Dalat & Người Xưa Trang 68 khởi đầu sự nghiệp và mở các hãng xưởng phụ để được độc lập và giảm điều hành. Việc dùng bê tông cốt tre để tự xây nhà cho mình là tâm của người lương thiện và là tinh thần dám mạo hiểm dám nghĩ dám làm. Hiểu sự quan trọng của kiến thức khoa học ông đã gởi con qua Pháp học. Ông Thế an Đường quá táo bạo _ không biết nên khen hay chê _ khi mở tiệm Con Cua nhưng cất nhà cho gia đình công nhân chung sống gần nhau vừa thể hiện tinh thần đùm bọc nhân công vừa giữ được nhân công chuyên nghiệp và họ suốt đời tri ân ông. Ông đông y sĩ cố vấn cho tiệm này quả là một người yêu nghề và có đạo đức cao. Sự nghiệp của ông tại Châu Đốc tiêu tan vì chiến loạn. Sự lận đận nổi trôi mấy năm tại Saigon đã đưa ông lên Dalat với hai bàn tay trắng. Được ông Thế an Đường giang tay giúp đỡ. Ăn cây nào rào cây ấy và đúng theo nhân cách người lương y ông đã từ chối lời rủ rê hấp dẫn của một thương gia khác, ở lại cải tiến tổ chức tiệm có lợi cho cả chủ lẫn khách hàng để trả ơn chủ và làm gương cho đàn con nay đều thành tài. Theo chú vào Dalat lúc 10 tuổi (1936) anh Bửu Ngự chuyên cần học tập, đậu primaire và được học bổng về Huế học trường École Pratique ( trường Thực Hành) chuyên dạy các môn trung cấp như kế toán, họa viên và trắc lượng viên. Anh trở vào Dalat lại (1948) phục vụ tại ty Công Chánh một thời gian rồi theo ông Nguyễn quang Thiều, thầu khoán chuyên ngành tu bổ các biệt thự. Qua nghề nghiệp và công việc tuyển dụng nhân công anh tiếp xúc nhiều giới thợ thuyền và thương gia nên biết khá nhiều về Dalat đương thời như ông Gross, có trụ sở tại Saint Benoit và chủ hầm đá Trại Mát, là nhà thầu lớn đảm trách nhiều công trình quan trọng tại Dalat như trường Võ Bị Dalat v…v….; đa số thợ mộc thợ sơn là người Quảng, thợ nề là người Huế; giới công chức có nếp sống ổn định nhưng đa số từ trung cấp xuống đông con nên cuộc sống vất vả, vợ con phải sống nhờ buôn bán trong chợ. Chị Ngự sang lại một tiệm nhỏ tên Thanh Nhàn của ông Trà, thanh tra lao động. Tiệm nằm bên trong chợ Hòa Bình phía sau khu hàng thịt chuyên bán các món đặc sản Huế và rượu. Ba chục năm sau định cư tại Nam Cali tiệm anh chị vẫn giữ nguyên bảng hiệu và các món ăn đặc sản như xưa. Điều này nói lên cái uy tín và danh dự của anh chị trường tồn mãi mãi với không gian và thời gian. Với anh chị ấy Thanh Nhàn hàm ý sống thanh bạch trong nhàn hạ đúng theo tinh thần tri túc thiểu dục của một gia đình thuần thành Phật giáo chốn kinh kỳ. Hữu xạ tự nhiên hương. Bà Tôn gia Huồng và ông Trần đình Ôn, hai chị em cô cậu, kẻ giúp về kỹ thuật gieo trồng, người hướng dẫn nhà vườn sử dụng máy bơm nước và thuốc trừ sâu từ năm 1948 khi ngành trồng rau bắt đầu phát triển mạnh. Họ đã để bao tâm huyết bao thử thách trong công việc ăn cơm nhà vác ngà voi này như đã trình bày trên phần nông nghiệp. Những sự giúp đỡ đầy chân tình của người đầu đàn. Tôi chỉ có thể hiểu tinh thần làm việc của mấy vị trên như vậy nhưng về ông Nguyễn thái Hiến (1896-1956) tôi phải dùng một vài mẫu chuyện riêng tư không phải để đề cao gia đình mình mà chỉ với mục đích cung cấp rõ hơn những điều cần tìm hiểu. Tôi chỉ ghi lại một số tôi biết khá rõ từ 1927-1945 (18 năm) thời gian ông làm việc tại Dalat, lối 1/3 cuộc đời, ngoại trừ phần tư tưởng chính trị và quan niệm quản lý tài chánh chung của đại gia đình như cương vị một tổng giám đốc mà không ai hiểu được nhưng tôi có trình bày sơ lược trong cuốn ông Nguyễn thái Hiến và ngành trồng rau từ 1928-1958.
