Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ 95 HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, QUẢN LÝ VÀ CHẤT LƯỢNG NƯỚC NGẦM GIỒNG CÁT Ở TỈNH TRÀ VINH Nguyễn Văn Bé 1 và Trần Thanh Tuyền 2 ABSTRACT Ninety households were interviewed. Water samples were taken from 18 cement –walled and earthen wells in six research sites in April, June and August 2003 to analyze for NH3T, NO3 - , FeT, As, pesticide residues (Thiodan and Basudin), Ecoli and Coliform. Results from the study indicate that there is no agency monitoring the exploitation of the resource. Shallow groundwater in sand dunes in the study areas is mainly used for watering cash crops, and domestic consumption. Generally, the quality of shallow groundwater in sand dunes in the case study areas meets the Vietnamese standard for groundwater (TCVN 5944 - 1995) and drinking water (TCVN 5501-1991). However, there are some parameters such as total Iron, Nitrate, As, Ecoli and Coliform that did not meet the standards in the second (June 2003) and third (August 2003) stages of sampling. Keywords: Shallow groundwater, sand dunes, water quality, Mekong Delta and Tra Vinh province Title: Present exploitation, utilization and quality of shallow groundwater in sand dunes in Tra Vinh province TÓM TẮT Chín mươi (90) hộ nông dân đã được phỏng vấn. Mẫu nước đã được thu từ 18 giếng hộc và giếng đào thuộc 6 khu vực ở vùng nghiên cứu vào các tháng 4, tháng 6 và tháng 8 năm 2003 để phân tích các chỉ tiêu NH3T, NO3 - , FeT, As, độ lưu tồn của nông dược, Ecoli và Coliform. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nước ngầm giồng cát ở các địa điểm nghiên cứu đang khai thác một cách triệt và chưa có một cơ quan ban ngành nào giám sát việc khai thác nguồn tài nguyên này. Nước ngầm giồng cát ở các địa điểm nghiên cứu được sử dụng chủ yếu cho tưới hoa màu, và cung cấp nước sinh hoạt (ăn uống và tắm giặt) vào các tháng mùa khô. Chất lượng nước trong giồng cát ở vùng nghiên cứu, nhìn chung còn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm (TCVN 5944 - 1995) và tiêu chuẩn chất lượng nước uống (TCVN 5501-1991). Tuy nhiên, số thông số như Sắt tổng số, Nitrate, As, Ecoli và Coliform đã vượt tiêu chuẩn cho phép trong các đợt thu mẫu ở đầu (tháng 6) và giữa mùa mưa (tháng 8). Từ khóa: Nước ngầm, giồng cát, chất lượng nước, Đồng bằng sông Cửu Long, Trà Vinh 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tỉnh Trà Vinh thuộc vùng có chế độ thủy văn rất phức tạp và là một tỉnh ven biển, khan hiếm nguồn nước ngọt. Nước mặt bị nhiễm mặn vào mùa khô nên không đảm bảo về chất lượng cho sinh hoạt và sản xuất. Thực tế cho thấy nước ngầm, đặc biệt nước ngầm giồng cát là nguồn nước rất quan trọng để phục vụ cho các hoạt động của người dân ở những huyện ven biển của tỉnh Trà Vinh (Liên Đoàn Địa Chất Biển, 2004). 1 Khoa Nông nghiệp& Sinh học Ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ 2 Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Trà Vinh
10
Embed
hiện trạng khai thác, quản lý và chất lượng nước ngầm giồng cát ở ...
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
95
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC, QUẢN LÝ VÀ CHẤT LƯỢNG
NƯỚC NGẦM GIỒNG CÁT Ở TỈNH TRÀ VINH
Nguyễn Văn Bé1 và Trần Thanh Tuyền2
ABSTRACT
Ninety households were interviewed. Water samples were taken from 18 cement–walled
and earthen wells in six research sites in April, June and August 2003 to analyze for
NH3T, NO3-, FeT, As, pesticide residues (Thiodan and Basudin), Ecoli and Coliform.
Results from the study indicate that there is no agency monitoring the exploitation of the
resource. Shallow groundwater in sand dunes in the study areas is mainly used for
watering cash crops, and domestic consumption. Generally, the quality of shallow
groundwater in sand dunes in the case study areas meets the Vietnamese standard for
groundwater (TCVN 5944 - 1995) and drinking water (TCVN 5501-1991). However,
there are some parameters such as total Iron, Nitrate, As, Ecoli and Coliform that did not
meet the standards in the second (June 2003) and third (August 2003) stages of sampling.
