1 UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC/MÔ ĐUN: LỊCH SỬ ÂM NHẠC THẾ GIỚI NGÀNH: THANH NHẠC; ORGAN; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG Lưu hành nội bộ Năm 2017
1
UBND TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI
GIÁO TRÌNH NỘI BỘ
MÔN HỌC/MÔ ĐUN: LỊCH SỬ ÂM NHẠC THẾ GIỚI
NGÀNH: THANH NHẠC; ORGAN; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG
Lưu hành nội bộ
Năm 2017
2
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
3
LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình lịch sử âm nhạc thế giới là một trong các giáo trình được quy định
trong chương trình khung đào tạo âm nhạc cho tất cả các ngành: sáng tác lý luận, chỉ huy
và tất cả các ngành biểu diễn: thanh nhạc, nhạc đàn... bậc đại học. tuy nhiên, giáo trình
này có thể dùng cho sinh viên bậc cao đẳng hay cho học sinh bậc trung học có yêu cầu
cần tìm hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử, một tác giả hay một tác phẩm nào đó. đồng
thời có thể phục vụ cho các ngành nghệ thuật khác: sân khấu, múa, điện ảnh... và cho tất
cả những ai quan tâm đến vấn đề lịch sử âm nhạc thế giới.
Cuốn giáo trình nhằm giới thiệu khái quát về tình hình tiến triển của nền văn hoá
âm nhạc qua các thời đại lịch sử; những thành tựu nổi bật theo trình tự thời gian lịch sử,
để nêu lên nội dung tư tưởng của từng trào lưu âm nhạc do tác động qua lại của các
chuyển biến xã hội; để khẳng định phong cách cũng như thủ pháp của các trào lưu thông
qua các tác giả, tác phẩm.
Cuốn giáo trình âm nhạc gồm có năm chương
Lịch sử âm nhạc thế giới từ nguồn gốc cho tới đầu thế kỷ XX là thời kỳ của âm
nhạc sử sách, ít có những nốt nhạc, băng âm thanh để giúp sinh viên có thể tự nghiên cứu
thêm; do vậy, nhóm tác giả cố gắng trình bày những nét khái quát nhất, và trong điều
kiện có thể sẽ trích những ví dụ âm nhạc hoặc tranh ảnh nhằm minh chứng cho các nhận
định của các giai đoạn này.
Cách trình bày của từng giai đoạn lịch sử, từng chương, từng tác giả theo trình tự
từ khái quát tới chi tiết; từ những thành tựu chung đến các lĩnh vực riêng biệt. với lối dẫn
giải như vậy, sẽ giúp ích cho sinh viên dễ dàng tự học; đồng thời làm cho cuốn sách đáp
ứng được yêu cầu của từng ngành học riêng biệt, có nguyện vọng đi sâu về từng lĩnh vực
riêng của mình.
Khi sinh viên đã có giáo trình này, việc thay đổi cách dạy bộ môn lịch sử âm nhạc,
cần phải được coi trọng. giáo viên nên theo trình tự như sau:
Sinh viên cần tự đọc và nghiên cứu trước nội dung sắp được học, kể cả những sách
khác do giáo viên gợi ý và cả các tác phẩm sẽ phân tích và chuẩn bị trả lời các vấn đề mà
giáo viên yêu cầu.
Tổ chức cho sinh viên trao đổi, toạ đàm ngay tại lớp, nghe các trích đoạn tác
phẩm. giáo viên hướng dẫn sinh viên cách nhận xét, so sánh để từ đó giúp họ hệ thống lại
những vấn đề thuộc nội dung bài giảng.
Khi viết cuốn sách này, nhóm tác giả đã cố gắng sử dụng các thuật ngữ theo khái
niệm của nhiều người đã công nhận. tên gọi các tác giả, hình thức, thể loại, địa dư, được
ghi theo nguyên dạng (nhưng có phiên âm cách đọc lúc đầu) để giúp sinh viên dễ dàng
tiếp xúc với tổng phổ.
Để môn lịch sử âm nhạc đạt được yêu cầu cao, ngoài việc cải tiến cách dạy của
giảng viên và cách học của sinh viên, còn đòi hỏi nhiều sự hỗ trợ khác nữa của nhà
trường. trước hết, thư viện của nhà trường cần mua thêm các giáo trình khác của các cơ
4
sở đào tạo khác, kể cả các giáo trình nước ngoài. song song, cần sưu tầm các tổng phổ,
các băng âm thanh... giúp sinh viên đổi mới cách học.
Để hoàn thành cuốn giáo trình này nhóm tác giả đã rất cố gắng; bởi ở việt nam
chưa có cơ sở đào tạo nào viết toàn bộ lịch sử âm nhạc thế giới từ cổ đại đến hết thế kỷ
xx ở bậc đại học.
Cuối cùng, chúng tôi mong nhận được những nhận xét của các bạn đồng nghiệp,
các sinh viên âm nhạc nói riêng và các độc giả nói chung.
Lào Cai, năm 2017
Người biên soạn
Kiều Đức Thăng
5
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI, TRUNG
CỔ .................................................................................................................................. 11
Bài 1. Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ ................................ 11
1. Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy............................................................................. 11
2. Âm nhạc thời kỳ cổ đại. ...................................................................................... 12
3. Âm nhạc thời kỳ trung cổ. .................................................................................. 13
3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ ................................................................. 13
3.1.1 Âm nhạc dân gian ....................................................................................... 13
3.1.2 Âm nhạc nhà thờ ......................................................................................... 13
3.2. Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ .............................................................. 14
3.2.1. Âm nhạc Trung Hoa ................................................................................... 14
3.2.2. Âm nhạc Ả Rập .......................................................................................... 14
3.2.3. Âm nhạc Slaves .......................................................................................... 14
3.2.4. Âm nhạc tây âu. ......................................................................................... 14
CHƯƠNG II. ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG ................................ 16
Bài 1: Âm nhạc thời kỳ Phục hưng ............................................................................ 16
1. Khái quát Âm nhạc Phục hưng. .......................................................................... 16
2. Các trung tâm Âm nhạc nổi bật. ......................................................................... 16
CHƯƠNG III: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII................................... 19
Bài 1: Nhà soạn nhạc G. F. Henden ............................................................................. 19
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 19
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 20
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 20
Bài 2: Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc ......................................................... 21
1. Tiểu sử. ............................................................................................................... 21
2. Ngôn ngữ và thủ pháp âm nhạc. ......................................................................... 21
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 22
CHƯƠNG IV: TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN .................................... 24
Bài 1: Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên ................................................ 24
1. Sự hình thành và phát triển. ................................................................................ 24
2. Những thành tựu cơ bản. .................................................................................... 24
Bài 2: Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck ..................................................... 24
1. Cược đời và sự nghiệp ........................................................................................ 25
2. cuộc cải cách nhạc kịch của gluck ...................................................................... 26
Bài 3: Nhà soạn nhạc Josepn Haydn .......................................................................... 29
6
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 29
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 30
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 30
Bài 4: Nhà soạn nhạc W. A. Mozart .......................................................................... 32
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 32
2. Ngôn ngữ âm nhạc. ............................................................................................. 32
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 33
Bài 5: Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven .......................................................... 35
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 35
1.1 Những năm tuổi thơ ở quê hương. .................................................................... 35
1.2 Thời sớm ở Viên (1792-1802). .......................................................................... 35
1.3 Giai đoạn thành thục (1803- 1812). .................................................................. 35
1.4 Những năm cuối đời (1816 -1827). ................................................................... 35
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 36
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 36
3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano. ....................................................................... 36
3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng. .................................................... 36
CHƯƠNG IV. CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN .............................................. 38
Bài 1: Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn ........................................................................ 38
1. Sự hình thành và phát triển. ................................................................................ 38
2. Những thành tựu cơ bản. .................................................................................... 38
Bài 2: Nhà soạn nhạc F. Schubert .............................................................................. 40
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 40
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 40
3. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. .................................................................... 40
Bài 3: Nhà soạn nhạc C. M. Vêbe (Carl Marie Weber) ............................................. 43
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 43
2. Sự nghiệp sáng tác. ............................................................................................. 43
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 43
Bài 4: Nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi ....................................................... 45
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 45