17
Embed
khởi đầu sự nghiệp và mở các hãng xưởng phụ để thương gia ...aihuucongchanh.com/baiviet/2b.pdf · Dalat & Người Xưa Trang 68 khởi đầu sự nghiệp
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Dalat & Người Xưa Trang 68
khởi đầu sự nghiệp và mở các hãng xưởng phụ để
được độc lập và giảm điều hành. Việc dùng bê
tông cốt tre để tự xây nhà cho mình là tâm của
người lương thiện và là tinh thần dám mạo hiểm
dám nghĩ dám làm. Hiểu sự quan trọng của kiến
thức khoa học ông đã gởi con qua Pháp học.
Ông Thế an Đường quá táo bạo _ không
biết nên khen hay chê _ khi mở tiệm Con Cua
nhưng cất nhà cho gia đình công nhân chung sống
gần nhau vừa thể hiện tinh thần đùm bọc nhân
công vừa giữ được nhân công chuyên nghiệp và
họ suốt đời tri ân ông. Ông đông y sĩ cố vấn cho
tiệm này quả là một người yêu nghề và có đạo đức
cao. Sự nghiệp của ông tại Châu Đốc tiêu tan vì
chiến loạn. Sự lận đận nổi trôi mấy năm tại Saigon
đã đưa ông lên Dalat với hai bàn tay trắng. Được
ông Thế an Đường giang tay giúp đỡ. Ăn cây nào
rào cây ấy và đúng theo nhân cách người lương y
ông đã từ chối lời rủ rê hấp dẫn của một thương
gia khác, ở lại cải tiến tổ chức tiệm có lợi cho cả
chủ lẫn khách hàng để trả ơn chủ và làm gương
cho đàn con nay đều thành tài.
Theo chú vào Dalat lúc 10 tuổi (1936) anh
Bửu Ngự chuyên cần học tập, đậu primaire và
được học bổng về Huế học trường École Pratique (
trường Thực Hành) chuyên dạy các môn trung
cấp như kế toán, họa viên và trắc lượng viên. Anh
trở vào Dalat lại (1948) phục vụ tại ty Công
Chánh một thời gian rồi theo ông Nguyễn quang
Thiều, thầu khoán chuyên ngành tu bổ các biệt
thự. Qua nghề nghiệp và công việc tuyển dụng
nhân công anh tiếp xúc nhiều giới thợ thuyền và
thương gia nên biết khá nhiều về Dalat đương thời
như ông Gross, có trụ sở tại Saint Benoit và chủ
hầm đá Trại Mát, là nhà thầu lớn đảm trách nhiều
công trình quan trọng tại Dalat như trường Võ Bị
Dalat v…v….; đa số thợ mộc thợ sơn là người
Quảng, thợ nề là người Huế; giới công chức có
nếp sống ổn định nhưng đa số từ trung cấp xuống
đông con nên cuộc sống vất vả, vợ con phải sống
nhờ buôn bán trong chợ. Chị Ngự sang lại một
tiệm nhỏ tên Thanh Nhàn của ông Trà, thanh tra
lao động. Tiệm nằm bên trong chợ Hòa Bình phía
sau khu hàng thịt chuyên bán các món đặc sản
Huế và rượu. Ba chục năm sau định cư tại Nam
Cali tiệm anh chị vẫn giữ nguyên bảng hiệu và các
món ăn đặc sản như xưa. Điều này nói lên cái uy
tín và danh dự của anh chị trường tồn mãi mãi với
không gian và thời gian. Với anh chị ấy Thanh
Nhàn hàm ý sống thanh bạch trong nhàn hạ đúng
theo tinh thần tri túc thiểu dục của một gia đình
thuần thành Phật giáo chốn kinh kỳ. Hữu xạ tự
nhiên hương.
Bà Tôn gia Huồng và ông Trần đình Ôn,
hai chị em cô cậu, kẻ giúp về kỹ thuật gieo trồng,
người hướng dẫn nhà vườn sử dụng máy bơm
nước và thuốc trừ sâu từ năm 1948 khi ngành
trồng rau bắt đầu phát triển mạnh. Họ đã để bao
tâm huyết bao thử thách trong công việc ăn cơm
nhà vác ngà voi này như đã trình bày trên phần
nông nghiệp. Những sự giúp đỡ đầy chân tình của
người đầu đàn.
Tôi chỉ có thể hiểu tinh thần làm việc của
mấy vị trên như vậy nhưng về ông Nguyễn thái
Hiến (1896-1956) tôi phải dùng một vài mẫu
chuyện riêng tư không phải để đề cao gia đình
mình mà chỉ với mục đích cung cấp rõ hơn những
điều cần tìm hiểu. Tôi chỉ ghi lại một số tôi biết
khá rõ từ 1927-1945 (18 năm) thời gian ông làm
việc tại Dalat, lối 1/3 cuộc đời, ngoại trừ phần tư
tưởng chính trị và quan niệm quản lý tài chánh
chung của đại gia đình như cương vị một tổng
giám đốc mà không ai hiểu được nhưng tôi có
trình bày sơ lược trong cuốn ông Nguyễn thái
Hiến và ngành trồng rau từ 1928-1958.
