riêng khoảng 10 năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng GDP đã gần như liên tục đi xuống trong giai đoạn 2006-2009, chỉ tăng trở
lại vào năm 2010 nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với trước năm 2007. Nhìn chung
giai đoạn 8 năm 2008-2015 (tính cả kế hoạch tăng trưởng 6,2% của năm 2015), tốc
độ tăng trưởng GDP tương đối ổn định, giao động trên dưới 1% so với mức trung
bình 5,7%. Như vậy, đây là ổn định ở mức thấp so với tiềm năng (tiềm năng khoảng
Page 2
7,5-8% như đã đạt được trong các 5 năm đầu của 3 thập kỷ kể trên).
Như vậy, nếu như quá trình tăng trưởng của nền kinh tế nước ta từ năm 2010
về trước có các pha đi lên – đi xuống khá rõ ràng, mang tính cơ cấu, dễ dự báo thì
từ năm 2011 đến nay đang trong giai đoạn ổn định trì trệ dưới tiềm năng nên rất khó
dự báo cho một vài năm tới. Sự trì trệ kéo dài đã gần 3 năm đòi hỏi phải có sự thay
đổi nhưng thay đổi thế nào trong bối cảnh hiện nay là điều khó dự báo.
Hai khả năng đều rất dễ xảy ra: Hoặc tiếp tục phục hồi chậm chạp và ổn định
dưới mức tiềm năng, chất lượng tăng trưởng tiếp tục trì trệ, hoặc tăng tốc tương đối
mạnh để sớm trở lại quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng như đã nhiều lần xảy ra trước
đây. Dự báo khả năng đầu sẽ xảy ra trong năm 2015, năm đại hội Đảng các cấp, tiến
tới đại hội Đảng toàn quốc vào đầu năm 2016, nhưng diễn biến tiếp theo thế nào thì
chưa thể nói trước được.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trƣởng GDP giai đoạn 2000-2014 (%)
Tăng trưởng ổn định dưới tiềm năng không chỉ diễn ra trong toàn nền kinh tế
mà còn diễn ra ở tất cả các khu vực. Trước hết hãy nhìn khu vực nông lâm ngư
nghiệp. Mặc dù tăng trưởng năm 2014 đã lên tới xấp xỉ 3,5% nhờ mưa thuận gió
hòa, nhưng vẫn kém xa các năm 2005-2008. Tình hình tương tự diễn ra trong khu
vực tiếp theo là công nghiệp. Riêng khu vực dịch vụ, xu hướng giảm tốc độ tăng
trưởng vẫn liên tục kéo dài từ năm 2005 tới nay; điều này rất đáng quan tâm vì nó
phản ánh nhu cầu vẫn chưa thoát khỏi trì trệ và do đó sẽ hạn chế sự phục hồi, từng
bước đi lên vững chắc của toàn nền kinh tế. Đáng tiếc nếu như năm 2013 khu vực
dịch vụ đã có bước bứt phá về tốc độ tăng trưởng, dấu hiệu cho thấy cầu bắt đầu
7.556.98 7.13
5.665.40
6.42 6.24
5.25 5.425.98
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tăng trưởng GDP (%)
Page 3
được cải thiện, thì năm 2014 điểm sáng này đã không phát huy lên được, thậm chí
bị thụt lùi.
Hậu quả là cơ cấu kinh tế có những chuyển dịch theo hướng tiến bộ nhưng quá
chậm chạp: Tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP đều tăng không
đáng kể sau gần 10 năm phát triển (2006-2014). Tính chung tỷ trọng khu vực nông
nghiệp sau gần 10 năm chỉ giảm được 1,2%.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quá chậm gắn liền với tốc độ chuyển
dịch cơ cấu lao động cũng rất chậm. Đến hết năm 2014, vẫn còn tới 46,6% lực
lượng lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp. Tính chung sau 10 năm,
tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp chỉ giảm được 8,6%. Riêng năm 2014,
nhìn vào dòng cuối của bảng dưới đây, có thể thấy hầu như không có sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động so với năm 2013.
Đồ thị 2: Tốc độ tăng trƣởng của các khu vực giai đoạn 2000-2013 (%)
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Page 4
Bảng 1: Tỷ trọng các khu vực trong nền kinh tế (%)
Cơ cấu GDP (%) Cơ cấu lao động (%)
Nông
nghiệp
Công
nghiệp Dịch vụ
Nông
nghiệp
Công
nghiệp Dịch vụ
2005 19,30 38,14 42,56 55,2 17,6 27,2
2006 18,73 38,59 42,68 54,1 18,0 27,9
2007 18,66 38,52 42,82 53,0 18,9 28,1
2008 20,42 37,08 42,50 52,3 19,3 28,4
2009 19,17 37,38 43,45 51,5 20,0 28,5
2010 18,89 38,23 42,89 49,6 20,9 29,5
2011 20,08 37,90 42,00 48,3 21,3 30,4
2012 19,67 38,63 41,69 47,3 21,3 31,4
2013 18,38 38,31 43,32 46,8 21,2 32,0
2014 18,12 38,50 43,38 46,6 21,4 32,0
Để hiểu rõ hơn thực trạng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hãy xem xét
tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong năm 2014, cả nước có 74,8 nghìn
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký 432,2 nghìn tỷ đồng, giảm
2,7% về số doanh nghiệp và chỉ tăng 8,4% về số vốn đăng ký so với năm 2013. Bên
cạnh đó còn có 22,8 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn với tổng số vốn đăng
ký tăng thêm là 595,7 nghìn tỷ đồng. Như vậy, tổng số vốn đăng ký mới và đăng ký bổ
sung thêm vào nền kinh tế trong năm 2014 là 1027,9 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên trong năm 2004 có tới 67,8 nghìn doanh nghiệp phải giải thể, hoặc
đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, hoặc ngừng hoạt động chờ đóng mã số
doanh nghiệp... Như vậy, một mặt số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới so với
doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động không cao hơn đáng kể. Mặt
khác, mặc dù số vốn đăng ký mới và đăng ký bổ sung thêm khá lớn nhưng đó mới
là số vốn hứa hẹn trên sổ sách, trong khi những doanh nghiệp phải giải thể, ngừng
hoạt động đã và đang thực sự gây ra nhiều tổn thất cho nền kinh tế và toàn xã hội.
Page 5
Thêm nữa, tình trạng tồn kho của các doanh nghiệp trong rất nhiều lĩnh vực
còn khá lớn và tiếp tục tăng. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tại thời điểm 01/12/2014 vẫn tăng tới 10% so với cùng thời điểm năm 2013
(cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước). Tỷ lệ tồn kho
toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 11 tháng đầu năm 2014 cũng
rất cao (74,5%). Sự phục hồi của nền kinh tế đang rất mong manh, chủ yếu vẫn là
nhờ những đóng góp của các doanh nghiệp FDI.
Về phía tiêu thụ, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
năm 2014 tăng 10,6%; nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,3%, cao hơn mức 5,5% của
năm 2013. Do vậy tăng tiêu dùng là nhân tố quan trọng góp phần làm tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2014 tăng thêm 0,56% so với năm 2013. Nếu so sánh tốc độ tăng
trưởng tiêu dùng (6,3%) và tốc độ tăng trưởng kinh tế (5,98%), có thể thấy tiếp tục
có sự cân đối về tăng trưởng giữa hai chỉ tiêu này như đã thực hiện trong năm 203.
Tính chung tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 tiếp tục được cải thiện, chủ yếu
từ một số cải thiện nhỏ về phía cầu; trong khi đó khu vực doanh nghiệp vẫn hết sức khó
khăn; cung vẫn vượt cầu; khu vực dịch chưa thể phục hồi; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động hầu như không chuyển biến. Như vậy, tăng trưởng ổn định về lượng chưa đi đôi
với những thay đổi mạnh mẽ về chất như mong đợi. Chất lượng tăng trưởng vẫn rất
yếu kém.
2.Tỷ lệ đầu tƣ đƣợc giữ ở mức hợp lý; hiệu quả chậm đƣợc cải thiện
Đầu tư vừa là nhân tố cung, vừa là nhân tố cầu, và cũng là nhân tố chính tạo ra
tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua nhờ tỷ lệ
đầu tư trên GDP đã tăng lên rất nhanh và liên tục đứng ở mức rất cao. Việc phát
triển kinh tế thị trường và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa đã tạo ra nhiều cơ hội
đầu tư mới, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn ra làm giàu,
đóng góp vào quá trình phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy
một khi vốn đầu tư đã trở nên quá dồi dào thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ giảm xuống,
tất yếu dẫn tới việc phải điều chỉnh lại chiến lược đầu tư.
Sau một số năm triển khai đầu tư ồ ạt (2006-2010) dẫn tới hai cuộc khủng
hoảng lạm phát lớn 2008 và 2011 (xem đồ thị 6), từ năm 2011, tỷ trọng vốn đầu tư
toàn xã hội trên GDP đã giảm rất nhanh và liên tục; từ mức 42,7% năm 2007 và
38,5% năm 2010 xuống chỉ còn 33,3% năm 2011 và ổn định khoảng 30,5-31% năm
2013-2014, thấp nhất kể từ năm 2000. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thế giới, tỷ lệ
Page 6
đầu tư các năm 2013-2014 được xem là phù hợp với một nền kinh tế đang phát triển
ở trình độ trung bình thấp như nước ta; nếu giữ ổn định được tỷ lệ đầu tư này dài
hạn đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì chắc chắn tốc độ tăng trưởng và
chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế sẽ cao hơn đáng kể.
Đồ thị 3: Tỷ lệ đầu tƣ trên GDP và tốc độ tăng trƣởng GDP (%)
Điểm sáng chủ yếu về đầu tư năm 2014 là tỷ trọng vốn đầu từ khu vực kinh tế
ngoài nhà nước đã phục hồi trở lại sau hai năm giảm liên tiếp, trong khi tỷ trọng vốn
đầu tư của khu vực nhà nước sau hai năm tăng liên tiếp đã bắt đầu giảm xuống.
Tình hình này đối ngược với năm 2013. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài năm 2014 tiếp tục ổn định khoảng 22% trong tổng nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội. Riêng trong khu vực kinh tế nhà nước, chuyển dịch cơ cấu
nguồn vốn đầu tư tiếp tục theo hướng hiệu quả hơn, tức là giảm tỷ trọng vốn tín
dụng ưu đãi nhà nước và vốn của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tăng tỷ
trọng nguồn vốn ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và
thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo.
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tƣ theo thành phần kinh tế (%)
Tổng số Kinh tế
Nhà nƣớc
Kinh tế ngoài
nhà nƣớc
Khu vực có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài
2005 100,0 47,1 38,0 14,9
2006 100,0 45,7 38,1 16,2
2007 100,0 37,2 38,5 24,3
2008 100,0 33,9 35,2 30,9
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
40.0
45.0
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tỷ lệ ĐT trên GDP (%) Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Page 7
2009 100,0 40,5 33,9 25,6
2010 100,0 38,1 36,1 25,8
2011 100,0 37,0 38,5 24,5
2012 100,0 40,3 38,1 21,6
2013 100,0 40,4 37,6 22,0
2014* 100,0 38,2 38,4 21,7
Chú thích (*): Riêng năm 2014 còn có nguồn vốn khác khoảng 20,4 nghìn tỷ
đồng, chiếm 1,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Điểm yếu nổi bật về đầu tư năm 2014 là thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trong năm có 1588 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,6
tỷ USD, tăng 24,5% về số dự án và tăng 9,6% về vốn so với năm 2013. Đồng
thời có 594 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký bổ sung gần 4,6 tỷ
USD vốn đầu tư. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp
bổ sung đạt 20,3 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2013. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện năm 2014 ước tính đạt 12,4 tỷ USD, chỉ tăng 7,4% so với năm
2013. Như vậy so với năm 2013, hiệu quả công tác thu hút đầu tư nước ngoài đã
giảm sút.
