CCS [ 1 ] Nội dung phỏng vấn GS.TS Nguyễn Văn Khang 1st Recording ---- Total length 1.40 ........................................................................ 1 2nd Recording ---- Total length 1.20 ..................................................................... 33 Thông tin cá nhân/ Personal information/.............................................................. 55 ---------- 1st Recording ---- Total length 1.40 April 27, 2015 14:00~16:00, Institute of Linguistics, Vietnam Academy of Social Sciences, No.9A Kim Ma Thuong Street, Hanoi Interviewers: Quach Thu Hien, Bui Ba Quan, Dao Tam Khanh HỎI: Em xin được bắt đầu cuộc phỏng vấn. Mục đích của dự án này là phỏng vấn các nhà nghiên cứu Hán học ở các nước để đưa ra những cảm nhận của họ về Trung Quốc nói riêng và ngành Trung Quốc học nói chung. Hôm nay chúng em xin phép được phỏng vấn thầy. Đầu tiên xin thầy chia sẻ cho chúng em biết tiểu sử và lý lịch của thầy cũng như bối cảnh gia đình, gọi là quá trình đào tạo từ nhỏ cho đến lớn ạ. ĐÁP: Tôi vốn học ở Đại học Ngoại ngữ nay là Đại học Hà Nội, khoa tiếng Trung Quốc, sau đó tôi sang Bắc Kinh thực tập một số năm. Sau đó về làm ở Viện ngôn ngữ học cho đến bây giờ. Trong thời gian làm việc, tôi làm về ngôn ngữ học, có hai cái mà tôi làm nhiều nhất là từ vựng ngữ nghĩa và có một thời gian dài làm từ điển Tiếng Việt được giải thưởng Nhà nước năm 2005. Cuối năm 1987 đầu năm 1988 tôi sang Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Viện Đông phương học. Tôi bảo vệ luận án ở đấy, từ đó về tôi làm chuyên về ngôn ngữ học xã hội. Sau khi về nước, có lẽ ngành ngôn ngữ học xã hội là một ngành mới ở Việt Nam vì nó liên quan đến nhiều vấn đề chính trị xã hội và tôi đảm nhận nó. Người khai sáng ra phòng này là cố giáo sư Hoàng Tuệ - viện trưởng Viện ngôn ngữ học, ông làm viện trưởng hai năm sau đó ông chuyển sang cho giáo sư Nguyễn Như Ý – phó viện trưởng. Giáo
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
CCS [ 1 ]
Nội dung phỏng vấn GS.TS Nguyễn Văn Khang
1st Recording ---- Total length 1.40 ........................................................................ 1
2nd Recording ---- Total length 1.20 ..................................................................... 33
Thông tin cá nhân/ Personal information/ .............................................................. 55
----------
1st Recording ---- Total length 1.40
April 27, 2015 14:00~16:00, Institute of Linguistics, Vietnam Academy of Social
Sciences, No.9A Kim Ma Thuong Street, Hanoi
Interviewers: Quach Thu Hien, Bui Ba Quan, Dao Tam Khanh
HỎI: Em xin được bắt đầu cuộc phỏng vấn. Mục đích của dự án này là phỏng
vấn các nhà nghiên cứu Hán học ở các nước để đưa ra những cảm nhận
của họ về Trung Quốc nói riêng và ngành Trung Quốc học nói chung.
Hôm nay chúng em xin phép được phỏng vấn thầy. Đầu tiên xin thầy
chia sẻ cho chúng em biết tiểu sử và lý lịch của thầy cũng như bối cảnh
gia đình, gọi là quá trình đào tạo từ nhỏ cho đến lớn ạ.
ĐÁP: Tôi vốn học ở Đại học Ngoại ngữ nay là Đại học Hà Nội, khoa tiếng
Trung Quốc, sau đó tôi sang Bắc Kinh thực tập một số năm. Sau đó về
làm ở Viện ngôn ngữ học cho đến bây giờ. Trong thời gian làm việc, tôi
làm về ngôn ngữ học, có hai cái mà tôi làm nhiều nhất là từ vựng ngữ
nghĩa và có một thời gian dài làm từ điển Tiếng Việt được giải thưởng
Nhà nước năm 2005. Cuối năm 1987 đầu năm 1988 tôi sang Viện Hàn
lâm Khoa học Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Vi ện Đông phương học.
Tôi bảo vệ luận án ở đấy, từ đó về tôi làm chuyên về ngôn ngữ học xã
hội. Sau khi về nước, có lẽ ngành ngôn ngữ học xã hội là một ngành
mới ở Việt Nam vì nó liên quan đến nhiều vấn đề chính trị xã hội và tôi
đảm nhận nó. Người khai sáng ra phòng này là cố giáo sư Hoàng Tuệ -
viện trưởng Viện ngôn ngữ học, ông làm viện trưởng hai năm sau đó
ông chuyển sang cho giáo sư Nguyễn Như Ý – phó viện trưởng. Giáo
CCS [ 2 ]
sư Nguyễn Như Ý làm được hai năm sau đó tôi phụ trách đến năm 2012.
Cuối năm 1995 đầu 1996 tôi được phong phó giáo sư, năm 2004 tôi
được phong giáo sư.
HỎI: Thầy có thể nói thêm cho em biết bối cảnh gia đình, từ thuở nhỏ, gia
đình, ông bà,.. Ví dụ như chúng em rất muốn biết trong gia đình thầy có
ai làm về các lĩnh vực như văn chương hay ngôn ngữ học hoặc có ai
ảnh hưởng đến sự lựa chọn của Thầy…
ĐÁP: Tôi hay nói đùa là làng tôi có ba người: một là giáo sư Nguyễn Thiện
Giáp, hai là phó giáo sư Trần Nho Thìn viết về văn học trung đại, đấy là
anh bạn của tôi từ thuở hàn vi đến bây giờ. Mà làng tôi làng tôi là quê
của Hai Bà Trưng theo tục truyền lại khi bị dồn đến đường cùng có ăn
một đĩa bánh trôi và nhảy xuống sông Hát Giang.
HỎI: À! Đấy là làng Hát Môn ạ?
ĐÁP: Làng Hát Môn. Mọi người đều biết là hôm kia mùng 6/3 là tục rước
bánh trôi cho làng. Nên những ai là con của làng đó kể cả con dâu, con
rể từ mùng 1/3 âm lịch đến mùng 6/3 không được ăn bánh trôi, phải chờ
cúng trên đền Hai bà xong mới được ăn. Tôi vẫn tuân thủ phong tục đó,
các bạn nên tìm hiểu. Ở trước đền Hai Bà có một quán là quán thờ bà
bán bánh trôi. Trước khi hai bà nhảy xuống Hát Giang có tục truyền
như thế, hiện nay vẫn giữ phong tục như thế. Có lẽ một phần, giới thiệu
cái làng đó không biết có ảnh hưởng đến mình không? Gia đình tôi bình
thường nhưng bố tôi là người rất giỏi bố tôi mất rồi! Ông rất giỏi Hán
và Hán nôm, có lẽ còn giỏi hơn tôi. Cạnh nhà tôi có một cụ mất rồi, cụ
cực kỳ giỏi Hán Nôm, có lẽ có một phần nào đó ảnh hưởng nhưng đây
đang nói chuyện riêng chưa bao giờ nói. Làng tôi các họ rất lạ ví dụ
như anh Trần Nho Thìn, làng tôi đều lấy họ ở giữa, tất cả các chị gái
anh Trần Nho Thìn đều là Nho Thị, họ làng tôi rất đặc biệt, tôi đã dầy
công nghiên cứu nhưng vẫn chưa ra được vấn đề đó. Hay họ nhà anh
Nguyễn Thiện Giáp, thực ra tách làm hai chi, một chi là Hoàng và một
chi là Thiên. Anh Giáp chính là Nguyễn Thiên Giáp và tất cả con gái
CCS [ 3 ]
đều là Hoàng Thị. Còn họ tôi là Nguyễn Văn nhưng tất cả các chị tôi
đều là Kim Thị, rất đặc biệt. Ngày xưa kết nạp Đảng là phức tạp, vì họ
nghĩ tôi chị không phải cô ruột cũng không phải. Hiện nay chưa tìm
hiểu được, hiện nay ở quê họ quay trở lại là tất cả họ hàng nhà tôi đều
là họ Kim. Có một cái truyền nhưng chưa chính xác là có một ông đi thi
chắc là phạm húy gì đấy cho nên tất cả con trai phải chuyển sang họ
Nguyễn còn con gái vẫn là Kim Thị, chỉ biết đến đấy thôi!
HỎI: Bố của thầy học chữ Hán, cụ có đỗ đạt gì không ạ?
ĐÁP: Cụ không đỗ đạt gì.
HỎI: Có dạy học không?
ĐÁP: Có dạy học, ở nhà người ta gọi là ông Nghè.
HỎI: Thầy đi học tiểu học ở đâu ạ?
ĐÁP: Tôi với anh Thìn đều học trường làng hết rồi lên trường huyện sau
những năm chiến tranh xong đi vào đây rồi hết.
HỎI: Thầy học cấp ba ở?…
ĐÁP: Học cấp ba ở huyện Phúc Thọ - Sơn Tây. Ngày xưa cả huyện có một
trường duy nhất và anh Trần Nho Thìn cũng học ở đấy.
HỎI: Sau đó thầy thi Đại học vào trường?..
ĐÁP: Hồi đó tôi cũng có thích các chuyên ngành khác nhưng có lẽ hồi đó tôi
học rất giỏi tiếng Trung từ thời phổ thông. Hồi cấp ba chỉ có học một
thầy, tôi nhớ là thầy Mai Khắc Thiệu, thầy dạy tiếng Trung cấp ba, hồi
đó học ngoại ngữ mà. Có lẽ tôi học quá giỏi nên thầy ép tôi thi bằng
được vào đấy.
HỎI: Có nghĩa là cấp ba của các thầy đã học tiếng Trung rồi ạ!
ĐÁP: Cấp ba ngày xưa học ngoại ngữ, hồi đó chỉ có hai ngoại ngữ là tiếng
Trung và tiếng Nga chứ không có tiếng Anh. Hồi đó dính vào tiếng Anh
là có vấn đề, theo tư sản, tư bản chẳng hạn. Hồi đấy phổ thông chỉ có
hai ngoại ngữ.
CCS [ 4 ]
HỎI: Và sau đó thầy thi đại học vào trường?…
ĐÁP: Vâng! Tôi vào thẳng khoa Trung của trường Đại học ngoại ngữ nay là
Đại học Hà Nội.
HỎI: Sau đó tốt nghiệp thầy đi Trung Quốc ạ?
ĐÁP: Tốt nghiệp tôi sang Bắc Kinh. Ngày đón đoàn ký hiệp định Pari từ Pari
về qua Trung Quốc, tôi được vào Đại lễ đường. Tôi ra sân bay đón đoàn,
hồi đó tôi gặp cả Chu Ân Lai, gặp cả Giang Thanh. Ở bên đó tôi gặp
Đặng Tiểu Bình hai lần.
HỎI: Bây giờ gọi là khóa luận tốt nghiệp của thầy ạ…
ĐÁP: Ngày xưa không có khóa luận, ra trường luôn.
HỎI: Thầy có thể chia sẻ với chúng em ấn tượng đầu tiên khi thầy đến Trung
Quốc ạ?
ĐÁP: Lần đầu tiên đến Trung Quốc tôi nhớ là đi vào đêm lập lại hòa bình ở
miền Nam, đi vào đêm tối, tôi không nhớ đường. Đến Bằng Tường sau
đó đi tàu lên Trung Quốc, cảm giác như mình bước vào một thế giới rất
lạ, cuộc sống khác. Hình ảnh tôi thích nhất là ngày xưa tôi nhớ bài thơ
của Tố Hữu “Hết khổ rồi em nhỉ”, tôi nhớ đến những cô gái: “Em ngọt
em thơm như quả táo đầu cành” sang bên đó ăn táo ngọt thật. Trông các
cô mùa đông tuyết rơi mà má hồng hết cả. Tôi sang đấy thì bên đấy đại
cách mạng văn hóa vẫn chưa kết thúc, các em thiếu nhi vẫn còn đeo
băng hồng, tôi vẫn nhớ một câu mà một cô gái Trung Quốc đọc cho tôi
nghe mà tôi không nhớ tên. Cô nói về đại cách mạng văn hóa là “著作
不离手, 万岁不离口, 外面说好话, 里面下毒手”. Tôi ấn tượng
nhất với cô gái Trung Quốc nói với tôi câu đó về đại cách mạng văn
hóa.
HỎI: Đại cách mạng văn hóa có ảnh hưởng gì đến lưu học sinh Việt Nam tại
đó không ạ?
CCS [ 5 ]
ĐÁP: Hồi đó gọi là 朝鲜第一,越南第二 tức là lúc đó Triều Tiên là số một,
Việt Nam thứ hai, thứ ba là阿尔巴尼亚(Albania) . Luôn luôn được
ngồi ghế đầu, luôn luôn hàng đầu, về hình thức luôn được trọng thị như
vậy.
HỎI: Về đối đãi cụ thể, các chính sách cho lưu học sinh.
ĐÁP: Nói chung là tốt, mình từ một đất nước nghèo khó sang nói chung mình
thấy cái gì cũng hay. Ăn cũng ngon, ở cũng tốt, nói chung mọi sự đều
tốt. Tôi đã nói Việt Nam là thứ hai nên đi đâu xem bóng bàn cũng được
ngồi hàng ghế tử tế.
HỎI: Ấn tượng của thầy khi lần đầu tiên đến Đại lễ đường?..
ĐÁP: Tôi nhớ khi đó là chiều 30 tết, đi đón đoàn ông Lê Đức Thọ, đi ra sân
bay tuyết rơi phủ trắng, đẹp! Tôi được ngồi ghế gần đầu, thấy được Chu
Ân Lai, Giang Thanh cả lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam.
HỎI: Khi học ở Trung Quốc ngành mà thầy chọn là ngành gì?
ĐÁP: Tôi sang đấy chủ yếu là thực tập và tôi có đi làm một số cuộc phiên
dịch. Tôi nhớ khi đó còn rất trẻ, tôi vừa sang đó đã dịch phim “Nổi gió”,
hồi đó được rất nhiều người khen ngợi vì tôi dịch được. Bây giờ vẫn
còn ảnh, hồi đó ở trường tôi là kiện tướng nói giỏi.
HỎI: Vị giáo sư nào ở bên Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc đến con đường
nghiên cứu của thầy ạ?
ĐÁP: Hồi đó tôi cũng gặp nhưng ấn tượng không nhiều lắm vì tôi đi làm
phiên dịch, thực tập nên ấn tượng không nhiều lắm.
HỎI: Thầy có thể chia sẻ cho chúng em là ấn tượng nào sâu sắc nhất của thầy
trong thời gian thầy ở Trung Quốc không ạ?
ĐÁP: Ấn tượng thì là lúc đó sang có nhiều thuận lợi ví dụ như sách vở. Mình
có thể thấy rằng điều kiện tốt, học thêm được tiếng Anh. Mình cũng là
người ham học nên cũng biết thêm được nhiều.
HỎI: Giai đoạn đó ở bên Trung Quốc đã có rất nhiều tài liệu tham khảo rồi ạ?
CCS [ 6 ]
ĐÁP: Giai đoạn đó chưa nhiều vì giai đoạn đó cuộc đại cách mạng văn hóa
Trung Quốc mới bước vào giai đoạn kết thúc. Lúc đó báo chí vẫn còn
đưa những tin như thi vào Đại học Bắc Kinh không làm bài thì lại đỗ,
được 0 điểm. Tôi vẫn nhớ sự kiện đó khi đọc báo Bắc Kinh. Hồi đó họ
chú trọng công nông binh. Trí thức thì ta đã biết rồi, suốt một thời gian
dài 上山下乡接受工农兵教育 (lên núi về nông thôn, tiếp thu giáo dục
công nông binh.) Lúc đó họ mới trong giai đoạn bắt đầu phục hồi.
HỎI: Các bạn của thầy có ấn tượng gì hay có quan tâm, tò mò gì về Việt Nam
không ạ?
ĐÁP: Lúc đó tiếp xúc rất khó khăn, tôi còn nhớ mãi một hình ảnh là có một
cô gái, có một cái mũi cao rất là đẹp, bạn ấy bán hàng. Lúc đó tôi lúc đó
họ mặc tay áo luôn có một đoạn ống che bẩn, cô này cắt tóc đến đây, rất
xinh. Tôi ra nói chuyện, tôi nhớ đầu tiên tôi nói chuyện là hồi tôi quên
viên băng phiến, mình muốn mua băng phiến mình không biết, tôi mới
nói là “Tôi muốn mua một thứ nhưng tôi quên mất tên rồi!” 我要买一
个我忘的名字. Cô ấy bắt đầu cười, tôi bắt đầu quen cô ấy từ đấy, cô ấy
miêu tả 一个员员的 xong rồi quần áo như thế nào, rồi cô ấy mới nhớ ra
là băng phiến. Cô ấy rất quý tôi, cô tặng tôi một cái bàn chải đánh răng,
ngày đó rất quý. Và hai hôm sau cô ấy bị đuổi khỏi đó, bị điều đi,
không thấy cô ấy nữa. Tức là hồi đấy nói chuyện với người nước ngoài
là việc cực kỳ khó, cả với người Trung Quốc. Suốt bao nhiêu năm tôi
vẫn nhớ theo cái tình cảm là cảm thấy mình có lỗi, để ảnh hưởng đến
công việc của cô ấy, tôi muốn hỏi xem cô ấy đi đâu mà tôi cũng không
biết phải hỏi như thế nào. Đấy là một ấn tượng tôi không thể quên
được. Hồi đó việc tiếp xúc với người nước ngoài ở Trung Quốc giống
như ở bên nhà mình là rất khó khăn.
HỎI: Lúc thầy học ở Trung Quốc thầy thấy cách họ giảng dạy?...
ĐÁP: Lúc đó tôi không được học nhiều lắm, tôi nói rồi, tôi đi thực tập là
chính, tôi cũng không nghe giảng, mà tôi nói lại là lúc đấy vừa kết thúc
CCS [ 7 ]
đại cách mạng văn hóa cho nên mọi trường đại học đang trong tình
trạng chỉnh đốn tất cả mọi cái. Tất cả các nhà ngôn ngữ học đều phải đi
lên núi và lúc ấy họ trở về, lúc đó có nhiều vấn đề. Và những rào cản
như thế làm cho tiếp xúc hạn chế. Người Trung Quốc như tôi kể câu
chuyện nhỏ vừa rồi thấy là việc tiếp xúc nó không hề đơn giản. Họ
không bao giờ lên được phòng mình.
HỎI: Trong khi đó họ vẫn đãi ngộ với mình rất tốt.
ĐÁP: Rất tốt. Nhưng tiếp xúc là họ hạn chế. Ngay cả mình đi dịch cũng thế,
mình cũng tiếp xúc rất hạn chế.
HỎI: Khi thầy ở bên đó đi dịch thầy có tiếp xúc với ai cấp cao ở Trung Quốc
và Việt Nam không ạ?
ĐÁP: Chưa có tiếp xúc cấp cao.
HỎI: Lúc đấy thầy chủ yếu đi dịch cho những ai ạ?
ĐÁP: Đi dịch cho thực tập sinh các thứ, đi giúp rất nhiều người.
HỎI: Giai đoạn 1976 – cuối năm 1979 đặc biệt là sau cuộc chiến tranh biên
giới thì nó có ảnh hưởng gì đến học tập cũng như công việc của thầy?
ĐÁP: Sau đó tôi về và vào làm ở Viện Ngôn ngữ, hầu như việc sử dụng tiếng
Trung Quốc không còn. Tôi chuyển hẳn sang việc làm ngôn ngữ và bắt
đầu công việc làm từ điển Tiếng Việt. Tất nhiên là tiếng Hán giúp cho
tôi rất nhiều, chúng ta biết rằng từ tiếng Việt có tới 65% là từ gốc Hán.
Như bây giờ tôi vẫn nói, những người làm Tiếng Việt mà không biết
tiếng Hán thì rất khó khăn. Bởi vì vốn từ tiếng Việt gốc Hán rất lớn.
HỎI: Lúc đấy tất cả những người học ở Trung Quốc đều như thế hay là..?
ĐÁP: Không phải. Lúc đó tôi biết là có rất nhiều người rất khó khăn, nhiều
người rất giỏi nhưng không có việc làm phải đi làm các việc khác,
nhiều người hầu hết là chuyển nghề hoặc chuyển đi làm đâu đó. Trước
thời điểm đó tôi đã chuyển về Viện Ngôn ngữ nên cũng yên tâm. Có lẽ
phải sau rất nhiều năm, mãi đến năm 1988 tôi mới nói lại tiếng Trung
CCS [ 8 ]
khi ở Nga, gặp các cô nghiên cứu sinh Trung Quốc ở Nga bắt đầu trở
lại nói tiếng Trung với họ. Tôi nhớ là năm 1988 người Trung Quốc đầu
tiên tôi nói chuyện là cô Lý Phương Đông, cô ấy là nghiên cứu sinh
cũng ở Viện Đông Phương. Hôm đấy đi quảng trường Đỏ ở Matxcova
tôi gặp họ, họ hỏi đường tôi nói bằng tiếng Trung Quốc họ hết sức ngạc
nhiên, họ bảo “ Ai Ai!” và không tin được tôi là người Vi ệt Nam.
HỎI: Thầy đi qua khoa của Viện Đông Phương học ở Liên Xô, hồi đấy có
trải qua đào tạo thạc sỹ như bây giờ không ạ?
ĐÁP: Hồi đó thì không. Thực ra tôi chỉ bảo vệ ở Viện Đông Phương còn mọi
việc tôi vẫn làm ở Viện ngôn ngữ học. Hồi đấy chúng ta biết là Liên Xô
theo một chế độ đào tạo khác. Trong khi đó các nước đào tạo theo hệ
thạc sỹ sau đó lên Ph.D gọi là tiến sỹ. Nhưng Liên Xô theo đào tạo phó
tiến sỹ. Phó tiến sỹ dịch đúng từ đó chỉ là dự bị khoa học (Candidate).
Nga theo chế độ phó tiến sỹ, sau là tiến sỹ. Bây giờ chúng ta chuyển
theo form tiến trình tiến sỹ, cái mà chúng ta gọi là tiến sỹ khoa học
chính là tiến sỹ ở Nga. Như vậy Nga không có hệ thống đào tạo thạc sỹ.
HỎI: Khi thầy sang viện Đông Phương thì thầy chọn đề tài gì để làm nghiên
cứu ạ?
ĐÁP: Tại sao họ lại biên chế vào viện Đông Phương vì hồi đó viện sỹ là
Vladimir Xonxep, ông là Viện trưởng viện Phương Đông, làm một thời
gian thì ông lại sang làm viện trưởng viện Ngôn ngữ học, ông lại kéo
tôi về Viện Ngôn ngữ học nhưng tôi lại bảo vệ ở Viện Phương Đông.
Tôi làm tiếp xúc ngôn ngữ nhưng trên cứ liệu của tiếp xúc Hán Việt.
Nhưng rất may là bà giáo của tôi là Xveclana Xpavenco bà là người mà
tôi rất may được gặp, bà thành thục tiếng Anh, tiếng Hán và tiếng Việt.
Bà rất thành thạo ba thứ tiếng tôi rất phục bà, chính nhờ đó mà giúp tôi
rất nhiều cộng với Vi ện Trưởng viện sỹ Xôn-xép, hai vợ chồng, vợ là
giáo sư Xô-xê-va. Hai người ở Trung Quốc từ bé nên rất giỏi tiếng Hán.