Dalat & Người Xưa Trang 69
Ông là người của thực tế và của ứng
dụng.
Vườn ông Hiến tại ấp Tân Lạc. Đĩnh đồi với nhiều biệt thự
là đồi hầm đá trong tạp ghi này. Sườn đồi bên mặt là sườn
đồi trường Adran
Những yếu tố căn bản về lập vườn cho ta thấy
điều này rõ nhất. Tuyên Quang là vùng đồi núi
với đồn điền trà trồng theo triền đồi. Họ đắp đập
để dẫn nước về tưới trà. Trà không cần phân nếu
đất màu mỡ nhờ có rễ ăn sâu. Do đó theo ông yếu
tố chính để lập vườn trồng rau là nước trên cao đất
sâu cay. Ông gặp 3 trở ngại ngay tại vườn Tân
Lạc, nhưng nhờ theo dõi sát công việc ông đã cải
thiện lỗi lầm để thích ứng với mỗi vấn đề. Rau rễ
cạn: a) phải gánh nước tưới trên mặt đất bằng
phẳng. Ông phải thay đổi hình thức làm bậc thang
mấy lần mới đạt được mô hình hiện hữu; b) cần
nhiều phân cho mỗi lứa rau. Phân xanh thiếu hiệu
quả. Phân tiêu, nguồn phân bất tận, bị phản đối
đành bỏ cuộc. May mà ông tìm được nguồn phân
cá tại Phan Thiết; c) Trà nhẹ, rau nặng ảnh hưởng
nhiều đến vận chuyển. Những khu trồng rau Trại
Mát, Đất Làng đều có nguồn nước từ trên cao, gần
đường xe lửa, có đường xe hơi. Nhờ Hán văn ông
hiểu y lý (chữa bệnh và thầy bói) ông áp dụng vừa
thuốc Bắc vừa thuốc Nam để hướng dẫn bà con
nghèo tự tìm lấy dược thảo mà dùng và khi tiệm
thuốc tây mua lá artichaut về bào chế thuốc đau
gan ông khuyên người nào yếu gan nấu lá arti-
chaut uống. Tiệm Nouveautés Hanoi chuyên bán
hàng cao cấp cho người Pháp và giới thượng lưu,
ngoại trừ gạo và vải cần thiết cho mọi người. Ông
áp dụng lề lối mua trước trả sau của người Hoa
cho hai nhu yếu phẩm này vì có ba cái lợi 1) giúp
cho nhiều người nghèo có kế sinh nhai; 2) chuyển
bán lẻ thành bán sĩ mà không cần kho. Khi vải về
ông giữ lại một số cần thiết cho tiệm còn bao
nhiêu bán chịu cho bạn hàng ngoài chợ. Về gạo
nặng khó di chuyển ông gợi ý người bán lẻ mua
nguyên bao chở về ấp bằng xe ngựa bán hết ngay
trong ngày; 3) Hàng hóa bán ra càng nhiều uy tín
và sự ngưỡng mộ ông càng tăng. Lái buôn nhỏ
thấy ông giúp mọi người mà không hiểu là hai ba
bên cùng nương tựa nhau giúp lẫn nhau.
Bài học đầu đời của tôi dưới đây thể hiện
rõ ràng sự thực tế của ông và giúp tôi rất nhiều.
Năm 13 tuổi, học lớp nhì nhất niên, lần đầu tiên
tôi được đi Saigon theo ba tôi đi mua hàng. Mỗi
ngày khi ông vào nói chuyện với chủ tiệm tôi ngó
quanh ngó quẩn mọi thứ trong và trước cửa tiệm
một cách thích thú. Mấy ngày sau ông dắc tôi ra
trước cửa École d‟Apprentissage (tiền thân trường
Cao Thắng) tại đường Đỗ hữu Vị (Huỳnh thúc
Kháng), nơi chúng tôi tạm trú. Đưa tôi tờ giấy nhỏ
ghi rõ tên trường và địa chỉ, và một số tiền rồi dặn
“ Hôm nay con đi chơi một mình. Cất kỹ tờ giấy
ghi địa chỉ trường và tiền trong hai túi khác nhau.
Muốn ăn gì cứ mua ăn, muốn xem gì cứ xem. Khi
đưa tờ giấy này hỏi đường về hoặc kêu xích lô chở
về. Nếu đã tiêu hết tiền vào mượn tiền của bác gái
trả. Đứng đây con đi về tay phải là ra chợ cũ nơi
có nhiều tiệm chà và bán vải; đi ra trước mặt là
tiệm con đứng xem cái đồng hồ có con gà gáy 6,
qua tay trái là ra chợ Bến Thành. Đừng sợ gì hết,
đói bụng cứ vào tiệm gọi thức ăn như ba đã làm.