Thêm nữa, nếu như trong năm 2013, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập
trung chủ yếu vào ngành trọng điểm để phát triển kinh tế thì năm 2014, tình hình đã
đảo ngược. Tỷ trọng vốn đăng ký vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo giảm
từ 76,9% xuống còn 71,6%; ngược lại tỷ trọng vốn đầu tư vào bất động sản và xây
dựng tăng lên tới 17,8%. Các ngành còn lại (kể cả sản xuất, phân phối điện, khí đốt)
chỉ chiếm 10,6%.
Hơn nữa, nếu như trong năm 2013 nhiều quốc gia công nghiệp phát triển đã
tăng cường đầu tư trở lại vào nước ta, thì năm 2014 hầu hết chỉ là những nước trong
khu vực hoặc các nước có công nghệ khá. Trong 57 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự
án đầu tư cấp mới tại Việt Nam năm 2014, tốp dẫn đầu đều từ nội bộ khu vực châu
Á: Hàn Quốc với 6,1 tỷ USD, chiếm 39,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là
Đặc khu Hành chính Hồng Kông với 2,8 tỷ USD, chiếm 17,9%; Singapore 2,3 tỷ
USD, chiếm 14,8%; Nhật Bản 1,2 triệu USD, chiếm 7,7%; Đài Loan 0,5 tỷ USD,
chiếm 3,3%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 0,4 tỷ USD, chiếm 2,5%...
Page 8
Đồ thị 4: Tiến triển của hệ số ICOR
Về sử dụng, các nguồn đầu tư xã hội năm 2014 được tập trung hơn cho
những mục tiêu tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất, dự báo trong
1-2 năm tới đây sẽ phát huy hiệu quả tới tăng trưởng. Nguồn vốn ngân sách nhà nước
được quản lý chặt chẽ hơn nhờ triển khai thực hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày
15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ. 2014 cũng là năm thứ 3 thực hiện đề án tổng
thể tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có nhiệm vụ tái cơ cấu đầu tư đi đôi với giảm dần
tỷ lệ đầu tư công, giảm tỷ trọng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, hoàn
thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho đầu tư
phát triển. Đặc biệt, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư công, chuyển sang quản lý
đầu tư theo kế hoạch trung hạn, áp dụng từ 1/7/2015, chắc chắn sẽ tạo thêm thuận
lợi để nâng cao chất lượng đầu tư phát triển.
Những cố gắng xiết chặt đầu tư công và tăng cường huy động đầu tư ngoài
nhà nước trong 2 năm 2013-2014 đã mang lại kết quả thiết thực: Hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư được cải thiện dù chưa nhiều. Hệ số ICOR đã giảm mạnh từ 7,26 năm
2009 xuống khoảng 5,9 trong 3 năm 2010-2012, rồi 5,61 năm 2013 và 5,18 năm
2014. Hệ số này so với các nước trong khu vực thì không còn quá cao, song so với
trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta thì cần phải tiếp tục hạ xuống
nhiều nữa để nâng cao hiệu quả sử dụng, qua đó nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Mặt khác, ICOR năm 2014 vẫn cao hơn mốc 2005 và những năm đầu thập kỷ
2000 nên tiềm năng giảm xuống còn lớn.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong lĩnh vực đầu tư, đang nổi lên một số
khó khăn cần khẩn trương tháo gỡ trong năm 2015. Cơ chế và chính sách thu hút các
4.975.46
5.99
6.747.26
5.99
5.33
5.935.61
5.18
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
ICOR
Page 9
nguồn vốn đầu tư chưa có bước tiến đột phá; luật pháp không ổn định, các văn bản
dưới luật quá nhiều và thường xuyên thay đổi; môi trường đầu tư chậm được cải thiện
và nhiều rủi ro; phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn lớn, chưa đủ hấp
dẫn đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước nên tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước
trong 10 năm qua không thể tăng lên được, thậm chí có nhiều năm giảm mạnh. Các
khu vực trọng điểm, có lợi thế hoặc còn nhiều tiềm năng chưa được quan tâm hỗ trợ
thích đáng nên hiệu quả đem lại thấp. Cải cách hành chính liên quan đến đầu tư nhìn
chung vẫn chậm trễ; tham nhũng gây khó dễ cho nhà đầu tư vẫn tràn lan... Nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước chưa thật sự phát huy vai trò là
vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác nhằm dẫn dắt hình thành cơ cấu đầu tư hợp
lý, có hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn. Việc thực hiện các
quy định về quản lý đầu tư và xây dựng chưa nghiêm...
3.Năng suất lao động đã đóng vai trò chủ lực trong quá trình tăng trưởng
Lý thuyết và kinh nghiệm thực tế tại các nước đang phát triển đều khẳng định
vai trò to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá.
Trong giai đoạn đầu phát triển, khi nguồn vốn còn khan hiếm, nguồn nhân lực thường
đóng vai trò rất quan trọng, như là một nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng chủ yếu của
nền kinh tế. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, vai trò của vốn đầu tư tăng lên nhưng
không vì thế mà vị trí của nguồn nhân lực bị xem nhẹ; lúc này chất lượng nguồn nhân
lực lại trở thành nhân tố cơ bản tạo ra công nghệ và kỹ thuật mới làm tăng hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư. Đặc biệt, khi khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành động lực
chủ yếu của quá trình tăng trưởng thì vai trò nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu của
nguồn nhân lực sẽ cực kỳ quan trọng.
Đồ thị 5: Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm 2008-2014 (%)
Ở nước ta, tình hình cũng không phải là ngoại lệ. Trong những năm 2008-
2010, khi tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP rất cao (khoảng 38-42%), vốn đầu tư đã phần
0
2
4
6
8
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị (%)
Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn (%)
Page 10
nào thay thế lao động, làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ
tuổi ở khu vực thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi
ở khu vực nông thôn đứng ở mức cao (năm 2009 hai tỷ lệ này lần lượt là 4,6% và
6,5%).
Bảng 3: Đóng góp của lao động và năng suất lao động tới tăng trƣởng GDP (%)
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
GDP, giá 2010, nghìn
tỷ đồng
1589 1700 1821 1924 2028 2158 2292 2413 2544 2696
Lao động, triệu người 42,8 44,0 45,2 46,5 47,7 49,0 50,4 51,7 52,4 53,0
NSLĐ (GDP/Lao động,
triệu đồng, giá 2010)
37,1 38,6 40,3 41,4 42,5 44,0 45,5 46,7 48,5 50,9
Tốc độ tăng trưởng
GDP (%)
7,55 6,98 7,13 5,66 5,40 6,42 6,24 5,25 5,42 5,98
Tốc độ tăng trưởng lao
động đang làm việc
trong nền kinh tế (%)
2,88 2,82 2,79 2,77 2,76 2,73 2,66 2,68 1,36 1,14
Tốc độ tăng NSLĐ
(%)
4,54 4,05 4,22 2,81 2,57 3,59 3,49 2,51 4,01 4,79
Đóng góp vào tốc độ
tăng trưởng GDP
(%):
100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
- Lao động 38,10 40,38 39,15 48,95 51,15 42,55 42,59 50,98 25,09 19,06
- NSLĐ 60,17 57,98 59,19 49,68 47,54 55,92 55,93 47,74 73,90 80,05
- Sai số tính toán 1,73 1,63 1,65 1,38 1,31 1,53 1,49 1,28 1,01 0,89
Tuy nhiên từ năm 2011 đến nay, với việc tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP giảm rất
mạnh, đồng thời các ngành sử dụng ít lao động (công nghiệp và xây dựng) cũng
tăng trưởng chậm lại, trong khi các ngành sử dụng nhiều lao động (nông nghiệp và
dịch vụ) tăng trưởng nhanh hơn, làm cho nhu cầu lao động tăng, dẫn tới tỷ lệ thất
nghiệp và thiếu việc làm giảm. Năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động
trong độ tuổi ở khu vực thành thị giảm xuống còn 3,4% trong khi tỷ lệ thiếu việc
làm của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn giảm còn 3%.
Số liệu trong bảng trên cho thấy nguồn nhân lực và năng suất lao động đã và
đang đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế nước ta, trong đó đóng
góp của năng suất lao động (nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu) thường cao hơn rất
nhiều so với đóng góp của số lượng lao động (nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng).
Một mặt, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động thường xuyên cao hơn tốc độ tăng
của lực lượng lao động sử dụng. Mặt khác, mặc dù tỷ lệ đóng góp của năng suất lao
động vào tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2006-2012 có xu hướng giảm khá
nhanh (từ 60,2% năm 2005 xuống còn 47,7% năm 2012), nhưng riêng hai năm
2013-2014 đã tăng rất mạnh trở lại, lên tới 73,9% và 80% tức là gấp 3-4 lần mức
Page 11
đóng góp của nhân tố số lượng lao động. Nếu như những số liệu về suy giảm tốc độ
tăng trưởng nguồn lao động là đúng (tốc độ tăng trưởng lao động đang làm việc
trong nền kinh tế chỉ còn khoảng 1,2% trong 2 năm 2013-2014) thì điều này chứng
tỏ từ năm 2013, đặc biệt năm 2014, bước đầu đã có phục hồi về chất lượng tăng
trưởng, đồng thời năng suất lại trở thành là nhân tố quan trọng nhất quyết định quá
trình tăng trưởng mặc dù chưa thực sự mạnh mẽ và ổn định như trường hợp các
nước khác trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4.Tiêu dùng tiếp tục là nhân tố cơ bản duy trì tốc độ tăng trƣởng
Mặc dù theo đà công nghiệp hóa, tỷ trọng tích luỹ trong tổng cầu (tổng cầu
gồm tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản và xuất khẩu) có xu hướng tăng lên nhưng
tiêu dùng vẫn luôn luôn là thành phần quan trọng nhất trong tổng cầu vì nó chiếm tỷ
trọng cao nhất; đến nay vẫn hơn 70% GDP trong khi tích lũy chỉ chiếm khoảng
28%.
Nhìn lại những năm đầu thế kỷ 21 đến nay, có thể thấy quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng có những biến động khá lớn. Có những giai
đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh hơn tăng trưởng tiêu dùng dẫn tới cung vượt cầu
(2000-2001) và đã phải thực hiện chính sách kích cầu (2002-2003). Kích cầu kéo
dài lại dẫn tới cầu vượt cung, gây ra lạm phát cao (2004), buộc lại phải áp dụng
chính sách hạn chế cầu (2005). Cứ thế chính sách mở rộng - thắt chặt cầu liên tiếp
được áp dụng luân phiên với quy mô ngày càng lớn từ năm 2006 đến 2012, làm cho
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đều biến động khá mạnh. Điểm đặc biệt trong
suốt thời kỳ này là các chính sách kích cung hầu như không phát huy tác dụng;
trong khi chính sách kích cầu có tác dụng ngắn hạn nhưng về trung hạn lại gây
khủng hoảng lạm phát, làm tăng chênh lệch giầu nghèo và phát sinh nhiều bức xúc
xã hội.
Tuy nhiên từ năm 2013, đặc biệt năm 2014, điều hành chính sách của Chính
phủ đã có bước thay đổi ngoạn mục và khá quyết liệt. Nếu như năm 2012 mặc dù
chính sách thắt chặt cầu đã được áp dụng rất mạnh nhưng nguy cơ ổn định kinh tế vĩ
mô vẫn rất lớn, nên nhiều chuyên gia dự báo sẽ tiếp tục có những thắt chặt tiêu dùng
hơn nữa trong năm 2013 thì thực tế đã không phải như vậy. Ngược lại, từ đầu năm
2014, trước tình trạng phá sản, đóng cửa của hàng loạt doanh nghịêp, nhiều chuyên
gia dự báo chính phủ sẽ tung ra một số gói kích cầu lớn theo cách làm của Mỹ (và
Mỹ đã thành công) thì thực tế ở Việt Nam cũng đã không diễn ra như vậy.