Cho nên lúc thì nói tiếng Nga lúc thì nói tiếng Hán.
CCS [ 9 ]
HỎI: Thầy có ấn tượng hoặc đánh giá như thế nào về ngành Hán học ở Nga?
ĐÁP: Ngành Hán học ở Nga là ngành rất phát triển. Nga còn một viện nữa là
viện Viễn Đông, một viện nghiên cứu có tầm chính trị rất lớn. Ở Việt
Nam lúc đó tôi có anh bạn rất thân là anh Lê Quảng Ba cùng chơi với
tôi và anh Thìn. Anh cũng học Nga, sau này là viện trưởng Viện Đông
Bắc Á của ban đối ngoại Trung Ương. Vừa rồi anh làm đại sứ đặc mệnh
ở Triều Tiên. Anh ấy học ở Viện Viễn Đông. Ở Nga tôi quan tâm về
ngôn ngữ nhưng những người nghiên cứu về Hán thành công rất lớn ví
dụ như vợ chồng viện sỹ Xôn-xép. Đấy là những người họ nhờ tiếng
Hán để thành công. Bởi vì họ nghiên cứu loại hình học đơn lập và lấy
tiếng Hán làm cơ sở nghiên cứu. Hay những nhà Hán học rất nổi tiếng
như Át-khan-tốp. Và lúc đó tôi thấy mình thực sự kính phục các nhà
ngôn ngữ học Nga. Cho đến giờ tôi vẫn nói, những người đào tạo ở Nga
nói chung là tốt vì họ được đào tạo rất bài bản và kiến thức của họ rất
uyên thâm.
HỎI: Giai đoạn thầy sang bên Nga làm nghiên cứu sinh thì quan hệ Nga với
Trung Quốc như thế nào?
ĐÁP: Cái này tôi không rõ lắm nhưng lúc đấy tôi gặp rất nhiều nghiên cứu
sinh từ Trung Quốc sang. Tôi quen với cả những nghiên cứu sinh làm
về luật, họ cho tôi cả sách về luật. Lúc đó tôi rất hiếm sách Trung Quốc
nhưng được họ cho rất nhiều. Lúc đấy tôi thấy người Trung Quốc đông
lắm. Ở Viện Đông Phương học, viện Ngôn ngữ học rất nhiều ngành,
các ngành Trung Quốc sang rất nhiều.
HỎI: Trong số các giáo sư mà thầy tiếp xúc ở bên Nga, các giáo sư của
ngành Trung Quốc học hay Hán học thì thầy ấn tượng ai nhất và ai có
ảnh hưởng sâu sắc nhất đến các công trình nghiên cứu của thầy sau này
ạ?
ĐÁP: Thực ra tôi sang bên đấy rất may là tôi đi theo khuynh hướng của ngôn
ngữ học xã hội vì ngôn ngữ học xã hội là một chuyên ngành liên quan
CCS [ 10 ]
nhiều đến các vấn đề chính trị xã hội và tương tác với ngôn ngữ và xã
hội. Cho nên vào các nước xã hội chủ nghĩa tương đối chậm, Nga cũng
vào muộn. Người mà nghiên cứu về ngôn ngữ học xã hội sang đấy
trước tôi là giáo sư Nguyễn Huý, vốn là trưởng phòng ngôn ngữ học xã
hội đầu tiên. Ông sang đấy làm về các thuật ngữ, sau đó đến tôi. Tôi
sang thì có một nhà ngôn ngữ học xã hội rất nổi tiếng của Nga là Niu-
vơ-xki. Tôi nghiên cứu chủ yếu là hệ quả tiếp xúc với các tác động của
nhân tố xã hội. Ở đó, ví dụ như tôi nói vợ chồng cụ Xôn-xép, bà Xôn-
xê-va cũng rất giỏi tiếng Hán, cô giáo của tôi là bà Mikhail Chen-pô, bà
cũng là người thuần thục nhiều ngoại ngữ. Những người đó đặc biệt là
công trình nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội Ni-vơ-xki có ảnh hưởng sâu
sắc đến lĩnh vực nghiên cứu của tôi. Hồi đó tôi đi học là một ngành mới,
bởi vì lúc đó ở Việt Nam không có, chỉ ở bên Nga mới có..
HỎI: Sau này thì các công trình của thầy đều đi theo hướng đó ạ?
ĐÁP: Tất cả các công trình của tôi đến bây giờ tôi chỉ làm ngôn ngữ học xã
hội.
HỎI: Thầy quan tâm đến Trung Quốc thì là chỉ quan tâm đến góc độ ngôn
ngữ học xã hội thôi hay còn mở rộng đến lĩnh vực nào nữa không?
ĐÁP: Thực ra tôi nói rồi, ngôn ngữ học xã hội chỉ quan tâm đến mỗi ngôn
ngữ thì không giải quyết được cái gì. Bởi vì ngôn ngữ học xã hội là liên
ngành. Nó tương tác giữa xã hội học với ngôn ngữ, dân tộc học với
ngôn ngữ, nhân chủng học với ngôn ngữ cho nên nghiên cứu ngôn ngữ
phải lấy xã hội học, dân tộc học, lấy nhân chủng học, lấy văn hóa học
để giải quyết các vấn đề của ngôn ngữ. Cho nên nó là một ngành khá
rộng, muốn có được nó thì phải đọc rất nhiều, phải có hiểu biết rất
nhiều. Tôi phải đọc xã hội học, phải đọc nhân chủng học, phải đọc dân
tộc học. Ví dụ như năm 2007 tôi sang Đài Loan gần 4 tháng để nghiên
cứu vấn đề di dân và ngôn ngữ, đó là vấn đề liên quan đến các vấn đề
nhân chủng. Hay tôi viết cuốn sách “Kế hoạch hóa ngôn ngữ” , hay
năm 2014 này là cuốn “Chính sách ngôn ngữ và lập pháp ngôn ngữ
CCS [ 11 ]
Việt Nam” thì nó liên quan đến các mặt vĩ mô về các chính sách của
Nhà nước về ngôn ngữ, giải quyết các vấn đề chuẩn hóa về ngôn ngữ.
Năm 2014 tôi vừa nhiệm thu đề tài rất lớn là “Giao tiếp của người Vi ệt
dưới tác động của các nhân tố xã hội”, có thể thấy rằng nó dính đến rất
nhều vấn đề khác như tuổi, giới, địa vị.. tất cả những thứ đó. Cho nên
ngôn ngữ học xã hội là sự tương tác giữa ngôn ngữ và xã hội, cho nên
nó là vấn đề rất rộng.
HỎI: Quay trở lại một chút là em có tò mò là bố thầy rất giỏi tiếng Hán, thầy
có chịu ảnh hưởng từ bố hay mãi đến khi học cấp ba học tiếng Trung
thầy mới thích học tiếng Hán ạ?
ĐÁP: Tôi cũng không rõ lắm vì tôi là con út, ở quê bố uống rượu cứ được
ngồi lòng, bóc cho hạt lạc rất là sung sướng, luôn được bố chiều. Ông
cũng phải mưu sinh nhưng tôi nhớ hồi xưa có một ông hàng xóm là cụ
Trương Tuần, chắc ông làm một cái gì đấy. Ông rất quý bố tôi, tất cả
những sách Nôm ông cho hết sang bên nhà, sách bọc giấy mỏng mỏng
ngày xưa người ta cấm ấy.
HỎI: Giấy dó ạ!
ĐÁP: Cụ đọc cứ vanh vách tôi cũng thấy thích.
HỎI: Đến khi thầy lớn rồi thầy không được học bố.
ĐÁP: Không.
HỎI: Khi thầy chọn nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội thầy đã tham gia vào
một nghiên cứu liên ngành hay hợp tác với những ngành nào để phát
triển nghiên cứu của thầy chưa ạ? Có nghĩa là nghiên cứu với bên nào?
Ngoài nghiên cứu cá nhân thì thầy có hợp tác với các học giả hoặc các
tổ chức nghiên cứu khác nào?
ĐÁP: Tôi hợp tác với Nga nhiều, ví dụ như nghiên cứu “Vị thế của ngôn ngữ
quốc gia với các ngôn ngữ dân tộc”. Chính sách ngôn ngữ dân tộc tôi
hợp tác nhiều. Năm nay cũng có một hợp tác với trường Đại học Xanh-
pê-téch-bua làm về tiếng Mường ở Việt Nam. Hay vấn đề di dân và
CCS [ 12 ]
ngôn ngữ là một vấn đề rất lớn, tôi sang Đài Loan cùng với phó giáo sư
Tưởng Vĩ Văn, đặc biệt là giáo sư Văn học Trần Ích Nguyên, ông ấy là
người giúp tôi rất nhiều. Ông đã đưa tôi dến những nơi rất xa xôi mà
người nước ngoài ít được đến như bán đảo Kim Môn để tiếp xúc với
các trường đại học ở đấy. Nhờ có Tưởng Vĩ Văn và Trần Ích Nguyên
mà tất cả các trường đại học ở Đài Loan tôi đều được đi hết. Đến đó
làm việc rất nhiều về các vấn đề ngôn ngữ học xã hội. Tôi còn nhớ là
tôi đã đóng giả thành một người đàn ông Hương Cảng sang Đài Loan,
vào một trung tâm môi giới hôn nhân ở Đài Loan để tìm cô dâu Việt
Nam sau đó bị lộ, tôi sợ gần chết cái vụ đấy.
HỎI: Thầy có thể chia sẻ ạ.
ĐÁP: Vụ đấy tôi mang máy ghi âm các thứ như các bạn, vào đến nơi tôi nói
tiếng thì cũng được, ăn mặc lịch sự, giới thiệu đến từ Hương Cảng. Hỏi
“Đi đâu?” “Đi tìm vợ!” “Tìm ai?” “Tìm cô dâu Việt Nam”. Họ bảo là
thích Nam hay Bắc, tôi bảo là tôi thích cô dâu miền Bắc, họ bảo chỉ có
cô dâu miền Nam là nhiều thôi, miền Bắc bây giờ chỉ có gái Hải Phòng,
gái Hải Phòng thì hơi đắt, tôi bảo đắt không thành vấn đề với người
Hương Cảng. Sau một hồi họ cho tôi xem ảnh các thứ, cuối cùng họ
mới đứng phắt dậy bảo “ông không phải người đi tìm vợ, ông hãy xóa
tất cả các ghi âm và ảnh chụp được”. Họ rất kiên quyết nhưng sau khi
tôi xóa hết thì họ rất vui vẻ. Hay một thời gian tôi hợp tác với Trung
Quốc, có thời gian họ làm một công trình rất lớn về chính sách ngôn
ngữ Trung Quốc do Phó giáo sư Chu Khánh Sinh lúc đó là một chuyên
gia về ngôn ngữ học xã hội ở Viện dân tộc học ở Viện Khoa học xã hội
Trung Quốc chủ trì. Ông đã mời tôi viết một bài về chính sách ngôn
ngữ Việt Nam đăng bằng tiếng Hán trên tập Chính sách ngôn ngữ của
các quốc gia trên thế giới. Từ năm 2006 đến nay tôi là giáo sư kiệm
nhiệm của trường đại học Quảng Tây Trung Quốc, tôi sang đấy giảng
và cũng thường tham gia giảng dạy trình bày về các vấn đề ngôn ngữ
học xã hội ở đấy. Tôi cũng tham gia các hội thảo của Trung Quốc ở đấy
CCS [ 13 ]
ví dụ như tham gia các hội thảo gọi là Các ngôn ngữ có nguy cơ bị mất,
tiếng anh gọi là endangered languages . Trung Quốc gọi là 急危语言
nhưng người Trung Quốc họ tránh từ đó, họ gọi theo cách uyển ngữ là
新发现语言. Chúng ta biết, quốc gia đa dân tộc nào cũng thế, có một
số ngôn ngữ của dân tộc ít người có nguy cơ bị mất, trên thế giới người
ta chia thành năm cấp: 1. Cấp an toàn, 500 ngôn ngữ trong đó tiếng Việt
không bao giờ mất; 2. Nhỏ nhưng an toàn, ngôn ngữ có số người trên
1000 nhưng họ sống tập trung thì các ngôn ngữ đó không bị mất; 3. Các
ngôn ngữ nguy cấp. Việt Nam chúng ta có khoảng 4 ngôn ngữ nằm
trong cấp ngôn ngữ nguy cấp, tức là dân số khoảng độ dưới 400 người
ví dụ như dân tộc Pu Péo, Pro-măng, Trung Quốc có một số ngôn ngữ
như vậy, thế giới rất quan tâm để bảo tồn các loại ngôn ngữ đó; 4. Các
ngôn ngữ bên bờ vực thẳm, tức là những ngôn ngữ có thể bị mất nhưng
không cứu được. 5. Các ngôn ngữ bị chết, người cuối cùng sử dụng
ngôn ngữ đã chết. Thế giới quan tâm đến ba cái ở cuối, từ nguy cấp đến
bên bờ vực thẳm và đến chết, những vấn đề đó tôi cũng tham gia. Đặc
biệt từ năm 2010 đến nay Nhà xuất bản Giáo dục Trung Quốc có mời
tôi giúp họ trong chương trình hướng ra Đông Nam Á, Trung Quốc có
hai chương trình lớn nhất là chương trình biên soạn hai bộ từ điển Hán
– Việt; Việt – Hán và từ điển Hán – Thái và Thái – Hán. Cả hai cuốn
này họ đều mời tôi với tư cách là cố vấn và tôi giúp đỡ họ rất nhiều.
Năm 2012 cuốn từ điển Việt Hán đã hoàn thành, hôm đấy họp báo và
đưa lên hội chợ triển lãm Đông Nam Á. Đến năm 2014 cuốn thứ hai
hoàn thành.
HỎI: Khi thầy tiếp xúc với giới học thuật Trung Quốc trong hợp tác thì thầy
đánh giá như thế nào về những đối tác mà thầy hợp tác?
ĐÁP: Nhận xét chung là tôi cũng hướng dẫn người Trung Quốc tại Trung
Quốc làm cao học, học sinh của tôi và tôi cũng nói để bạn biết là người
Trung Quốc đầu tiên bảo vệ tiến sỹ ngôn ngữ học Việt Nam cũng chính
là do tôi hướng dẫn. Đó là chị La Văn Thanh (罗文青) và hiện nay chị
CCS [ 14 ]
là giáo sư, 42 tuổi, hiệu phó trường Đại học Trùng Khánh. Tôi hướng
dẫn người thứ hai là người Vi ệt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sỹ
ngôn ngữ bằng tiếng Hán ở Việt Nam,đến 14 này bảo vệ. Đó là chị
Hương ở đại học Ngoại Thương. Trong khi làm việc với các chuyên gia
của Trung Quốc và nghiên cứu sinh, học viên cao học người Trung
Quốc tôi hướng dẫn nhiều, tiến sỹ tôi hướng dẫn một chị là Hà Huỳnh
Thiên sắp bảo vệ. Tôi đánh giá chung là các chuyên gia Trung Quốc
làm việc rất thận trọng, đặc biệt họ xử lý tư liệu rất tỉ mỉ. Tôi đặc biệt
thích nghiên cứu sinh Trung Quốc vì họ làm tư liệu rất cẩn thận. Tôi
thường nói với các nghiên cứu sinh, các học sinh là các thành công của
luận án nếu là cao học thì 70% là nhờ sử dụng tư liệu. Anh không thể
nào có những lý thuyết mới, anh vận dụng lý thuyết và chứng minh
bằng tư liệu. Tôi thấy là người Trung Quốc rất trọng cái đấy và một
điểm về mặt ngôn ngữ học thì họ tiếp nhận lý luận của phương Tây rất
mạnh. Sang Trung Quốc mua sách rất rẻ, sách của họ toàn bộ là những
xuất bản của những cuốn sách ngôn ngữ học nổi tiếng và những sách
mới thì Trung Quốc mua hết bản quyền và họ xuất bản tại Trung Quốc,
họ chỉ giới thiệu 30 trang bằng tiếng Hán. Như vậy những cái mới họ
tiếp thu rất nhanh và rất tốt, người Trung Quốc rất trọng cái đó. Ví dụ
có một anh ở đại học Quảng Tây anh bảo vệ luận án Ngôn ngữ học tri
nhận ở trường Đại học nhân văn chúng ta. Phần lý luận anh viết hơn
hẳn nghiên cứu sinh Việt Nam vì người Trung Quốc họ tiếp nhận lý
thuyết của phương Tây qua lăng kính của người Trung Quốc và ứng
dụng tôi cho là cái đó rất tốt, cộng với việc họ làm tư liệu rất tỉ mỉ. Ví
dụ như một em tôi hướng dẫn làm về cao học nhưng tư liệu em làm rất
tốt, em làm đề tài đại khái là Các tên gọi của các thuốc Trung y và Nam
y. Tôi nghĩ hiếm thấy một cao học làm ở bên Trung Quốc rất nhiều rồi
sang Việt Nam đi từ Bắc tới Nam để thu thập, tìm hiểu. Bố mẹ bạn ấy
làm bác sỹ cho nên luận văn của bạn ấy rất hay. Tất nhiên tôi thấy các
em Trung Quốc sang Việt Nam có nhiều hạn chế. Nhưng ở Trung Quốc
CCS [ 15 ]
như chị La Văn Thanh họ làm tư liệu rất cẩn thận, không có một chút
nào là gian dối.
HỎI: Thầy đã tiếp xúc với cả giới ngôn ngữ học Đài loan và Trung Quốc
trong lĩnh vực của thầy, thầy có thấy sự khác biệt gì giữa các nhà
nghiên cứu Trung Quốc học Đài Loan và Trung Quốc, thầy có nhận xét
gì về các nhà ngôn ngữ học Đài Loan và Trung Quốc ạ?
ĐÁP: Khó mà đánh giá nhưng nó có hai điều là: Khi sang Đài Loan khi hỏi
họ được đào tạo ở đâu thì đa số các nhà ngôn ngữ học Đài Loan họ đều
trả lời là đào tạo ở Mỹ, tôi nghĩ phong cách khác nhau. Nhưng tôi vẫn
thấy người Trung Quốc làm khoa học tỉ mỉ, chính xác, làm tư liệu cẩn
thận, đó là điểm tôi đánh giá tốt. Còn như tôi đã nói ở Trung Quốc đại
lục họ tận dụng được tất cả tư liệu ở Phương Tây qua nguồn Trung
Quốc tiếp nhận cho nên các bạn muốn mua sách phương Tây hãy sang
Trung Quốc, mua ở phương Tây đắt lắm. Còn người Đài Loan lại tiếp
nhận trực tiếp từ Mỹ, từ các nguồn của Anh. Rõ ràng là phương pháp
nghiên cứu và cách thức nghiên cứu khác nhau.
HỎI: Các quan điểm nghiên cứu của họ có khác biệt không ạ?
ĐÁP: Quan điểm về ngôn ngữ học không có gì khác biệt lắm vì ngôn ngữ học
nó thuần túy về khoa học. Trừ ngôn ngữ học xã hội vì nó liên quan đến
các vấn đề dân tộc, các vấn đề chính trị thì rõ ràng khác nhau.
HỎI: Thầy có thể chia sẻ sự khác nhau giữa Đài Loan và Trung Quốc về
ngôn ngữ học xã hội không ạ?
ĐÁP: Cái này khó. Ví dụ vấn đề một quốc gia có bao nhiêu ngôn ngữ. Chúng
ta thường thấy ví dụ như Việt Nam chúng ta có 54 dân tộc tương ứng
với tên gọi của 54 ngôn ngữ nhưng thực tế nó có sự tương ứng 1:1 giữa
ngôn ngữ và dân tộc hay không. Hay vấn đề của Trung Quốc, ngoài
tiếng Hán ra còn các phương ngữ, những người nói phương ngữ khác
nhau thì không giao tiếp được, Trung Quốc gọi là 不通话. Nhưng theo
lý thuyết trên thế giới, lý thuyết về ngôn ngữ học thì những người nói
CCS [ 16 ]
phương ngữ cơ bản giao tiếp được với nhau giống như Bắc – Trung –
Nam chúng ta chỉ khác nhau một chút. Nhưng phần đặc biệt của Trung
Quốc là những người nói không hiểu nhau vẫn đưa về một phương ngữ.
Chúng ta thấy như Khách gia, Việt Phương ngữ, tiếng Quảng Đông,
như Tương phương ngữ, như Cán phương ngữ, Chiết Giang,.. rất nhiều
phương ngữ. Trung Quốc theo phân chia cấu trúc hệ thống tiếng Hán có
7 phương ngữ và có người nói được 8 phương ngữ; 8 phương ngữ vì họ
chia phương ngữ Mân thành hai: Bắc Mân và Nam Mân. Như vậy về
những người nói phương ngữ khác nhau về lý thuyết ngôn ngữ học phải
giao tiếp được với nhau. Nhưng riêng ở Trung Quốc những người nói
phương ngữ khác nhau không nói chuyện được với nhau nên họ phải
dùng chữ Hán. Do đó chữ Hán không chỉ là một văn tự mà chữ Hán còn
được cộng thêm chức năng giao tiếp. Nhưng Đài Loan quan điểm lại
khác. Rõ ràng ở đây liên quan đến các vấn đề chính trị. Tôi nhớ là năm
2005 – 2006 ông David Christian ông viết cuốn sách rất nổi tiếng là
“The dead of language” - cái chết của ngôn ngữ. Ông có một câu rất nổi
tiếng trong cuốn sách là “ranh giới giữa ngôn ngữ và phương ngữ chỉ là
một quả bom”, tức là vấn đề chính trị quyết định. Hay là trong ngôn
ngữ học xã hội có một câu rất nổi tiếng “Ngôn ngữ chỉ là cái cớ để thổi
bùng các ngọn lửa chính trị”. Ví dụ như Ucraina, việc sáp nhập dân tộc
này với dân tộc khác. Ngôn ngữ chỉ là cái cớ, ví dụ tôi nói dân tộc này
nói khác dân tộc khác cho tôi tách ra, hay vấn đề tranh giành giữa
quyền lực của các ngôn ngữ. Cho nên việc Đài Loan coi không phải
phương ngữ thì đấy là quan điểm chính trị. Hay quan điểm về chữ viết,
chúng ta biết chữ Hán vốn là chữ tượng hình, một bên âm và một bên ý
nhưng việc giản thể chữ Hán sẽ là nguy cơ mất đi tính tượng hình của
chữ Hán, chữ Hán vốn là hình vẽ, một bên ghi âm một bên ghi ý, việc
giản thể sẽ mất phần âm hoặc ý. Và những người bảo vệ cho chữ Hán
phồn thể lại khoét sâu vào điều đó, họ nói bảo vệ chữ Hán phồn thể
chính là đảm bảo cho tính tượng hình của chữ. Hay việc tiếp nhận từ
nguyên nước ngoài, từ những năm 1980 Trung Quốc có những thay đổi
CCS [ 17 ]
trong cách nhìn nhận cho nên các hệ thuật ngữ của Trung Quốc thay đổi.
Ví dụ ngày xưa gọi là từ tố bây giờ gọi là ngữ tố, một loạt các thay đổi.