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 45
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu. ............................................................. 46
Bài 5: Nhà soạn nhạc Robert Schuman ...................................................................... 48
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 48
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 48
7
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 48
Bài 6: Nhà soạn nhạc Giochino Rossini ..................................................................... 50
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 50
2. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu. .................................................................... 50
Bài 7: Nhà soạn nhạc Hector Berlioz ......................................................................... 52
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 52
2. Ngôn ngữ âm nhạc. ............................................................................................. 52
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 52
Bài 8: Nhà soạn nhạc Federic Chopin ........................................................................ 53
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 53
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 53
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 53
Bài 9: Nhà soạn nhạc Mikhail Glinka ........................................................................ 55
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 55
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 55
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 55
Bài 10: Nhà soạn nhạc Frank Liszt ............................................................................ 57
1. Thân thế sự nghiệp. ............................................................................................. 57
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 57
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 57
Bài 12: Nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs .................................................................... 58
1. Thân thế sự nghiệp ................................................................................................. 58
2. Ngôn ngữ Âm nhạc ............................................................................................. 58
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 58
Bài 13: Nhà soạn nhạc Josph Verdi ........................................................................... 60
1. Thân thế sự nghiệp ................................................................................................. 60
2. Ngôn ngữ Âm nhạc ............................................................................................. 60
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 60
Bài 14: Nhà soạn nhạc George Bizet ......................................................................... 62
(G. bi-dê: 1838 - 1875) .................................................................................................. 62
1. cuộc đời và sự nghiệp ......................................................................................... 62
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 64
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 64
Bài 15: Nhà soạn nhạc Bedrich Smetana ................................................................... 68
1. cuộc đời và sự nghiệp ......................................................................................... 68
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 69
8
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 70
Bài 16: Nhà soạn nhạc Antonin Dvorak (1841- 1904) .............................................. 74
1. cuộc đời và sự nghiệp ......................................................................................... 74
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 76
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 76
Bài 17: Nhà soạn nhạc Edvard Grieg ......................................................................... 79
1. cuộc đời và sự nghiệp ......................................................................................... 79
2. Ngôn ngữ Âm nhạc. ............................................................................................ 81
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu. ...................................................... 81
3.1. Sáng tác piano; ................................................................................................. 82
3.2 sonate; ................................................................................................................ 82
3.3. concerto piano và dàn nhạc - amoll op.16 ....................................................... 82
Bài 19: Các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga ................................................................... 84
1. M.a.balakirev (1836-1910) ................................................................................. 85
2. césar cui (1835-1918) ......................................................................................... 86
3. a.p.borodine (1833-1887) ................................................................................... 86
3.1. cuộc đời và sự nghiệp ....................................................................................... 86
3.2. tác phẩm ........................................................................................................... 87
4. M. p. moussorgski (1839-1881) ......................................................................... 88
4.1. Cuộc đời và sự nghiệp ...................................................................................... 89
4.2. tác phẩm ........................................................................................................... 90
4.3. Sáng tác khí nhạc ............................................................................................. 92
5. N.A.Rimsky-Korsakov (1844-1908) .................................................................. 93
5.1. Cuộc đời và sự nghiệp. ..................................................................................... 93
5.2. Tác phẩm .......................................................................................................... 94
Bài 20: V. Piotr illitch Tchaikovski (1840-1893) ...................................................... 96
1. cuộc đời và sự nghiệp ......................................................................................... 96
2. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu .............................................................. 97
2.1. giao hưởng ........................................................................................................ 97
2.2. Nhạc kịch .......................................................................................................... 98
2.3. Nhạc vũ kịch (ballet)......................................................................................... 99
2.4. Sáng tác cho các thể loại khác ......................................................................... 99
CHƯƠNG V: ÂM NHẠC THẾ KỶ XX ..................................................................... 101
Bài 1. Nhà soạn nhạc Claude debussy ..................................................................... 101
1. Thân thế sự nghiệp. ........................................................................................ 101
2. Hoạt động về Âm nhạc. .................................................................................... 102
9
CHƯƠNG VI: GIỚI THIỆU MỘT SỐ KHUYNH HƯƠNG MỚI CỦA ÂM NHẠC THẾ
KỶ XX. ........................................................................................................................ 106
Bài 1: Âm nhạc biểu hiện ......................................................................................... 106
Bài 2: Âm nhạc giảm thiểu ...................................................................................... 108
10
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC
Tên môn học: Lịch sử âm nhạc thế giới
Mã môn học: MHT11
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:
- Vị trí: Lich sử Âm nhạc thế giới là học phần trong khối các môn học lý thuyết cơ
sở ngành bắt buộc của chương trình đào tạo Trung cấp và Cao đẳng Âm nhạc chuyên
nghiệp – Chuyên ngành; Thanh nhạc, Organ, Nhạc cụ truyền thống. Học phần nghiên cứu
những vấn đề cơ bản về lịch sử Âm nhạc thế giới.
- Tính chất: Môn học lý thuyết cơ sở ngành bắt buộc
- Ý nghĩa và vai trò của môn học: Lịch sử Âm nhạc thế giới có ý nghĩa và vai trò
quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những nền tảng kiến thức về các thời kỳ Âm
nhạc và thân thế sự nghiệp của những nhà soạn nhạc tiêu biểu trên thế giới. Từ đó học
sinh có thể nắm được tính chất và tính thể loại Âm nhạc của các thời kỳ cùng với những
đặc điểm sáng tác của các nhạc sĩ, để áp dụng vào bài học chuyên ngành.
Mục tiêu của môn học:
- Về kiến thức: Trang bị cho học sinh kiến thức về lịch sử Âm nhạc thế giới ở các
thời kỳ; Âm nhạc thời kỳ Phục hưng, trường phái Âm nhạc Cổ điển viên, trường phái Âm
nhạc Lãng mạn, Âm nhạc thế kỷ XX và một số khuynh hướng khác của nền Âm nhạc thế
kỷ XX.
- Về kỹ năng: Sau khi học xong học phần này, học sinh nắm được các giai đoạn
hình thành và phát triển của nền âm nhạc Phương tây từ thời kỳ Nguyên thủy đến thế kỷ
XX, nhận biết và hiểu được các thể loại Âm nhạc. Thông qua đó vận dụng vào việc sử lý
các tác phẩm chuyên ngành được tốt hơn.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Trong giờ lên lớp HSSV phải có trách
nghiệm tham gia góp ý xây dựng bài, thái độ học tập nghiêm túc.
11
CHƯƠNG I: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ NGUYÊN THỦY, CỔ ĐẠI,
TRUNG CỔ
Giới thiệu:
Tìm hiểu về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, cổ đại, trung cổ và những
thành tựu đạt được ở những thời kỳ này.
Mục tiêu:
Kiến thức: Cung cấp kiến thức về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, Cổ đại,
Trung cổ
Kỹ năng: Hiểu biết về lịch sử Âm nhạc Châu âu thời kỳ Nguyên thủy, Cổ đại,
Trung cổ.
Bài 1. Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ
1. Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy.
Trong sự phân định các quá trình phát triển của lịch sử âm nhạc, thời nguyên thủy
được coi là âm nhạc sơ khai, âm nhạc nguồn gốc.