Một chính sách hài hòa tăng trưởng cung – cầu đã được nhất quán áp dụng
trong suốt 2 năm 2013-2014. Kết quả là trong năm 2013 tiêu dùng cuối cùng đã
tăng 5,36% (theo giá 2010) so với năm 2012, tích lũy tài sản tăng 5,45%. Hai mức
Page 12
tăng này đều tương tự như tốc độ tăng trưởng kinh tế (5,42%), phản ánh một quá
trình tăng trưởng cân đối cung – cầu kế thừa từ mức cân đối hợp lý được thiết lập từ
cuối năm 2012. Trong quá trình đó, tiêu dùng cuối cùng đóng góp tới 68,6% vào tốc
độ tăng trưởng GDP (3,72%/5,42%) trong khi tích lũy chỉ đóng góp 29,9%, tức là
tiêu dùng đang trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng thay cho nhân tố đầu
tư. Nếu nhìn lại tốc độ tăng trưởng tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng khoảng 5,6% (đã trừ yếu tố tăng giá) cũng tương tự với tốc độ tăng trưởng
kinh tế thì càng rõ có sự hài hòa về tăng trưởng trong năm 2013.
Việc tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tăng trưởng cung – cầu hài hòa
trong năm 2014 thể hiện rõ qua cân đối sử dụng GDP (và qua cân đối giữa tốc độ
tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng như đã nêu ở trên). Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt xấp
xỉ 6% thì tiêu dùng cuối cùng cũng tăng tương ứng là 6,2% và đóng góp tới 78,9%
vào tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn cả mức đóng góp trong năm 2013.
5.Xuất khẩu vẫn giữ vai trò quan trọng đối với tăng trƣởng trong khi cán
cân thƣơng mại bắt đầu thặng dƣ đáng kể
Cũng như đầu tư, xuất khẩu đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng
nhất tạo ra bước phát triển kinh tế nhanh trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, sau khi Việt
Nam ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tiếp đó trở thành thành viên đầy đủ của
WTO, điều kiện trao đổi thương mại, thu hút đầu tư thuận lợi hơn rất nhiều so với
trước; tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đều tăng lên rất mạnh, khoảng 25% mỗi
năm. Đến nay kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tương đương với 80%GDP
toàn nền kinh tế, phản ảnh vị thế rất quan trọng đối với tăng trưởng chung.
Bảng 4: Họat động xuất nhập khẩu hàng hóa (triệu USD)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân
xuất nhập
khẩu
Kim
ngạch
Tốc độ
(%)
Tỷ trọng
so GDP
(%)
Kim
ngạch
Tốc độ
(%)
Tỷ trọng so
GDP (%)
2000 14482,7 25,5 15636,5 33,2 -1153,8
2001 15029,2 3,8 16217,9 3,7 -1188,7
2002 16706,1 11,2 19745,6 21,8 -3039,5
2003 20149,3 20,6 25255,8 27,9 -5106,5
2004 26485,0 31,4 31968,8 26,6 -5483,8
2005 32447,1 22,5 56,3 36761,1 15,0 63,8 -4314
2006 39826,2 22,7 44891,1 22,1 -5064,9
Page 13
2007 48561,4 21,9 62764,7 39,8 -14203,3
2008 62685,1 29,1 80713,8 28,6 -18028,7
2009 57096,3 -8,9 57,2 69948,8 -13,3 70,1 -12852,5
2010 72236,7 26,5 65,3 84838,6 21,3 76,6 -12601,9
2011 96905,7 34,2 72,7 106749,8 25,8 80,1 -9844,1
2012 114529,2 18,2 73,8 113780,4 6,6 73,3 748,8
2013 132032,9 15,3 77,1 132032,6 16,0 77,1 0,3
2014 150042,0 13,6 80,4 148058,0 12,1 79,3 1984
Điểm son đáng chú ý nhất trong 5 năm gần đây là kim ngạch xuất khẩu
thường xuyên tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu, dẫn tới từ năm 2012 đến nay
nền kinh tế luôn trong tình trạng xuất siêu. Đặc biệt năm 2014 đã xuất siêu tới xấp
xỉ 2 tỷ USD, một hiện tượng chưa từng có từ trước tới nay. Điều này phản ánh một
xu hướng phát triển tích cực, cần tiếp tục phát huy tiến tới liên tục xuất siêu đảm
bảo có đủ nguồn thu ngoại tệ trả các khoản nợ nước ngoài vay từ nhiều năm trước.
Tuy nhiên, đã xuất hiện một số vấn đề đáng lưu ý trong họat động xuất khẩu.
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu liên tục giảm dần kể từ năm 2012. Tính
chung cả năm 2014, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so
với năm 2013 nhưng nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì chỉ tăng 9,1%.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 48,4 tỷ
USD, chỉ tăng 10,4%; trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 101,6 tỷ
USD (gồm cả dầu thô), tăng 15,2%, và đạt 94,4 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng tới
16,7%. Như vậy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu cao hơn nhiều so với khu vực trong nước; do đó ngày càng nắm vị thế áp đảo so
với các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, hiệu quả
kinh tế cao… đều thuộc về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, quá trình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu trong năm 2014 tiếp tục thay
đổi theo hướng tích cực song vẫn khá chậm. Xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản vẫn rất cao, đạt 66,5 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2013; trong
khi nhóm hàng công nghiệp nhẹ mới đạt 57,9 tỷ USD mặc dù tăng tới 15,9%. Nhóm
hàng nông sản, lâm sản 17,8 tỷ USD, tăng 11,4%. Nhóm hàng thủy sản đạt 7,9 tỷ
USD, tăng 17,6%.
Về nhập khẩu hàng hóa, tổng kim ngạch năm 2014 đạt 148 tỷ USD, tăng
12,1% so với năm trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 84,5 tỷ
USD, tăng 13,6%; khu vực kinh tế trong nước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 10,2%. Đáng
lưu ý là Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch
nhập khẩu đạt 43,7 tỷ USD. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ thị trường
này cũng rất cao, tăng tới 18,2% so với năm 2013. Nhập siêu cả năm từ Trung Quốc
ước đạt 28,9 tỷ USD, tăng tới 21,8% so với năm 2013. Đây là những hiện tượng rất
Page 14
không bình thường theo chuẩn mực thương mại song phương quốc tế.
6.Cân đối ngân sách đƣợc duy trì hợp lý song nợ tiếp tục tăng có nguy cơ
gây bất ổn vĩ mô
Cũng như các năm gần đây, 2014 là một năm đầy thử thách với ngành tài
chính. Nhiều nhân tố bất lợi cho công tác thu chi ngân sách tiếp tục kéo dài: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế thấp; tình trạng doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc giảm hoạt
động vẫn diễn ra phổ biến khắp nơi; nợ quốc gia, nợ của khu vực doanh nghiệp tăng
nhanh; nhiều loại thuế phải giảm theo các cam kết hội nhập kinh tế, hoặc hoãn,
miễn, giảm để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn; giá dầu trên
thị trường thế giới giảm mạnh... Khó về thu nhưng nhu cầu chi ngân sách vừa để trả
nợ và giải quyết những nhu cầu xã hội cấp bách, vừa để kích cầu khu vực này, kích
cung khu vực khác nhằm phục hồi tốc độ tăng trưởng, tạo công ăn việc làm... lại rất
lớn.
Bảng 5: Thu chi và cân đối ngân sách nhà nƣớc (tỷ đồng và %)
Năm
Thu ngân sách Chi ngân sách Bội chi ngân sách
Tổng thu
ngân sách
Tốc độ
tăng (%)
Tỷ lệ so
GDP (%)
Tổng chi
ngân sách
Tốc độ
tăng (%)
Tỷ lệ so
GDP (%) Bội chi
Bội chi so
GDP (%)
2000 90749 20.55 108961 24.67 18212 4,12
2002 123860 23.12 148208 27.66 24348 4,54
2003 152274 22,94 24.82 181183 22,25 29.54 28909 4,71
2004 190928 25,38 26.69 214176 18,21 29.94 23248 3,25
2005 228287 19,57 24.98 262697 22,65 28.74 34410 3,76
2006 279472 22,42 26.33 308058 17,27 29.02 28586 2,69
2007 315915 13,04 25.34 399402 29,65 32.03 83487 6,70
2008 430549 36,29 26.64 452766 13,36 28.02 22217 1,37
2009 454786 5,63 25.14 561273 23,97 31.02 106487 5,89
2010 588428 29,39 27.27 648833 15,60 30.07 60405 2,80
2011 721804 22,67 25.97 787554 21,38 28.33 65750 2,37
2012 752430 4,24 23.18 926245 17,61 28.54 173815 5,36
2013 824000 9,51 22.99 986200 6,47 27.51 162200 4,53
2014 858000 4,13 21.79 1040000 5,46 26.41 182000 4,62
Page 15
Điểm sáng của nền tài chính quốc gia trong năm 2014 là vẫn duy trì được
những cân đối cần thiết, vừa tiếp tục củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tiếp tục
khai thác tốt hơn các nguồn tài lực để bù đắp vào những nguồn phải cắt giảm theo
các cam kết quốc tế. Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước cả
năm 2014 đạt khoảng 858 nghìn tỷ đồng; tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đạt khoảng
21,8%, giảm so với năm 2013 (23%). Cả 3 lĩnh vực thu nội địa, thu từ dầu thô và
thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đều vượt dự toán năm.
Tổng chi ngân sách ước đạt 1040 nghìn tỷ đồng, bằng 26,1% GDP. Do vậy,
bội chi ngân sách (chưa kể chuyển nguồn) năm 2014 bằng 4,6% GDP, tăng nhẹ so
với năm 2013. Đây là những tỷ lệ thu, chi và bội chi ngân sách hợp lý trong giai
đoạn kinh tế suy trầm và hiệu quả sử dụng ngân sách chưa cao hiện nay
Đáng lưu ý là các tỷ lệ thu chi ngân sách trên GDP năm 2014 tiếp tục theo xu
hướng giảm dần về mức phù hợp với một nền kinh tế thị trường ở một quốc gia có
thu nhập trung bình. Nếu như tới đây khu vực kinh tế nhà nước được thu hẹp dần,
nhà nước cũng rút dần ra khỏi một số lĩnh vực, trong khi khu vực kinh tế thị trường
phát triển mạnh thì hoàn toàn có thể giữ vững tỷ lệ thu đồng thời tiếp tục giảm sâu
hơn nữa tỷ lệ chi ngân sách trên GDP để vừa khoan sức dân và hỗ trợ khu vực
doanh nghiệp, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.
Trong năm 2014, ngành tài chính đã tập trung tăng cường quản lý chặt chẽ nợ
công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia, bảo đảm khả năng trả nợ. Bên
cạnh việc bố trí dự toán chi trả nợ đúng hạn theo cam kết, đã tổ chức phát hành
thành công một tỷ USD trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm với lãi suất 4,8%/năm,
qua đó tiết kiệm được chi phí, giãn áp lực bố trí nguồn trả nợ cho các năm 2016-
2020; đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường vốn quốc tế
thuận lợi và chi phí thấp hơn.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực tài chính vẫn tồn tại nhiều vấn đề đáng lo ngại, trong
đó nổi bật là nợ trong và ngoài nước tiếp tục tăng nhanh có nguy cơ gây bất ổn kinh
tế vĩ mô trong những năm tới đây. Tính đến hết năm 2014, nợ công tương đương
60,3% GDP (hết năm 2013 là 56,2% GDP), nợ Chính phủ bằng 46,9% GDP (hết
năm 2013 là 42,6% GDP) trong khi nợ nước ngoài của quốc gia là 39,9% GDP (hết
năm 2013 là 39,5% GDP). Do áp lực của nhu cầu chi ngân sách, khối lượng trái
phiếu chính phủ phát ra hàng năm vẫn rất lớn, năm 2014 đã phát hành khoảng 214
nghìn tỷ đồng, dẫn tới giảm nguồn vốn và tăng lãi suất đối với khu vực kinh tế tư
nhân.
