1 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG ANH HOÀNG QUN L TI SN CÔNG TI HỌC VIỆN CHNH TRỊ - HNH CHNH QUỐC GIA HỒ CH MINH TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUN LÝ KINH TẾ MÃ SỐ: 62 34 04 10 H NI – 2017
1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG ANH HOÀNG
QUAN LY TAI SAN CÔNG TAI HỌC VIỆN CHINH TRỊ -
HANH CHINH QUỐC GIA HỒ CHI MINH
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 62 34 04 10
HA NÔI – 2017
2
CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TAI
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS Ngô Quang Minh
Phản biện 1: ----------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
Phản biện 2: ----------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
Phản biện 3: ----------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấn luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nước ta hiện nay đang thực hiện đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội, thì tài sản công ngày càng được khẳng định là có vai trò
trọng yếu, là nguồn lực quan trọng để Nhà nước hỗ trợ phát triển nền kinh tế,
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với đó, quản lý để đảm
bảo tài sản công được khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đang là vấn đề
được chú trọng quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Chính vì
vậy, quản lý nhà nước về tài sản công nói chung và quản lý tài sản công tại
các đơn vị sự nghiệp nói riêng đã từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, công
khai và có hiệu quả, nhất là sau khi Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2009. Tuy nhiên,
bên cạnh những nỗ lực và kết quả rất đáng khích lệ đã đạt được, quản lý tài
sản công ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều hạn chế như: Cơ chế quản lý tài
sản công còn bất cập so với thực tế, nhiều cơ quan, đơn vị còn sử dụng lãng
phí nguồn lực tài sản công, sử dụng tài sản công sai mục đích, thậm chí gây
thất thoát tài sản…
Quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) cũng nằm trong
bối cảnh chung nêu trên, song do đặc thù về vị trí trong hệ thống các cơ quan
của Đảng, Nhà nước (là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và Chính phủ) và chức năng, nhiệm vụ được giao nên quản lý tài sản công tại
Học viện mặc dù được phân định cơ chế quản lý như đối với các đơn vị sự
nghiệp nhưng cũng có rất nhiều đặc thù so với các cơ quan, đơn vị khác. Do
đó, quản lý tài sản công tại Học viện đã xuất hiện ngày càng nhiều bất cập cần
được nghiên cứu, giải quyết để có cơ sở xây dựng một hệ thống cơ chế chính
sách, mô hình và các quy trình quản lý đảm bảo ổn định, hiệu quả, thống nhất
và tuân thủ những quy định mới của Nhà nước, đồng thời phù hợp những đặc
thù hoạt động của Học viện.
Tất cả các vấn đề trên đòi hỏi cần nghiên cứu một cách cơ bản, hệ
thống để tìm kiếm những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện quản lý tài sản
công ở Học viện trong thời gian tới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và
đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Luận án đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý tài sản công tại Học
4
viện trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề cơ bản về tài sản công, quản lý tài
sản công nói chung và quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp nói
riêng.
- Nghiên cứu một số kinh nghiệm quản lý tài sản công có hiệu quả, rút
ra bài học có thể vận dụng trong quản lý tài sản công tại Học viện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý tài sản công tại Học viện, rút ra
những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất các phương hướng, kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý tài sản công tại Học viện trong giai đoạn 2016-2025.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án được
xác định là nội dung quản lý tài sản công ở Học viện cả về giá trị và hiện vật,
gắn với các khâu của quá trình quản lý: quản lý quá trình hình thành tài sản;
quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản và quản lý quá trình kết thúc sử
dụng tài sản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Quản lý tài sản công trong cả hệ thống Học
viện (gồm 8 đơn vị).
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu thực trạng quản lý tài sản
công tại Học viện trong giai đoạn 2009 -2015.
- Phạm vi về nội dung quản lý: Nghiên cứu trong luận án được nghiên
cứu sinh tiếp cận từ góc độ đơn vị dự toán cấp 1 (Học viện) là cơ quan được
Nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản công; do đó, phạm vi về nội
dung quản lý được xác định là những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện
cơ chế quản lý và nội dung tổ chức quản lý, gắn với ba quá trình: Hình thành
tài sản; khai thác, sử dụng tài sản và kết thúc sử dụng tài sản.
- Phạm vi về đối tượng quản lý: Các tài sản công được nghiên cứu
trong Luận án chủ yếu gồm 4 loại tài sản đã được tập hợp vào cơ sở dữ liệu
quốc gia về tài sản nhà nước do Bộ Tài chính đang quản lý, gồm: tài sản là
nhà; quyền sử dụng đất; tài sản là phương tiện vận chuyển (ô tô); tài sản khác
có nguyên giá 500 triệu đồng/1đơn vị tài sản trở lên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Nhằm đảm bảo tính khoa học và thực
tiễn ở mỗi phận của nội dung nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp các
phương pháp khác nhau và trong từng giai đoạn nghiên cứu sẽ vận dụng
phương pháp thích hợp nhất, có kế thừa các công trình nghiên cứu khác để
làm cơ sở lý luận. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Phương pháp
thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, điều tra khảo sát.
5. Đóng góp mới của luận án
Mộ t là ,góp phần hệ thống hóa, đánh giá những nội dung được quan
5
tâm nghiên cứu đối với quản lý tài sản công của một quốc gia nói chung và ở
Việt Nam nói riêng, nhất là đối với một cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
đồng thời chỉ ra các khoảng trống trong nghiên cứu về quản lý tài sản công.
Trên cơ sở đó xây dựng khung lý thuyết về quản lý tài sản công trong đơn vị
sự nghiệp và dựa trên lý thuyết để phân tích, làm rõ hơn bản chất các vấn đề
ảnh hưởng tới mục tiêu, yêu cầu, chất lượng và hiệu quả quản lý tài sản công.
Hai là, phân tích một số kinh nghiệm quản lý tài sản công hiệu quả, rút
ra bài học tham khảo nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản
lý tài sản công;
Ba là, đóng góp nguồn cơ sở dữ liệu sơ cấp mới, góp phần vào việc
hoàn thiện quản lý tài sản công;
Bốn là, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện quản lý tài sản công tại một cơ quan đặc thù là Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài mục lục, tài liệu tham khảo và các phụ lục thì Luận án được kết
cấu thành 4 chương và 12 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOAI VỀ QUAN LY
TAI SAN CÔNG
Nghiên cứu về tài sản công đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài đề
cập đến khá nhiều, có thể kể đến một số nghiên cứu sau: Quản lý tài sản công
của tác giả Đinh Học Đông; Managing Government Property Assets:
International Experiences (Quản lý tài sản Chính phủ: những kinh nghiệm
quốc tế) của các tác giả: Conway Francisand, Charles Undelan, George
Peteson, Olga Kaganova và James McKellar; Towards efficient public sector
asset management (Hướng tới quản lý hiệu quả tài sản khu vực công) của các
tác giả: Grubisic Mihaela, Nusinovic Mustafa và Roje Gorana; Government
Property Resources: A Case for Asset Management (Nguồn lực tài sản Chính
phủ: Nghiên cứu đối với lĩnh vực quản lý tài sản) của các tác giả: Hentschel
John và Olga Kaganova; Property management as property rights
governance: Exclusion and internal conflict resolution (Quản lý tài sản như là
quản trị quyền sở hữu tài sản: giải pháp ngăn chặn và giải quyết các mâu
thuẫn bên trong) của các tác giả: Yiu C.Y, Wong S.K và Yau Y;
Effectiveness of property asset management in Scottish councils (Hiệu quả
quản lý tài sản tại Hội đồng Scottland) của các tác giả: Malawi Makaranga
Ngwira, Parsa Ali và Manase David; Efficient management of public sector
assets The call for correct evaluation criteria and techniques (Quản lý hiệu
6
quả tài sản công, yêu cầu về chỉ tiêu và kỹ thuật đánh giá chính xác) của Bond
Sandy và Dent Peter…
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƢỚC VỀ QUAN LÝ
TÀI SAN CÔNG
Trong giai đoạn trước khi Luật Quản lý, sử dụng tài sản công được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực
thi hành (từ năm 2008 trở về trước), các nghiên cứu trong nước về tài sản
công và quản lý tài sản công không nhiều, chủ yếu là các luận văn thạc sĩ, các
bài viết đăng trên các tạp chí nhằm nghiên cứu, trao đổi các vấn đề liên quan
hoặc các đề tài nghiên cứu của các đơn vị thuộc cơ quan quản lý nhà nước về
công sản, có thể kể đến một số nghiên cứu như sau: Chiến lược đổi mới cơ
chế quản lý tài sản công giai đoạn 2001-2010 của Nguyễn Văn Xa; Hoàn
thiện cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp của Phạm Đức
Phong; Sớm thực hiện một số biện pháp cấp bách về chống lãng phí trong sử
dụng tài sản nhà nước tại các dự án sử dụng vốn ODA của Nguyễn Thành
Đô; Hoàn thiện, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản nhà
nước của Lê Ngọc Khoa; Kinh nghiệm quản lý và chống lãng phí tài sản công
ở Anh của Ngọc Hương; Đổi mới quản lý tài sản công trong các đơn vị sự
nghiệp của Trần Văn Giao.