Âm nhạc nguyên thủy là âm nhạc của từng cộng đồng, là nghệ thuật tự biên, tự
diễn, chưa có âm nhạc chuyên nghiệp.
Dấu tích đầu tiên của nghệ thuật nguyên thủy được biết đến từ thời cổ đại đồ đá -
thời đại đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới. Đó là thời kỳ của bộ tộc không giai cấp. Các cuộc
khai quật của ngành khảo cổ đã tìm thấy những chứng cứ và những di tích của các nhạc
cụ âm nhạc thời xa xưa này. Trên các vách đá, trong các hang động, người ta phát hiện
thấy các hình vẽ cảnh săn bắt tập thể, cảnh kịch câm, cảnh có tính nghi lễ tín ngưỡng... và
họ giả định những cảnh ấy có sự phụ trợ của âm nhạc, nhằm phục vụ cho cuộc sống lao
động, trong đấu tranh với thiên nhiên, với kẻ thù vì sự tồn tại của cộng đồng. Người ta
còn tìm thấy những nhạc cụ rất thô sơ được làm từ xương và từ các vật thể khác nhau như
chiếc còi, chiếc sáo...
Hoạt động nghệ thuật nguyên thủy có đặc điểm tập thể, không phân biệt giữa người
sáng tác, biểu diễn và thính giả. Những bài ca cổ nhất không chỉ được biểu diễn tập thể,
mà còn biểu hiện tình cảm chung của cả tập thể xã hội bộ tộc. Muộn hơn, việc biểu diễn
tồn tại hai dạng: đồng ca và đơn ca. Những bài ca có cấu trúc đơn giản về hình tượng
nhưng được đa dạng hoá qua các biến khúc hoặc thay đổi về âm sắc, cường độ. Sau này,
các bài ca còn chứa đựng những yếu tố mang tính thể loại khác nhau như: lao động,
phong tục, ngợi ca, trữ tình, anh hùng...
Có thể cho rằng, một trong những thành tựu của văn hoá âm nhạc chế độ không giai
cấp còn cả loại biểu hiện nhiều bè. Ở một số bộ tộc có các dạng nhiều bè khác nhau, đặc
biệt là phỏng mẫu.
Nhạc cụ;
12
Người nguyên thủy dùng nhạc cụ là một phương tiện quan trọng để tạo sự phong
phú về mầu sắc và nhấn mạnh tiết tấu. Tuy nhạc cụ còn thô sơ nhưng khá phong phú về
chủng loại.
Sáo được làm từ xương động vật hoặc thân cây.
Nhạc cụ gõ. Xuất xứ là những vật thể vang bằng các chất liệu rắn, dùng gõ vào nhau
hay dậm, đập xuống đất, hoặc các vật thể rỗng, ở trong có các hạt khô, cứng dùng để
lắc... đệm cho hát, múa.
Nhạc cụ dây. Là phỏng từ chiếc cung dùng để săn bắn tạo thành, qua nhiều quá
trình thay đổi để hoàn thiện, ở các thời đại sau có tên gọi là harpe (hác-pơ).
Những nét đặc trưng của nền âm nhạc nguyên thủy được kế thừa, tiếp tục, phát triển
ở các thời đại nối tiếp. Đồng thời, những sinh hoạt âm nhạc ấy gần như được tồn tại
nguyên dạng ở một vài cộng đồng người đang sống trên một vài vùng khác nhau của trái
đất.
Qua kết quả và các chứng cứ của các ngành khoa học và quan sát sinh hoạt âm nhạc
của số ít cộng đồng ấy, cho phép các nhận xét về văn hoá âm nhạc thời nguyên thủy là có
tính khoa học, logíc.
2. Âm nhạc thời kỳ cổ đại.
Thời cổ đại với chế độ chiếm hữu nô lệ, là bước ngoặt trong sự tiến bộ của loài
người. Tuy nhiên, ở chế độ xã hội này lại phân chia thành đẳng cấp nên sự mâu thuẫn
giai cấp ngày càng sâu sắc, liên tiếp diễn ra các cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô. Điều
đó được phản ánh trong nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng.
Nghệ thuật âm nhạc trong chế độ chiếm hữu nô lệ cũng phân thành hai: của đại đa
số nhân dân và của tầng lớp quý tộc, vua chúa.
Ở thời cổ đại, âm nhạc dân gian vẫn tiếp tục phát triển, đồng thời còn xuất hiện
những nhân tố của âm nhạc chuyên nghiệp. Đầu tiên là âm nhạc chuyên nghiệp bình dân
của các ca sĩ, nhạc công dùng giọng hát, tiếng đàn của mình đi hát rong khắp nơi để kiếm
kế sinh nhai. Tiếp đến, do nhu cầu trong cuộc sống của tầng lớp quý tộc, vua chúa họ
được tuyển chọn vào các dinh thự của chủ nô để thực hiện các nghi thức hoặc thoả mãn
các thú vui để trở thành âm nhạc chuyên nghiệp quý tộc, cung đình. Tất cả những dòng
nhạc ấy là dòng nhạc thế tục.
Thời cổ đại, âm nhạc còn phục vụ các lễ nghi tín ngưỡng tôn giáo trong các đền đài,
nhà thờ, (tuy không nhiều), đó là dòng nhạc tôn giáo.
Khác với thời nguyên thủy, âm nhạc thời cổ đại không gắn với những mục đích có ý
nghĩa thực dụng. Âm nhạc thời đại này đã khẳng định vại trò của nó trong cuộc sống,
khiến các nhà triết học đã dùng âm nhạc với mục đích giáo dục.
Thành tựu.
Âm nhạc thời cổ đại đạt được các thành tựu về sáng tác, biểu diễn, kinh nghiệm về
chế tác nhạc cụ, về giáo dục, đào tạo. Đồng thời, đã xuất hiện các môn khoa học về mỹ
học, về lý thuyết âm nhạc và ở một vài quốc gia đã hình thành cách ghi nhạc. Âm nhạc
thời cổ đại phong phú bằng các chủ đề và các thể loại mới. Âm nhạc vang lên trong các
13
đền đài, cung đình và ngoài xã hội. Sáng tác dân gian là một kho tàng vô cùng phong phú
và là nền tảng cho nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như nghệ thuật quý tộc, cung đình.
Những trung tâm Âm nhạc lớn.
Ở Châu Phi có nền văn minh Ai Cập; Châu Á có nền văn minh Lưỡng Hà, Syrie
(Xi-ri), Palestrine (Pa-le-xtrin), Ấn Độ, Trung Hoa và cả nền văn minh Văn Lang, Âu
Lạc...., còn ở Châu Âu có nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Trung, Nam Mỹ là nền văn
minh Andes (Ăng-đex), nền văn minh của người Maya của người da đỏ.
Nền âm nhạc của các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Palestrina, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy
Lạp, La Mã rất phong phú, đa dạng. Nền âm nhạc của họ đã tổng kết thành những kiểu
điệu thức, những tổ chức quy luật của tiết tấu, nhịp điệu... khiến giai điệu và tiết tấu âm
nhạc khá hoàn chỉnh. Các quốc gia này đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển âm nhạc,
đặc biệt là sự phát triển về nhạc cụ và khoa học nghiên cứu âm nhạc.
Những giá trị nghệ thuật được sáng tạo từ những nền văn minh đầu tiên có ý nghĩa
lịch sử rất lớn cho toàn nhân loại.
3. Âm nhạc thời kỳ trung cổ.
Thời Trung cổ kéo dài gần một nghìn năm. So với thời cổ đại, âm nhạc thời Trung
cổ của Châu Âu có nhiều hiện tượng mới rất đáng lưu tâm. Lịch sử âm nhạc của thời
Trung cổ là lịch sử đấu tranh giữa nhạc dân gian, nhạc bình dân với nhạc nhà thờ và nhạc
quý tộc.