Và cách tiếp nhận từ ngữ nước ngoài của Trung Quốc cũng trong giai
đoạn thay đổi. Ví dụ trước kia khi tiếp nhận các từ ngữ nước ngoài
Trung Quốc dịch âm, ví dụ như 特莫克拉斯 – democracy – tự do. Cho
nên ông Mông-te-xki-ơ gọi là 孟德斯鸠 – Mạnh Đức Tư Cưu. Nhưng
có một thời gian Trung Quốc tận dụng chữ Hán dùng nửa âm nửa ý. Ví
dụ sanyo là 山羊; Inter 网 là Internet. Còn Đài Loan tiếp nhận theo
kiểu nào? Đó là vấn đề của Đài Loan. Hay một từ như massenger Đài
Loan dịch một kiểu, Trung Quốc dịch một kiểu và Hồng Kong cũng
dịch một kiểu, ngay cả ở Ma Cao cũng một kiểu. Như vậy tiếp nhận từ
của nước ngoài theo dịch, theo phỏng âm hay gì đó cũng là một quan
điểm. Chấp nhận như thế nào đấy cũng là một quan điểm mâu thuẫn.
Nói về chính sách ngôn ngữ thì nó càng phức tạp vì nó liên quan đến
chính trị. Ví dụ như ở Đài Loan các quan điểm thời kỳ Tưởng Giới
Thạch, Tưởng Giới Thạch khi rút khỏi Trung Quốc ông vẫn nuôi mộng
quay trở về Trung Quốc chiếm lĩnh nên Tưởng Giới Thạch chỉ coi Đài
Loan là một tỉnh, Đài Loan không có phương hướng và chỉ là một tỉnh
là như thế. Chính sách của Tưởng Giới Thạch là quảng bá tiếng Hán.
Cho nên chúng ta thấy nói tiêu diệt thì không đúng mà cái Trung Quốc
gọi là phương ngữ thì bên Đài Loan gọi là ngôn ngữ không được sử
dụng. Họ kể lại những việc như nếu đến trường mà nói tiếng dân tộc có
thể bị chui qua háng của bạn, chính sách rất man dã. Nhưng đến thời kỳ
thứ hai là thời kỳ Trần Thủy Biển, Trần Thủy Biển lại thổi ngọn lửa dân
tộc lên và muốn đẩy 台语 lên cao, chủ nghĩa Đài hoá rất mạnh. Cho nên
lúc đó có chính sách đẩy mạnh tiếng bản địa dân tộc Đài Loan lên thành
quốc ngữ. Cho nên chính sách ngôn ngữ khác. Chính sách đó rất nghiệt
ngã, có thời gian viết chữ giản thể phải tù 3 tháng. Chính sách bài Hoa
rất mạnh, ngay cả những chính sách đến mức là viết chữ giản thể phải
đi tù. Họ đưa ra những chính sách ngôn ngữ rất khác. Đến thời kỳ Mã
CCS [ 18 ]
Anh Cửu, Mã Anh Cửu lại là người theo giới chính trị thân đại lục nên
chính sách ngôn ngữ lại thay đổi. Cho nên ở Đài Loan chính sách ngôn
ngữ và sử dụng ngôn ngữ thay đổi theo chính trị, tôi muốn quay trở lại
vấn đề ngôn ngữ học xã hội.
HỎI: Lúc nãy em có nghe thầy nói về đề tài hợp tác với Đài Loan là ngôn
ngữ và di dân, thầy có thể chia sẻ cho chúng em đối tượng nghiên cứu
chính của thầy?
ĐÁP: Cái này nó là vấn đề di dân và ngôn ngữ. Chúng ta biết rằng một trong
những yếu tố trong luật di dân là phải biết ngôn ngữ. Các cô dâu của
Việt Nam không biết tiếng Hán, lấy chồng rất vội, kiến thức ít. Thứ hai
là tiếng Hán nếu theo đại lục thì nó có nhiều phương ngữ, như vậy về
nhà cô có thể nói được tiếng Bắc Kinh nhưng không thể giao tiếp được
với bố mẹ chồng, không nói được tiếng địa phương. Cho nên chúng ta
thấy một trong những vấn đề cản trở trong giao tiếp mà những điều
đáng tiếc xảy ra là chính là do ngôn ngữ. Đài Loan muốn làm rõ nguyên
nhân ngôn ngữ có phải nguyên nhân quan trọng không? Tôi cho đó là
nguyên nhân rất quan trọng, nếu di dân mà không biết đến vấn đề ngôn
ngữ thì rất gay. Người ta định nghĩa về người đa ngữ, có mấy quan
niệm, một là người đa ngữ hoàn toàn là những người ngoài tiếng mẹ đẻ
thì nói được ngôn ngữ khác như tiếng mẹ đẻ, nói chung đây là những
con người khó đạt được. Nhưng Liên Hợp quốc còn đưa ra định nghĩa
thứ hai là những người đa ngữ bộ phận. Ví dụ như chúng ta, ngoài tiếng
mẹ đẻ ra còn có thể sử dụng những ngôn ngữ trong giao tiếp mà mình
quan tâm. Nhưng chúng ta thấy có một loại thứ ba mà tiếng anh gọi là
semi-lingual, tôi tạm dịch là bán đa ngữ, chỉ biết nói không biết viết. Và
một loại nữa là tiếng bồi. Tôi nghĩ những cô dâu Hàn Quốc, tôi đã có
những cuộc tiếp xúc, có cả buổi người ta tổ chức các lễ hội cô dâu tôi
cũng đến, thực tế những người biết ngôn ngữ có cuộc sống tốt hơn,
những người không biết ngôn ngữ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi đã ra đảo
Kim Môn gặp những cô dâu Cần Thơ, gặp cả những chị trước đây là
CCS [ 19 ]
sinh viên khoa tiếng Trung đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh
theo tiếng gọi của tiếng Trung cũng sang đấy, rất nhiều tầng lớp. Ở bên
đó hình thành một vấn đề: Thế thệ thứ nhất thế hệ các cô dâu giải quyết
vấn đề ngôn ngữ, sau đó sang thế hệ thứ hai giải quyết vấn đề tiếng Việt
ra sao? Thế hệ thứ hai sinh ra ở đấy họ cần học tiếng Việt như thế nào.
Tôi nghĩ đó là những vấn đề mà ở Đài Loan đang cần được bàn đến.
HỎI: Đối tượng thầy vừa miêu tả là người Vi ệt di dân, thầy có quan tâm
ngược lại là người Hoa di dân ở Việt Nam không ạ?
ĐÁP: Người Hoa di dân ở Việt Nam tôi có hướng dẫn một luận án tiến sỹ của
anh Hoàng Quốc, bảo vệ năm 2009 là Cảnh huống song ngữ Hoa – Việt
ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung ở An Giang. Người Hoa ở Việt
Nam có một vấn đề là có khi họ chỉ nói được phương ngữ, tiếng mẹ đẻ
ví dụ như tiếng Triều Châu hay tiếng Quảng Đông chứ không biết tiếng
Bắc Kinh, đấy là một lớp người. Lớp người thứ hai là thế hệ trẻ họ
không biết cả tiếng Hán 普通话 và tiếng kia. Vấn đề tiếng mẹ đẻ của họ
là cái gì? Nhưng họ vẫn nhận tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Hoa, đấy là
vấn đề khó cho chúng ta. Tôi được biết có những năm có những vấn đề
nhạy cảm về chính trị khá phức tạp. Ví dụ bây giờ mình phát chứng chỉ
ngoại ngữ chưa chắc đã nhận vì đấy là tiếng mẹ đẻ của họ. Nhưng họ
bảo vẫn vào các trung tâm ngoại ngữ học. Ở đồng bằng sông Cửu Long
theo tôi quan sát thì lớp già họ vẫn nói bằng tiếng Quảng Đông, tiếng
Triều Châu, tiếng Phúc Kiến, nhưng lớp trẻ đang có một xu hướng. Tôi
có hướng dẫn một chị nữa, chị Ngọc làm luận văn thạc sỹ ở trường đại
học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh làm về cộng đồng người Hoa ở
Quận 5, về ngôn ngữ học. Tôi thấy một thực tế là con người vướng vào
một mâu thuẫn oái oăm. Đó là họ muốn tồn tại thì họ phải giỏi tiếng
Việt, dĩ nhiên cả tiếng Anh nữa nhưng họ có cả nhu cầu để học tiếng
Hoa. Hầu hết lớp trẻ hiện nay không biết tiếng Hoa và không biết chữ
Hoa. Cách đây mấy năm Bộ Giáo dục mời tôi tổng chủ biên cuốn Tiếng
hoa từ lớp một cho con em người Hoa, diễn ra nhiều cuộc thảo luận
CCS [ 20 ]
nhưng đến nay thì lại dừng lại. Các bạn phải chú ý cái này không nên
nêu ra. Có nhiều vấn đề phức tạp. Thứ nhất, trên báo rộ lên là người ta
nhầm soạn sách mang tính chất, tức là chúng ta coi dân tộc Hoa như
một dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng như dân tộc Kinh là một dân tộc
thiểu số ở Trung Quốc. Như vậy chúng ta soạn sách tiếng Hoa cũng
như soạn theo hướng của ngôn ngữ dân tộc thiểu số, cũng như soạn
sách tiếng Chăm cho người Chăm, soạn sách tiếng Mông cho người
Mông. Đấy là một cái tôi nghĩ chưa làm rõ được. Cái thứ hai là, dạy
tiếng Hoa như thế nào? Có nhiều thảo luận dạy chữ phồn thể hay giản
thể? Đấy là một cuộc tranh luận. Người già thích phồn thể nhưng học
phồn thể lại khó và người dạy cũng chưa chắc có. Dạy âm Bắc Kinh
hay dạy âm dân tộc? Ví dụ dạy tiếng mẹ đẻ, người Quảng Đông dạy
tiếng Quảng Đông hay dạy tiếng Bắc Kinh? Đấy là tất cả những vấn đề,
tôi muốn nhắc lại là đặc thù của tiếng Hán là giữa những người nói các
phương ngữ khác nhau không dám gọi nhưng vẫn cứ coi là phương
ngữ. Đây là vấn đề ngôn ngữ học thế giới về lý thuyết là không phải. Lý
thuyết của ngôn ngữ học là những người nói các phương ngữ khác nhau
giao tiếp được với nhau. Đấy là vấn đề của ngôn ngữ học xã hội. Như
vậy vấn đề lựa chọn chữ viết, dạy cách phát âm, chọn giáo trình, bài
khóa bao nhiêu % bài nói đời sống người Hoa, bao nhiêu % nói về bên
Trung Quốc, bao nhiêu % đời sống của Việt Nam, đó là vấn đề hiện nay
vẫn chưa giải quyết được.
HỎI: Thầy có thể chia sẻ cho chúng em biết là thầy công bố các công trình
nghiên cứu của thầy bằng những ngôn ngữ gì? Hiện tại thầy đang công
bố..
ĐÁP: Hiện nay tất cả các công trình công bố của tôi có khoảng trên 160, cũng
nhiều sách. Thường tôi công bố bằng tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Nga,
có cả tiếng Anh.
CCS [ 21 ]
HỎI: Thầy có thể cho em biết hiện tại thầy có chịu ảnh hưởng của một lý
thuyết nghiên cứu phương Tây nào không hay vẫn chịu ảnh hưởng từ lý
thuyết bên Nga ạ?
ĐÁP: Tôi muốn nói ngôn ngữ học xã hội là một vấn đề mới và nó liên quan
đến chính trị, nó liên quan đến điều kiện chính trị xã hội của mỗi quốc
gia. Lý thuyết của thế giới là chung nhưng khi nghiên cứu là khác với
những nghiên cứu cơ bản khác, nó phải gắn với điều kiện chính trị xã
hội của mỗi quốc gia. Ví dụ tôi vừa hoàn thành hai đề tài cấp bộ là
Chính sách ngôn ngữ, Lập pháp ngôn ngữ Việt Nam, dứt khoát phải
trên cơ sở lý thuyết về chính sách về ngôn ngữ của ngôn ngữ học xã hội.
Nhưng không thể tách rời khỏi cái 状况 hay Situation – cảnh huống
ngôn ngữ xã hội hiện nay. Đó là điều mà ngôn ngữ học xã hội luôn luôn
phải nhớ. Tất nhiên hiện nay ngôn ngữ học xã hội bắt nguồn từ phương
Tây, nghiên cứu của phương tây rất mạnh. Ví dụ nghiên cứu các
phương ngữ đô thị tất nhiên mình phải tiếp nhận các phương pháp
nghiên cứu. Hay nghiên cứu đô thị hóa ngôn ngữ, quá trình di dân từ
nông thôn ra thành phố, từ thành phố về nông thôn. Nó đang làm thay
đổi ngôn ngữ, ví dụ như tiếng Hà Nội rõ ràng phải dựa vào lý thuyết
của phương Tây bởi vì họ đã nghiên cứu rất nhiều, đô thị hóa đã có từ
những năm 60 ở phương Tây. Một trong những đặc điểm cơ bản nhất
của đô thị hóa là tăng giảm cấu trúc nông nghiệp, những cuộc di dân từ
thành phố - nông thôn nó làm thay đổi ngôn ngữ của thủ đô và vùng
ven đô. Phương Tây nghiên cứu rất nhiều đặc biệt là Pháp. Hay những
vấn đề giáo dục song ngữ ở Việt Nam, giáo dục ngôn ngữ quốc gia,
giáo dục ngôn ngữ dân tộc thiểu số là những vấn đề rất lớn gắn với Vi ệt
Nam. Việt Nam phải căn cứ vào luật Việt Nam. Điều 7 luật giáo dục
nói ngôn ngữ chính thức trong nhà trường là tiếng Việt. Trong khi lý
thuyết phương Tây nói từ lớp 1 – 3 tốt nhất học bằng tiếng mẹ đẻ, tức là
ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Như vậy vận dụng như thế nào ở Việt Nam?
Mình phải đánh giá những cái gì được, cái gì không được chứ không
CCS [ 22 ]
phải mình đưa cái đó vào để phản đối giáo dục Việt Nam hay đem sang
Việt Nam để áp đặt, cái đó phải tùy vào cảnh huống cụ thể. Ví dụ người
ta nói giáo dục tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia nhưng đặc điểm cơ
bản của Việt Nam là các dân tộc sống đan xen nhau. Tôi vào một lớp có
5 dân tộc thì làm sao dạy tiếng mẹ đẻ, lúc đó giải quyết như thế nào?
Đó là những vấn đề của Việt Nam về ngôn ngữ.
HỎI: Thầy thấy giới nghiên cứu Trung Quốc họ có quan tâm đến vấn đề ngôn
ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam không ạ?
ĐÁP: Họ quan tâm, Trung Quốc rất quan tâm vì người ta nói trong ba vấn đề
luôn nóng bỏng và nhạy cảm là dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ. Cho nên
ở các quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ thì luôn là vấn đề được quan
tâm. Quan tâm mối quan hệ giữa ngôn ngữ quốc gia với ngôn ngữ dân
tộc thiểu số, quan hệ giữa ngôn ngữ dân tộc thiểu số với ngôn ngữ dân
tộc thiểu số, quan hệ với tiếng nước ngoài. Trung Quốc còn dùng một
thuật ngữ là 跨边界语言, tức là ngôn ngữ xuyên biên giới. Đấy là vấn
đề rất quan tâm và Trung Quốc đặc biệt quan tâm vùng phía Nam và
vùng phía trên quan hệ với Nga. Đặc biệt là vấn đề giáo dục song ngữ
Triều – Hán rất mạnh vì những vùng nhạy cảm Trung Quốc rất quan
tâm đến các vấn đề ngôn ngữ dân tộc ở đó và có những câu hỏi rất khó
trả lời. Tôi ở Đài Loan họ hỏi những câu rất khủng khiếp.
HỎI: Ví dụ ạ?
ĐÁP: Nhưng không được phé công bố nhé. Ví dụ họ hỏi “T ại sao Việt Nam
có dân tộc Hoa, dân tộc Ngái và dân tộc Sán Dìu?” vì Sán Dìu với Ngái
là thống nhất thế tại sao lại tách ra? Đó là vấn đề về chính trị. Tôi trở lại
câu của ông David Christian là ranh giới là một quả bom, chính trị có
thể làm khép lại, chính trị có thể làm tách ra.
HỎI: Bối cảnh chính trị hiện tại giữa Việt Nam và Trung Quốc có ảnh hưởng
đến những nghiên cứu của thầy, các hợp tác của thầy với đối tác Trung
Quốc không ạ?
CCS [ 23 ]
ĐÁP: Tôi thấy bình thường. Dù ngôn ngữ nói là chính trị nhưng….Ví dụ như
dân tộc thiểu số mình không hợp tác không thành vấn đề, như tiếng Hán
chẳng hạn không thành vấn đề lớn. Làm từ điển với họ mình phải rõ
ràng là không có yếu tố chính trị, không có ví dụ chính trị, không có
bản đồ, các vấn đề như vậy, mình chỉ làm những cái gọi là một công cụ
ngôn ngữ thì nó vẫn bình thường, nó không sao cả.
HỎI: Các nguồn kinh phí nghiên cứu chính thức của thầy là từ các nguồn nào
ạ?
ĐÁP: Tôi nghĩ kinh phí ở Việt Nam rất khó, tôi nghĩ ở Việt Nam quan trọng
nhất là đã làm khoa học thì phải hi sinh rất nhiều. Tôi vẫn nói đùa là
“l ấy mỡ rán nó”. Ví dụ mình phải đi dạy lấy tiền đó để nghiên cứu. Có
lẽ cuốn sách đầu tiên mà tôi viết mà có nguồn kinh phí là Chính sách
ngôn ngữ Việt Nam, còn lại đều không có kinh phí, chưa nhận được
đồng kinh phí nào cho nghiên cứu hết cả.
HỎI: Thế còn các công trình hợp tác?
ĐÁP: Các công trình hợp tác thì ít ỏi, nói chung là kinh phí hạn chế. Ví dụ
như công trình sắp tới làm với trường đại học Xanh-pê-téch-bua của
Nga, tôi chưa biết kinh phí bao nhiêu nhưng giáo sư Nga mời thì tôi
đồng ý, tất nhiên là qua Viện Hàn lâm Khoa học xã hội và Quỹ của
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Nga.
HỎI: Nhân vật nào, nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam nào có ảnh
hưởng sâu sắc đến thầy ạ? Một người mà thầy nghĩ là họ có ảnh hưởng
đến các công trình của thầy ạ?
ĐÁP: Trong nghiên cứu ở Việt Nam tôi nghĩ là mỗi người tôi học được một
phần để cho mình tốt lên chứ tôi không có người nào ảnh hưởng hoàn
toàn bởi vì ngành ngôn ngữ học xã hội như tôi vẫn nói nó là ngành mới.
Ví dụ như thời gian làm từ điển tiếng Việt dưới sự chỉ đạo của giáo sư
Hoàng Phê (tôi có một thời gian giúp việc cho ông) nó ảnh hưởng đến
toàn bộ phong cách làm việc của tôi. Làm từ điển là vấn đề rất khó,
CCS [ 24 ]
người ta hay nói đùa là kẻ nào phạm tôi tù khổ sai không bắt nó đi tù
mà bắt nó cả đời làm từ điển. Vì làm từ điển là một việc cực kỳ cực
nhọc, từ dấu chấm phẩy, câu chữ. Tôi thấy là 10 năm tham gia làm từ
điển nó rèn luyện cho tôi cách làm việc mà mình không thể cẩu thả
được, rất chi tiết. Mình vẫn có cái sai nhưng rõ ràng là mình đã cố gắng,
tạo cho mình cái khó tính trong công việc. Sau này truyền lại tôi cũng
được một hai học sinh, những ai theo được cái đó là tốt và tôi nghĩ cái
đấy là bước đầu tiên mình phải học. Có lẽ đây là một cái rèn luyện còn
ở mỗi người tôi nhìn thấy mặt mạnh, có những người tôi nhìn thấy tầm
rộng, có những người có tầm sắc sảo, chiều sâu. Thường cách làm việc
ở Việt Nam theo một người nào đấy là rất rất tốt. Nhưng tôi lại
thích...Có lẽ tôi là người học Hán nên nhìn mỗi người có mặt tích cực
khác nhau. Ví dụ như ngành ngôn ngữ học xã hội tôi có môn học xã hội
vĩ mô và vi mô. Ở vĩ mô mình phải học được các giáo sư ở tầm khái
quát nhưng mà mình phải làm được ở tầm vi mô những cái tỉ mỉ, cẩn
trọng như là làm từ điển tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng đấy là cái quan trọng
nhất của những người nghiên cứu.
HỎI: Thầy đã tiếp xúc với giới Hán học Tại Nga, Trung Quốc và Đài Loan,
ngoài ra thầy còn tiếp xúc với giới Hán học tại nước nào trên thế giới
nữa không ạ?
ĐÁP: Tôi tiếp xúc ở Nhật Bản nhưng thời gian không nhiều. Mỹ cũng có.
Nhật họ nghiên cứu vấn đề Hán – Nhật, Hàn Quốc tôi cũng gặp, họ
nghiên cứu về Hán – Hàn. Tôi thấy phong cách chung của những người
nghiên cứu Hán người ta thường gọi là ông đồ cũng đúng vì tôi nghĩ
những người không có tính cẩn trọng thì không gọi là ông đồ được. Ai
muốn trở thành người được gán cho mác ông đồ thì một trong những
cái đó là cẩn trọng. Hay nói như Khổng Tử là “mẫn vu sự, thận vu
ngôn” đấy là đặc điểm của ông đồ. Tôi thấy người Nhật hay Hàn Quốc
cũng thế. Khi tôi chấm luận án của anh Park, anh làm về tương ứng các
âm Hán – Việt, Hán – Hàn, anh này là con rể của đạo diễn Tất Bình.
CCS [ 25 ]
Tôi thấy là Việt Nam khó có một nghiên cứu sinh nào làm được như thế
lắm. GS Nguyễn Ngọc San là người hướng dẫn và phản biện tôi thấy
Việt Nam khó có nghiên cứu sinh nào đạt được như thế, cẩn thận lắm.
Hay khi đi làm với các giáo sư Nhật Bản họ đi cùng với tôi lên cả vùng
Mường để nghiên cứu các thứ. Và những người nghiên cứu Hán – Việt
tôi thấy ở họ một thái độ rất cầu thị, rất cẩn trọng.
HỎI: Những lần hợp tác với các nhà Hán học như Trung Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản hay Hàn Quốc, Mỹ thì những lần hợp tác như thế nó có tác
động như thế nào đến các nghiên cứu của thầy ạ?
ĐÁP: Thực ra khi gặp như thế mình trải lòng được nhiều điều mình nghiên
cứu và họ cũng trao đổi với mình được những điều. Ví dụ như khi
nghiên cứu về chính sách ngôn ngữ thì tôi cũng tham dự hội thảo quốc
tế Ngôn ngữ học xã hội tại Bắc Kinh mình có cơ hội bày tỏ quan điểm
của mình, và những quan điểm của họ. Những nghiên cứu của họ cũng
gợi mở cho mình những điều suy nghĩ, tôi nói thành thật là có những
điều mà mình không nghĩ đến và chính nhờ họ mà tôi có những gợi mở
trong nghiên cứu. Nhất là khi làm với những người Nhật hay Hàn nó
làm cho mình suy nghĩ nhiều hơn về Hán Việt. Tôi ví dụ chẳng hạn,
xưa nay mình vẫn nói Hán Việt là hệ quả của tiếp xúc giữa tiếng Hán
và tiếng Việt, điều đó đúng và thành hệ thống cách đọc Hán Việt.