Hoạt động của thị trường chứng khoán năm 2014 kém khởi sắc; tốc độ tăng
trưởng tại hai sàn đều thấp. Đến hết năm 2014, chỉ số VN-Index đạt 545,6 điểm, chỉ
Page 16
tăng 40 điểm và tăng 8,1% so với cuối năm 2013 (năm 2013 hai sàn đều tăng
trưởng khoảng 22%); giá trị vốn hoá thị trường chỉ đạt 30,9% GDP giảm nhẹ so với
cuối năm 2013. Tổng giá trị huy động vốn ước đạt 237 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 6%
so với cùng kỳ năm 2013, trong đó phát hành cổ phiếu 23 nghìn tỷ đồng và trái
phiếu chính phủ 214 nghìn tỷ đồng. Như vậy, trong năm 2014, thị trường chứng
khoán chỉ huy động được 23 nghìn tỷ đồng phục vụ doanh nghiệp, một kết quả quá
nhỏ bé so với kênh dẫn vốn ngân hàng. Lưu ý là trong 23 nghìn tỷ đồng trên, không
phải tất cả đều là tiền phục vụ doanh nghiệp, mà còn bao gồm phát hành cổ phiếu để
chia tách hay để trả cổ tức cho cổ đông.
7. Lạm phát trở về mức an toàn, cần tiếp tục giữ ổn định, từng bƣớc ổn
định mặt bằng giá
Trong hai năm gần đây, chính sách tiền tệ ở nước ta đã được nới lỏng khá thận
trọng và ổn định để đảm bảo vừa kiểm soát được lạm phát, mục tiêu hàng đầu của ổn
định kinh tế vĩ mô, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội. Tổng phương tiện thanh toán tính đến thời điểm 22/12/2014 tăng 16% so với
tháng 12 năm 2013 (cùng kỳ năm 2013 tăng 16,1%); tín dụng cho vay đối với nền
kinh tế tăng 12,6% (cùng kỳ năm 2013 tăng 12,5%); nguồn vốn huy động tăng 15,8%
(cùng kỳ năm 2013 tăng 17,2%).
Nhìn chung, trong giai đoạn ngắn hạn, tín dụng cho vay đối với nền kinh tế
tăng như 2 năm vừa qua là hợp lý, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh
toán 16% là vẫn khá cao. Mặc dù tỷ lệ lạm phát đã được kiểm soát ở mức chấp nhận
được, năm 2014 là 4,1%, thấp nhất trong vòng 10 năm qua, nhưng rất cần theo dõi
và đánh giá hiệu quả thường xuyên để kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.
Đặc biệt, cần lưu ý tỷ lệ lạm phát thấp năm 2014 có những nguyên nhân quan
trọng là giá dầu thô thế giới giảm mạnh; giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới khá
ổn định; nguồn cung lương thực, thực phẩm và đa số các loại hàng hóa khác trong
nước đều tương đối dồi dào... trong khi sức mua của dân cư đang rất yếu. Một khi
những yếu tố này thay đổi thì tỷ lệ lạm phát có thể tăng lên rất nhanh.
Mặt khác, tỷ lệ lạm phát 4,1% năm 2014 trong bối cảnh tăng trưởng yếu vừa
qua cũng vẫn là hơi cao đối với một nền kinh tế thị trường như nước ta. Cần khẳng
định điều này để khắc phục tâm lý cho rằng ở Việt Nam tỷ lệ lạm phát có thể chấp
nhận được lên tới 6-7%. Lạm phát trên 6-7% thường phải đi kèm một tốc độ tăng
trưởng kinh tế trên 8%, tức là trong bối cảnh một nền kinh tế tăng trưởng nóng cần
được điều chỉnh hạ nhiệt. Do đó cần tiếp tục duy trì hoặc giảm một chút tỷ lệ lạm
Page 17
phát ở tầm trung hạn.
Page 18
Đồ thị 6: Tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân năm 2000-2014 (%)
Nhờ thực thi chính sách tài chính lành mạnh, chính sách tiền tệ thận trọng và
những thuận lợi trong nước và quốc tế nên trong năm 2014 hệ thống tài chính, tiền
tệ, giá cả và tỷ giá đã cơ bản ổn định, tạo nền tảng rất quan trọng để chấm dứt tình
trạng "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm
qua. Tuy nhiên hiện nay hoạt động ngân hàng vẫn đang đối mặt với nhiều thách
thức. Tỷ lệ nợ xấu đang ở mức khá cao; chất lượng tín dụng chưa được cải thiện; nợ
xấu chưa được phân loại và đánh giá đầy đủ, chính xác theo chuẩn mực quốc tế.
Hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng rất thấp so với các năm trước đây.
Chênh lệch thu nhập - chi phí năm 2014 của toàn hệ thống chỉ tăng khoảng 3%,
thấp hơn so với năm 2013. Chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào thấp,
trong khi chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng mạnh do chất lượng tài sản giảm
sút... Đây là những thách thức cần tiếp tục xử lý trong năm 2015.
8. Đánh giá toàn cảnh kinh tế vĩ mô năm 2014
Nhìn bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô năm 2014 nêu trên, có thể khẳng định
nền kinh tế tiếp tục có những tiến bộ nhất định và quan trọng hơn, đang đi đúng
hướng mặc dù bước đi còn rất chậm và chưa ổn định. Đối với một nền kinh tế mới
thoát khỏi ngưỡng nước nghèo chưa lâu, trong điều kiện cơ cấu kinh tế vĩ mô mất
cân đối nghiêm trọng kéo dài, đạt được những thành tựu vĩ mô nêu trên là rất đáng
khích lệ.
Điểm sáng lớn nhất là các cân đối vĩ mô sau khi chuyển dịch về các “tọa độ”
cân bằng trung hạn trong năm 2013 đã tiếp tục được củng cố trong năm 2014; do đó
tới đây nếu không có bất ngờ xảy ra thì sẽ bền vững và hiệu quả; trên cơ sở này có
thể điều chỉnh lớn về thể chế và cơ cấu kinh tế, từ đó mở ra một giai đoạn tăng
-1.6 1
3.9 3.2
7.7 8.3 7.5 8.3
23
6.9
9.2
18.6
9.2
6.6
4.1
-5
0
5
10
15
20
25
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tỷ lệ lạm phát
Page 19
trưởng mới với tốc độ và chất lượng cao hơn.
Cần nhắc lại là đối với mỗi nền kinh tế đều có một tốc độ tăng trưởng kinh tế
tiềm năng (trung, dài hạn) đi kèm với những cân đối vĩ mô tương ứng. Điều này
cũng giống như một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng phải đi kèm với một tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên hay một tỷ lệ lạm phát tự nhiên.
Nếu đưa tất cả vào một mô hình tính toán cân đối, hoàn toàn có thể xác định
được đi kèm với một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng cân bằng trung hoặc dài
hạn, ví dụ 7-7,5% như ở nước ta trong gần hai thập kỷ trước (1990-2007), 5,5-6%
trong giai đoạn hiện nay (bằng tốc độ tăng trưởng trung bình của 7 năm 2008-
2014) và khoảng 7-7,5% từ năm 2020 trở đi, thì những chỉ tiêu cơ bản liên quan
như đầu tư, lao động, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, ngân sách, lạm phát... cần
tương ứng là bao nhiêu. Đây chính là bộ các “tọa độ” cân bằng (trung, dài hạn),
hay trục, quỹ đạo tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang
phát triển chệch (tăng trưởng nóng hoặc lạnh) với quỹ đạo tăng trưởng tiềm
năng, thông qua các điều chỉnh chính sách, chúng ta có thể đưa nền kinh tế quay
trở lại quỹ đạo phát triển tiềm năng. Quá trình này gọi là bước hay quá trình điều
chỉnh kinh tế; thời gian cần thiết để quay trở lại được gọi là thời gian hay tốc độ
điều chỉnh kinh tế.
Lịch sử phát triển kinh tế gần đây đã chứng minh rất rõ điều đó. Trong giai
đoạn trung hạn 2008-2014, nền kinh tế đã tăng trưởng quá nóng vào năm 2010 gây
ra những bất ổn rất nghiêm trọng, phải cần đến 3 năm 2011-2013 mới trở về được
quỹ đạo cân bằng thấp và thêm 1 năm 2014 để củng cố thế cân bằng bền vững và
nâng dần hiệu quả. Trong quá trình đó, đôi khi đã phải trả giá quá nhiều; ví dụ năm
2012 do hạ cánh quá nhanh, thắt chặt tài chính tiền tệ quá mạnh, tỷ lệ lạm phát giảm
đột ngột..., hàng trăm nghìn doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc đóng cửa dừng hoạt
động; đời sống người lao động và dân cư gặp rất nhiều khó khăn. Dự báo còn cần ít
nhất 1-2 năm nữa các cân bằng vĩ mô mới trở nên thực sự bền vững và phát huy
hiệu quả, tạo điều kiện để nâng dần tốc độ tăng trưởng kinh tế về tốc độ tiềm năng
cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nghiêm túc mà nói, đối với nền kinh tế nước ta, đã qua rồi giai đoạn tăng
trưởng dễ dàng. Nếu không có những đổi mới mạnh mẽ, kiên quyết thì tốc độ tăng
trưởng kinh tế tiềm năng không thể cao bằng giai đoạn trước. Khác với những năm
đầu đổi mới – mở cửa, khi đó các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng còn rất phong
phú, nhu cầu của dân cư sau thời kỳ chiến tranh thắt lưng buộc bụng và bao cấp khắc
khổ tăng lên rất nhanh đồng thời tốc độ tăng trưởng dân số cũng rất cao, cần một tốc độ
tăng trưởng lên tới 7-7,5%/năm để thỏa mãn. Ngày nay, đời sống nhân dân đã thay đổi
Page 20
rõ rệt so với trước trong khi tốc độ tăng trưởng dân số cũng đã chậm lại rất đáng kể (chỉ
còn 1%) nên sức ép phải tăng trưởng nhanh thực sự không quá lớn. Vấn đề quan trọng
hơn là chất lượng tăng trưởng và chính sách điều tiết, phân chia thu nhập hợp lý; đặc
biệt cần kiên quyết chống tham nhũng để những thành tựu về tăng trưởng đến tay
người lao động, người nghèo chứ không chỉ lọt vào tay một bộ phận người giầu. Trong
bối cảnh khó khăn hiện nay, một tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 5,5-6% là hoàn
toàn phù hợp; tương ứng với nó là tỷ lệ đầu tư trên GDP cũng không nên quá 30%, thu
ngân sách không nên vượt quá 22-23% GDP; tỷ lệ lạm phát không nên quá 5-6%... Vì
thế mới nói đối chiếu những chỉ tiêu, “tọa độ” này với bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô,
có thể tin rằng nền kinh tế đã đi tới đáy vào năm 2013 và đang dần dần lập được trạng
thái cân bằng ổn định với năng suất, chất lượng và tốc độ tăng trưởng tăng dần lên kể
từ năm 2014.
Khái quát lại, trong năm 2014, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng
trưởng tương đối hợp lý; các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tỷ lệ lạm phát trở
về mức an toàn, lần đầu tiên đạt được kể từ năm 2004... Tăng trưởng kinh tế vẫn phụ
thuộc các các nhân tố tăng trưởng của những năm trước là đầu tư, lao động, xuất khẩu
và tiêu dùng; tuy nhiên vai trò của chúng đang được điều chỉnh. Trong khi vai trò của
vốn đầu tư giảm mạnh, vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu ổn định thì vai trò của
năng suất lao động, đã tăng lên rất nhanh. Mặt khác, tiêu dùng đang nổi lên, thay cho
vốn đầu tư, trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng, trong đó tiêu dùng chính
phủ đang giữ vị trí rất quan trọng. Điều này phản ánh tác động của các nhân tố tăng
trưởng theo chiều rộng (vốn, lao động) đã chậm lại, trong khi tác động của các nhân
tố theo chiều sâu (hiệu quả đồng vốn, năng suất lao động) và thị trường (tiêu dùng)
bắt đầu tăng lên. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, thương mại, giá cả đều phát
triển ổn định hơn dù chưa có những tiến bộ nổi bật.