Sau khi Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được ban hành và có
hiệu lực thi hành, các nghiên cứu về tài sản công từ thời điểm đó đến nay đã
đa dạng hơn, với các mục tiêu, kết quả nghiên cứu tập trung vào nhiều vấn đề.
Có thể kể đến một số nghiên cứu sau: Cơ sở pháp lý cao nhất cho việc quản
lý, sử dụng tài sản công” của Nguyễn Mạnh Hùng; Góp phần hoàn thiện cơ
chế quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp” của Trần Văn Giao; Cơ
chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam của
Nguyễn Mạnh Hùng; Một số vấn đề về quản lý công sản ở Việt Nam hiện nay
của Chu Xuân Nam; Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà
nước ở Việt Nam”của Phan Hữu Nghị; Quản lý tài sản công trong các cơ
quan hành chính nhà nước - Các hạn chế và giải pháp của Lê Chi Mai; Khai
thác nguồn lực tài chính từ đất đai tại Việt Nam của Trần Đức Thắng; Đổi
mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính; Sử
dụng công cụ kế toán nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công
tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam của La Văn
Thịnh.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
CẦN THAM KHAO VA VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Một là, đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về tài sản công và quản lý
tài sản công.
7
Hai là, đã phân tích đặc điểm, mô hình, phương thức, công cụ và cơ
chế, chính sách quản lý tài sản công ở một số nước, trong đó có Việt Nam và
tại một số loại hình cơ quan, đơn vị cụ thể như cơ quan thuộc Chính phủ, đơn
vị sự nghiệp nói riêng. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để tham khảo,
có tính khả thi, giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định cơ chế, chính sách và
những người làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực quản lý tài sản công
thực hiện tốt các công việc có liên quan của mình.
Ba là, đã đánh giá rõ thực trạng quản lý tài sản công nói chung và quản
lý tài sản công trong đơn vị hành chính sự nghiệp nói riêng ở Việt Nam trong
thời gian qua, phân tích những thành tựu đạt được, những tồn tại, thách thức
và nguyên nhân. Từ đó đưa ra những nhận định và các kiến nghị, giải pháp
tương thích để nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu mà các công trình đã công bố đạt
được, đề tài tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện một số lý luận cơ bản
về tài sản công và quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp: khái niệm
tài sản công, tài sản công trong tài sản công gắn với lợi ích kinh tế mà nó đem
lại cho xã hội; các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài sản công...
Hai là, tiếp tục nghiên cứu một số kinh nghiệm thực tế về quản lý tài
sản công, rút ra bài học kinh nghiệm để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả quản lý tài sản công.
Ba là, từ những vấn đề lý luận đã nghiên cứu, luận án sẽ đi sâu phân
tích các căn cứ pháp lý, mô hình, thực trạng quản lý tài sản công tại Học viện
trong giai đoạn 2009-2015; đánh giá kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của các hạn chế dựa trên các quy trình quản lý tài sản.
Bốn là, trên cơ sở xác định quan điểm hoàn thiện quản lý tài sản công,
luận án nhận diện và phân tích các yêu cầu mới đặt ra đối với công tác quản lý
tài sản công tại Học viện. Từ đó, đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm
tăng cường quản lý, đảm bảo ổn định, hiệu quả, phù hợp với đặc thù hoạt
động của Học viện và đúng chế độ, chính sách của Nhà nước.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
2.1. TÀI SAN CÔNG TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
2.1.1. Đơn vị sự nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp
Đơn vị sự nghiệp là cơ quan do Nhà nước quyết định thành lập nhằm thực
hiện một số nhiệm vụ chuyên môn nhất định trong những lĩnh vực nào đó và
hoạt động được tài trợ bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, cũng như
bằng các nguồn thu khác theo nguyên tắc cung ứng hàng hóa, dịch vụ công
8
cộng. Theo quan niệm này đơn vị sự nghiệp phải hội đủ ba điều kiện: là cơ quan
nhà nước; không thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, chỉ sản xuất và cung ứng
hàng hóa, dịch vụ công cộng theo nhiệm vụ nhà nước giao; hạch toán theo quy
định về quản lý tài chính công.
2.1.1.2. Đặc điểm và phân loại đơn vị sự nghiệp
- Đặc điểm: + Là các tổ chức cung cấp hàng hóa, dịch vụ công.
+ Có đầy đủ tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
+ Kinh phí hoạt động chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước.
+ Cơ chế quản lý, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp không giống cơ
quan hành chính nhà nước, cũng không giống doanh nghiệp nhà nước.
+ Hàng hóa, dịch vụ do đơn vioj sự nghiệp cung ứng mang tính độc quyền
ở các mức độ khác nhau.
- Việc phân loại đơn vị sự nghiệp dựa trên các căn cứ sau: Ngành, lĩnh
vực hoạt động; chức năng, nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà nước hoặc thực hiện
nhiệm vụ được giao và cung cấp dịch vụ công; tính chất, đặc điểm về chuyên
môn, nghiệp vụ và cơ chế hoạt động. Đơn vị sự nghiệp do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp
nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước hiện nay đang hoạt động
theo cơ chế tự chủ theo Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính
phủ gồm có các loại sau: Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi hoạt động
thường xuyên; đơnvị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi hoạt động thường
xuyên và đơn vị sự nghiệp do Nhà nước bảo đảm toàn bộ chi hoạt động thường
xuyên. Xét trên góc độ quản lý tài chính, tài sản, các đơn vị sự nghiệp trong cùng
một ngành dọc được tổ chức theo hệ thống dọc từ trên xuống dưới gồm các đơn
vị dự toán các cấp: Đơn vị dự toán cấp1, đơn vị dự toán cấp 2, đơn vị dự toán
cấp 3 và đơn vị dự toán cấp dưới của đơn vị dự toán cấp 3.
2.1.2. Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm tài sản, tài sản công và tài sản công trong đơn vị
sự nghiệp
- Căn cứ các quy định của pháp luật, tài sản công được hiểu: là tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước, bao gồm toàn bộ tài sản được hình thành từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc ngân sách nhà nước; tài sản được
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, đóng góp, tặng cho Nhà
nước; các tài sản khác được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước thông qua
quốc hữu hóa hoặc quy định bằng pháp luật; đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia mà
pháp luật quy định là của Nhà nước; tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp; tài sản kết cấu hạ tầng thuộc các ngành, lĩnh vực thuộc sở hữu Nhà
nước, được Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng
9
theo quy định chung của Nhà nước và chịu sự kiểm tra giám sát của Nhà
nước trong quá trình quản lý sử dụng tài sản.
Tài sản công là tài sản được chiếm hữu, sử dụng để đáp ứng các lợi ích
công, đảm bảo cho lợi ích công được duy trì rộng rãi trong xã hội với chất
lượng ngày một nâng cao. Tài sản công là tài sản được sở hữu bởi tất cả
thành viên trong xã hội và mỗi cá nhân thành viên xã hội bất kỳ đều không
thể lấy tài sản công để một mình sử dụng.
- Tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận tài sản công
mà Nhà nước giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng để
thực hiện nhiệm vụ cung ứng hàng hóa, dịch vụ công phục vụ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của nhân dân, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2.2. Phân loại tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
- Căn cứ hình thái tồn tại, tài sản công được chia thành tài sản hữu hình
và tài sản vô hình.
- Căn cứ theo cấp quản lý, tài sản công trong đơn vị sự nghiệp gồm: tài
sản công do Chính phủ quản lý; tài sản công do các đơn vị sự nghiệp thuộc
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; tài sản công do các đơnvị
sự nghiệp thuộc cấp quận, huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) quản lý;
tài sản công do các đơn vị sự nghiệp thuộc cấp xã, phường, thị trấn quản lý.
- Căn cứ cách thức hình thành, có thể chia thành tài sản công được nhà
nước trực tiếp đầu tư tạo nên và tài sản công được gián tiếp sở hữu.