Nhưng khi chúng ta nghiên cứu với Hán Hàn hay Hán Nhật chúng ta
thấy tiếng Việt đọc là “Hà” tiếng Hàn đọc là “Ka”. Khi tôi đọc cuốn
3000 tự Hán có âm Hán – Hàn, Hán – Nhật, Hán – Việt Quảng Châu thì
mình thấy là có rất nhiều cái đọc rất gần nhau. Nó mới suy ra một điều
phải chăng trong ngôn ngữ học xã hội nó như các biến thể. Tức là một
cách đọc tiếng Hán nhưng khi sang tiếng Hàn, ảnh hưởng của tiếng Hàn,
nó đọc gần gần như thế nhưng biến thể và sang tiếng Nhật cũng như là
“ka” trong tiếng Hàn. Nếu khi cái đó được chứng minh thì tôi thấy có
nhiều vấn đề trong cách nhìn của Hán học. Ví dụ chẳng hạn phải chăng
nó chỉ là một biến thể bắt nguồn từ tiếng bồi và dần dần nó thành hệ
CCS [ 26 ]
thống. Cũng như chúng ta có từ World cup chúng ta đọc thành 9 cách
đọc ( uôn cắp, oăn cắp, uôn cúp, oăn cúp,..). chúng ta sẽ tìm đến một
cái gọi là một biến thể lựa chọn cũng như chúng ta có Cra-vat, Cà-rà –
vạt, Cờ-ra-vat, Ka-ra-vat. Chúng ta sẽ chọn một trong những biến thể
đó. Ví dụ một từ sang tiếng Nhật nó không có vần “v” chuyển thành
vần “b”, sang Hán Việt nó cũng ảnh hưởng như vậy thì tôi nghĩ phải
chăng cách đọc Hán Việt có biến thể. Đây là một hướng nghiên cứu của
ngôn ngữ học xã hội và rất được chia sẻ bởi giới ngôn ngữ học Bắc
Kinh. Rất nhiều nhà phương ngữ học Bắc Kinh nổi tiếng như giáo sư
Trương Chấn Hưng, họ nói với tôi là ở vùng Quảng Tây có một làng
đọc rất giống âm Hán Việt của mình, nếu như chúng ta đi vào những
nghiên cứu đó tôi nghĩ rằng chúng ta có thể ra được nhiều vấn đề.
HỎI: Thầy đang hợp tác với bên Nga đúng không ạ. Vậy theo thầy thầy thấy
giới nghiên cứu Hán học Nga thời thầy đi học so với hiện tại như thế
nào ?
ĐÁP: Lâu lắm tôi không có liên hệ với giới Hán học, các cụ lão thành đều đã
mất. Giáo sư Xôn-xép đã mất, một số tác giả đã mất. Hiện nay tôi
không liên hệ được với các giáo sư Hán học và làm hoàn toàn sang các
vấn đề ngôn ngữ học xã hội khác.
HỎI: Thầy có nhớ cụ thể chính xác là thầy đã hướng dẫn cho bao nhiêu
nghiên cứu sinh, sinh viên người Trung Quốc không ạ?
ĐÁP: Cao học rất là nhiều. Nghiên cứu sinh thì đã một chị và một chị sắp
bảo vệ là hai tiến sỹ trong số 30 tiến sỹ mà tôi hướng dẫn từ đầu đến
giờ.
HỎI: Thầy có tham gia giảng dạy bên Trung Quốc đúng không ạ? Môn học
mà thầy tham gia giảng dạy là môn học gì ạ?
ĐÁP: Tôi thường tham gia giảng dạy giới thiệu họ các vấn đề ngôn ngữ học
xã hội ở Việt Nam nhưng trong đó cũng tập trung vào vấn đề tiếp xúc
Hán Việt.
CCS [ 27 ]
HỎI: Khi thầy làm chủ nhiệm bộ môn Trung Quốc học của khoa Đông
Phương học, thầy xác định mục tiêu của ngành Trung Quốc học lúc đó
là gì, thầy có thể chia sẻ cho chúng em được không ạ?
ĐÁP: Thực ra ở Việt Nam tôi vẫn nói: các yếu tố Hán Việt tham gia cấu tạo
từ, tất cả những gì cộng với học đều là nghiên cứu. Trung Quốc
học,Việt Nam học, Hoa Kỳ học, Ấn Độ học. Thì Trung Quốc học
chúng ta thấy nó mênh mông, nghiên cứu về Trung Quốc. Định hướng
của tôi là nghiên cứu Trung Quốc học phải nằm trong lý thuyết về
nghiên cứu khu vực học. Khu vực học là không gian văn hóa xã hội
đương nhiên có con người sống. Nhưng chúng ta phải trở lại l ịch sử của
Đông Phương học, của thế giới đầu tiên, người ta lấy ngôn ngữ và văn
hóa là cái quan trọng nhất. Lúc đó tôi rất muốn làm nhưng có thể lực
bất tòng tâm nhưng bây giờ tôi vẫn nghĩ như thế. Sinh viên thường
thích chạy theo những đề tài về kinh tế về giáo dục, đấy là đương nhiên.
Kinh tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, những đầu đề rất vĩ đại,
hàng chục tiến sỹ làm chưa xong, đầu đề khóa luận nền kinh tế thế này
thế nọ nhưng thực ra mà nói là Trung Quốc học nói hay Việt Nam học
nói thì cơ bản của nó vẫn là ngôn ngữ và văn hóa. Nhiều người hiểu
nhầm ngôn ngữ, ví dụ người nước ngoài vào học chúng ta thấy có hai
loại là Trung Quốc học cho người Trung Quốc và Trung Quốc học cho
người nước ngoài cũng như Việt Nam học cho người nước ngoài và
Việt Nam học cho người Vi ệt. Người nước ngoài học về Việt Nam học
hay người Vi ệt Nam học về Trung Quốc học thì cơ bản của nó, cái đầu
tiên cần phải giải quyết được là ngôn ngữ, phải nắm được ngôn ngữ thì
mới nghiên cứu được. Nhưng nhiều người lầm tưởng rằng người Vi ệt
Nam không cần học tiếng Việt nữa. Thực ra mà nói anh nghiên cứu
trong chiều sâu của ngôn ngữ thì anh mới bộc lộ được toàn bộ vấn đề
cho nên tôi thấy Trung Quốc học hay Việt Nam học, hiện nay tôi thấy
Việt Nam học cũng thế, lao vào du lịch để kiếm sống. Nhưng thực ra
cái cơ bản, cái làm nên cốt lõi của nó phải là ngôn ngữ và văn hóa. Vì
anh nghiên cứu kinh tế từ góc độ Trung Quốc phải xuất phát từ văn hóa.
CCS [ 28 ]
Nhưng chúng ta thấy đấy là một cái khó bởi vì người ta vẫn nói một câu
nói rất nổi tiếng của Vũ Ngôn là “ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, linh
hồn của một dân tộc là ngôn ngữ”. Ngôn ngữ chỉ là cái vỏ nhưng nó ẩn
chứa cả một nền văn hóa. Cho nên có một nhà luật học nói rất nổi tiếng
là “Luật chính là ngôn từ”, người ta tranh luận nhau về ngôn từ, một từ
phát ra ông thẩm phán nghĩ một cách khác, người bị cáo nói một cách
khác, người luật sư nghĩ khác. Tôi cho rằng nghiên cứu về bản chất
chính là ngôn ngữ, vì nhiều lí do mà tôi chưa thực hiện được. Ví dụ
trong Trung Quốc học chúng ta chưa giải quyết được vấn đề cơ bản về
tiếng làm sao nghiên cứu. Tôi nghĩ Trung Quốc học cái đầu tiên, hồi đó
tôi chưa làm được, là hai năm đầu phải giải quyết về tiếng, tiếng tốt, tôi
đưa sách anh phải đọc được chứ! Đầu đề không đọc được thì làm được
cái gì? Dịch một câu của người ta, người ta nói hay như thế anh xé vụn
nó ra thì làm sao ra được Trung Quốc học? Thứ hai là nếu chúng ta giải
quyết được vấn đề tiếng, giải quyết được một số vấn đề cơ bản về văn
hóa thì sang năm thứ ba, thứ tư anh sẽ có định hướng. Anh nào đi theo
kinh tế, anh nào đi theo nghệ thuật. Chúng ta thấy sức mạnh của bộ
môn đó nó có được mấy người thì anh hướng về cái đó. Tôi nghĩ lý
tưởng là như thế nhưng thực ra nó khó, khó trong cơ chế chung, khó
trong tất cả những cái liên quan. Và tôi nghĩ Trung Quốc học phải như
thế. Sinh viên không giải quyết được tiếng thì không thể làm gì. Tiếng
không phải lơ mơ mà tiếng phải tốt, tiếng phải đọc sách được phải hiểu
được mới có thể làm được. Hồi đó tôi rất muốn định hướng là hai năm
đầu phải giải quyết vấn đề ngôn ngữ, sau đó đi vào nghiên cứu vấn đề
nhưng ngay cả khi nghiên cứu kinh tế hay chính trị cần tập trung cái cốt,
cái nền của Trung Quốc là cái gì? Tại sao bây giờ người ta nói văn hóa
doanh nghiệp thì anh phải hiểu cái đó mới ra được. Chúng ta phải nhớ
là Trung Quốc học kinh tế chứ không phải Kinh tế Trung Quốc. Đấy là
điểm khác cơ bản. Trung Quốc học ngôn ngữ chứ không phải là ngôn
ngữ Trung Quốc. Anh làm ngôn ngữ phải xuất phát từ Trung Quốc học
để giải quyết vấn đề ngôn ngữ. Nhưng thường đa phần thuần túy là làm
CCS [ 29 ]
chủ ngữ vị ngữ, thế thì để cho thằng ngôn ngữ nó làm. Anh làm về xí
nghiệp, doanh nghiệp, gia nhập WTO để cho thằng kinh tế nó làm.
Nhưng vấn đề là anh phải nhớ rằng đó là Trung Quốc học kinh tế,
Trung Quốc học về lịch sử, làm thế nào đó mới là vấn đề. Đó là điều tôi
rất mong.
HỎI: Thầy thấy là cái gì ngành Trung Quốc học chưa đạt được ạ?
ĐÁP: Không phải ngành Trung Quốc học mà các ngành khác cũng thế. Chứ
không phải riêng Trung Quốc học. Tôi dám nói là các ngành khác cũng
khó, cái khó là như vậy.
HỎI: Thầy có nhận định gì về giới nghiên cứu Trung Quốc ở Việt Nam hiện
nay ạ? Ví dụ như lực lượng có đông đảo hay không? Theo thầy là nên
làm như thế nào để thúc đẩy nghiên cứu Trung Quốc học ở Việt Nam ạ?
ĐÁP: Cái này thì tôi cũng không quan tâm tiếp xúc nhiều lắm. Có cả một
Viện nghiên cứu Trung Quốc, có bộ môn Trung Quốc học khắp nơi.
Tôi nghĩ là ở Việt Nam cũng phát triển, tôi nghĩ về số lượng như thế là
cũng được. Nhưng làm thế nào để có những công trình đích thực như
các cụ ngày xưa thì có lẽ còn… tất nhiên mình không nên lấy các cụ
ngày xưa, các cụ ngày xưa có những công trình chuyên sâu, chúng ta
thường gọi là dán nhãn thì có lẽ là chưa có được. Ví dụ như nghiên cứu
về Nho học, chúng ta thấy nghiên cứu rất dài, vậy Nho học thời nay
chúng ta nghiên cứu thì chúng ta phải dán nhãn được cái gì?
HỎI: Trong nghiên cứu về ngôn ngữ học xã hội, theo thầy cái nào là quan
trọng ạ, thầy có nhấn mạnh về mặt nào? Phương pháp luận hay tư liệu?
ĐÁP: Của Trung Quốc hay gì?
HỎI: Có nghĩa là ngôn ngữ nói chung trong chuyên môn của thầy.
ĐÁP: Ngành nào cũng như thế. Hôm qua có một bài viết trên báo điện tử về
tiến sỹ Việt Nam hiện nay. Đọc thì có vẻ bôi bác nhưng ngẫm ra thì
cũng thấy có điều có lý. Người ta vẫn nói là có thần đồng về khoa học
tự nhiên nhưng không có thần đồng về khoa học xã hội. Khoa học xã
CCS [ 30 ]
hội là một sự trải nghiệm, tích cóp giống như người đi nhặt lúa, rất kỹ
lưỡng và tỉ mỉ. Nói một cách khiêm tốn là mình sáng tác ra, tạo ra
những điểm mới không phải dễ. Khoa học tôi nghĩ là mỗi người chỉ
nhích được một tý là cùng. Cho nên tôi vẫn luôn nói với nghiên cứu
sinh là trong luận án lúc nào cũng phải viết “chúng tôi” chứ không phải
“tôi” bởi vì đó là sự kế thừa tất cả, chúng ta chỉ làm được một chút nào
đó. Tôi vẫn khuyên tư liệu là quan trọng. Tư liệu ở đây chúng ta thấy là
có tư liệu điều tra và tư liệu phỏng vấn, ở phương Tây còn một tư liệu
nữa là tư liệu quan sát, nó gắn với sự trải nghiệm. Và muốn quan sát
được và nhận định như thế này như thế nọ thì phải có trải nghiệm cho
nên tôi nghĩ nó là một quá trình tích cóp, tích cóp rất quan trọng, quá
trình ghi chép, quá trình khiêm tốn học hỏi. Cùng với cái đó chúng ta
ứng dụng một cách phù hợp những lý thuyết mới trên thế giới đó là một
cái tôi nghĩ ai thành công chính là như vậy. Còn nếu chúng ta cứ lấy lý
thuyết của nước ngoài mà áp dụng vào đôi lúc nó sẽ rất không phù hợp,
nhất là khoa học xã hội. Ví dụ như nghiên cứu của tôi, tôi thấy một số
người đọc sách phương Tây áp vào nhưng không phù hợp. Tôi ví dụ
một chuyện vui như thế này. Ví dụ về chiến lược cộng tác giao tiếp,
người phương Tây đưa ra chiến lược không nói thừa, nói chính xác.
Nhưng tôi nghiên cứu tôi lại thấy là người Vi ệt Nam rất hay nói thừa,
đó là giao tiếp của người Vi ệt Nam. Người Vi ệt không bao giờ nói, ví
dụ “Bạn có tiền cho tôi vay”, tôi không bao giờ nói câu ấy, tôi phải nói
thêm một lèo nữa là “Hôm nay mình rõ ràng mình mang tiền nhưng thế
nào lại quên mất”. Và bạn không bao giờ bảo câu là “Thầy lấy tiền của
em mà dùng” mà bảo “Em còn. Em cũng mang nhiều tiền đây này! Lúc
nào thầy có thầy giả cũng được”. Người Vi ệt không bao giờ nói thật, đó
là văn hóa của người Vi ệt, cho nên tôi nghĩ muốn nói là nếu áp dụng lý
thuyết một cách cứng nhắc về giao tiếp thì nó như thế này, tôi nói là lý
thuyết của phương Tây nếu được chứng minh, bổ sung thêm bằng
những tư liệu thực tế Việt Nam thì nó rất tốt. Tôi nghĩ như thế! Hay ví
dụ như chính sách ngôn ngữ là một vấn đề chính trị thì tôi cho rằng
CCS [ 31 ]
càng phải làm điều đó. Bởi vì mỗi một quốc gia, tôi đang nói là ở mỗi
một tình hình ngôn ngữ giống nhau, mà ngay cả ở những nước có tình
hình ngôn ngữ giống nhau thì chính sách đó khác nhau vì nó theo sự
phát triển. Tôi nghĩ, điểm quan trọng nhất gộp chung tất cả là khoa học
xã hội phải bắt đầu từ cái đấy. Nhưng không phải nằm trên tư liệu đó
mà mình phải có những cơ sở lý thuyết thuyết phục, chắc chắn.
HỎI: Thầy có thể tự đánh giá về những thành tựu nghiên cứu của mình và
những cái mà giáo sư sẽ định hướng nghiên cứu trong tương lai ạ?
ĐÁP: Tôi nghĩ người ta nói là cần cù bù thông minh, tôi lấy cái cần cù để làm
việc. Tôi nói rồi, tôi là người có thể làm nhiều mảng nhưng tôi thích
giống như một bác sỹ, giống như là mổ thì cứ mổ cả đời, tôi chỉ làm
ngôn ngữ học xã hội. Và tôi đã viết ví dụ như các vấn đề về chính sách
ngôn ngữ, đấy là về vĩ mô, các vấn đề về chuẩn hóa tiếng Việt, các vấn
đề về tiếp xúc ngôn ngữ đặc biệt là tiếp xúc Hán Việt, các vốn từ ngoại
lai, vấn đề giao tiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng đấy là sự cố gắng của mình để
góp phần vào sự phát triển của ngành ngôn ngữ học Việt Nam nói
chung và ngành Ngôn ngữ học xã hội nói riêng. Trong đó cũng có một
phần mà các bạn mới nêu đó là tôi cũng nặng tình với phần Trung Quốc
học. Cho nên tôi vẫn giảng phần Ngôn ngữ và tộc người ở trong trường.
Có một vấn đề liên quan rất lớn đến nhiệm vụ của Viện ngôn ngữ học,
có ba nhiệm vụ mà từ đại hội V của Đảng đã nêu ra, từ Nghị quyết V
của Trung Ương đưa ra là vấn đề từ điển Tiếng Việt, vấn đề ngữ pháp
tiếng Việt và một vấn đề rất quan trọng là lịch sử tiếng Việt. Vấn đề
lịch sử tiếng việt liên quan đến rất nhiều ngôn ngữ đặc biệt là liên quan
đến tiếng Hán. Tôi nghĩ đấy là một phần mà hiện nay đang trống, và
muốn làm lịch sử tiếng Việt không thể không biết tiếng Hán. Đó là một
phần quan trọng. Nhưng có lẽ bây giờ một trong những khó khăn của
giới trẻ là tiếng Hán. Và tôi nghĩ nếu có phần gộp chung vào sẽ tốt.
HỎI: Thầy có dự định gì trong tương lai?
ĐÁP: Bây giờ chắc không có dự định gì.
CCS [ 32 ]
HỎI: Trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học...
ĐÁP: Bây giờ có dự định là phấn đấu lên cố giáo sư.
HỎI: Trong giới nghiên cứu về ngôn ngữ có nhiều người đi theo hướng ngôn
ngữ học xã hội như thầy không ạ?
ĐÁP: Hiện nay cũng có, vì hiện nay Trung tâm nghiên cứu Ngôn ngữ học xã
hội duy nhất là ở Viện ngôn ngữ học, thành lập năm 1984. Hiện nay
một số nơi bắt đầu từ năm 2000, nơi đầu tiên đưa ngôn ngữ học vào
trong cao học sau này đưa xuống sinh viên là Khoa Ngôn ngữ của
trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hiện nay một số trường
họ bắt đầu nghiên cứu khoa học, họ dần dần bước đầu nghiên cứu.
HỎI: Thầy dự đoán hướng phát triển của nó có khả quan không ạ?
ĐÁP: Bây giờ tất yếu phải đi theo con đường xã hội. Bởi vì thời kỳ người ta
gọi là ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học người ta đánh dấu bằng thế
kỷ XX, tức là giai đoạn chuyển từ cấu trúc luận sang hậu cấu trúc luận.
Cấu trúc luận người ta nghiên cứu chủ yếu là tĩnh tại. Nghiên cứu riêng
ví dụ các bạn đang học như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, câu. Hậu cấu
trúc luận người ta nghiên cứu ngôn ngữ trong hành trình, ngôn ngữ
trong hoạt động, ngôn ngữ trong giao tiếp. Mà đã nói ngôn ngữ trong
giao tiếp là phải nói xã hội, đó là tất yếu. Và người ta nói có thể hơi quá
nhưng đấy mới là đích thực của ngôn ngữ. Hay có những người nói
ngôn ngữ học xã hội là ngôn ngữ, nhưng cũng có người nói đùa ngôn
ngữ học xã hội giống như một bãi thải vì nó ngổn ngang quá nhiều thứ.
HỎI: Chúng em xin kết thúc buổi phỏng vấn của Thầy ngày hôm nay ạ.
CCS [ 33 ]
2nd Recording ---- Total length 1.20
May 8, 2015 14:30~16:00, Institute of Linguistics, Vietnam Academy of Social
Sciences, No.9A Kim Ma Thuong Street, Hanoi
Interviewers: Dao Tam Khanh
HỎI: Trước hết là em cảm ơn thầy hôm nay đã dành thêm cho chúng em một
buổi nữa để trả lời những câu hỏi liên quan đến nghiên cứu Trung Quốc.
Buổi hôm nay em cũng xin nói trước là em sẽ tập trung hỏi thầy về
những nghiên cứu của thầy có liên quan đến Trung Quốc. Trước tiên
em muốn hỏi thầy là thầy đã bắt đầu lựa chọn nghiên cứu của thầy liên
quan đến Trung Quốc thì chủ yếu ở lĩnh vực nào ạ?
ĐÁP: Thực ra thì trong nghiên cứu Trung Quốc, tôi chủ yếu làm về ngôn ngữ
thôi. Nhưng mà chúng ta biết là mọi thứ nó bắt đầu từ ngôn ngữ, ngôn
ngữ nó biểu hiện, ngôn ngữ nó cũng là chứa đựng tất cả những nội dung
trong đó, có thể nói là nghiên cứu về văn hóa hay tất cả mọi cái thì
không thể bỏ qua ngôn ngữ. Cho nên có một nhà nói “luật chính là
ngôn ngữ”, bởi vì mọi cuộc tranh luận đều xung quanh vấn đề ngôn ngữ.
Cho nên có thể nói ngôn ngữ là một vấn đề rất quan trọng trong nghiên
cứu. Chúng ta biết là nghiên cứu khu vực học cũng bắt đầu từ ngôn ngữ
và văn hóa, cho nên là ngôn ngữ nó vừa là cái nghề của tôi, vừa là cái
để nghiên cứu Trung Quốc học.
HỎI: Thế thì từ góc độ của ngôn ngữ học thì thầy nghiên cứu các vấn đề
chính nào của Trung Quốc ạ?
ĐÁP: Từ góc độ ngôn ngữ học thì tôi nghiên cứu chủ yếu về vấn đề tiếp xúc,
tiếp xúc ở đây là tiếp xúc Hán Việt. Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ
không thể không nói đến tiếp xúc văn hóa, tiếp xúc nó có rất nhiều mặt.
Chúng ta thấy một cuộc tiếp xúc về ngôn ngữ nó chịu ảnh hưởng rất
nhiều của các nhân tố như địa lý, con người, nhân khẩu, văn hóa, kinh
tế, chính trị xã hội, bởi vì tất cả các cuộc tiếp xúc đều có sự tác động
CCS [ 34 ]
của nhân tố xã hội và cùng với nhân tố xã hội thì có một nhân tố rất
quan trọng đó là nhân tố ngôn ngữ, tức là sự giống và khác nhau giữa
hai ngôn ngữ cụ thể như thế nào. Chúng ta thấy cái tiếp xúc của Hán
Việt, cái gọi là song ngữ Hán Việt có đặc thù rất lớn vì địa lý gần nhau,
biên giới trải dài, về con người khá gần gũi nhau, chúng ta thấy về kinh
tế rõ ràng có sự giống nhau rất lớn, về văn hóa thì có sự ảnh hưởng của
Trung Hoa trong toàn bộ vùng Châu Á, rồi về chính trị, chúng ta có một
nghìn năm Bắc thuộc, và ngay sau khi hòa bình lập lại, chúng ta nhìn
lại thì ngay cái tên trong cơ cấu tổ chức hành chính tất cả đều học
Trung Quốc từ thôn đến xã đến lý đến hương đến châu huyện tỉnh đến
thành phố, rõ ràng cơ cấu tổ chức là Hán Việt, chúng ta không thể tách
rời với ảnh hưởng của Hán, của chế độ phong kiến phương Bắc. Sau
này chúng ta theo đường hướng của xã hội chủ nghĩa thì tất cả các chức
vụ như thủ tướng, chủ tịch, tổng thống, trung ương, cũng đều như vậy.
