TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 1945 - 1954 1) Thành lập Bộ Canh nông năm 1945 Việt Nam là một nước nông nghiệp, muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn cả về phương diện xã hội và phương diện chuyên môn cần phải có một cơ quan tối cao để điều hành, song trong cơ cấu Chính phủ lâm thời ngày 28 tháng 8 năm 1945 chưa có Bộ Canh nông. Vì vậy, sau hai tháng kể từ ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp ngày 14 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị thành lập Bộ Canh nông theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cử ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh Nông. Bộ Canh nông có nhiệm vụ giải quyết nạn đói và soạn thảo một chương trình kiến thiết về kinh tế nông nghiệp và đặt những căn bản đầu tiên cho cuộc kiến thiết ấy (1) . Chỉ hai ngày sau khi có quyết nghị thành lập, ngày 16 tháng 11 năm 1945 Bộ trưởng Cù Huy Cận đã công bố thực hiện hai nhiệm vụ của Bộ: "Bộ Canh Nông vừa mới lập ra sẽ có hai nhiệm vụ hiện tại và tương lai: 1. Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào. 2. Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này” (2) . Để hình thành hệ thống bộ máy quản lý ngành canh nông, trong phiên họp ngày 20 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Canh nông tại mỗi phủ, huyện, châu, xã; quy định nhiệm vụ, quyền lợi của điền chủ, tá điền và nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân đối với điền chủ và tá điền (3) . Căn cứ sự chỉ đạo đó của Chính phủ, Bộ Canh nông đã kiện toàn bộ máy quản lý ngành, yêu cầu ở mỗi tỉnh, phủ, huyện, châu, xã phải thành lập tiểu ban canh nông, phụ trách thực hiện chỉ thị của Bộ trong tăng gia sản xuất cấp tốc. Để triển khai gấp nhiệm vụ cứu đói, ở cấp Trung ương Chính phủ đã lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế theo Sắc lệnh số 67-SL ngày 28 tháng 11 năm 1945. Ủy ban gồm có Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Cứu tế, Bộ trưởng Bộ Canh nông. Ủy ban có toàn quyền hành động để nghiên cứu và thi hành những phương pháp cần thiết về tăng gia sản xuất, tiếp tế, cứu tế nhân dân trong toàn cõi Việt Nam. (1) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1. 1945 - 1954. Sđd, tr. 101. (2) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 79. (3) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005, tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 115.
116
Embed
I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành nông, lâm,
ngư nghiệp thời kỳ 1945 - 1954
1) Thành lập Bộ Canh nông năm 1945
Việt Nam là một nước nông nghiệp, muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn
cả về phương diện xã hội và phương diện chuyên môn cần phải có một cơ quan tối cao để
điều hành, song trong cơ cấu Chính phủ lâm thời ngày 28 tháng 8 năm 1945 chưa có Bộ
Canh nông. Vì vậy, sau hai tháng kể từ ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp ngày 14
tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị thành lập Bộ Canh nông theo đề
nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cử ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không bộ trong Chính
phủ lâm thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh Nông. Bộ Canh nông có nhiệm vụ giải quyết
nạn đói và soạn thảo một chương trình kiến thiết về kinh tế nông nghiệp và đặt những căn
bản đầu tiên cho cuộc kiến thiết ấy(1)
.
Chỉ hai ngày sau khi có quyết nghị thành lập, ngày 16 tháng 11 năm 1945 Bộ trưởng
Cù Huy Cận đã công bố thực hiện hai nhiệm vụ của Bộ: "Bộ Canh Nông vừa mới lập ra sẽ
có hai nhiệm vụ hiện tại và tương lai:
1. Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ
để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào.
2. Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một
nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này”(2)
.
Để hình thành hệ thống bộ máy quản lý ngành canh nông, trong phiên họp ngày 20
tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Canh nông tại
mỗi phủ, huyện, châu, xã; quy định nhiệm vụ, quyền lợi của điền chủ, tá điền và nhiệm vụ
của Ủy ban nhân dân đối với điền chủ và tá điền(3)
. Căn cứ sự chỉ đạo đó của Chính phủ,
Bộ Canh nông đã kiện toàn bộ máy quản lý ngành, yêu cầu ở mỗi tỉnh, phủ, huyện, châu,
xã phải thành lập tiểu ban canh nông, phụ trách thực hiện chỉ thị của Bộ trong tăng gia sản
xuất cấp tốc.
Để triển khai gấp nhiệm vụ cứu đói, ở cấp Trung ương Chính phủ đã lập Ủy ban tối
cao tiếp tế và cứu tế theo Sắc lệnh số 67-SL ngày 28 tháng 11 năm 1945. Ủy ban gồm có
Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Cứu tế, Bộ trưởng Bộ Canh nông. Ủy ban
có toàn quyền hành động để nghiên cứu và thi hành những phương pháp cần thiết về tăng
gia sản xuất, tiếp tế, cứu tế nhân dân trong toàn cõi Việt Nam.
(1)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1. 1945 - 1954.
Sđd, tr. 101. (2)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 79. (3)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,
tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 115.
2
Nhằm tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao
cho Bộ Canh nông, ngày 1 tháng 12 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
69/SL quy định: “Tất cả các cơ quan: Canh nông, Thú y, Mục súc, Ngư nghiệp, Lâm chính
và Nông nghiệp tín dụng (Hợp tác xã và Nông phố Ngân hàng) trong toàn cõi Việt Nam từ
nay thuộc Bộ Canh nông” và giao Bộ trưởng Bộ Canh nông ra nghị định về tổ chức của
Bộ(1)
. Ngay trong ngày hôm đó, trong khi chờ Chính phủ thông qua nghị định chính thức
về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Bộ trưởng Cù Huy Cận đã có Nghị định
số 1, tạm thời quy định tổ chức của Bộ Canh nông, sơ bộ phân công nhiệm vụ cho các cơ
quan chuyên trách các lĩnh vực thuộc Bộ.
Ngày 21 tháng 12 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Cù Huy Cận
trình dự thảo Nghị định về Bộ Canh nông, đồng thời quyết định để Bộ ra thông tư hướng
dẫn thực hiện trong hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương(2)
. Trong những
ngày cuối cùng của năm 1945, Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh gấp rút chuẩn bị cải
tổ Chính phủ cho phù hợp với diễn biến rất phức tạp của cách mạng nước ta.
2) Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý ngành canh nông giai đoạn 1946 - 1947
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, Chính phủ lâm thời được cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đã làm lễ ra
mắt tại Nhà hát thành phố Hà Nội. Thành phần của Chính phủ Liên hiệp lâm thời có 15 bộ
trưởng của 14 bộ và một Bộ trưởng không bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao. Bộ Canh nông quản lý các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, do ông Cù Huy Cận
tiếp tục làm Bộ trưởng(3)
.
Ngay sau khi Chính phủ Liên hiệp lâm thời ra mắt, Bộ Canh nông bắt tay củng cố và
kiện toàn các cơ quan của Bộ. Giúp Bộ quản lý lĩnh vực canh nông lúc này là Viện Canh
nông. Ngày 21 và 25 tháng 1 năm 1946, Bộ trưởng Cù Huy Cận đã trình Chính phủ Dự
thảo Sắc lệnh cải tổ Viện Canh nông. Hội đồng Chính phủ đã quyết định giao Bộ trưởng
Canh nông sửa lại Sắc lệnh, tổ chức Phòng Canh nông - một cơ quan non trẻ của Bộ,
nhưng đặt dưới quyền kiểm soát của Chính phủ và được Chính phủ giúp đỡ. Ngày 30 tháng 1
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 16/SL thiết lập Phòng Canh nông Bắc Bộ
Việt Nam thay cho Phòng Canh nông Bắc kỳ(4)
, quy định Phòng Canh nông Bắc Bộ Việt
Nam được đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ Canh nông, được Chính phủ bảo trợ
(1)
Trong khi đó, lĩnh vực thủy lợi được Chính phủ giao cho Bộ Giao thông Công chính, thành lập theo Tuyên
cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 của Chính phủ; lĩnh vực thu mua, cung cấp lương thực, thực phẩm thuộc Bộ
Kinh tế quốc dân quản lý. (2)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,
tập 1 (1945 - 1954), tr. 133. (3)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,
tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 133, 143 (4)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập I
(1945-1954), Sđd, tr. 144-145, 152, 154, 156, 169-172
về tinh thần và chuyên môn; có nhiệm vụ:
“a) Kinh tế: đặt những đề nghị lên Bộ Canh nông để:
- Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất,
- Tìm kế hoạch để tổ chức một nền kinh tế nông nghiệp quốc dân;
b) Chuyên môn: đặt lên Bộ Canh nông những ý kiến về việc cải cách nông nghiệp;
c) Xã hội: Thành lập những cơ quan tương trợ tư gia giữa nông gia để bảo đảm
quyền lợi của nông giới”(1)
.
Bên cạnh cơ quan quản lý về nông chính và lâm chính của Bộ, Chính phủ còn giao
Bộ quản lý tín dụng. Ngay trong Sắc lệnh số 69/SL ngày 1 tháng 12 năm 1945 của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong Bộ Canh nông có Nha Nông nghiệp tín dụng. Tiếp đó, trong Sắc
lệnh số 79/SL ngày 31 tháng 12 năm 1945 và Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ bãi bỏ Bình dân ngân quỹ tổng cục; các cơ quan và
tài sản của quỹ được tách ra để sáp nhập vào Nha Nông nghiệp tín dụng (do Bộ Canh nông
quản lý) và Nha Kinh tế tín dụng (do Bộ Quốc dân Kinh tế quản lý). Theo đó, Nông nghiệp
tín dụng có 4 quỹ là: (1) Nông phố ngân quỹ; (2) Khai khẩn ngân quỹ; (3) Ngư nghiệp
ngân quỹ; và (4) Tiểu công nghệ nông nghiệp ngân quỹ. Nông nghiệp Tín dụng được tổ
chức theo Nghị định của Bộ Canh nông(2)
, đứng đầu là Thanh tra Nông nghiệp Tín dụng(3)
.
Sau đó, ngày 22 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 32/SL sửa đổi
Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946, giao Ngư nghiệp ngân quỹ cho Kinh tế tín
dụng, không để trong Nông nghiệp tín dụng nữa. Nha Nông nghiệp tín dụng hoạt động đến
năm 1947 thì sáp nhập vào trong Nha tín dụng sản xuất của Chính phủ.
Sau khi cải tổ, Chính phủ Liên hiệp lâm thời đã lãnh đạo cả nước tiến hành Tổng
tuyển cử để bầu Quốc hội lần đầu tiên trong lịch sử nước ta. Ngày 6 tháng 1 năm 1946,
cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ
của nước Việt Nam mới. Hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu; 333 đại biểu đã trúng cử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại Hà Nội và đã trúng với số phiếu cao nhất là 98,4%(4)
.
Ngay sau thắng lợi của Tổng tuyển cử, tình hình nước ta tiếp tục có diễn biến rất
phức tạp. Chiến tranh lan rộng ở Miền Nam, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Quân Pháp bắt
đầu chiếm lại Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và một số nơi khác ở Miền Bắc. Các
thế lực phản động đòi giải tán Chính phủ Liên hiệp lâm thời mới được thành lập để thành
lập ngay Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức, không chờ cuộc họp Quốc hội, phủ nhận
(1)
Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 16/SL ngày 30 tháng 1 năm 1946. (2)
Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 79/SL ngày 31 tháng 12 năm 1945. (3)
Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946. (4)
TTXVN, Văn phòng Chính phủ: Chính phủ Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 37.
4
quyền của Quốc hội. Mặc dù vậy, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên
trì, khéo léo đấu tranh, tích cực chuẩn bị cho kỳ họp thứ nhất của Quốc hội.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, kỳ họp lần thứ I Quốc hội khóa I đã được tổ chức, Chính
phủ một lần nữa được cải tổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời giao
lại quyền cho Quốc hội tổ chức một Chính phủ mới: Chính phủ kháng chiến và kiến quốc
với tên gọi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Trong thành phần Chính phủ ra mắt Quốc
hội tại kỳ họp này có 15 thành viên, do Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Trong đó có 10 Bộ
trưởng của 10 Bộ. Bộ trưởng mới của Bộ Canh nông là ông Bồ Xuân Luật. Tiếp sau đó,
Hội đồng Chính phủ Liên hiệp đã họp các phiên ngày 4 và ngày 8 tháng 3 năm 1946 để cử
Thứ trưởng của các Bộ. Ông Cù Huy Cận được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Canh nông(1)
.
Do yêu cầu của kháng chiến, các thành viên Chính phủ và cán bộ cao cấp của các Bộ
thường xuyên luân chuyển vị trí. Sau một tháng thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng
chiến, đến tháng 4 năm 1946, ông Huỳnh Thiện Lộc được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh
nông, thay cho ông Bồ Xuân Luật nhận công tác khác.
Sau khi thành lập các cơ quan quản lý canh nông, Bộ Canh nông tiếp tục kiện toàn cơ
quan quản lý ngành lâm chính, đáp ứng nhu cầu cấp bách về quản lý và khai thác bảo vệ
rừng, nơi có các căn cứ địa cách mạng, chiến khu trong kháng chiến. Ngày 11 tháng 3 năm
1946, Bộ đã ban hành Nghị định số 81, quy định nhiệm vụ và tổ chức của Nha Lâm chính.
Theo đó, bãi bỏ Nha Thanh tra các Sở Thủy lâm địa phương, chuyển nhân viên, tài sản của
Nha này về Nha Lâm chính. Nhiệm vụ cơ bản của Nha Lâm chính bao gồm toàn bộ các
lĩnh vực quản lý, bảo vệ các lâm phận; hợp lý hóa cách khai thác rừng; thu công quỹ các
khoản tiền quản lý rừng; trồng cây gây rừng; trông coi việc săn bắn trong toàn quốc; khảo
cứu, thí nghiệm về lâm sản; quan hệ với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu trong và ngoài
nước về lâm chính; tổ chức các cơ quan đào tạo nhân viên chuyên môn. Tổ chức của Nha
gồm ba Ban: Ban Hành chính, Ban Tài chính và Ban Chuyên môn. Đứng đầu Nha là Thanh
tra Lâm chính. Theo hệ thống dọc, cả nước chia thành nhiều Quận Lâm chính, do các quận
trưởng điều khiển, dưới quyền trực tiếp của Thanh tra Lâm chính. Mỗi quận chia thành
nhiều Hạt Lâm chính, do các hạt trưởng điều khiển, dưới quyền trực tiếp của quận trưởng.
Mỗi hạt chia làm nhiều Đồn Lâm chính, do đồn trưởng điều khiến dưới quyền trực tiếp của
hạt trưởng. Mỗi đồn lại chia thành nhiều Chi Lâm chính, do các chi trưởng điều khiển,
dưới quyền trực tiếp của đồn trưởng(1)
.
Đến ngày 3 tháng 5 năm 1946, để làm cơ sở kiện toàn bộ máy của các Bộ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 57/SL quy định tổ chức các Bộ. Mỗi Bộ có một Văn phòng,
các Nha và có thể có một cơ quan thanh tra và một Ban cố vấn. Đồng thời Sắc lệnh cũng
quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, cán bộ cao cấp và nhân viên
(1)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 23 - 24.
trong các Bộ.
Sau Sắc lệnh này, ngày 8 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh số 62/SL về tổ chức của Bộ Canh nông (gồm các bộ phận chính là Văn phòng, Nha
Nông chính, Nha Lâm chính, Nha Mục súc, thú ý, ngư nghiệp và Phòng sự vụ), ấn định các
chức vụ trong Văn phòng, các phòng sự vụ và các Nha thuộc Bộ Canh nông. Văn phòng có
Đổng lý Văn phòng, Chánh Văn phòng, Phó Văn phòng, Bí thư, Tham chính văn phòng.
Các phòng sự vụ có Đổng lý sự vụ và Phó Đổng lý sự vụ. Các Nha có Giám đốc Nha Nông
chính, Giám đốc Nha Nông nghiệp tín dụng, Giám đốc Nha Lâm chính và Giám đốc Nha
Mục súc, thú y, ngư nghiệp(1)
.
Cũng trong ngày 8 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp Sắc lệnh số
63/SL về cử cán bộ cao cấp cho Bộ Canh nông. Đổng lý Văn phòng là ông Lê Xuân Hưu.
Chánh Văn phòng là ông Trương Văn Minh. Đổng lý sự vụ là ông Nguyễn An Triệu. Giám
đốc Nha Nông chính là ông Hoàng Văn Đức. Giám đốc Nha Lâm chính là ông Nguyễn
Năng Đắc. Giám đốc Nha Nông nghiệp tín dụng là ông Đào Thiện Thi. Giám đốc Nha Mục
súc, thú y, ngư nghiệp là ông Phạm Văn Huyên. Tuy nhiên, ngay trong tháng 5 năm 1946, một
số cương vị nói trên lại được thuyên chuyển. Tại phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1946, Hội
đồng Chính phủ đã xem xét cử ông Đào Thiện Thi giữ chức Tổng thanh tra Bộ Canh nông;
cử ông Lê Văn Nguôn làm Chánh Văn phòng Bộ thay ông Trương Văn Minh (từ chức)(2)
.