- Căn cứ vào công dụng của tài sản khi khai thác, sử dụng, có thể chia
tài sản trong đơn vị sự nghiệp thành: Nhà, đất thuộc trụ sở làm việc, công
trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất đai; phương tiện vận tải (xe
ô tô phục vụ công tác); máy móc, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
- Căn cứ theo đặc điểm hao mòn của tài sản, tài sản công trong đơn vị
sự nghiệp được phân loại thành tài sản hao mòn và tài sản không bị hao mòn.
- Căn cứ đặc điểm, tính chất, giá trị, thời gian hoạt động của tài sản,
người ta chia tài sản trong đơn vị sự nghiệp thành tài sản cố định và tài sản
khác (tài sản rẻ tiền, mau hỏng) hoặc bất động sản và động sản.
- Căn cứ tính chất kinh tế, tài sản công được chia thành tài sản công sử
dụng cho kinh doanh và tài sản công không kinh doanh.
- Ngoài ra, trong thực tiễn, để quản lý tài sản trong đơn vị sự nghiệp,
người ta áp dụng cách phân loại mang tính tổng hợp để phân chia tài sản công
thành: Tài sản cố định và tài sản khác (không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định).
2.1.2.3. Đặc điểm của tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
- Được hình thành từ ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc ngân sách
nhà nước.
- Luôn nhận được sự bảo vệ của pháp luật.
- Quyền sử dụng có sự tách rời khỏi quyền sở hữu.
10
- Đa dạng và phong phú, được phân bố rộng trên phạm vi cả nước, do
nhiều chủ thể quản lý, sử dụng và trình độ quản lý, sử dụng của các chủ thể
rất khác nhau.
- Giá trị giảm dần trong quá trình sử dụng.
- Luôn đối mặt với nguy cơ bị xâm phạm trong quản lý và sử dụng.
- Là nền tảng vật chất quan trọng cho việc đảm bảo các lợi ích công.
2.2. QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
2.2.1. Khái niệm quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
Quản lý tài sản công trong tài sản công là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của bộ máy quản lý đối với tài sản công nhằm đảm bảo tài
sản công được đầu tư xây dựng mới, mua sắm, quản lý, sử dụng, xử lý một
cách hiệu quả, tiết kiệm, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
giao cho các đơn vị sự nghiệp.
2.2.2. Mục tiêu của quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
Một là, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí và khai thác hiệu quả nguồn
tài sản công của Nhà nước.
Hai là, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ
mà nhà nước quy định.
Ba là, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp.
2.2.3. Các yêu cầu quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
Thứ nhất, thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời
phải có cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có
tính đặc thù riêng, đối với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ
cho các hoạt động có tính đặc thù riêng.
Thứ hai, thực hiện quản lý và sử dụng tài sản công đúng mục đích đầu
tư, trang bị; theo tiêu chuẩn, định mức; đảm bảo công khai, công bằng và hiệu
quả.
Thứ ba, phải được thực hiện thống nhất, có phân công, phân cấp rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về tài sản công.
Thứ tư, phải gắn với quản lý ngân sách nhà nước.
Thứ năm, phải được hạch toán đầy đủ về hiện vật, giá trị theo quy định
của pháp luật và được bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định.
2.2.4. Nội dung quản lý tài sản công trong đơn vị sự nghiệp
Luận án tiếp cận quản lý theo quá trình hình thành; khai thác, sử dụng
và quá trình kết thúc sử dụng tài sản.
2.2.4.1. Quản lý quá trình hình thành tài sản: Quản lý quá trình hình
thành tài sản công tại đơn vị sự nghiệp căn cứ vào phương thức hình thành
của tài sản: tài sản hình thành do được bàn giao, điều chuyển và tài sản được
hình thành do đầu tư xây dựng, mua sắm mới. Với mỗi phương thức hình
11
thành tài sản đều có các quy định của cơ quan có thẩm quyền về quy trình,
thủ tục để các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện. Trong quản lý
ở giai đoạn này cần chú ý là chỉ được đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản đã
được ghi vào kế hoạch, dự toán, không thực hiện các nhu cầu xây dựng, mua
sắm tài sản ngoài kế hoạch.
2.2.4.2. Quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản công
Quá trình khai thác, sử dụng tài sản công quyết định hiệu quả của tài
sản công, chứng minh cho những luận chứng kỹ thuật được đưa ra trong giai
đoạn hình thành tài sản. Đây là quá trình diễn ra hết sức phức tạp, bởi vì thời
gian khai thác, sử dụng tuỳ thuộc đặc điểm tính chất, độ bền của mỗi loại tài
sản. Quá trình này đều được thực hiện bởi tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản. Thời gian của quá trình khai thác, sử
dụng tài sản được tính từ ngày nhận tài sản hay bàn giao tài sản đến khi tài
sản không còn sử dụng được phải thanh lý.
2.2.4.3. Quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản công
Sau quá trình khai thác sử dụng tài sản, nếu xét thấy tài sản công không
cần thiết hay không thể phục vụ cho công việc của cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan quản lý chuyên môn sẽ tiến hành thủ tục kết thúc quá trình sử
dụng. Tuy nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện tài sản công
nhưng nó vẫn còn giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng ví dụ: như đất
đai, bất động sản, phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị
làm việc, phục vụ nghiên cứu khoa học; có tài sản còn có giá trị thu hồi.... Do
đó, một tài sản công khi kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ
để tránh lãng phí, thất thoát tài sản. Khi kết thúc sử dụng tài sản phải thực
hiện đánh giá hiện trạng cả về vật chất và giá trị; thực hiện kiểm kê, xác định
giá trị hiện tại; lập phương án xử lý. Phương pháp xử lý tài sản thường sử
dụng là bán thanh lý hay điều chuyển.
2.2.5. Các nhân tố chính ảnh hƣởng đến quản lý tài sản công trong
các đơn vị sự nghiệp
- Nhóm nhân tố về thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và cơ chế
quản lý tài sản công của Nhà nước: Xuất phát từ những quan điểm khác nhau
trong vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường trong phát triển kinh tế,
đã hình thành nên các thể chế kinh tế khác nhau giữa các quốc gia, do đó cũng
hình thành nên phương thức quản lý tài sản công đặc thù. Chính điều đó cũng
tạo ra sự đa dạng trong hình thức quản lý của chính phủ đối với quản lý tài
chính nói chung và quản lý tài sản công nói riêng. Trong đó, nội dung các quy
tắc, quy định trong cơ chế quản lý tài sản công tại đơnvị sự nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn và trực tiếp của nhân tố này. Các quy định về chuẩn mực hành vi,
nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của chủ thể tham gia cơ chế quản lý tài sản
công tại các đơn vị sự nghiệp phải nằm trong các quy định chung về nguyên
12
tắc quản lý kinh tế, tài chính và tài sản công và phải lấy đó làm cơ sở để xây
dựng, điều chỉnh và bổ sung hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Sự
phù hợp và sát thực tế của hệ thống các quy phạm về quản lý kinh tế, tài chính
và tài sản công của nhà nước sẽ có tác động tích cực tới hiệu lực, hiệu quả
quản lý tài sản công.
- Nhóm nhân tố về trình độ, ý thức của đội ngũ cán bộ, công chức trong
bộ máy quản lý của các đơn vị sự nghiệp: Hiệu quả và chất lượng xây dựng
và thực thi cơ chế quản lý tài sản công tại đơnvị sự nghiệp chịu ảnh hưởng lớn
từ nhân tố này. Về nguyên tắc, cơ chế, quyết định quản lý tài sản công tại đơn
vị sự nghiệp được soạn thảo trên cơ sở yêu cầu quản lý do bộ máy quản lý đặt
ra, phù hợp với các điều kiện và đòi hỏi khách quan theo thể chế chung. Các
nội dung trên chịu ảnh hưởng bởi trình độ nhận thức, năng lực quản lý, tổ
chức của nhà nước. Trình độ, khả năng, tư duy trách nhiệm của cán bộ, công
chức trực tiếp tham gia hoạt động quản lý tài sản công có tác động tới các
quyết định quản lý. Do đó, yêu cầu ý thức trách nhiệm và năng lực chuyên
môn của đội ngũ cán bộ công chức quản lý tại đơnvị sự nghiệp phải đảm bảo
được tính khách quan khi đặt ra các yêu cầu quy định trong cơ chế, đảm bảo
hiệu quả thực tế của cơ chế khi áp dụng vào thực tiễn.
- Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về tài sản công: Nếu kho dữ liệu về
tài sản công đầy đủ, được cập nhật thường xuyên, liên tục sẽ hỗ trợ tốt cho
công tác quản lý. Hệ thống thông tin quản lý được xây dựng hoàn thiện sẽ
giúp việc quản lý sát sao, đầy đủ và chính xác. Thông qua hệ thống cơ sở dữ
liệu thông tin, tài sản công sẽ được kiểm soát chặt chẽ. Cơ quan quản lý tài
sản sẽ nắm bắt kịp thời tình trạng của tài sản để thực hiện các biện pháp,
nghiệp vụ quản lý, cũng như chuẩn bị nguồn tài chính cho duy tu, bảo dưỡng
tài sản hoặc đầu tư, xây dựng, mua sắm mới trong trường hợp cần thiết.
- Nhóm nhân tố khác.
2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC VỀ QUAN LÝ TÀI
SAN CÔNG
2.3.1 Một số kinh nghiệm quản lý tài sản công
Luận án đã tham khảo và luận giải kinh nghiệm quản lý tài sản công ở
một số nước và một số cơ quan, địa phương tiêu biểu trong nước sau đây:
2.3.1.1. Kinh nghiệm nước ngoài
- Kinh nghiệm quản lý tài sản của Nhật Bản
- Kinh nghiệm quản lý tài sản của chính phủ liên bang Mỹ
- Kinh nghiệm mua sắm tài sản công tại Vương Quốc Anh
2.3.1.2. Kinh nghiệm trong nước
- Kinh nghiệm mua sắm tài sản công của Bộ Tài chính
- Kinh nghiệm huy động nguồn lực cho đầu tư xây dựng và quản lý tài
13
sản công theo hình thức đối tác công - tư của tỉnh Quảng Ninh.
2.3.2. Một số bài học đối với quản lý tài sản công ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh
Thứ nhất, hệ thống các quy định, chính sách quản lý tài sản công được
xây dựng chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quản lý.
Thứ hai, phương thức mua sắm tài sản phổ biến là qua mua sắm tập
trung, đấu thầu rộng rãi
Thứ ba, sử dụng cơ chế thị trường để nâng cao hiệu quả quản lý tài
sản công
Thứ tư, các cơ quan quản lý tài sản công được tổ chức phù hợp với mô
hình quản lý, có năng lực đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ và được phân
định trách nhiệm rõ ràng.
Thứ năm, hệ thống thông tin, báo cáo, dữ liệu về tài sản công được
xây dựng đảm bảo cho việc quản lý có hiệu quả, tăng cường trách nhiệm giải
trình và tính minh bạch trong quản lý tài sản công.
Chƣơng 3
THỰC TRANG QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG
TAI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
3.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VÀ BỘ MÁY QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG CỦA HỌC VIỆN
3.1.1. Khái quát về Học viện
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trước hết là một cơ quan trực
thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng (như một Ban Đảng ở Trung ương),
đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
ương Đảng; đồng thời, là một cơ quan thuộc Chính phủ. Học viện là trung
tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao
cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghiên cứu về khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo
quản lý, phục vụ công tác đào tạo cán bộ và tham mưu cho Trung ương Đảng
và Nhà nước.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương quyết định các
vấn đề về tổ chức, bộ máy, cán bộ, chiến lược phát triển, nhiệm vụ chính trị,
chương trình nội dung đào tạo, định hướng nghiên cứu khoa học của Học
viện. Trên cơ sở đó, Chính phủ quyết định phân bổ tài chính, ngân sách, đầu
tư và các nguồn lực cần thiết khác đảm bảo để Học viện hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Như vậy, cấp có thẩm quyền giao giao nhiệm vụ cho Học viện và
14
cấp có thẩm quyền phân bổ các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ là khác
nhau; trong khi đó các cơ quan của Đảng và Nhà nước khác thì cấp nào giao
nhiệm vụ sẽ chính là cấp phân bổ nguồn lực tài chính để thực hiện. Mặt khác,
Học viện vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với 5 Học viện trực
thuộc và hệ thống các trường chính trị trên cả nước (về chương trình, nội
dung đào tạo và bồi dưỡng; phương pháp giảng dạy và học tập; nghiên cứu
khoa học; quy chế quản lý đào tạo; đào tạo, bồi dưỡng giảng viên của các
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), đồng thời vừa thực
hiện chức năng như một đơn vị sự nghiệp đặc biệt (đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội).
3.1.2. Bộ máy quản lý tài sản công của Học viện.
Học viện đã xây dựng, tổ chức mô hình, bộ máy quản lý tài sản công
tương ứng và phù hợp với mô hình quản lý ngân sách nhà nước. Mô hình
quản lý tài sản công của Học viện đã có sự gắn kết với công tác quản lý tài
chính (chức năng, nhiệm vụ quản lý tài sản công của từng đơn vị được căn cứ
theo vai trò, nhiệm vụ của từng cấp dự toán: đơn vị dự toán cấp 1, đơn vị dự
toán cấp 2 và đơn vị dự toán cấp 3), đồng thời gắn với việc thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn cụ thể của từng đơn vị và thể hiện rõ quyền, trách nhiệm của
từng cơ quan, đơn vị trong quản lý, sử dụng tài sản,
Đến nay, mô hình và bộ máy quản lý tài sản công của Học viện tương
đối phù hợp với tổ chức bộ máy quản lý tài sản công của cả nước và cơ bản
đã vận hành tốt, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy
nhiên, tại các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản, chức năng quản lý tài
sản phân tán ở nhiều bộ phận và đầu mối chính quản lý chưa thực sự rõ ràng,
thống nhất nên khi có yêu cầu tổng hợp số liệu, báo cáo hoặc đánh giá về tài
sản với đầy đủ các thông số có liên quan theo quy định thì rất khó khăn, tiến
độ thực hiện chậm và số liệu nhiều lúc không chính xác hoặc chênh lệch giữa
các bộ phận.
3.2. THỰC TRANG TÀI SAN CÔNG TAI HỌC VIỆN
Tổng giá trị tài sản công do Học viện đang quản lý, sử dụng (tính đến
thời điểm 31-12-2014) là: 2.200.017 triệu đồng, gồm: tài sản là đất chiếm tỉ
trọng cao nhất là 77,59% (giá trị 1.706.931 triệu đồng), tiếp theo là giá trị tài
sản là nhà chiếm 16,30% (358.659 triệu đồng), giá trị tài sản là phương tiện
vận chuyển (xe ô tô) chiếm 2,98% (65.652 triệu đồng) và các tài sản khác có
giá trị trên 500 triệu đồng/1 đơn vị tài sản chiếm 3,13% (68.775 triệu đồng).
3.2.1. Tài sản công là đất
Tổng diện tích đất Học viện được giao quản lý là 783.539,90 m2, gồm
35 cơ sở đất trụ sở ở cả 3 miền (Bắc, Trung Nam) và được giao cho 7 đơn vị
dự toán trực thuộc trực tiếp quản lý, sử dụng. Qua phân tích hiện trạng tài sản
15
công là đất của Học viện có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Do nguyên giá đất được hạch toán trên sổ sách kế toán của các đơn vị
sử dụng tài sản được tính theo Bảng giá đất do các địa phương ban hành theo
quy định nên giá trị nhỏ hơn nhiều so với giá thị trường (thường chỉ bằng từ
50% đến 60% giá thị trường) và giá trị hạch toán nguyên giá đất của các đơn
vị quản lý, sử dụng đất đang có vấn đề bất cập (chẳng hạn: Văn phòng Học
viện quản lý nhiều diện tích đất nhất, ở vị trí tại Hà nội có khung giá đất cao
nhất so với các đơn vị còn lại nhưng tổng giá trị nguyên giá đất lại là nhỏ
nhất).
- Một số diện tích đất của Học viện sử dụng chưa đúng mục đích khi
được giao đất (cho thuê, làm nhà cho cán bộ ở) hoặc có tồn tại chưa được xử
lý dứt điểm theo quy định (bị lấn chiếm, đất đã phân chia cho cá nhân nhưng
chưa làm thủ tục ghi giảm sổ sách kế toán).
- Một số đơn vị chưa hạch toán được chính xác nguyên giá đất đối với
một số cơ sở đất đã được giao quản lý.
- Cần có sự rà soát, sắp xếp lại các cơ sở nhà đất để có giải pháp quản
lý phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và điều kiện về quản lý
của từng đơn vị.
3.2.2. Tài sản công là nhà
Học viện đang quản lý, sử dụng 261 tài sản là nhà với diện tích sử dụng
260.266 m2, nguyên giá là 358.659 triệu đồng và giá trị còn lại 164.459 triệu
đồng. Nhận xét về hiện trạng tài sản công là nhà của Học viện:
- Nhiều công trình đã cũ, cần kinh phí để duy tu, bảo dưỡng, cải tạo sửa
chữa, tuy nhiên cần xem xét hiệu quả kinh tế giữa đầu tư cải tạo tài sản để tiếp
tục sử dụng các công trình đã quá cũ, xuống cấp với việc đầu tư xây mới để
thay thế.