Như vậy chúng ta thấy cái ngôn ngữ là rất quan trọng, thế còn, và
những nhân tố đó tạo cho sự tiếp xúc mạnh mẽ giữa Hán Việt, và trong
ngôn ngữ học hay nói đó là nhân tố bên ngoài, nhân tố bên trong rất
quan trọng nó dẫn đến tiếp xúc song ngữ Hán Việt nó quy mô và to lớn
bởi vì tiếng Hán và tiếng Việt cùng loại hình, hai bên là cùng cấu trúc
âm tiết, nó vào rất nhanh. Cho nên có cơ hội là nó vào, cái thứ hai, cái
điều chúng ta không thể phủ nhận là câu chuyện trước khi Việt Nam sử
dụng chữ Hán thì tiếng Việt có chữ viết chưa vẫn là một câu chuyện
đang bàn, cho nên rõ ràng tác động của một ngôn ngữ có chữ viết,
thành văn với không thành văn là nó dẫn đến sự ảnh hưởng của tiếng
Hán trong tiếng Việt rất sâu sắc. Một điều mà chúng ta thấy là quá trình
tiếp xúc nó tạo ra tác động Hán Việt, cách đọc Hán Việt nó nằm trọn
trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt của chúng ta, trừ một vài từ, một vài
điểm khác biệt nhỏ, cho nên làm cho tất cả chữ Hán có thể đọc thành
âm Hán Việt và đó trở thành một câu chuyện tiềm năng, có cơ hội là
vào, tức luôn luôn ngồi chầu trực bên ngoài chỉ cần có một cơ hội là
vào, điều đấy là rất quan trọng, nó dẫn đến hàng loạt các tiếp xúc văn
CCS [ 35 ]
hóa. Người ta nói vui là tiếp xúc về mặt chính trị và các mặt khác thì
khó, con người ra nước ngoài cần hộ chiếu nhưng ngôn ngữ ra nước
ngoài không cần hộ chiếu, cho nên yếu tố Hán nó vào yếu tố Việt rất
nhanh, và nó mang rất nhiều văn minh Trung Hoa, Phật giáo cũng có
con đường rất lớn. Chúng ta thấy là văn hóa Việt Nam, văn hóa Phật
giáo là đi theo con đường đấy, những Khổng giáo và các giáo khác
cũng qua ngôn ngữ vào. Và những vấn đề khác như xã hội, kinh tế,
chính trị, tất cả những gì là văn minh của Trung Hoa đều vào đây, như
cái la bàn, lập tức chúng ta có phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc,
mùa màng, thời tiết chúng ta có Xuân - Hạ - Thu - Đông thì chúng ta
không thể phủ nhận điều đó. Phải nói thêm là cái tiếp xúc tạo ra ảnh
hưởng, ảnh hưởng nó dẫn đến hệ quả và hệ quả lớn nhất là các đơn vị
Hán trong tiếng Việt, nhưng các đơn vị Hán trong tiếng Việt có một
điều thú vị đó là nó bị đồng hóa theo tiếng Việt và có rất nhiều đơn vị
vỏ là Hán nhưng ruột lại là Việt, nó lại biểu hiện văn hóa Việt Nam
trong đó. Đấy là điều lý thú mà nghiên cứu về Trung Hoa quan tâm. Ví
dụ “trung” là “trung quân”, Việt Nam sao là phải trung với Đảng,
nhưng nó vẫn có cái cổ và có cái mới đó là “hiếu”, là hiếu với cha mẹ
nhưng ở Việt ta là “hiếu với dân”. Từ một từ đấy chúng ta thấy được sự
thay đổi trong quan niệm, tức một mặt nó giữ được những cái vốn có
một mặt thay đổi theo tác động từ đời sống Việt Nam. Người ta gọi đó
là tiếp xúc ngôn ngữ hay tôi hay gọi là tiếp xúc song ngôn ngữ văn hóa,
Hán Việt nó có vai trò quan trọng.
HỎI: Theo thầy trong lịch sử giao lưu và tiếp xúc giữa ngôn ngữ Hán và Việt
thì ngoài những cái thầy nêu ra thì thầy có thể khái quát nhận xét chung
về cả quá trình được không ạ?
ĐÁP: Trong cả quá trình, nếu chúng ta nhìn một cách tổng thể thì cái quan
trọng là nếu chúng ta lấy cách đọc âm Hán Việt làm mốc, hay tạm nói
lấy lịch sử Việt Nam ở thế kỷ thứ X để phân đôi ra, một cái là trước thế
kỷ thứ X là nghìn năm Bắc thuộc, một cái là sau thế kỷ thứ X là Đại
CCS [ 36 ]
Việt độc lập. Thì ta thấy rất rõ, một cái là chúng ta tiếp xúc khi ta còn lệ
thuộc và một cái tiếp xúc có chủ ý, theo nhu cầu vay mượn của chúng
ta, thì một cái vay mượn khi ta lệ thuộc và một cái vay mượn khi ta độc
lập tự chủ sau này, bây giờ cuộc tranh luận còn kéo dài nhưng nếu lấy
cách đọc Hán Việt ở thế kỷ thứ VII-X, thì ta thấy là trước đó tiếp xúc
Hán Việt có một cái là tiền, sau Hán Việt thì có một cái là hậu. Thời kỳ
tiền Hán Việt tức cổ Hán VIệt thì tiếp xúc phức tạp, có tiếp xúc khẩu
ngữ, tiếp xúc văn bản, như tiếp xúc bằng con đường khẩu ngữ thì có
cách đọc của Triều Châu, Quảng Đông vào trong tiếng Việt, nó tạo
không ít tầng tầng lớp lớp trong tiếng Việt, nghiên cứu song văn hóa
ngôn ngữ Hán Việt ở chúng ta thì nghiên cứu được đến đâu thì biết đến
đó vì nó ẩn chứa rất nhiều vấn đề mà chũng ta chưa tìm hiểu hết được.
Ví dụ như từ “Budha” nó đi theo đường Hán vào nước ta là Phật, nhưng
đi theo đường biển vào thì gọi là “Bụt”, từ “mộ” là Hán Việt, trước đó
lại là “mả”, sau đó lại là “mộ”, hay từ “biên” thì có biến âm của “bên”,
“ven”, “vi ền”, chúng ta thấy từ “vân” thì lại có “vằn” trong “vằn thắn”,
chúng ta có “bạc” thì lại có “bò bía”, “bò” ở đây chính là bạc tức là
bánh tráng nếuđọc theo biến âm, thì chúng ta thấy rất nhiều hiện tượng
như vậy. Do chúng ta có thời gian tiếp xúc rất lâu dài bằng những con
đường khác nhau, bằng những thời gian khác nhau và để lại cho ngôn
ngữ của văn hóa Việt Nam rất nhiều điều chúng ta phải nghiên cứu. Và
tôi thấy từ vấn đề ngôn ngữ đó chúng ta có thể thấy rất nhiều vấn đề
khác như chính trị, xã hội.
HỎI: Thưa thầy cái mốc mà Việt Nam mình chuyển đổi qua ký tự La tinh thì
có ảnh hưởng gì tới tiếp xúc Hán Việt này không ạ?
ĐÁP: Thực ra mà nói chúng ta biết rằng theo tài liệu chính thống, chúng ta
thấy ngôn ngữ tạm phân ra các gia đoạn chứ thực ra chúng luôn có sự
chồng lẫn nhau. Chữ Hán sang sau thế kỷ thứ X thì chữ Nôm đã xuất
hiện, chúng ta thường nói thế kỷ XIII nhưng trước đó đã có rồi, sau này
từ thế kỷ thứ XVI- XVII là dùng chữ Quốc ngữ bây giờ của chúng ta.
CCS [ 37 ]
Rõ ràng sựụ thay thế nó thì có sự tác động mạnh nhưng chúng ta cần
nhớ một điều về ký tự học xã hội là chữ Hán nó đã ăn sâu vào tâm
người Vi ệt, cái nếp nghĩ của người Vi ệt rồi. Thời ngày xưa tại sao các
cụ không cho dán diều bằng chữ Nho, chữ Nho mà rơi xuống đường là
phải nhặt lên, tại sao hiện nay người Vi ệt Nam thích đi xin chữ Hán, có
khi không biết chữ đó là chữ gì cả, ví dụ như xin được chữ “nhẫn”,
không biết viết đúng hay sai nhưng cứ nhìn thấy chữ Hán là được, và
tại sao không xin chữ “phúc” mà lại xin chữ “福” của tiếng Hán, rõ
ràng trong cái tâm trí, trong nội tâm của người Vi ệt vẫn có một cái gì
đó, hay trong các nhà thờ xây mới người ta vẫn thích đề “Ẩm thủy
tương nguyên” vì trong ngôn ngữ học người ta gọi đó là ngôn ngữ cao,
mang tính cao siêu, chính thức, cho nên người ta vẫn thích xin chữ,
người ta vẫn thích câu đối bằng chữ Hán mặc dù có chữ Việt. Vậy là
những ảnh hưởng trong ý thức của chúng ta đến nay vẫn còn cái gì đó,
các cụ cúng vẫn cúng bằng Hán Việt, Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa, rồi Hà Nam tỉnh, Lục Yên huyện, chứ không ai cúng như bây giờ,
cho nên có loại cúng nôm bằng tiếng Hán thì nó có cái gì trừu tượng,
cao, mang tính tâm linh người ta thích đi xin, cái Hán vẫn ảnh hưởng ở
chỗ đó.
HỎI: Thầy có thể kể ra một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về tiếp xúc
Hán Việt của mình và chỉ ra rõ hơn một chút về công trình mà thầy cho
là tiêu biểu được không ạ?
ĐÁP: Tôi thì chuyên làm về ngôn ngữ học xã hội, cho nên tiếp xúc ngôn ngữ
và ảnh hưởng giữa các ngôn ngữ là vấn đề tương đối trọng tâm của
ngôn ngữ học xã hội. Trong nghiên cứu của tôi không thể bỏ qua vấn đề
này, trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội” năm 1999 và năm 2012 tôi
cũng đã viết, và đáng chú ý là cuốn “Từ ngoại lai trong tiếng Việt” năm
2007, năm 2012 thì tái bản, tôi đã dành 4 chương viết chuyên về tiếp
xúc Hán Việt như đặc điểm về tiếp xúc Hán Việt, những biến đổi của
CCS [ 38 ]
quá trình Việt hóa các yếu tố Hán như thế nào và các góc tiếp xúc ra
sao, đdó cũng là vấn đề mà tôi quan tâm.
HỎI: Thầy đi theo hướng tiếp cận là ngôn ngữ học xã hội, thì thầy có thể chia
sẻ là tiếp nhận lý thuyết ngôn ngữ học xã hội như thế nào, khi thầy tiếp
cận lý thuyết kiến thức của ngôn ngữ học xã hội từ phương Tây, Âu Mỹ
hay qua con đường Trung Quốc?
ĐÁP: Ngôn ngữ học có thể tạm chia làm hai giai đoạn, một giai đoạn từ cuối
thể kỷ XX trở về trước người ta gọi là ngôn ngữ học cấu trúc, tức
nghiên cứu những mô hình đóng khung trong ngôn ngữ tiếng Tạng, còn
từ cuối thế kỷ XX trở lại đây thì nguời ta gọi là ngôn ngữ học hậu cấu
trúc tức là nó đi theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên trong giao
tiếp, nghiên cứu các vấn đề về chính sách ngôn ngữ, nghiên cứu các vấn
đề về cảnh huống ngôn ngữ. Ngôn ngữ học xã hội có thể nói là mang
tính liên ngành, nó liên quan đến các vấn đề chính trị, ở các nước xã hội
chủ nghĩa thì nó vào chậm hơn, thật ra nó xuất phát từ phương Tây từ
những năm 60, ở Việt Nam thì những năm 1980 mới xuất hiện, thì ngôn
ngữ học xã hội chủ yếu bàn về tương tác ngôn ngữ xã hội, hoặc lấy các
yếu tố xã hội để giải quyết vấn đề ngôn ngữ, như trước đây nghiên cứu
về tiếp xúc Hán Việt người ta nghiên cứu thuần túy về cấu trúc thì
nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội chính là người ta giải quyết các vấn đề
tiếp xúc bằng các yếu tố xã hội. Ví dụ bây giờ những cuộc tranh luận
vẫn còn xảy ra, “cái gọi là Hán Việt là gì?” Chúng ta thường định nghĩa
đơn giản là cách đọc Hán Việt là hệ quả của tiếp xúc Hán Việt, đúng
nhưng mà tại sao vẫn có cả Hán Hàn, cùng một từ Việt Nam mình gọi
“hà” là sông thì tiếng Nhật đọc là “ka”, như vậy âm rất gần nhau, hay
âm Triều Tiên cũng vậy. Chúng ta thấy rằng là theo ngôn ngữ học xã
hội người ta sẽ nhìn nhận như là các biến thể, và những tác động của xã
hội, nó sẽ đi vào để giải quyết các vấn đề triệt để hơn và mang tính xã
hội nhiều hơn, vì đây là một hướng mà người ta nghiên cứu.
CCS [ 39 ]
HỎI: Trong lý thuyết về ngôn ngữ học xã hội thì thầy chịu ảnh hưởng sâu sắc
nhất của tác giả nào ạ?
ĐÁP: Ngôn ngữ học xã hội là từ phương Tây, đương nhiên các ông tổ của nó
là người phương Tây. Ngôn ngữ học xã hội có những tác giả người Mỹ
nổi tiếng như William Labov nghiên cứu về phương ngữ thành thị, hay
là Lakoff nghiên cứu về ngôn ngữ giới, những cái đó thì không phải chỉ
Việt Nam mà được rất nhiều nước vận dụng trong nghiên cứu. Trong
nghiên cứu của Labov là nghiên cứu về phương ngữ thành thị tức là
nghiên cứu về ngôn ngữ của New York, và có một nghiên cứu rất quan
trọng là ông ấy nghiên cứu về các biến thể ngôn ngữ dưới tác động của
các nhân tố xã hội thì nó thay đổi như thế nào. Ví dụ như là trong tiếng
Việt, phần Hán Việt từ “cốt” của tiếng Hán sang tiếng Việt thì là
“xương” thì lập tức “cốt” chuyển thành cương của người đã chết, hay
“côn” của tiếng Hán sang tiếng Việt là “gậy” thì “côn” của tiếng Việt
sẽ chuyển thành gậy đánh võ, hay như “bì” nghĩa là “da” của tiếng Việt
thì khi dùng “bì” thì người ta chỉ da những con vật bị giết thịt. Như vậy
là quá trình đồng hóa và thay đổi của quá trình sử dụng các ngôn ngữ,
nó gắn với các nhân tố về tuổi, giới tính, nghề, tôn giáo,..
HỎI: Hiện nay những nghiên cứu về tiếp xúc Hán Việt thì ngài thầy ra còn
học giả ở Việt Nam nào quan tâm nghiên cứu nữa không ạ?
ĐÁP: Việt Nam cũng khá nhiều người, người được nhắc đến nhiều nhất là
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, ông có công trình nghiên cứu đầu tiên về cách
đọc Hán Việt. Tất nhiên trước ông còn một số người nghiên cứu, và
nghiên cứu cách đọc Hán Việt của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì theo
hướng cấu trúc và hệ thống.
HỎI: Thế theo hướng ngôn ngữ học xã hội như thầy thì hiện nay có ai không
ạ?
ĐÁP: Hầu như chưa có ai vì ngôn ngữ học xã hội là một ngành mới.
HỎI: Thế còn ở Viện ngôn ngữ và các trường đại học ạ?
CCS [ 40 ]
ĐÁP: Các trường đại học thì riêng trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn bắt đầu từ năm 1998 đưa vào dạy cao học, tôi là người dạy và bây
giờ tôi vẫn dạy, dạy chuyên đề ngôn ngữ học xã hội và năm 2002 thì
bắt đầu dạy cho sinh viên chất lượng cao. Trường Nhân văn có lẽ là
trường đưa sớm nhất, nhiều trường khác thì chưa đưa vào, gần đây một
số nơi khác có đưa vàonhưng mới đưa vào bậc cao học, chưa đưa vào
bậc đại học.
HỎI: Em thấy ở Viện có phòng nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, cái này nó
có tương đương với các phòng nghiên cứu khác không ạ?
ĐÁP: Nó cũng tương đương với các phòng như là ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng.
HỎI: Như vậy là được coi trọng như một hướng nghiên cứu chính đúng
không ạ. Thế thì hiện nay nghiên cứu về lĩnh vực ngôn ngữ của Trung
Quốc thì ở Viện ngôn ngữ ngoài thầy ra có ai quan tâm không ạ?
ĐÁP: Thực ra ở chúng tôi không có nghiên cứu về lĩnh vực Trung Quốc.
Thực ra Viện ngôn ngữ học nghiên cứu chủ yếu về tiếng Việt và ngôn
ngữ dân tộc thiểu số. Ở Viện có hai phòng nghiên cứu mang tính lý
luận nhiều, tức ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ hoc ứng dụng, ngôn
ngữ học xã hội, ngôn ngữ hoc ứng dụng hay ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng
ở Việt Nam cũng xuất phát chủ yếu trên cơ sở tiếng Việt, chúng ta chưa
có nghiên cứu chuyên về ngôn ngữ Trung Quốc, mang tính đại cương
thôi.
HỎI: Chúng ta có phải là chưa quan tâm nghiên cứu các ngôn ngữ nước
ngoài không ạ?
ĐÁP: Các ngôn ngữ khác có quan tâm, ở các luận án hoặc làm đối chiếu, họ
không tập trung hẳn về các vấn đề này.
HỎI: Em có đọc một số công trình của giáo sư, thì em có thấy thầy có tập
trung quan tâm nghiên cứu khá sâu về ngôn ngữ tộc người Trung Quốc,
thầy có thể nói thêm vấn đề này được không ạ?
CCS [ 41 ]
ĐÁP: Cái vấn đề này thì tôi có làm một giáo trình giảng dạy trong trường là
“Ngôn ngữ tộc người Trung Quốc”, cái nghiên cứu trong ngôn ngữ học
xã hội có một phần rất quan trọng là cảnh huống ngôn ngữ, Trung Quốc
gọi là 语言状况, tiếng Anh là language situation, là nghiên cứu tình
hình tồn tại, sử dụng ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ trong cộng
đồng, đây là vấn đề lớn. Ở Việt Nam, Trung Quốc hay là những quốc
gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ thì vấn đề ngôn ngữ, tôn giáo, dân tộc rất
nhạy cảm, phức tạp. Trung Quốc là một nước quan tâm đến vấn đề này,
Việt Nam cũng vậy. Ta biết Trung Quốc là nước có 56 dân tộc, ở bên
đấy tôi có làm việc với một số giáo sư như giáo sư Trương Chấn Hưng-
một chuyên gia nổi tiếng về phương ngữ của Trung Quốc, hay giáo sư
Chu Khánh Sinh là giáo sư đầu ngành về ngôn ngữ học xã hội Trung
Quốc, thì họ cũng tập trung vào nghiên cứu cái này. Ở Trung Quốc
cũng có mấy vấn đề, thứ nhất nổi lên theo lý thuyết ngôn ngữ trên thế
giới thì những người nói những phương ngữ khác nhau của cùng một
ngôn ngữ thì có thể giao tiếp được, nhưng Trung Quốc có 7 phương
ngữ (nếu gộp cả Bắc Mân và Nam Mân) thì những người nói các
phương ngữ đó không hiểu nhau, trên lý thuyết là những người nói
phương ngữ phải hiểu nhau, riêng Trung Quốc lại không như thế, nhìn
sang Đài Loan tình hình hơi khác, đó là một vấn đề. Vấn đề thứ hai là
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, đây là một vấn đề rất lớn, hiện nay theo
giáo sư Chu Khánh Sinh thì Trung Quốc có 56 dân tộc nhưng có trên 80
ngôn ngữ, tức là nó không có sự tương đương một một giữa dân tộc và
ngôn ngữ. Thứ hai là thế giới chia ngôn ngữ ra làm 5 bậc: an toàn, nhỏ
nhưng an toàn, ngôn ngữ nguy cấp, ngôn ngữ bên bên vực và ngôn ngữ
chết. Thế giới đa số quan tâm ngôn ngữ nguy cấp trở xuống, vì người ta
coi ngôn ngữ như một nguồn sinh thái, một nguồn lực, việc bảo vệ và
phát huy ngôn ngữ các dân tộc ít người rất là quan trọng, cho nên Trung
Quốc rất quan tâm ngôn ngữ có nguy cơ bị mất. Việt Nam cũng vậy, tôi
có dự một hội thảo quốc tế ở Quảng Tây bàn về vấn đề này, thì có nói
Việt Nam cũng có 3, 4 ngôn ngữ như thế, dân số của họ rất ít, chỉ vài
CCS [ 42 ]
trăm người, đó là một vấn đề cần quan tâm. Vấn đề quan tâm thứ hai
của các quốc gia là chính sách đối với các dân tộc thiểu số, quan hệ với
ngôn ngữ quốc gia, làm thế nào để vừa phát triển ngôn ngữ quốc gia
vừa bảo vệ được ngôn ngữ địa phương. Đây là việc Trung Quốc cũng
rất quan tâm. Việc bảo tồn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số mà các quốc
gia đều bàn tới đó là giáo dục song ngữ: ngôn ngữ quốc gia và ngôn
ngữ dân tộc thiểu số, ví dụ như giáo dục tiếng Hán và tiếng dân tộc, hay
tiếng Việt và tiếng dân tộc. Vấn đề phát thanh trên truyền hình, vấn đề
bảo tồn, sử dụng và làm mới các loại chữ viết đặc biệt là của dân tộc.
Chúng ta biết rằng để bảo tồn một ngôn ngữ thì có ba yếu tố rất quan
trọng là giáo dục, phát thanh và chữ viết. Trung Quốc có những đặc thù
riêng là có khu tự trị nên nó liên quan đến vai trò của ngôn ngữ dân tộc
thiểu số đứng sau ngôn ngữ quốc gia. Nhưng mỗi quốc gia có cách xử
lý khác nhau, người ta có nói rằng chính sách ngôn ngữ phải xây dựng
trên cảnh huống ngôn ngữ và ngay cả những quốc gia có tình hình
chính trị giống nhau thì chính sách ngôn ngữ cũng khác nhau, do đó
phải phụ thuộc vào tình hình ngôn ngữ của các quốc gia đó. Ở Trung
Quốc có những chính sách ngôn ngữ riêng ví dụ như có 6 đến 7 ngôn
ngữ được dùng sau tiếng Hán trong Quốc hội, trong Đại hội Đảng, chữ
viết của dân tộc thiểu số được in ở trên tiền, đồng Nhân dân tệ, và con
dấu của vùng dân tộc thiểu số dung cữ dân tộc, như vậy là mỗi quốc gia
có chính sách xử lý khác nhau tùy theo tình hình mỗi quốc gia. Đấy
cũng là một đặc điểm riêng của Trung Quốc
HỎI: Thầy có thể đánh giá một chút về tình hình thực tế thực thi các chính
sách đó của Trung Quốc được không ạ?
