Đôi Nét Về Kiên Giang o Có diện tích 6243km2, o Với dân số: 1.494.433 người. o Tỉnh lỵ là Thành Phố Rạch Giá. o Gồm có các huyện: thị xã Hà Tiên, Hà Tiên , Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giòng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận o Có Hai Huyện Đảo: Phú Quốc và Kiên Hải. o Kiên Giang có dân tộc Kinh, Khmer và Hoa. Kiên Giang là một dải đất nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 250km, Phía Đông và Đông Nam của tỉnh Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ. Phía Nam Giáp Cà Mau Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 54 km. Ngoài ra còn cĩ hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài Vịnh. Là một tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, Kiên Giang có những cánh đồng lúa phì nhiêu, có rừng vàng biển bạc có hải đảo và đồi núi với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng về nông sản hải sản, khoáng sản và du lịch. Nằm ven vịnh Thái Lan, Kiên Giang lưu thông với quốc tế bằng đường biển rất thuận lợi. Tỉnh hiện có 3 sân bay: Rạch Giá, Hà Tiên và Phú Quốc. Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhiệt độ trung bình là 270C quanh năm không quá nóng và quá lạnh, khí hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình là 2016mm hàng năm. Ở đây không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bo, ánh nắng và nhiệt lượng dồi dào thuận lợi cho trồng cây và vật nuôi phát triển. Nghề chính của tỉnh là nghề nông, nhưng nghề cá cũng rất phát triển.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Đôi Nét Về Kiên Giango Có diện tích 6243km2,
o Với dân số: 1.494.433 người.
o Tỉnh lỵ là Thành Phố Rạch Giá.
o Gồm có các huyện: thị xã Hà Tiên, Hà Tiên , Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giòng Riềng, Gò Quao, An Biên, An
Minh, Vĩnh Thuận
o Có Hai Huyện Đảo: Phú Quốc và Kiên Hải.
o Kiên Giang có dân tộc Kinh, Khmer và Hoa.
Kiên Giang là một dải đất nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 250km,
Phía Đông và Đông Nam của tỉnh Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ.
Phía Nam Giáp Cà Mau
Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 54 km.
Ngoài ra còn cĩ hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài Vịnh. Là một tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, Kiên Giang có những
cánh đồng lúa phì nhiêu, có rừng vàng biển bạc có hải đảo và đồi núi với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng
về nông sản hải sản, khoáng sản và du lịch. Nằm ven vịnh Thái Lan, Kiên Giang lưu thông với quốc tế bằng đường
biển rất thuận lợi.
Tỉnh hiện có 3 sân bay: Rạch Giá, Hà Tiên và Phú Quốc.
Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhiệt độ trung bình là 270C quanh năm không quá nóng và quá lạnh, khí
hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình là 2016mm hàng năm. Ở đây không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bo, ánh nắng và nhiệt
lượng dồi dào thuận lợi cho trồng cây và vật nuôi phát triển.
Nghề chính của tỉnh là nghề nông, nhưng nghề cá cũng rất phát triển.
Biển Kiên Giang cũng có những bãi tôm và luồng cá rất lớn. Nhiều loại cá ngon như cá thu, chim, nhám, bạc má,
chép, he, thiều. Kiên Giang còn nổi tiếng về làm nước mắm.
Từ năm 1996 trở lại đây, các khu du lịch Hà Tiên và Kiên Lương hàng năm đón khoảng 800000 du khách tham quan.
Doanh thu ngành du lịch trong giai đoạn này tăng bình qun hàng năm khoảng 16%. Theo các số liệu thống kêvlượng
khách đến Hà Tiên kiên Giang nhiều hơn các tỉnh An Giang và Cần Thơ. Thưởng ngoạn thắng cảnh tham quan di
tích, nghỉ dưỡng đang là thế mạnh để Hà Tiên thu hút một lượng đáng kể khách du lịch từ các tỉnh phía Nam và các
du khách nước ngoài.
Vài năm gần đây các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đổ dồn về đây xây dựng nhà hàng khách sạn và các khu
vui chơi giải trí nhằm phục vụ cho khách du lịch. Bên cạnh đó, Hà Tiên cũng chú trọng tổ chức các ngày hội truyền
thống địa phương và các lễ hội của các đồng bào dân tộc Khmer.
Nằm sát biên giới với Campuchia, thị xã Hà Tiên trở thành thương trường một thương trường của một cửa khẩu cả
trên biển và trên đất liền. Ngoài mục đích phục vụ khách du lịch, cửa khẩu Hà Tiên còn mở ra cơ hội giao thương
hàng hoá. Hàng năm có khoảng từ 70000 đến 80000 lượt khách từ Campuchia qua lại cửa khẩu. Tuyến du lịch Hà
Tiên – tỉnh Campốt- thành phố Kép (Campuchia) và ngược lại bằng đường bộ, đường thuỷ đã đưa vào khai thác, tạo
điều kiện đi lại cho du khách 2 nước.
Sau 4 năm thực hiện thí điểm khu kinh tế cửa khẩu theo quyết định của chính phủ, diện mạo thị xã Hà Tiên đ thay
đổi rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển vượt bậc. Thị x còn xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch và các
trung tâm thương mại gắn với các chính sách thu hút và đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Đời sống vật chất người
dân nhờ đó được cải thiện đáng kể. Đây cũng chính là nền tảng vững chắc để Hà Tiên khai thác lợi thế phát triển
kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói riêng.
Cảnh sắc thiên nhiên của Hà Tiên đã được người đương thời ca tụng và cũng chính nơi đây xuất hiện nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các gồm nhiều nhà thơ Việt Nam, cùng hội lại với nhau để sáng tác, ngâm vịnh, đàm luận do Mạc Thiên Tích lập ra. Tác phẩm được hấp dẫn hơn cả là “Hà Tiên Thập Vịnh” tả 10 cảnh đẹp của Hà Tiên lồng trong sinh hoạt của cư dân để tạo ra bức tranh ngư tiều canh mục:1. Kim Dự Lan Đào (Đảo Vàng Chắn Sóng ): trong mười cảnh đẹp của Hà Tiên mà người xưa ghi nhận, Kim Dự Lan
Đào được xếp đầu tiên. Đó là hòn đảo nhỏ ngay cửa biển Hà Tiên được nối với đất liền TK XX, người ta còn gọi Kim
Dự là Pháo Đài, bởi từng có một pháo đài canh dự cửa biển, bảo vệ thị trấn Hà Tiên chống giặc ngoại xâm.
Một truyền thyuết được kể : Kim Dự ngày xưa là hòn đảo nổi. Dưới hòn đảo có con giao long nằm ẩn mình tu đã lâu
đời. Thỉnh thoảng có lúc giao long cựa mình, người ta thấy hòn đảo lay chuyển. Có khi xê dịch ra xa bờ. Chỗ đất nhô
hiện nay có miếu thờ thuỷ thần và miếu thờ cá ông Nam Hải.
Khu Lăng Mộ Dòng Họ MạcNúi lăng hay núi Bình San là nơi an táng hơn 40 ngôi mộ dòng họ Mạc ,xây dựng cách đây trên 300 năm. Tất cả đều
có kiến trúc theo lối Trung Hoa, nền mộ ăn sâu vào vách núi theo hình bán nguyệt bề mặt chạm khắc hình thù tứ
linh.
Lăng được xây dựng vào năm 1809 theo lệnh của vua Gia Long. Mạc Cửu rất giỏi về phong thuỷ địa lý nên đã chọn
xây ở nơi mà có núi Tô Châu và núi Ngũ Hổ làm nên thế bình Phong, Sông Giang Thành tạo nên thế Minh Đường tức
thuỷ triều qui bên dưới lăng có hai hồ sen tích nước vừa tạo thế vừa là hồ nước cung cấp nước cho nhân dân ở đây.