6 Ông đã biếu tiền để ông thợ sửa đồng hồ cho tôi xem sự
vận hành của các dĩa răng cưa và bộ phận làm con gà thò cổ
ra gáy
Dalat & Người Xưa Trang 70
Dám không?” Tôi sợ run, đứng im cúi mặt. Ông
vỗ vai an ủi và khuyến khích “ cứ mạnh dạn lên,
cứ đi thẳng từ từ theo mỗi hướng và cẩn thận khi
qua đường.” Thời đó mà ông dám để một đứa con
nít tỉnh nhỏ phiêu lưu giữa Saigon để dạy nó thực
tế, gan dạ, mạo hiểm khi phải ứng phó với đời
Mấy ai dám làm.
Ông là người anh cả có trách nhiệm.
Ông là người tự tổ chức di dân đầu tiên
vào Dalat một cách âm thầm chu đáo từ vật chất
đến tinh thần. Họ là những nông dân chất phác,
mù chữ, xa quê nhà vào làm cho Tây mắt xanh
mũi lõ nên lo ngại đủ điều. Ông phải lo công ăn
việc làm, khuyến khích họ học chữ Quốc ngữ,
khuyên can ngăn cản không nên tiếp xúc gái ăn
sương. Khi một số đã bị bịnh phong tình, ông
khuyến khích họ nên mạnh dạn lên nhà thương trị
bệnh này vậy mà một số đã bị tuyệt tự. Ông lập
nhà thờ không phải để thờ cha ông như bao người
khác mà là nhà thờ họ Nguyễn thái cho cả bà con
nội ngoại nhớ tổ tiên v…v… Ông giải thích và
trấn an họ là có an cư mới lạc nghiệp, cùng nhau
tự san sẽ những khó khăn, người đi trước đùm bọc
kẻ đến sau. Không đem con bỏ chợ, ông xem tình
thương bà con như là trách nhiệm của ông v…v…
nên đôi bên hoàn toàn tin tưởng nhau không lợi
dụng hoặc lạm dụng nhau. Sự giúp đỡ và trợ cấp
của chính phủ cho người di dân Hà Đông (1938)
và các khó khăn ban đầu của nhóm di dân này tự
nói lên tinh thần trách nhiệm cao quý của ông
mười năm về trước.
Sau vài tai nạn nhỏ ông đã theo dõi sát
công việc khai phá và tưới nước trong thời gian
đầu nên ngày nay các vườn mới có mô hình thẳng
hàng ngay lối như hiện tai. Lúc đầu các băng đất
từ kích thước đến vị trí nằm tùm lum có thể gây tai
nạn khi gánh nước lên xuống các ta luy (talus) đất
mấp mô trơn trợt rất nguy hiểm nên ông dùng mô
hình một lối đi thẳng từ dưới lên cao theo triền đồi
với những băng đất ở hai bên rất anh toàn. Những
dấu tích băng đất lộn xộn này hiện còn nơi vườn
Tân Lạc. Đâu ai ngờ nhờ mô hình đó mà ngày nay
nhà vườn bắt ống sắt theo một đường thẳng.
Ông là người yêu nghề và có tinh thần phục vụ
cao.
Tôi không hiểu chương trình ông học có
ngành trồng rau không nhưng ông đã tìm hiểu, áp
dụng và thí nghiệm nhiều loại rau, hoa và cả cây
mận tại vườn ông. Ông bảo nguồn phân tiêu là vô
tận nhưng mọi người đều ngại dơ thúi. Ông đã tiên
phong xuống hầm tiêu múc phân lên làm gương.
Ông bỏ công của đi tìm những khu có thể khai phá
làm vườn như Trại Mát, Đất Làng. Ông đã hướng
dẫn rõ ràng và cho thực tập ngay tại vườn tất cả
các công đoạn trong ngành trồng rau chớ không
phải lý thuyết suông. Khi thấy tầm quan trọng của
sự vận chuyển ông mua hai sở ruộng ở Thủ Đức.
Ruộng có mạch nước mạnh, gần ga Dĩ An thuận
tiện cho việc chuyên chở phân cá từ Phan Thiết
vào và có thủy lộ để chở rau đến Saigon. Lý do
mua ruộng này: nơi sản xuất rau gần trung tâm
tiêu thụ để giá hàng được rẻ hơn. Phải thật sự yêu
nghề ông mới hăng say bỏ công của để tìm tòi
nghiên cứu cách giảm giá thành sản phẩm. Một
tinh thần phục vụ dân chúng cao cả và bất vụ lợi.
b) Sự đóng góp của thế hệ nhân chứng.