Tuy nhiên, nhiều khó khăn thách thức vẫn tồn tại, có mặt trở lên gay gắt hơn.
Nổi bật là tốc độ đổi mới quá chậm và thiếu kiên quyết; cơ cấu kinh tế vẫn hết sức
trì trệ, chưa thấy lối ra, từ cơ cấu vĩ mô xuống cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm, cơ
cấu địa bàn. Sản xuất kinh doanh vẫn gặp rất nhiều khó khăn; số doanh nghiệp giải
thể, ngừng hoạt động vẫn rất lớn. Bội chi 4,6% vẫn quá cao do nhu cầu chi tiêu
chính phủ quá lớn. Nợ xấu, rủi ro vẫn là những nỗi lo, bức xúc thường trực. Thực
hiện lộ trình giá thị trường đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu chậm. Hoạt
động của một số tổ chức tín dụng chưa thực sự an toàn. Thị trường bất động sản
trầm lắng; nguy cơ khủng hoảng vẫn lớn, nhất là do tốc độ tăng trưởng cung tiền tệ
vẫn khá cao. Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; hệ số ICOR cao.
Các chương trình tái cơ cấu được thực hiện quá chậm. Đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng chậm lại, giá thành quá cao... có nguy cơ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế
Page 21
trong những năm tới. Chênh lệch giầu nghèo, bất công đã trở lên quá lớn gây nhiều
bức xúc trong xã hội.
Do vậy, mặc dù nền kinh tế có dấu hiệu ấm lên song sự phục hồi còn rất mong
manh nên Việt Nam cần kiên trì con đường tăng trưởng thận trọng. Nếu tiếp tục
nhấn mạnh mục tiêu tăng trưởng, sẽ buộc phải gia tăng đầu tư công, gia tăng nợ
công, nới lỏng thêm chính sách tiền tệ, tăng cường phát hành trái phiếu, làm giảm
nguồn vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh... Hậu quả sẽ rất tai hại như những
gì đã diễn ra trong khoảng chục năm gần đây.
Bao trùm lên tất cả và là nguy cơ chính gây mất ổn định kinh tế trong thời gian
tới là tốc độ cải cách kinh tế, cải cách thể chế, cải cách hành chính đều quá chậm.
Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách rất yếu.
Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm; tham nhũng lãng phí vẫn tràn lan chưa
có cách gì khắc phục; tác dụng của công tác giám sát, thanh tra rất hạn chế. Chất
lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt giảm sút.
Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn diễn ra khắp nơi nhưng không có giải pháp căn cơ xử
lý. Nói nhiều, hứa nhiều, làm ít hoặc không làm đang là căn bệnh phổ biến ở mọi
cấp lãnh đạo.
Nguyên nhân chủ yếu là lãnh đạo chưa thực sự kiên trì mục tiêu tăng trưởng
GDP khoảng 5,5-6%, vẫn muốn tăng trưởng nhanh hơn nên không còn nhiều tâm
sức nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường phù hợp
với trình độ phát triển, đẩy mạnh tái cơ cấu lại nền sản xuất, mạnh mẽ đấu tranh
chống tham nhũng, cải cách bộ máy nhà nước và công tác cán bộ theo hướng tận
tâm phục vụ dân... Cũng chưa thực tâm tuân thủ nguyên tắc tối cần thiết đề ra trong
suốt năm 2014 là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô
và phát triển hài hòa làm đại cục, ra sức nâng cao chất lượng tăng trưởng để thay
đổi hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài
hàng chục năm qua. Khi muốn tiếp tục tăng trưởng kinh tế cao thì sẽ không thể chấp
nhận những chi phí phải bỏ ra (kèm theo việc giảm tốc độ tăng trưởng) để thực hiện
những cải cách cần thiết.
9. Nhìn về tương lai: Muốn gì và cần làm gì trong năm 2015 và 1-2 năm
tiếp theo?
Bối cảnh phát triển kinh tế năm 2015 cũng như mọi năm đều sẽ có những mặt
thuận và những mặt không thuận, nhưng dự báo mặt thuận là cơ bản. Kinh tế thế
giới phục hồi và hội nhập kinh tế với thế giới, với Cộng đồng kinh tế ASEAN chắc
chắn sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta. Tuy nhiên, như dự báo
của nhiều tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tăng lên dù không mạnh
nhưng vững chắc vì đã có những điều chỉnh thể chế kinh tế tài chính thích hợp, hiệu
Page 22
quả. Tháng 1/2015 Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh dự báo giảm 0,3% về
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới so với dự báo thực hiện tháng 10/2014. Do vậy,
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới sau khi đều đạt 3,3% trong 2 năm 2013-2014 sẽ
chỉ tăng lên 3,5% năm 2015 và 3,7% năm 2016. Đáng ngạc nhiên là các nền kinh tế
nhóm G7 (trừ Nhật Bản) đều sẽ cải thiện nhanh tốc độ tăng trưởng trong khi những
nền kinh tế mới nổi và đã có thời tăng trưởng rất nhanh lại khó có thể nâng cao
được tốc độ tăng trưởng vốn đang rất yếu.
Nhờ kinh tế phục hồi, tới đây nhiều nước công nghiệp sẽ cắt giảm chương
trình kích cầu. Lãi suất ở Mỹ và châu Âu sẽ tăng; nguồn vốn từ các nước đó chạy
vào Việt Nam và các nước đang phát triển khác sẽ chậm lại vì chúng sẽ lưu lại ở
Mỹ và các nước công nghiệp phát triển do lãi suất ở đó cao. Điều này sẽ ảnh
hưởng tới thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta, và do đó sẽ ảnh hưởng tới khả
năng tăng trưởng trung hạn và dài hạn. Thực tế này đã xảy ra trong nửa cuối năm
2014 khi kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi và từng bước đang trở lại tốc độ tăng trưởng
cao.
Ở tầm trung và dài hạn, có thể thấy rõ kinh tế toàn cầu nói chung và của các
nước đang phát triển châu Á nói riêng sẽ khó có thể lập lại những tốc độ tăng
trưởng thần kỳ đạt được trong nửa sau thế kỷ 20. Kinh tế Mỹ đã từ hơn chục năm
nay chỉ tăng trưởng khoảng 1-3%, giảm mạnh so với 4-5% trong nhiều năm trước
đó, trong đó hai năm 2013-2014 chỉ tăng trưởng 2,3%/năm; dự báo năm 2015 sẽ
tăng lên 3,6% rồi giảm về 3,3% năm 2016. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước
khối EU cũng giảm mạnh tương ứng. Kinh tế Trung Quốc IMF dự báo chỉ tăng
trưởng khoảng 6,8% năm 2015 và 6,3% năm 2016 so với xấp xỉ 10%/năm trong
suốt 30 năm trước đó.
Dự báo trong 2 năm 2015-2016, tăng trưởng kinh tế của nhóm ASEAN-5 gồm
5 quốc gia Đông Nam Á Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam
chỉ đạt 5,2%, trong đó, Việt Nam dự báo cũng chỉ đạt mức 5,2%. IMF dự báo năm
2016, tăng trưởng kinh tế của nhóm sẽ phục hồi hơn so với năm 2015 nhưng cũng
chỉ đạt mức 5,3%.
Trong năm 2015 khu vực các nước ASEAN sẽ có nhiều chuyển biến lớn với
sự hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm. Đây sẽ là một
thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất duy nhất, trong đó hàng hóa, dịch vụ,
vốn đầu tư và nhân công có trình độ sẽ được tự do lưu thông giữa tất cả các
nước. Do vậy, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra. Tự do hoá kinh tế trong nội bộ
khối sẽ làm cho nhiều loại chi phí giảm mạnh và các luồng vốn di chuyển giữa
các quốc gia ASEAN ngày càng dễ dàng hơn; sự dịch chuyển các luồng vốn giữa
các quốc gia trong khu vực sẽ tăng mạnh, đặc biệt là hình thức đầu tư trực tiếp
Page 23
nước ngoài (FDI).
Ở trong nước, dự báo tình hình năm 2015 nền kinh tế vẫn tương đối trì trệ,
nhưng từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng được tổ chức vào đầu
năm 2016, và việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đất nước và nền kinh tế
sẽ phải có nhiều thay đổi to lớn. Về bối cảnh, có thể nói 2015 sẽ là năm bản lề cho
tương lai của nền kinh tế Việt Nam, bởi đây sẽ là năm hình thành nhiều khối tự do
mậu dịch mà Việt Nam sẽ tham gia, trước hết là ba khối: Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên hiệp châu Âu (Việt
Nam – EU AFTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Riêng với
hợp tác ASEAN, trong năm 2015, Việt Nam sẽ phải đẩy mạnh việc thực hiện những
sáng kiến kinh tế hiện có, đặc biệt là: (i) Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp
định Khung ASEAN về Dịch vụ và Khu vực Đầu tư ASEAN; (ii) thúc đẩy hội nhập
khu vực trong các ngành ưu tiên; (iii) tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc đi lại của
doanh nhân, lao động lành nghề và nhân tài giữa các nước ASEAN...
Những áp lực của hội nhập, cạnh tranh quốc tế và khu vực cùng với những chủ
trương chính sách mới được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của
Đảng đầu năm 2016 chắc chắn sẽ đòi hỏi Chính phủ cũng như từng doanh nghiệp,
cá nhân phải hành động quyết liệt hơn. Thuận lợi và khó khăn đan xen nhau; khó
khăn cũng có mặt tích cực là tạo sức ép để phải đổi mới, phải hành động. Thực tiễn
cho thấy càng bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, người Việt và doanh nhân Việt càng
trở lên mạnh mẽ. Do vậy, nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-
2020 dự báo sẽ cao hơn so với giai đoạn 2011-2015; năng suất, chất lượng, hiệu quả
dự báo sẽ có bước cải thiện... nếu như những chính sách phát triển đi đúng hướng.
Giữa lúc nền thế giới đang phục hồi tăng trưởng và sức ép cạnh tranh quốc tế
lớn như vậy, thì nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng vẫn
quá yếu ớt, thậm chí chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Do vậy, mục
tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế năm 2015 và 1-3 năm tiếp theo không phải là
tăng trưởng cao mà là tập trung sửa chữa những lỗi hệ thống, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, làm nền tảng phát triển mạnh mẽ cho những năm sau. Nếu như Việt
Nam giữ được tốc độ tăng trưởng khoảng 5,5-6% trong khi chất lượng tăng trưởng
và sức cạnh tranh tăng vọt, thì sẽ là điều rất đáng mừng.
Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, không gì khác hơn là phải đổi mới mô
hình tăng trưởng, nhấn mạnh vào sử dụng nguồn vốn con người, phát huy sức mạnh
của trí tuệ con người, thay cho nguồn vốn đầu tư cũng như các nhân tố phát triển
theo chiều rộng khác. Dứt khoát phải từ bỏ con đường phát triển dựa vào mở rộng
bội chi ngân sách, phát hành tiền tệ tín dụng, khai thác tài nguyên và lao động rẻ
tiền (thực chất là bóc lột nhân công), bán đất đai và vay nợ nước ngoài như đã làm
trong hàng chục năm qua, tập trung tâm trí và sức lực xây dựng (i) một hệ thống
pháp luật đầy đủ, khoa học và thực hiện triệt để nguyên tắc thượng tôn pháp luật,
Page 24
(ii) một thể chế kinh tế thị trường thực sự lành mạnh, theo đúng chuẩn mực quốc tế
để động viên được sức mạnh của toàn dân, toàn thể cộng đồng doanh nghiệp vào sự
nghiệp phát triển đất nước. Đây cũng chính là những vấn đề then chốt phải xử lý để
đất nước tăng trưởng nhanh, bền vững và thoát được ra khỏi cái bẫy thu nhập trung
bình.