Ngoài những cơ quan thuộc Bộ nói trên, Bộ Canh nông trong kháng chiến đã bảo trợ
cho ra đời tờ báo Tấc đất, là cơ quan cổ động sản xuất, phát hành trong chiến dịch chống
nạn đói (1945 - 1946) và cổ động cho công tác tăng gia sản xuất.
Đối với ngành lâm nghiệp, theo đề nghị của Ủy ban nghiên cứu lâm chính (do Bộ
Canh nông thành lập), ngày 28 tháng 10 năm 1946 Bộ trưởng Bộ Canh nông Huỳnh
Thiện Lộc đã ban hành Nghị định số 508/BCN về tổ chức lại Nha Lâm chính, gồm 43
điều, bãi bỏ Nghị định số 81 ngày 11 tháng 3 năm 1946, quy định những vấn đề cơ bản
về nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, hội đồng thường kỳ và phân chia các địa hạt lâm chính
trong toàn quốc. Nha Lâm chính có ba nhiệm vụ cơ bản: (i) Quản lý lâm phận; (ii) Thi
hành lâm pháp và (iii) Thi hành thể lệ về săn bắn. Hệ thống tổ chức ngành cũng được
thiết lập lại thành bốn cấp quản lý rừng do Bộ trực tiếp quản lý: Nha Tổng giám đốc,
Quận, Hạt, và Chi. Tại Nha Tổng giám đốc được tổ chức năm Ty chuyên môn, giống
như các phòng nghiệp vụ sau này, là Ty Hành chính; Ty Khai thác và thống kê; Ty
Công tác; Ty Pháp chế; Ty Tài chính.
Ngoài ra, Nghị định 508/BCN cũng quy định cụ thể nhiệm vụ của các cấp lâm chính
(1)
Hồ Chí Minh: Sắc lệnh số 62 ngày 8 tháng 5 năm 1946 quy định các chức vụ trong Văn phòng, các phòng
Sự - Vụ và các Nha thuộc Bộ Canh nông. Thuvienphapluat.vn (2)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập I
(1945-1954), Sđd, tr. 204, 213, 277.
6
Quận, Hạt, Chi. Tuy nhiên, do lúc này chiến tranh đã nổ ra ở Nam Bộ, bắt đầu lan rộng,
dẫn đến toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống quản lý lâm chính thống nhất như quy định
tại Nghị định này không được áp dụng trong toàn quốc. Hơn nữa, trong thời gian tiếp theo,
chủ trương của Chính phủ về quản lý các ngành theo hệ thống dọc phải gắn chặt chẽ với hệ
thống tổ chức chính quyền các cấp ở địa phương liên khu, tỉnh, huyện, xã. Vì thế, Bộ Canh
nông tiếp tục có những cải tổ, kiện toàn lại các cơ quan chuyên môn của mình(1)
.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (từ ngày 28 tháng 10 đến 9 tháng 11 năm 1946)
đã thảo luận và thông qua những chủ trương cấp bách để chuẩn bị kháng chiến; thông qua
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (ngày 9 tháng 11 năm 1946 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố bản Hiến pháp này); thông qua Chính phủ Mới
do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập thay cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Ngày 3
tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Mới do Người làm Chủ
tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Các đại biểu thuộc các tổ chức chính trị đi ngược lại
quyền lợi của dân tộc hoàn toàn bị gạt ra khỏi Chính phủ. Chính phủ Mới hoạt động trong
chín năm, từ ngày 3 tháng 11 năm 1946 đến đầu năm 1955. Trong thành phần Chính phủ
mới, Bộ trưởng Bộ Canh nông là ông Ngô Tấn Nhơn. Ông Ngô Tấn Nhơn lúc này được
Hội đồng Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng của hai Bộ: Bộ Kinh tế (từ ngày 3 tháng 11
năm 1946 đến năm 1947); Bộ Canh nông (từ ngày 3 tháng 11 năm 1946 đến tháng 3 năm 1954).
Từ tháng 3 năm 1954 cho đến hết nhiệm kỳ Chính phủ Mới, ông Nghiêm Xuân Yêm được
cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông thay cho ông Ngô Tấn Nhơn(2)
.
Như vậy, chỉ trong hơn một năm từ ngày 28 tháng 8 năm 1945 đến ngày 3 tháng 11
năm 1946, Chính phủ cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu phải trải qua bốn lần
cải tổ: từ Chính phủ lâm thời trong Tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 và ra mắt quốc
dân đồng bào ngày 2 tháng 9 năm 1945; đến Chính phủ Liên hiệp lâm thời thành lập ngày 1
tháng 1 năm 1946; rồi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ra mắt tại kỳ họp thứ I Quốc hội
khóa I ngày 2 tháng 3 năm 1946; đến Chính phủ Mới, ra mắt tại kỳ họp thứ II, Quốc hội
khóa I ngày 3 tháng 11 năm 1946. Chính phủ Mới lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc
cho đến tháng 9 năm 1955.
Trong thời gian đó, lãnh đạo Bộ Canh nông cũng có nhiều thay đổi. Bộ trưởng đầu
tiên trong Chính phủ lâm thời và Chính phủ Liên hiệp lâm thời là ông Cù Huy Cận (từ
ngày 14 tháng 11 năm 1945 đến ngày 2 tháng 3 năm 1946). Bộ trưởng Canh nông trong
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến là ông Bồ Xuân Luật (từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1946).
Thay ông Bồ Xuân Luật là ông Huỳnh Thiện Lộc (từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1946). Bộ
(1)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 24-26. (2)
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. Cổng thông tin điện tử.
trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ Mới là ông Ngô Tấn Nhơn (từ tháng 11 năm 1946
đến tháng 3 năm 1954). Trong giai đoạn cuối của Chính phủ Mới, ngày 16 tháng 3 năm
1954, Hội đồng Chính phủ cử ông Nghiêm Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông
thay ông Ngô Tấn Nhơn (cùng ngày ông Hồ Viết Thắng được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ
Canh nông). Ông Nghiêm Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ
mới đến tháng 9 năm 1955. Kể từ ngày 20 tháng 9 năm 1955, trong Chính phủ mở rộng
được kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I thông qua, Bộ Canh nông đổi tên thành Bộ Nông lâm ,
ông Nghiêm Xuân Yêm tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông
3) Bộ Canh nông tại chiến khu Việt Bắc giai đoạn 1947 - 1954
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung
ương Đảng, Chính phủ cùng các cơ quan bộ ngành đã di chuyển lên chiến khu Việt Bắc.
Đầu năm 1947, Bộ Canh nông dời thủ đô Hà Nội, chuyển lên Bỉnh Di, Lập Thạch, Vĩnh
Phúc. Sau đó, Bộ chuyển lên ở và làm việc tại xã Nông Tiến, thị xã Tuyên Quang. Cuối
năm 1947, thực dân Pháp tấn công lên thị xã Tuyên Quang, Bộ Canh nông di chuyển lên
xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa. Năm 1948, Bộ Canh nông chuyển đến ở, làm việc tại
thôn Dõn, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương. Lúc đầu cơ quan ở nhờ nhà ông Hà Kim
Chung, sau đó làm nhà riêng để ở và làm việc. Tại địa điểm này hiện có bia đề “Di tích Bộ
Canh nông”(1)
. Năm 1949, Bộ Canh nông di chuyển lên xã Phúc Thịnh, huyện Chiêm Hóa.
Năm 1951, Bộ Canh nông chuyển về làm việc tại đồn điền Lê Thăng (nay là xã Hiệp Hòa,
huyện Sơn Dương). Sau đó Bộ chuyển về chợ Me, thị xã Vĩnh Yên, rồi về Tam Đa, huyện
Sơn Dương. Năm 1952, Bộ Canh nông chuyển về làm việc tại khu Đồng Tang, thôn Hoắc,
xã Thái Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 1954, Bộ Canh nông chuyền
về Hà Nội.
Khi sơ tán lên Việt Bắc, cơ quan Bộ có khoảng 40 người, Bộ trưởng là ông Ngô Tấn
Nhơn lúc này đang công tác tại Nam bộ. Thứ trưởng là ông Nghiêm Xuân Yêm.
Nha Nông chính trực thuộc Bộ Canh nông cũng di chuyển lên ở và làm việc tại chiến
khu Việt Bắc. Thời kỳ đầu, Nha Nông chính ở và làm việc tại tỉnh Phú Thọ. Năm 1948, để
thuận lợi cho việc hướng dẫn, chỉ đạo nhân dân tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến, Nha
Nông chính đã chuyển lên đồn điền Lê Thăng, nay là thôn Thanh Bình, xã Hợp Hoà,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang(2)
. Xã Hợp Hoà nằm ở phía đông nam huyện Sơn
Dương, cách huyện lỵ 12 ki lô mét về phía Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,
xã Hợp Hoà đã vinh dự được đón một số cơ quan Trung ương về ở và làm việc, như: Bộ
Canh nông, Bộ Giao thông Công chính, Phòng Trung ương liên lạc miền Nam, Cục Tiếp tế
vận tải.
(1)
Theo tài liệu của Ban quản lý khu du lịch lịch sử, văn hoá và sinh thái Tân Trào - tỉnh Tuyên Quang. (2)
Theo tài liệu của Cổng Thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang..
8
Hiện nay khu Di tích Nha Nông chính được phân bố trên quả đồi nhỏ. Phía trước di
tích vẫn còn dòng suối Đục chảy qua, rất thuận lợi cho việc sinh hoạt của cán bộ nhân viên
hồi kháng chiến. Toàn bộ hệ thống nhà ở và làm việc của cơ quan gồm có: Nhà ở và làm
việc của các đồng chí lãnh đạo, nhà ở, nhà làm việc của cán bộ nhân viên, nhà bếp đều làm
bằng tranh, tre, nứa, lá được khai thác tại địa phương. Trải qua thời gian 60 năm, đến nay
di tích Nha Nông chính, xã Hợp Hoà, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chỉ còn lại dấu
tích. Tất cả các kiến trúc ngôi nhà, các lán, các hiện vật trong khu di tích đều bị phá huỷ và
mất hoàn toàn. Hiện nay, Bảo tàng Tuyên Quang đang lưu giữ tờ báo "Toàn dân canh tác"
số 4 ra ngày 31 tháng 11 năm 1950 do Nha Nông chính xuất bản.
Sau khi chuyển lên Việt Bắc, Bộ Canh nông đã khẩn trương triển khai thực hiện các
nhiệm vụ vừa kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý ngành dọc từ Trung ương đến các liên
khu, tỉnh, huyện, xã, vừa chỉ đạo tăng gia sản xuất, phát triển nông, lâm, ngư nghiệp trong
giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1954.
4. Những nét nổi bật trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954
Trong bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam năm 1945, ngày 14 tháng 11 năm 1945
trở thành cột mốc truyền thống của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước ta,
đánh dấu sự ra đời của Bộ Canh nông. Bộ Canh nông cùng với Bộ Giao thông công chính
và Bộ Quốc dân kinh tế đã giúp Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, chỉ
đạo việc xây dựng và phát triển các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi, lương thực,
thực phẩm - nền tảng quan trọng của kinh tế kháng chiến.
Thành tựu nổi bật đầu tiên của Chính phủ lâm thời là cứu đói trong năm (1945 - 1946).
Đó cũng là mở đầu truyền thống vẻ vang của nông dân và nông nghiệp Việt Nam dưới
chế độ mới. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, nông
dân Việt Nam với truyền thống yêu nước thương nòi đã đoàn kết, đồng tâm hiệp lực,
nhường cơm, sẻ áo, vượt qua thiên tai lũ lụt, cấp tốc tăng gia sản xuất, đảm bảo đủ
lương thực, thực phẩm, chiến thắng giặc đói, làm nên kỳ tích lớn lao của Nhà nước
cách mạng.
Sau khi giải quyết được nạn đói, ngành nông nghiệp đã không ngừng vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến kiến quốc. Quá trình hoạt
động, xây dựng và trưởng thành của Bộ Canh nông và các bộ ngành có liên quan trong
chín năm (1945 - 1954) gắn liền với những thành tựu đó. Truyền thống của Nông nghiệp
Việt Nam trong chín năm kháng chiến được xây đắp bằng những thành tựu nổi bật trong
từng ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi, mà người làm nên những kỳ công đó chính
là giai cấp nông dân.
Nông nghiệp trong kháng chiến là mặt trận kinh tế phải chịu những ảnh hưởng nhiều
nhất của thiên tai, địch họa. Nhưng, từ một nền kinh tế canh nông đã bị tê liệt trước năm
1945, nông nghiệp kháng chiến không những không bị suy thoái tiếp, mà đã được duy trì
và phát triển, với sản lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa ngày càng dồi dào hơn,
đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc kháng chiến và đời sống nhân dân. Trong điều kiện
bị vây hãm, tiềm lực kinh tế, quân sự đều rất nhỏ bé, không thể dựa được vào ai để tiến
hành kháng chiến, chúng ta phải tiến hành vừa kháng chiến, vừa kiến quốc một cách
trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Phát triển nông nghiệp thực sự là nền tảng
của kinh tế kháng chiến. Nông dân Việt Nam đã phát huy truyền thống lao động cần cù,
sáng tạo, luôn tìm cách vượt qua mọi khó khăn. Được Đảng và Chính phủ quan tâm chăm
lo lợi ích, giải phóng sức lao động, nông dân Việt Nam đã thực sự trở thành nòng cốt của
lực lượng cách mạng. Họ là đội quân chủ lực của kinh tế kháng chiến, đóng góp sức người
sức của, là chỗ dựa của cuộc chiến tranh nhân dân.
Nông nghiệp, nông dân trở thành một trục chính của đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc là động lực cho phát triển nông nghiệp. Chính trên mặt trận nông nghiệp, Lời
kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948 đã sớm trở thành phong trào
quần chúng rộng lớn của toàn thể già trẻ gái trai, “toàn dân canh tác, bốn mùa canh tác”,
tạo nên động lực to lớn, biến “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là
chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”.
Sự phát triển của nông nghiệp kháng chiến còn được hậu thuẫn bởi những thành tựu
to lớn của ngành thủy lợi. Đương đầu với các cơn mưa lũ lịch sử, với chiến dịch đánh phá
ác liệt có hệ thống của quân giặc vào đê điều và các công trình thủy lợi, ngành thủy lợi đã
huy động được đông đảo sức dân, hàn gắn, gia cố vững chắc các tuyến đê, nhanh chóng
khắc phục những thiệt hại lũ lụt; chủ động, sáng tạo xây dựng các công trình thủy lợi, các
hệ thống nông giang vừa và nhỏ cùng nhiều giải pháp giữ nước, cấp nước chống hạn, khôi
phục có hiệu quả các công trình bị đánh phá, cố gắng duy trì và mở rộng diện tích canh tác
được tưới nước, tiêu úng phục vụ sản xuất nông nghiệp, bảo vệ đời sống của nhân dân
trong suốt chín năm kháng chiến.
Rừng, tài nguyên rừng và ngành lâm chính đã có những đóng góp to lớn cho kháng
chiến kiến quốc. Hệ thống chính sách và thể lệ lâm nghiệp mới bước đầu đã thúc đẩy phát
triển kinh tế lâm nghiệp phục vụ nhu cầu rất lớn và cấp bách của quốc phòng, quân giới,
các ngành giao thông, thông tin liên lạc, công nghiệp và thủ công nghiệp, cũng như nhu
cầu dân sinh, bổ sung thu nhập ngân sách của Chính phủ và các địa phương. Rừng vừa là
ngành kinh tế quan trọng, vừa trở thành thành lũy chiến khu, “rừng che bộ đội, rừng vây
quân thù”, đảm bảo thắng lợi cho các chiến dịch quân sự trong kháng chiến.
Trong bối cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm, lại bị chia cắt giữa các vùng tự do
và vùng địch tạm chiếm, bị cô lập với nước ngoài, công tác đảm bảo lương thực, thực
phẩm cho kháng chiến, “nuôi quân đánh thắng” là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Với đường
lối kháng chiến toàn dân toàn diện, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, chúng ta không những
đã đảm bảo cơm ăn, áo mặc cho nhân dân, mà còn xây dựng được lực lượng quân đội, bộ
10
máy chính quyền nhà nước ngày càng mạnh để tiến hành kháng chiến. Tham gia vào đội
quân vận chuyển, cung cấp lương thực, thực phẩm, vật tư, hàng hóa phục vụ cho kháng
chiến là hàng triệu dân công, đóng góp mồ hôi, xương máu cho mọi chiến thắng quân sự
của cuộc kháng chiến.