Thế hệ sử liệu đã để lại khá nhiều ta chứng tích,
nhưng có nhiều việc nằm ngoài các chứng tích nêu
trên mà cần được nghe kể lại và phân tích thì ta
mới hiểu rõ hơn tinh thần làm việc của người Da-
lat xưa. Nếu ta không tìm những nguồn tin mới ta
sẽ mất luôn.
Sự cấp bách của tìm nguồn tin
Nhiều người cung cấp dữ liệu cho tôi viết
về ngành trồng rau 6 năm về trước nay cũng đã
qua đời mang theo những gì họ biết đặc biệt là bà
Tôn gia Huồng “cuốn tự điển sống” mới mất chưa
đầy hai năm. Nếu còn sống với cương vị chủ một
tiệm buôn lớn, chỉ một mình bà sẽ cho ta biết bao
nhiêu điều về xung quanh khu chợ Hòa bình
v…v…Thật đáng tiếc.
Một bà lão, nay đã lẫn, quanh năm suốt
tháng quanh quẩn trong bếp, đã tưởng hợp tác xã
(coopérative) của Ấp Nghệ Tĩnh bán phân sau
1945 là ông “Tây Cô văng Ty”, đã cho biết là
Dalat & Người Xưa Trang 71
nhóm người khai phá vườn rau đầu tiên ở Tân Lạc
đã dùng một loại xe bánh gỗ chuyên chở đất mau
gấp nhiều lần xe cút kít của phu lục lộ và họ đã
lãnh khoán vận chuyển đất cho khu ký túc xá
trường Grand Lycée. Tuy ngồi ở nhà nhưng bà
biết rõ vì là người nấu bếp cho nhóm người làm
khoán vận chuyển đất mà tôi đề cập ở đoạn miền
đất sáng tạo. Một nguồn tin bất ngờ.
Chúng ta thường nghĩ chỉ có người nghèo
mới tha phương lên Dalat cầu thực, nào ngờ lại có
những trường hợp đặc biệt. Ông Tô thế Lộc, biết
Pháp văn, một thương buôn gốc Sa Đéc từng lăn
lóc trên Cao Miên, quay về lập nghiệp tại Phan
Thiết trước khi lên Cầu Đất. Ông Trương tiến
Đức, người Quảng Bình vào Cầu Đất làm thơ ký
kế toán rồi lập gia đình với con gái ông Lộc, và trở
thành kế toán trưởng sở trà Cầu Đất nhưng dân
chúng đều gọi là ông Nghè Trấp. Cả hai ông là
chủ chốt trong nhóm người thành lập làng Trường
Xuân, và chùa Viên Giác, Cầu Đất. Ông Bá hộ
Nguyễn ngọc Chúc người xã An Hóa, Bến tre, ra
Nha Trang dự định làm thầu khoán nhưng rồi lên
Dalat kinh doanh ngành khách sạn (khách sạn An
Hóa) và nhà hàng ăn phục vụ Pháp kiều. Ông
Nguyễn hữu Sở, nhạc phụ ông Chủ tịch Giám sát
viện Ngô xuân Tích, người Mỏ Cày, Bến tre ra
Nha Trang kinh doanh rồi về Phan Rang thành lập
sở muối Cà Ná, và lên Dalat mở lò làm gạch, bị
Pháp bắt đày lên Dakto, tỉnh Kontum. Tất cả bốn
gia đình này đều bị sạt nghiệp vào năm 1945 mà
các con cháu không làm sao hiểu rõ nguyên nhân.
Trong khi tìm hiểu thêm về ông Võ đình Dung có
vài người cho tôi biết rằng: “Đất Dalat thiêng lắm
nhiều người làm ăn phát đạt nhưng tài sản sẽ tan
tành khi muốn đem của cải ra khỏi Dalat”. Một sự
trùng hợp giữa tâm linh và tán gia bại sản với biến
cố 1945. Con cháu họ là những nhân chứng còn
đây nhưng không làm sáng tỏ uẩn khúc được.
Không ai có thể tưởng tượng được là vì muốn
chỉnh trang cho đẹp hơn cái khung cửa vòm cung
mặt tiền khách sạn Langbian, niềm hãnh diện của
người Pháp tại Dalat trong bao năm qua, lại sụp đổ
ngày 6/ 3/1943 làm chết 3 nhân công Việt với các
lý do thật ấu trĩ: vì làm gấp việc nên bê tông
không đủ cứng, và đã tính sai trọng lượng bê tông.
Sự quý giá của nguồn tin.