Mạc Cửu là người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1644, nhà
Thanh thay thế nhà Minh, Mạc Cửu không phục tùng nên cùng gia quyến và đoàn tùy tùng xuống tàu vượt biển vào
Nam đến nước Chân Lạp và được cho làm Ốc Nha, một chức quan của Chân Lạp thời đó… Một thời gian sau, thấy
đất Mang Khảm thuận lợi nhiều mặt về kinh tế, giao thương, ông bèn xin lui về đó chiêu tập lưu dân, mở mang đồng
ruộng và tiếp đón khách thương hồ đến để mua bán, mở sòng bạc… Chẳng bao lâu vùng đất này trở nên phồn thịnh
và không tránh khỏi giặc cướp, giặc Xiêm La kéo quân đến xâm lăng. Mạc Cửu thế cô phải qua Xiêm trú ngụ 1 thời
gian. Khi trở lại Hà Tiên, thấy chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang mở rộng thế lực đến tận vùng đồng bằng sông Cửu
Long, Mạc Cửu dâng biểu xưng thần và được chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, phong chức Tổng binh trấn Hà
Tiên. Mạc Cửu mất năm 1735, được nhà Nguyễn truy tặng Khai trấn thượng trụ quốc, Đại tướng quân Vũ Nghị Công.
Lăng Mạc Cửu theo kiểu Tàu, bên trái đắp nổi đầu rồng, bên phải đắp đầu hổ (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ). Đứng
tại lăng Mạc Cửu trông xa thấy Đông Hồ, biển Hà Tiên, núi Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu như hình voi phục. Lên đỉnh
núi, du khách có thể nhìn toàn cảnh Hà Tiên bên dưới.
Mạc Thiên Tích là con trưởng của Mạc Cửu, tự Sĩ Lân, lúc nhỏ tên là Mạc Tứ. Gia phả nhà họ Mạc ghi lại rằng vào
đêm mùng 7 tháng 3 năm 1706, tại Lũng Cà tự nhiên nước sông bắn vọt lên trời, lúc ấy xuất hiện tượng vàng cao 7
thước, tỏa sáng cả 1 khúc sông. Một vị quan trông thấy ngạc nhiên nói với Mạc Cửu : “Đây là điềm có người tài xuất
hiện, thật là phúc đức”. Mạc Cửu liền cho người đưa tượng vàng ấy lên bờ, nhưng không có cách nào di chuyển
được, bèn xây chùa nhỏ bên bờ sông để thờ. Vào đêm ấy, Mạc Thiên Tích ra đời. Mạc Thiên Tích thông minh, hiểu
rộng, văn võ song toàn. Năm 1735 Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích kế tục sự nghiệp của cha. Đầu xuân 1736, được
chúa Nguyễn phong Đô đốc trấn Hà Tiên . Thời kỳ ông cai quản, đất Hà Tiên sung túc, phồn vinh. Phố xá ở trấn lỵ
được mở mang, ruộng đất được khai khẩn tăng cường trồng trọt, tàu thuyền buôn bán tấp nập. Ông cũng đã nhiều
đánh tan bọn cướp biển và giặc Chân Lạp để bảo vệ bờ cõi. Năm 1780, Mạc Thiên Tích đang ở Xiêm bị Bồ Ông Giao,
người Chân Lạp, gièm pha với vua Xiêm Trịnh Quốc Anh rằng nhà Nguyễn lập kế cho Mạc Thiên Tích và Tôn Thất
Xuân vào Xiêm làm nội ứng, mưu chiếm thành Vọng Các. Vua Xiêm nghe lời giết Tôn Thất Xuân, bắt trói Mạc Thiên
Tích tra khảo. Mạc Thiên Tích tự tử, nhiều người đi theo cũng bị sát hại.
Trên đỉnh núi còn lưu lại vết tích của đàn Sơn Xuyên và đàn Xã Tắc. Dưới chân núi có đền thờ dòng họ Mạc. Theo
Đại Nam Nhất Thống Chí, ngôi đền thờ này thờ ba người họ Mạc: Vũ Nghị Công Mạc Cửu, Quốc lão Mạc Thiên Tích,
Chính Lý Hầu Mạc Tử Sanh. Bên hữu thờ các con cháu dòng họ Mạc, bên tả có bài vị phu nhân Thái Thái mẹ Mạc
Cửu, phu nhân Nguyễn Thị Thủ vợ Mạc Thiên Tích, tiểu thư Mạc Mi Cô. Truyền thuyết kể rằng, người con gái thứ
năm của Mạc Cửu mới sinh ra đã có mái tóc dài một thước, mới 3 tuổi răng đã mọc đủ, ăn nói rành rẽ nhưng xương
sống yếu phải nằm một chỗ. Cận thần cho đó là điềm xấu, Mạc Cửu liền sai người đi cho chôn sống. Không lâu sau
tin đồn về người con gái xấu số lan xa cùng những truyền thuyết xoay quanh câu chuện cô hiển linh. Tục truyền
Mạc Mi Cô được phối tự ở bàn thờ bên tả của đền thờ Mạc công trông ra cổng Tam Quan, những gian thần, người
xiểm nịnh đi qua cổng đều bị cô vật chết. Ai cũng sợ nên vái van xin cô cho xây kín cổng lại. Đến nay dấu tích vẫn
còn. Người đến viếng đền chỉ có thể vào bằng cổng giữa hay cổng bên mặt.
Đền thờ Mạc Công có biển đề Trung Nghĩa Từ, dân gian gọi là miếu ông Lịnh vì Mạc Cửu đựơc tôn xưng là Mạc Lịnh
Công. Khởi thuỷ ngôi đền này do Mạc Công Du lập đến năm Thiệu Trị thứ 6- Năm1846 mới lợp ngói. Từ đó tới nay
được tái thiết tu bổ nhiều lần. Di tích hiện tồn là kiến trúc có giá trị nghệ thuật, trạm trổ tinh vi, sắc sảo.Trong miếu
còn ghi lại những bài thơ Nôm vịnh thập cảnh Hà Tiên, Bản Nhật Lịnh của tướng Long Hổ Trần Hầu và tranh vẽ đề
tài Bát Tiên, ngư tiều canh mục …..Trước sân có ao sen “Bảo Nguyệt Liên Trì ”, mùa hạ hoa nở toả hương thơm
ngát. Phía ngoài cổng có hai câu đối :
“Nhứt môn trung nghĩa gia thanh tọng ,
Thất diệp phiên hàn quốc thân vinh “.
Đền thờ các đạo sắc truy phong. Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên thì năm 1785 Mạc Cửu bị bệnh qua đời được
chúa Túc Tông phong cho là Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công, rồi năm Minh Mạng Thứ 3
(1822) truy phong Mạc Cửu làm Thụ Đức Thuận Nghĩa và chuẩn cho làng Mỹ Đức ở Hà Tiên thờ phụng như cũ. Năm
1829 Mạc Công Du vì già yếu về hưu. Năm 1830 Lấy Mạc Công Tài làm Quản Thủ Hà Tiên. Năm Tự Đức thứ nhất ấn
phong cho cháu cố là Mạc Văn Phong làm đội trưởng để thờ cúng Mạc Thiên Tứ. Gọi là đền thờ họ Mạc, nhưng ngoài
đối tượng thờ tự chính như đã nêu trên, hai gian bên còn phối tự các quan học sĩ và các thuộc tướng của Trấn Hà
Tiên. Nói chung đền thờ này và khu lăng trên núi Bình San là một di tích lịch sử của xứ Hà Tiên xưa. Ngoài ra thời họ
Mạc ở Hà Tiên đạo phật được sùng hưng do đó ở đây có nhiều ngôi chùa cổ liên quan đến lịch sử vùng đất này như
chùa Tam Bảo, Chùa Phù Dung….