- Tỉ lệ nhà cấp 4 của Học viện khá cao (chiếm tới 47% trong tổng số
nhà đang quản lý, sử dụng) phần nào phản ánh mức độ quan tâm đầu tư, hiện
đại hóa cơ sở vật chất cao.
- Chủ yếu được đầu tư từ ngân sách nhà nước, tỉ lệ đầu tư từ nguồn vốn
khác hết sức hạn chế (chỉ chiếm 0,55%) phản ánh cơ chế huy động các nguồn
lực phát triển tài sản công của Học viện còn chưa linh hoạt, hiệu quả, chủ yếu
phụ thuộc vào ngân sách.
3.2.3.Tài sản công là phƣơng tiện vận chuyển
Học viện đang quản lý, sử dụng 107 xe ô tô với nguyên giá 65.652 triệu
đồng. Nhận xét về hiện trạng tài sản công là nhà của Học viện:
- Số lượng xe ô tô dùng chung của Học viện đang quản lý cao hơn so
với quy định, trong khi số lượng xe chuyên dùng ít hơn định mức được duyệt.
Do đó, Học viện cần sắp xếp lại số xe ô tô đang quản lý để xác định số lượng,
16
chủng loại xe cần thiết để vừa đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ,
vừa tuân thủ các quy định có liên quan
- Số lượng xe cũ, hết khấu hao và đến hạn thay thế nhiều, cần tổ chức
đánh giá lại chính xác chất lượng của toàn bộ xe ô tô đang quản lý để có chủ
trương, kế hoạch hợp lý đối với đầu tư sửa chữa xe cũ hoặc mua mới thay thế
xe không đủ điều kiện lưu hành, vừa đảm bảo an toàn khi sử dụng, đồng thời
phù hợp với điều kiện nguồn lực tài chính và đúng tiêu chuẩn, định mức xe ô
tô theo quy định của Nhà nước.
3.2.4. Tài sản công có giá trị 500 triệu đồng trở lên/1 đơn vị tài sản
Số lượng tài sản công có nguyên giá 500 triệu đồng trở lên/1 đơn vị tài
sản do Học viện đang quản lý là 43 tài sản, với nguyên giá 68.775 triệu đồng,
giá trị còn lại 23.445 triệu đồng (bằng 34 % nguyên giá). Nhận xét về hiện
trạng tài sản công có giá trị trên 500 triệu đồng của Học viện:
- Số lượng tài sản loại này không nhiều do Học viện là một cơ sở đào
tạo, nghiên cứu khoa học nên tài sản là trang thiết bị chủ yếu là các tài sản
phục vụ quản lý, chuyên môn, có giá trị 1 đơn vị tài sản không lớn: máy tính,
máy in, máy photo, máy chiếu…
- Toàn bộ tài sản khác (ngoài nhà, đất, xe ô tô) có nguyên giá 500 triệu
trở lên đều được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước.
- Giá trị còn lại của các tài sản có nguyên giá trên 500 triệu đồng khá
thấp.
3.3. THỰC TRANG QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG TAI HỌC VIỆN CHÍNH
TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH GIAI ĐOAN 2009-2014
3.3.1. Thực trạng quản lý quá trình hình thành tài sản
3.3.1.1. Thực trạng quản lý tài sản được nhận bàn giao quản lý, sử dụng
Quá trình nhận bàn giao quản lý, sử dụng tài sản của Học viện được
tính từ khi Học viện trở thành đơn vị dự toán cấp 1 và đã được thực hiện trong
2 lần, tương ứng với các thời điểm Đảng và Nhà nước có các quyết định thay
đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và cơ chế tài chính áp dụng đối với Học
viện trong mỗi giai đoạn phát triển mới.
Lần bàn giao thứ nhất thực hiện năm 2006: nhận bàn giao tài chính, tài
sản từ Ban Tài chính - Quản trị Trung ương.
Lần bàn giao thứ hai diễn ra năm 2008: Học viện tiếp tục nhận bàn
giao tài chính, tài sản từ Bộ Nội vụ theo Quyết định số 60-QĐ/TW ngày 07-5-
2007 của Bộ Chính trị về việc hợp nhất Học viện Hành chính quốc gia, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
Với số lượng và giá trị tài sản tiếp nhận qua 2 đợt bàn giao lớn, được
quản lý, sử dụng bởi nhiều đơn vị dự toán trực thuộc, do đó Học viện đã tập
trung vào các công việc sau đây:
17
Một là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức và tăng cường cán bộ chuyên môn
của cơ quan tham mưu tại đơn vị dự toán các cấp.
Hai là, tiến hành tổ chức rà soát số liệu, hồ sơ của tài sản, kiểm tra thực
tế hiện trạng tài sản công của các đơn vị dự toán cấp 3 trực tiếp quản lý, sử
dụng, tài sản; phối hợp với các cơ quan chủ quản cũ của các đơn vị (Ban Tài
chính - Quản trị Trung ương, Bộ Nội vụ) để xử lý tồn tại sau bàn giao.
Ba là, tổ chức đánh giá lại tài sản, xác định các chỉ tiêu liên quan đến
tài sản (thời gian sử dụng, nguyên giá, tỉ lệ hao mòn, giá trị còn lại) để hạch
toán, ghi chép sổ sách kế toán theo quy định và thực hiện các biện pháp tổ
chức quản lý, khai thác sử dụng theo đúng công năng, mục đích đầu tư.
Bốn là, căn cứ hiện trạng tài sản được giao quản lý, sử dụng Học viện
xây dựng, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch, làm cơ sở để quyết định chủ
trương đầu tư, mua sắm, phát triển nguồn lực tài sản công đáp ứng được yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ được giao trong thời gian tiếp theo.
3.3.1.2. Thực trạng quản lý tài sản hình thành do đầu tư xây dựng,
mua sắm mới
- Đối với xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, mua sắm tài
sản: Bên cạnh những kết quả đạt được, có thể nói chất lượng công tác xây
dựng quy hoạch, kế hoạch gắn với đầu tư xây dựng mới, mua sắm mới tài sản
công của Học viện trong những năm qua còn chưa cao. Việc triển khai rà soát,
điều chỉnh quy hoạch định kỳ chưa được thực hiện chủ động, bài bản, tổng
thể theo quy định. Đặc biệt là các điều kiện, căn cứ để xây dựng quy hoạch,
kế hoạch chưa đầy đủ, nên việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch của Học viện
thiếu cơ sở, mang tính suy đoán dựa vào dữ liệu lịch sử nên không chứa đựng
được định hướng phát triển. Thậm chí, một số kế hoạch không khả thi trong
thực tế, trong quá trình thực hiện phải điều chỉnh cục bộ từng phần, chất
lượng, hiệu quả không cao.
- Đối với việc quyết định chủ trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản
công: Chủ trương đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản của Học viện thời gian
qua chủ yếu tập trung khắc phục tình trạng thiếu hụt cơ sở vật chất phục vụ
thực hiện nhiệm vụ được giao và bước đầu đầu tư phát triển hệ thống công
nghệ thông tin (hệ thống mạng, hệ thống giao ban trực tuyến, các phần mềm
quản lý đối với một số lĩnh vực công tác).
- Công tác tổ chức thực hiện mua sắm tài sản công tại các đơn vị trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản trong những năm qua đã thực hiện theo quy định
của Luật Đấu thầu, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của Nhà
nước, tài sản được mua sắm qua từng năm đã góp phần thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao của từng đơn vị. Tuy nhiên, việc thực hiện mua
sắm tài sản theo phương thức phân tán (các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản tổ chức mua sắm theo kế hoạch được Học viện phê duyệt) đã dẫn đến
18
nhiều bất cập. Chủng loại tài sản cùng mục đích, công năng sử dụng của các
đơn vị cùng hệ thống không thống nhất nên giá cả khác nhau, rất khó khăn
cho công tác thẩm định, giao kế hoạch mua sắm và quản lý tài sản. Vấn đề
này đòi hỏi Học viện cần có sự thay đổi về cơ chế, cách thức thực hiện mua
sắm tài sản công để vừa thực hiện đúng quy định của Nhà nước, vừa đảm bảo
nhất quán, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch trong quá trình mua sắm
tài sản công và việc áp dụng phương thức mua sắm tài sản tập trung là phù
hợp với điều kiện hiện nay của Học viện.