ĐÁP: Có một điểm rất đáng chú ý, năm 2001 Trung Quốc lần đầu tiên có luật
Ngôn ngữ tên là “Quốc gia thông dụng ngôn ngữ văn tự pháp”, thì
trong chính sách ngôn ngữ chia làm hai cái, thứ nhất là chính sách ẩn
(隐政策), cái này dịch từ tiếng Anh là “covered policy”, thứ hai là
chính sách hiện (显政策) tiếng Anh là “obvious policy”. Chính sách
CCS [ 43 ]
hiện tức là công khai tuyên bố ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia, còn
chính sách ẩn là chính sách tôi cứ dùng nhưng tôi không công bố, thì
hai chính sách này tùy từng tình hình mỗi nước. Trung Quốc thì năm
2001, Luật ngôn ngữ văn tự quốc gia ra đời thì chuyển chính sách ẩn
sang chính sách hiện hay từ chính sách không tường minh sang chính
sách tường minh, khẳng định ngôn ngữ quốc gia là tiếng Hán và khẳng
định thế nào là tiếng phổ thông. Luật này ra đời tác động rất mạnh đến
ngôn ngữ Trung Quốc, ngôn ngữ được luật hóa, mặc dù nói nó là ngôn
ngữ văn tự quốc gia nhưng nó không thể tách rời ngôn ngữ dân tộc, các
điều khoản đi kèm luôn có, cho nên đem đến cho Trung Quốc sự thực
thi mới trong chính sách ngôn ngữ. Chúng ta biết rằng từ chính sách
đến thực thi nó là một vấn đề, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc
biệt nên nó vận động theo sự thay đổi của xã hội, hay người ta nói đùa
ngôn ngữ là nhiệt độ kế của xã hội, phản ánh xã hội. Ngôn ngữ không
đứng im cho nên chính sách ngôn ngữ khá linh hoạt. Thứ hai luật ngôn
ngữ nó không như luật khác là xử tù, xử phạt mà chỉ khuyến cáo,
khuyến khích cho nên chính sách mềm dẻo và thực thi có những điều
chỉnh.
HỎI: Trên thực tế thầy quan sát thấy là họ có những điều chỉnh gì ạ?
ĐÁP: Thực ra ở vĩ mô nó là như vậy, ở cấp độ vi mô nó có những cái linh
hoạt riêng.
HỎI: Có điều đáng chú ý là Trung Quốc đã chuyển sang sử dụng chữ giản thể,
khác với Đài Loan vẫn sử dụng chữ phồn thể, thầy có quan điểm thế
nào về chính sách này ạ?
ĐÁP: Chúng ta đều biết Trung Quốc chuyển từ phồn thể sang giản thể là một
thay đổi rất lớn, họ nói đến nhiều cái điều tốt như tiện lợi trong in ấn,
học tập. Thế nhưng tôi nghĩ trong cái được bao giờ cũng có cái mất, ví
dụ như tại sao người Trung Quốc in card rất thích in chữ phồn thể.
Chúng ta biết chữ Hán là chữ tượng hình, nó từ cái hình vẽ chuyển sang,
nên chữ phồn thể nó phản ánh được hình âm và hình chữ của chữ Hán,
CCS [ 44 ]
chữ giản thể nó sẽ có nguy cơ hay làm mất đi tính tượng trung giữa âm
và chữ, đó là một cái hạn chế. Rõ ràng chữ giản thể ra đời khó khăn cho
giới trẻ tiếp cận với văn hóa ngày trước, nhưng ta cũng không thể phủ
nhận sự tiện lợi của nó. Trong khi đó chúng ta biết các quốc gia khác ở
Hoa ở Đông Nam Á, người Hoa ở Đông Nam Á hay ở vùng Đài Loan
người ta vẫn dùng chữ phồn thể. Bởi vì văn tự là một công cụ rất quan
trọng, nguyên tắc của nó là càng dễ viết bao nhiêu thì càng dễ học bấy
nhiêu. Khi chuyển đổi, đương nhiên các nhà Trung Quốc đã có tính
toán, có cả một tầm nhìn và tất nhiên người ta cũng phải cân đo đong
đếm cái nào có lợi hơn, những cái đó người ta đã nghiên cứu quá kỹ,
mình không thể bàn được cái đó, nó còn gắn với các quan điểm khác và
bây giờ nó đã trở thành một tất yếu, một cái đương nhiên.
HỎI: Thầy thấy bây giờ bên Trung Quốc họ còn bàn về vấn đề này không ạ
bởi vì em thấy ở Đài Loan họ vẫn sử dụng chữ phồn thể rất tốt?
ĐÁP: Trung Quốc từ lâu họ đã không bàn, đặc biệt là năm 2001 người ta đã
hiến định, luật hóa nên họ không bàn nữa.
HỎI: Theo thầy trong nhưng lý thuyết về ngôn ngữ học xã hội thì những lý
thuyết nào thầy thấy hữu dụng nhất để áp dụng vào nghiên cứu trường
hợp Trung Quốc hay trường hợp Việt Nam?
ĐÁP: Nhiều lắm. Bởi vì nghiên cứu các vấn đề ở tầm vĩ mô, ngôn ngữ học xã
hội có ngôn ngữ học xã hội vĩ mô. Vĩ mô chính là nghiên cứu xây dựng
các cơ sở khoa học cho quốc gia hoạch định các chính sách về ngôn
ngữ, đương nhiên cái đó là quan trọng và hiện nay các nước đều chú
trọng. Như ở Việt Nam nó phục vụ trực tiếp cho các chính sách của
Đảng và nhà nước và ở Trung Quốc cũng vậy. Ngôn ngữ học xã hội
giải quyết các vấn đề về lý thuyết và các vấn đề về chuẩn hóa chữ Hán,
chuẩn hóa tiếng Việt, đấy là vấn đề vĩ mô. Còn vi mô nghiên cứu về các
vấn đề giao tiếp, các vấn đề vay mượn.
CCS [ 45 ]
HỎI: Theo thầy ở Trung Quốc thì mức độ quan tâm của giới học thuật Trung
Quốc đến vấn đề tiếp xúc Hán – Việt như thế nào?
ĐÁP: Nói thêm về vấn đề ngôn ngữ học xã hội Trung Quốc, Trung Quốc
nghiên cứu nhiều. Trung Quốc nghiên cứu hàng loạt các vấn đề mà chỉ
có ngôn ngữ học xã hội giải quyết được như ngôn ngữ trong quảng cáo,
ngôn ngữ trên truyền hình, giải quyết vấn đề văn tự, những cái đó là của
ngôn ngữ học xã hội. Còn vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ Hán việt vẫn là cả
một vấn đề mà Trung Quốc đang nghiên cứu. Hiện nay ở Đại học Bắc
Kinh có giáo sư Trần Bảo Á và một số tác giả khác vẫn nghiên cứu về
vấn đề này, ví dụ như họ vẫn tiếp tục nghiên cứu tiếp xúc Hán với các
ngôn ngữ khác, trong đó có Hán Việt. Ví dụ như con đường tơ lụa của
Trung Quốc cũng là quá trình nảy ra các tiếp xúc tiếng Hán với các
ngôn ngữ dân tộc thiểu số, tiếp xúc Hán Việt đặt trong các mối quan hệ
đó. Bây giờ họ nghiên cứu tiếp xúc tiếng Hán với các ngôn ngữ châu
Âu, với tiếng Anh, cũng như Việt Nam. Cho nên vấn đề Hán Việt vẫn
được quan tâm. Đặc biệt một số học giả còn chú ý đến các vấn đề
phương ngữ Hán mà có thể liên quan đến Hán Việt. Ví dụ Bình thoại
một loại phương ngữ ở vùng Quảng Tây, rất gần với dân tộc Hán.
HỎI: Thầy có quan tâm nghiên cứu cái đấy không ạ?
ĐÁP: Cái đấy tôi có biết.
HỎI: Trong quá trình trao đổi với các giáo sư Trung Quốc có tiếp xúc Hán
Việt, thầy thấy vấn đề nổi bật nào thường được trao đổi nhất và có nảy
sinh tranh luận không ạ?
ĐÁP: Nảy sinh thì chưa nảy sinh. Chúng ta biết rằng tiếng Hán vốn là ở
phương Bắc. Ở Trung Quốc thường nói là lấy sông Trường Giang, 长江
以北,长江以南 và người Hán bắt đầu từ phương Bắc và khi người
Hán thực hiện các cuộc di dân xuống Phía Nam thì tạo ra các cuộc tiếp
xúc tiếng Hán với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số, đó là những vấn đề rất
lớn và nó liên quan đến nhiều chuyện và phải tiếp tục nghiên cứu.
CCS [ 46 ]
Nhưng tiếp xúc Hán Việt bắt đầu từ khi nào và tiếp xúc tiếng Việt với
tiếng Hán thời đó như thế nào? Đó là những vấn đề thuộc về lịch sử và
phải có nhiều chứng cứ mới có thể làm được, còn chúng ta mới nói
được tầm chung chung thôi.
HỎI: Hiện nay trong quan điểm nhìn nhận cụ thể về quá trình diễn biến và
các nội dung cụ thể của tiếp xúc giao lưu Hán Việt thì giữa các học giả
Trung Quốc cũng như học giả Việt Nam và thầy thì có một tương đồng
nhất định trong các quan điểm?
ĐÁP: Thực ra trong các nghiên cứu của người ta và chúng ta mới nghiên cứu
cũng như của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, giáo sư nghiên cứu về lịch sử
tiếp xúc Hán Việt. Thực ra người ta vẫn nghiên cứu xuất phát từ thực tế
từ ngữ Hán Việt đang tồn tại. Còn nếu như gắn vấn đề liên quan đến di
dân của người Hán xuống phía Nam, các cuộc tiếp xúc tộc người thì
còn liên quan đến tiếp xúc văn hóa, ngôn ngữ, các vấn đề đó cần phải
tiếp tục nghiên cứu.
HỎI: Trong quá trình nghiên cứu về tiếp xúc giao lưu Hán Việt cũng như
nghiên cứu về ngôn ngữ tộc người Trung Quốc thì cách thức thầy thu
thập tư liệu, tìm kiếm các nguồn tư liệu và đi thực tế điền dã như thế
nào ạ?
ĐÁP: Cái này có nhiều khó khăn, tôi cũng có nhiều cuộc nghiên cứu điền dã
nhưng chủ yếu dựa vào nghiên cứu sách vở là nhiều, mình không có
điều kiện làm những cuộc điều tra đi về các vùng phương ngữ Trung
Quốc. Ví dụ như Trung Quốc nhắc đến Bình thoại, nếu mình muốn đi
nghiên cứu điền dã thì phải có phương tiện, điều kiện để thực hiện,
ngay cả những người nghiên cứu ngôn ngữ học Trung Quốc cũng gặp
khó khăn.
HỎI: Thế còn các tư liệu thư tịch sách vở thì nguồn ở đâu ạ?
ĐÁP: Nguồn thì tôi phải tự tìm, từ tư liệu thực tế.
CCS [ 47 ]
HỎI: Các lý thuyết phương Tây thầy phải sử dụng sách tiếng Anh, thế còn
nguồn sách tiếng Trung ạ?
ĐÁP: Sách tiếng Trung cũng có, tức là chúng ta phải tìm từ nhiều nguồn tư
liệu khác nhau.
HỎI: Em xin hỏi thêm là trong giới nghiên cứu ở Việt Nam thầy chịu ảnh
hưởng hay tiếp nhận quan điểm nghiên cứu của ai nhiều nhất ạ?
ĐÁP: Câu trả lời cũng khó, nói có thể không khiêm tốn nhưng có lẽ là ở mức
độ đọc các sách của các tác giả đi trước và tìm thấy trong đó những
điểm tiếp thu được. Ví dụ như các tác giả Nguyễn Tài Cẩn cùng việc
đọc các nghiên cứu của các tác giả đi trước nữa.
HỎI: Thầy có tiếp thu lý thuyết từ phương Tây qua các sách vở tiếng Anh,
thầy được đào tạo ở Nga, Trung Quốc, vậy thầy có so sánh tương đối
nào đấy về nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội mà đối tượng là Trung
Quốc ở cả ba cái nền học thuật đó được không ạ?
ĐÁP: Thực ra nếu nói về nghiên cứu Hán học ở Liên Xô trước đây thì cực
mạnh, ở đấy có những nhà Hán học rất nổi tiếng, ví dụ như Viện trưởng
Viện ngôn ngữ học và vợ là Giáo sư, Viện sĩ Xôn-xép, và rất nhiều tác
giả nghiên cứu về tiếng Hán.
HỎI: Thầy có một cái nhìn nhận so sánh một cách tương đối giữa ba nền Hán
học đấy?
ĐÁP: Không thể làm so sánh được. Mỗi một trường phái có cách tiếp cận,
cách nghiên cứu khác nhau. Phương Tây có cái mạnh của phương Tây,
Nga có cái mạnh của Nga, Trung Quốc có cái mạnh của Trung Quốc.
Mình có gắng học hỏi còn để so sánh thì không so sánh được.
HỎI: Theo thầy với hướng nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội và đối tượng là
ngôn ngữ Trung Quốc và tiếp xúc Hán Việt, theo thầy nên sử dụng lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu của ngành học thuật nào thì sẽ hiệu
quả hơn ạ?
CCS [ 48 ]
ĐÁP: Ngôn ngữ học xã hội xuất phát từ phương Tây và nó liên quan đến
chính trị cho nên chúng ta phải tiếp thu một cách có chọn lọc và ứng
dụng một cách phù hợp. Các vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa liên
quan đến các yếu tố xã hội cho nên tất cả cái đó đều phải đặt trong
nghiên cứu một cách thận trọng, khoa học, phù hợp.
HỎI: Nhưng nếu với đối tượng Trung Quốc và giao lưu Trung Quốc Việt
Nam thì thầy có thể nói rõ hơn là cần phù hợp như thế nào?
ĐÁP: Tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa Trung Quốc có ba mảng mà người ta quan
tâm là tiếp xúc Hán – Việt, tiếp xúc Hán – Nhật, tiếp xúc Hán – Triều.
Những cái đó khá điển hình, khá nổi cho nên ở Nhật, Triều Tiên và một
số nước khác nghiên cứu cái này nhiều. Tôi đọc một luận án tiến sỹ ở
bên Nga, họ đối chiếu 3500 chữ âm cổ của Hán – Hàn, Hán – Việt, Hán
– Triều, Quảng Châu…, rất nhiều cho nên cái này không chỉ ngôn ngữ
học xã hội mà nó nghiên cứu nhiều hướng như cấu trúc luận, nghiên
cứu theo hướng ngôn ngữ học lịch sử… Vì đây là một cuộc tiếp xúc lớn
và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố ngôn ngữ xã hội.
HỎI: Giống như trong cuộc phỏng vấn lần trước thầy cũng có nói là cần phải
có tính liên ngành trong các vấn đề về tiếp xúc ngôn ngữ phải không ạ?
ĐÁP: Đúng. Bản chất ngành nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội khác so với các
ngành khác là vì khi nói ngôn ngữ học xã hội rõ ràng là nó kết hợp giữa
ngôn ngữ học và xã hội học, ngôn ngữ học tâm lý kết hợp với tâm lý
học với ngôn ngữ học, ngôn ngữ học dân tộc kết hợp giữa ngôn ngữ học
và dân tộc học, xu hướng nghiên cứu liên ngành là một tất yếu.
HỎI: Theo thầy thì Việt Nam mình đã thực hiện điều đó như thế nào?
ĐÁP: Việt Nam hiện nay nghiên cứu vấn đề đó nhiều, hậu cấu trúc phát triển
mạnh nên Việt Nam đã vận dụng cái đó trong nhiều nghiên cứu.
HỎI: Em quay trở lại một chút là lúc đầu thầy nói chủ đề nghiên cứu ngôn
ngữ dân tộc ở Trung Quốc, thầy viết giáo trình cho chuyên ngành Trung
Quốc học, thì thầy có dự định xuất bản thành sách không ạ?
CCS [ 49 ]
ĐÁP: Tôi không biết nữa, trước kia nghiệm thu rất tốt và mọi người định xuất
bản nhưng sau đó không thấy ai nói gì tôi cũng không biết.
HỎI: Hiện nay thầy còn phụ trách chuyên đề đấy ở trong chuyên ngành
không?
ĐÁP: Còn. Tôi vẫn dạy hàng năm.
HỎI: Em muốn hỏi thêm một chút là trong quá trình thầy giảng dạy môn đấy
theo thầy thì tầm quan trọng của môn học đấy đối với sinh viên Trung
Quốc như thế nào ạ?
ĐÁP: Tôi cho rằng “Ngôn ngữ tộc người Trung Quốc” là một môn học rất cơ
bản vì nó liên quan đến dân tộc, đến ngôn ngữ, có thể nói là khái quát
toàn bộ về tình hình ngôn ngữ tộc người ở Trung Quốc và tôi nghĩ nếu
nắm được thì sẽ tạo cơ sở cho các nghiên cứu khác. Tôi vẫn luôn nhấn
mạnh là nghiên cứu về Trung Quốc học hay Nhật Bản học và bây giờ
có Việt Nam học,.. tôi vẫn có cảm giác có lẽ phải tiếp cận thế nào cho
ra Trung Quốc học. Ví dụ như anh sẽ đi dạy về kinh tế Trung Quốc
nhưng không phải dạy kinh tế Trung Quốc như ngành Kinh tế học mà
phải là Kinh tế Trung Quốc từ góc độ Trung Quốc học, dạy ngôn ngữ
Trung Quốc cũng phải từ góc độ Trung Quốc học, dạy văn học hay lịch
sử cũng phải từ góc độ Trung Quốc học. Nhưng tôi cảm giác bây giờ
chúng ta vẫn dạy lịch sử theo kiểu lịch sử Trung Quốc nói chung. Mà
chúng ta biết cái gốc của Trung Quốc học chính là văn hóa và tiếp cận
theo hướng khu vực học. Tôi cảm giác chúng ta đang ghép các môn ấy
lại để thành Trung Quốc học mà tôi thấy chưa thỏa đáng. Ví dụ anh
Kinh tế đến giảng thuần về kinh tế Trung Quốc và giảng ở trường khác
cũng như thế, anh giảng về văn học Trung Quốc thì giảng ở chỗ khác
cũng thế. Tôi nghĩ có lẽ nó phải có một cách tiếp cận của Trung Quốc
học để nhìn nhận ra vấn đề, để người ta nghiên cứu. Khi tôi dạy về
ngôn ngữ tôi bảo tôi không dạy về ngôn ngữ mà cái ngôn ngữ này anh
phải nhìn từ góc độ Trung Quốc học, ẩn đằng sau ngôn ngữ là cái gì thì
anh mới làm ra Trung Quốc học. Hay ngôn ngữ tộc người, ẩn đằng sau
CCS [ 50 ]
ngôn ngữ tộc người là nó nói lên vấn đề gì về Trung Quốc, tôi không
hiểu lắm nhưng nếu dạy kinh tế thì ẩn sau các thành tựu kinh tế cơ bản
của nó là cái gì để giải thích cho các thành tựu đó, đấy mới là Trung
Quốc học. Tất nhiên để đạt được cái đó là cả một quá trình. Nhiều năm
trước tôi thấy các đề tài nghiên cứu không chỉ Trung Quốc học vẫn đi
theo xu hướng nêu cái ta đang có, chúng ta làm Trung Quốc mà kinh tế
Trung Quốc gia nhập WTO, kinh tế Trung Quốc xí nghiệp nhưng chúng
ta vẫn chưa lý giải được. Tôi lấy ví dụ đề tài về các xí nghiệp Trung
Quốc nhưng phải nhìn từ góc độ Trung Quốc học để lý giải các vấn đề
mới rõ được. Như chúng ta lý giải một hiện tượng xã hội về giao thông
thì phải nhìn từ góc độ văn hóa mới lý giải được. Tôi cho rằng hiện nay
Trung Quốc học và tất cả các ngành của Đông Phương học như Trung
Quốc học, Việt Nam học, Nhật Bản học chúng ta vẫn chắp các bộ môn
lại chứ không có một luận điểm về cái đó. Cái đó mới là quan trọng
nhưng để vươn tới cái đó thì cả thầy và trò đều phải cố gắng dù không
hề đơn giản. Tôi nghĩ như thế mới ra ngành Trung Quốc học. Ví dụ dạy
những tác phẩm gần đây của văn học Trung Quốc, phải hiểu tại sao nó
lại xuất hiện các kiểu như thế, đằng sau nó là xã hội Trung Quốc, nó
mới lý giải cấu trúc của tác phẩm có gì tương ứng với cấu trúc xã hội,
như thế nó mới ra được vấn đề.
HỎI: Theo em hiểu thì có phải ngành Trung Quốc học cần một phương pháp
luận riêng cho mình không?
ĐÁP: Đúng thế. Vì cách nhìn của Trung Quốc học là nhìn từ khu vực học. Từ
khu vực học nó nhìn chung cho tất cả các ngành gọi là học đó thì Trung
Quốc học phải có một cái gì đó để phân biệt. Tôi cho rằng phải có một
bàn trao đổi để nghiên cứu về cái đó thì nó mới ra được vấn đề. Và học
sinh ra trường mới có cơ sở để nghiên cứu tiếp.
HỎI: Theo thầy là phải có sự tập hợp giữa các tổ chức nghiên cứu ạ?
ĐÁP: Đại loại thế. Tôi không bàn đến chuyện đó nhưng tôi nghĩ là như thế.
CCS [ 51 ]
HỎI: Em muốn hỏi thầy vấn đề này vì thầy đã có một thời gian làm Chủ
nhiệm bộ môn Trung Quốc học cho nên thầy chắc chắn có quan tâm
đến tương lai phát triển của ngành Trung Quốc học ở Việt Nam.
ĐÁP: Tôi vẫn thấy nó hơi bị chắp vá, cảm giác sự chắp vá hơi lớn, tức là chắp
vá các môn lại. Nói một cách hơi quá là học như thế thì rộng cũng
không đủ rộng mà sâu cũng không đủ sâu. Rộng thì bao nhiêu môn cho
vừa vì Trung Quốc học rất rộng, kiến trúc cũng là Trung Quốc học, văn
hóa, văn nghệ cũng là Trung Quốc học, kinh tế, lịch sử cũng là Trung
Quốc học, môi trường bây giờ cũng là Trung Quốc học. Dạy bao nhiêu
cho vừa, tại sao chọn môn này mà không chọn môn này, vậy môn nào
là cơ bản, môn nào là cơ tầng của Trung Quốc học, và sau đó dạy tiếp
cái gì? Thứ hai, đã là Trung Quốc học tại sao xuất hiện ngành Đông
phương học là vấn đề rất lớn. Vì chúng ta biết rằng Đông phương học
xuất hiện khi phương Tây dĩ Âu vi Trung – lấy Châu Âu làm trung tâm
để nhìn vào phương Đông bằng con mắt của phương Tây. Chúng ta là
người Vi ệt Nam nghiên cứu về Trung Quốc học thì chúng ta cần giải
quyết vấn đề như thế nào? Người Trung Quốc nghiên cứu về Trung
Quốc khác gì với người Vi ệt Nam nghiên cứu về Trung Quốc? Tôi hay
nói đùa là Ta nghiên cứu Ta và Tây nghiên cứu Ta, vậy cơ tầng nó là
cái gì? Nên Đông Phương học phải trở lại vấn đề ngôn ngữ và văn hóa,
nắm văn hóa chính là cốt lõi của nó và cái thứ hai là ngôn ngữ. Nhưng
chúng ta thấy một điểm rất chủ yếu là tiếng Hán của sinh viên chưa đủ
để đọc sách. Không đọc được thì làm sao làm được Trung Quốc học,
cho nên tôi đã nói là ngôn ngữ phải giải quyết trước một bước, năm thứ
hai phải giải quyết tốt về ngôn ngữ và năm thứ ba anh là phải đi sâu đọc
sách nghiên cứu. Ít nhất phải đọc được sách cơ bản và một vài sách gợi
mở thì mới ra được luận văn, không có chỉ có đi chép mà chép cũng
không xong. Nói thế hơi nặng nhưng nó đúng.