Những đường Dalat xưa đều có tên các
danh nhân Pháp hoặc Việt ngoại trừ hai con đường
Lò Gạch và Cầu Quẹo với tên có hàm ý do dân đặt
nhưng không ai hiểu nguồn gốc. Năm 1948 một
học sinh trường Đoàn thị Điểm cùng một số bạn
bè nghịch ngợm rủ nhau lên khu Huyện Mọi dàn
trận dùng ná bắn chim chọc phá đám trẻ con
Thượng nhiều lần rồi quen nhau và được trẻ
Thượng rủ vào xóm Thượng chơi. Nhờ đó mà anh,
nay gần tám mươi, cho biết trên đó có nhiều lò
nung gạch dọc theo suối Cam ly. Đất sét được chở
từ vùng Trại Mát Trạm Bò về bằng xe hơi. Tôi
biết rõ vùng đó là khu Huyện Mọi và gần Trại Mát
có lò đúc chén dĩa Thanh Thanh. Người Thượng
đã đóng góp nhiều công sức và cũng chết rất nhiều
vì tai nạn và bệnh sốt rét trong công tác làm đường
xe lửa. Ông Huyện Mọi đương thời là Hà Đăng
biết ba thứ tiếng Pháp,Việt và Chàm, cựu Tri
Huyên Tân Khai (Djiring), có chí cầu tiến. Ông
tranh đấu thành công việc mở trường cho người
Thượng, gởi học sinh Thượng ra Collège de Qui
Nhơn học, được Toàn Quyền Decoux tặng huy
chương Bắc đẩu bội tinh năm 1925, 1929, được
mề đay Kim tiền hạng 3 và Kim khánh bội tinh
năm 1933. Để phản đối Công sứ Pháp ông từ quan
về làm lãnh tụ cho bộ lạc đến lúc mãn phần. Tôi
nghĩ có thể Pháp giao cho người Thượng sản xuất
gạch là để tưởng thưởng sự hy sinh và công lao họ
đóng góp trong tuyến đường xe lửa. Có thể tên Lò
Gạch có từ đó. Tôi thật sự cảm phục tinh thần
phục vụ của ông này khi so sánh với các ông Quản
Đạo Việt.
Dalat & Người Xưa Trang 72
Về đường Cầu quẹo trong buổi sơ khai dân
chúng phải dùng cầu băng qua suối để đưa các
đám ma lên nghĩa địa. Con đường phải quẹo qua
trái khi khu Số 4 thành hình và thành tên đường
Cầu Quẹo. Lúc đó chưa có đường qua ấp Hà Đông
và đường Hai bà Trưng.
Trận lụt năm Nhâm Thìn (1952) làm
đường giao thông đình trệ lâu dài, Dalat thiếu các
nhu yếu phẩm nhất là gạo. Chánh quyền thông báo
mỗi gia đình lên Tòa Thị Chính xin phiếu gạo rồi
về các địa điểm phân phối gạo lãnh phần của
mình. Những người đi lãnh gạo đa số là phụ nữ
trong đó có một cô giáo. Cô lên tiếng nhắc các học
trò cũ, nay đã lớn, hãy sắp hàng hai như khi vào
lớp để sự phân phối được mau chóng và trật tự.
Nhìn cảnh người Mỹ chen lấn nhau dành thực
phẩm trong trận bão Katrina làm một bà lão nhớ
và kể lại cho tôi nghe tinh thần cao đẹp của người
Dalat trước đây.
Tuy vậy dân chúng vẫn xôn xao lo sợ,
nhiều nhà vườn phải ăn rau qua ngày và giá rau rẻ
mạt. Bà Ba Lạc một thiếu phụ, dẹo chân ở khu số
Bốn làm nghề đan len, nhân dịp này mua bắp sú
phơi khô giúp dân nghèo. Về sau có người cho
biết bà ấy phơi sú khô để giúp cho kháng chiến
quân. Một nguồn tin nhỏ nhưng nói lên rất nhiều:
tinh thần tự trọng của dân chúng, tình thương vị
tha vô bờ bến của một phế nhân. Những hình ảnh
thật cao đep. Phải chăng đó là kết quả của tình
thương người Dalat thuở xưa còn được lưu giữ.
Sự suy nghĩ riêng tư của cá nhân.
Tôi có duyên may được biết những người
Nam-Ngãi-Bình-Phú vào Dalat khoảng 1950-60
với cái rương thiếc 7
, và đã gặp lại một cái rương
thiếc đã theo thuyền nhân vượt trùng dương đến
Minnesota.
7 Nẫu là sau năm 1954 tiếng dân Dalat gọi những người
Bình-Phú ồ ạt vào Dalat với hành trang đựng trong chiếc
rương thiếc. Trước đó họ gọi chung tất cả người Nam Ngãi
Bình Phú là Quảng căn cứ vào giọng nói lạ lùng của người
Quãng Nam.
Cái rương thiếc đã theo thuyền nhân vượt trùng dương
Nhà thờ họ Nguyễn thái nguyên thủy năm1934
Nhà thờ Họ Nguyễn sau nhiều lần trùng tu
(hình chụp năm 2003)
Nhà thờ họ Nguyễn thái nguyên thủy do
ông Nguyễn thái Hiến lập tại Tân Lạc năm 1934,
được trùng tu nhiều lần. Ba cái hình trên cho ta
thấy người Quảng và Nghệ An có truyền thống
nhớ nguồn gốc tổ tiên và dòng họ rất tốt.