Nguyên dòng họ Mạc ở Hà Tiên có một thể thức để đặt danh hiệu là dùng 7 chữ : Thiên-Tử-Công-Hầu-Bá-Tử-Nam để
làm chữ đệm tên. Bắt đầu từ Mạc Thiên Tích lót chữ Thiên, rồi kế tiếp con Mạc Thiên Tích lót chữ Tử như Mạc Tử
Hoàng, Mạc Tử Dung. Con Tử Hoàng lót chữ Công như Mạc Công Tài, Mạc Công Du. Con Công Du lót chữ Hầu như
Mạc Hầu Hy, Mạc Hầu Diệu. Con Hầu Hy lót chữ Ba như Mạc Bá Bình, Mạc Bá Thành. Con Bá Thành lót chữ Tử là Mạc
Tử Khâm. Mạc Tử Khâm không có con trai đến đây tuyệt tự. Bảy chữ lót Thiên-Tử-Công-Hầu-Bá-Tử-Nam trong sử gọi
là “Thất diệp phiên hàn”. Bảy lá-thất diệp ứng về tông chi (một cội) họ Mạc. Từ Mạc Cửu truyền đến Mạc Tử Khâm
vừa đúng 7 đời thì chấm dứt. Trong đền thờ có 12 đạo sắc truy phong của vua minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Trong
chánh điện bàn thờ giữa thờ linh vị của Võ Nghị Công Mạc Cửu, quốc lão Mạc Thiên Tích và chính lý Hầu Mạc Tử
Sanh. Bàn thờ bên hữu thờ linh vị các quan thượng đẳng thần. Bàn thờ bên tỷa có bài vị Thái Thái phu nhân( mẹ của
Mạc Cữu), phu nhân Nguyễn Thị Thu (vợ của Mạc Thiên Tích) và tiểu thư Mạc Mi Cô (tục gọi là cô năm)
Hai gian phải trái có bài vị thờ các quan học sĩ và các thuộc tướng trấn Hà Tiên. Trên vách mỗi gian có bia bằng đá
đen khắc tên nhửng quân sĩ tử trận.
Tình – ThơGiữa Mạc Thiên Tích và cô gái giả trai Xứ QuảngVào đêm nguyên tiêu năm Bính Thìn (1736) Mạc Thiên Tích mở Tao Đàn Chiêu Anh Các, có 36 thi nhân
tham gia, gọi là tam thập lục anh kiệt.
Giữa dạ hoa đăng, một chàng thư sinh nho nhả cất tiếng ngâm 8 câu thơ, sau thi sĩ Đông Hồ dịch nôm :
Đêm xuân hội mở tuần trăng mới
Đốt hỏa đèn dưa sáng quả trăng
Áo gấm thanh vân tô điểm tích
Lòng son đơn quế dải cung Hằng
Đây Chiêu Anh Các lời châu ngọc
Kìa quảng Hằng Cung rạng tuyết băng
Non nước thần tiên mừng có chủ
Cỏ nhàn mừng tỏ mặt hoa dăng.
Nghe bài thơ ngâm với giọng trữ tình, Mạc thiên Tích rất ngạc nhiên. Chàng thư sinh có mặt da hoa
phấn. Trong lúc cao hứng, Mạc Thiên Tích ứng khẩu với lời lẽ như trêu ghẹo.
Bên kia sen nở nhiều hoa
Người khen hoa đẹp nỏn nà hơn em.
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng không thèm nhìn hoa.
Chàng thư sinh không chút ngại ngùng trả lời Mạc Thiên Tích.
Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi ?
Hai người kết bạn ngâm vịnh tâm đắc.
Sau Mạc Thiên Tích mới rõ chàng thư sinh ấy là gái giả trai, tên là Nguyễn Thị Xuân, gốc Quảng Nam,
theo cha vượt biển vào Hà Tiên buôn bán.
Vì đường biển lúc bấy giờ b an thường có cướp, Nguyễn Thị Xuân sợ bị hại nên giả trai.
Mạc Thiên Tích cưới nàng Xuân làm vợ lẽ. Vợ chánh của Mạc Thiên Tích là phu nhân Nguyễn Thị Thủ
ghen. Nhân lúc Mạc Thiên Tích bận việc quân, phu nhân bắt nàng Xuân bỏ vào lu nhốt. Vào lúc ngộp
thở suýt chết, nàng Xuân may mắn được chồng về kịp, cứu thoát.
Nàng xin đi tu, Mạc Thiên Tích cấ am tự cho nàng trên núi để tĩnh tâm sống hết quãng đời còn lại.
Về sau, một văn nhân nào đó không rõ tên tuổi đã ghi lại một bài thơ dưới ngôi am tự.
Ngó lên am tự Phù Cừ
Thương cho ngườ ngọc giã từ lầu son
Về đây nương chốn Thiền môn
Tay lần chuỗi hạt cho mòn ngày xanh
Duyên xưa chẳng bận chi tình
Bụi kia chi để vương cành hoa sen
Nước trong không rửa đánh phèn
Cửa thiền thanh tịnh não phiền sạch không.
Trước khi mất, bà Nguyễn Thị Xuân đã làm một bài thơ để lại.
Xuất xứ trần nê cảnh giới tiền
Ưng đương thanh bạch đi viêm thiên
Xuân thu nùng đạm quần phương phố
Cao khiết hà như dạ chiểu liên.
Dịch nôm :
Vương khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Đừng sách Thanh cao với đoá sen
Chùa Phù Dung
Là một ngôi chùa nhỏ nằm dưới chân núi Bình San – Diệp Thuý thuộc địa phận xã Mỹ Đức, huyện Hà
Châu, thị xã Hà Tiên. Chùa này do Mạc Thiên Tích dựng năm Thiệu Trị Thứ 6.
Tục truyền, đây là một ngôi chùa do Mạc Thiên Tích xây cho bà thứ cơ của ông ta. Khi bà mết, mộ bà
được chôn bên cạnh chùa. Ngôi mộ cổ này được người đời sau gọi là mộ Bà Dì Tự, Ao sen cũng như
ngôi mộ gọi là ao Bà Dì Tự. ” Dì Tự ” là cách gọi tắt cụm “Bà Dì ở am tự “.
Ngôi chùa này tương truyền gắn bó cùng với một truyện tình buồn giữa nàng Phù Cừ tên thật là
Nguyễn Thị Xuân và Mạc Thiên Tích con trai Mạc Cửu đang làm tổng trấn Hà Tiên lúc bấy giờ. Truyện
kể rằng :
Dì Tự vốn là cô gái có tên là Phù Cư, con của một túc nho tên là Nguyễn Nghi. Lớn lên trong thời Nam
Bắc phân tranh, Nguyễn Nghi muốn lánh xa chỗ phân giới, nơi quân Trịnh – Nguyễn thường giao chiến,
nên đi lần vào nam. Nguyễn Nghị cư trú ở Gia Định. Năm 1730, giặc Sa Tốt Ai Lao và giặc Chân Lạp
liên minh tấn công Gia Định, vợ ông bị chết trên đường chạy loạn.
Vốn trước đó, Nguyễn Nghi có nghe đồn đại nhiều về trấn Hà Tiên, về cảnh trí thiên nhiên cũng như
hào kiệt và anh tài của vùng đất này, do đó, nguyễn nghi quyết dẫn con tìm đến trấn lỵ Phương Thành
của trấn Hà Tiên.
Ở Phương Thành một thời gian, Nguyễn Nghi được Mạc Cửu, Tổng binh rấn Hà Tiên, kết nạp vào hàng
nhân sĩ. Và chẳng bao lâu sau, tài văn chương của Nguyễn Nghi được Mạc Thiên Tích, con trai của Mạc
Cửu thán phục.
Năm 1735 quốc công Mạc Cửu qua đời triều đình sắc phong cho Mạc Tứ chức Tổng Binh Khâm Sai Đại
Đô Đốc Hà Tiên Trấn đồng thời còn cho con cháu dòng họ Mạc được thừa hưởng 7 đời tập ấm gọi là
Thất Diệp Phiên Hán tức là lấy chữ Thiên Tứ Công Hầu Bá Tử Nam làm chữ lót và lấy năm chữ trong bộ
ngũ hành sinh hoá là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả Thổ ghép vào chữ tên cuối cùng được ghép dùng bộ ấn ghép
vào chữ họ – tức là đổi tên để phân biệt với những dòng họ Mạc đương thời nhưng không có công đức
gì trong việc khai trấn, vì thế Mạc Tứ Mới đổi tên thành Mạc Thiên Tích và tiếp tục sự nghệp của cha
phát triển đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích kế nghiệp cha đẩy mạnh việc khẩn hoang, phát triển kinh tế và
mậu dịch khiến Hà Tiên trở thành một đô hội sầm uất. Đặc biệt Mạc Thiên Tích lưu tâm đến việc tu bổ
văn nghiệp. Ông chiêu tập các văn nho khắp nơi lập một hội tao đàn lấy tên là Chiêu Anh Các để làm
nơi tụ hội của các tao nhân mặc khách đàn luận văn võ, trong nội điện là văn miếu thờ thánh khổng
Phu Tử và làm nhà nghĩa học thu nạp các đệ tử ưu tú, giúp đỡ các thiếu niên hiếu học không còn điều
kiện theo đuổi việc học.