Keywords: Shallow groundwater, sand dunes, water quality, Mekong Delta and Tra
Vinh province
Title: Present exploitation, utilization and quality of shallow groundwater in sand
dunes in Tra Vinh province
TÓM TẮT
Chín mươi (90) hộ nông dân đã được phỏng vấn. Mẫu nước đã được thu từ 18 giếng
hộc và giếng đào thuộc 6 khu vực ở vùng nghiên cứu vào các tháng 4, tháng 6 và tháng 8
năm 2003 để phân tích các chỉ tiêu NH3T, NO3-, FeT, As, độ lưu tồn của nông dược, Ecoli
và Coliform. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nước ngầm giồng cát ở các địa điểm
nghiên cứu đang khai thác một cách triệt và chưa có một cơ quan ban ngành nào giám
sát việc khai thác nguồn tài nguyên này. Nước ngầm giồng cát ở các địa điểm nghiên cứu
được sử dụng chủ yếu cho tưới hoa màu, và cung cấp nước sinh hoạt (ăn uống và tắm
giặt) vào các tháng mùa khô. Chất lượng nước trong giồng cát ở vùng nghiên cứu, nhìn
chung còn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm (TCVN 5944 - 1995) và tiêu chuẩn chất
lượng nước uống (TCVN 5501-1991). Tuy nhiên, số thông số như Sắt tổng số, Nitrate,
As, Ecoli và Coliform đã vượt tiêu chuẩn cho phép trong các đợt thu mẫu ở đầu (tháng 6)
và giữa mùa mưa (tháng 8).
Từ khóa: Nước ngầm, giồng cát, chất lượng nước, Đồng bằng sông Cửu Long, Trà Vinh
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỉnh Trà Vinh thuộc vùng có chế độ thủy văn rất phức tạp và là một tỉnh ven biển,
khan hiếm nguồn nước ngọt. Nước mặt bị nhiễm mặn vào mùa khô nên không đảm
bảo về chất lượng cho sinh hoạt và sản xuất. Thực tế cho thấy nước ngầm, đặc biệt
nước ngầm giồng cát là nguồn nước rất quan trọng để phục vụ cho các hoạt động
của người dân ở những huyện ven biển của tỉnh Trà Vinh (Liên Đoàn Địa Chất
Biển, 2004).
1 Khoa Nông nghiệp& Sinh học Ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ 2 Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Trà Vinh
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
96
Nguồn nước ngầm giồng cát là nguồn tài nguyên dễ tiếp cận và phù hợp với đặc
điểm kinh tế-xã hội hiện nay của cộng đồng dân cư ven biển mà đại bộ phận người
dân tộc Khmer sống trên những giồng cát. Hàng nghìn giếng hộc và giếng khơi
đang được nhân dân ở đây sử dụng, vì thế nước ngầm giồng cát bị khai thác một
cách triệt để.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý và khai thác hợp lý nguồn nước ngầm
giồng cát, hạn chế, ngăn ngừa những tác động tiêu cực của các nguồn ô nhiễm từ
sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt đến nguồn nước ngầm giồng cát ở tỉnh Trà Vinh
là một nhu cầu rất cấp thiết.
2 ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nguồn nước ngầm giồng cát phục vụ cho sinh
hoạt và sản xuất ở các huyện ở các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải và thị xã Trà
Vinh, tỉnh Trà Vinh. Các mục tiêu nghiên cứu bao gồm:
Tìm hiểu tầm quan trọng của nguồn nước ngầm giồng cát trong sản xuất và đời
sống của người dân ở các huyện Cầu Ngang , Duyên Hải và thị xã Trà Vinh,
tỉnh Trà Vinh.
Đánh giá hiện trạng quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước ngầm giồng cát
ở vùng nghiên cứu.
Đánh giá hiện trạng chất lượng nước giồng cát ở vùng nghiên cứu và ảnh
hưởng của sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt đến chất lượng nước ngầm giồng
cát ở các huyện nêu trên.
Đề xuất các biện pháp để quản lý và khai thác hợp lý nguồn nước ngầm giồng
cát, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp và bảo vệ sức khỏe của cộng
đồng dân cư ở vùng nghiên cứu.