Những vấn đề cụ thể để chất lượng tăng trưởng, đổi mới mô hình tăng
trưởng... rất nhiều, không thể bàn tới trong khuôn khổ bài viết này được. Để bắt đầu
từ đâu, dựa vào đâu để thóat khỏi tình trạng trì trệ hiện nay, chỉ xin kể ra một vấn đề
then chốt, trọng tâm nhất và dễ thấy nhất là công tác cán bộ.
Chất lượng cán bộ quyết định tất cả; cán bộ tốt thì làm ra thể chế tốt, điều
hành và giám sát thực hiện thể chế tốt. Đất nước tiến nhanh hay tiến chậm, phát
triển hay thụt lùi có liên quan chặt chẽ tới chất lượng hoạt động của bộ máy lãnh
đạo đất nước, của hệ thống chính quyền từ trung ương với cơ sở. Để nâng cao chất
lượng tăng trưởng, dứt khoát phải nâng cao chất lượng bộ máy giám sát thực hiện
đúng pháp luật và nguyên tắc kinh tế thị trường, tức là nâng cao năng lực và phẩm
chất đội ngũ cán bộ nhà nước.
Thực ra Việt Nam là nước đi sau nên hoàn toàn có thể sao chép kinh nghiệm,
cách làm của các nước đi trước để áp dụng cho mình (như Trung Quốc đã và đang
làm rất thành công), mặt khác cán bộ nhà nước đa phần là làm sự vụ hành chính
theo quy định của pháp luật. Do đó không nhất thiết phải dồn sức cho việc nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ mà vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay là nâng cao phẩm
chất, đạo đức cán bộ.
Phẩm chất cán bộ thể hiện ở hai tiêu chí: (i) Dám nhìn thẳng vào sự thật, nói
ra sự thật, bảo vệ những người nói ra sự thật; (ii) Một lòng một dạ làm việc vì lợi
ích của dân; nói ít, làm nhiều; cái gì có lợi cho dân, cho đất nước thì nhất định phải
làm; cái gì hại nhất thiết phải bỏ; bảo vệ những người thực sự làm việc vì lợi ích
của dân, của nước. Chỉ khi có đủ hai tiêu chí này thì mới chống được tình trạng
tham nhũng và quan liêu ức hiếp đang lộng hành trong bộ máy công quyền hiện
nay.
Cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, phải thực sự hiểu dân, phải biết
thương dân, phải nhìn thấy dân nghèo sống khổ cực như thế nào, doanh nghiệp đang
khốn khổ ra sao, bị bộ máy công quyền hạch sách gây khó khăn như thế nào... để tìm
cách giúp đỡ.
Luân chuyển cán bộ phải là cơ hội để họ hiểu dân hơn và làm ra nhiều thành
tựu cho người dân chứ không phải chỉ để hoàn chỉnh lý lịch cho bước thăng quan
tiến chức tiếp theo. Chỉ những cán bộ làm ra được những thành tựu cho địa phương,
cho người dân mới được thăng quan tiến chức sau khi hoàn thành tốt nhiệm vụ ở cơ
sở.
Page 25
Mỗi công dân khi đồng ý làm việc trong bộ máy nhà nước nên bắt đầu công
tác ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào khó khăn để vừa rèn luyện,
vừa học cách thương yêu và nhận thấy trách nhiệm của mình với cuộc sống của
người dân. Nhà nước có chế độ thích hợp về tiền lương, nhà công vụ, thời hạn luân
chuyển công tác, cách thức nâng đỡ, bảo vệ người làm việc tốt, làm việc chỉ vì lợi
ích đất nước, lợi ích của người dân... để khuyến khích cán bộ công chức trẻ về công
tác ở cơ sở.
Nếu như quyết tâm nâng cao phẩm chất cán bộ, trước hết từ cấp cao nhất ở
Trung ương, dần dần xuống mọi cấp chính quyền cơ sở, thì nhất định quan điểm,
mô hình phát triển sẽ được thay đổi, đất nước sẽ có tương lai tươi đẹp.
Trong khi chưa có những thay đổi mang tính đột phá về công tác cán bộ,
không thể hy vọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không gây ra những
cuộc khủng hoảng mới. Vì vậy ở tầm ngắn hạn, trong điều hành chính sách kinh tế
xã hội, cần tiếp tục thực hiện nguyên tắc tối cần thiết là: Kiên định không chạy theo
tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và phát triển hài hòa (kinh tế, xã hội, môi
trường) làm đại cục, ra sức nâng cao chất lượng tăng trưởng để chấm dứt hoàn toàn
cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm
qua. Khi đó phải chấp nhận có một giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và thể chế kinh tế,
kèm theo một tốc độ tăng trưởng thấp.
Đã xác định được mục tiêu (hướng vào chất lượng thay cho số lượng) thì dù
khó khăn đến đâu cũng nhất định phải tìm mọi cách để thực hiện. Lãnh đạo phải
luôn luôn khảm một câu trong đầu: “Kiên trì, không vội. Kiên trì, chính là thắng
lợi!”.
-----------
Lưu ý: Tổng cục Thống kê vừa tính lại số liệu GDP theo giá cố định 2010 cho tất
cả các năm từ 2005 đến nay. Tốc độ tăng trưởng hàng năm theo số mới giảm 1-1,3% so
với số cũ, tức là rất lớn. Ví dụ năm 2006 số công bố trước tăng trưởng 8,44% thì số mới
chỉ là 7,13%... Từ đây các số liệu GDP thành phần (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,
đầu tư, tích lũy, tiêu dùng, xuất nhập khẩu...) cũng thay đổi.
Thêm nữa, TCTK chỉ mới tính lại đến năm 2005, còn những năm trước 2005
thì coi như không có số liệu. Do đó không thể dùng mô hình toán để phân tích chi
tiết hơn được. Một số chỉ tiêu khác liên quan cũng thay đổi... Vì vậy sử dụng thông
tin từ những con số ở VN cần thận trọng. Theo dõi xu thế tiến triển đáng tin cậy hơn
là theo dõi con số cụ thể.
Đặc biệt, từ nay dường như Tổng cục Thống kê sẽ chính thức dùng "tốc độ
tăng giá bình quân năm" làm chỉ tiêu lạm phát năm thay cho "mặt bằng giá tháng 12
năm nay so với mặt bằng giá tháng 12 năm trước"...
Đáng buồn nhất hiện nay là phần lớn các chỉ tiêu thống kê ở nước ta giống của
quốc tế về tên gọi, nhưng không giống về bản chất, về nội dung, nên không thể so
sánh quốc tế. Thực tế này dẫn tới chúng ta thường xuyên sửa đổi lại các số liệu mỗi
Page 26
khi cải tiến phương pháp thống kê. Thứ hai là phần lớn các số liệu không thật chuẩn
xác, thậm chí sai rất lớn so với thực tế; hậu quả là TCTK và nhiều Bộ, ngành
thường xuyên tính lại giá trị các chỉ tiêu của những năm cũ rồi âm thầm sử dụng.
Nếu số liệu cứ thế này thì chính sách kinh tế không thể đúng được.
Tài liệu tham khảo:
1) “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2014”, báo cáo của Tổng cục Thống kê
2) “10 sự kiện nổi bật ngành Tài chính năm 2014”, trang thông tin điện tử Bộ tài
chính:
http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?p_itemid=156392020
&p_itemtype=2176921
3) Overview of the World Economic Outlook Projections của IMF, tháng 1/2015.
4) “Kinh tế vĩ mô: Những điểm sáng 2013 và định hướng 2014”, Lê Việt Đức,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 2 (429), tháng 2-2014.
5) Nguồn số liệu trong bài chủ yếu từ Niên giám thống kê các năm.
KINH TẾ VIỆT NAM: GIẢI PHÁP “VƢỢT ĐÁY”
VÀ TĂNG TRƢỞNG BỀN VỮNG
PGS.TS Nguyễn Chí Hải
Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐHQG TP.HCM)
Tóm tắt: Nội dung bài viết nhằm nhận diện và đánh căn nguyên suy giảm tăng
trưởng của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2014. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng, bên cạnh những nguyên nhân nội tại của mô hình tăng trưởng, điểm nghẽn hiện
tại của nền kinh tế chính là sự lạc hậu về trình độ công nghệ và năng suất thấp. Bài viết
cũng khuyến nghị các giải pháp để nền kinh tế Việt Nam “vượt đáy” suy giảm và tăng
trưởng bền vững.
Từ khóa: Chu kỳ kinh tế, đáy của chu kỳ kinh tế, năng suất, khoa học công
nghệ, phát triển kinh tế bền vững.
1. Giới thiệu
“Kinh tế Việt Nam đã đến đáy? là chủ đề của một cuộc Tọa đàm khoa học
được tổ chức tại TPHCM vào cuối tháng 11 năm 2014 với sự góp mặt của một số
chuyên gia kinh tế, giảng viên kinh tế ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Xuất phát từ
thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để trả lời câu hỏi: Kinh tế Việt Nam đã
thoát đáy hay chưa? Cuộc tọa đàm “nóng” lên với câu hỏi tưởng chừng như đơn
giản: Chu kỳ kinh tế là gì? Các tiêu chí đánh giá giai đoạn “suy giảm” của chu kỳ
Page 27
kinh tế? Thực ra đây cũng là chủ đề tranh luận giữa các nhà kinh tế theo trường phái
nội sinh và ngoại sinh trong việc giải thích nguyên nhân của chu kỳ kinh tế.
Những kết quả khá lạc quan về sự hồi phục và ổn định vĩ mô của nền kinh tế
Việt Nam năm 2014, cùng với những thành công mới trong nhận thức và thực tiễn
điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, cho phép chúng ta nhận diện rõ hơn, có
trọng tâm hơn về các điểm nghẽn, bất cập cốt tử trong nền kinh tế, để có những giải
pháp phù hợp nhằm đưa nền kinh tế “vượt đáy” và tăng trưởng bền vững. Mục tiêu
tổng quát của nền kinh tế Việt Nam năm 2015 đã được Chính phủ xác định là:
“Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trường, nâng cao năng suất, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc
hơn năm 2014” (Nguyễn Tấn Dũng, 2014). Thực hiện mục tiêu tổng quát này, năm
2015 sẽ là năm bản lề để nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới,
với mục tiêu vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, vừa đảm bảo phát triển bền vững. Theo
chúng tôi, mục tiêu tổng quát trên hoàn toàn có thể khả thi và nền kinh tế Việt Nam
có cơ hội tạo ra bước đột phá mới trong năm 2015 và các năm tiếp theo, nếu nhận
diện đúng căn nguyên của tình trạng suy giảm tăng trưởng kinh tế và có những giải
pháp phù hợp.
Bài viết này, tác giả muốn thông qua việc trả lời câu hỏi trên, để đưa ra một
cách tiếp cận về phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, đó là phải coi yếu tố năng
suất (Productivity) là yếu tố có vai trò quyết định đối với năng lực cạnh tranh
(NLCT) và tăng trưởng bền vững. Phát triển khoa học công nghệ (KHCN) chính
chìa khóa để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, hướng đến mục tiêu phát triển
nhanh, bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
2. Cơ sở khoa học về chu kỳ kinh tế và vận dụng vào điều kiện kinh tế
Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường, sự thay đổi của sản lượng, giá cả, lãi suất và thất
nghiệp tạo nên chu kỳ kinh doanh. Lý thuyết chu kỳ kinh tế hay còn gọi là chu kỳ
kinh doanh (Business Cycle) là một trong những lý thuyết cơ bản trong kinh tế vĩ
mô, song cũng là lý thuyết gây nhiều bàn luận trong giới kinh tế học về cách giải
thích các dao động của chu kỳ kinh tế. Chu kỳ kinh tế thường được hiểu là “một sự
dao động của tổng sản phẩm quốc dân, của thu nhập và việc làm, thường kéo dài từ
2 đến 10 năm, được đánh dấu bằng một sự mở rộng hay thu hẹp trên quy mô lớn
trên hầu hết các khu vực của nền kinh tế” (Paul A. Samuelson – William
D.Nordhaus; 2007; Trang 347). Cũng có thể diễn đạt ngắn gọn hơn, chu kỳ kinh tế
là sự dao động của sản lượng thực tế xoay quanh “trục” sản lượng tiềm năng. Sự
Page 28
biến động của GDP thực tế trong một chu kỳ kinh tế thường theo thứ tự ba pha lần
lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (Hình 1).