Nguyễn Nghi là một trong các vị học sĩ được chọn giảng sách ở nhà nghĩa học. Vì học vấn uyên thâm
và phẩm cách cao nhã nên ông được các môn sinh trọng vọng, đồng bối quí mến và được Mạc Thiên
Tích mời dự vào việc tham mưu tư lệnh.
Nói về Phù Cừ, khi dời Gia Định theo cha chạy loạn, nàng phải cải trang thành một chàng trai đề tránh
mọi bất trắc dọc đường và khi về Hà Tiên, để tiện việc giao du với các môn đệ của cha, theo đòi việc
nghiên bút, Phù Cừ ăn mặc theo lối thư sinh. Vốn tư chất thông minh, Phù Cừ là một trong những học
trò xuất sắc của nhà nghĩa học. Do đó trong đêm hội nguyên tiêu, Phù Cừ đã được Mạc Thiên Tích chú
ý và những văn nhân khác đều hết lời khen ngợi. Nguyễn Nghi hầu như gởi gắm tất cả tình thương và
kỳ vọng vảo đứa con gái duy nhất này. Ông định đôi năm nữa sẽ từ quan và đưa Phù Cừ về quê ngoại ở
Gia Định để ở với bà ngoại và dì của Phù Cừ. Lúc đó Phù Cừ sẽ cởi bỏ lốt nam trang để sống cuộc sống
bình thường như bao thiếu nữ khác. Nhưng dự định chưa thực hiện được thì Mạc Thiên Tích lệnh cho
ông đem “gã thư sinh ” Phù Cừ vào hầu nghiên bút ở trong dinh của Mạc Thiên Tích. Nguyễn Nghi gặp
cảnh tiến thoái lưỡng nan khó xử này lo lắng không yên. Cuối cùng, Nguyễn Nghi đành nhờ hai bạn
đồng bối thân thiết của ông vào dinh tâu trình việc Phù Cừ giả trai với Mạc Thiên Tích. Mạc Thiên Tích
chẳng những không quở phạt gì mà trái lại còn ngỏ ý nạp Phù Cừ làm thứ cơ trong phủ.
Sau tiết đoan dương năm Đinh tỵ (1737) Phù Cừ được tiến vào phủ. Giờ đây, Phù Cừ là thứ cơ của Mạc
Thiên Tích. Nàng sống thanh nhàn ở một lầu Điệp Thúy, dựng trong khu đất biệt lập, có hồ nước trong
veo, trồng loại sen trắng tuyệt đẹp. Đặc biệt càng ngày Phù Cừ càng được Mạc Thiên Tích sủng ái và
điều này khiến Hiếu Túc Nguyễn phu nhân, vợ chính của Mạc Thiên Tích ghen ghét.
Hiếu Túc Nguyễn phu nhân là một phụ nữ có chí khí hơn người. Bà đã từng huy động giới phụ nữ viện
quân lương hỗ trợ cho binh lính trong trận chiến thắng chống lại quân Chân Lạp tấn công Phương
Thành năm 1739. chính công lao này bà được chúa Nguyễn ban trí vật phẩm và phong tước Hiếu Túc
nhất phẩm phu nhân. Ở trấn Hà Tiên này, bà là người có uy quyền thứ hai sau Mạc Thiên Tích.
Hôm nọ, nhân lúc Mạc Thiên Tích đang chỉ huy cuộc tập trận ở diễn võ trường tại núi Ngũ Hổ, Nguyễn
phu nhân lập kế bắt Phù Cừ nhốt dưới chậu lớn, thường đặt giữa sân lộ thiên để hứng nước mưa dùng
riêng cho việc pha trà, hải sâm, chưng yến và sắc thuốc.
Cuộc tập trận hôm đó ở bãi sớm hơn dự định vì bỗng nhiên trời đổ mưa dữ dội. Mạc Thiên Tích đội mưa
phu ngựa về dinh. Giao cương ngựa cho thị vệ, Mạc Thiên Tích rảo bước vào trong. Ông thấy đám gia
nhân đang lo hứng nước mưa, song ông chợt nhận ra chiếc chậu lớn nằm úp giữa sân chưa được lật lên
để hứng nước. Mạc Thiên Tích ra lệnh cho gia nhân lật chiếc bồn ấy để hứng nước.
Đám gia nhân có vẻ chần chờ, rồi hè nhau lật chậu lên. Phù Cừ nằm trong chiếc chậu úp đã ngạt thở,
tay chân co quắp, đầu tóc rũ rượi. Mạc Thiên Tích hiểu ngay mọi chuyện, liền ra lệnh cho đám thị nữ
vực Phù Cừ vào nhà và truyền gọi thầy thuốc đến cứu chữa ngay.
Sau lần gặp nạn đó Phù Cừ xin Mạc Thiên Tích xây dựng cho mình một ngôi am tự để nương thâm sớm
hôm kinh mõ và nàng cũng xin Mạc Thiên Tích tha tội cho vợ cả – Hiếu Túc phu nhân. Thấy ái cơ của
mình ý đã định, lòng đã quyết như vậy, Mạc Thiên Tích cho lập một ngôi am tự cho Phù Cừ, cho khắc
biển ngoài cổng là Phù Cừ am tự. Mạc Thiên Tích cho đào một ao nhỏ để trồng loại sen trắng, bứng từ
ao trong dinh đem sang. Chùa Phù Cừ có từ đó. Về sau người đời không hiểu nghĩa của Phù Cừ xa lạ
nèn đổi Phù Cừ thành Phù Dung cho hợp với thế thường.
Xưa kia Ngôi Am Tự này hết sức trang nghiêm và vô cùng kiên cố, cổng thành, đá cáng xây nền, đá
dựng làm cột… rất công phu. Ngôi Am Tự này được đề hiệu là: “Phù Cừ Am Tự” phía sau Am Điện có
xây thêm một toà điện đề Ngọc Hoàng Bửu Điện. Và đây cũng chính là nơi bà Nguyễn Thị Xuân thường
ra đây thắp nhang và tịnh tâm, thỉnh thoảng người ta thấy Mạc Thiên Tích thường một người một ngựa
đứng lặng im ngang sườn đồi bát giác dõi mắt trông sang toà Ngọc Hoàng mong bắt gặp lại bóng hình
người yêu cho đỡ thương đỡ nhớ.
Chùa Phù Dung ngày nay được xây lại hoàn toàn. Chánh điện có nhiều tượng phật được bày trí trang
nghiêm. Đặc biệt có tướng phật thích Ca bằng đồng đưa từ Trung Quốc về thờ. Ở giữa chánh điện là
tượng phật Thích Ca, 2 bên là hai đệ tử là A Nan Ca Diếp. Ở đây có 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao
1.3m ngang 2.3m) minh hoạ 4 cảnh Thích Ca đản sanh, Thích Ca xuất gia, Thích Ca thuyết pháp, và
Thích Ca nhập niết bàn, trong cuc đời đức phật Thích Ca. Sau chùa cất thêm điện Ngọc Hoàng.
Trong điện Ngọc Hoàng đặc biệt có 3 pho tượng: Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu được nghệ nhân xưa
tạo hình rất sắc sảo và sau khi dùng thuốc để sử lý các thanh tre hầu chống lại các loại côn trùng gặm
nhấm đem kết lại thành sườn rồi dùng hồ bột và giấy thơm tô đắp phần hình tượng, sau đó se những
sợi chỉ bằng bột thật tinh xảo để tạo nét hoa văn rồng bướm trên long bào mao diện cuối cùng mới sơn
son thiếp vàng lên để tăng thêm phần rực rỡ.