3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ
3.1.1 Âm nhạc dân gian
Âm nhạc dân gian tồn tại và phát triển trong quần chúng nhân dân, nó không chỉ
đem đến niềm vui mà còn cả sự thông cảm, chia sẻ những nỗi buồn khổ, mà người dân
đang chịu đựng, mặt khác vạch trần sự tàn ác của giai cấp thống trị. Vì vậy, chính quyền
phong kiến và nhà thờ đã truy đuổi và bóp chết họ bằng những luật lệ cực kỳ dã man, hà
khắc. Nhưng sáng tác dân gian không hề bị tiêu diệt, mà luôn là ngọn nguồn vô tận, tràn
đầy sinh lực.
Lúc đầu, âm nhạc dân gian có vị trí lớn trong các nhà thờ thiên chúa giáo.
Ca sĩ hát rong đã sử dụng những nhạc cụ dân gian đa dạng từ các nơi mà họ đã qua.
Đó là các nhạc cụ dây không có vĩ và sau có cả nhạc cụ dây có vĩ, các nhạc cụ hơi và các
nhạc cụ gõ.
3.1.2 Âm nhạc nhà thờ
Âm nhạc nhà thờ ở thời kỳ đầu của thời Trung cổ đã dùng các giai điệu của nhạc thế
tục để phổ lời theo nội dung của họ. Âm nhạc là một phương tiện mạnh mẽ để tuyên
truyền tôn giáo, thu hút giáo dân, tạo ảnh hưởng to lớn trong quần chúng.
Từ thế kỷ thứ IV - VII ở Rôm mới hoàn thành việc tuyển chọn và sáng tác, để hệ
thống hoá các lối hát của nhà thờ như:
Đồng ca Grigorie: Đó là loại hát một bè của đồng ca và đơn ca trên nội dung kinh
Phúc âm và tôn giáo, chỉ biểu diễn trong nhà thờ.
14
Messa: là loại hát nghi lễ được hình thành từ các phần của đồng ca Grigorie, nhưng
là một liên khúc gồm năm phần, giai điệu của chúng được hát trên các lời ca không thay
đổi.
Ảnh hưởng của âm nhạc thế tục còn được thâm nhập vào nhà thờ và nẩy sinh một
số loại nữa như Sequentia (Xê-căng-tia), Tropi (Trô-pi) và Dramma liturgia (dra-ma li-
tua-gia).
3.2. Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ
3.2.1. Âm nhạc Trung Hoa
Đến thế kỷ XII - XIII, sân khấu cổ Trung Hoa được hoàn thiện, giống như Opera
hoặc ca kịch. Đó là thể loại tổng hợp phức tạp, gồm có nhảy múa, động tác kịch câm, đối
thoại, hát với phần đệm của nhạc cụ. Chủ đề của các vở được xây dựng từ truyền thuyết
dân gian, các nhân vật anh hùng trong lịch sử đấu tranh với kẻ thù của nhân dân. Tư
tưởng chính của các ca kịch này là cuộc đấu tranh giữa cái thiện, ác.
3.2.2. Âm nhạc Ả Rập
Trên nền tảng học thuyết cổ về âm nhạc, nền mỹ học và lý thuyết âm nhạc Ả Rập đã
đạt tới trình độ cao hơn, từ đó là cơ sở cho lý thuyết âm nhạc thời Trung cổ ở Tây Âu.
Người dân Ả Rập sử dụng nhiều nhạc cụ khác nhau: các loại trống, nhạc cụ xóc, nhạc cụ
thổi, sáo, gaida, harpe, sixtre và lyth. Tiếp theo các nhạc cụ cổ Ấn Độ, người Ả Rập là
một trong những dân tộc đầu tiên có các nhạc cụ dây dùng vĩ kéo (rabab = vièle).
Âm nhạc Ả Rập là loại nhạc một bè, giai điệu có mối liên quan chặt chẽ tới thơ và
biểu hiện những cảm xúc trữ tình đa dạng. Tiết tấu tự do.
Ý nghĩa và vai trò của âm nhạc Ả Rập trong thời Trung cổ là rất lớn, góp phần là
một luồng mới đem đến bước ngoặt cho nghệ thuật trữ tình thế tục của ca sĩ - hiệp sĩ
(troubadour).
3.2.3. Âm nhạc Slaves
Người Slaves không chỉ có nền nghệ thuật dân ca, dân vũ mà họ còn có rất nhiều
loại nhạc cụ khác nhau và nghệ thuật nhạc đàn khá phát triển như người Tiệp đã có dàn
nhạc gồm nhiều tổ hợp nhạc cụ.
Một thành tựu đáng chú ý của âm nhạc Slaves thời Trung cổ là họ quan tâm đến
việc nghiên cứu và giáo dục âm nhạc như trường Đại học tổng hợp Praha có khoa đào tạo
nghệ thuật tự do trong đó có cả thực hành và lý thuyết.
3.2.4. Âm nhạc tây âu.
Nền âm nhạc Tây Âu trong thời Trung cổ đã đạt được những thành tựu lớn lao trong
lĩnh vực lý thuyết âm nhạc, đặc biệt là đã hoàn thiện lối ghi nhạc, đọc nhạc và hệ thống
hoá các điệu thức.
Lối ghi nhạc và đọc nhạc:
Lối ghi nhạc và đọc nhạc là một trong những vấn đề khó khăn nhất và chưa được
giải quyết của thực tiễn âm nhạc. Cho tới thế kỷ thứ IX, những bản nhạc vẫn dùng ghi
theo lối "nơm" (neuma). Đến thế kỷ XI, Guido d' Arezzo (Gui-đô xứ A-rét-dô: 995 -
15
1050) ở Ý đã hoàn thiện việc cải tiến và đưa ra lối ghi mới. Để gọi tên các âm thanh, ông
đã dùng vần thứ nhất của sáu câu thơ trong một bài Hymne có thứ tự từ thấp lên cao dần
là: ut, rê, mi, fa, sol, la. Ông dùng bốn đường kẻ ngang, có những mầu sắc khác nhau:
đầu tiên cho âm đô (ut) - màu vàng; cho âm fa - màu đỏ v.v... Do vậy, lối ghi mới này đã
tạo ra cao độ chính xác giữa các âm. Phải đến thế kỷ XVI mới xuất hiện vạch nhịp trong
lối ghi.
Điệu thức thời Trung cổ:
Điệu thức âm nhạc Tây Âu thời Trung cổ gồm tám điệu thức nguyên thể diatonic: 4
điệu thức gốc và bốn điệu thức biến tương ứng, có tên gọi như các điệu thức cổ đại:
Dorien, Phrygien, Lydien, Mixolydien.
Học thuyết về quãng cũng được phát triển trong thời đại này. Bắt đầu hình thành
các quan điểm mới, mở ra con đường đến nghệ thuật mới và tư duy lý luận của thế kỷ
XVI.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà
nội – Hà nội 1983).
16
CHƯƠNG II. ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG
Bài 1: Âm nhạc thời kỳ Phục hưng
` Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Phục
hưng.
Kỹ năng: Hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Khái quát Âm nhạc Phục hưng.
