LỜI NÓI ĐẦUĐề tài Giải phẫu so sánh hệ bài tiết và mối quan hệ giữa ống dẫn bài tiết và ốngdẫn sinh dụcqua các lớp động vật của ngành Dây sống( Chordata) được thực hiện theo yêu cầu của giảng viên Nguyễn Văn Hiếu , theo hướng tích hợp kiến thức qua các giáo trình về Động vật học : Giáo trình Động vật học có xương sống ( GS. Lê Vũ Khôi), Giáo trình Động vật học ( Thái Trần Bái ), Động vật học có xương sống ( Trần Kiên - Trần Hồng Việt) và Giáo trình Động vật học ( TS. Lê Trọng Sơn). Yêu cầu này đề xuất nhiều thuận lợi và khó khăn c ho quá trình t hực hiện. Về mặt thuận lợi, có tầm nhìn khái quát về ngành Dây sống về đặc trưng qua từng lớp động vật, các quy luật chung chi phối phát triển và tiến hóa hệ bài tiết và hệ sinh dục của chúng. Về khó khăn, kiến thức phải được chọn lọc hợp lý, tư liệu và hình ảnh phục vụ cho đề tài chỉ giới hạn trong một số trang sách hạn chế nhưng vẫn phải thể hiện được các nội dung cơ bản về đặc trưng của hệ bài tiết và mối quan hệ giữa hệ bài bài tiết với hệ sinh dục qua các lớp của ngành Dây sống. Khắc phục khó khăn này, chúng tôi đã chọn đơn vị so sánh là các lớp động vật của ngành Dây sống, thể hiện đầy đủ và rõ nét sự tiến hóa về cấu tạo và chức năng của hệ bài và mối quan hệ c ủa nó với hệ sinh dục Hình ảnh trong đề tài chủ yếu là các hình được chụp l ại và ghép l ại t ừ nhi ều nguồn. Qua đề tài này đã giúp nhóm thực hi ện phát huy năng l ực quan sát, năng l ực nghiên cứu, củng cố, nâng cao kiến thức và kĩ năng làm việc theo nhóm. Trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót về nội dung cũng như cách trình bày, chúng tôi rất mong được các bạn đọc đóng góp ý kiến chỉnh sửa và bổ sung để đề tài thêm hoàn thiện. Xin trân trọng cảm ơn ! 1
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Đề tài Giải phẫu so sánh hệ bài tiết và mối quan hệ giữa ống dẫn bài tiết và ống
dẫn sinh dục qua các lớp động vật của ngành Dây sống ( Chordata) được thực hiện theo
yêu cầu của giảng viên Nguyễn Văn Hiếu , theo hướng tích hợp kiến thức qua các giáotrình về Động vật học : Giáo trình Động vật học có xương sống ( GS. Lê Vũ Khôi),
Giáo trình Động vật học ( Thái Trần Bái ), Động vật học có xương sống ( Trần Kiên -
Trần Hồng Việt) và Giáo trình Động vật học ( TS. Lê Trọng Sơn). Yêu cầu này đề xuất
nhiều thuận lợi và khó khăn cho quá trình thực hiện.
Về mặt thuận lợi, có tầm nhìn khái quát về ngành Dây sống về đặc trưng qua từng
lớp động vật, các quy luật chung chi phối phát triển và tiến hóa hệ bài tiết và hệ sinh dục
của chúng.Về khó khăn, kiến thức phải được chọn lọc hợp lý, tư liệu và hình ảnh phục vụ cho
đề tài chỉ giới hạn trong một số trang sách hạn chế nhưng vẫn phải thể hiện được các nội
dung cơ bản về đặc trưng của hệ bài tiết và mối quan hệ giữa hệ bài bài tiết với hệ sinh
dục qua các lớp của ngành Dây sống.
Khắc phục khó khăn này, chúng tôi đã chọn đơn vị so sánh là các lớp động vật của
ngành Dây sống, thể hiện đầy đủ và rõ nét sự tiến hóa về cấu tạo và chức năng của hệ
bài và mối quan hệ của nó với hệ sinh dụcHình ảnh trong đề tài chủ yếu là các hình được chụp lại và ghép lại từ nhiều
nguồn.
Qua đề tài này đã giúp nhóm thực hiện phát huy năng lực quan sát, năng lực
nghiên cứu, củng cố, nâng cao kiến thức và kĩ năng làm việc theo nhóm.
Trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót về nội dung
cũng như cách trình bày, chúng tôi rất mong được các bạn đọc đóng góp ý kiến chỉnh
Hệ bài tiết và mối quan hệ giữa ống dẫn bài tiết và
ống dẫn sinh dục qua các lớp động vật củangành Dây sống
+ Bài tiết là quá trình thải các chất cặn bã, các chất thừa... ra khỏi cơ thể, giúp chocơ thể không bị nhiễm độc và luôn giữ được cân bằng nội môi. Tham gia vào chức năngnày có nhiều cơ quan khác nhau như hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, da, thận...
+Cơ quan bài tiết là đôi thận và đôi ống dẫn niệu. Cơ quan tiết niệu không còn ở dạng nguyên đơn thận hoặc hậu đơn thận cấu tạo đơn giản như động vật không dâysống, trừ bọn nguyên thủy, tất cả đều có thận tập trung thành khối tiền thận, trung thận
hoặc hậu thận, nằm ở phía lưng, cấu tạo thận ngày càng tinh vi phức tạp, làm nhiệm vụlọc thải rất tốt.
I/ Nhóm không sọ ( Acrania ) - Các phân ngành dây sống nguyên thủy
1 Phân ngành sống đuôi (Urochordata )
Chưa có thận chính thức, chỉ có các tế bào tiết trong mô liên kết tích trữ chất
thải (ure, axit uric ) tập trung vào túi bài tiết ở trong một khúc ruột. Đây là kiểu
thận tích trữ.
2. Phânngành sống đầu(Cephalochordata)
Gồm hơn 100 đôi đơn thận rải dọc thể xoang hai lưng hầu, giữa ống dọc của
thể xoang và xoang bao mang ,thận vừa có nguyên đơn thận và hậu đơn thân của
Giun. Mỗi đợn thận gồm 1 ống ngắn, cong, dạng thước thợ, có nhiều nằm giữa hai
khe mang, có nhiều miệng thận thông vào xoang cơ thể và một lỗ thận đổ vào xoang
bao mang. Trên lỗ miệng thận có nhiều tế bào mặt trời hình ống, dài, trong đó có
sợi long rung động, có tác dụng hút các chất cạn bã từ thể xoang đổ vào ống thận và
thải qua lỗ thận. Chất bã từ thể xoang thấm vào ống đơn thận do cử động của roi,
được thải qua lỗ thận vào khaong bao mang, rồi ra ngoài
thấu của động vật sống trong nước (kể cả nước mặn và nước ngọt) và chức năng giữ
nước của động vật sống trên cạn
(Nguồn: Giáo trình Động vật học TS. Lê Trọng Sơn)
1. Tổng lớp không hàm ( Agnatha)
Phân lớp cá miệng tròn (Cyclostamata) đại diện : cá bám
Khác với động vật có xương sống khác, cơ quan bài tiết của cá bám ít liên quan với
cơ quan sinh dục. Cơ quan bài tiết là đôi trung thận hình dải, dẹp, nằm dọc khoang bụng, chất bài tiết đổ vào ống niệu ( là ống Wolff) vào xoang niệu sinh dục thông ra
ngoài qua lỗ niệu sinh dục.Ở cá Mixin còn có tiền thận hoạt động
2. Tổng lớp có hàm (Gnathostomata)
a. Lớp cá sụn (Chondrichthyes)
Trong phôi lúc đầu hình thành tiền thận nhỏ, với ống dẫn niệu nguyên thủy, về sau
tiền thận dần dần teo đi, trung thận hình thành thay thế và tồn tại suốt đời.
Cá nhám tro và các cá sụn có hai trung thận hình dải, dẹp, màu nâu đỏ nằm dọc hai bên cột sống phía lưng . Phần sau của trung thận lớn hơn, đặc hơn phần trước, giữ vai
trò chính lọc và thải. Dọc bụng thận có nhiều niệu quản ( là ống Wolff) uốn khúc, tập
bài tiết ra rất lớn và có thể lên tới 1/3 khối lượng cơ thể trong 24 giờ. Cũng vì thế mà
ếch đồng sinh hoạt vào lúc xẩm tối hay ban đêm và gần những nơi có độ ẩm cao.
Trong thận giữa có ống thận giữa (nephridium) bộ phận học nước tiểu tương đốilớn. Những ống này nhận được máu từ động mạnh thận đi đến từ động mạch lưng.