3.3.2. Thực trạng quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản công
Xuất phát từ thực trạng tài sản công đang quản lý, sử dụng cũng như
năng lực chuyên môn của bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài
sản; trong thời gian hơn 10 năm qua, quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài
sản công của Học viện đã tập trung thực hiện được một số vấn đề cơ bản của
quá trình khai thác, sử dụng tài sản công như sau:
3.3.2.1. Thực hiện hướng dẫn, cụ thể hóa các cơ chế chính sách của
Nhà nước về quản lý tài sản công cho các đơn vị sử dụng tài sản công
Về cơ bản, hệ thống các văn bản liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản
công đang được Học viện triển khai kịp thời, phù hợp với thực tế, cập nhật
kịp thời các quy định mới của Nhà nước, chú trọng hiệu quả của khâu thực
hiện. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện các quy định về quản
lý, sử dụng tài sản của Học viện còn chưa được đầy đủ, các văn bản hướng
dẫn rời rạc theo từng sự việc, từng văn bản của Nhà nước và cơ quan có thẩm
quyền mới ban hành, không mang tính tổng hợp và chưa thành hệ thống để
các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng dễ thực hiện. Đặc biệt, đến nay Học viện
và các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản chưa ban hành được Quy chế
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định nên ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng và hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản tại từng đơn vị.
3.3.2.2. Thực hiện sắp xếp lại tài sản đang được giao quản lý, sử dụng
Việc sắp xếp lại tài sản nhằm mục tiêu quản lý, sử dụng tài sản đúng
mục đích, có hiệu quả, điều hòa chung tài sản đang quản lý giữa các đơn vị
sử dụng để phù hợp với điều kiện về ngân sách đầu tư xây dựng, mua sắm.
Tuy nhiên, số lượng tài sản công có nguyên giá lớn của Học viện quản lý, sử
dụng không nhiều, kinh phí đầu tư, mua sắm mới tài sản hàng năm rất hạn
chế so với nhu cầu, thậm chí chưa đáp ứng được yêu cầu cả về mặt số lượng
và chất lượng để thực hiện các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Do
đó, trong những năm qua việc sắp xếp lại tài sản của Học viện chủ yếu tập
trung vào việc sắp xếp, xử lý nhà đất đang được giao quản lý theo Quyết định
số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp
xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước hoặc điều chuyển tài sản trong
nội bộ của từng đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản. Ngoài ra, việc điều
19
chuyển tài sản giữa các đơn vị diễn ra rất ít, chủ yếu là điều chuyển xe ô tô
giữa các đơn vị.
3.3.2.3. Thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa tài sản
Do hiện trạng tài sản Học viện đang quản lý, sử dụng cũ, được đầu tư
xây dựng, mua sắm từ nhiều năm trước, nhất là các tài sản có giá trị lớn như
các công trình xây dựng và phương tiện vận chuyển, trong khi đó kinh phí
ngân sách nhà nước được giao để đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản trong
những năm qua hết sức hạn chế, không đủ nguồn lực để thay thế các tài sản
đã được tính hao mòn hết hoặc hết thời gian sử dụng. Vì vậy, việc chú trọng
đầu tư duy tu, bảo dưỡng tài sản còn là một giải pháp có hiệu quả để đảm bảo
duy trì ổn định nguồn tài sản phục vụ hoạt động thường xuyên của Học viện,
thậm chí là điều kiện để nâng cấp, cải tạo, thay đổi tăng công năng, chuyển
đổi mục đích sử dụng đối với những tài sản là các công trình xây dựng từ lâu,
đã xuống cấp nghiêm trọng và đảm bảo phù hợp với nhu cầu, mục đích sử
dụng của tài sản trong giai đoạn hiện nay. Trong giai đoạn 2009-2014, hàng
năm Học viện đã cân đối các nguồn lực tài chính và bố trí một khoản kinh
phí khoảng 10-12% dự toán được giao để thực hiện duy tu, cải tạo, sửa chữa
tài sản. Thậm chí năm 2013, kinh phí thực hiện công việc này chiếm tới gần
20% kinh phí được giao do tại thời điểm đó số lượng tài sản là nhà đến hạn
duy tu, bảo dưỡng, xuống cấp và cần phải cải tạo, sửa chữa nhiều.
Việc duy tu, cải tạo, sửa chữa tài sản hiện nay được thực hiện bởi các
đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản để đảm bảo tài sản có thể vận hành
một cách bình thường căn cứ vào hiện trạng tài sản, yêu cầu về mặt kỹ thuật
của các cơ quan chuyên môn và được thực hiện theo quy định có liên quan
của Nhà nước (sau khi có chủ trương phê duyệt của Học viện). Trong những
năm gần đây kinh phí bố trí để duy tu, bảo dưỡng tài sản tại Học viện có xu
hướng tăng, một mặt thể hiện mức độ quan tâm thực hiện quy trình bảo
dưỡng, nâng cao chất lượng tài sản để phục vụ công tác chuyên môn, đồng
thời cũng thể hiện một thực tế là nhiều tài sản công của Học viện đã xuống
cấp, thậm chí lạc hậu, cần xem xét về hiệu quả sử dụng, mức độ an toàn... và
nhu cầu cần thiết đầu tư tài sản thay thế để đảm bảo hiện đại hóa cơ sở vật
chất, tương xứng với vai trò, vị thế của Học viện trong giai đoạn phát triển
mới.
3.3.3. Thực trạng quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản công
Hầu hết các tài sản công được giao cho các đơn vị quản lý, sử dụng đều
được Nhà nước quy định về thời hạn sử dụng (trừ một số tài sản đặc biệt). Hết
thời gian sử dụng theo quy định, tài sản sẽ bị hỏng hoặc không đáp ứng được
yêu cầu công việc chuyên môn cần phải được xử lý kịp thời (tiêu hủy, thanh
lý, nhượng bán) để có cơ sở đầu tư tài sản mới thay thế. Trong giai đoạn
2009-2014, Học viện đã tiến hành tiêu hủy, thanh lý 2.267 tài sản, tổng
20
nguyên giá 14.175 triệu đồng (trong đó có 12 tài sản là nhà, 8 xe ô tô, 17 tài
sản có nguyên giá 500 triệu đồng trở lên). Hầu hết tài sản được xử lý đều đã
quá hạn sử dụng nhiều năm, không đảm bảo an toàn hoặc không còn sử dụng
được nên số tiền thu được từ thanh lý, nhượng bán tài sản sau khi trừ chi phí
cần thiết không lớn (864 triệu đồng), số tiền này đều được nộp ngân sách nhà
nước và hạch toán, ghi chép sổ sách kế toán theo quy định.
3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG TAI HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
3.4.1. Những kết quả đạt đƣợc trong quản lý tài sản công tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Bước đầu đã xây dựng, hình thành được cơ sở dữ liệu về tài sản công
do Học viện đang quản lý, sử dụng.
- Hoạt động quản lý tài sản công của Học viện đã có sự gắn kết với
quản lý tài chính.
- Đã thực hiện xong việc rà soát và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền
phương án xử lý các cơ sở nhà, đất đang quản lý, sử dụng theo quy định, trên
cơ sở đó đã thực hiện giải quyết dứt điểm được một số tồn tại, vi phạm trong
quản lý, sử dụng đất như chấm dứt việc cho thuê tài sản là đất không đúng
quy định tại một số đơn vị.
Với những kết quả đã đạt được, xét theo mục tiêu của quản lý, có thể
thấy rằng:
Một là, quản lý tài sản công của Học viện đã từng bước giảm thiểu
được tình trạng lãng phí và tài sản công có thể tạo ra nguồn thu khi được đưa
vào khai thác, sử dụng.
Hai là, tài sản công cơ bản được sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn,
định mức chế độ mà nhà nước quy định.
Ba là, quản lý tài sản công đã góp phần đáp ứng một phần yêu cầu về
nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu của Học viện.
3.4.2. Những hạn chế trong quản lý tài sản công tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Các thể chế quản lý tài sản công tại Học viện, đặc biệt là quy chế
quản lý, sử dụng tài sản chậm được ban hành nên những nguyên tắc, quy định
cơ bản về trang cấp, đầu tư, mua sắm tài sản cũng như trong quá trình sử dụng
tài sản và xử lý tài sản còn thiếu hoặc chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới để
phát huy tối đa được các nguồn lực và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài sản
phục vụ cho các nhiệm vụ được giao.
- Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tai sản công làm căn cứ mua
sắm, trang bị tài sản còn quá ít, chưa đầy đủ. Mặt khác, các nguồn kinh phí để
thực hiện trang cấp tài sản, cũng như các phương thức trang cấp tài sản còn
hạn hẹp, chưa tạo điều kiện cho việc phát triển tài sản công tại Học viện.