Theo các nhà kinh tế, giai đoạn suy thoái trong một chu kỳ kinh tế là khi
GDP của nền kinh tế suy giảm trong một thời gian nhất định. Các nhà kinh tế học
cũng chỉ ra rằng dấu hiệu rõ ràng cho sự suy thoái của nền kinh tế là khi GDP thực
tế tăng trưởng âm trong 2 quý liên tiếp. Theo đó, “đáy và đỉnh” của một chu kỳ
kinh tế chỉ được nhận diện khi “nền kinh tế đã sang pha tiếp theo sau điểm ngoặt
với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiếu giữa mức âm và mức
dương” (Chu kỳ kinh tế).
Hình 1. Chu kỳ kinh tế
Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển hiện nay, việc nhận diện một chu
kỳ kinh tế cũng trở nên khá phức tạp, do chu kỳ kinh tế diễn ra dường như không
mang tính quy luật. Nếu như căn cứ vào sự tăng trường âm của GDP thực tế, thì có
nhiều quốc gia đang phát triển có chu kỳ kinh doanh kéo dài hàng chục năm, vì
không có tăng trưởng âm. Ở các quốc gia Đông Nam Á từ sau khủng hoảng kinh tế
1997 – 1998 đến nay, chưa thấy có tăng trưởng âm trong đại đa số các quốc gia khu
vực; còn ở Việt Nam, từ khi bất đầu sử dụng cách tính GDP, chưa có năm nào tăng
trưởng âm. Thực tế này chỉ ra rằng, đối với các nền kinh tế đang phát triển, giai
đoạn suy thoái có thế vẫn ở mức dương nhưng GDP thực tế tăng trưởng chậm lại và
giảm trong thời gian khá dài. Thêm vào đó, dấu hiệu rõ ràng về tình trạng suy thoái
kinh tế còn thể hiện khá rõ theo các tiêu chí sau:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho tăng lên.
- Cầu về lao động giảm, thất nghiệp tăng ở mức cao.
- Lạm phát có xu hướng chậm lại do chi tiêu về đầu tư giảm, sức mua hạn chế.
- Sự bất ổn, yếu kém của thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường tài
chính, đầu tư trong và ngoài nước, hoạt động của hệ thống ngân hàng…
Page 29
- Các doanh nghiệp trở nên “ốm yếu”, số doanh nghiệp phá sản nhiều hơn
các doanh nghiệp gia nhập thị trường…
Thực tiễn phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển nói chung, nền kinh tế
Việt Nam nói riêng, theo chúng tôi nên quan niệm chu kỳ kinh tế như là một giai
đoạn từ tăng trưởng - suy giảm tăng trưởng - phục hồi đà tăng trưởng. Có thể hiểu
sự suy giảm tăng trưởng là GDP thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng, nền kinh tế
rơi vào suy giảm tăng trưởng với các dấu hiệu như đã trình bày ở trên. Sự suy giảm
tăng trưởng có thể do tác động cả về phía tổng cầu và tổng cung.
Hình 2. Kinh tế suy giảm do tổng cầu Hình 3. Kinh tế suy giảm do tổng cung
Khi tổng cầu biến động, đường AD Do có sự đột biến từ phía cung, tổng cung
dịch chuyển xuống AD’, làm cho AS dịch chuyển sang trái AS’, làm cho sản
sản lượng giảm từ Q xuống Q’, giá lượng giảm từ Q xuống Q’, giá cả tăng từ P
giảm từ P tới P’ (giảm lạm phát). lên P’ (lạm phát tăng).
Nguồn: P.A. Samuelson – W.D.Norhaus (2007); Trang 352
Trong các lý thuyết về chu kỳ kinh tế, những người ủng hộ lý thuyết “Chu kỳ
kinh doanh thực tế” đã giải thích sự biến động của chu kỳ kinh tế là do các “cú sốc
công nghệ” có tác động lan tỏa tích cực hay tiêu cực đến năng suất của nền kinh tế
(P.Sammuelson; Trang 355). Các nhà kinh tế theo trường phái này giả định rằng,
khi nền kinh tế trải qua các biến động trong khả năng chuyển các yếu tố đầu vào
thành sản lượng đầu ra, sẽ gây ra những biến động trong sản lượng và việc làm. Lý
thuyết này cũng giải thích rằng, giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế là do sự thụt
lùi của công nghệ, theo đó làm giảm sản lượng và việc làm của nền kinh tế
(N.Gregory Mankiw; 1996; Trang 404).
Những người phản đối lý thuyết “Chu kỳ kinh doanh thực tế” không tin rằng
nền kinh tế phải trải qua các “cú sốc lớn về công nghệ”, bởi vì “nhìn chung, tiến bộ
công nghệ diễn ra từ từ” và “sự thụt lùi về công nghệ là điều đặc biệt khó hiểu” (N.
Page 30
Gregory Mankiw; 1996; Trang 404). Tuy nhiên, vấn đề chúng ta quan tâm ở đây là
năng lực sử dụng nguồn lực của nền kinh tế, đặc biệt là công nghệ, sẽ là nhân tố
quyết định yếu tố năng suất (Productivity) trong nền kinh tế. Đây cũng là nhân tố có
ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền
kinh tế.
3. Nhận diện “đáy” chu kỳ kinh tế ở Việt Nam
Từ đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua ba thời
đoạn suy giảm tăng trưởng, đó là: 1998 - 1999; 2008 - 2009 và 2011 - 2013.
Nếu như 2 đợt suy giảm tăng trưởng trước, là do nền kinh tế Việt Nam chịu
tác động mạnh từ các cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài, thì đợt suy giảm tăng
trưởng kinh tế kể từ năm 2011 chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế, mà những
yếu kém, bất cập đã được nhiều nghiên cứu chỉ rõ.
Bảng 1. Tăng trƣởng kinh tế Việt Nam (2011-2014)
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
- % GDP
- % CPI
- I/GDP (%)
- Bội chi ngân sách
(% GDP)
- Cân bằng ngoại
thương (Tỷ USD)
- Nợ công (% GDP)
5,66
19,89
43,1
4,60
-18
5,4
6,52
42,8
6,90
-12,8
6,42
11,75
41,9
5,60
-12,6
56,5
6,24
18,58
36,4
4,90
-9,80
54,9
5,25
9,21
33,5
4,80
0,748
55,7
5,42
6,04
30,4
5,30
0,10
56,0
5,98
1,84
31,0
5,30
2,0
60,3
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, 2014 (trang 4) và Thời
báo Kinh tế Việt Nam (trang 6).
Bảng trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt tỷ lệ thấp nhất
là năm 2012: 5,25% (2011: 6,24%), năm 2013 tăng nhẹ ở mức 5,42% và năm 2014
đạt 5,98%. Như vậy năm 2012 nền kinh tế đã “chạm đáy” của đà suy giảm và kéo
dài cho đến cuối 2013, sau đó có dấu hiệu hồi phục khá rõ năm 2014.
Theo chúng tôi, để xác định nền kinh tế Việt Nam đã “chạm đáy” suy giảm
tăng trưởng và bắt đầu hồi phục chưa, cần xem xét ở các tiêu chí cơ bản, cụ thể là:
Thứ nhất, nếu xét về tăng trưởng GDP, “đáy” tăng trưởng ở mức 5,25% năm
2012, mức độ hồi phục tăng trưởng của nền kinh tế diễn ra chậm và có nhiều khó khăn
Page 31
gắn với mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc nền kinh tế theo
hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và phát triển bền vững.
Thứ hai, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp đặc biệt là khu vực doanh
nghiệp tư nhân (DNTN), mức độ chạm đáy không trùng pha với đà tăng trưởng, mà
“đáy” là năm 2013, khi số doanh nghiệp dừng hoạt động và giải thể lên đến
60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm 2012. Đáng chú ý nữa là, vốn đăng
ký mới của các doanh nghiệp năm 2013, ở mức thấp nhất trong 3 năm 2011-
2013.
Thứ ba, trong 2 năm 2013-2014, kinh tế vĩ mô đã chuyển biến ngày càng ổn
định, lạm phát suy giảm, các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế tốt hơn, tuy nhiên tình
trạng nợ xấu và bất ổn của hệ thống ngân hàng, tính hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tiến độ tái cấu trúc nền kinh
tế… còn hạn chế, bất cập.
Thứ tư, các yếu tố cung - cầu và cân đối cung - cầu trong nền kinh tế từ năm
2011-2014 vẫn tồn tại những khó khăn, bất ổn. Về phía cung, cùng với suy giảm
trong sản xuất kinh doanh là tình hình hàng tồn kho trong nền kinh tế khá cao, tốc
độ cải thiện tình hình chậm. Về phía cầu, cùng với sự suy giảm trong đầu tư của các
doanh nghiệp trong nước, sức mua của nền kinh tế trầm lắng và tăng chậm.
Tình hình trên cho phép củng cố nhận định, kinh tế Việt Nam đã “chạm
đáy” suy giảm tăng trưởng, nhưng đang đi lên (từ 2013) chậm chạp và còn tiềm ẩn
rủi ro, thậm chí không loại trừ có nguy cơ mở rộng đáy suy giảm tăng trưởng của
nền kinh tế, cho dù tốc độ phục hồi của nền kinh tế đã khá rõ rệt trong những tháng
gần đây (tăng trưởng quý I/2015 đạt 6,03% so với cùng kỳ năm trước).
4. “Căn nguyên” suy giảm tăng trƣởng của nền kinh tế Việt Nam
Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, bất cập và suy giảm tăng trưởng
của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây, là do mô hình tăng trưởng kinh tế
theo chiều rộng, dựa vào thâm dụng tài nguyên và vốn đã kéo dài quá lâu. Thêm
vào đó tư duy điều hành chính sách còn ảnh hưởng quan điểm “Quản trị tổng cầu”
để kích thích tăng trưởng, kể cả khi Trung Ương đã ban hành NQ11 (2011) về kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Tuy nhiên, căn nguyên và nguồn gốc của những hạn chế, bất cập của nền
kinh tế, chính là do trình độ khoa học công nghệ (KHCN) còn thấp, năng suất lao
động xã hội thấp, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế có nhiều bất cập. Đây cũng chính
là “gốc rễ” dẫn đến “vòng luẩn quẩn” nghèo đói, tình trạng mắc bẫy “thu nhập
trung bình” ở nhiều nước đang phát triển, mà nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng
Page 32
không phải là một ngoại lệ “được miễn nhiễm” các nguy cơ này.
Theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) năm 2013, NSLĐ của Việt
Nam chỉ bằng ¼ của Thailand, 1/5 của Malaysia, 1/10 của Hàn Quốc và 1/15 của
Singapore (Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; 2014; Trang 5). Còn thông tin mới nhất
của tổ chức năng suất Châu Á (APO 2014) thì NSLĐ của Việt Nam năm 2012, tính
theo sức mua tương đương năm 2011 đạt 7.900 USD/ người, chỉ bằng 6,9% của
Singapore (114.400 USD), bằng 16,95% của Malaysia (46.600 USD), 34,5% của
Thailand (22.900 USD), 39,5% của Indonesia (20.00 USD), 53,74% của Philippines
(14.700 USD) và tương đương với Lào (7.900 USD), chỉ hơn 2 nước trong khu vực
Đông Nam Á là Mianmar (6.700 USD) và Campuchia (4.600 USD).