Cùng với những thành tựu to lớn về phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và
thủy lợi, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và đào tạo cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ
thuật của ngành cũng đạt được những thành quả ban đầu. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên
chức và các chính sách phát triển nông, lâm, ngư nghiệp mà chúng ta bước đầu xây dựng
đó đã đi vào đời sống, tạo lập được nền móng cho phát triển nông nghiệp ở các giai đoạn
tiếp sau.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến
trường kỳ, toàn dân toàn diện, tự lực cánh sinh đầy gian khổ của nhân dân ta. Lịch sử đã
ghi nhận những thành tựu rất đáng tự hào về kinh tế nông nghiệp kháng chiến. Thành tựu
đó khẳng định những giá trị quý báu về tư tưởng và kinh nghiệm phát triển nông nghiệp,
ghi nhận sự tiến bộ bước đầu cả về lực lượng sản xuất, giải phóng và thiết lập quan hệ sản
xuất mới của nông dân.
Kháng chiến kiến quốc còn là trường học rèn luyện và phát triển mọi mặt cho Bộ
Canh nông về tổ chức, điều hành, quản lý phát triển kinh tế, thực thi chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan hành chính nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, là môi trường
rèn luyện, trưởng thành của đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành nông, lâm, ngư nghiệp
và thủy lợi. Nét truyền thống đầu tiên của ngành trong công tác quản lý và chỉ đạo phát
triển kinh tế, mà sau này trở thành bài học thành công là luôn gắn thực tiễn, đúc kết từ thực
tiễn, sâu sát với nông dân, dựa vào nông dân, vì nông dân... Những giá trị đó tiếp tục được
kế thừa và phát triển trong các giai đoạn lịch sử sau này.
11
II. Quá trình kiện toàn và phát triển cơ quan quản lý ngành nông, lâm, ngư
nghiệp thời kỳ 1955-1975
1. Thành lập Bộ Nông lâm
Để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, Chính phủ chủ
trương kiện toàn hệ thống tổ chức, thành lập một số cơ quan Trung ương cho phù hợp với
yêu cầu mới(1)
. Trong thành phần Chính phủ được kiện toàn năm 1952, Bộ Canh nông tiếp
tục được giao quản lý các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; Bộ Giao thông công chính quản
lý lĩnh vực thủy lợi; Bộ Công thương quản lý lương thực, thực phẩm. Cơ cấu tổ chức bộ
máy và nhiệm vụ quản lý các ngành của ba Bộ có nhiều thay đổi trong giai đoạn từ năm
1955 trở đi. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa II họp từ ngày 13 đến 20 tháng 8
năm 1955 đã đề ra phương hướng kiện toàn bộ máy Chính phủ, nêu rõ: “Trước mắt phải
kiện toàn Chính phủ, bổ sung cán bộ vào Chính phủ và phân công lại cho hợp lý hơn…
Một mặt chú ý làm cho công tác được tiến hành có kết quả tốt, đảm bảo sự lãnh đạo của
Trung ương theo nguyên tắc tập trung và thống nhất trên cơ sở tập thể và dân chủ, đồng
thời hấp thu một số nhân sĩ ngoài đảng vào Chính phủ để có lợi cho cuộc đấu tranh chính
trị hiện nay”(2)
.
Trong kỳ họp đầu tháng 2 năm 1955 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội
đồng Chính phủ ra nghị quyết đổi tên Bộ Canh nông thành Bộ Nông lâm và cử ông Nghiêm
Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng. Trước đó, từ tháng 3 năm 1954, ông Nghiêm Xuân Yêm đã
được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Canh nông.
Việc đổi tên Bộ Nông lâm cùng với kiện toàn bộ máy tổ chức của Bộ thời điểm này
là nhằm tăng cường năng lực cho Bộ để thực hiện đường lối của Đảng trong thời kỳ khôi
phục và phát triển kinh tế, trong đó nhiệm vụ cấp bách là phải sớm khôi phục nông nghiệp,
vai trò, trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, ngành đối với đời sống của nhân dân được
nêu cao, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải
hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”(3)
.
Ngày 20 tháng 9 năm 1955, trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I, theo đề nghị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua quyết định kiện toàn Chính phủ. Chính phủ
được mở rộng và bổ sung(4)
, có 17 bộ và một Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Bộ Giao thông
công chính được tách thành hai Bộ là Bộ Giao thông và Bưu điện, Bộ Thủy lợi và Kiến
(1)
Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 1. Sđd, tr. 289, 290. (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 70-71. (3)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T7, tr. 572. (4)
Tại Kỳ họp này của Quốc hội, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cử làm Thủ tướng Chính phủ; cử hai
phó Thủ tướng là Phan Kế Toại kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Võ Nguyên Giáp kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc
Phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam
12
trúc. Bộ Công thương được tách ra thành Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp. Theo đó,
nhiệm vụ quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp giao Bộ Nông lâm ; quản lý thủy
lợi giao Bộ Thủy lợi và Kiến trúc; quản lý lương thực giao Bộ Thương nghiệp, chế biến
thực phẩm giao Bộ Công nghiệp. Cũng trong ngày 20 tháng 9 năm 1955, Chính phủ có
quyết định tăng cường cho Bộ Nông lâm Thứ trưởng Lê Duy Trinh(1)
. Đội ngũ lãnh đạo
Bộ tiếp tục được tăng cường trong các năm tiếp theo. Ngày 21 tháng 5 năm 1958, Hội
đồng Chính phủ đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết nghị bổ sung
thêm cho Bộ Nông lâm hai Thứ trưởng là các ông Trần Hữu Dực và Nguyễn Tạo. Đến
trung tuần tháng 5 năm 1959, sau kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa II, thành phần Chính phủ
được kiện toàn lại, trong đó có bốn Phó Thủ tướng, 14 Bộ trưởng. Ông Nghiêm Xuân Yêm
tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông lâm (2)
.
Sau khi đổi tên, ngày 17 tháng 2 năm 1955 Bộ Nông lâm đã ra Nghị định số
02-NL/QT/NĐ về cơ cấu tổ chức thuộc Bộ, trong đó có: Văn phòng, Vụ Nông nghiệp,
Vụ Lâm nghiệp, Vụ Ngư nghiệp, Sở Quốc doanh Nông nghiệp, Phòng Tổ chức cán
bộ, Trường Trung cấp Nông lâm trung ương và các đơn vị sản xuất, thực nghiệm trực
thuộc khác…
Trong các năm tiếp theo, các đơn vị thuộc Bộ tiếp tục được kiện toàn, đáng lưu ý là
việc tách Vụ Nông nghiệp và thành lập Vụ Trồng trọt năm 1956(4)
, thành lập Cục Lâm
nghiệp trên cơ sở hợp nhất Sở Quốc doanh Lâm khẩn và Vụ Lâm nghiệp năm 1958(5)
.
Cùng với sự thay đổi của các cơ quan hành chính, quản lý ngành, các đơn vị sự
nghiệp khoa học và đào tạo của Bộ cũng từng bước được kiện toàn. Năm 1957, Chính phủ
tách Viện Khảo cứu nông lâm để thành lập hai Viện: Viện Khảo cứu trồng trọt và Viện
Khảo cứu chăn nuôi(7)
.
Năm 1958, Bộ thành lập Học viện Nông lâm thuộc Bộ trên cơ sở thống nhất các đơn
vị: Trường Đại học nông lâm; Viện khảo cứu trồng trọt; Viện khảo cứu chăn nuôi và hai
phòng nghiên cứu lâm sinh và sử dụng gỗ thuộc Vụ Lâm nghiệp(8)
.
Để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, năm 1956 Bộ đã thành lập Nhà
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 22, 77. (2)
Chủ tịch là Hồ Chí Minh; thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Pham Văn Đồng. Dẫn trong Biên
niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II (1955-1976) Sđd, tr. 357-358. (4)
Theo Nghị định số 10-NL-NĐ ngày 25 tháng 4 năm 1956 của Bộ Nông Lâm. (5)
Theo Quyết định 535-QĐ, ngày 20 tháng 11 năm 1958 của Bộ Nông Lâm (7)
Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 446-TTg ngày 1 tháng 10 năm 1957về bãi bỏ Viện Khảo cứu Nông
lâm, thành lập Viện Khảo cứu Trồng trọt và Viện Khảo cứu Chăn nuôi thuộc Bộ Nông lâm.
Thuvienphapluat.vn (8)
Bộ Nông lâm: Quyết định số 488-NL/QĐ ngày 20 tháng 10 năm 1958 về thành lập Học viện Nông lâm
trực thuộc Bộ Nông lâm. Thuvienphapluat.vn
13
xuất bản Nông thôn(1)
. Sau đó, Bộ thành lập Nhà xuất bản và tạp chí Nông lâm trên cơ
sở tách Nhà xuất bản Nông thôn và Tòa soạn tạp chí Nông lâm ra khỏi Phòng Tuyên
truyền giáo dục(2)
.
Cùng với kiện toàn các cơ quan thuộc Bộ Nông lâm , Chính phủ còn thành lập Cục
phát triển sản xuất nông nghiệp trực thuộc Văn phòng Nông lâm - Thủy lợi tại Thủ tướng
phủ, nhằm tăng cường công tác chỉ đạo của Chính phủ đối với mặt trận nông nghiệp và
thủy lợi. Nhiệm vụ của Cục là “Nghiên cứu, chỉ đạo công tác phát triển những cơ sở sản
xuất nông nghiệp mới trên những đất đai có thể khai khẩn do chính quyền địa phương.
Quản lý, theo dõi công việc tổ chức sản xuất, vốn sản xuất do Nhà nước cho vay hoặc trợ
cấp cho những người đi sản xuất”(3)
.
Ở các địa phương, hệ thống cơ quan quản lý ngành cũng từng bước được kiện toàn.
Sau khi đổi tên thành Bộ Nông lâm tháng 2 năm 1955, tại các liên khu thành lập Khu
Nông lâm (đứng đầu là Giám đốc khu), ở các tỉnh thành lập Ty Nông lâm (đứng đầu là
Trưởng ty). Sau đó, từ năm 1957 Khu Nông lâm của các liên khu và Ty Nông lâm của hai
thành phố là Hà Nội và Hải Phòng đổi thành Sở Nông lâm (đứng đầu là Giám đốc sở). Ở
các tỉnh vẫn giữ nguyên là Ty Nông lâm.
Trong thời kỳ này, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nông lâm được Chính phủ điều
chỉnh, nhằm đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước của ngành. Ngày 9 tháng 7 năm 1959,
Thủ tướng Chính phủ có Nghị định số 262-TTg về việc bàn giao công tác kiểm dịch thực
vật, động vật và các sản phẩm động vật xuất nhập khẩu từ Bộ Ngoại thương (trước đó là
Bộ Thương nghiệp) sang Bộ Nông lâm (4)
.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có nhiều văn bản quy định sự phối kết hợp giữa Bộ
Nông lâm với các Bộ, ngành liên quan. Theo đề nghị của Bộ Nông lâm , quyền hạn, trách
nhiệm và nội dung phối hợp giữa các Bộ, ngành được Thủ tướng Chính phủ quy định tại
Chỉ thị số 366-TTg ngày 16 tháng 8 năm 1957 về công tác củng cố nông trường quốc
doanh; Nghị định số 410-TTg ngày 6 tháng 9 năm 1957 về việc ban hành “Mười chính
sách khuyến khích sản xuất ở miền núi”; Nghị định số 517-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957
về việc ban hành “Mười chính sách khuyến khích nghề đánh cá và nuôi cá”; Nghị định số
167-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1958 về việc ban hành chính sách khuyến khích chăn nuôi
gia súc; Chỉ thị số 335-TTg ngày 8 tháng 9 năm 1959 về công tác lâm nghiệp…
Việc chuyển Bộ Canh nông thành Bộ Nông lâm từ năm 1955 để tập trung chỉ đạo
sản xuất nông, lâm nghiệp đã góp phần nhanh chóng khôi phục nền kinh tế ở miền Bắc.
(1)
Tại Nghị định số 60/NL-NĐ ngày 8 tháng 12 năm 1956 của Bộ Nông Lâm. (2)
Bộ Nông lâm: Quyết định số 363-NL/QĐ ngày 22 tháng 9 năm 1959 về thành lập Nhà xuất bản và tạp chí
Nông lâm thuộc Bộ Nông lâm. Thuvienphapluat.vn (3)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 233 (4)
Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 262-TTg ngày 9 tháng 7 năm 1959. Thuvienphapluat.vn
14
Tuy nhiên, thời kỳ hoạt động của Bộ Nông lâm chỉ kéo dài trong vòng 5 năm, từ năm 1955
đến 1960, khi Chính phủ quyết định tách Bộ thành bốn cơ quan mới.
2. Thành lập Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường quốc doanh, Tổng cục Lâm
nghiệp và Tổng cục Thủy sản năm 1960
Bước vào năm 1960, Chính phủ kiện toàn lại tổ chức theo quy định của Hiến pháp
năm 1959. Lúc này, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu
phương cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Ngành nông nghiệp được coi là mặt trận
hàng đầu, tổ chức của ngành cần được tăng cường để phát triển mạnh theo chiều sâu tất cả
các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Chính vì thế, tại kỳ họp cuối tháng 4 năm 1960, Hội đồng Chính phủ có Quyết nghị
tách Bộ Nông lâm thành bốn tổ chức: (1) Bộ Nông nghiệp, Bộ trưởng là ông Nghiêm
Xuân Yêm. Thứ trưởng là các ông Trương Viết Hùng, Phan Văn Chiêu; (2) Bộ Nông
trường, Bộ trưởng là ông Trần Hữu Dực; Thứ trưởng là các ông Nguyễn Quang Xá,
Nguyễn Văn Trí; (3) Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục trưởng là ông Nguyễn Tạo và (4)
Tổng cục Thủy sản, Tổng cục trưởng là ông Lê Duy Trinh(1)
.
Việc thành lập bốn cơ quan này chính thức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II
thông qua ngày 28 tháng 4 năm 1960, Quốc hội khóa II phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất
ngày 14 tháng 7 năm 1960, nằm trong số 18 Bộ, năm Ủy ban và Ngân hàng Nhà nước của
Hội đồng Chính phủ(2)
.
Từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 6 năm 1976, Chính phủ Việt Nam trải qua ba nhiệm
kỳ: (7/1960-7/1964); (7/1964-6/1971) và (6/1971-6/1976). Đây cũng là khoảng thời gian
có nhiều biến động về tổ chức của các cơ quan quản lý ngành nông, lâm nghiệp và thủy
sản. Trong thời gian này, Bộ Nông nghiệp và Bộ Nông trường hoạt động cho đến năm 1971,
trước khi hợp nhất để thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương; Tổng cục Lâm nghiệp
và Tổng cục Thủy sản tiếp tục hoạt động cho đến năm 1976, trước khi được nâng lên thành
các Bộ Lâm nghiệp và Bộ Hải sản. Riêng ngành cao su được thành lập sau ngày giải phóng
Miền Nam năm 1975, sau khi các đơn vị cao su ở miền Bắc được tách ra khỏi Ủy ban
Nông nghiệp Trung ương.
3. Bộ Nông nghiệp giai đoạn 1960-1971
Có thể coi Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp cuối tháng 4 năm 1960,
quyết định cơ cấu lại Bộ Nông lâm thành bốn tổ chức, là cột mốc ra đời Bộ Nông nghiệp.
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 442.
15
Trong giai đoạn 11 năm từ 1960 đến 1971, lãnh đạo Bộ có nhiều thay đổi(1)
. Ông
Nghiêm Xuân Yêm là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nông nghiệp và giữ cương vị này từ tháng 4
năm 1960 đến tháng 1 năm 1963. Sau đó, ông Dương Quốc Chính (nguyên Bộ trưởng Bộ
Thủy lợi và Điện lực trong thời gian trước tháng 1 năm 1963) được cử làm Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp từ tháng 1 năm 1963 đến tháng 4 năm 1965 thay cho ông Nghiêm Xuân Yêm
được chuyển sang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông trường. Trong nhiệm kỳ Chính phủ
(1964-1971), cương vị lãnh đạo Bộ Nông nghiệp tiếp tục thay đổi. Tháng 4 năm 1965, trong
phiên họp bất thường, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa III đã cử ông Hoàng Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, kiêm Chủ nhiệm Văn
phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng thay ông Trần Hữu Dực. Ông Hoàng Anh làm Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp từ tháng 4 năm 1965 đến tháng 11 năm 1967. Tháng 11 năm 1967, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa III quyết định ông Hoàng Anh thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và cử ông Nguyễn Văn Lộc, Thứ trưởng lên thay và ông giữ chức Bộ trưởng
cho đến tháng 4 năm 1971, trước khi thành lập Ủy ban nông nghiệp Trung ương(2)
.
Ngay sau khi được Quốc hội khóa II tại kỳ họp thứ nhất ngày 14 và 15 tháng 7 năm 1960
thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ và bầu các chức vụ lãnh đạo Nhà nước,
Chính phủ, Bộ Nông nghiệp đã bắt tay vào kiện toàn tổ chức bộ máy, triển khai các nhiệm
vụ được giao.