CCS [ 52 ]
HỎI: Cũng có thực tế là sinh viên mình có ít thời gian học tiếng Hán, ví dụ
như tiếng Anh học từ phổ thông nhưng mình bây giờ giáo dục phổ
thông hầu như không có ngoại ngữ tiếng Hán.
ĐÁP: Cho nên đây là vấn đề bây giờ phải làm thế nào đó trong hai năm đầu
phải giải quyết được tiếng Hán. Bớt các môn đi, tập trung vào học tiếng
Hán. Hai năm đầu giải quyết được tiếng Hán, năm thứ ba giải quyết
thêm một số môn cơ sở, bắt đầu đi vào các môn chuyên ngành thì mới
có hi vọng. Chứ bây giờ sinh viên không đọc được sách thì không làm
được gì cả.
HỎI: Theo quan điểm cá nhân của thầy thì những môn cơ sở nào mà bộ môn
Trung Quốc học cần có?
ĐÁP: Tôi cho rằng là văn hóa tư tưởng, bởi tư tưởng chi phối, ngay trong
kinh doanh cũng có văn hóa, tư tưởng liên quan đến chính trị, kinh tế,
liên quan đến văn hóa rất nhiều, nên nắm được cái thần của nó rất quan
trọng. Làm thế nào để có được môn như thế để người ta biết được gốc
gác nền tảng, cốt lõi. Một số nơi hiện nay coi nhẹ vấn đề ngôn ngữ, vấn
đề văn hóa là không được bởi vì đấy là những cái rất cơ bản. Tất nhiên
văn hóa ở đây nói theo nghĩa rộng nó bao gồm các nhân sinh quan, tất
cả những tư tưởng và những cái hình thành nên một dân tộc, cái mà
Trung Quốc hay gọi là đặc sắc, cái đó sẽ chi phối anh, giống như một
con người sinh ra trong một gia đình có một tư tưởng, làm cái gì anh
cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng đấy từ câu chào đến ứng xử. Những
nghiên cứu bây giờ tất nhiên là tốt nhưng mới chỉ là nghiên cứu những
cái hiển hiện, những hiện tượng, còn chưa làm sâu được về Trung Quốc
học.
HỎI: Từ quan điểm của một học giả Việt Nam nghiên cứu về các vấn đề
Trung Quốc thì theo thầy tâm thế của một học giả Việt Nam nghiên cứu
các vấn đề Trung Quốc nên có là gì?
CCS [ 53 ]
ĐÁP: Tôi nghĩ còn một cái nữa là muốn nghiên cứu được người thì trước hết
phải hiểu mình, nên những gì của Việt Nam phải hiểu tương đối. Ta
nghiên cứu ta thì ta biết được ta là gì, nhưng ta nghiên cứu người thì
anh phải có được cả hai cái: của anh và của họ. Đó là một thách thức rất
lớn cho những người nghiên cứu. Chúng ta dễ dàng nhận thấy đọc các
khóa luận, luận văn của các em hoặc theo chiều này, hoặc theo chiều
kia vì anh chưa có một chỗ đứng, chưa có cái gọi là 立足点 để nhìn
nhận, nên anh hay thái quá về cái này, về cái kia. Mà điều này rất phù
hợp với câu nói của Trung Quốc và Việt Nam là “biết người biết ta”.
Mình chưa biết rõ mình là ai lắm thì đã phải lo nhận biết về người, tâm
thế của chúng ta chính là như thế. Khi nghiên cứu đủ độ sâu về một vấn
đề thì nghiên cứu cái kia chắc chắn sẽ tốt hơn. Đòi hỏi như thế với sinh
viên quá khó nhưng nhiều khi chúng ta phải cho dạy, chúng ta có dạy
một vài môn nhưng chưa đủ.
HỎI: Em xin hỏi một câu cuối cùng, nhìn tổng thể ngành Trung Quốc học
hiện nay ngoài những điều thầy vừa nói thì theo thầy cần tập trung vào
những phương hướng nghiên cứu chính nào?
ĐÁP: Trung Quốc học ở Việt Nam, nói thế quá rộng vì nó còn căn cứ vào
mục đích và nhiệm vụ. Ví dụ như những Trung tâm nghiên cứu về
chính trị nó sẽ có hướng nghiên cứu khác. Ví dụ Nga có cả một Viện
Viễn Đông nghiên cứu rất nhiều vấn đề, lại có cả Viện Phương Đông.
Tôi chỉ nói về cơ bản, ví dụ như ở trong trường chúng ta quan trọng
nhất là đào tạo làm sao cho anh có được cái cơ bản để khi ra trường mới
hòa nhập được, ví dụ như ra làm chính trị, kinh tế đều được. Một vấn đề
rất quan trọng là xây dựng cho các em một kiến thức hết sức nền tảng
nhưng không phải kiến thức nhặt chắp lại của các chuyên ngành. Không
phải dạy lịch sử Trung Quốc chỉ là dạy về Tần Thủy Hoàng là ai, vào
thời nào, mà phải nhìn tư tưởng xuyên suốt đằng sau từ thời Tần Thủy
Hoàng đến bây giờ là gì, người dạy sử cần phải dạy như thế. Hay tiếng
Hán đặc điểm là gì, ẩn sau các cấu trúc nói của người Hán như vậy thì
CCS [ 54 ]
tư duy của họ là cái gì, đấy là cái quan trọng. Ví dụ có một tác giả
phương Tây nghiên cứu về câu “如果.......就”, bà nói tại sao người
phương Đông lại đưa ra điều kiện nhân quả trong khi phương Tây họ
bao giờ cũng dùng If đằng sau, ví dụ “Tôi sẽ đến nếu như trời không
mưa”. Còn người Trung Quốc, người Vi ệt Nam lại nói “nếu như trời
không mưa thì tôi sẽ đến”. Tại sao văn hóa phương Đông lại luôn nói
có cái này thì tôi mới thế này, bà có nói rất sợ tư duy của người phương
Đông. Đấy là một lối tư duy, tư duy này liên quan đến rất nhiều vấn đề
như ký kết hợp đồng kinh tế, các vấn đề ngoại giao…, giải quyết được
vấn đề này mới là quan trọng. Không phải dạy ngôn ngữ là cứ dạy cấu
trúc “如果.......就” là xong, mà phải chỉ ra cấu trúc này phản ánh tư duy
của con người như thế nào. Tại sao tư duy phương Đông luôn đặt điều
kiện lên trước rồi sau đó mới đến kết quả mà trong khi đó phương Tây
đặt kết quả lên đầu, điều kiện đằng sau. Người phương Tây nói “Sẽ là
rất vui nếu như bạn đến thăm”, mình thì nói “Bạn mà đến chơi thì tôi
vui lắm!”. Tôi nghĩ có lẽ mình phải suy nghĩ được như thế, nắm được
cái cốt lõi thì nghiên cứu sẽ tốt hơn. Cũng như con người có một cái
trục người ta xoay quanh trục đó để phát triển.
HỎI: Em cảm ơn thầy rất nhiều ạ!
CCS [ 55 ]
Thông tin cá nhân/ Personal information/
受訪者資料
Người được phỏng vấn/Informant/訪談者: GS.TS Nguyễn Văn Khang
Quốc tịch/Country of origin/國籍:
Giới tính/Gender/性別:
Ngày tháng năm sinh/Date of birth/出生日期: 1951 tại Sơn Tây
- Cử nhân (1972): tốt nghiệp Trường Đại học Hà Nội (trước là Đại học Ngoại ngữ Hà Nội).
- Sau đó tu nghiệp tại Bắc Kinh Trung Quốc.
- Tiến sĩ (1990): bảo vệ luận án tại Vi ện Đông Phương học, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.
- Phó giáo sư (1996).
- Cao cấp lí luận chính trị (2003).
- Nghiên cứu viên cao cấp (2003)
- Giáo sư (2004).
Quá trình hoạt động:
* tại Viện Ngôn ngữ học:
- Từ năm 1977 đến nay, làm việc tại Vi ện Ngôn ngữ học.
- Đã từng làm việc tại Phòng Từ điển học, Phòng Ngôn ngữ học xã hội.
- Đã từng đảm nhận: Trưởng phòng Phòng Ngôn ngữ học xã hội,
- Hiện nay: Phó Viện trưởng kiêm Trưởng phòng Phòng Quản lí khoa học và đào tạo; Trưởng phòng Ngôn ngữ học xã hội.
* tại các cơ sở khác:
- Kiêm nhiệm tại Trường Đại học KHXHNV, ĐHQG HN (từ 1996-nay).
CCS [ 56 ]
- Uỷ viên Hội đồng khoa học liên ngành Ngôn ngữ-Ngoại ngữ ĐHQG Hà Nội ( từ 2007- nay)
- Giáo sư đào tạo sau đại học chuyên ngành Ngôn ngữ và Văn học Á Phi, Trường Đại học Quảng Tây, Nước CHND Trung Hoa ( bổ nhiệm từ 2006-nay).
- Uỷ viên Hội đồng Chức danh giáo sư ngành ngôn ngữ học (Phó Chủ tịch).
- Phó chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội
- Đã và đang đảm nhận: Tổng thư kí, Phó chủ tịch, Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Hà Nội.
- Ủy viên Hội đồng biên tập tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ & Đời sống, Ngoại ngữ (Đaị học Hà Nội)
Thành tựu học thuật/ Research achievements
Sách/Book/:
1) Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt( chủ biên). Nxb. Văn hoá thông tin, 1996. - tr.: 5-33.
2) Ngôn ngữ học xã hội: Những vấn đề cơ bản . KHXH, 1999. - 340tr ; 19cm.
3) Từ tiếng Việt: Hình thái-cấu trúc-từ láy-từ ghép-chuyển loại (đồng tác giả ), Nxb KHXH, 1998. - 196tr ; 20cm. (tái bản 2007)
4) Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính (chủ biên). Nxb. Văn hoá thông tin, 2000. 256 tr.
5) Tiếng lóng Việt Nam. Nxb, KHXH, 2001. - 235tr ; 19cm.
6) Kế hoạch hoá ngôn ngữ-Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô. Nxb. KHXH, 2003. - 498tr ; 19cm.
7) Từ ngoại lai trong tiếng Việt. NxbGiáo dục, 2007. - 500 ; 19cm.
8) Hệ thống kiến thức tiếng Việt trong trường phổ thông. Nxb. Giáo dục, 2009.
9) Ngôn ngữ-tộc người ở Trung Quốc (cho ngành Trung Quốc học; sắp xuất bản).
* Từ Điển:
10) Từ điển tiếng Việt ( đồng tác giả; Hoàng Phê chủ biên). Nxb. KHXH, 1988. - 1206tr ; 23cm. (liên tục tái bản đến 2007).
11) Từ điển yếu tố Hán-Việt thông dụng (đồng tác giả ). Nxb. KHXH, 1991. - 492tr ; 21cm.
12) Từ điển thành ngữ Việt Nam(đồng tác giả ). Nxb. Văn hoá, 1993. - 679tr ; 21cm.
CCS [ 57 ]
13) Từ điển bậc thang Anh-Việt (đồng tác giả). Nxb. Thế giới, 1993. - 710tr. ; 12cm.
14) Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán (đồng tác giả ). Nxb. Văn hóa , 1994. - 392tr ; 20cm; (tái bản năm 1997).
15) Từ điển từ láy tiếng Việt (đồng tác giả ). NXb. Giáo dục, 1994. - 608tr ; 15cm; (tái bản năm 1998 có sửa chữa và bổ sung).
16) Từ điển tiếng Việt thông dụng (đồng tác giả ). Nxb. Giáo dục, 1996. - 1326tr ; 21cm; (Tái bản 1997, 2002).
17) Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt (đồng tác giả). Nxb. Giáo dục, 1995. - 731tr ; 21cm; (tái bản năm 1997).
18) Từ điển địa danh nước ngoài (đồng tác giả). Nxb.: Văn hoá thông tin, 1995. - 435tr ; 19cm.
19) Đại từ điển tiếng Việt ( đồng tác giả ). Nxb. Văn hoá thông tin, 1999. - 1991tr ; 26cm.
20) Từ điển đồng âm tiếng Việt (đồng tác giả ). Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998. - 651tr ; 19cm; (tái bản năm 2001).
21) Từ điển thành ngữ tục ngữ Hoa-Việt(chủ biên). Nxb. KHXH, 1998. - 405tr ; 19cm.
22) Từ điển đầu tiên của tôi: Từ điển Anh-Việt bằng tranh. Nxb. Văn hoá thông tin, 2000.
23) Từ điển Nhật Việt-các từ Hán trong tiếng Nhật (chủ biên) Nxb. Thế giới, 2000. - 894tr ; 24cm.
24) Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông . Nxb. KHXH, 2003. - 659tr ; 19cm.
25) Từ điển Mường-Việt (chủ biên). Nxb. : Văn hoá dân tộc, 2002. - 556tr ; 24cm.
26) Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt-Hán. Nxb. KHXH, 2007. - 573tr ; 19cm.
Bài nghiên cứu/Papers/:
1. Chức năng ngữ nghĩa về trật tự của các yếu tố trong các cặp tổ hợp ghép đẳng lập tương ứng (AB/BA) : BCKH / Nguyễn Văn Khang // HNKH cán bộ trẻ lần thứ hai. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1980.
2. Khả năng kết hợp kiểu ’vui tính, mát tay’ trong tiếng Việt : BCKH, Hội nghị ngôn ngữ học toàn quốc, 1979 / Nguyễn Văn Khang // Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ. T.2. - H. : KHXH, 1981. - tr.: 78-82.
CCS [ 58 ]
3. Bước đầu tìm hiểu đặc điểm du nhập của các yếu tố Hán Việt / Nguyễn Văn Khang // Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1986. - tr.: 251-254.
4. Thử tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong pháp luật / Nguyễn Văn Khang // Tạp chí Pháp chế xã hội chủ nghĩa. - 1987. - số 1.
5. Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ / Hoàng Văn Hành (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Khắc Hùng, Lê Văn Trường.... - H. : KHXH, 1988. T.1.: 111tr ; T.2.: 174tr ; 19cm.
6. Từ điển tiếng Việt / Hoàng Phê (chủ biên), Bùi Khắc Việt, Chu Bích Thu, Đào Thản,.... - H. : KHXH, 1988. - 1206tr ; 23cm. (Tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 1992, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 2000, 2001, 2002, 2003,...2007).
7. Về mối quan hệ tương ứng ngữ âm-ngữ nghĩa giữa các yếu tố từ vựng tiếng Việt trong đó có yếu tố là Hán Việt / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á. - H. : KHXH, 1988. - tr.: 89-94.
8. Về đặc điểm ngữ nghĩa của các yếu tố Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại / Nguyễn Văn Khang // Cái mới trong nghiên cứu tiếng Việt và các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á. - M. - 1989. - tr.: 147-148. (Bằng tiếng Nga).
9. Nghiên cứu yếu tố gốc ngoại trong tiếng Việt hiện đại ở bình diện ngữ nghĩa (trên cơ sở yếu tố Hán Việt) : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội nghị lần thứ 5 các nước XHCN về những vấn đề lí thuyết của ngôn ngữ phương Đông. Praha, năm 1990. - 1990. (Bằng tiếng Nga).
10. Từ điển yếu tố Hán-Việt thông dụng / Hoàng Văn Hành (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Lê Xuân Thại,.... - H. : KHXH, 1991. - 492tr ; 21cm.
11. Đọc sách ’Từ điển Trung-Việt’ (Nxb Khoa học xã hội, HN, 1992) / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Tân // Ngôn ngữ. - 1992. - số 4. - tr.: 58-61.
12. Vai trò của một số nhân tố ngôn ngữ-xã hội trong việc hình thành nghĩa của các yếu tố Hán Việt / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 1992. - số 4. - tr.: 35-43.
13. Cẩm nang giao dịch thương mại Hoa-Anh-Việt / Nguyễn Văn Khang. - H. : Nxb Hà Nội, 1993. - 145 tr ; 19cm.
14. Từ điển bậc thang Anh-Việt / Nguyễn Văn Khang, Vũ Thanh Hương. - H. : Thế giới, 1993. - 710tr. ; 12cm.
15. Từ điển thành ngữ Hoa-Việt / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Như Ý. - H. : Văn hoá, 1993. - 530tr ; 19cm.
16. Từ điển thành ngữ Việt Nam / Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. - H. : Văn hoá, 1993. - 679tr ; 21cm.
CCS [ 59 ]
17. Từ thực tế giảng dạy tiếng Việt ở một vùng dân tộc không có chữ viết, góp thêm một cái nhìn về dạy-học tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc ít người / Nguyễn Văn Khang // Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. - H. : KHXH, 1993. - tr.: 178-189.
18. Bình diện văn hoá xã hội ngôn ngữ học của các thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt / Nguyễn Văn Khang // Văn hoá dân gian. - 1994. - số 1.
19. Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ : Trên 300 thành ngữ, tục ngữ / Hoàng Văn Hành (chủ biên); Nhóm biên soạn: Nguyễn Như Ý, Phan Xuân Thành, Mai Xuân Huy,.... - Tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa. - H. : KHXH, 1994. - 382tr ; 19cm.
20. Từ Hán Việt và vấn đề dạy-học từ Hán Việt trong nhà trường phổ thông / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 1994. - số 1. - tr.: 24-33.
21. Sức sống của từ Hán Việt và tác dụng hai mặt của chúng đối với người Vi ệt Nam học tiếng Hán / Nguyễn Văn Khang // Nghiên cứu Đông Nam Á. - 1994. - số 4.
22. Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán : Khoảng 25.000 đơn vị / Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. - H. : Văn hóa , 1994. - 392tr ; 20cm; (Tái bản năm 1997).
23. Từ điển từ láy tiếng Việt : Hơn 5000 đơn vị định nghĩa và 7000 câu trích / Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang, Phạm Hùng Việt,.... - H. : Giáo dục, 1994. - 608tr ; 15cm; (Tái bản năm 1998 có sửa chữa và bổ sung).
24. Về cách ghi phiên âm tiếng Mường trong Đẻ đất đẻ nước và những vấn đề đặt ra khi làm chữ Mường : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Kỉ yếu ’Trao đổi khoa học về chữ Mường’. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1994. - tháng 5.
25. Về dạy môn dịch cho sinh viên chuyên ngữ / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thế Sự // Ngoại ngữ. - 1994. - số 4. - tr.: 34-38.
26. Bảo tồn và phát triển tiếng Mường là bảo tồn và phát triển văn hoá Mường : BCKH / Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang // Hội thảo khoa học 㤺 năm sưu tầm nghiên cứu và phát triển văn hoá Mường’. - 1995.
27. Học vần chữ Mường : Sách thực nghiệm / Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ. - H. : Cục xuất bản, 1995. - 86tr ; 19cm.
28. Hội thoại Mường-Việt-Anh : Sách thực nghiệm / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Như Ý, Bùi Chỉ. - H. : Cục xuất bản, 1995. - 55tr ; 19cm.
29. Ngữ vựng Mường-Việt : Sách thực nghiệm / Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ. - H. : Cục xuất bản, 1995. - 89tr ; 19cm.
CCS [ 60 ]
30. Từ điển địa danh nước ngoài / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thuần. - H. : Văn hoá thông tin, 1995. - 435tr ; 19cm.
31. Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt / Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hoàng Văn Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang,.... - H. : Giáo dục, 1995. - 731tr ; 21cm; (Tái bản năm 1997).
32. Hội thoại Hoa-Anh-Việt / Nguyễn Văn Khang. - H. : Văn hoá thông tin, 1996. - 118tr ; 19cm.
33. Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Vi ệt / Nguyễn Văn Khangchủ biên// )H. : Văn hoá thông tin, 1996. - tr.: 5-33.
34. Nghi thức lời nói trong giao tiếp gia đình người Vi ệt / Nguyễn Văn Khang // ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt (Nguyễn Văn Khang chủ biên). - H. : Văn hoá thông tin, 1996. - tr.: 5-33.
35. Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ gia đình người Vi ệt / Nguyễn Văn Khang // ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt (Nguyễn Văn Khang chủ biên). - H. : Văn hoá thông tin, 1996. - tr.: 176-188.
36. Sự tích thành ngữ / Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Công Đức. - Đồng Nai : Nxb Đồng Nai, 1996. - T.1: 173tr.; T.2: 170tr ; 19cm.
37. Từ điển tiếng Việt thông dụng / Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. - H. : Giáo dục, 1996. - 1326tr ; 21cm; (Tái bản 1997, 2002).
38. Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc / Hoàng Văn Hành, Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Khang,... tuyển chọn, biên tập. - H. : KHXH, 1997. - 219tr ; 19cm.
39. Đối chiếu song ngữ Hán Việt ở bình diện từ vựng ngữ nghĩa trong mối liên hệ với các đơn vị từ vựng Hán Việt tương đương : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo khoa học ’Nghiên cứu so sánh đối chiếu các ngôn ngữ’, ngành Ngôn ngữ học. - 1997.
40. Giáo trình tiếng Việt với vấn đề dạy tiếng Việt nhìn từ góc độ giao tiếp / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. - H. : ĐHQG Hà Nội, 1997. - tr.: 116-119.
41. Từ điển học với việc xây dựng cuốn từ điển pháp luật ở Việt Nam / Nguyễn Văn Khang // Kết quả thực hiện đề tài xác định nhu cầu đối với một cuốn từ điển luật bằng tiếng Việt hay một cuốn từ điển bằng tiếng Việt Anh Pháp (Dự án VIE 003, 1997, đã nghiệm thu, Bộ Tư pháp). - 1997. - tr.: 5-18.
42. Những biến động trong tiếng Việt dưới tác động của bối cảnh đổi mới / Nguyễn Văn Khang // Xây dựng và phát triển các ngôn ngữ quốc gia trong khu vực. Thông tin Khoa học xã hội - chuyên đề. - 1998. - tr.: 71-92.
CCS [ 61 ]
43. Sử dụng từ ngữ nước ngoài và hướng chuẩn hoá chúng trong tiếng Việt: BCKH / Nguyễn Văn Khang // Kỉ yếu Hội thảo khoa học Ngôn ngữ học ứng dụng. - 1998.
44. Từ điển Anh-Việt: toán và tiền tệ / Nguyễn Văn Khang, Đặng Thị Hạnh. - H. : Thế giới, 1998. - 240tr ; 15cm.
45. Từ điển đồng âm tiếng Việt : Giải thích khoảng 7 000 từ / Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành. - Tp.HCM : Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998. - 651tr ; 19cm; (Tái bản năm 2001).
46. Từ điển thành ngữ tục ngữ Hoa-Việt / Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Nguyễn Thế Sự, Hong Zhaoxiang, Nguyễn Thị Tân. - H. : KHXH, 1998. - 405tr ; 19cm.
47. Từ tiếng Việt: Hình thái-cấu trúc-từ láy-từ ghép-chuyển loại / Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang. - Tp.HCM : KHXH, 1998. - 196tr ; 20cm.