Ngày nay mặc dù Phù Cừ Am tự tức chùa Phù Dung ngày nay không còn vẻ nguy nga như tòa điện
cách đây hơn 250 năm nữa nhưng vẫn còn chút gì đó phảng phất vấn vương của người xưa ……
Thắng Cảnh Chùa Hang
Từ thị xã rãch Giá theo quốc lộ 80 qua thị trấn Kiên Lương rẽ đến ngã 3 hòn. Nơi đây rẽ phải đi về Hà Tiên còn rẽ
trái thì đi về chùa Hang.
Chùa Hang có từ thế kỷ 18 nằm trong dãy núi hòn chông. Từ ngoài bước vào chánh điện là tượng phật Thích Ca,
tượng Bồ Đề Đạt Ma tượng phật nghìn mắt nghìn tay, tượng Đường Tam Tạng … Rẽ qua phải chính điện là đường
dẫn vào hang. Lần theo con đường mòn tối ôm hai bên là vách đá ta sẽ bắt gặp trong hang có hai tượng phật tạc
theo kểu Thái Lan do hai vị hoàng tử Chiêu Tuý và Chiêu Xí Xang con của vua Xiêm đắp trong lúc Mạc Thiên Tích
cho lánh nạn tại đây .
Lần theo vách chùa Hang ta thấy vỏ hến bám đầy trên vách. Hang này cả ngàn năm trước là một cái hòn chơ vơ
giữa biển lâu dần bị sóng xâm thực bào mòn trên núi đục đẽo thành hang sau đó được nâng lên rồi phù sa bồi đắp
đến nay đã nằm yên trong đất liền
Trước của hang phía Nam có miếu bà chúa xứ chùa Hang. Đến cuối hang ra ngoài là bãi cát mịn màu mỡ gà, nước
trong xanh nhìn ra xa xa là hòn phụ tử sừng sững mọc lên giữa biển
Rời khỏi hang có một vách núi nhô ra biển gọi là mũi công chúa Ngọc Du chuyện kể rằng khi đoàn thuyền của
Nguyễn Anh bị quân Tây sơn truy đuổi chạy đến đây, tướng Tây Sơn đuổi kịp nhảy lên thuyền của công chúa Ngọc
Du thì đồng thời công chúa cũng gieo mình xuống biển. Sau đó Nguyễn Anh trở lại và lập đàn tế đặt tên là mũi công
chúa Ngọc Du.
Phía Bắc chùa là bọng nước tròn cở giếng nhỏ sát vách đá lúc nào cũng đầy nước chảy xuống từ khe đá trên núi
được người dân sử dụng tưới cây, tắm giặt.
Phía Đông chùa Hang là hang Gia Long. Đây là hang động ăn ra biển bị mưa và sóng biển xâm thực tạo thành, từ
cửa hang tiếp giáp ra biển khá xa. Hang tối đen như mực vì thế mà Nguyễn Anh đã lẫn trốn quân Tây Sơn tại đây
trong một thời gian dài. Trên vách đá có những hình thù kỳ lạ do đá vôi kết hợp với nước mưa tạo thành, đặc biệt là
luôn rĩ nước có nơi nước chảy thành vòi. Tương truyền lúc Nguyễn Anh trốn trong hang đã lấy nước này cho quân sĩ
uống và đặt tên là giếng tiên .
Phật Di Lạc có pháp thuật rất là cao siêu; ở dâu nghe tiếng kêu của chúng sinh sự đau khổ thì ông ta sẽ đến giúp;
nên ông ta có thể biến ra muôn hình vạn dạng để cứu giúp.
chiến hạm Esperance của thực dân Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông .Sau đó ông kéo quân về hoạt động ở vùng Rạch
Gía–Phú Quốc .Tại đây ông lãnh đạo nghĩa quân tấn công Rạch Giá .Giặc Pháp truy kích ,ông rút quân về Phú
Quốc .Ong bị giặc bắt tại đây đưa về giam ở Sài Gòn rồi bị xử tử tại Rạch Giá .Dân chúng thờ ông ở nhiều nơi .Đình
làng Vĩnh Thanh Vân ở thị xã Rạch Giá là một trong những di tích tiêu biểu .
Đình thờ Nguyễn Trung Trực vốn là Đình Thờ Cá Ong Voi .Ngày 27/9/1868 khi Nguyễn Trung Trực bị giặc xử
chém ,dân làng Vĩnh Thanh Vân thờ Nguyễn Trung Trực Trong đình và để che mắt địch ,biển đình vẫn ghi là “Đình
Nam Hải Đại Tướng Quân “.Tục truyền ,năm 1909,trong dịp lễ Kỳ Yên ,Quan chức Tây ta đến dự .Tên tham biện
người Pháp vốn biết chữ Hán đã phát hiện ra câu đối trích từ thơ của Huỳnh Mẫn Đạt :
“Hoả hồng nhựt tảo oanh thiên địa
Kiến bạt kiên Giang khấp quỷ thần .”
Liền dùng dùng nổi giận ,cho rằng hương chức vẫn còn nuôi ý chống Pháp. Hương chức làng Vĩnh Thanh Vân viện
lẽ :Ong Nguyễn trung với vua với nước ,dân thờ ông là thờ chữ Trung .Sau đó hương chức nhờ Đốc Phủ Tươi và phủ
quân tâu bày với Tham Biện để bỏ qua chuyện này .
Ngoài địa điểm trên Nguyễn Trung Trực được thờ ở nhiều nơi khác :Tân Điền , Vĩnh Hoà Hiệp ,Vĩnh Hoà ,Phú Quốc
…….Việc tổ chức lễ hội Nguyễn Trung Trực đến cách mạng Tháng Tám mới công khai và duy trì mãi đến nay .Mặt
khác Nguyễn Trung Trực từ lâu là đối tượng thờ tự quan trọng của các tín đồ Bửu sơ Kỳ Hương.
Ở Phú Quốc có nhiều địa điểm liên quan đến Nguyễn Trung Trực vẫn còn bảo lưu trong ký ức dân chúng :Hàm Ninh
địa điểm đổ bộ ,Cửa Cạn ,Ba Trại ,Bãi Ong Lang nơi cụ Nguyễn đánh trận cuối cùng ,đặc biệt tại Rạch Tràm là nghĩa
trang các nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực và ngôi mộ của bà Quan Lớn Tướng đuợc coi là vợ của Nguyễn Trung
Trưc .
Hàng năm dân chúng tổ chức lễ cúng trọng thể vào ngày 9 /3 âm lịch .Nói chung các nơi thờ tự Nguyễn Trung Trực –
vùng căn cứ ,chiến trường xưa của cụ ở Phú Quốc là một vùng đất thiêng ,một địa danh một ngôi mộ và một loạt
những tên người đều gắn bó hữu cơ với cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng dân chài …
Đền thờ Nguyễn trung Trực ở Rạch Giá có thể coi là ngôi đền lớn nhất trong các ngôi đền thờ Nguyễn Trung
Trực .Trong đền được bày trí tôn nghiêm và đây là điểm hành hương của rất đông người họ cho rằng ông Nguyễn rất
linh thiêng .
Trước đền thờ ông có một tương đài được coi là một trong những tượng đẹp nhất Việt Nam có dáng vẻ oai phong và
dũng mãnh .
Lịch Sử Hình Thành Vùng Đất Phú Quốc-Kiên GiangPhú Quốc có lịch sử khai hoang lập ấp khá lâu đời, so với các vùng khác trong lưu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh chống cướp và giặc xâm lược để bảo vệ thành quả khẩn hoang trên vùng đất này cũng
diễn ra thường xuyên. Lịch sử Phú Quốc thể hiện đầy đủ nội dung dựng xây, gìn giữ và truyền thống yêu nước của
dân tộc Việt Nam.
I. THUỞ HOANG SƠ:Ngày trước Phú Quốc là hai đảo hoang vắng. Vào những thập niên của thế kỷ XVII, nơi này đã có một số người Việt
Bình Thuận và người Hoa ở Hải Nam thường lui tới để đánh bắt hải sâm (đồn dột) và bọn cướp biển võ trang lảng
vảng nơi này để thừa lúc trấn lột, cướp bóc. Có thể trong quá trình đó đã có một số rất ít người định cư sinh sống nơi
đây và Phú Quốc được định danh từ đó.