Một trong những lĩnh vực được Bộ quan tâm tăng cường đầu tiên là khoa học kỹ
thuật và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành. Ngày 23 tháng 7 năm 1960, Bộ có Quyết định
số 03-NN/QĐ về việc chuyển Trường bổ túc Trung cấp nông lâm Nghệ An thành Trường
trung cấp nông lâm Nghệ An để “bổ túc cán bộ sơ cấp nông lâm thành cán bộ trung cấp về
trồng trọt, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp”(3)
.
Trong hai ngày 1 và 4 tháng 8 năm 1960, Bộ Nông nghiệp có Quyết định số 06/NN-QĐ
và Quyết định số 07-NN/QĐ thành lập Trường Công nhân cơ khí nông nghiệp và Trường
bổ túc nghiệp vụ và văn hóa. Tuy nhiên, chỉ sau 6 tháng, ngày 31 tháng 03 năm 1961 Bộ
lại có Quyết định số 13-NN/QĐ sáp nhập hai trường trên thành Trường cơ khí và nghiệp
vụ thuộc Bộ(4)
.
Về hoạt động khoa học kỹ thuật, ngày 22 tháng 2 năm 1961, bằng Quyết định số
05-NN/QĐ, Bộ Nông nghiệp đã thành lập và ban hành Điều lệ của Hội đồng Khoa học kỹ
thuật của Bộ, do Bộ trưởng là Chủ tịch Hội đồng. Các Phó chủ tịch là các Thứ trưởng; các
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 852, 920-921. (2)
Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. (3)
Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 03-NN/QĐ ngày 23 tháng 7 năm 1960. Thuvienphapluat.vn (4)
Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 13-NN/QĐ ngày 31 tháng 3 năm 1961. Thuvienphapluat.vn
16
ủy viên là Vụ trưởng và Vụ phó các Vụ; Thư ký hội đồng là Vụ trưởng Vụ kỹ thuật(1)
.
Trong khi chờ Chính phủ ban hành Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ
máy, Bộ Nông nghiệp đã ra Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 22 tháng 12 năm 1960 quy
định tạm thời tổ chức các cơ quan thuộc Bộ. Những năm tiếp theo, các cơ quan đơn vị của
Bộ tiếp tục được kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là trong lĩnh vực quản lý
ruộng đất và vật tư nông nghiệp, phát triển cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp.
Lĩnh vực quản lý ruộng đất có nhiều phức tạp, được chuyển từ “ngành Địa chính của
Bộ Tài chính sang Bộ Nông nghiệp phụ trách và đổi tên là ngành Quản lý ruộng đất” vào
năm 1960(2)
. Trên cơ sở Sở Địa chính chuyển từ Bộ Tài chính sang, Chính phủ đã thành
lập Vụ Quản lý ruộng đất trực thuộc Bộ Nông nghiệp. Ngày 11 tháng 3 năm 1961, Bộ
Nông nghiệp và Bộ Nội vụ đã ra Thông tư liên Bộ số 01-TT/LB quy định tạm thời tổ chức
quản lý ruộng đất ở địa phương. Theo đó, ở các tỉnh có Phòng quản lý ruộng đất thì đưa
vào Ty Nông nghiệp, lập thành Phòng Quản lý ruộng đất thuộc Ty Nông nghiệp; ở các
khu, thành, tỉnh chưa có tổ chức quản lý ruộng đất, thì Ủy ban hành chính căn cứ vào tình
hình thực tế của địa phương và khả năng cán bộ mà quyết định thành lập Phòng hoặc bộ
phận quản lý ruộng đất trong Khu, Sở, Ty Nông nghiệp. Ở các huyện công tác quản lý
ruộng đất giao cho Phòng Nông nghiệp huyện, ở những huyện chưa có bộ phận quản lý
ruộng đất thì phân công cán bộ phụ trách quản lý ruộng đất, đặt trong Phòng Nông nghiệp
huyện(3)
. Ngay sau đó, ngày 16 tháng 3 năm 1961 Bộ Nông nghiệp có Chỉ thị số 16-NN/CT
quy định về nhiệm vụ công tác quản lý ruộng đất ở địa phương, trong đó quy định rõ
nhiệm vụ của các cơ quan quản lý ruộng đất từ Trung ương đến các khu tự trị, thành phố,
châu, huyện và xã.
Để kiện toàn tổ chức, năm 1966 Vụ Quản lý ruộng đất được tách ra thành Cục Điều
tra, đo đạc bản đồ đất và Vụ Quản lý ruộng đất. Tuy nhiên, đến ngày 9 tháng 12 năm
1968, thực hiện Nghị định số 24/CP của Hội đồng Chính phủ quy định tổ chức bộ máy Bộ
Nông nghiệp, hai đơn vị nêu trên lại được sáp nhập thành Vụ Quản lý ruộng đất và quy
hoạch vùng sản xuất nông nghiệp. Nhiệm vụ quản lý ruộng đất do Bộ Nông nghiệp trực
tiếp thực hiện đến năm 1971. Từ năm 1971 đến năm 1976 hệ thống cơ quan quản lý ruộng
đất trực thuộc Ủy ban Nông nghiệp Trung ương.
Trong lĩnh vực quản lý phân bón, giống, vật tư nông nghiệp, ngày 26 tháng 9 năm 1961,
Bộ có Quyết định số 30-NN/QĐ về việc tách Vụ phân bón, giống, bảo vệ thực vật thành
hai Cục: Cục Bảo vệ và kiểm dịch thực vật và Cục giống và phân bón.
Để hỗ trợ nông dân tăng cường cơ giới hóa nông nghiệp, tháng 10 năm 1960, Bộ
Nông nghiệp quyết định thành lập 04 Đội máy nông nghiệp ở bốn tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh,
(1)
Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 05-NN/QĐ ngày 22 tháng 2 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (2)
Theo Nghị định số 70/CP và 71/CP ngày 9 tháng 12 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ. (3)
Bộ Nông nghiệp, Bộ Nội vụ: Thông tư liên Bộ số 01-TT/LB ngày 11 tháng 3 năm 1961. Thuvienphapluat.vn
17
Kiến An, Vĩnh Phúc. Sau này, khi các Đội máy nông nghiệp được thành lập ở hầu hết các
tỉnh, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về tổ chức và quản lý các Đội máy nông
nghiệp (Quy chế ngày 5 tháng 12 năm 1961)(1)
.
Ngày 5 tháng 10 năm 1961, Hội đồng Chính phủ có Nghị định 152-CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Bộ Nông nghiệp là
cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác nông nghiệp trong sản
xuất thuộc sở hữu tập thể của nông dân lao động theo đường lối chính sách của Đảng và
nhà nước, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc để thoả mãn nhu
cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và sản
xuất nông nghiệp cho xuất khẩu, tiến lên xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại và một
nền khoa học kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến.
Nhiệm vụ và quyền hạn chính của Bộ Nông nghiệp là: (1) Nghiên cứu, trình Hội
đồng Chính phủ ban hành chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển nông nghiệp và tổ
chức thực hiện sau khi được phê chuẩn; (2) Tổ chức và chỉ đạo sản xuất nông nghiệp; kỹ
thuật về trồng trọt, chăn nuôi, thú y; cơ giới hóa nông nghiệp và quản lý thống nhất công
tác sự nghiệp của ngành; (3) Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật về
trồng trọt, chăn nuôi, cơ khí nông nghiệp; phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục
Thủy sản tiến hành nghiên cứu khoa học, kỹ thuật về lâm nghiệp và thủy sản; (4) Xây dựng
cơ sở hạ tầng, tiềm lực cho một nền khoa học, kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến; (5) Chỉ đạo
công tác nghiệp vụ về tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp; (6) Quản lý thống nhất việc
khai hoang, cải tạo đồng ruộng, đất nông nghiệp để sử dụng hợp lý tài nguyên phục vụ phát
triển sản xuất; (7) Đào tạo và chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ
quản lý hợp tác xã nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp…
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp gồm: Văn
phòng Bộ; 09 Vụ (Tổ chức cán bộ; Tuyên giáo; Kế hoạch; Tài vụ, kiến thiết, vật tư; Khoa
học kỹ thuật; Quản lý ruộng đất; Hợp tác xã nông nghiệp; Trồng trọt; Chăn nuôi); 03 Cục
(Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Cục giống và phân bón; Nông cụ và cơ khí nông nghiệp).
Ngoài ra còn có Ban Thanh tra, Học viện Nông lâm và các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp do
Bộ quản lý(2)
.
Để phát triển sản xuất, Bộ chủ trương sớm kiện toàn công tác kiểm dịch thực vật và
động vật và ban hành Quyết định số 39-NN/QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1961 thành lập các
Phòng kiểm dịch thực vật và Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 24 tháng 5 năm 1962 thành
lập các Trạm kiểm dịch động vật tại các tỉnh ở 7 trên toàn miền Bắc (Hà Nội; Hải Phòng;
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 465, 582. (2)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 152-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961. Thuvienphapluat.vn
18
Lạng Sơn; Lào Cai; Nghệ An; Khu Thái Mèo…)(1)
.
Để phát triển chăn nuôi, Bộ ra Chỉ thị số 20-NN-CT ngày 31 tháng 10 năm 1962 về
chấn chỉnh và xây dựng Trạm truyền giống gia súc bằng thụ tinh nhân tạo, để đến năm
1965 toàn miền Bắc có 32 trạm, 172 phân trạm và tổ chức màng lưới thụ tinh viên; mỗi
tỉnh Trung du và Đồng bằng có một trung tâm thụ tinh nhân tạo… Để phát triển ngành
nghề, Chính phủ còn cho thành lập Cục Dâu tằm, ra chỉ thị về nuôi ong mật…
Ngoài các nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp được quy định tại Nghị định 152-CP
năm 1961, ngày 8 tháng 9 năm 1962 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định chuyển giao toàn
bộ hệ thống tổ chức kinh doanh tư liệu phục vụ nông nghiệp từ Trung ương đến địa
phương về trâu bò, phân bón từ ngành Nội thương sang ngành Nông nghiệp(2)
.
Kế thừa hệ thống cơ quan quản lý ngành ở địa phương, Bộ Nông nghiệp cùng Bộ Nội
vụ có Thông tư Liên Bộ số 01-TT/LB ngày 10 tháng 3 năm 1962 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn và kiện toàn tổ chức bộ máy của các Ty Nông nghiệp một cách chặt chẽ hơn.
Ngoài các phòng chuyên môn, các Ty còn có các cơ sở sự nghiệp do Ty quản lý, như
Trường trung cấp nông nghiệp; Trường sơ cấp nông nghiệp; Trại thí nghiệm chuyên khoa;
Trạm truyền giống gia súc; Trạm dự tính, dự báo sâu bệnh; Trại tằm; Kho giống; Trạm kỹ
thuật; Đội máy nông nghiệp… Tổ chức nông nghiệp ở các Khu tự trị Thái - Mèo, Khu tự
trị Việt Bắc (trừ các tỉnh trong khu Việt Bắc), các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Vĩnh
Linh được quy định riêng.
Không lâu sau khi ban hành Thông tư này, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 74-TTg
ngày 13 tháng 7 năm 1962 về cải tiến tổ chức, tinh giản bộ máy tại các Ty, Sở Nông
nghiệp, hướng tới bỏ cấp phòng trong các Sở, Ty; đồng thời sắp xếp lại tổ chức cấp huyện
cho gọn, phù hợp với yêu cầu chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.
Lĩnh vực nghiên cứu khoa học và đào tạo của ngành cũng tiếp tục được tăng cường.
Ngày 9 tháng 10 năm 1961, Thủ tướng có Chỉ thị số 398/TTg về việc đẩy mạnh công tác
đào tạo cán bộ kỹ thuật của các ngành nông, lâm, thủy sản. Ngày 4 tháng 2 năm 1963, Bộ
Nông nghiệp có Quyết định số 01-NN-QĐ về việc tách Học viện Nông lâm thành hai đơn
vị thuộc Bộ là Trường Đại học Nông nghiệp và Viện Khoa học Nông nghiệp. Sau đó
bằng các quyết định riêng Bộ quy định nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của hai
đơn vị này(3)
.
Theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp, tại Quyết định số 124-CP ngày 14 tháng 8 năm 1967,
Chính phủ thành lập Trường Đại học Nông nghiệp II trên cơ sở nâng cấp Trường Trung
(1)
Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 39-NN/QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1961 và Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 24
tháng 5 năm 1962. Thuvienphapluat.vn (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 661. (3)
Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 01-NN-QĐ ngày 4 tháng 2 năm 1963. Thuvienphapluat.vn
19
học kỹ thuật Nông nghiệp Trung ương, cùng với đó là đổi tên Trường Đại học Nông
nghiệp thành Trường Đại học Nông nghiệp I(1)
.
Để đáp ứng nhu cầu cán bộ người dân tộc có trình độ đại học phục vụ sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi, theo đề nghị của Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Ủy ban hành chính khu tự trị Việt-Bắc, Thủ tướng
Chính phủ đã cho thành lập Trường Đại học Kỹ thuật miền núi tại Quyết định số 98-TTg/VG
ngày 19 tháng 9 năm 1967. Sau này, đến tháng 2 năm 1971, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết
định số 56/TTg về việc thành lập Trường Đại học Nông lâm miền núi, đặt ở Khu tự trị Việt
Bắc, do Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trực tiếp quản lý.
Cùng với việc thành lập các trường đại học và trung học, Chính phủ còn quan tâm
đến công tác dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ ngành nông nghiệp. Ngày 10
tháng 3 năm 1970, Chính phủ ra Nghị quyết số 42-CP về tăng cường công tác đào tạo và
bồi dưỡng công nhân kỹ thuật, yêu cầu chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật cho các
ngành nông nghiệp, nghề cá, nghề rừng(2)
.
4. Bộ Nông trường giai đoạn 1960-1971
Cùng với sự ra đời của Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường được thành lập từ tháng 4
năm 1960 theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ và sự phê duyệt của Quốc hội khóa II,
kỳ họp thứ nhất trong các ngày 14 và 15 tháng 7 năm 1960. Đó là nhu cầu tất yếu tăng
cường công tác quản lý nhà nước đối với một loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp mới
của nước ta.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, các nông trường quốc doanh có bước
phát triển mạnh mẽ, nhất là qua hai kế hoạch ba năm: ba năm khôi phục kinh tế (1955-1957)
và ba năm phát triển và cải tạo kinh tế (1958-1960). Ở giai đoạn khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh, các doanh điền trong kháng chiến được tổ chức lại thành các nông
trường quốc doanh. Chính phủ cũng thành lập mới một số nông trường. Đến giữa năm 1957,
miền Bắc có 16 nông trường quốc doanh, quản lý 54.240 hécta, trong đó đất đã khai hoang
và trồng trọt 6.044 hécta với 8.523 công nhân, cán bộ và 371 máy móc các loại. Đây có thể
coi là cơ sở kinh doanh nông nghiệp đầu tiên của Nhà nước, đặt dưới sự quản lý trực tiếp
của Bộ Nông lâm và Sở Quốc Doanh nông nghiệp(3)
.
Từ năm 1958 đến 1960, cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất mới trong nông nghiệp là đường lối xuyên suốt của Đảng với nhiệm vụ quan trọng là
đẩy mạnh xây dựng các nông trường và đưa nông dân vào các hợp tác xã. Thực hiện đường
(1)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 124-CP ngày 14 tháng 8 năm 1967. Thuvienphapluat.vn (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 993, 1031, 1096. (3)
Phủ Thủ tướng: Chỉ thị số 366-TTg ngày 16 tháng 8 năm 1957 về công tác củng cố nông trường quốc
doanh. Thuvienphapluat.vn
20
lối đó, nhiều đơn vị quân đội chuyển ra sản xuất, thành lập các nông trường quân đội; hàng
vạn cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết tự nguyện đi vùng kinh tế mới. Để tổ chức chỉ đạo
lực lượng nông trường của quân đội, Bộ Quốc phòng cho thành lập Cục Nông binh thuộc
Tổng cục Hậu cần. Với quyết tâm chính trị lớn, kết hợp với bản chất Anh bộ đội Cụ Hồ,
chỉ sau ba năm (1958-1960), các nông trường quân đội đã khai hoang đồi rừng, quai đê lấn
biển, có hàng vạn héc ta đất đai để sản xuất.
Cùng với lực lượng quân đội, quá trình khai hoang thành lập nông trường mới cũng
được đẩy nhanh. Trong các năm 1957-1960 ở miền Bắc đã thành lập được 36 nông trường
mới và chín liên đoàn sản xuất của cán bộ miền Nam tập kết dưới tên gọi là tập đoàn sản
xuất miền Nam.
Từ năm 1960 đến 1971, sự phát triển các nông trường quốc doanh được thống nhất
chỉ đạo của Bộ Nông trường. Đầu tháng 10 năm 1960, Chính phủ triệu tập Hội nghị
ngành nông trường lần thứ nhất, quyết định hợp nhất ba lực lượng: Nông trường quân
đội, Liên đoàn sản xuất miền Nam và các doanh điền thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
giao Bộ Nông trường thống nhất quản lý. Lúc này, miền Bắc đã có hơn 60 nông trường
quốc doanh với 24.000 ha đất canh tác. Quy mô nông trường thời kỳ này phần lớn còn
nhỏ bé với bình quân khoảng 400 ha đất(1)
. Ngày 14 tháng 12 năm 1960, Thủ tướng ra
Chỉ thị số 316-TTg chuyển các tập đoàn sản xuất miền Nam thành xí nghiệp quốc doanh,
nông trường quốc doanh(2)
.