48. Vấn đề chính tả tiếng Việt cho các đơn vị từ vựng nước ngoài và gốc nước ngoài trên sách báo tiếng Việt / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt & các ngôn ngữ dân tộc thiểu số của Việt Nam. - H. : Viện Ngôn ngữ học, 1998. - tr.: 204-215.
49. Về cách xử lí các đơn vị từ vựng nước ngoài trong tiếng Hán / Nguyễn Văn Khang // Xây dựng và phát triển các ngôn ngữ quốc gia trong khu vực. Thông tin Khoa học xã hội-chuyên đề. - 1998. - tr.: 132-143.
50. Về những từ gọi là từ láy Hán Việt / Nguyễn Văn Khang // Từ láy-những vấn đề còn để ngỏ. - H. : KHXH, 1998. - tr.: 74-90.
51. Đại từ điển tiếng Việt / Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành biên soạn. - Tp.HCM : Văn hoá thông tin, 1999. - 1991tr ; 26cm.
52. Giáo trình tiếng Hán : (chuyên ngành Khoa học xã hội và nhân văn) / Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Hoàng Công Anh, Nguyễn Thị Ngọc Hoa. - H. : ĐH KHXH và NVQG - ĐHQG Hà Nội, 1999. - 161tr.
53. Tiếng Hán ở Việt Nam hiện nay với tư cách là một ngoại ngữ / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 1999. - số 7. - tr.: 46-53.
54. Ngôn ngữ học xã hội: Những vấn đề cơ bản / Nguyễn Văn Khang. - H. : KHXH, 1999. - 340tr ; 19cm.
55. Tiếng Việt trên báo trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Tp.HCM : Viện Ngôn ngữ học-Hội ngôn ngữ học Tp.HCM; ĐH KHXH và NV Tp.HCM, 1999. - tr.: 53-58.
CCS [ 62 ]
56. Vấn đề sử dụng từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt hiện nay / Nguyễn Văn Khang // ’Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt’ (1999) trình Cố vấn Phạm Văn Đồng. - 1999.
57. ’Ngôn ngữ hành chính’ của Robert Charrow & Veda Charrow : giới thiệu / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính (Nguyễn Văn Khang chủ biên). - H. : Văn hoá thông tin, 2000. - tr.: 200-207.
58. Chuẩn hoá tiếng Việt: từ những thách thức của đời sống xã hội đối với chuẩn hoá thuật ngữ và chính tả / Nguyễn Văn Khang // Chuẩn hoá và phong cách ngôn ngữ. Thông tin Khoa học xã hội-chuyên đề. - 2000. - tr.: 42-64.
59. Chuẩn hoá thuật ngữ, nhìn lại từ góc độ bối cảnh xã hội / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 2000. - số 1. - tr.: 46-54.
60. Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt/ Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 2000. - số 10. - tr.: 70-76.
61. Quy hoạch ngôn ngữ ở nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ & đời sống. - 2000. - số 10. - tr.: 15-17.
62. Song phương ngữ ’đa phương ngữ’: xu hướng phổ biến hiện nay trong giao tiếp tiếng Việt : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Pan-Asiatic linguistic: Abstracts of the fifth International Symposium on languages and linguistics HCM City. - 2000. - tháng 11.
63. Sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội tương tác / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính (Nguyễn Văn Khang chủ biên). - H. : Văn hoá thông tin, 2000. - tr.: 80-104.
64. Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính: (thay ’Lời nói đầu’) / Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính (Nguyễn Văn Khang chủ biên). - H. : Văn hoá thông tin, 2000. - tr.: 5-12.
65. Từ điển đầu tiên của tôi: Từ điển Anh-Việt bằng tranh / Nguyễn Văn Khang. - H. : Văn hoá thông tin, 2000.
66. Từ điển Nhật Việt-các từ Hán trong tiếng Nhật / Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Hoàng Anh Thi, Lê Thanh Kim. - H. : Thế giới, 2000. - 894tr ; 24cm.
67. Xuyên văn hoá với dạy-học ngoại ngữ / Nguyễn Văn Khang // Thành tố văn hoá trong dạy-học ngoại ngữ. - H. : Hội Ngôn ngữ học Việt Nam-ĐH Ngoại ngữ Hà Nội, 2000. - tr.: 287-290.
68. Chính sách của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong lĩnh vực ngôn ngữ (những cơ sở khoa học) : Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước / Lý Toàn Thắng (chủ nhiệm), Vũ Bá Hùng, Nguyễn Văn Khang,..., 2001. - 158tr. (Đã nghiệm thu).
CCS [ 63 ]
69. Language standardization in the information age: the case study of the vietnamese language / Nguyễn Văn Khang // Language and Society on the Threshold of the new Millennum result and prospect. - Moscow. - 2001.
70. Nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội tiếng Việt / Nguyễn Văn Khang // Lược sử Việt ngữ học tập 1, Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Nxb. Giáo dục. - 2006. (Đã nghiệm thu).
71. Ngôn ngữ-văn hoá Trung Hoa qua cách sử dụng các con số / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ & đời sống. - 2001. - số 1+2. - tr.: 19-22.
72. Âu hoá và Âu mà không hoá: vấn đề của ngữ pháp tiếng Hán / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ & đời sống. - 2001. - số 10. - tr.: 26-32.
73. Tiếng lóng Việt Nam: Đặc điểm tiếng lóng Việt Nam- Từ điển từ ngữ lóng tiếng Việt / Nguyễn Văn Khang. - H. : KHXH, 2001. - 235tr ; 19cm.
74. Tiếng Việt trong sự tiếp xúc và tiếp nhận các yếu tố của ngôn ngữ nước ngoài: hiện trạng và dự báo : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo quốc tế về Việt Nam học. - H. : Thế giới, 2001. - tr.: 174-180.
75. Về khái niệm tiếng Hà Nội / Nguyễn Văn Khang // Hà Nội-những vấn đề ngôn ngữ văn hoá. - H. : Văn hoá thông tin, 2001. - tr.: 203-210.
76. Bàn về vị trí ngôn ngữ với tư cách là tiêu chí xác định thành phần dân tộc : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo khoa học liên Viện Dân tộc học và Ngôn ngữ học "Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần tộc người" . - 2002. - tr.: 153-162.
77. Bối cảnh xã hội Vi ệt Nam và vấn đề sử dụng tiếng Hán : BCKH / Nguyễn Văn Khang, Nghiêm Thuý Hằng // Hội thảo quốc tế ’Ngôn ngữ học xã hội Trung Quốc’. - Bắc Kinh. - 2002. (Bằng tiếng Hán)
78. Dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và mở cửa dưới ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ học xã hội : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo khoa học quốc tế ’Giáo dục ngoại ngữ: hội nhập và phát triển’. - 2002. - tr.: 57-61.
79. Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ tại một số trường phổ thông ở vùng dân tộc thiểu số tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo khoa học Việt-Nga về ngôn ngữ học xã hội ’Vị thế của ngôn ngữ quốc gia đa dân tộc đa ngôn ngữ: tiếng Việt ở Việt Nam và tiếng Nga ở Nga’. - 2002. - tr.: 105-138.
80. Một vài nhận xét về từ ngữ tiếng Mường Bi trong sự liên hệ với từ ngữ tiếng Việt / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 2002. - số 6. - tr.: 23-27.
81. Bình diện xã hội ngôn ngữ của vấn đề họ tên trong tiếng Hán / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ & đời sống. - 2002. - số 10. - tr.: 24-28.
CCS [ 64 ]
82. Quy phạm tiếng Hán: kinh nghiệm rút ra đối với chuẩn hoá tiếng Việt : BCKH / Nguyễn Văn Khang // Hội thảo Khoa học ’Bảo vệ và phát triển tiếng Việt trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước’. - Tp.HCM. - 2002. - ngày 28/12. - tr.: 176-182.
83. Tiếng Hán sau đại học (cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn) / Nguyễn Văn Khang. - H. : ĐH KHXH và NV-ĐHQG Hà Nội, 2002. - 146tr.
84. Tiếp cận tiếng Mường từ góc độ ngôn ngữ học xã hội / Nguyễn Văn Khang // Một số vấn đề về cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. - H. : KHXH, 2002. - tr.: 192-227.
85. Từ điển Mường-Việt / Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành. - H. : Văn hoá dân tộc, 2002. - 556tr ; 24cm.
86. Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt-Hoa / Nguyễn Văn Khang. - H. : KHXH, 2002. - 573tr ; 19cm.
87. Từ ngữ nghề nghiệp gốm Bát Tràng : BCKH / Nguyễn Văn Khang, Võ Thu Hà //Hội thảo khoa học ’Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ với tiếng Việt và văn hoá Việt Nam’. - 2002. - tr.: 99-108.
88. Vị thế của tiếng Việt đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam: từ chủ trương, chính sách đến thực tế/ Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 2003. - số 11., tr.-
89. Kế hoạch hoá ngôn ngữ-Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô / Nguyễn Văn Khang. - H. : KHXH, 2003. - 498tr ; 19cm.
90. Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã trong giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở Việt Nam) / Nguyễn Văn Khang // Ngôn ngữ. - 2003. - số 1. - tr.: 13-25.
91. Từ điển cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài: Đề tài cấp Bộ / Lý Toàn Thắng (chủ nhiệm), Nguyễn Văn Khang, Mai Xuân Huy, Hà Quang Năng,..., 2003. - 469tr ; 29cm.
92. Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông / Nguyễn Văn Khang. - H. : KHXH, 2003. - 659tr ; 19cm.
93. Từ ngữ gốm sứ Bát Tràng / Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Mai Xuân Huy, Phạm Tất Thắng, Bùi Thị Minh Yến,..., 2003. - 163tr ; 29cm. (Đã nghiệm thu).
94. Lựa chọn chính tả cho các biến thể từ vựng cùng nghĩa/ Nguyễn Văn Khang // Chính tả tiếng Việt –Thực trạng và giải pháp. 2003 tr. 267-309
95. Giải pháp chính tả đối với nguyên âm /i/: viết y hayi / Nguyễn Văn Khang-Hà Thị Duyên // Chính tả tiếng Việt –Thực trạng và giải pháp. 2003 tr. 310-335.
CCS [ 65 ]
96. Nghiên cứu, xây dựng các quy định về chính tả tiếng Việt: Đề tài cấp Bộ / Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Nguyễn văn Lợi, Nguyễn Thị Thanh Bình, Đoàn Văn Phúc, Mai Xuân Huy, ,..., 2003. - 469tr ; 29cm.
97. Xã hội học ngôn ngữ về giới: kì thị và sự chống kì thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ, t/c Xã hội học,s. 2.2004. tr 25-38
98. Vốn từ tiếng Việt với những hiểu biết, khám phá của Giáo sư Hoàng Văn Hành, t/c Ngôn ngữ,,s. 6,.2004. tr 1-7
99. Một số vấn đề về ngôn ngữ học xã hội và nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội ở Việt Nam, t/c Ngôn ngữ và đời sống, ,s. 1010-tr14 & tr.19
100. Vấn đề từ ngữ nước ngoài trong bối cảnh mới của tiếng Việt hiện nay/ Nguyễn Văn Khang // Tiếng Việt hiện nay và những vấn đề ngôn ngữ học liên ngành,Nxb KHXH, 2005, tr.124-151
101. Những ứng dụng của ngôn ngữ học xã hội/ Nguyễn Văn Khang //TiếngViệt hiện nay và những vấn đề ngôn ngữ học liên ngành. - H. : KHXH, 2005, tr.244-260.
102. Đô thị hoá ngôn ngữ với vấn đề sử dụng ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay/ Nguyễn Văn Khang // t/c Xã hội học, s. 4, 2005, tr 82-88.
103. Vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt/ Nguyễn Văn Khang // t/cDân chủ và Pháp luật, s.1, 2006.
104. 语言的死亡:从安全到不安全(Cái chết của ngôn ngữ: từ an toàn đến không an toàn)/ Nguyễn Văn Khang // Hội tthảo quốc tế về các ngôn ngữ có nguy cơ bị tiêu vong, tại Quảng Tây, Trung Quốc, đăng trong t/c广西民大学 (Quảng Tây đại học báo), s.5, 2006 (bằng tiếng Hán).
105. Việc hiểu và xác định nghĩa của từ đối với học sinh lớp 5 và lớp 9/ Nguyễn Văn Khang // Một số vấn đề ngôn ngữ trong nhà trường, Đề tài cấp Bộ, Nguyễn Đức Tồn chủ nhiệm, Viện Ngôn ngữ học, 2005.
106. Bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết Chăm trong tình mới. Đề tài cấp Bộ / Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Thanh Bình, Bùi Minh Yến, ,..., 2006. gồm hai tập (Báo cáo tổng quan về tình hình tiếng nói chữ viết Chăm: 230tr; Kiến nghị đề xuất đối với tiếng nói chữ viết Chăm trong tình hình mới: 30 tr. ); 29cm.
107. Về cái chết của ngôn ngữ trong thời đại hiện nay/ Nguyễn Văn Khang //, Ngôn ngữ, s. 8, 2006
108. Một số vấn đề về đối chiếu song ngữ Hán- Việt/ Nguyễn Văn Khang // Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu và dạy-học tiếng Hán. -H. : KHXH, 2006. tr.151- tr157
CCS [ 66 ]
109. Suy nghĩ về văn hoá Trung Hoa trong tiến trình hội nhập/ Nguyễn Văn Khang //Văn hoá phương Đông-Truyền thống và hội nhập. -H.: ĐHQG Hà Nội, 2006. tr.503-512.
110. Những vấn đề Ngôn ngữ học xã hội. Đề tài cấp viện/ Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Thanh Bình, Bùi Minh Yến, Nguyễn Thị Kim Loan, 2006.
111. Những vấn đề về Lập pháp ngôn ngữ /Nguyễn Văn Khang Những vấn đề Ngôn ngữ học xã hội. Đề tài cấp viện/ Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Thanh Bình, Bùi Minh Yến, Nguyễn Thị Kim Loan, 2006.
112. Giáo trình tiếng Hán cho ngành văn học. Tập bài giảng, Trường Đại học KHXH vàNV// Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Đỗ Thu Lan - Nguyễn Ngọc Hoa, 2006.
113. Vấn đề ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa// Nguyễn Văn Khang // t/c Nghiên cứu Trung Quốc, 4/2007.
114. Phan Khôi với Vi ệt ngữ nghiên cứu /Nguyễn Văn Khang // t/c Xưa và nay, 9/2007.
115. Một số vấn đề về Từ điển tiếng Việt với Vi ệt ngữ học, Ngôn ngữ và Đời sống, 7/2007
116. Từ ngoại lai trong tiếng Việt/ / Nguyễn Văn Khang // - H. : GD, 2007. - 500 ; 19cm.
117. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học xã hội với phương ngữ học trong tiếp cận phương ngữ với tư cách là đối tượng nghiên cứu/ Nguyễn Văn Khang// Ngôn ngữ, 1/2008.
118. Học tập tấm gương sử dụng ngôn ngữcủa Chủ tịch Hồ chí Minh: Giữ gìn, phát triển nét đẹp truyền thống và hiện đại của ngôn ngữ văn hóa thủ đô/Nguyễn Văn Khang// Ngôn ngữ, 5/2008.
119. Những vấn đề đặt ra về chuẩn hoá địa danh nước ngoài trong tiếng Việt hiện nay/ Nguyễn Văn Khang// t/c Địa chính, số 3+4+5/2008.
120. Chính sách của Đảng và Nhà nước Trung Quốc đối với tiếng Hán với tư cách là ngôn ngữ quốc gia / Nguyễn Văn Khang t/c Nghiên cứu Trung Quốc, 6/2008.
121. Giáo dục ngôn ngữ ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá/ Nguyễn Văn Khang// Hội nghị Quốc tế Việt Nam học, 12/2008; t/c Ngôn ngữ và Đờì sống 6/2009.
CCS [ 67 ]
122. Khảo sát, nghiên cứu vai trò của tiếng nói chữ viết Chăm trong đời sống xã hội Chăm hiện nay: Thực trạng và giải pháp// Nguyễn Văn Khang Đề tài cấp Bộ (đã nghiệm thu)
123. Những vấn đề của chuẩn hoá tiếng Việt. Đề tài cấp viện// Nguyễn Văn Khang (chủ nhiệm), Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thị Thanh Bình, Bùi Minh Yến, Nguyễn Thị Kim Loan, 2007-2008.
124. Đối chiếu Hán - Việt và vấn đề dạy-học tiếng Hán ở Việt Nam// Nguyễn Văn khang- Nguyễn hoàng Anh// Ngôn ngữ học đối chiếu và giao tiếp liên văn hoá trong giảng dạy ngôn ngữ. Viện Ngôn ngữ học và DAAD tại Hà Nội phối hợp tổ chức, 2008.
125. Những vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt//Nguyễn Văn Khang/ t/c Ngôn ngữ, số 12/2008+ 1/2009.
126. 汉语词及变体研究:运用于汉语和越南语作为第二语言教学//Nguyễn Văn Khang/ 汉语/华语教学与研究讨论会(Hội thảo khoa học Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Hán), Trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQG HN phối hợp với Học Viện Ngoại ngữ Văn Tảo Cao Hùng Đài Loan, 2009, tr. 118-132.
127. Ngôn ngữ-tộc người ở Trung Quốc//Nguyễn Văn Khang/ giáo trình cho ngành Trung Quốc học Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN; đã nghiệm thu, 2009)
128. Đọc sách “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích ngữ pháp” //Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ, số 5/2009, tr.76-77.
129. 在越南大学教与学汉语专业的若干问题 ( Một số vấn đề về dạy và học tiếng Hán ở bậc đại học tại Việt Nam hiện nay) //Nguyễn Văn Khang/ Hội thảo khoa học quốc tế 2009 “50 năm giảng dạy và nghiên cứu tiếng Trung Quốc” Trường Đại học Hà Nội cùng Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc phố hợp tổ chức, 2009. tr.177-187.
130. Xung quanh việc dạy tiếng Việt cho sinh viên Trung Quốc// Nguyễn Văn Khang/ Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ văn hoá Việt Nam-Trung Quốc ở Đông Á và Đông Nam Á. (Trường Đại hoc KHXH&NV ĐHQG HN và Trường đại học Quảng Tây phối hợp thực hiện).H. DHQG HN, 2009. tr.273-281
131. 现代越南语中的汉越词及其变体//Nguyễn Văn Khang/ đăng trong t/c广西民大学 (Quảng Tây đại học báo), s.4, 2009 (bằng tiếng Hán).
132. Language situation in the Socia Republic of Vietnam: Vietnamese as the language of intergration Cảnh huống ngôn ngữ ở Việt Nam: tiếng Việt- ngôn ngữ chung //Nguyễn Văn Khang Нгуен Ван Кханг. Функционирование языков в многонациональном государстве: Россия,
CCS [ 68 ]
Вьетнам (Chức năng của các ngôn ngữquốc gia đa dân tộc:Trường hợp Nga và Việt Nam). MOCBA, 2008 , tr. 43- 79 (bằngtiếng Nga).
133. Đọc sách "giáo trình ngôn ngữ học", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 5/ 2009.
134. Một số vấn đề về lập pháp ngôn ngữ //Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ, số 9/ 2009.
135. Đọc Giáo trình Ngôn ngữ học//Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ và Đời sống, số 5/ 2009.
136. Giáo dục ngôn ngữ ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá //Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ và Đời sống, số 6/ 2009.
137. Chính sách ngôn ngữ và vấn đề lập pháp ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay//Nguyễn Văn Khang// Hội thảo toàn quốc "Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì công nghiệp, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế", Hà Nội, 2009.
138. Ngôn ngữ văn hóa Hà Nội hiện nay từ góc nhìn của đô thị hóa // Nguyễn Văn Khang// Hội thảo "Ngữ học toàn quốc", Hà Nội, 2010.
139. Chuẩn hoá tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay // Nguyễn Văn Khang// Hội thảo toàn quốc "Phát triển và Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", Tp. Hồ Chí Minh, 2010.
140. Sự tác động của xã hội đối với ngôn ngữ và những vấn đề đặt ra đối với chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay// Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ, 8.2010.
141. Đối chiếu song ngữ Hán-Việt: Những vấn đề lí luận và thực tiễn // Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ& Đời sống, 8.2010.
142. Chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nuớc Việt Nam qua các thời kì //Nguyễn Văn Khang. Đề tài cấp Bộ, nghiệm thu tháng 12.2010.
143. Tiếng Hà Nội trong quan hệ với tiếng Việt toàn dân//Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ& Đời sống, 1.2011.
144. Chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước về công tác xóa mù chữ//Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ, 7.2011.
145. Từ điển Việt- Hán, Nguyễn Văn Khang (cố vấn và hiệu đính). Nxb Giáo dục Quảng Tây, 2011.
146. Một số vấn đề về đời sống tiếng Chăm ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Văn Khang/ Ngôn ngữ, 1.2012.
Tham gia đào tạo sau đại học
- Tham gia giảng dạy sau đại học tại Vi ện Ngôn ngữ học, Đại học quốc gia Hà Nội và Các cơ sở giáo dục khác.
CCS [ 69 ]
- Đào tạo thạc sĩ:
Tham gia đào tạo thạc sĩ mã ngành: Ngôn ngữ học, Ngôn ngữ và văn hoá Hán, Châu Á học, Ngôn ngữ và văn học Á Phi, Việt Nam học.
Đã hướng dẫn thành công nhiều luận văn thạc sĩ (viết bằng tiếng Việt và bằng tiếng Hán).
- Đào tạo tiến sĩ:
Đã hướng dẫn thành công các luận án tiến sĩ sau:
1) Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt ( NCS. Lê Thanh Kim)
2) Đặc điểm của thuật ngữ điện tử tin học viễn thông tiếng Việt (NCS. Nguyễn Thị Kim Thanh)
3) Đặc điểm tổ hợp ghép song tiết đẳng lập tiếng Việt (NCS. Nguyễn Thị Trung Thành)
4) Thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt ( NCS. Nguyễn Thị Tân)
5) Đặc điểm của thành ngữ tiếng Nhật , trong sự liên hệ với thành ngữ tiếng Việt ( NCS. Ngô Minh Thuỷ)
6) Những đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của trạng thái song ngữ Hoa - Việt ( NCS. Hoàng Quốc)
7) Đặc điểm của thành ngữ so sánh tiếng Hán ,có đối chiếu với tiếng Việt (NCS. Phạm Minh Tiến)
8) Đặc điểm của đối dịch Hán- Việt (NCS. Nguyễn Ngọc Long)
9 ) Đặc điểm của tổ hợp song tiết Hán Việt ( NCS La Văn Thanh, Trung Quốc)
10) Văn hóa ứng xử của người Việt và người Mĩ qua hành vi khen và tiếp nhận lời khen(NCS. Trần Thị Kim Hằng)
11) Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học nhân chủng (NCS Trần Thị Hồng Hạnh).
12) Đối sánh chính sách ngôn ngữ đối với tiếng Melayu ở một số quốc gia Đông Nam Á , trong sự liên hệ với Việt Nam (NCS Lê Minh Hà)
13) Ẩn dụ ý niệm của phạm trù chỉ thực vật trong tiếng Anh và tiếng Việt (Trần Thị Phương Lý)
14) Sự biến động của ngôn ngữ đô thị, trên tư liệu báo Hà Nội Mới ( Nguyễn Thị Kim Loan)
15) Cặp thoại trong hội thoại dạy học (Nguyễn Thị Hồng Ngân)
Các giải thưởng khoa học/Scientific awards:
- Giải thưởng Nhà nước về Khoa học công nghệ (được trao năm 2005 cho
tập thể “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên; đồng tác giả).