II. THỜI CHÚA NGUYỄN:Đến cuối thế kỷ XVII, Mạc Cửu từ Trung Quốc đến Hà Tiên chiêu mộ dân phiêu lưu ở Phú Quốc và các nơi thành lập
xã thôn. Vùng đất Phú Quốc từ đây bắt đầu có người cai quản.
Năm 1708 Mạc Cửu xáp nhập Hà Tiên vào Đảng trong Phú Quốc trở thành đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt
Nam được cai quản trực tiếp bởi vị Tống trấn họ Mạc. Với chính sách phóng khoáng nhằm kích thích cư dân từ nơi
khác đến, người dân tự do khai khẩn mà không phải nộp thuế… tiếng tăm Phú Quốc ngày một vang xa, lưu dân đến
ở ngày càng đông. Từ đó, việc khai thác Phú Quốc diễn ra khá khẩn trương. Lưu dân gồm nhiều thành phần khác
nhau đã đến sống và hòa thân với nhau: có người đến do phiêu bạc giang hồ, có người đến để tránh bão tố và sự
truy nã của triều định phong kiến lân cận. Trong số này đáng kể nhất là những người Việt đến định cư, khai thác hải
sản sinh sống lâu dài.
Cuối thế kỷ XVIII, nhờ vị trí hẻo lảnh, lại có dân sinh sống với cơ sở kinh tế sinh túc, nên Nguyễn Anh đã nhiều lần
đặt chân đến nơi này trên đường bôn tẩu trốn tránh Tây Sơn (1782 – 1786).
Năm 1783, Phú Quốc trở thành bãi chiến trường khi lực lượng Tây sơn kéo ra truy diệt Nguyễn Anh nhưng ông đã
thoát được nhờ Lê Phước Điền hy sinh giả dạng để lừa Tây Sơn.
Trong những lần lui tới đảo, Nguyễn Anh đã quan tâm bảo vệ củng cố, phát triển Phú Quốc cho đông người và sung
túc. Năm 1785 Nguyễn Anh cầm đầu hạm đội của mình cùng nhân dân trên đảo đánh tan đoàn thuyền cướp biển
Mã Lai, bắt giữ 15 ghe và 80 tên hải khấu. Để tránh nạn cướp bóc tái diễn, Nguyễn Anh ra đi để lại một số chiếc
thuyền và đội quân hùng mạnh với nhiệm vụ canh giữ và mở mang đảo.
Khi lực lượng Tây Sơn không còn đủ mạnh trên vùng đất Nam Bộ, Nguyễn Anh đã phần nào nhờ vào mãnh đất sung
thịnh này để tiến hành cuộc phản công chiếm thành Gia Định xây dựng Nguyễn Triều.
III. TRIỀU GIA LONG:Năm 1802 Nguyễn Anh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long. Ông đã không quên ơn đảo, nên dành nhiều ưu ái cho việc mở
mang Phú Quốc, ông cho phép mọi người được tự do khai thác, buôn bán sinh sống nơi này mà không phải lo sưu
thuế, họ chỉ phải tham gia việc canh giữ an ninh phòng chống bọn cướp, giặc xâm lược mà thôi.
Nhờ vậy, dưới thời Gia Long, Phú Quốc hết sức phồn thịnh, dân số tăng đông, gồm 13 thôn. Nhiều khoảng ruộng lúa
và vườn cây ăn trái bao phủ rộng khắp. Thuyền buôn các nơi (Chân Lạp, Hải Nam, Hội An, Biên Hòa …) đến mua
bán rất đông. Riêng Phú Quốc có một đội ngũ thương thuyền mang thổ sản đến tận miền Trung, miền Bắc và liên
lạc với cả bờ biển Trung Hoa. Triều đình lúc bấy giờ đã đặc một bộ phận hành chánh và lực lượng quân sự riêng để
quản lý nơi này.
Tuy nhiên, do xa đất liền, cư dân làm ăn sung túc, nên Phú Quốc đã phải chịu lắm phen bị tàn phá bởi bọn hải tặc
Mã Lai và quân xâm lược Xiêm La.
IV. TRIỀU MINH MẠNG – THIỆU TRỊ:Dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị, quân Xiêm thường kéo sang đánh phá Phú Quốc. Lực lượng phòng trú ở đây suy yếu
dần. Một phần dân chúng bị mang đi cầm tù ở Xiêm. Nhân đó bọn hải tặc ra sức tung hòanh, thậm chí chúng còn
đặt sào huyệt ở đây. Vì thế dân trên đảo phải bỏ đi trốn tránh trong đất liền hay vào rừng sâu ẩn náo. Thuyền buôn
các nơi không dám đến vùng này buôn bán nữa, Phú Quốc vì thế bị hoang phế dần rừng xanh ra sức phủ lại làng
xóm phố chợ, làm biến mất dần dấu vết khai phá.
V. TRIỀU TỰ ĐỨC – THỜI KỲ ĐẦU CHIẾM ĐÓNG:Dưới triều Tự Đức và thời kỳ đầu Pháp chiếm đóng nước ta, tình hình trên càng trầm trọng thêm đến nỗi người ta
không còn thấy bóng cư dân trên bờ biển của đảo.
Đến năm 1868, anh hùng Nguyễn Trung Trực đã chọn Phú Quốc làm căn cứ chống Pháp. Phú Quốc được chứng kiến
những hoạt động chiến đấu cuối cùng của ông trên đảo.
Ngày 21 tháng 6 năm 1868, sau 5 ngày đánh chiếm và làm chủ thị xã Rạch Giá, Nguyễn Trung Trực rút về Hòn
Chông, rồi cũng nghĩa quân vượt biển ra đảo cố thủ.
Trước tiên ông ghé vào An Thới, rồi đưa nghĩa quân lên đóng dọc Hàm Ninh. Vừa lúc đó lực lượng Pháp tìm bắt ông
cũng ra đến. Tại đây ông dụng kế nghi binh, dụng chiến thuật “Làm ít hóa nhiều” bằng cách cho nghĩa quân đi vòng
vào rừng, rồi đi ra mé biển cứ như thế, Pháp từ xa nhìn bằng ống nhòm tưởng quân Nguyễn Trung Trực đông nên
không dám đổ bộ, vã lại bờ biển Hàm Ninh quá cạn tàu không thể cập bờ. Từ ngoài tàu, Pháp bắn vào, nghĩa quân
cũng dùng súng tự chế kháng cự, thấy không lay chuyển, tàu Pháp quay về Hà Tiên cho viện binh thêm. Huỳnh
Công tấn cùng lính mà ta được điều động đã hùng hổ đổ bộ lên bờ Hàm Ninh.
Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực kịp thời đi theo con đường mòn rút về Dương Đông. Sau đó, lợi dụng địa thế sông
nước hiểm trở của sông Cửa Cạn làm căn cứ phòng thủ.
Sau 100 ngày hoạt động, nhiều cuộc đụng độ diễn ra, lương thực cạn dần, lực lượng nghĩa quân lâm vào cảnh khốn
quẩn. Mặc dầu dân trên đảo hết lòng ủng hộ nghĩa quân.
Cuối cùng, trận đánh quyết tử diễn ra từ bãi biển Cửa Cạn đến bãi biển Ông Lang, Nguyễn Trung Trực sa vào tay
giặc.
Bắt được, Pháp hết lời kêu gọi ông hợp tác, nhưng Nguyễn Trung Trực khẳng khái cự tuyệt. Vì thế, ngày 27 tháng 10
năm 1868 phải mang ông ra hành quyết tại Rạch Giá.
Khi Nguyễn Trung Trực bị bắt và hành quyết thì có thể coi quần đảo Phú Quốc bị đặt dưới quyền cai trị của Pháp
hòan toàn.
Trong giai đoạn này, nạn cướp biển vẫn còn xảy ra. Cư dân không được yên tâm khi đi từ nơi này đến nơi kia trên
đảo. Ngoài bọn cướp, trâu rừng và rắn độc cũng là mối hiểm họa của cư dân.
Họ chủ yếu sống bằng nghề đánh cá, làm nước mắm, đốn cây xẻ ván … thỉnh thoảng các thuyền lớn từ Sài Gòn
hoặc cam pốt đến mang theo gạo muối và chở thổ sản đi.