Sau khi thành lập Bộ Nông trường, các nông trường phân thành hai khối: Nông
trường trung ương do Bộ Nông trường trực tiếp chỉ đạo và các nông trường địa phương do
Ủy ban nhân dân các tỉnh quản lý. Hầu hết các tỉnh, thành phố ở miền Bắc đều có nông
trường địa phương.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hầu hết các nông trường địa phương làm ăn đều
thua lỗ, do vậy Chính phủ quyết định dừng việc thành lập nông trường địa phương, để địa
phương tập trung lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp. Một số nông trường địa phương
làm ăn có hiệu quả thì chuyển thành nông trường quốc doanh, giao Bộ Nông trường quản
lý. Đưa những nông trường nhỏ thành các hợp tác xã nông nghiệp cấp cao, hoặc sáp nhập
vào nông trường quốc doanh(3)
.
Hầu hết các nông trường đều nằm ở vùng trung du, miền núi và ven biển, trên các địa
bàn chiến lược trọng yếu về an ninh quốc phòng, gắn với các vùng kinh tế quan trọng. Các
nông trường quốc doanh thời kỳ này có vai trò quan trọng đối với kinh tế nông nghiệp nói
(1)
Công đoàn Nông trường quốc doanh Việt Nam: Báo cáo tổng kết tình hình phong trào công đoàn 1961 - 1965
tại Đại hội Công đoàn Nông trường Quốc doanh Việt Nam lần thứ I, từ 25-27/6/1964, tr. 1. Tài liệu lưu trữ
tại Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. (2)
Công báo số 54, 1960, tr. 821 - 822. (3)
Công báo số 21, 1962, tr. 329.
21
riêng và kinh tế miền Bắc nói chung, có nhiệm vụ mở mang vùng kinh tế mới ở trung du
và miền núi, sản xuất theo quy mô hàng hóa lớn, cung cấp một số sản phẩm, đặc biệt là cây
công nghiệp nhiệt đới, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày và cây lương thực để đảm
bảo yêu cầu trong nước và hợp tác quốc tế... Đồng thời các nông trường đẩy mạnh chăn
nuôi đại và tiểu gia súc với quy mô lớn, phát triển nhiều gia cầm và nuôi cá, đảm bảo cung
cấp một phần quan trọng yêu cầu trong nước và xuất khẩu về thịt, sữa, trứng... Bên cạnh
đó, các nông trường quốc doanh còn có nhiệm vụ giúp đỡ các hợp tác xã; đi đầu trong áp
dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, cơ giới hóa, tổ chức sản xuất hợp lý(1)
.
Bộ Nông trường có trụ sở tại số 6 Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Trong 11 năm hoạt
động (từ tháng 4 năm 1960 đến tháng 4 năm 1971), nhân sự lãnh đạo Bộ Nông trường ít
thay đổi hơn so với Bộ Nông nghiệp. Bộ trưởng đầu tiên là ông Trần Hữu Dực (hai Thứ
trưởng là các ông Nguyễn Quang Xá, Nguyễn Văn Trí)(2)
. Đến tháng 1 năm 1963, ông
Nghiêm Xuân Yêm (nguyên là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp) được cử làm Bộ trưởng Bộ
Nông trường và giữ cương vị này cho đến tháng 4 năm 1971, trước khi Bộ được hợp nhất
về tổ chức để thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương(3)
.
Ngày 29 tháng 9 năm 1961, Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 134-CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông trường. Theo đó, Bộ Nông trường là
cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác nông trường quốc doanh
theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng và phát triển nông trường
quốc doanh do Bộ quản lý; chỉ đạo việc xây dựng và phát triển nông trường quốc doanh do
địa phương quản lý, xây dựng kế hoạch khai hoang nhân dân và chỉ đạo các địa phương
thực hiện kế hoạch ấy. Các công tác trên nhằm: cung cấp nông sản và tích lũy vốn cho Nhà
nước, làm gương mẫu cho các hợp tác xã nông nghiệp, góp phần phát triển sản xuất nông
nghiệp và củng cố hậu phương.
Để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tổ chức của Bộ Nông trường có
Văn phòng, Ban Thanh tra, 03 Vụ (Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Kế hoạch tài vụ; Vụ Kiến thiết
cơ bản) và 07 Cục (Cục Kiến thiết cơ bản; Cục Cung tiêu; Cục Quy hoạch; Cục Khai
hoang nhân dân; Cục Sản xuất nông nghiệp; Cục Chăn nuôi; Cục Cơ khí). Ngoài ra còn có
các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp(4)
.
Ban đầu, nhiệm vụ khai hoang được giao cho Cục Khai hoang nhân dân thuộc Bộ
Nông trường. Do yêu cầu cần tăng cường chỉ đạo của Chính phủ đối với công tác này,
ngày 20 tháng 2 năm 1963 Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 16-CP về việc tách Cục
(1)
Công đoàn Nông trường quốc doanh Việt Nam: Báo cáo tổng kết tình hình phong trào công đoàn 1961 - 1963
tại Đại hội Công đoàn Nông trường Quốc doanh Việt Nam lần thứ I, từ 25-27/6/1964. Tài liệu lưu trữ tại
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (3)
Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. (4)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 134-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961. Thuvienphapluat.vn
22
Khai hoang nhân dân ra khỏi Bộ Nông trường và thành lập Tổng cục Khai hoang trực
thuộc Hội đồng Chính phủ(1)
. Ngày 21 tháng 2 năm 1963, Hội đồng Chính phủ có Nghị
định số 17-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Khai hoang.
Ngay sau đó, ngày 7 tháng 3 năm 1963, Tổng cục Khai hoang cùng với Bộ Nội vụ có
Thông tư liên Bộ số 01-TT-LB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy khai
hoang của địa phương. Theo đó, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố thành lập Ty Khai
hoang hoặc Phòng Khai hoang trực thuộc Ủy ban hành chính. Công tác khai hoang ở cấp
huyện, cấp xã do Ủy ban hành chính huyện, xã chịu trách nhiệm(2)
. Tuy nhiên, Tổng cục
Khai hoang chỉ hoạt động trong vòng ba năm. Đến ngày 15 tháng 9 năm 1966, theo đề nghị
của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III đã ra Quyết định phê chuẩn
việc giải thể Tổng cục Khai hoang(3)
.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển các nông trường ở Việt Nam thấy nổi rõ
một chặng đường rất đặc biệt hơn mười năm, từ 1960 đến 1971, các nông trường quốc
doanh được đặt vào vị trí trung tâm của đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa ngành nông
nghiệp theo hướng tiến lên công nghiệp hóa, được giao nhiệm vụ nòng cốt, tiến công trực
diện trên mặt trận cải tạo cách làm ăn vốn còn manh mún, thủ công và lạc hậu, năng suất
thấp của nông thôn Việt Nam.
5. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương giai đoạn 1971-1976
Ngày 1 tháng 4 năm 1971, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa III phê chuẩn việc thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương trên cơ sở
hợp nhất Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường và Ban Quản lý hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp(4)
. Đây là mô hình tổ chức quản lý ngành khá đặc biệt so với các thời kỳ trước. Việc
chuyển từ Bộ sang Ủy ban, hợp nhất nhiều Bộ, ngành vào một tổ chức được thực hiện theo
chủ trương tăng cường quản lý nhà nước đối với nông nghiệp rộng lớn. Cơ chế Ủy ban
cho phép đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa các bộ ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông
dân, nông thôn dưới sự chỉ đạo chủ động của Ủy ban, mà trong thành phần Ủy ban có đầy
đủ đại diện của các bộ ngành đó. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương là cơ quan của Hội
đồng Chính phủ, chịu trách nhiệm về toàn bộ phong trào sản xuất nông nghiệp theo đúng
đường lối, chính sách và chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đưa nông nghiệp
phát triển theo hướng toàn diện thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tạo
nhiều nông sản hàng hóa để đảm bảo nhu cầu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và đời
sống nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản để xuất khẩu. Để làm những việc
(1)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 16-CP ngày 20 tháng 2 năm 1963. Thuvienphapluat.vn (2)
Bộ Nội vụ, Tổng cục Khai hoang: Thông tư số 01-TT-LB ngày 7 tháng 3 năm 1963. Thuvienphapluat.vn (3)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 895 (4)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 1101, 1115
23
trên đây phải ra sức quản lý một cách có hiệu quả và tiết kiệm mọi năng lực sản xuất (đất
đai, nhân lực, vật tư…), phải ra sức cải tiến quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đảm
bảo quyền làm chủ của xã viên tăng cường các cơ sở quốc doanh, đẩy mạnh việc xây dựng
cơ sở vật chất và kỹ thuật trong nông nghiệp(1)
.
Thành phần của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được Hội đồng Chính phủ quyết
định bao gồm Chủ nhiệm Ủy ban là Phó Thủ tướng Hoàng Anh kiêm chức; Các Phó Chủ
nhiệm thường trực là Bộ trưởng Nghiêm Xuân Yêm và Bộ trưởng Nguyễn Văn Lộc; Các
Phó Chủ nhiệm kiêm nhiệm là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, Chủ nhiệm Ủy ban Dân
tộc Trung ương Lê Quảng Ba, Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm Ngô Minh Loan,
Tổng cục Trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Tạo. Các ủy viên Ủy ban gồm 11 người
đại diện cho nhiều Bộ, ngành là các ông: Nguyễn Chương, Hoàng Bá Sơn, Chu Văn Biên,
Lê Trung Đình, Nguyễn Xuân Tại, Lê Duy Trinh, Phan Văn Chiêu, Vũ Thơ, Trần Quốc
Mạnh, Ngô Duy Đông và Nguyễn Cao Đàm(2)
.
Đội ngũ lãnh đạo Ủy ban Nông nghiệp Trung ương trong thành phần Chính phủ
nhiệm kỳ (1971-1975) được Quốc hội khóa IV chuẩn y tại kỳ họp thứ nhất từ ngày 7 đến
ngày 10 tháng 6 năm 1971. Phó Thủ tướng Hoàng Anh chỉ kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban
đến tháng 4 năm 1974, sau đó chức vụ này được giao cho ông Võ Thúc Đồng đảm trách
Đến tháng 11 năm 1974, ông Võ Thúc Đồng chính thức được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy
ban Nông nghiệp Trung ương. Ông Nguyễn Văn Lộc giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban đến tháng 3 năm 1974, sau đó chỉ còn một Phó Chủ nhiệm thường trực là Bộ
trưởng Nghiêm Xuân Yêm.
Ngày 6 tháng 6 năm 1975, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa V, Quốc hội đã bầu
Hội đồng Chính phủ nhiệm kỳ 1975 - 1976, theo đó ông Võ Thúc Đồng tiếp tục được cử
giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương; các ông Nghiêm Xuân Yêm và Ngô
Minh Loan được cử giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Thường trực(3)
. Ủy ban Nông
nghiệp Trung ương tiếp tục tồn tại đến hết nhiệm kỳ V, khi Quốc hội cả nước khóa VI
thành lập Chính phủ mới vào tháng 7 năm 1976.
Theo Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 của Hội đồng Chính phủ, tổ
chức bộ máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương gồm Văn phòng Ủy ban, 07 Vụ (Kinh
tế kế hoạch; Kế toán-tài vụ; Tổ chức cán bộ; Tuyên giáo; Quản lý ruộng đất; Lao động
nông nghiệp và lao động tiền lương; Khoa học kỹ thuật); 05 Ban (Thanh tra; Phân vùng và
quy hoạch nông nghiệp; Quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; Quản lý nông trường
quốc doanh; Kinh tế nông nghiệp miền núi và vùng kinh tế mới); 10 Cục (Cây lương thực
(1)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 quy định chức năng và tổ chức bộ
máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Công báo số 12A-1971. (2)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 67-CP ngày 23 tháng 4 năm 1971. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. (3)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II (1955-1976), Sđd,
tr. 449.
24
và thực phẩm; Cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc; Chăn nuôi gia súc lớn; Chăn
nuôi gia súc nhỏ; Nuôi cá nước ngọt; Dâu tằm; Chế biến nông sản; Thủy nông; Công cụ và
cơ giới nông nghiệp; xây dựng); 01 Tổng công ty (Vật tư nông nghiệp); 08 Viện (Khoa học
nông nghiệp; Cây lương thực và cây thực phẩm; Cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm
thuốc; Thổ nhưỡng, nông hóa; Chăn nuôi; Thú y; Bảo vệ thực vật; Công cụ và cơ giới hóa
nông nghiệp); Các Trường đại học Nông nghiệp I, II, III; Các trường nghiệp vụ, trung cấp
thực hành, đào tạo công nhân kỹ thuật; Học viện kinh tế nông nghiệp(1)
.
Bộ máy quản lý nông nghiệp ở địa phương cũng được kiện toàn theo mô hình tổ
chức thống nhất từ Ủy ban, các Sở, Ty Nông nghiệp được chuyển thành Ủy ban Nông
nghiệp tỉnh, thành phố. Ở cấp huyện, các Phòng Nông nghiệp chuyển thành Ủy ban Nông
nghiệp huyện. Tùy theo tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp ở huyện, mà ở các tỉnh trung
du, miền núi thành lập Ủy ban Nông nghiệp, Lâm nghiệp huyện, gọi tắt là Ủy ban Nông,
lâm nghiệp huyện.
Về mô hình tổ chức, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý
theo lãnh thổ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các Ủy ban Nông nghiệp địa
phương vừa thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, vừa thuộc Ủy ban
Nông nghiệp Trung ương. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ
và có quyền ra chỉ thị cho Ủy ban Nông nghiệp cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ. Ủy ban Nông
nghiệp tỉnh được Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo toàn diện các hoạt động quản lý ngành
theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ủy ban Nông nghiệp trung ương(2)
.
Đối với cấp huyện, Ủy ban nông, lâm nghiệp huyện chịu sự chỉ đạo của Ủy ban hành
chính huyện, Ủy ban Nông nghiệp tỉnh, Ty lâm nghiệp tỉnh. Bộ máy của Ủy ban nông, lâm
nghiệp huyện tổ chức gọn nhẹ(3)
.
Ủy ban Nông nghiệp Trung ương tiếp nhận nhiệm vụ và hệ thống tổ chức quản lý
ruộng đất từ Bộ Nông nghiệp cũ. Để tăng cường công tác quản lý ruộng đất, ngày 28 tháng
6 năm 1971 Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 125-CP, theo đó, năm 1972, Ủy ban
Nông nghiệp Trung ương đã tách Vụ Quản lý ruộng đất và quy hoạch vùng sản xuất nông
nghiệp thành ba cơ quan là Vụ Quản lý ruộng đất, Ban Phân vùng và quy hoạch nông
nghiệp và Viện Thổ nhưỡng nông hóa.
Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (từ 24 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1976),
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1976-1981 được bầu gồm
(1)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 quy định chức năng và tổ chức bộ
máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Công báo số 12A-1971 (2)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 24-CP ngày 2 tháng 2 năm 1976 ban hành quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của chính quyền nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Thuvienphapluat.vn (3)
Hội đồng Chính phủ: Nghị quyết số 61-CP ngày 5 tháng 4 năm 1976 về tổ chức lại sản xuất, cải tiến một
bước quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp từ cơ sở. Thuvienphapluat.vn
25
39 thành viên, trong đó Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được đổi thành Bộ Nông nghiệp
và thành lập các Bộ mới: Bộ Lâm nghiệp, Bộ Hải sản. Các Bộ cũ như Thủy lợi (thành lập
năm 1962), Lương thực và Thực phẩm (thành lập năm 1969) được giữ nguyên.
6. Tổng cục Lâm nghiệp giai đoạn 1960-1976
Tổng cục Lâm nghiệp là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, được thành lập trên
cơ sở Cục Lâm nghiệp tách ra từ Bộ Nông lâm theo Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ
tháng 4 năm 1960, nhằm tăng cường công tác quản lý ngành lâm nghiệp, thực hiện các
nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ngày 28 tháng 4 năm 1960, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II đã tán thành Nghị quyết
này của Hội đồng Chính phủ. Ông Nguyễn Tạo, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông lâm được
cử giữ chức Tổng cục trưởng đầu tiên của Tổng cục Lâm nghiệp(1)
. Cơ quan của Tổng cục
Lâm nghiệp đặt trụ sở tại 123 phố Lò Đúc, Hà Nội. Tổng cục Lâm nghiệp hoạt động từ
tháng 4 năm 1960 đến tháng 7 năm 1976, khi Bộ Lâm nghiệp thành lập. Tổng cục lâm
nghiệp là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác lâm nghiệp
theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế
hoạch quản lý rừng và đất rừng, phát triển sản xuất lâm nghiệp, xây dựng khoa học kỹ
thuật lâm nghiệp, nhằm xây dựng kỹ thuật lâm nghiệp, nhằm xây dựng lâm nghiệp và xã
hội chủ nghĩa, phát huy mọi mặt lợi ích và tác dụng của rừng để phục vụ sản xuất, phục vụ
dân sinh, phục vụ quốc phòng(2)
.