Đại bộ phận máu tĩnh mạch đi đến thận qua tĩnh mạch chủ sau. Trong huyết tương
sản phẩm bài tiết chứa nhiều chất có ích cho cơ thể , do đó trong quá trình vận chuyển
qua các ống thận những hợp chất có ích như đường, sinh tố, các ion natri được hấp thụ
lại. Tuy nhiên ở thận giữa của lưỡng cư không có khúc Henle và đoạn hấp thụ lại nước
tiểu như ở thú(hình 187). Theo Konstantinov và C.S – 2000, số lượng ống thận giữa
còn ít ở lưỡng cư có đuôi (Triturus) chỉ có 400; ở lưỡng cư không đuôi (Rana) có2000. Treenmootj số ống thận giữa vẫn còn phễu thận (neuphostome). Ở lưỡng cư
không chân số lượng phễu thận : còn hơn 1000, ở Lưỡng thê không đuôi ( ếch cỏ
Ranatemporaria) chỉ còn 200-250 phễu thận.
Hệ bài tiết của lưỡng cư
có những đặc trưng cho đời sống nửa nước nửa cạn là do
tính chất sinh học của da.
Con đực có ống dẫn tinh
là ống Volff. Con cái có
ống dẫn trứng là ống
Muller.
(nguồn: Giáo trình Động vật học có xương sống_Trần Kiên
(nguồn: Giáo trình Động vật học có xương sống_Trần Kiên ft Trần Hồng Việt)
d) Lớp Bò sát (Reptilia)
Thận bò sát là hậu thận, có hình khối dài bám vào vách lưng của vùng hậu ống dẫn
liệu hình thành mới từ gốc ống Wolff. Trung thận chỉ có ở giai đoạn phôi. Bóng đái
rất lớn, chỉ có ở đa số Thằn lằn và Rùa, còn ở rắn và cá sấu không có bóng đái. Cũng
như ở lưỡng cư, nước tiểu của bò sát vào huyện trước khi được tích trữ vào bóng đái.
Nhưng khác với lưỡng cư, nước tiểu của các loài bò sát sống trên cạn (thằn lằn, rắn) làmột chất sền sệ tcó màu trắng đục không hoà tan trong nước, thành phần chủ
yếu là axit uric. Nước tiểu sở dĩ đặc là do khả năng hấp thu lại nước
của nước tiểu trong xoang huyệt. Nước tiểu của các loài bò sát sống ở
nước hoặc nửa nước nửa cạn (rùa nước, cá sấu ...)thì loãng và thành phần chủ yếu
là urê. Ví dụ, loài rùa biển lớn ở Nam Bộ có cơ quan bài tiết muối qua tuyến lệ.
Dọc đường di chuyển trong ống niệu, nước tiểu đầu tiêu bị biến đổi nhiều về hàm
lượng nước và chất hòa tan, do quá trình tái hấp thu và tiết thêm một số chất trực tiếp từ
mao quản qua mô đệm vào ống niệu. Quá trình tái hấp thu và tiết thêm này không giống
nhau ở các phần của ống niệu. 99% nước trong nước tiểu đầu tiên được tái hấp thu nhờ thẩm thấu, chủ yếu qua thành ống lượn gần và phần đầu cảu quai Henle (85%) và qua
thành ống góp. Các muối được tái hấp thu tích cực qua thành của đoạn lên của quai
Henle và phần đầu của ống lượn xa. Gluco, phần lớn các axit amin và các ion vô cơ
cũng được tái hấp thu tích cực (cần năng lượng) qua thành của ống lượn gần. Trong tiết
thêm, một số chất được vận chuyển tích cực từ máu vào ống lượn xa và đọng lại trong
nước tiểu. Các ion nhất định, nhất là H+ và K +, một số phân tử lớn như axit uric và các
hợp chất lạ được hình thành trong gan sẽ đi vào nước tiểu nhờ tiết thêm. Như vậy nướctiểu khi mới hình thành nhờ siêu lọc trong bao Bowman và nước tiểu trước khi thải ra
ngoài khác nhau nhiều về thành phần, nhờ quá trình tái hấp thu và quá trình tiết bổ sung
khi nước tiểu di chuyển qua ống niệu. phần tái hấp thu nước và chất hoà tan từ ông niệu
và sự chênh lệch về độ thẩm thấu ở miền tủy và miền vỏ của thận, ở trong và ngoài ống
niệu, yếu tố quyết định di chuyển của nước trong tái hấp thu.
Ở động vật có trung thận tồn tại suốt đời, ở con đực ống Volff vừa dùng để
dẫn niệu vừa để dẫn tinh, còn Muller thoái hóa. TRong khi đó con cái, ống Volff làm
nhiệm vụ dẫn niệu, còn Muller làm nhiệm vụ dẫn trúng.
Ở động vật có màng ối ( Bò sát, chim, thú), do hậu thận phát triển, hình thànhống dẫn niệu thứ cấp nên ống Volff chỉ có chức năng dẫn tinh ở con đực và con cái thì
thoái hóa. Ngược lại ở con cái ống Muller làm nhiệm vụ dẫn trứng, còn ống Volff thì