Thời đại phục hưng trong lịch sử nghệ thuật tây âu kéo dài suốt ba thế kỷ XIV, XV
và XVI (XIV tiền PH – XV PH – XVI PH). Đối với văn học thì âm nhạc đi sau gần một thế
kỷ. Âm nhạc thời PH bắt đầu đi những bước non trẻ từ TK XIV và chỉ đạt tới những
thành tựu xuất sắc ở mức độ ngang hàng với lĩnh vực nghệ thuật khác ở các TK XVII và
đầu XVIII với nền nhạc kịch, Violino ở Ý, nhạc Clavexanh ở pháp với Henden ở Anh và
Gi-Bắc ở Đức. Âm nhạc PH bắt đầu từ phong trào “nghệ thuật mới” do nhà lý luận nổi
tiếng Pháp là Ph.vit ri đề xướng khoảng năm 1530 nhằm đả phá kiểu hát nhiều bè theo
lối cũ và thay vào đó bằng lối viết tự do hơn.
Trong suốt ba thế kỷ, âm nhạc PH đã đạt được không ít những thành tựu như; Tiếp
thu âm nhạc dân gian ở các thời kỳ trước đồng thời phát triển thêm làm cho nó nảy lộc
đơm hoa.
Vào thời PH âm nhạc dân gian nói riêng và âm nhạc thế tục nói chung đã có vị trí
vững vàng. Bên cạnh đó âm nhạc nhà thờ trải qua hơn một nghìn năm tồn tại, đã tạo nên
những hình thức những thủ pháp trở thành ngôn ngữ âm nhạc quen thuộc với quảng đại
quần chúng như hình thức Mexa, Cantat... Nhiều nhạc sĩ chính phái của nhạc nhà thờ như
Palext rina, Gabrien… không chỉ vết những tác phẩm phục vụ cho nhà thờ mà còn để
biểu diễn trong các phòng hoà nhạc thế tục.
(Âm nhạc nhà thờ đã tạo nên hình thức Mexa, Cantat…)
Phong trào “nghệ thuật mới” đã được thổi bùng lên và lan rộng ra không chỉ ở
Pháp mà còn ở Ý, Nideclan, Đức, Anh, Tiệp…điều đó chứng tỏ âm nhạc thời PH được
mở rộng hơn rất nhiều so với âm nhạc thời kỳ trung cổ.
2. Các trung tâm Âm nhạc nổi bật.
Âm nhạc Ý thời Phục hưng.
Khái niệm “Nghệ thuật mới” được người Pháp đề ra về mặt lý luận, nhưng lại
được người Ý thực hiện một cách chững chạc và hoàn thiện trước hết. Sở dĩ vậy là do
điều kiện lịch sử của Ý tỏ ra chín muồi hơn pháp.
Nền dân chủ tư sản và chế độ cộng hoà nhân dân ở nhiều thành phố được thiết lập
chống lại chế độ phong kiến và thế lực nhà thờ. Cuộc đấu tranh giữa thế lực cũ và mới rất
quyết liệt dẫn đến nghệ thuật cũng phải đi tiên phong theo cái mới. Bên cạnh đó Ý còn ở
cạnh và tiếp thu nền văn minh Hy lạp cổ đại làm ngôn ngữ cho âm nhạc.
Nhạc hát.
17
Phloren là trường phái âm nhạc tiên phong cho “nghệ thuật mới” đây là một
trường phái âm nhạc chuyên nghiệp, có trình độ điêu luyện. Mục đích của trường phái
này là chống lại các công thức của nhạc hát nhiều bè nhà thờ, đem lại sức sống mới cho
nghệ thuật dân gian. Họ cho ra nhiêù thể loại nhạc hát mới mẻ như; Catra, Balat,
Madrigan.
Catra (săn bắt, vượt đuổi) là loại bài hát có tính tả cảnh rõ rệt, thể loại này có thể
lấy tiếng kèn, tiếng gọi nhau, nhịp vó ngựa và chân chạy để làm chất liệu cho tác phẩm.
VD35 tr51.
Balat (múa) là loại hát múa thường viết cho đơn ca có nhạc cụ đệm hoặc đôi khi
có cả dàn hợp xướng tham gia.
VD36 tr52.
Mađrigan (dịch la tinh là bài hát bằng tiếng mẹ đẻ) là thể loại hát sâu sắc nhất về
nội dung và tinh xảo nhất về hình thức. Phần lời của loại bài hát này mang tính chất trữ
tình, giãi bày, có khi cả phê phán. Giai điệu luôn được gọt rũa đến từng chi tiết để có thể
kết hợp với bè đệm đàn với kĩ thuật đối vị khá phức tạp.
VD 37 tr53.
Trường phái âm nhạc Phloren có tiếng tăm lừng lẫy ở khắp nước Ý và các nước
khác vào TK XIV nhưng sang đến TK XV thì đã bị lu mờ, duy chỉ có thể loại Madrigan
là có sức sống bền bỉ và được phục hồi lại ở TK XVI.
Nhạc đàn.
Nhạc đàn Ý thời PH cũng phát triển mạnh và nổi bật trước hết là đàn Luyt, nhạc
cụ hầu như có từng trong gia đình (mục đích để thổi những giai điệu hát múa dân
gian)…-> các nhạc sĩ soạn những bản nhạc riêng cho đàn Luyt và dùng làm nhạc cụ đệm.
Sau Luyt là đàn Organ với những trường phái nổi tiếng như Phloren và Vơni. Một
vài thể loại hay dùng để viết cho Organ như; Preluyt (khúc dạo), Ritrecat (tìm kiếm),
Caxon (bài hát).
Một bộ phận quan trọng nữa trong nền âm nhạc thời PH của Ý là nhạc nhà thờ mà
nổi bật là hai trường phái ở Rim và Vơni, đạt tới đỉnh cao ở TK XVI.
Trường phái Rim: Là một trung tâm quan trọng nhất của phong cách phức điệu
nghiêm khắc, dựa trên cơ sở hệ thống điệu thức trung cổ. Đại biểu là Palext rina.
Trường phái Vơni: Là một chi nhánh của nhạc phức điệu Ý TK XVI, Đại biểu cuả
trường phái này là Gabrieli.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện
hà nội – Hà nội 1983).
19
CHƯƠNG III: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII
Bài 1: Nhà soạn nhạc G. F. Henden
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc G. F. Henden.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Năm 1685, Handel chào đời ở Halle Đức cùng năm sinh với Johann Sebastian
Bach. Từ khi còn bé, Händel đã thể hiện mình là một tài năng âm nhạc; 7 tuổi đã là một
nhạc công điêu luyện, 9 tuổi cậu bắt đầu soạn nhạc.
Bố Hendel muốn ông học luật nhưng mẹ ông lại đồng ý cho ông học nhạc, nhờ đó,
Handel được phép học đàn và sáng tác.
Năm 1702, chiều ý cha, Handel đến học luật tại Đại học Halle, nhưng ngay trong năm
sau, khi thân phụ qua đời, cậu liền bỏ ngành luật để theo học âm nhạc, và trở thành người
đàn phong cầm cho Đại Giáo đường Kháng Cách ở Halle. Năm 1704, Handel đến sống
tại Hamburg, nhận đàn violon và hapsichord cho dàn nhạc của nhà hát opera. Hai vở
opera đầu tiên của Handel, Almira và Nero, hoàn thành năm 1705; còn hai vở opera
khác, Daphne và Florindo, viết xong năm 1708.
Năm 1706, Handel đến Ý. Khi ấy do nhạc opera bị cấm đoán theo lệnh của giáo
hoàng, Handel quay sang sáng tác nhạc thánh; và Dixit Dominus nổi tiếng ra đời trong
thời gian này (1707). Handel viết nhiều bản cantata mang âm hưởng opera.
Năm 1710, Handel đến Luân Đôn và sống ở đó cho đến năm 1712, Nữ hoàng
Anne ban cho ông khoản tiền 200 bảng Anh mỗi năm. Trong những năm ở Luân Đôn,
một trong những người bảo trợ quan trọng nhất của Handel là nhà quý tộc trẻ tuổi và giàu
có Richard Boyle, Bá tước Burlington, một trong những người đầu tiên yêu thích âm
nhạc của Handel. Ông vui hưởng những ngày hạnh phúc ở đây, và sáng tác một vài tuyệt
phẩm âm nhạc cho bá tước.