Trong 16 năm hoạt động, lãnh đạo Tổng cục Lâm nghiệp có nhiều thay đổi. Trong
giai đoạn (1960 - 1971), ông Nguyễn Tạo đảm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng (còn gọi là
Chủ nhiệm Tổng cục); các ông Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Mạnh Hồng và Nguyễn Văn
Phương là Phó Tổng cục trưởng (Phó Chủ nhiệm Tổng cục). Ngày 2 tháng 7 năm 1971,
Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 126b/CP bổ nhiệm ông Hoàng Bửu Đôn, nguyên
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng, giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm
nghiệp thay ông Nguyễn Tạo (được điều động giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông
nghiệp Trung ương). Về các Phó Tổng cục trưởng, ông Nguyễn Văn Phương cũng được
chuyển sang Ủy ban Nông nghiệp Trung ương sau ông Nguyễn Tạo; các ông Chu Đỗ,
Nguyễn Tuân, Phạm Đình Sơn lần lượt được Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng cục
trưởng trong các năm 1971 - 1973. Sau năm 1973, lãnh đạo Tổng cục gồm ông Hoàng Bửu
Đôn - Tổng cục trưởng, cùng với các Tổng cục phó là Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Đình
Ngữ, Phạm Đình Sơn. Các ông Nguyễn Tuân, Chu Đỗ được Chính phủ điều động sang
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II
(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 140-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục
Lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn
26
công tác ở các ngành khác(1)
.
Theo Nghị định số 140-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ, tổ
chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp gồm: Văn phòng; Ban Thanh tra và 03 Vụ (Tổ
chức cán bộ và lao động tiền lương; Kế hoạch; Tài vụ); 05 Cục (Trồng rừng; Điều tra quy
hoạch rừng; Khai thác lâm sản; Vận chuyển phân phối lâm sản; Chế biến lâm sản). Ngoài
ra còn có Viện Nghiên cứu lâm nghiệp và các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp do Tổng cục
quản lý(2)
. Các Cục, ngoài nhiệm vụ tham mưu cho Tổng cục trưởng về quản lý các chuyên
ngành, còn được giao quản lý một số đơn vị thuộc chuyên ngành sản xuất, như: Cục Trồng
rừng quản lý trực tiếp Đoàn thiết kế trồng rừng; Công ty giống cây rừng; Trạm thí nghiệm
cơ giới hóa trồng rừng; Cục Điều tra quy hoạch rừng quản lý trực tiếp các đoàn, đội điều
tra rừng trực thuộc đặt ở các vùng và chỉ đạo nhiệm vụ kỹ thuật điều tra rừng cho các đoàn
điều tra rừng trực thuộc Ty Lâm nghiệp các tỉnh; Cục Khai thác lâm sản theo dõi tổng hợp
về quản lý và hoạt động ở các lâm trường quốc doanh; Cục Vận chuyển phân phối lâm sản
quản lý các phân cục, tổng kho lâm sản, các công ty ô tô vận tải lâm sản, công ty vận
chuyển gỗ bằng đường thủy (Công ty Ca nô) thuộc Tổng cục; Cục Chế biến lâm sản quản
lý các xưởng, nhà máy chế biến gỗ.
Sau đó, do yêu cầu của phát triển thời kỳ 1963 - 1964, Chính phủ quyết định lập
thêm ba Cục quản lý chuyên ngành mới và một Viện trực thuộc Tổng cục là: Cục Cơ khí
vật tư; Cục Kiến thiết cơ bản; Cục Bảo vệ Lâm nghiệp và Viện Thiết kế công trình Lâm
nghiệp(3)
. Đến năm 1964, tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp được điều chỉnh một
lần nữa tại Quyết định số 12-CP ngày 15 tháng 1 năm 1964 của Hội đồng Chính phủ. Theo
đó, Chính phủ sáp nhập các Cục Khai thác lâm sản và Vận chuyển, phân phối thành Cục
khai thác, vận chuyển và phân phối lâm sản; thành lập Vụ Lao động và tiền lương (tách ra
từ Vụ Tổ chức cán bộ và lao động tiền lương) và Vụ Khoa học kỹ thuật (4)
..
Căn cứ Pháp lệnh Bảo vệ rừng (do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6
tháng 9 năm 1972 và Lệnh số 147-LCT của Chủ tịch nước công bố ngày 11 tháng 9 năm 1972),
ngày 21 tháng 5 năm 1973, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 101-CP quy định hệ thống
tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm lâm nhân dân với hệ thống từ Trung ương đến
cấp huyện, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Hệ
thống Kiểm lâm nhân dân có ba cấp: Cục Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Tổng cục Lâm
nghiệp, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có rừng có Chi cục Kiểm lâm
nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố. Tại cấp huyện, ở
những nơi có rừng có Hạt Kiểm lâm nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính
(1)
Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 64, 67. (2)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 140-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (3)
Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 64-65. (4)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 12-CP ngày 15 tháng 1 năm 1964 sửa đổi bộ máy của Tổng cục Lâm
nghiệp. Thuvienphapluat.vn
27
huyện. Ở những nơi tập trung đầu mối giao thông quan trọng (đường thủy, đường bộ,
đường sắt) thì có thể thành lập các Hạt kiểm lâm nhân dân để làm nhiệm vụ kiểm soát lâm
sản (gọi là Hạt Kiểm soát lâm sản). Tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi, Tổng cục Lâm
nghiệp quyết định đặt các Hạt này trực thuộc Cục Kiểm lâm nhân dân hoặc Chi Cục Kiểm
lâm nhân dân. Cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân được hưởng các chế độ giống như đối
với lực lượng Công an nhân dân vũ trang; được trang bị đồng phục và vũ khí.
Tổng cục Lâm nghiệp cũng tiếp nhận một số đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp
do các cơ quan Trung ương khác quản lý, như các công trường khai thác của Tổng cục Hậu
cần để tổ chức thành bốn lâm trường quốc doanh trực thuộc Tổng cục(1)
. Ngoài ra Tổng
cục cũng tiếp nhận, sáp nhập một số đơn vị lâm nghiệp thuộc các Ty Lâm nghiệp để thành
lập các lâm trường hoặc xí nghiệp trực thuộc Tổng cục(2)
…
Để đẩy mạnh công tác trồng rừng, Tổng cục Lâm nghiệp cho thành lập các Trạm
cơ giới trồng rừng ở các trọng điểm. Tháng 3 năm 1961, Trạm cơ giới trồng rừng đầu
tiên ở miền Bắc được thành lập ở Khu Hồng Quảng. Đội quân chủ lực trồng cây gây
rừng trong những năm (1965 - 1971) là 109 lâm trường và trạm trồng cây gây rừng của
Nhà nước(3)
.
Trong giai đoạn 1971 - 1976 tổ chức của ngành lâm nghiệp nước ta có những thay
đổi, tập trung vào các hướng: chuyển tất cả các xí nghiệp, công ty đã thực hiện chế độ hạch
toán kinh tế độc lập đang trực thuộc các Cục của Tổng cục thành các đơn vị độc lập trực
thuộc Tổng cục; thành lập các tổng công ty chuyên ngành thay thế các Cục quản lý chuyên
ngành. Mỗi tổng công ty hoặc công ty được giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp và toàn diện
các xí nghiệp cùng ngành sản xuất. Bên cạnh đó, Tổng cục thành lập Vụ sản xuất để giúp
Tổng cục trưởng chỉ đạo kỹ thuật các khâu sản xuất; chuyển Cục Bảo vệ lâm nghiệp thành
Cục Kiểm lâm nhân dân (theo Pháp lệnh Bảo vệ rừng năm 1972); chuyển Cục Điều tra quy
hoạch rừng thành Viện Điều tra quy hoạch rừng…(4)
Sau khi Tổng cục Lâm nghiệp ra đời, các cơ quan quản lý lâm nghiệp địa phương
cũng được kiện toàn. Từ chỗ có 19 Ty Lâm nghiệp ở 19 tỉnh và các phòng Lâm nghiệp
hoặc bộ phận lâm nghiệp trong 12 Ty Nông Lâm ở những tỉnh, thành phố có ít rừng thuộc
đồng bằng Bắc Bộ, đã thành lập thêm một số Ty Lâm nghiệp ở những tỉnh có rừng hoặc
công tác lâm nghiệp phát triển. Năm 1961 toàn miền Bắc có 23 Ty Lâm nghiệp(5)
và hầu
(1)
Tổng cục Lâm nghiệp: Quyết định số 224-LN/QĐ ngày 10 tháng 6 năm 1961 về tiếp nhận bốn lâm trường
quốc doanh trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.Thuvienphapluat.vn (2)
Tổng cục Lâm nghiệp: Quyết định số 207-LN/QĐ ngày 10 tháng 5 năm 1961 về thành lập lâm trường Yên
Bình tỉnh Yên Bái trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.Thuvienphapluat.vn (3)
Hội đồng Chính phủ: Nghị quyết số 183-CP ngày 25 tháng 9 năm 1966 về công tác trồng cây gây rừng.
Thuvienphapluat.vn (4)
Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 68. (5)
Là các tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa Bình, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Ninh,
Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Khu Hồng Quảng, Sơn La, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái,
28
hết các Ty Nông lâm ở vùng đồng bằng đều có phòng Lâm nghiệp. Các Ty Lâm nghiệp là
cơ quan nghiệp vụ cấp dưới của Tổng cục Lâm nghiệp, chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Tổng
cục và là cơ quan giúp việc cho Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố về quản lý ngành
lâm nghiệp.
Trong những năm từ 1961 đến 1973, chức năng, nhiệm vụ của các Ty Lâm nghiệp có
thay đổi khi phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh và thực hiện nội dung cải tiến quản
lý xí nghiệp của Chính phủ. Sau này, khi đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ rừng (năm 1972)
và Nghị định số 101/CP ngày 21 tháng 5 năm 1973 của Chính phủ về nhiệm vụ, tổ chức và
quyền hạn của lực lượng kiểm lâm nhân dân, thì tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn của các Ty
Lâm nghiệp có sự thay đổi lớn: chuyển giao các nhiệm vụ và lực lượng bảo vệ rừng cho
Chi cục Kiểm lâm nhân dân quản lý; Ty Lâm nghiệp hoạt động gần như cơ quan quản lý
cấp trên của các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, chứ không phải cơ quan quản lý
nhà nước về lâm nghiệp như trước. Lúc đó, ở tỉnh hình thành hai tổ chức quản lý lâm
nghiệp là: Chi cục Kiểm lâm nhân dân được tổ chức độc lập với các đơn vị sản xuất, do đó
cũng độc lập về tổ chức với Ty Lâm nghiệp, để tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi
còi” trong quản lý và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, việc phân giao này đã bộc lộ những bất cập,
chưa rõ ràng về vị trí pháp lý của các Ty, về cơ chế trách nhiệm của hai tổ chức, nhất là
trách nhiệm bảo vệ rừng của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Ty Lâm nghiệp bị
buông lỏng, do chưa được quy định rõ ràng, cụ thể về tổ chức, biên chế, kinh phí về bảo vệ
rừng… Vì vậy, trong Nghị định 24-CP ngày 2 tháng 2 năm 1976 về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của chính quyền nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Hội đồng
Chính phủ đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về
quản lý nông - lâm nghiệp thông qua cơ quan chuyên ngành của mình là các Ty và sự phối
hợp giữa Ủy ban hành chính tỉnh với Ủy ban Nông nghiệp Trung ương và Tổng cục Lâm
nghiệp. Riêng ngành khai thác, chế biến và phân phối gỗ thì Tổng cục Lâm nghiệp trực
tiếp quản lý, hoặc ủy quyền cho địa phương quản lý một phần.
Đến tháng 6 năm 1976, Quốc hội đã chính thức thành lập Bộ Lâm nghiệp thay cho
Tổng cục Lâm nghiệp. Ngành Lâm nghiệp bước sang giai đoạn phát triển mới, từ 1976 đến
1995, trước khi Bộ Lâm nghiệp được hợp nhất với các bộ khác để thành lập Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
7. Tổng cục Thủy sản giai đoạn 1960-1976
Tổng cục Thủy sản được thành lập trên cơ sở Vụ Ngư nghiệp tách ra từ Bộ Nông
lâm theo Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ tháng 4 năm 1960, được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa II tán thành ngày 28 tháng 4 năm 1960. Việc thành lập Tổng cục Thủy sản
là nhằm tăng cường công tác quản lý ngành thủy sản, thực hiện các nhiệm vụ phát triển
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh.
29
thủy sản, phát huy tốt tiềm năng và vai trò của thủy sản đối với nền kinh tế đất nước trong
bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đảm bảo cung cấp nhiều thực phẩm cho
nhân dân và quốc phòng. Tổng cục Thủy sản hoạt động 16 năm, từ tháng 4 năm 1960 đến
tháng 7 năm 1976 khi Bộ Hải sản được thành lập. Ông Lê Duy Trinh, nguyên Thứ trưởng
Bộ Nông lâm (được bổ nhiệm ngày 20 tháng 9 năm 1955), được cử giữ chức Tổng cục
trưởng đầu tiên của Tổng cục(1)
.
Trong 16 năm hoạt động, lãnh đạo Tổng cục Thủy sản có nhiều thay đổi. Ông Lê
Duy Trinh, giữ chức Tổng cục trưởng từ tháng 4 năm 1960 đến năm 1961. Các Tổng cục
trưởng sau này có Nguyễn Trọng Tỉnh (1961-1974) và ông Hoàng Hữu Nhân (1974 đến 1976).
Các Phó Tổng cục trưởng là ông Nguyễn Cao Đàm (khoảng từ 1962 đến 1966(2)
); ông Vũ
Song (từ 1966 đến 1976); ông Nguyễn Hữu Ngân (từ 1970 đến 1974) và ông Đoàn Bá
Khánh (từ 1971 đến 1973)(3)
.
Tổng cục Thủy sản là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý
công tác thủy sản và quản lý tốt các hợp tác xã nghề các theo đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển nuôi, bảo vệ,
khai thác, thu mua, chế biến thủy sản, cung cấp và cải tiến công cụ làm nghề cá, nhằm tiến
lên công nghiệp hóa nghề cá, tận dụng mọi khả năng nguồn lợi thủy sản, để thỏa mãn nhu
cầu thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa cho xuất
khẩu, và góp phần củng cố quốc phòng(4)
. Tổng cục Thủy sản có nhiệm vụ, quyền hạn
tương tự như một Bộ của Hội đồng Chính phủ quản lý thống nhất lĩnh vực nghề cá.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy của Tổng cục Thủy
sản được quy định tại Nghị định 156-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961 gồm: Văn phòng; Ban
Thanh tra và 04 Vụ (Tổ chức cán bộ, Kế hoạch, Tài vụ, Nuôi thủy sản); 02 Cục (Khai thác
hải sản, Cung tiêu chế biến thủy sản) và các đơn vị sự nghiệp khác do Tổng cục quản lý.
Tại địa phương, thành lập các Ty ở các tỉnh miền biển và một số tỉnh, thành, khu:
Việt Bắc, Thái Mèo, Hà Nội, Hà Đông, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên. Các tỉnh khác sẽ
thành lập phòng thủy sản trực thuộc Uỷ ban hành chính. Ở cấp huyện thành lập Phòng
Thủy sản trực thuộc Uỷ ban hành chính các huyện miền biển, còn các huyện khác sẽ có
một số cán bộ theo dõi(5)
.
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005,
tập II (1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)
Hiện chưa tìm được tư liệu chính xác về thời gian giữ chức Tổng cục phó của ông Nguyễn Cao Đàm. Tại
các quyết định của Tổng cục Thủy sản tra cứu được trên Thư Viện Pháp luật, thì ông Đàm đã ký với tư cách
Phó Tổng cục trưởng từ tháng 5 năm 1962 đến tháng 6 năm 1966. (3)
Bộ Thủy sản, Tạp chí Thủy sản: Thủy sản Việt Nam trên chặng đường đổi mới và hội nhập. NXB Lao
động, 2004, tr. 40-41. (4)
Theo quy định tại Nghị định số 156-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ. (5)
Tổng cục Thủy sản: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 1960 và chủ trương biện pháp thực hiện kế
hoạch năm 1961. Tài liệu lưu tại Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và PTNT.
30
Trong các năm tiếp theo, tổ chức bộ máy của Tổng cục tiếp tục được tăng cường. Để
thực hiện chủ trương phát triển tàu thuyền vận tải và nghề cá(1)
, Hội đồng Chính phủ thành
lập Cục cơ khí và tàu, thuyền thuộc Tổng cục vào năm 1963(2)
. Tiếp đó, năm 1964, Hội
đồng Chính phủ thành lập Vụ Hợp tác xã nghề cá thuộc Tổng cục(3)
. Trong giai đoạn 1965 - 1976,
Tổng cục còn được thành lập thêm Vụ Nghiên cứu kỹ thuật và Cục Kiến thiết cơ bản.