Dalat & Người Xưa Trang 73
Người Huế vào Dalat mang theo chiếc áo
dài và nón lá. Tôi đã hỏi nhiều bạn bè gốc Huế về
ý nghĩa và nguồn gốc trang phục này. Họ cũng
không rõ và vì quá quen mắt nên cũng không quan
tâm. Đầu thập niên 1930 chín chục phần trăm dân
Dalat đều dùng trang phục này mặc dầu rất bất
tiện vì nhiều mưa, và không phải vì lạnh vì họ đã
có áo len. Những tấm hình rương thiếc và nhà thờ
họ Nguyễn thái đã chứng minh mọi người tha
phương cầu thực đều nhớ đến nơi chôn nhau cắt
rốn nên chiếc áo dài và nón lá cũng có thể là biểu
tượng của người Huế theo ý nghĩ này. Nhưng có
người bảo dân trí người Dalat xưa lúc đó đã khá
cao, họ hiểu rõ là tuy đang sống trên đất Việt
nhưng là trong lòng địch và là thủ đô của Pháp
trên Đông Dương, nên không dám có hành vi
chống đối và cảm thấy đau lòng khi nhớ cố hương.
Chắc hẵn có vị tri thức nào đó âm thầm gợi ý là
chúng ta bươn chải suốt ngày trên mọi nẻo đường
trong thành phố đầu đội trời chân đạp đất toàn
thân ấp ủ trái tim cho nóng để giữ tinh thần bất
khuất của tổ tiên. Họ dùng chợ làm địa bàn, kín
đáo khuyên đàn bà con gái dùng trang phục đó để
cùng nhau âm thầm khuyến khích và tạo ý chí
tưởng nhớ Triều Đình Huế. Hai tấm hình kế bên
đã phần nào nêu lên tinh thần thương cội nhớ
nguồn kín đáo, sâu sắc, an toàn, và cao cả của toàn
dân Dalat xưa và qua mặt người Pháp thật dễ
dàng. Thật đáng ngưỡng mộ.
Chợ cũ Dalat
Trong phần cuối của giai đoạn trưởng
thành của phong cách người Dalat xưa (1927-45)
ta đã thấy người tiền phương sống với tinh thần
lương thiện, và nay lại thêm tinh thần nhớ cội
nguồn. Cả hai đều tốt nhưng tinh thần lương thiện
khó duy trì và phát triển trừ phi Dalat sẽ thành một
trung tâm nghĩ dưỡng có tầm vóc quốc tế mà tôi sẽ
trình bày trong đoạn sau. Về tinh thần nhớ cội
nguồn mới đọc qua ta thấy không có gì lạ nhưng
nó thật đặc biệt chỉ có riêng tại Dalat: một tinh
thần nhớ nguồn đậm đặc. Đậm vì toàn dân Dalat
xưa đều dùng một biểu tượng nón lá và áo dài, đặc
vì được thể hiện một cách cô đọng trong một thời
gian ngắn (1927-45) để xây dựng thành phố.
Áo dài và nón lá Huế rất thịnh hành tại Dalat từ 1930
Đa Lạc hay Nhà Làng nằm bên khu Việt,
Tân Lạc- Xuân An bên khu Pháp là hai khu người
Việt tập trung đầu tiên. Đa Lạc là hợp pháp với địa
hình thuận tiện, với dân chúng đủ thành phần nên
phát triển mau lẹ. Do đó đã mất tính cách cổ kính.
Tân Lạc–Xuân An đã là bất hợp pháp lại có địa
hình hiểm trở với cái vườn trồng rau Dalat đầu
tiên như là di tích lịch sử của nền kinh tế quan
trọng và toàn dân lao động nghèo nhà cửa nhỏ
nhoi tồi tàn nên phát triển chậm do đó còn giữ
được nét cổ kính. Khi đi du lịch thấy mọi quốc gia
đều bảo vệ và biến các khu phố cổ thành những
trung tâm du lịch ngay giữa thành phố và chúng ta
cũng có những khu phố cổ Hà Nội và Hội An nên
tôi nghĩ rằng Xuân An -Tân Lạc hội đủ điều kiện
thành trung tâm du lịch cổ nội thị của Dalat. Để
khu vực này có thể tự túc tôi đề nghị lồng vườn
ông Hiến vào khu đất lân cận với địa thế không
kém hiểm trở để lập một vườn thực vật (jardin bo-
Dalat & Người Xưa Trang 74
tanique) vì loại vườn này thích ứng với mọi địa
thế. Một quy hoạch tân cổ giao duyên hài hòa da
dụng ngay cửa ngỏ vào thành phố.