Cuộc sống dần dần yên ổn trở lại, nhờ vùng biển được canh giữ cẩn thận, Phú Quốc đã lấy lại sự tin tưởng , dân di
cư đến dần.
Sau khi Pháp chiếm Phú Quốc một năm (1869) Pháp tiến hành khảo sát tường tận về đảo. Những mỏ huyền và các
vùng đất màu mỡ được quan tâm đặc biệt.
Năm 1874, Phú Quốc được nâng lên thành Tham Biên. Nhưng sau một năm phải giải thể vì kinh tế không phát triển
đủ để tồn tại.
Khoảng 1890, vài người Pháp đặc quyền bảo lãnh tù nhân ra đảo làm khổ sai cho sở trồng dừa. Lần hồi thấy không
kết quả do việc chuyên chở xa xôi, tốn kém, không cạnh tranh được với các nơi khác.
Những năm đầu thế kỷ XX, Pháp thử nghiệm lập đồn điền cao su, chiêu mộ dân các nôi tới, nhưng cũng đã không
thành công. Trong giai đoạn này đất đai được khai thác quá qui mô. Diện tích trồng tiêu cũng được mở rộng.
Năm 1920, Ngô Văn Chiêu được Pháp bổ làm Quận Trưởng quận Phú Quốc. Khi làm việc ở đây, ông thường dùng cơ
bút để cầu tiên: xin đơn thuốc, hỏi thế sự nhằm giải tỏa tinh thần, bỗng nhiên ông nhận được điềm linh ứng của Cao
Đài Tiên Ông và thấy cảnh bồng lai hiện ra nơi bờ biển phía Tây “xinh đẹp” và yên tĩnh tách rời chốn trần gian …
Ngô Văn Chiêu tự nhận đã được truyền đạo và cùng ban tâm tri lập ra đạo Cao Đài đạo giáo từ đây đã lan truyền
khắp Nam Bộ.
Năm 1932, nhà sư Nguyễn Kim Muôn (Sư Muôn) đã thử nghiệm cải cách về nếp tu hành, áp dụng đạo Phật trong
tình hình xã hội văn minh. Ông tìm đến Phú Quốc cùng đệ tử dựng lên gần 20 thảo am làm cơ sở cho những ngôi
chùa lớn sau này. Sau đó ông về Sài Gòn mở chiến dịch tuyên truyền cho ra đời khoảng 10 đầu sách, với tham vọng
chấn hưng Phật giáo. Trong giai đoạn này báo chí Sài Gòn nhắc đến ông rất nhiều. Năm 1945, nhân dân tín nhiệm,
đưa ông lãnh đạo phong trào Thanh niên tiền phong. Khi Uy Ban Nhân Dân được thành lập (gồm 7 thành viên) ông
được giao làm Ủy trưởng xã hội, uy tín ông đến với nhân dân rất lớn.
Pháp tái chiếm Phú Quốc tháng 4 năm 1946, tinh thần ông dao động, hoạt động với tư cách cá nhân, bị giặc Pháp
giam và hành huyết.
Vào cuối năm 1949 đầu năm 1950, “Mỹ giao cho quân đội Pháp khoảng 20.000 quân chính qui Quốc dân đảng di
tản khi lục địa Trung Hoa thuộc về Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đám tàn quân này được một trung đoàn Lê Dương
Pháp quản lý, trong khu biệt lập ở phía Nam Phú Quốc. Họ đã xây dựng ở đây một doanh trại kết cấu bằng tranh tre
khá khang trang. Họ ở đây mãi đến năm 1953 mới di chuyển về Đài Loan. Nhiều người trong số họ trốn lại ở đảo lập
gia đình, làm ăn sinh sống” (Sơn Nam).
Lợi dụng những cơ sở sẵn có, Pháp cho xây dựng nơi đây thành một nhà tù gọi là “Căn Cây Dừa” để giam giữ tù
binh. Căn này rộng gần 4 hecta chia làm các khu vực A, B, C, D. số tù binh giam giữ có lúc lên đến 14.000 người. Họ
là những người yêu nước và những người bị Pháp tình nghi tham gia lực lượng chống Pháp “Căn Cây Dừa” bắt đầu
hoạt động vào tháng 6 năm 1953 và chấm dứt tồn tại vào tháng 7 năm 1954, khi tù binh hai bên được giao trả.
Hơn một năm sau (1956) chính quyền Sài Gòn sửa sang lại các khu nhà đổ nát của “Căn Cây Dừa” để lập nên trại
“Huấn chính Cây Dừa”. Trại này giam giữ gần 1000 nam nữ chiến sĩ cách mạng. Đến năm 1957, số tù binh này được
đưa ra Côn Đảo và về đất liền, trại này không còn hoạt động nữa.
Đầu năm 1967, chính quyền Sài Gòn lại cho xây dựng trại giam tù binh Cộng Sản Việt Nam Phú Quốc tại thung lũng
An Thới cách “Căn Cây Dừa” cũ 2km. Trại này rộng 40 hecta (gấp 10 lần “Căn Cây Dừa”) nằm dọc con đường 46,
chia làm 12 khu, nhưng chỉ mới sử dụng 11 khu là đình chiến. Đây là trại giam lớn nhất của chính quyền Sài Gòn ở
miền Nam Việt Nam, giam giữ gần 40.000 tù binh cách mạng và 4.000 người vĩnh viễn nằm lại tại đây.
Đầu năm 1973, Hiệp định Paris ký kết, tù binh được trao trả và trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam Phú Quốc cũng
không còn nữa.
Đồng bào yêu nước trên đảo vẫn còn đấu tranh với tinh thần tự lực, tự tiếp tế. Cố gắng liên lạc thông tin với tổ chức
trong đất liền, nhưng rất khó khăn.
VI. ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (30/4/1975):16 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, cùng với khí thế chung của cả nước, Phú Quốc hoàn toàn được giải phóng.
Đất nước thống nhất, Phú Quốc sống trong không khí độc lập, cuộc sống người dân được nâng cao. Nhất là sau đại
hội VI, với cơ chế kinh tế thị trường, hàng hóa được tự do lưu thông, người dân có cơ hội làm giàu.
Phú Quốc thực sự hòa nhịp với đất liền, du khách khắp nơi tìm về thăm đảo ngày một đông, rồi đây Phú Quốc sẽ
xứng đáng với tên gọi vốn có của mình “Hòn đảo làm giàu cho Tổ quốc”.
Vị Trí Địa Lý
Phú Quốc là hòn đảo nằm phía Tây Nam Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang, có dạng hình thoi, nằm theo hướng Bắc
Nam, đỉnh nhọn quay về phía xích đạo, diện tích 567 km2, chiều dài từ Bắc xuống Nam là 52 km, nơi hẹp nhất là 3
km, nơi rộng nhất là 25 km.
Phú Quốc có diện tích tương đương với đảo quốc Singapore và là hòn đảo lớn nhất trong các đảo của Việt Nam.
Đây là nơi duy nhất tại Việt Nam bạn có thể thưởng thức mặt trời lặn trên đại dương. Đảo Phú Quốc có tất cả 99
ngọn núi và đồi được các khu rừng nguyên sinh xanh mướt bao phủ, và nhiều thác và suối chảy rất ngoạn mục. Gió
biển mát dịu cùng với các bãi biển cát trắng ngời tiếp giáp với nước biển xanh trong vắt như pha lê làm cho đảo Phú
Quốc thực sự là một thiên đường.
Hòn đảo xinh đẹp này nằm cách bờ biển Tây-Nam Việt Nam 65 dặm và thực sự chưa bị xâm hại vì thời gian và du
lịch. Các du khách nói rằng: Việt Nam giống như Thái Lan cách đây 20 năm. Nếu đó là thật thì Phú Quốc giống như
Việt Nam cách đây 10 năm.
Nổi danh như một thiên đàng giải trí vùng nhiệt đới và là nơi của những người yêu ánh nắng, Phú Quốc có trên 26
đảo nhỏ xinh đẹp nằm rải rác và 150 cây số bãi biển cát trắng ngời bao quanh đảo, ánh nắng quanh năm, với một
nhiệt độ dễ chịu ở 27 độ C.