Ngoài việc kiện toàn tổ chức quản lý, năm 1960, Tổng cục tiếp nhận ba xí nghiệp
quốc doanh đánh cá thuộc Vụ Ngư nghiệp, Bộ Nông lâm cũ(4)
và xí nghiệp quốc doanh
đánh cá Sông Gianh(5)
. Đến năm 1962, trong ngành thủy sản có ba loại xí nghiệp là: (i) sản
xuất và sửa chữa tư liệu sản xuất; (ii) khai thác và chế biến sản phẩm thủy sản và (iii) cung
cấp vật tư(6)
.
Các đơn vị sự nghiệp khoa học và đào tạo của Tổng cục cũng từng bước kiện toàn tổ
chức, tăng cường năng lực. Năm 1961 Tổng cục chuyển Trường sơ cấp hàng hải thuộc nhà
máy cá hộp Hạ Long thành trường sơ cấp hàng hải-thủy sản(7)
. Năm 1963, di chuyển
trường nghiệp vụ Gia Lâm về Thủy Nguyên, Hải Phòng. Năm 1964 Tổng cục hợp nhất
trường này với Trường Trung cấp Thủy sản Trung ương II(8)
. Năm 1966, Hội đồng Chính
phủ thành lập Trường Thủy sản trực thuộc Tổng cục Thủy sản trên cơ sở Khoa Thủy sản
thuộc Trường Đại học Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và Trường Kỹ thuật Hải sản
Hải Phòng(9)
. Cũng trong năm 1966, Tổng cục Thủy sản cùng với Bộ Giáo dục ra Thông tư
liên Bộ số 010-TT/LB ngày 9 tháng 6 năm 1966 về việc củng cố và phát triển các trường,
lớp bổ túc văn hóa và kỹ thuật ở miền biển.
Khi Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được thành lập năm 1971, Hội đồng Chính phủ
đã giao ngành nuôi cá nước ngọt cho Ủy ban Nông nghiệp Trung ương quản lý, do vậy,
trong tổ chức bộ máy của Ủy ban có Cục nuôi cá nước ngọt (Nghị định số 234/CP ngày 18
(1)
Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 94-TTg ngày 24 tháng 9 năm 1962 về đẩy mạnh phát triển tàu thuyền vận
tải và nghề cá. Thuvienphapluat.vn (2)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 61-CP ngày 6 tháng 5 năm 1963 về thành lập Cục Cơ khí và tàu
thuyền thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (3)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 26-CP ngày 1 tháng 2 năm 1964 về thành lập Vụ Hợp tác xã nghề cá
thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (4)
Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 267-TS/QĐ ngày 19 tháng 5 năm 1962 về việc chuyển xí nghiệp ngư cụ
Cửa Hội thành Xí nghiệp đóng ráp tàu thuyền Cửa Hội. Thuvienphapluat.vn (5)
Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 304-TS/QĐ ngày 19 tháng 6 năm 1962 về việc chuyển xí nghiệp đánh
cá Nhật Lệ thành Xí nghiệp quốc doanh đánh cá Sông Gianh. Thuvienphapluat.vn (6)
Tổng cục Thủy sản: Chỉ thị số 26-TS/CT ngày 23 tháng 3 năm 1962 quy định nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu
tổ chức và lề lối làm việc của các xí nghiệp trực thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (7)
Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 93-TS/QĐ ngày 12 tháng 6 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (8)
Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 431-TS/QĐ ngày 21 tháng 9 năm 1964 về hợp nhất Trường nghiệp vụ
Gia Lâm vào Trường Trung cấp Thủy sản Trung ương II. Thuvienphapluat.vn (9)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 155-CP ngày 16 tháng 8 năm 1966 về thành lập Trường Thủy sản
thuộc quyền quản lý của Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn
31
tháng 12 năm 1971)1)
. Tuy nhiên, đến năm 1978 nhiệm vụ quản lý cá nước ngọt được
Chính phủ chuyển từ Bộ Nông nghiệp về Bộ Hải sản để hợp lý hóa quản lý ngành thủy sản
trong cả nước(2)
.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trước yêu cầu phát triển mới
của ngành trên phạm vi toàn quốc, Chính phủ đã thành lập Bộ Hải sản từ tháng 7 năm 1976
trên cơ sở Tổng cục thủy sản
8. Những nét nổi bật trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1955-1975
Chặng đường 20 năm (1955-1975) là thời kỳ đặc biệt của quá trình xây dựng và phát
triển ngành Nông nghiệp nước ta, khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, tiến hành hai
chiến lược cách mạng khác nhau, chịu nhiều thách thức to lớn trong và ngoài nước, dưới
chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Nông nghiệp miền Bắc dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã tiến hành cải tạo, đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với chế độ sở hữu nhà nước
và tập thể. Nông nghiệp miền Nam bị chia thành hai vùng, vùng tự do dưới chính quyền
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng lãnh đạo và vùng tạm chiếm
của chính quyền Mỹ - ngụy Việt Nam Cộng hòa, dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong
khi nông nghiệp miền Nam phát triển không ổn định, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
lương thực, thực phẩm của xã hội, thì nông nghiệp miền Bắc đã hoàn thành vai trò mặt trận
hàng đầu trong xây dựng hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam. Những thành tựu vượt khó, phát triển sản xuất, chi viện sức người, sức của cho
kháng chiến, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của nông nghiệp
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Nông nghiệp
Việt Nam. Bên cạnh những hậu quả nặng nề do chiến tranh gây ra, những nhân tố tích cực
trong phát triển nông nghiệp ở miền Bắc, cũng như ở miền Nam cả trong vùng giải phóng
và vùng tạm chiếm thời kỳ 1955-1975 là những bài học thực tế có giá trị để chúng ta
nghiên cứu phục vụ cho phát triển nông nghiệp trong các thời kỳ tiếp sau.
Trải qua trải các giai đoạn khôi phục, phát triển và cải tạo kinh tế (1955-1960),
những năm thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) và giai đoạn cả nước có
chiến tranh (1965-1975), nông nghiệp miền Bắc đã đạt được các thành tựu phát triển nhờ
các yếu tố tích cực, đúng đắn trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và sức
mạnh của quần chúng nhân dân, của tổ chức và đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức lao
động ngành nông nghiệp.
Đường lối, chính sách nông nghiệp đó được đề ra phù hợp bối cảnh cách mạng nước
ta trong từng giai đoạn, được nhân dân ủng hộ thực hiện. Cải cách ruộng đất với khẩu hiệu
(1)
Hội Nghề cá Việt Nam: Bách khoa thủy sản. NXB Nông nghiệp, H. 2007, tr.515-517 (2)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 66-CP ngày 28 tháng 3 năm 1978 về chuyển giao nhiệm vụ quản lý cá
nước ngọt từ Bộ Nông nghiệp sang Bộ Hải sản. Thuvienphapluat.vn
32
“Người cày có ruộng”, phong trào hợp tác hóa tổ chức lại sản xuất của nông dân theo
phương thức tập thể đã giải phóng nông dân, đưa nông dân làm chủ đất nước. Nông dân,
nhất là bần, cố nông lần đầu tiên có đất - tư liệu sản xuất sản xuất, đặc biệt đã hăng hái huy
động mọi nguồn lực tham gia sản xuất. Nông nghiệp sau 9 năm kháng chiến đã được khôi
phục nhanh, đạt và vượt so với mức trước chiến tranh, nạn đói được đẩy lùi, phương thức
sản xuất lớn đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, dân chủ, công
bằng là ước mong của toàn dân. Mặc dù có những hạn chế, nhưng phong trào hợp tác hóa
và phát triển các nông, lâm trường quốc doanh đã thành công ở giai đoạn đầu, phát huy tác
động tích cực trong thời chiến, là nền tảng không thể thiếu để tập hợp sức mạnh to lớn của
quần chúng, tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta vừa phát triển kinh tế, vừa tập hợp được
nguồn nhân tài vật lực phục vụ công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Các
phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu, tăng năng suất, tăng sản lượng nông nghiệp, gánh
vác nhiệm vụ thay cho người ra trận, phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, yêu nước, liên
minh công nông và trí thức, thực hiện các hành động anh hùng cách mạng của nông dân,
công nhân viên chức lao động trong ngành những năm chiến tranh đã chứng minh cho
đường lối phát triển nông nghiệp đặc thù, đúng đắn đó. Các hợp tác xã là môi trường khơi
dậy được lòng yêu nước và tự hào dân tộc, kết hợp được lợi ích quốc gia với lợi ích gia
đình, cá nhân với tập thể trong điều kiện đất nước còn nghèo. Chúng ta đã thành công với
các phong trào “Cánh đồng 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha”; “tay cày, tay súng”, “tay lưới, tay
súng”, “tay cuốc, tay súng”, “ba đảm đang”; “thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”; “tất cả vì tiền tuyến”, “hậu phương thi đua với tiền phương” v.v… Có
những phong trào mà ngày nay được tiếp thu, nhân rộng, từ “Cánh đồng 5 tấn thóc/ha”
thành “Cánh đồng 50 triệu đồng/ha” rồi “Cánh đồng lớn theo chuỗi giá trị”…
Phát huy và kế thừa truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó, ngành nông
nghiệp được sự hậu thuẫn to lớn của thủy lợi, cùng với lâm nghiệp, ngư nghiệp đã kiến tạo
nên nền Nông nghiệp chung làm nền tảng và trụ đỡ cho kinh tế đất nước. Nhờ thủy lợi
được đầu tư và phát triển có hệ thống với những công trình trọng điểm quy mô lớn và vừa
kết hợp với nhiều công trình nhỏ được xây dựng ở khắp các địa phương, vùng miền, nông
nghiệp đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng thâm canh,
thủy lợi hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa. Ngư nghiệp cũng đã phát triển trong tất cả các lĩnh
vực khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản, tạo những cơ sở ban đầu để chúng ta quy
hoạch phát triển ngành thủy sản thành một ngành kinh tế quan trọng trong các giai đoạn
sau. Trong lâm nghiệp, bên cạnh nhiệm vụ khai thác, tổ chức sản xuất để đáp ứng nhu cầu
của các ngành kinh tế, quốc phòng và đời sống nhân dân trong chiến tranh về gỗ và lâm
sản, chúng ta đã chú trọng và vận động nhân dân trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng. Phong
trào Tết trồng cây do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động đã trở thành nét văn hóa mới,
truyền thống mới tốt đẹp của nhân dân ta, góp phần thúc đẩy trồng rừng.
33
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền nông nghiệp nước ta, vai trò của khoa
học kỹ thuật thời kỳ này đã được phát huy. Nhờ đường lối đi lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, công tác nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp nước ta được quan tâm đặc
biệt. Tuy bị hạn chế bởi chiến tranh, nhưng chúng ta đã xây dựng được những cơ sở quan
trọng của hệ thống khoa học công nghệ; tạo ra nhiều tiến bộ kỹ thuật có giá trị thực tiễn
cao về giống, phân bón, thiết bị máy cơ giới hóa ruộng nước, quy trình sản xuất thâm canh,
chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu năng suất… Đội ngũ cán bộ khoa học đã sâu sát thực
tế, “ba cùng với hợp tác xã, với nông dân”. Các cơ sở đào tạo nhân lực kỹ thuật của ngành
cũng gắn kết chặt chẽ với đồng ruộng, cùng các nhà khoa học tổ chức các đoàn chỉ đạo
điểm, trực tiếp hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Các thành tựu khoa
học kỹ thuật đã được nông dân tiếp nhận rộng rãi, thông qua lao động sáng tạo của nông
dân phát huy tác động kịp thời và to lớn.
Một yếu tố quan trọng làm nên thành công của Nông nghiệp Việt Nam những năm
kinh tế thời chiến là sự trưởng thành của tổ chức và đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức
lao động của Ngành. Đây là thời kỳ ra đời của một loạt các cơ quan Trung ương quản lý
các ngành nông nghiệp, nông trường, lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp, thủy sản và thủy
lợi. Hệ thống quản lý ngành dọc từ Trung ương đến địa phương cũng được hình thành và
từng bước kiện toàn, đảm bảo triển khai một cách thông suốt sự chỉ đạo thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cán bộ lãnh
đạo cùng với toàn thể công nhân viên chức người lao động của Ngành đã thường xuyên
bám sát thực tiễn sản xuất, sát cánh với nông dân, nông thôn trong mọi hoạt động và phong
trào thi đua yêu nước, tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đó cũng là nét đặc trưng
nổi bật của Ngành.
Nhờ tổng hòa những nguồn lực và yếu tố tích cực đó, đến năm 1975, khi cuộc chiến
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, thì Nông
nghiệp nước ta cũng đạt được các thành tựu rất cơ bản trong tất cả các lĩnh vực sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi, đóng góp xứng đáng vào truyền thống vẻ vang 70 năm
Nông nghiệp Việt Nam.
34
III. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành nông nghiệp
thời kỳ 1976-1986
Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI tháng 7 năm 1976, Bộ Nông nghiệp được
thành lập thay thế cho Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Mặc dù thời gian này vẫn còn tồn
tại một số cơ quan của Chính phủ mang tên gọi ủy ban, như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,
Ủy ban Vật giá Nhà nước, Ủy ban Dân tộc…, nhưng việc chuyển đổi Ủy ban Nông nghiệp
Trung ương thành Bộ Nông nghiệp là bước chuyển về phương thức quản lý ngành nông
nghiệp, từ cơ chế lãnh đạo tập thể, quyết định theo đa số của Ủy ban sang chế độ thủ
trưởng của Bộ.
Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và Lệnh Chủ tịch nước, trong nhiệm kỳ Chính phủ
(1976-1981), ông Võ Thúc Đồng được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp từ tháng 7
năm 1976. Sau đó một năm, đến tháng 7 năm 1977, ông Võ Thúc Đồng nhận nhiệm vụ
khác, Phó Thủ tướng Võ Chí Công (vừa thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Hải sản) được cử
kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp. Đến tháng 2 năm 1979, ông Nguyễn Ngọc Trìu
được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp thay ông Võ Chí Công.
Trong nhiệm kỳ tiếp theo (1981-1987), Quốc hội khóa VII tại kỳ họp thứ nhất từ
ngày 24 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981 đã thông qua bốn đạo luật, trong đó có Luật
Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng(1)
; đồng thời cũng thông qua thành phần lãnh đạo và các các
thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.
Cơ cấu Hội đồng Bộ trưởng trong nhiệm kỳ (1981-1987) có 26 Bộ và 6 cơ quan
ngang bộ, đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng. Cơ quan Thường
trực của Hội đồng Bộ trưởng là Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng gồm có Chủ tịch, các Phó
Chủ tịch (trong đó có một Phó Chủ tịch được phân công làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng thường trực và một Bộ trưởng làm Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng)(2)
.
Để quản lý các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi, lương thực và thực phẩm,
trong cơ cấu Hội đồng Bộ trưởng có sáu bộ là Bộ Nông nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy
lợi, Bộ Thủy sản, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực(3)
. Ông Nguyễn Ngọc Trìu
tiếp tục được cử làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp. Đến tháng 2 năm 1987, ông Nguyễn
(1)
Hội đồng Bộ trưởng nhiệm ký 1981 - 1987 được tổ chức trên cơ sở Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Hội
đồng Bộ trưởng được Quốc hội khóa VII thông qua tại kỳ họp thứ I. Chức năng chấp hành và chức năng
hành chính được thực hiện trong phạm vi nhân danh là cơ quan của Quốc hội. Tư cách của Hội đồng Bộ
trưởng là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước (theo Hiến pháp 1959) đã được chuyển thành cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội. (2)
Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng nhiệm kỳ 1981 - 1987 gồm: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Pham Văn
Đồng, các Phó Chủ tịch là Tố Hữu, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Huỳnh Tấn Phát, Võ Chí Công, Đỗ Mười,
Nguyễn Lam, Trần Quỳnh, Bộ trưởng Tổng Thư ký là Đặng Thí. (3)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tập 3, tr. 102 - 107.
35
Ngọc Trìu được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.
Sau khi thành lập Bộ Nông nghiệp, để đáp ứng yêu cầu quản lý ngành trong tình hình
mới, ngày 6 tháng 2 năm 1977, Hội đồng Chính phủ đã họp và có Nghị quyết về sửa đổi
một số tổ chức của Bộ Nông nghiệp. Trong tổ chức bộ máy của Ủy ban Nông nghiệp
Trung ương chuyển sang có một số tổng cục và cục, vụ được kiện toàn về tổ chức, như
Tổng cục Cây trồng, Tổng cục Chăn nuôi, Tổng cục Cao su, Cục Xây dựng, Cục Điều tra
khảo sát và quy hoạch nông nghiệp, Vụ Tổ chức cán bộ… Căn cứ nghị quyết này, ngày 11
tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 52-CP sửa đổi một số tổ chức của
Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Tổng cục Cao su được chuyển thành Tổng Công ty Cao su trực
thuộc Bộ Nông nghiệp(1)
.
Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1977, tại Hội nghị lần thứ hai khóa IV,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về tập trung cao độ lực lượng cả nước
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp. Để cải tiến một bước tổ chức bộ máy
quản lý nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết này, ngày 8 tháng 10 năm 1977, Hội đồng
Chính phủ ban hành Nghị định 275-CP về tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp. Trong đó
quy định Bộ Nông nghiệp là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm quản lý
ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc để thỏa mãn nhu cầu
về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và sản
phẩm cho xuất khẩu, xây dựng một nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
với một nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến.
Để thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn được giao, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ
Nông nghiệp gồm ba khối (sắp xếp theo trình tự của Nghị quyết 275-CP):
1) Các tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, gồm các Tổng Công ty, Công ty hoặc
Liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp đối với những cây, con đang phát triển, chuyên
môn hóa cao, sản xuất trên những địa bàn tập trung và có quy mô chế biến ngày càng lớn.
Trước mắt, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của Bộ gồm có: Tổng Công ty cao su;
Tổng công ty vật tư nông nghiệp; Công ty bông; Công ty cà phê, ca cao; Công ty mía,
đường; Công ty trâu, bò sữa và sữa; Công ty giống gà và gà công nghiệp; Các công ty giống
cây, giống con và công ty chuyên doanh các loại sản phẩm khác thuộc diện quản lý của Bộ;
Công ty thiết bị, phụ tùng cơ khí và các xí nghiệp sửa chữa cơ khí (đặt trong Tổng cục Trang
bị kỹ thuật); Công ty khai hoang cơ giới, các đội cơ giới (đặt trong Tổng cục Khai hoang và
vùng kinh tế mới); Công ty xây dựng nông nghiệp thuộc diện quản lý của Bộ.
2) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý hành chính - kinh tế,
gồm: Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế mới (trong Tổng cục có các Vụ trực thuộc là
(1)
Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 52-CP ngày 11 tháng 3 năm 1977. Thuvienphapluat.vn
36
Vụ Kế hoạch tài vụ, Vụ Khai hoang, Vụ Di dân); Tổng cục Trang bị kỹ thuật (trong Tổng
cục có các Vụ trực thuộc là Vụ Cơ điện, Vụ Sửa chữa cơ khí); Ban quản lý hợp tác xã
nông nghiệp và xí nghiệp nông nghiệp.
Khối các vụ, cục trực thuộc Bộ gồm: Văn phòng Bộ; Ban Thanh tra; 11 Vụ (Vụ Kế
hoạch, Vụ Trồng trọt, Vụ Chăn nuôi, Vụ Quản lý ruộng đất, Vụ Quản lý khoa học kỹ thuật,
Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế toán và tài vụ, Vụ Lao động và tiền lương, Vụ Tổ chức và cán
bộ, Vụ Quản lý xây dựng cơ bản, Vụ Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và công nhân kỹ thuật);
04 Cục (Cục Bảo vệ thực vật, Cục Thú y, Cục Dâu tằm, Cục Nuôi cá nước ngọt).
3) Các tổ chức về nghiên cứu khoa học kỹ thuật, về kinh tế và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công nhân nông nghiệp, gồm: Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (tổ chức
của Viện bao gồm các bộ môn nghiên cứu cơ bản; các viện chuyên đề, chuyên ngành là
Viện Nông hóa, thổ nhưỡng, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, Viện Cây công
nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc, Viện Bảo vệ thực vật, Viện Chăn nuôi, Viện Thú y,
một số cơ sở nghiên cứu thực nghiệm khác thuộc diện quản lý của Bộ); Các cơ sở nghiên
cứu gắn liền với các tổ chức sản xuất, kinh tế chuyên ngành gồm: Viện Công cụ và cơ giới
hóa nông nghiệp (đặt trong Tổng cục trang bị kỹ thuật); Viện Cây cao su (đặt trong Tổng
công ty cao su); các tổ chức nghiên cứu về cây bông, cây cà phê, ca cao, v.v… (đặt trong
các tổ chức sản xuất kinh doanh tương ứng) do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp xem xét và
quyết định thành lập; Học viện Kinh tế nông nghiệp; Viện Quy hoạch nông nghiệp; Viện
Thiết kế kiến trúc nông nghiệp; Các trường đại học nông nghiệp trực thuộc Bộ, gồm:
Trường Đại học Nông nghiệp I (Hà Nội), Trường Đại học Nông nghiệp II (Nghệ Tĩnh),
Trường Đại học Nông nghiệp III (Việt Bắc), Trường Đại học Nông nghiệp IV (thành phố
Hồ Chí Minh), Trường Đại học Nông nghiệp V (Cần Thơ); Một số trường trung học
chuyên nghiệp, trường nghiệp vụ và công nhân thuộc diện quản lý của Bộ(1)
.
Giai đoạn 1976-1981 là những năm đầu tiên nước ta chuyển từ thời chiến, đất nước
bị chia cắt sang thống nhất cả nước một chế độ chính trị và phát triển theo đường lối kinh
tế chung. Vì vậy, mô hình quản lý kinh tế ngành có nhiều thay đổi. Nhiều cơ quan thuộc
Bộ Nông nghiệp được kiện toàn, bổ sung chức năng, nhiệm vụ.
Ngày 18 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 207-CP chuyển
giao công tác vận động định canh, định cư từ Bộ Nông nghiệp sang Bộ Lâm nghiệp(2)
.
Ngày 28 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 66-CP chuyển
giao nhiệm vụ và toàn bộ tổ chức cán bộ quản lý cá nước ngọt từ Bộ Nông nghiệp sang
Bộ Hải sản(3)
. Theo đó, Cục Nuôi cá nước ngọt được chuyển từ Bộ Nông nghiệp về Bộ
(1)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977. Thuvienphapluat.vn (2)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3
(1976-1992), Sđd, tr. 90. (3)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3
37
Hải sản.
Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế
mới thuộc Bộ Nông nghiệp cũng được kiện toàn, bổ sung tại Quyết định số 59-CP ngày 14
tháng 3 năm 1978(1)
.
Đối với một số cây công nghiệp ngắn ngày, để thực hiện chủ trương tập trung thống
nhất tổ chức quản lý theo ngành trên phạm vi cả nước, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao cho xuất khẩu và nội tiêu, ngày 16 tháng 6 năm 1979, Hội đồng Chính phủ có Quyết
định số 224-CP yêu cầu Bộ Nông nghiệp chuyển giao cho Bộ Lương thực và Thực phẩm
toàn bộ nhiệm vụ tổ chức quản lý sản xuất từ khâu trồng trọt, chăm bón đến chế biến sản
phẩm hàng hóa các loại cây chè, mía, dứa, cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cán
bộ, công nhân, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật, các cơ sở nghiên cứu, các nông
trường, xí nghiệp, kho tàng kinh doanh các loại cây chè, mía, dứa(2)
.
Về quản lý các nông trường quốc doanh, ngày 5 tháng 4 năm 1978, Thủ tướng Chính
phủ có Quyết định cho phép Bộ Nông nghiệp chuyển giao một số nông trường quốc doanh
cho các tỉnh. Sau đó, năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 51-HĐBT ngày 22
tháng 2 năm 1985 về cải tiến quản lý nông trường quốc doanh, yêu cầu sắp xếp và tổ chức
lại sản xuất nông trường quốc doanh do các Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm,
Tổng cục Cao su trực tiếp quản lý. Theo đó, những nông trường tiếp tục do Trung ương
trực tiếp quản lý là các nông trường sản xuất giống cây trồng, giống gia súc nguyên chủng,
một phần giống cấp I; các nông trường sản xuất nông sản xuất khẩu hợp tác kinh tế với
nước ngoài. Còn những nông trường khác đều phân cấp cho tỉnh và từng bước phân cấp
cho huyện quản lý(3)
.
Công tác quản lý ruộng đất trước đây được giao cho Bộ Nông nghiệp qua các thời
kỳ, đến giai đoạn này được chuyển từ Bộ Nông nghiệp sang Tổng cục Quản lý ruộng đất
bắt đầu từ năm 1979. Trước đó, ngày 21 tháng 12 năm 1978, Hội đồng Chính phủ đã có
Nghị quyết hội nghị Thường vụ Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Tổng cục quản lý
ruộng đất trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Ngày 9 tháng 11 năm 1979, Hội đồng Chính
phủ có Nghị định số 404-CP quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Tổng cục Quản
lý ruộng đất. Theo đó, tổ chức và biên chế của Tổng cục quản lý ruộng đất được sắp xết
trên cơ sở của Vụ Quản lý ruộng đất của Bộ Nông nghiệp và tổ chức quản lý ruộng đất ở
(1976-1992), Sđd, tr. 139. (1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3
(1976-1992), Sđd, tr. 134. (2)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập 3
(1976 - 1992), Sđd, tr. 221-222. (3)
Hội đồng Bộ trưởng: Nghị quyết số 51-HĐBT ngày 22 tháng 2 năm 1985. Thuvienphapluat.vn
38
các ngành có liên quan chuyển sang.
Ngày 24 tháng 3 năm 1980, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 93-CP về việc
thành lập lại Tổng cục Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp quản lý ngành cao su trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, sau đó một năm,
trước yêu cầu tăng cường quản lý ngành cao đang có bước phát triển mạnh mẽ, tổ chức của
Tổng cục cao su một lần nữa thay đổi. Ngày 19 tháng 2 năm 1981, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Hội đồng Chính phủ chuyển Tổng cục Cao su thuộc Bộ
Nông nghiệp thành Tổng cục Cao su trực thuộc Hội đồng Chính phủ(1)
.
Đối với hệ thống quản lý ngành ở địa phương, ngày 30 tháng 9 năm 1976, Hội đồng
Chính phủ đã ra Quyết định số 386-TTg đổi tên Ủy ban nông nghiệp tỉnh, thành phố thành
Ty, Sở nông nghiệp tỉnh, thành phố. Theo Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977,
tổ chức quản lý nông nghiệp ở địa phương gồm có:
- Cấp tỉnh có Ty Nông nghiệp;
- Cấp thành phố trực thuộc Trung ương có Sở Nông nghiệp;
- Cấp huyện và đơn vị tương đương có Ban Nông nghiệp.
Ty hoặc Sở Nông nghiệp là cơ quan của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương phụ trách về sản xuất nông nghiệp trong tỉnh và thành phố, đồng thời là cơ
quan thuộc hệ thống ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước. Ty hoặc Sở chịu sự chỉ
đạo toàn diện của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kinh tế, kỹ
thuật, nghiệp vụ của Bộ Nông nghiệp.
Ban Nông nghiệp huyện và đơn vị tương đương là cơ quan của Ủy ban nhân dân
huyện phụ trách về sản xuất nông nghiệp trong huyện, đồng thời là cơ quan thuộc hệ thống
ngành nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Ban Nông nghiệp huyện chịu sự chỉ đạo toàn
diện của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kinh tế, kỹ thuật và
nghiệp vụ của cơ quan quản lý nông nghiệp cấp trên(2)
.
Trong những năm (1981-1986), Nhà nước chủ trương đẩy mạnh xây dựng mô hình
kinh tế cấp huyện, trong đó nòng cốt là kinh tế nông - công nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh
doanh nông - công nghiệp trên địa bàn huyện. Ngày 14 tháng 1 năm 1983, Đảng và Nhà
nước đã thành lập Ban Xây dựng huyện để chỉ đạo công tác này. Sau này, Ban Xây dựng
huyện được giải thể ngày 2 tháng 12 1986(3)
.
Để hỗ trợ các địa phương phía Nam, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
(1)
Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3, Sđd. tr. 44 - 50. (2)
Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977. Thuvienphapluat.vn. (3)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3
(1976 - 1992), Sđd, tr. 676.
39
phố miền Bắc trong các năm từ 1975 đến 1977 đã cử hàng vạn cán bộ tăng cường cho
các tỉnh, thành phố, ty, sở phía Nam. Ngày 28 tháng 1 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra
Quyết định số 27-CP giao nhiệm vụ cho Bộ Nông nghiệp điều động khoảng bốn nghìn
cán bộ của các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc đi tham gia cải tạo nông nghiệp ở
miền Nam trong thời gian bốn năm. Bộ Nông nghiệp còn được Chính phủ giao thực hiện
công tác điều động lao động và dân cư trên địa bàn cả nước, là một công tác quan trọng
của nhiệm vụ khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới. Cơ quan đầu mối giúp Bộ Nông
nghiệp thực hiện công tác này là Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế mới (trong tổ chức
bộ máy của Tổng cục có Vụ Chuyển dân). Sau đó, đến ngày 29 tháng 5 năm 1981, Hội
đồng Chính phủ ra Quyết định số 217-CP giao Bộ Lao động nhiệm vụ tổ chức, điều động
lao động và dân cư giữa các vùng trong cả nước theo kế hoạch phân bố lao động và dân
cư hàng năm và 5 năm của Nhà nước. Bộ Nông nghiệp bàn giao cho Bộ Lao động nhiệm
vụ kế hoạch, kinh phí sự nghiệp và toàn bộ số cán bộ đang làm nhiệm vụ này. Tiếp đó,
ngày 1 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo phân
bố lao động và dân cư(1)
.
Bộ Nông nghiệp hoạt động với tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ được giao
như nói trên trong vòng 10 năm, từ năm 1976 đến hết năm 1986. Sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội theo tinh
thần đổi mới toàn diện của Đảng, ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Nhà nước đã ra
Nghị quyết kiện toàn một bước các cơ quan và thành phần Hội đồng Bộ trưởng. Đó là thời
điểm thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm trên cơ sở hợp nhất ba bộ: Bộ
Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm và Bộ Lương thực.
3. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành lâm nghiệp thời
kỳ 1976-1986
Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, để thực hiện đường lối phát triển kinh tế,
ngành lâm nghiệp phải triển khai rất nhiều công việc phức tạp cả về tổ chức và kinh tế kỹ
thuật với phạm vi hoạt động đã được mở rộng trên cả nước. Trong thời gian chưa thống
nhất về mặt Nhà nước giữa hai miền Nam Bắc, ngành lâm nghiệp nước ta lúc đó có ba cơ
quan quản lý trực thuộc khác nhau:
- Tổng cục Lâm nghiệp ở Hà Nội, là cơ quan trực thuộc Chính phủ Nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa;
- Ban Lâm nghiệp Trung Trung Bộ ở thành phố Đà Nẵng, trực thuộc Ủy ban Nhân
dân Cách mạng Trung Trung Bộ;
(1)
Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3
(1976 - 1992), Sđd, tr. 344, 347.
40
- Tổng cục Lâm nghiệp miền Nam ở Sài Gòn, trực thuộc Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Các cơ quan này đã có kế hoạch phối hợp về tổ chức, phương thức quản lý, điều phối
nguồn lực của mình để xây dựng hệ thống tổ chức lâm nghiệp ở từng vùng phù hợp với
yêu cầu của đất nước sau khi thống nhất. Cùng với việc thành lập Chính phủ thống nhất cả
nước năm 1976, nhu cầu hợp nhất các tổ chức quản lý lâm nghiệp để hình thành cơ quan
cấp Trung ương đủ mạnh trở nên cấp thiết.
Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, khi kỳ họp thứ nhất Quốc hội
nước Việt Nam thống nhất (khóa VI) đã phê duyệt thành phần của Hội đồng Chính phủ,
trong Hội đồng Chính phủ có Bộ Lâm nghiệp. Như vậy, bắt đầu từ tháng 7 năm 1976, Bộ
Lâm nghiệp được thành lập. Toàn bộ cơ cấu tổ chức của Tổng cục Lâm nghiệp ở miền
Bắc, Ban Lâm nghiệp Trung Trung Bộ và Tổng cục Lâm nghiệp miền Nam đều đặt dưới
sự quản lý thống nhất của Bộ Lâm nghiệp. Ông Hoàng Văn Kiểu được cử làm Bộ trưởng.
Trong nhiệm kỳ Hội đồng Chính phủ (1976-1981), ông Hoàng Văn Kiểu giữ chức
Bộ trưởng đến tháng 2 năm 1979. Tiếp theo ông Trần Kiên được bổ nhiệm làm Bộ trưởng
thay cho ông Hoàng Văn Kiểu. Tháng 1 năm 1981, ông Phan Xuân Đợt được bổ nhiệm
làm Bộ trưởng thay cho ông Trần Kiên.
Trong nhiệm kỳ (1981-1987), Hội đồng Chính phủ được kiện toàn, trở thành Hội
đồng Bộ trưởng. Ông Phan Xuân Đợt được kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII (từ ngày 25
tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1981) tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp
trong nhiệm kỳ Hội đồng Bộ trưởng (1981-1987) và nhiệm kỳ sau đó (1987-1992).
Trong 10 năm, từ 1976 đến 1986, Chính phủ đã bổ nhiệm 11 Thứ trưởng Bộ Lâm
nghiệp là các ông Nguyễn Đình Ngữ (1976-1978); Huỳnh Văn Nghệ (1976-1977); Phạm