3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu đã được triển khai ở xã Trường Long Hoà - huyện Duyên Hải, xã
Long Sơn - huyện Cầu Ngang và phường 8 - thị xã Trà Vinh, tỉnhTrà Vinh. trong
khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2003 đến tháng 12 năm 2003.
Các cuộc điều tra nông hộ bằng phiếu phỏng vấn đã được tổ chức ở các xã nghiên
cứu (30 hộ/xã) để thu thập các thông tin về hiện trạng sản xuất nông nghiệp, nhu
cầu nước sạch, hiện trạng sử dụng và tầm quan trọng của nguồn nước ngầm giồng
cát trong sản xuất, đời sống của người dân ở địa phương .
Ở mỗi xã nghiên cứu, mẫu nước đã được thu ở 3 giếng phục vụ cho tưới hoa màu
và 3 giếng phục vụ cho sinh hoạt gia đình để đo các chỉ tiêu, pH (tại hiện trường)
và bảo quản mẫu, mang về phòng thí nghiệm phân tích các chỉ tiêu: N-NH3T , N-
N03, Fe tổng , E.Coli, tổng Coliform (tại Phòng Thí nghiệm Chất lượng Môi
trường, Khoa Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ), As và độ lưu tồn của Thiodan,
Basudin (tại Phòng Thí nghiệm Chuyên sâu, Đại học Cần Thơ). Các mẫu đã được
thu 3 đợt vào các tháng 4, tháng 6 và tháng 8 năm 2003. Tuy nhiên, mẫu đo nông
dược chỉ được thu 1 đợt vào tháng 8 năm 2003.
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
97
Tổng cộng có 18 giếng được thu và chia thành 6 nhóm:
Giếng đào trên giồng cát ở xã Trường Long Hoà, huyện Duyên Hải. Ký hiệu:
Giếng đào trên giồng cát TLH
Giếng đào gần giồng cát ở xã Trường Long Hoà, huyện Duyên Hải. Ký hiệu:
Giếng đào gần giồng cát TLH
Giếng đào ở xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang . Ký hiệu: Giếng đào S
Giếng hộc ở xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang Ký hiệu: Giếng đào S
Giếng đào ở phường 8, thị xã Trà Vinh. Ký hiệu: Giếng đào P8, TXTV
Giếng hộc ở phường 8, thị xã Trà Vinh. Ký hiệu: Giếng đào P8, TXTV
Chương trình phần mềm Excel, SPSS đã được sử dụng để xử lý thông kê miêu tả,
so sánh chất lượng nước ở các địa điểm nghiên cứu.
4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Hiện trạng khai thác và quản lý nước ngầm giồng cát
Ở xã Trường Long Hoà, huyện Duyên Hải, kết quả điều tra cho thấy rằng khoảng
90% số hộ được phỏng vấn vẫn còn sử dụng nước giếng đào để tưới hoa màu. Độ
sâu trung bình của giếng đào khoảng 3,6 m (cạn nhất 1m, sâu nhất 4 m) và chiều
rộng khoảng 2,5 - 3,5m. Vào mùa khô, nhu cầu tưới cao và vũ lượng thấp làm cho
mực nước trong giếng cạn dần. Để đáp ứng nhu cầu tưới, mỗi hộ phải đào từ 4 - 5
giếng. Mực nước giếng đào thấp nước vào những tháng mùa khô, 56,7 % số hộ
được phỏng vấn cho rằng mực nước thấp nhất vào tháng 4; 33,3 % vào tháng 5, 10
% vào tháng 3. Kết quả điều tra cho thấy trong toàn xã có khoảng 50 giếng khoan
nước ngầm tầng sâu (100- 120 m) đang được sử dụng. Số lượng giếng hộc và
giếng đào sử dụng nước ngầm tầng nông vẫn chưa được thống kê đầy đủ cho toàn
xã vì số lượng của chúng dao động theo mùa. Hơn nữa, chưa có một cơ chế quản
lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn nước ngầm ở địa phương.