Gánh hàng rong trong xóm nghèo
Tôi sinh ra tại khu Nhà Thiếc nơi ba tôi đã
gieo những hạt giống rau Dalat đầu tiên. Sau cơn
đau thương hàn tưởng chết khi học chưa xong lớp
ba tại trường Hồng Lam, ba tôi gởi tôi học tại Nha
Trang rồi Phan Thiết. Năm 1945 trở về Dalat giữa
năm lớp nhì nhị niên khi Nhật đảo chánh. Mấy
tháng sau đi tản cư và năm sau vĩnh viễn xa ba mẹ
và anh chị em.Tôi chỉ sống tại Tân Lạc 10 năm và
tìm hiểu ba tôi (thần tượng) qua lời kể lại của bà
con, qua quang cảnh, sinh hoạt và sự kính nể tuyệt
đối của cộng đồng người Nghệ An đối với ông.
Nói tuyệt đối vì lần duy nhất chỉ thị của ông
không được bà con tuân thủ là khi ông bảo họ
xuống hầm tiêu múc phân lên tại khu Nhà Thiếc.
Ông đã thong thả leo xuống và múc lên. Mẹ tôi
phản đối việc dùng phân này để trồng rau và sau
này nhóm bà con đã hối hận về sự bất kính này.
Tôi biết Dalat qua hình bóng và sự nghiệp của ba
tôi phảng phất khắp mọi nơi trong thành phố.
Trong thời gian đi học xa nhà ba tôi luôn khuyên
bảo là ấu bất học lão hà vi và trực tiếp chỉ dẫn nền
khoa học của Pháp trong hai chuyến đi Saigon.
Sau khi tốt nghiệp đại học tồi tìm tòi và sao lục
được các bản chứng khoán về tài sản địa ốc với
các niên kỷ tôi mới tập hợp được tiểu sử và tinh
thần làm việc của ông. Tôi nghĩ ba tôi đã khai thị
và Dalat đã khai trí cho tôi nên tôi thương ba tôi
bao nhiêu thì quý Dalat bấy nhiêu. Tạp ghi này đã
hút hồn tôi nên mới có sự thiết tha này.
Thư viện và bảo tàng viện Hoa kỳ đầy ắp
tài liệu tân cổ nhưng họ vẫn khuyến khích dân da
màu ghi chép lại những phong tục văn hóa của
quốc gia gốc của họ. Noi gương đó tôi ghi lại một
số người Dalat của hai thế hệ 1 và 2 như khởi
xướng phong trào tìm lại các sinh hoạt người Da-
lat xưa và mong mõi được nhiều người trong thế
hệ thứ 2 hưởng ứng hầu lưu giữ được phần nào
nếp sống của cha ông ta và để con cháu hiểu nỗi
gian lao của họ. Với kỹ thuật truyền thông hạn hẹp
của mười năm trước ta không thể làm việc này
được. Chờ năm ba năm nữa ta khó làm hơn vì
nhân chứng ngày càng giảm. Đối với quý vị đang
tuổi hưu thời điểm này là thích hợp nhất, trước là
để góp tay vào công việc phục hồi lại lịch sử Da-
lat, sau là để có niềm vui trong cuối đời và tránh
được bệnh lú lẫn.
Người xưa đã xây dựng thành phố bằng tay
chân với gian lao khổ nhọc dưới nắng mưa. Ngày
nay ta ngồi trong nhà tìm lại các sinh hoạt và tinh
thần của họ bằng trí tuệ với truyền thông một cách
nhẹ nhàng. Vài chục năm nữa khi tìm hiểu nơi cha
ông đã lập nghiệp mà chẳng tìm được gì con cháu
ta sẽ ngỡ ngàng thất vọng biết bao khi chưa tròn
100 năm. Xin hãy cùng nhau chung sức tìm tài
liệu nguồn gốc lịch sử người Việt Dalat nếu không
sẽ mất luôn. Trước hết mong rằng tạp ghi này
được mọi người nhất là các cơ quan truyền thông
dành chút từ tâm cho phổ biến rộng rãi để được
Dalat & Người Xưa Trang 75
nhiều người biết. Bản tạp ghi này hẵn còn thiếu
sót xin nhờ các bậc lão thành, các văn thi nhạc sĩ
bổ túc và tùy sở trường dùng lời thơ tiếng nhạc
khuyến khích mọi người hưởng ứng. Không cần
phải văn hay, không cần phải truy tìm mà chỉ cần
viết lại hay ghi âm trung thực những gì mình biết,
mình nhớ về ngành nghề của cha ông mình hay
bạn bè hàng xóm của họ. Với máy chụp hình số
hãy chụp những dụng cụ, thiết bị, những căn nhà
đặc biệt v…v... và xin gởi vào mạng lưới sưu tầm
tài liệu sinh hoạt của người tiền Dalat xưa do thế