Hình 4. Năng suất lao động của Việt Nam so với một số quốc gia
Nguồn: APO Productivity Databook 2014; Page 67.
Cũng theo thông tin của Tổ chức năng suất châu Á (APO, 2014), tốc độ tăng
NSLĐ của Việt Nam có xu hường giảm dần theo thời gian. Nếu giai đoạn 1990-
2000 tốc độ tăng NSLĐ trung bình của Việt Nam đạt 5,7%, đền giai đoạn 2000-
2012 giảm xuống còn 4,5%, trong đó giai đoạn gần đây 2005-2012, tốc độ tăng
NSLĐ của Việt Nam chỉ còn 2,9%.
Mặt bằng thấp về KHCN, NSLĐ ở trình độ thấp, tốc độ gia tăng NSLĐ giảm
dần, đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến năng lực cạnh tranh (NLCT) của nền kinh
tế thấp và chậm được cải thiện, các thông tin dưới dây của World Economic Form
về chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI) ở các nước Đông Nam Á, phản ánh khá rõ tình
hình này.
4.6
4.6
6.7
7.9
7.9
14.7
16.9
18
20
22.9
46.6
54.8
66.9
102.6
114.4
Cambodia
Nepal
Myanmar
Lao PDR
Vietnam
Philippins
China
Asean
Indonesia
Thailand
Malaysia
Korea
Japan
US
Singapore
Thousands of US dollars (as of 2012)
Page 33
Bảng 2. Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI) ở các nƣớc Đông Nam Á
STT Quốc gia
GDP bình
quân đầu
ngƣời
(USD)*
2011-2012 2012-2013 2013-2014
Điểm/7 Thứ
hạng/142 Điểm/7
Thứ
hạng/144 Điểm/7
Thứ
hạng/148
1 Singapore 51.162 5.6 02 5.7 02 5.6 02
2 Malaysia 10.304 5.1 21 5.1 25 5.0 24
3 Brunei 41.703 4.8 28 4.9 28 4.9 26
4 Thailand 5.678 4.5 39 4.5 38 4.5 37
5 Indonesia 3.592 4.4 46 4.4 50 4.5 38
6 Philippines 2.614 4.1 75 4.2 65 4.3 59
7 Vietnam 1.528 4.2 65 4.1 75 4.2 70
8 Campuchia 934 3.9 97 4.0 85 4.0 88
9 Đông Timo 3.730 3.4 131 3.3 136 3.2 138
10 Lào 1.446 - - - - 4.1 81
11 Mianmar 835 - - - - 3.2 139
* Số liệu năm 2012.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ: World Economic Forum: The Global Competitiveness Report
2013 – 2014. (http://www.weforum.org/reports/global-competitiveness-report-2013-
2014).
5. Các giải pháp để nền kinh tế “vƣợt đáy” và tăng trƣởng bền vững
Những giải pháp để nền kinh tế Việt Nam khôi phục đà tăng trưởng và phát
triển nhanh, bền vững đã được Đảng và Chính phủ định hướng trong các Nghị quyết
của Đảng, Thông điệp của Chính phủ và nhiều kiến nghị của các chuyên gia kinh tế
trong và ngoài nước. Dưới góc độ tiếp cận nguồn gốc, căn nguyên những hạn chế
của nền kinh tế như đã trình bày ở các nội dung trên, chúng tôi xin đưa ra một số
kiến nghị cụ thể sau:
Thứ nhất, trong điều hành chính sách vĩ mô, Chính phủ cần nhất quán quan điểm:
Kích cầu để tăng trưởng hay tăng cung (sản lượng tiềm năng) để tăng trưởng bền
vững? Chúng tôi cho rằng để nền kinh tế có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền
vững, cần mở rộng sản lượng tiềm năng, nâng cao năng lực sản xuất, nhất là tăng cung
tư liệu sản xuất, tạo điều kiện tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tăng trưởng
của nền kinh tế. Đây cũng chính là tư tưởng của Đại hội Đảng lần thứ XI và quan điểm
Page 34
của Chính phủ trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế để phát
triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, để đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
chiều sâu, cần nâng cao hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế, cụ thể là:
- Khu vực kinh tế nhà nước thực hiện tốt chức năng “bà đỡ”, “nền tảng” của
nền kinh tế bằng việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ công cần
thiết đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp, tinh gọn và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các DNNN để các DNNN thực sự đảm nhiệm vai trò “tiên phong”,
“đầu đàn” trong nền kinh tế và mở rộng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
- Khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả các doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp FDI, cần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bằng cách: (i) Lựa
chọn đầu tư và mở rộng đầu tư đúng hướng, ưu tiên các lĩnh vực đầu tư theo chiều
sâu, có lợi thế cạnh tranh; (ii) Doanh nghiệp phải coi đầu tư cho KHCN là đòn bẩy,
chìa khóa để phát triển bền vững; (iii) Coi việc mở rộng thị trường ra bên ngoài trên
cơ sở khai thác lợi thế cạnh tranh là yếu tố cốt lõi cho sự thành công của mỗi doanh
nghiệp; (iv) Nâng cao năng lực quản trị và tư duy chiến lược của đội ngũ doanh
nhân.
Thứ ba, đề nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả, điều cốt lõi là phải phát
huy vai trò của KHCN trong nền kinh tế. Để KHCN thật sự trở thành động lực cho
sự phát triển của nền kinh tế, cần có các giải pháp cơ bản như:
- Chiến lược phát triển KHCN quốc gia cần được hoàn chỉnh và cụ thể theo
hướng: (i) Xây dựng được lộ trình phát triển KHCN quốc gia; (ii) Nâng cao năng
lực lựa chon KHCN, đồng thời quan tâm đúng mức đến phát triển nền KHCN nội
sinh; (iii) Ưu tiên phát triển các lĩnh vực CN ứng dụng có chọn lọc, đồng thời quan
tâm đúng mức đến các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, Nhà nước cần có vai trò chủ yếu
trong việc đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu cơ bản.
- Đổi mới chính sách phát triển và quản lý KHCN, cụ thể: (i) Sắp xếp, giảm
bớt bộ máy quản lý hành chính đối với KHCN, tăng các tổ chức hoạt động KH CN
và dịch vụ KHCN của tư nhân; (ii) Đổi mới cơ bản cung cách đầu tư và quản lý
kinh phí KHCN một cách hiệu quả; (iii) Đổi mới cách thức thu hút và chính sách
tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, chuyên gia KHCN theo hướng gắn với yêu cầu
phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
- Phát triển thị trường KHCN, bao gồm cả các yếu tố cung và yếu tố cầu, gắn
kết giữa cung và cầu trong môi trường kinh doanh năng động, hiệu quả, cụ thể là: (i)
Page 35
Về phía cung, các sản phẩm KHCN cần được đầu tư và phát triển gắn với thị
trướng, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt là cạnh tranh
trên thị trường quốc tế; (ii) Về phia cầu, các doanh nghiệp cần có “thói quen” và áp
lực trong việc tìm kiếm các sản phẩm mới KHCN, để nâng cao năng lực cạnh tranh,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; (iii) Về phía nhà nước, các chính sách đầu
tư phát triển, thuế - tín dụng cần khuyến khích nền kinh tế phát triển theo chiều sâu,
ứng dụng sâu rộng KHCN tiên tiến gắn với đổi mới mô hình quản trị ngày càng
hiệu quả.
- Mở rộng các hình thức hợp tác, thu hút mọi sáng kiến KHCN cả ở trong và
ngoài nước và mọi thành phần kinh tế. Các sáng kiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ
cần được nhà nước và xã hội ủng hộ, nâng đỡ, phát triển nhằm phục vụ yêu cầu phát
triển đất nước.
Thứ tư, phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân có vai trò hết sức quan
trọng đối với công cuộc phát triển của đất nước, bởi vì các DN và đội ngũ doanh
nhân là nhân vật trung tâm để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, Nước mạnh”. Để có
các DN mạnh, trước hết cần có các doanh nhân có năng lực kinh doanh, khả năng
hội nhập vào môi trường toàn cầu và biết khai thác các giá trị nguồn lực của Việt
Nam, đặc biệt là các giá trị truyền thống, văn hóa dân tộc. Đây cũng là chìa khóa
tạo nên sự khác biệt của doanh nhân Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Thứ năm, trong thời gian tới, để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, giải
pháp then chốt và có ý nghĩa đột phá quan trọng nhất, theo chúng tôi, đó là đẩy
mạnh cải cách thể chế, tạo điều kiện cho các DN và người dân tham gia bình đẳng,
thuận lợi và có hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đổi
mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, không chỉ là yêu cầu cấp thiết để tăng trưởng
kinh tế và phát triển bền vững, mà còn là sứ mệnh của Đảng ta tại Đại hội lần thứ
XII sắp tới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN mặc dù còn tiếp tục phải
nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, song chắc chắn thể chế này phải hướng đến mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”; đó phải là một thể
chế kinh tế có khả năng dung hợp, thể chế này “cho phép và khuyến khích sự tham
gia của đại đa số dân chúng vào các hoạt động kinh tế, sử dụng tốt nhất tài năng và
trình độ của họ, và giúp các cá nhân thực hiện những lựa chọn họ muốn” (Daron
Acemoglu & James A. Robinson, 2013).
6. Kết luận
Kinh tế Việt Nam đã chạm đáy tăng trưởng vào năm 2012 và đã có dấu hiệu
hồi phục từ cuối năm 2013 đến nay. Dự báo năm 2015, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục
Page 36
phục hồi và chỉ có thể lấy được đà tăng trưởng khả quan từ năm 2016 trở đi, nếu nền
kinh tế có những cải cách sâu rộng hơn và môi trường kinh tế thế giới ổn định. Dù lạc
quan hay thận trọng, thì giải pháp cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian
tới là phải đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và hiệu quả, nâng cao
năng lực cạnh tranh. Nhân tố quyết định để thực hiện mục tiêu này là phải có nỗ lực
chung của cả các doanh nghiệp và Chính phủ trong việc phát triển khoa học công
nghệ, đưa khoa học công nghệ thực sự là động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế
của đất nước, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tấn Dũng (2014). Báo cáo của Thủ tướng về tình hình kinh tế - xã hội tại kỳ
họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
(http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungtinhhinhthuchien?cate
goryId=100003029&articleId=10053663).
2. Daron Acemoglu & James A. Robinson (2013): Tại sao các quốc gia thất bại. NXB
Trẻ; Trang 108.
3. Nguyễn Chí Hải (2014): Nâng cao năng lực cạnh tranh – Yêu cầu cấp thiết đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Tạp chí Phát triển Nhân lực, số 04 (41); Trang 34 – 37.
4. Paul A. Samuelson – William D.Nordhaus (2007): Kinh tế học; Tập II. NXB CTQG,
Hà Nội.
5. N. Gregory Mankiw (2006): Kinh tế vĩ mô. NXB Thống kê, Hà Nội.
6. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam – Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – UNDP (9/2014): Diễn dàn Kinh tế Mùa Thu
2014. Tái cơ cấu nền kinh tế: Kỳ vọng chuyển biến mạnh mẽ (Kỷ yếu Hội thảo).
7. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2015): Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2014-2015.
8. Trung tâm Năng suất Việt Nam (2003): Đo lường năng suất tại doanh nghiệp. NXB
Thế giới.
9. Chu kỳ kinh tế (https://voer.edu.vn/m/chu-ky-kinh-te/aab21a65).
10. Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam (http://www-
wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/IB/2014/12/01/0004
06484_20141201143505/Rendered/PDF/928250VIETNAME00Dec020140Vietname
se.pdf).
11. APO Productivity Databook 2014 (http://www.apo-
tokyo.org/publications/ebooks/apo-productivity-databook-2014/
Page 37
12. World Economic Forum: The Global Competitiveness Report 2013 – 2014.
(http://www.weforum.org/reports/global-competitiveness-report-2013-2014).