Kết quả điều tra ở xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang cho thấy rằng khoảng 65,6 %
số hộ được phỏng vấn vẫn còn sử dụng giếng hộc và 15,6% vẫn còn sử dụng giếng
đào làm nguồn nước ăn uống và sinh hoạt. Giếng khai thác phục vụ cho ăn uống và
sinh hoạt trung bình 1 giếng/hộ, thường nằm trong đất thổ cư, phía trước hoặc phía
sau nhà, cách nhà khoảng dưới 10 m. Chiều sâu giếng từ 3-7 mét; thành ống được
gia cố bằng xi măng, nền đáy là lớp sỏi cuội, đá dăm có khả năng lưu thông nước
dễ dàng. Hiện tại nguồn nước trong các giồng cát được khai thác tập trung vào
mùa khô, khi không có nước mưa, đặc biệt vào thời điểm nhu cầu nước tưới tăng
cao (từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm). Vào mùa mưa, khi nhu cầu nước giảm dần
từ tháng 6 đến tháng 11, các giếng đào ngoài đồng được lấp lại chuyển thành đất
canh tác. Một số giếng còn lại do ít sử dụng nên nước không được trao đổi thường
xuyên. Lúc này chủ yếu là làm lúa ở nơi đất thấp và thêm một số loại hoa màu:
như bầu, bí, khổ qua,… trồng xen kẻ trên những địa hình cao hơn. Về nguồn nước
tưới, 53,1 % số hộ được phỏng vấn sử dụng giếng đào; 6,3 % khai thác giếng
khoan; 3,1 % lấy từ giếng hộc, còn lại 37,5 % sử dụng nước kênh để tưới. Giếng
được đào sâu nhất trung bình 4,5 m vào tháng 4, lúc này mực thủy cấp hạ thấp
nhất. Khoảng 6,3 % số hộ được phỏng vấn cho rằng nước bị đục, 93,7 % còn lại
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
98
nhận xét chất lượng nước không đổi theo thời gian. Gần 100 % người được phỏng
vấn nhận định tiếp tục đào thì nước vẫn cứ ngọt. Tổ Nông nghịêp của Xã là đơn vị
trực tiếp quản lý việc đăng ký khai thác nguồn nước ngầm tầng sâu (100-120 m) ở
địa phương, còn nước ngầm tầng nông chưa được quan tâm.
Khoảng 65,6 % số hộ được phỏng vấn ở Phường 8, Thị xã Trà Vinh sử dụng nước
giếng hộc cho ăn uống, 18,8 % giếng khoan và 15,6 % giếng đào. So với trước đây
thì số hộ sử dụng nước giếng đào cho mục đích ăn uống đã giảm (trước đây con số
này dao động trong khoảng 3,6 % đến 28,1 %). Kết quả điều tra cũng cho thấy
rằng 34,4 % số hộ được phỏng vấn không đun sôi hay áp dụng bất kỳ biện pháp xử
lý nào đối với nguồn nước uống; khoảng 34,4 % đun sôi nước để uống và 25 % số
hộ được phỏng vấn lóng phèn nước uống; 6,2 % còn lại lọc nước qua bình lọc
trước khi uống. Nguồn nước cấp cho sinh hoạt còn phụ thuộc chủ yếu vào giếng
đào (chiếm 56,3%) và giếng hộc (chiếm 37,5 %), số còn lại sử dụng nước máy.
4.2 Chất lượng nước ngầm giồng cát
4.2.1 Đạm Ammon (N- NH4+)
Sự dao động của nồng độ N-NH4+ trong mẫu nước ở các giếng nghiên cứu qua các
đợt thu mẫu được trình bày trong Hình 1.
0
2
4
6
8
1 2 3
Đợt thu mẫu
Nồ
ng
độ
N-N
H4
(m
g/L
)
Giếng đào trên giồng cát TLH Giếng đào gần giồng cát TLH
Giếng đào LS Giếng hộc LS
Giếng đào P8, TXTV Giếng hộc P8, TXTV
Hình1: Sự dao động của nồng độ N-NH4
+ trong mẫu nước giếng nghiên qua các đợt thu mẫu
Nồng độ trung bình của N-NH4+ trong nước của các giếng hộc ở phường 8, thị xã
Trà Vinh rất cao ở đợt thu mẫu thứ 2 (tháng 6/2003) và vào đợt thu mẫu thứ 3
(tháng 8/2003) vì các giếng này ở gần trung tâm thị xã, tập trung dân cư cao, bị
nhiễm bẩn bởi các chất thải sinh hoạt và chăn nuôi. Kiểm định Anova cho thấy sự
sai khác chỉ có ý nghĩa giữa các đợt thu mẫu 1,2 và 3 giữa các giếng trong các
Giếng đào gần giồng cát TLH, Giếng đào LS, Giếng hộc LS và Giếng đào P8,
TXTV.