21
- Phương thức mua sắm tài sản công tại Học viện là phương thức phân
tán. Tuy nhiên quá trình kiểm tra, kiểm soát trình tự, thủ tục, lựa chọn nhà
thầu, chào hàng cạnh tranh... còn chưa thật sự thực chất. Do đó, mặc dù quy
trình mua sắm đều tuân thủ theo quy định chung nhưng chất lượng của một số
tài sản chưa đáp ứng được yêu cầu, hay hỏng hóc trong quá trình sử dụng.
- Cơ sở dữ liệu tài sản của Học viện còn chưa bao quát được hết các
loại tài sản, do đó các đơn vị có chức năng quản lý tài sản của Học viện không
nắm được đầy đủ tài sản thuộc phạm vi quản lý. Việc quản lý tài sản công tại
một số đơn vị được giao trực tiếp quản lý, sử dụng còn chưa tốt, vẫn tình
trạng sử dụng tài sản, nhất là nhà, đất vào mục đích cho thuê, cho mượn
không đúng quy định vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
- Công tác hạch toán kế toán về tài sản công còn chưa được thực hiện
một cách đầy đủ theo quy định.
- Nhiều tài sản như đất đai, nhà cửa và tài sản có giá trị lớn phần lớn
không có đầy đủ hồ sơ, giấy tờ tài liệu phản ánh nguồn gốc tài sản hoặc các
thông số kỹ thuật của tài sản… . Mặt khác tài sản trong từng đơn vị cũng chưa
được theo dõi đầy đủ trên sổ sách kế toán, nên qua kiểm kê hầu hết các đơn vị
đều có hiện tượng nhiều tài sản không có hồ sơ tài liệu phản ánh nguồn gốc
tài sản hoặc thông số kỹ thuật của tài sản, có tình trạng chênh lệch về số
lượng tài sản giữa sổ sách và thực tế kiểm kê hoặc trên sổ sách chỉ theo dõi số
lượng không theo dõi giá trị của tài sản.
- Một số tài sản hư hỏng không còn sử dụng được hoặc nếu có sửa chữa
thì chi phí cao mà hiệu quả sử dụng thấp, tài sản không còn nhu cầu sử dụng,
tài sản thu hồi khi tiến hành phá dỡ để xây dựng, cải tạo, sửa chữa công trình
hầu như chưa có báo cáo đánh giá cụ thể về số vật tư, tài sản thu hồi của từng
công trình và lập hồ sơ đề nghị xử lý theo quy định. Một số tài sản tại các đơn
vị đã mất nhưng chưa xác định rõ nguyên nhân, quy trách nhiệm cá nhân và
biện pháp xử lý, đồng thời vẫn được các đơn vị theo dõi trên sổ kế toán.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý tài sản công
tại Học viện
3.4.3.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng tài sản công
ở nước ta trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, chưa bao quát được
được thực tế quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp và chưa
theo kịp được sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, một số tiêu chuẩn, định mức trang bị, sử dụng tài sản ban hành
từ nhiều năm trước đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, gây khó
khăn cho công tác quản lý tài sản.
Thứ ba, chưa có chính sách đặc thù cho quản lý, sử dụng tài sản công
tại đơn vị sự nghiệp để thúc đẩy phát triển dịch vụ sự nghiệp công và nâng
22
cao tính tự chủ cho đơn vị sự nghiệp.
Thứ tư, Kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho Học viện còn hạn chế,
chưa đủ điều kiện để đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ nên hiện trạng tài sản công của Học viện còn nhiều bất cập,
không đồng bộ, gây khó khăn cho công tác quản lý.
3.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức về tài sản công và quản lý tài sản công của các đơn
vị sử dụng tài sản chưa thực sự đầy đủ, đúng đắn.
Thứ hai, hệ thống thông tin phục vụ quản lý còn hạn chế.
Thứ ba, các đơn vị quản lý, sử dụng tài sản còn quá trông chờ vào ngân
sách, chưa thực sự năng động, linh hoạt trong việc áp dụng các cơ chế, chính
sách huy động các nguồn lực khác để phát triển tài sản công.
Thứ tư, tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ làm công tác quản lý tài sản
công chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm chưa
được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc.
Chƣơng 4
GIAI PHÁP HOÀN THIỆN QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG
TAI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
4.1. QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUAN LÝ TÀI SAN CÔNG
TAI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
4.1.1. Dự báo nhu cầu về tài sản công tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh
Để thực hiện những định hướng phát triển Học viện trong thời gian tới
cần phải các yếu tố về nguồn lực, trong đó nguồn lực tài chính, tài sản đóng vai
trò hết sức quan trọng, nhất là trong điều kiện hệ thống cơ sở vất chất hiện nay
của Học viện chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Qua số liệu tổng hợp
từ các đơn vị trực thuộc Học viện thì nhu cầu cơ sở vật chất để khắc phục sự
thiếu hụt tài sản công giai đoạn 2010 - 2020 là 4.265.000 triệu đồng, gồm:
- Kinh phí xây dựng và thực hiện các dự án tại các đơn vị, cơ sở mới
được thành lập hoặc mở rộng: 2.200.000 triệu đồng; gồm dự án Xây dựng
Học viện Chính trị Khu vực 4: 1.000.000 triệu đồng (trong đó có 130.000
triệu đồng để trả tiền đất cho Thành phố Cần Thơ), dự án xây dựng Học viện
Hành chính khu vực Tây Nguyên: 600.000 triệu đồng, dự án mở rộng Học
viện tại xã Đông Ngạc-Từ Liêm-Hà Nội (đã được Thành phố Hà Nội tạm giao
đất): 600.000 triệu đồng.
- Kinh phÝ x©y dùng nhµ lµm viÖc hiÖu bé t¹i c¸c ®¬n vÞ cha ®îc ®Çu
t: 320.000 triÖu ®ång (Trung t©m Häc viÖn: 150.000 triÖu ®ång, Häc viÖn
23
Chính trị khu vùc 2: 80.000 triÖu ®ång, Nhµ xuÊt b¶n Lý luËn ChÝnh trÞ:
90.000 triÖu ®ång).
- Kinh phÝ x©y dùng vµ trang bÞ c¸c khu thÝ nghiÖm, thùc tËp cña 2 Häc
viÖn chuyªn ngµnh: 140.000 triÖu ®ång (Häc viÖn B¸o chÝ vµ Tuyªn truyÒn:
70.000 triÖu ®ång, Häc viÖn Hµnh chÝnh: 70.000 triÖu ®ång).
- Kinh phÝ x©y dùng ký tóc x¸ phôc vô häc viªn, sinh viªn cña hÖ thèng
Häc viÖn: 470.000 triÖu ®ång (Häc viÖn ChÝnh trÞ khu vùc 1: 100.000 triÖu
®ång, Häc viÖn ChÝnh trÞ khu vùc 2: 70.000 triÖu ®ång, Häc viÖn ChÝnh trÞ khu
vùc 3: 70.000 triÖu ®ång, Häc viÖn B¸o chÝ vµ Tuyªn truyÒn: 100.000 triÖu
®ång, Trung t©m Häc viÖn: 130.000 triÖu ®ång).
- Kinh phÝ x©y dùng hÖ thèng th viÖn ®iÖn tö phôc vô gi¶ng d¹y,
nghiªn cøu vµ häc tËp cña c¸n bé, gi¶ng viªn vµ häc viªn: 530.000 triÖu ®ång
(Häc viÖn ChÝnh trÞ khu vùc 1: 70.000 triÖu ®ång, Häc viÖn ChÝnh trÞ khu vùc
2: 70.000 triÖu ®ång, Häc viÖn ChÝnh trÞ khu vùc 3: 70.000 triÖu ®ång, Häc
viÖn B¸o chÝ vµ Tuyªn truyÒn: 80.000 triÖu ®ång, Häc viÖn Hµnh chÝnh:
80.000 triÖu ®ång, Trung t©m Häc viÖn: 110 triÖu ®ång, Học viện ChÝnh trị
khu vùc 4: 50.000 triệu đồng).
- Kinh phÝ x©y dùng vµ thùc hiÖn ®Ò ¸n hoµn thiÖn hÖ thèng c«ng nghÖ
th«ng tin cña c¶ hÖ thèng Häc viÖn: 105.000 triÖu ®ång (Cổng th«ng tin điện
tử: 90.000 triệu đồng; hệ thống giao ban trực tuyến: 15.000 triệu đồng).
- Kinh phÝ söa ch÷a, n©ng cÊp nh÷ng tµi s¶n, c«ng tr×nh hiÖn cã cßn cã
thÓ sö dông cña c¶ hÖ thèng Häc viÖn: 200.000 triÖu ®ång.