Đảo Phú Quốc cùng một số đảo chung quanh hợp thành quần đảo Phú Quốc, nay là huyện Phú Quốc, diện tích 600
km2 (trong đó có quần đảo Thổ Chu nay là xã Thổ Chu cách thị trấn Dương Đông 120 km2).
Như tên gọi Phú Quốc đã ẩn chứa một vẽ đẹp trữ tình, một tiềm năng giàu có. Với dân số toàn huyện trên 60.000
người, mật độ dân số bình quân 95 người/km2, toàn huyện có 8 xã và một thị trấn Hàm Ninh, Dương Tô, Cửa Cạn,
Cửa Dương, An Thới, Bãi Thơm, Gành Dầu, Thổ Chu, và thị trấn Dương Đông.
Tại thị trấn Dương Đông, thủ phủ của Phú Quốc được coi là nơi có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng như: Dinh Cậu, Chùa
Sùng Hưng, bãi biển Dương Đông và con sông cùng tên thơ mộng …
Dương Đông là trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa là đầu mối giao thông có sân bay, cửa sông phục vụ cho
việc giao lưu giữa đảo với khắp nơi.
Phú Quốc cách thị xã Rạch Giá (Kiên Giang) 120km, huyện Hà Tiên 46 km và cách đường lãnh hải Campuchia – Việt
Nam 4,5km. Những ngày đẹp trời đứng trên bờ biển Hàm Ninh nhìn về phía đông nơi cuối trời Hà Tiên mờ ẩn hiện
trong làn khói nước. Địa danh Phú Quốc từ xưa đã gắn liền với biển Rạch Giá – Hà Tiên trong những tuyến hành
hương du lịch.
Phú Quốc ở vào vị trí khá hấp dẫn: từ Phú Quốc đi tỉnh Jak (Thái Lan) tàu chạy hai mươi giờ. Tính đường hàng không,
khoảng cách Phú Quốc – TP. Hồ Chí Minh tương đương Phú Quốc – Bangkok, Phú Quốc – Singapore và Phú Quốc –
Malaysia gần hơn Phú Quốc đi TP. Hồ Chí Minh.
Cảnh quan thiên nhiên Phú Quốc đa dạng, với biết bao phong cảnh đẹp, viền quanh đảo là bãi biển, trên đảo có
nhiều núi, có suối, có sông. Nằm sâu trong đảo là những cánh đồng tranh, vườn cây, những vạt rừng, có nhiều nơi là
lung bào, ứng nước.
Núi rừng chiếm phần lớn diện tích đảo, địa hình cao ở phía Bắc và thấp dần ở phía Nam, chạy dài 99 ngọn núi, tập
trung nhiều nhất ở Bắc Đảo, rãi rác vài ngọn ở phía Nam. Hầu hết các núi này bên Đông dốc đứng và thoai thỏai
bên Tây. Trong đó đáng kể là dãy Hàm Ninh có đỉnh núi Chùa (605m) cao nhất.
Các sông rạch quan trọng như sông Dương Đông (15km), Cửa Cạn (28km), rạch Cửa Lấp, rạch Đầm, rạch Hàm, rạch
Tràm, rạch Vẹm … phần lớn đều bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh và đỗ ra bờ Tây, chỉ riêng rạch Hàm và rạch Đầm
đổ về phía Đông Đảo.
Trùm lên và chen vào núi non là những cánh rừng rộng lớn (gần 2/3 diện tích đảo), trong đó có một khu rừng
nguyên sinh duy nhất Nam Bộ, gồm 929 loại thực vật khác nhau với nhiều gỗ quý và dược liệu hiếm, đặc biệt là
trầm hương và quế. Trong rừng có nhiều chim muông và thú quý như: Nai, Trăn, Rắn, Heo rừng, Khỉ …
Biển bao quanh Phú Quốc khá cạn, chỉ riêng khu vực quần đảo An Thới, ở phía Tây Phú Quốc biển sâu đột ngột, tàu
thuyền lớn ra vào dễ dàng, rất thuận tiện để xây dựng hải cảng lớn.
Các bãi biển Phú Quốc rất đẹp, nơi cát vàng, nơi cát trắng nước trong thấy đáy, có chỗ nông, chỗ sâu, khiến trên
cao nhìn xuống, nước biển có nơi màu xanh nhạt như ngọc thạch, có nơi xanh biếc như ngọc bích, bờ biển Phú Quốc
cát phẳng chạy dài, chỗ rộng chỗ hẹp, lại có nơi bị đứt đoạn bởi những mùi, những ghềnh đá nhô ra biển, hoặc bởi
cây rừng chạy sát ra mé nước.
Rãi rác ở ngoài khơi quanh đảo Phú Quốc có nhiều đảo nhỏ, phía Tây Nam cách Phú Quốc 40 hải lý có đảo Thổ Chu
bề ngang 3km, có dân cư, có núi, có rừng gỗ mun, gần đó có hòn Kèo, hòn Tư, hòn Cao, hòn Nhạn, (nơi chim nhạn
bay đến sinh sản) cách Phú Quốc 4 hải lý có hòn Cao Cát, hòn Dơi … phía Nam có quần đảo An Thới.
Biển Phú Quốc là trung tâm của một vùng ngư trường phong phú vào loại nhất thế giới với mực, cá thu, tôm …
Thiên nhiên đã dành cho Phú Quốc nhiều cảnh đẹp nổi tiếng, bờ biển với những bãi cát trắng phau, những hàng phi
lao rì rào gió thổi, những hang động tuyệt vời.
Khu du lịch Sài Gòn Phú Quốc chiếm một vị trí nhìn ra biển tuyệt đẹp. Cát trắng và nước trong như thuỷ tinh ở nơi
đó làm cho khu vự này trở thành nơi ở tuyệt hảo cho nhiều loại.
Phú Quốc thực sự là nơi du lịch lý tưởng cho du khách.
Tiền Hiền Của Đảo Phú QuốcĐảo phú Quốc ở Vịnh Thái Lan. Trên đảo có núi lớn cao vọi, chóp núi đều chầu về hướng Bắc. Từ Đông sang Tây có
đến 2000 dặm, từ Nam đến Bắc cách nhau trên 100 dặm. Từ xưa Phú Quốc nổi tiếng là nơi có nhiều heo rừng, nai,
hươu, yến sào, mây, gỗ quí, hải sâm, quế. Trên núi lại có thứ huyền phách sáng ngời như đồng người ta dùng làm
hộp đựng trầu cau hoặc chén dĩa rất quí. Ngoài ra, còn có loại long diên hương, nhất là thứ hắc ban hương – ngoài
vỏ đen lấm chấm dợn sóng như trầm hương non có mùi thơm thoang thoảng, không nồng, rất quí !
Tục truyền, ngày xưa có một người xưng là vua Lối ra lập nghiệp. Nhưng về sau mùa màng thất bát, vua Lối bỏ đảo
trở về đất liền.
Sau đó, có một bà lão tên là Kiêm Giao, mộ khoảng một trăm người Việt lẫn Khơ-mer đưa ra đảo lập nghiệp. Thoạt
tiên bà cùng nhóm người này khai phá vùng đất ở Cửa Cạn. Thấy đất phì nhiêu, lại lắm cỏ hoang, bà cho người vào
đất liền mua năm chục con trâu chở ra đảo. Nhờ sức trâu kéo cộng với sự làm lụng cần cù nên mùa màng ở đây
ngày thêm phát triển, cuộc sống càng lúc càng sung túc.
Năm bảy mươi tuổi bà Kiêm Giao nhuốm bệnh nặng. Bà gọi mọi người lại trối trăng : ” Khi ta chết, bao nhiêu ruộng
đất này đem ra chia đều cho các người. Ta chỉ ao ước một điều là dù thế nào, các ngươi phải thả bầy trâu cho chúng
được tự do. Nếu còn trói cầm chúng, vong hồn ta không sao nguôi ngoai được dưới suối vàng “.
Sau khi bà qua đời, bầy trâu được dân trên đảo thả chạy tứ tán trong rừng, vì vậy, đến những thập niên gần đây ở
Phú Quốc có rất nhiều trâu rừng. Nơi chuồng trâu cũ của bà Kiêm Giao còn dấu tích một cây cột bằng gỗ trai cao