4.2.2 Đạm Nitrate (N- NO3-)
Hình 2. chỉ sự dao động của nồng độ N- NO3- trong mẫu nước ở các giếng nghiên
cứu qua các đợt thu mẫu.
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
99
0
5
10
15
20
25
30
35
1 2 3
Đợt thu mẫu
Nồn
g độ
N-N
O3
(mg/
L)
Giếng đào trên giồng cát TLH Giếng đào gần giồng cát TLH
Giếng đào LS Giếng hôc LS
Giếng đào P8, TXTV Giếng hộc P8, TXTV
Hình 2:Sự dao động của nồng độ N-NO3
- trong mẫu nước giếng nghiên qua các đợt thu mẫu
Nhìn chung, nồng độ trung bình của N-N03- trong nước của các giếng ở các điểm
nghiên cứu thường thấp trong đợt thu mẫu thứ nhất (tháng 4/2003) và cao nhất
trong đợt thu mẫu lần thứ 2 (tháng 6/2003) hay thứ 3 (tháng 8 năm 2003). Tuy
nhiên, kiểm định Anova cho thấy rằng chỉ có sự khác biệt ý nghĩa giữa đợt thu
mẫu thứ 1,2 và 3 ở Giếng đào gần giồng cát TLH và Giếng hộc LS .
4.2.3 Sắt tổng số (FeT)
Sự dao động của nồng độ FeT trong mẫu nước ở các giếng nghiên cứu qua các đợt
thu mẫu được trình bày trong Hình.3.
0
2
4
6
8
10
12
1 2 3
Đợt thu mẫu
Nồn
g độ
Fe
(mg/
L)
Giếng đào trên giồng cát THL Giếng đào gần giồng cát THL
Giếng đào LS Giếng hộc LS
Giếng đào P8, TXTV Giếng hôc P8, TXTV
Hình 3: Sự dao động của nồng độ FeT
trong mẫu nước giếng qua các đợt thu mẫu
Nồng độ trung bình của Fe tổng trong nước của các giếng hộc phục vụ cho sinh
hoạt và ăn uống ở xã Long Sơn, các giếng đào trên giồng cát ở xã Trường Long
Hòa rất cao so với điểm thu mẫu khác. Kiểm định so sánh Anova cho thấy không
có sự khác biệt ý nghĩa giữa nồng độ Fe tổng trong các khu vực nghiên cứu.
Nhìn chung, nồng độ trung bình của Fe tổng trong nước của các giếng ở những
điểm nghiên cứu thường thấp trong đợt thu mẫu thứ nhất (tháng 4/2003) và cao
nhất trong đợt thu mẫu lần thứ 2 (tháng 6/2003), giảm xuống trong đợt thu mẫu thứ
3 (tháng 8 năm 2003). Tuy nhiên, kiểm định Anova cho thấy sự khác biệt giữa các
nhân tố này là không có ý nghĩa thống kê.
Có sự khác biệt trong kết quả khảo sát của chúng tôi so với nghiên cứu chất lượng
nước trên giồng cát ở giồng cát Trà Vinh – Đa Lộc, Giồng Hòa Thuận – Hòa Lợi -
Tạp chí Khoa học 2007:8 95 - 104 Trường Đại học Cần Thơ
100
Hiệp Hòa, giồng Vĩnh Kim - Cầu Ngang, giồng Đại An – Long Hữu của Bùi Thế
Định (2003), hàm lượng sắt tổng số trong nước trong mùa khô cao hơn mùa mưa,
dao động từ 0,05 – 4,13 mg/L. Nhỏ hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi khoảng
5 lần. Một lần nữa, điều này có thể được giải thích là do hầu hết các giếng nghiên
cứu của Bùi Thế Định (2003) là giếng hộc, có nắp đậy, nên khả năng bị ảnh
hưởng chảy tràn các tạp chất từ môi trường xung quanh là nhỏ hơn so với các
giếng đào hở nghiên cứu của chúng tôi.
4.2.4 Ecoli
Hình 4 chỉ sự dao động của số lượng Ecoli trong mẫu nước ở các giếng nghiên cứu