Năm 1723, Handel dời đến ngôi nhà mới xây dựng ở số 25 Đường Brook, Luân
Đôn, và sống ở ngôi nhà thuê này cho đến khi từ trần năm 1759. Những sáng tác nổi
tiếng của Handel - Messiah, Zadok the Priest, và Music for the Royal Fireworks – ra đời
tại đây. Ngôi nhà trở thành Bảo tàng Nhà Handel, mở cửa cho công chúng vào những dịp
trình diễn nhạc Baroque.
Năm 1726, Handel cho ra mắt vở opera Scipio, năm sau ông trở thành thần dân
nước Anh. Handel nhận làm giám đốc Nhạc viện Hoàng gia từ năm 1720-1728.
Tháng 4 năm 1737, tay phải của Handel bị liệt nên ông phải tạm dừng các cuộc
trình diễn. Sau khi sức khỏe được phục hồi, Handel tập trung soạn các bản oratoria (nhạc
Kinh Thánh) thay vì viết nhạc opera.
Handel chưa bao giờ kết hôn, và luôn giữ kín các chi tiết trong cuộc sống riêng tư.
Không giống các nhà soạn nhạc khác, sau khi chết ông để lại một tài sản trị giá 20 000
20
bảng Anh (một số tiền khổng lồ thời ấy), phần lớn được di chúc cho một cô cháu gái
đang sống ở Đức, cùng các món quà cho những người thân, người giúp việc, bạn hữu và
các tổ chức từ thiện.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Handel đưa vào sáng tác của ông các loại nhạc cụ ít được bết đến: viola d’amore
và violetta marina (Orlando), đàn lute (Ode for St. Cecilia’s Day), ba loại kèn trombone
(Saul), clarinet hoặc cornet (Tamerlano), đàn dây theorbo, kèn đồng French horn (Water
Music), lyrichord, double bassoon, viola da gamba, bell chimes, positive organ, và harp
(Giulio Cesare, Alexander’s Feast).
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
Handel soạn 42 vở opera; 29 oratorio; hơn 120 cantatas, trio và duet; nhiều aria;
nhạc thính phòng; một khối lượng lớn nhạc tôn giáo; ode và serenata; và 16 concerto đàn
organ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Messiah với bài hợp xướng “Halleluja”, là một
trong những bài hợp xướng được yêu thích nhất, trở thành một tuyệt tác trong các
mùa Giáng sinh. Cũng được yêu thích là Opus 3 và 6 Concerti Grossi, cũng như “The
Cuckoo and the Nightingale”, và 16 tổ khúc keyboard, nhất là The Harmonious
Blacksmith.
Sau khi mất, các vở opera Ý của Handel bị rơi vào quên lãng, ngoại trừ những hợp
tuyển aria như Serse, “Ombra mai fu”. Danh tiếng của Handel xuyên suốt thế kỷ 19 và
thượng bán thế kỷ 20, nhất là ở các quốc gia nói tiếng Anh, được vun đắp bởi các oratio
tiếng Anh, thường được trình diễn trong các dịp lễ lớn bởi các ca đoàn lớn quy tụ những
ca sĩ nghiệp dư.
Cũng được hồi sinh trong những năm gần đây là các bản cantata thế tục, và những
vở oratiorio thế tục. Handel chọn các câu truyện thần thoại làm chủ đề cho các vở
oratorio thế tục của mình.
Cho đến nay, Handel là một tên tuổi lớn được các nghệ sĩ sáng tác nể trọng. Bach
từng thổ lộ, “Handel là người duy nhất tôi mong ước được gặp mặt trước khi chết, và là
người duy nhất tôi muốn trở thành, nếu tôi không là Bach.” Mozart đưa ra nhận xét,
“Handel thấu hiểu hiệu quả âm nhạc hơn bất kỳ ai trong chúng ta. Một khi đã chọn lựa,
ông khiến chúng tác động mạnh mẽ như sấm rền, còn đối với Beethoven, Handel là “thầy
của tất cả chúng ta… nhà sáng tác vĩ đại nhất từng sống trên đất. Tôi sẽ ngả mũ và quỳ
trước phần mộ ông.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện
hà nội – Hà nội 1983).
21
Bài 2: Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: Giohan Xebaxchien
Bắc
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Tiểu sử.
J. S. Bắc sinh ngày 31-3-1685 là một nhà soạn nhạc vĩ đại nghệ sĩ biểu diễn Organ
lỗi lạc người Đức, sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Nếu tính từ cụ tổ
của Bắc cho tới cháu nội của Bắc thì có tới bảy đời với 200 năm cung cấp các nhạc sĩ cho
các thành phố ở Đức và nhiều nước Tây âu. Bắc mồ côi cha mẹ từ nhỏ và suốt đời ông
gắn liền với nước Đức, vì vậy ông đã ghi chép được những suy tư của người Đức bằng
những tác phẩm âm nhạc.
15 tuổi được nuôi ăn để hát trong một dàn hợp xướng ở Luynebuoc, nhiều lần ông
đi bộ khoảng 60km tới Hăm buốc để nghe các nhạc sĩ đàn Organ nổi tiếng biểu diễn và
hàng 100km tới Xele để tìm hiểu các tác phẩm của Luli do dàn nhạc sở tại trình diễn.
18 tuổi bắt đầu nhận lương bằng vệc ngồi ghế đàn Violino trong dàn nhạc của một
công tước ở Vâyma nhưng chỉ vài tháng sau ông bỏ tơí Acnơtát làm nhạc sĩ đàn Organ,
sau đó ông lại bỏ đến Muyngauden và ở đây ông đã cưới Maria Bacbara cô em họ 3 đời
làm vợ. Tới đây coi như chấm dứt đời thanh niên vật lộn với học hỏi và kiếm sống của
Bắc.
23 tuổi vì cuộc sống gia đình Bắc trở lại thành phố Vây ma làm đàn Organ và các
loại nhạc khí khác trong cung đình. Thời kỳ này ông không chỉ viết nhạc giáo hội mà còn
viết nhạc thế tục, nhất là nhạc cho đàn Organ (tập nhạc Organ, 2 tocata và phuga d-moll,
C-dur…). Sau đó vì phản kháng với sự bất công của nhà chức trách nên ông đã phải nghỉ
việc và cả gia đình lại phải lui về một tỉnh lẻ để sống, nơi mà chỉ có một không khí âm
nhạc bình thản.
Trên một phần tư cuộc đời mình Bắc gắn liền cuộc sống với Laixich và ở đây ông
đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp, vì Laixich lúc này là một trung tâm âm nhạc lớn có ý
nghĩa với cả nước Đức. Nhưng cũng chính tại đây ông được chứng kiến nhiều mặt trái
của xã hội và bộc lộ sự phản kháng của mình, gia đình Bắc bắt buộc lại phải rời khỏi
Laixich và bị bao vây bởi cảnh nghèo đói với bầy con đông đúc. Tài nghệ của ông hiếm
khi được thể hiện, ông mất ngày 28-06-1750 và thi hài của ông bị chôn cất trong quên
lãng.
Có tài liệu cho rằng tài liệu của Bắc được chôn cất ngay trong một nhà thờ thánh
Phoma ở laixich mà ông đã gắn bó rất lâu. Cuộc đời của Bắc chỉ được nói đến trong hai
bài báo và được khắc in có 7 tác phẩm.