- Kinh phÝ trang bÞ tµi s¶n ®ång bé víi c¬ së vËt chÊt ®· ®îc x©y dùng,
n©ng cÊp: 300.000 triÖu ®ång.
4.1.2. Quan điểm hoàn thiện quản lý tài sản công tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh
Một là, hoàn thiện quản lý tài sản công tại Học viện phải gắn với yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ của Học viện trong giai đoạn mới; không ngừng đầu
tư nhằm duy trì và phát triển tài sản công.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý tài sản công đảm bảo yêu cầu tăng
cường quản lý trên cơ sở các quy định của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả cơ chế quản lý; quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm
tài sản công được giao theo đúng quy định của Nhà nước.
Ba là, tăng cường quản lý tài sản công được giao phù hợp với cơ chế
quản lý kinh tế, tài chính, quản lý tài sản của Nhà nước và đặc thù hoạt động,
cơ chế quản lý tài chính của Học viện đang áp dụng.
Bốn là, quy định rõ việc phân cấp quản lý tài sản, trách nhiệm của cơ
quan tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng tài sản công.
Năm là, chuẩn hóa dữ liệu về tài sản, hiện đại hoá công tác quản lý,
tăng cường quản lý bằng hệ thống công nghệ thông tin để đảm bảo sự thống
24
nhất, theo dõi và xử lý kịp thời mọi biến động về tài sản công.
4.2. NHỮNG GIAI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN QUAN LÝ TÀI
SAN CÔNG TAI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
4.2.1. Rà soát, xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên quan đến quản lý tài
sản công để có cơ sở đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ được giao
4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về tài sản, tăng cường đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài sản công
4.2.3. Hoàn thiện, bổ sung tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công
4.2.4. Tăng cường các giải pháp huy động các nguồn lực để phát triển
tài sản công
4.2.5. Thực hiện mua sắm tài sản theo phương thức tập trung để đảm
bảo hiệu quả, tiết kiệm trong đầu tư, mua sắm tài sản
4.2.6. Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý tài sản công
4.2.7. Thực hiện phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm thủ trưởng
các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản công
4.2.8. Tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch và giám sát đối với
quản lý tài sản công
4.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Thứ nhất, Các cơ quan quản lý nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách trong quản lý tài sản công nhằm khắc phục những
bất cập trong triển khai thực tế; trong đó ngoài việc xác định hệ thống tiêu
chuẩn, định mức về tài sản công được xây dựng thống nhất cho các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp trong cả nước thì cần cân nhắc, tính đến các tiêu
chuẩn, định mức áp dụng cho các Bộ, ngành, địa phương có tính đặc thù về
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, địa bàn hoạt động để đảm bảo sự linh hoạt, chủ
động của các cơ quan, đơn vị này trong thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà
nước trong quản lý tài sản công.
Thứ hai, đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, hướng dẫn Học viện xây
dựng, báo cáo các cơ quan có thẩm quyền ban hành cơ chế quản lý tài chính
phù hợp với đặc thù hoạt động của Học viện: Mặc dù là một cơ quan hết sức
đặc thù, nhưng hiện nay Học viện đang thực hiện cơ chế quản lý tài chính như
đối với một đơnvị sự nghiệp nên đã phát sinh rất nhiều bất cập trong việc tổ
chức thực hiện. Mặt khác, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự
nghiệp công lập, Học viện được Bộ Tài chính xếp vào nhóm đơn vị sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì
nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị định về cơ chế tự chủ tài chính của
25
đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, qua thảo luận để
thực hiện công việc nêu trên, do hoạt động của Học viện quá đặc thù, có nhiều
khác biệt so với hoạt động của các cơ quan đào tạo khác trong hệ thống giáo
dục quốc dân nên Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các cơ quan, đơn vị khác
có liên quan đề nghị không tiếp tục xếp Học viện vào nhóm đơn vị sự nghiệp
công trong lĩnh vực giáo dục đào tạo mà kiến nghị Bộ Tài chính và các cơ
quan quản lý nhà nước khác có liên quan nghiên cứu có cơ chế đặc thù phù
hợp với hoạt động của Học viện.
Chính vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành cơ chế tài
chính riêng, phù hợp với đặc thù về tổ chức và hoạt động của Học viện. Đây
cũng là một điều kiện hết sức quan trọng để hoàn thiện quản lý tài sản công
do mối quan hệ không thể tách rời giữa sự hình thành và quản lý tài sản công
với quản lý tài chính công.
Thứ ba, đề nghị Nhà nước cần có cơ chế đầu tư hợp lý về tài sản công
đối với Học viện để có nguồn lực tài sản công đáp ứng yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ được giao, đồng thời là tiền đề để Học viện có các biện pháp hợp lý
để tổ chức quản lý đối với tài sản được giao quản lý, sử dụng.
KẾT LUẬN
1. Tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng để thực hiện nhiệm
vụ được Nhà nước giao. Đây cũng là tài sản gắn chặt với lợi ích công, được
sử dụng để đáp ứng, đảm bảo các lợi ích công. Vì vậy, tăng cường quản lý tài
sản công để đảm bảo tài sản công được khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
là hết sức quan trọng cả về ý nghĩa kinh tế và xã hội, đồng thời đây cũng là
vấn đề được chú trọng quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội.
2. Quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
trong những năm vừa qua đã cơ bản đáp ứng được các yêu cầu đặt ra, tạo
nguồn lực cơ sở vật chất quan trọng để góp phần thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho Học viện. Tuy nhiên, trước những
yêu cầu nhiệm vụ mới và cơ chế quản lý mới thì quản lý tài sản công tại Học
viện đang gặp phải những khó khăn, hạn chế nhất định. Qua nghiên cứu thực
trạng quản lý tài sản công tại Học viện, có thể thấy các hạn chế này do các
nguyên nhân chính sau: 1) Cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng tài sản còn
bất cập, không bao quát được thực tế tại từng đơn vị; 2) Tiêu chuẩn, định mức
sử dụng tài sản chưa phù hợp; 3) Tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ chưa
đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; 4) Hệ thống thông tin phục vụ
quản lý chưa đầy đủ; 5) Nhận thức về tài sản công và quản lý tài sản công tại
các đơn vị sử dụng tài sản chưa thực sự đúng đắn; 6) Công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát và xử lý vi phạm chưa được quan tâm đúng mức.
26
3. Để hoàn thiện quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh trong thời gian tới cần một hệ thống các giải pháp đồng bộ, hiệu
quả, trong đó có thể vận dụng các giải pháp do Luận án đề xuất: 1) Rà soát,
xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên quan đến quản lý tài sản công; 2) Xây
dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về tài sản, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý; 3) Hoàn thiện, bổ sung các tiêu chuẩn, định mức sử
dụng tài sản; 4) Tăng cường giải pháp huy động các nguồn lực tài chính để
phát triển tài sản công; 5) Thực hiện mua sắm tài sản theo phương thức tập
trung; 6) Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;
7) Thực hiện phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm Thủ trưởng của các
đơn vị; 8) Tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch và giám sát đối với
quản lý tài sản công.
4. Quản lý TSC một cách tiết kiệm, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay
đang là yêu cầu hết sức cấp thiết, là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước và từng cơ quan, đơn vị, cá nhân được giao quản lý, sử dụng TSC; đồng
thời đây cũng là lĩnh vực hết sức phức tạp, rộng lớn, chịu sự tác động bởi
nhiều yếu tố và đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế, chính sách quản lý
nên được rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi của Luận án, tác giả đã cố gắng trình
bày một cách đầy đủ nhất các nội dung nghiên cứu để có thể hoàn thành mục
tiêu nghiên cứu đã đặt ra, tuy nhiên do năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Rất mong nhận
được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và
độc giả để tác giả có thể tiếp thu và tiếp tục hoàn thiện nghiên cứu của mình.
27
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIA
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Anh Hoàng, (2012), “Công tác tài chính, xây dựng cơ sở vật chất
của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Khoa học Chính trị, số tháng 5.
2. Hoàng Anh Hoàng, (2012), “Một số vấn đề đặt ra đối với quản lý tài sản
công tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Giáo dục Lý luận, số tháng 9.
3. Hoàng Anh Hoàng, (2015), “Góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
quản lý tài sản công tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” Tạp
chí Giáo dục lý luận, (235).
4. Hoàng Anh Hoàng, (2015), “Quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp công lập” Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (14).
5. Hoàng Anh Hoàng, (2016), “Kinh nghiệm quản lý tài sản công của
Chính phủ Mỹ”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (18).