2. Ngôn ngữ và thủ pháp âm nhạc.
Âm nhạc của Bắc khó đồng cảm với người cùng thời, phải đợi đến đầu thế kỷ XIX
khi chủ nghĩa âm nhạc lãng mạn ra đời và khi thân phận của con người là trung tâm miêu
22
tả, thì nhạc của Bắc mới được hồi sinh. Âm nhạc của Bắc dẫu viết cho giọng hát hay bất
cứ loại đàn nào cũng đề mang âm hưởng của Organ (vì ông là người chơi đàn Organ lỗi
lạc).
Mỗi thời đại đều tạo ra những vinh quang mới, như Henden chủ yếu là người của
thời đại mình, còn Bắc thì vĩnh cửu với mọi thời đại. Bắc ngày nay được nhắc tới trong
mọi lĩnh vực của âm nhạc, là tác giả của tác phẩm đầu tiên trong chương trình thi cử từ
lớp nhạc của trẻ em tới những phòng thi quốc tế của các nhạc sĩ biểu diễn tài ba khắp
toàn cầu... là sư tổ của các trường phái âm nhạc có giọng điệu và phi giọng điệu, ấn
tượng và hiện thực.
Bên cạnh âm hưởng Organ, thì nhạc hát hợp xướng lại là một mặt khác nữa của
âm hưởng nhạc Bắc. Nhưng đây là dàn hợp xướng mà các bè có vai trò quan trọng như
nhau, từ đó mà sinh ra nhạc phức điệu đạt tới đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác
của Bắc.
Hình thức âm nhạc; Dài lớn.
Giai điệu; là loại giai điệu bắt đầu ngay bằng một chủ đề mang cá tính rõ rệt vừa
nổi bật lên lại vừa cần tới đường chuyển động hầu như không ngừng. Chủ đề ấy giống
như phần lĩnh xướng, sau đó lại hoà vào dàn hợp xướng.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Không có một lĩnh vực âm nhạc nào mà Bắc lại không có cống hiến, và bất cứ ở
đâu ông cũng vĩ đại như nhau.
Cantat; ông viết khoảng 200 bản, 24 cantat thế tục. trong những cantat này ông đã
thể hiện đầy đủ kỹ thuật, kết hợp nhạc hát với nhạc đàn.
Motê (6 bản); là loại nhạc hát thuần tuý có quy mô đồ sộ, viết cho dàn hợp xướng
lớn có âm hưởng hùng vĩ.
Bên cạnh cantat, Mote Bắc còn viết 3 Orato, 4 paxion, 1 Macniphicat, khoảng 10
Mexa lướn nhỏ khác nhau nhưng nổi bật hơn cả là Mexa h-moll.
Phức điệu; Bắc đã hoàn chỉnh lối nhạc phức điệu lên đến tột cùng mà điển hình là
phuga. Trong khi hoàn chỉnh phức điệu Bắc đồng thời đưa một số loại nhạc chủ điệu lên
đỉnh cao như;
Preluyt; Đây là một khúc nhạc ngắn, thống nhất về âm hình, thường chỉ diễn tả
một khía cạnh nào đó của tình cảm. Theo đúng nghĩa preluyt là để mở đầu cho một bản
nhạc nào đó lớn hơn như phuga… tuy nhiên Bắc viết rất nhiều preluyt là những tác phẩm
độc lập như tập “Những preluyt nhỏ”. Mặt khác nhiều bản có khi phá bỏ cả quy luật
thống nhất âm hình để đạt tới một nội dung kịch tính như “Preluyt c-moll trong Bình
quân tập I”. Thậm chí có những tác phẩm có mức phát triển gần như Uvectuya.
Toccata; Là một tác phẩm viết theo lối phóng tác tự do, có nhịp độ nhanh, thường
nặng về phần luyện ngón và trưng bày kĩ thuật. Bắc đã hoàn thiện lối nhạc này qua
những bản nhạc viết cho Organ. Mặt khác ông còn sử dụng nó như một Preluyt cho một
Phuga lớn hơn như trong bản “toccata và Phuga, d-moll”.
23
Phantadi; Là một loại nhạc phóng tác tự do (nhiều khi rất tự do) và có tính chất
phát triển hoàn toàn không giống với bất cứ loại nhạc nào khác.Tác phẩm tiêu biểu như
bản; “Phantadi và Phuga, g-moll” nổi tiếng viết cho Organ. “Phantadi âm hoá và Phuga,
d-moll” cho Clavoxanh…
Gắn liền với sáng tác và sư phạm Bắc còn là nhà lý luận âm nhạc, nhà lý luận thực
tiễn. Thời bấy giờ các loại đàn phím xây dựng theo hệ thống âm thanh tuyệt đối, chia một
cung bằng 9 coma, từ C -> C# = 5coma, từ D ->Db = 5coma như vậy C# cao hơn Db vậy
nên rất khó để sáng tác và biểu diễn những tác phâm có từ hai dấu hoá trở lên, muốn biểu
diễn được những tác phẩm như vậy thì phải có một loại đàn có hai hàng phím đen; một
hàng chuyên dấu # và một hàng chuyên dấu giáng. Bắc là người bãi bỏ hệ thống trên và
thay vào đó hệ thống bình quân, chia một cung ra làm hai phần bằng nhau do đó C# và
Db bằng nhau. Với hệ thống này thì đàn phím có thể biểu diễn được tất cả các giọng điệu
khác nhau và hệ thống Bình quân của Bắc được ứng dụng cho tới ngày nay. Để chứng
minh cho hệ thống này Bắc đã viết hai tập “bình quân” mỗi tập gồm 12 cặp Preluyt và
Phuga vào tất cả 24 giọng điệu khác nhau. (Bình Quân tập 1 Phuga c-moll).
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – tập I (Nhạc viện
Hà Nội 1983).
24
CHƯƠNG IV: TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN
Bài 1: Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Sự hình thành và phát triển.
Thế kỷ XVIII được gọi là thế kỷ ánh sáng: Chế độ phong kiến suy thoái, xuất hiện
nhiều tư tưởng tiến bộ, nền công nghiệp phát triển. Nhiều cuộc cách tư sản nổ ra đặc biệt
là cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789.
Nối tiếp thành tựu của phong cách âm nhạc Barocque.
Hình thành tại Viên - Áo (một trong những quốc gia hùng mạnh và phát triển).
Đáp ứng nhu cầu thỏa mãn của nhân dân thuộc nhiều tầng lớp khác nhau.
Người mở đầu là Nhạc sỹ Gluck, người sáng lập là nhạc sỹ haydn, đỉnh cao là
Mozart, Beethoven.
2. Những thành tựu cơ bản.
Đạt được thành thành tựu rực rỡ. Đặt nền móng cho nhiều vấn đề cơ bản của âm
nhạc (hình thức, thể loại, thủ pháp...)
Nội dung tư tưởng: Phản ánh không khí sinh hoạt của nhân dân.
Hầu hết có tính lạc quan, tin vào chân lý, phê phán xã hội, ca ngượi chính nghĩa,
tình yêu chung thủy.
Hòa âm: chủ yếu sử dụng hòa âm chủ điệu.
Giai điệu giữ vai trò quan trọng trong TP.
Hình thức: liên khúc Sonate, giao hưởng được hoàn thiện.
Nhạc kịch 2 lần được cải cách.
TP thường có tính cân phương vuông vắn, hài hòa cân đối.
Chủ đề âm nhạc gần gũi có tính khái quát cao. Nhiều thể loại khác xuất hiện.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, chủ
nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.
Bài 2: Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck
(1714 - 1787)
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Christophe Wilibald
Gluck.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
25
C.w.gluck là một nhà cải cách nhạc kịch lớn nhất trong lịch sử của nghệ thuật nhạc
kịch. ông đã hoàn thiện "cuộc cách mạng" trong nhạc kịch, giải phóng nhạc kịch khỏi thế
lực thẩm mỹ cung đình và làm cho nghệ thuật nhạc kịch thể hiện được các quan điểm của
"thế kỷ ánh sáng". cuộc cải cách của nhạc kịch của gluck là sự biểu hiện tính hiện thực
của các thẩm mỹ tư tưởng sâu sắc của nhóm "bách khoa". nhạc kịch của gluck là những
mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực ánh sáng.
Gluck là nhạc sĩ người áo, người đại diện cho trường phái cổ điển vienne; đồng
thời nghệ thuật của ông còn liên quan đến nền văn hóa tiệp, nơi ông đã sống những năm
trong thời thơ ấu và thời thanh niên; còn đối với paris ông là nhà sáng tác nhạc kịch vĩ
đại, đã hoàn thành cuộc cải cách của mình.
1. Cược đời và sự nghiệp
Những năm tháng ở tiệp, ý, anh và vienne là thời kỳ hình thành cải cách đầu tiên.
Gluck sinh ở vùng giáp giới với tiệp, thuộc nước đức, thời nhỏ, ông sống trong
vùng rừng núi bohème tươi đẹp. từ năm 1726, gluck đến một thành phố của tiệp để tiếp
thu nền học vấn âm nhạc tại đây; đồng thời còn hát trong hợp xướng nhà thờ. đến năm
1732, gluck tới praha để nâng cao trình độ âm nhạc và đã học với một nhà phức điệu nổi
tiếng nhất của tiệp. đến 22 tuổi, ông được công nhận là nhạc sĩ dưới ảnh hưởng của nền
văn hóa phong phú của thủ đô tiệp. với tài chơi đàn organ và còn là nhà sư phạm âm
nhạc, giỏi về hòa thanh, đối vị, nên được người đời mệnh danh là "bach của tiệp".
Sau một năm dừng lại ở vienne, gluck đã chuyển đến ý để có thể tìm hiểu, học tập
các nhạc sĩ viết opera nổi tiếng, mặc dầu ông đã biết đến opera ý trong thời gian ở vienne.
4 năm sống ở milan, dưới sự dẫn dắt của nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn organ, nhà chỉ huy
g.b.sammartini- một trong những nhà giao hưởng ý đầu tiên, gluck đã hoàn thiện nghệ
thuật và kỹ thuật sáng tác nói chung và cho nhạc kịch nói riêng. những vở nhạc kịch đầu,
gluck viết trên kịch bản của metastasio, trở thành nhà sáng tác nhạc kịch nổi tiếng ở
milan và nhiều thành phố khác của ý. tuy nhiên, những vở viết trong thời gian này theo
phong cách sérva truyền thống.
Năm 1746, gluck sang anh và vẫn tiếp tục viết nhạc kịch truyền thống với những
vở nổi tiếng như artamena và sự thất bại của những người khổng lồ.
Sau anh, đến 1754, gluck đi thăm dresden, praha, napoli, hambourg, copenhagen,
vừa chỉ huy, sáng tác, dàn dựng các vở nhạc kịch mới của mình; ông đã viết hơn 50 vở.
Sau chuyến chu du nhiều nước, gluck trở về vienne và vẫn sáng tác nhạc kịch theo
phong cách série, đồng thời ông đã hướng tới những khuynh hướng sáng tạo mới, đến
nhạc kịch hài hước và vũ kịch pháp. chính việc sáng tác thể loại nhạc kịch mới đã giải
phóng những công thức truyền thống trước đây và giúp gluck tìm đến phương pháp hiện
thực. vũ kịch giữ vai trò quan trọng trong con đường cải cách nhạc kịch của gluck. thời
kỳ này những vở vũ kịch nổi tiếng của ông như don juan, hoàng tử trung hoa,
alexandre.
26
Thời kỳ cải cách được thể hiện qua ba vở đầu tiên là orféo và euridice dựng năm
1762, alceste dựng năm 1767 và paride ed elena dựng năm 1770. ba vở cải cách này biểu
diễn ở vienne, đã thể hiện rõ tài năng của gluck cũng như quan điểm thẩm mỹ của ông.
Con đường cải cách nhạc kịch tiếp theo của gluck diễn ra ở paris. xã hội pháp tiến
bộ đã đánh giá chính xác sự nghiệp cải cách nhạc kịch của gluck.
Những vở nhạc kịch cải cách ở paris đã biểu hiện đầy đủ nhất sự tìm tòi sáng tạo
của gluck. nhạc kịch của ông đã cổ vũ trực tiếp cho paris đang sục sôi tinh thần cách
mạng. gluck đòi hỏi sự chân thật của nghệ thuật trong biểu diễn và cả trong kịch bản. ông
còn sửa chữa lại các vở như orféo, alceste… để phù hợp với sân khấu paris, biểu diễn
bằng tiếng pháp bè của orféo cho giọng ténor (còn khi ở viennne cho castra - alto) và có
mở rộng thêm các màn múa.
Ở paris, nhạc sĩ đã viết những nhạc kịch cải cách cuối cùng của mình là armide
(1777), iphigénie en tauride (1779); và cũng trong cùng năm là vở tiếng vọng và cây
thùy tiên, nhưng lại xa với những vở cải cách và không thành công. những năm cuối đời,
gluck trở lại vienne nhưng lại chuyên tâm sáng tác ca khúc, gluck tạo ra trường phái nhạc
kịch mới có ảnh hưởng tới nhiều nhạc sĩ cùng thời và các nhạc sĩ ở nhiều nước trong thế
kỷ xix với số lượng gần 100 nhạc kịch các loại.
2. cuộc cải cách nhạc kịch của gluck
Gluck chiếm vị trí có ý nghĩa nhất trong lịch sử sân khấu nhạc kịch. quan điểm
thẩm mỹ và công cuộc cải cách nhạc kịch của ông đã mở ra một thời kỳ mới của nghệ
thuật nhạc kịch.
Những nguyên tắc dẫn dắt trong quan điểm thẩm mỹ và cải cách nhạc kịch của
gluck là sự đơn giản và tính chân thật. vì vậy, ông đã loại trừ tất cả những gì cản trở cho
sự thực hiện các nguyên tắc ấy. sự tổng hợp giữa âm nhạc và kịch là nền tảng trong cải
cách của gluck. âm nhạc và ngôn ngữ văn học phải quyện lại với nhau, âm nhạc và lời ca
phải kết hợp chặt chẽ. âm nhạc phải góp phần cho kịch phù hợp với tình tiết của kịch, là
phương tiện để miêu tả các khía cạnh nội tâm của các nhân vật.
Những tư duy này được phát triển trong thẩm mĩ mới, phản ánh các quan điểm ánh
sáng và một số các nguyên tắc thẩm mĩ của chủ nghĩa cổ điển. mối liên quan của quan
điểm thẩm mĩ của gluck với chủ nghĩa cổ điển được thể hiện trong việc sử dụng các chủ
đề cổ đại và việc lý giải các nhân vật trong nhạc kịch. những nguyên tắc tư tưởng - thẩm
mĩ mới này, đòi hỏi sự thay đổi trohng kịch bản, trong các hình thức thanh nhạc, hợp
xướng và dàn nhạc của nhạc kịch.
Gluck tuyên bố chống lại nghệ thuật kịch của nhạc kịch nghiêm chỉnh cũ, trong đó
aria tiếp nhận ý nghĩa chính chứa đựng sự phát triển của hành động. gluck đã đạt được sự
phát triển một chủ đề trong nhạc kịch, khắc phục sự luân phiên máy móc của các tiết mục
riêng biệt. ông đã liên kết hát nói, aria, hợp xướng và múa trong các cảnh kịch lớn và có
dàn ý sáng tạo toàn diện đồ sộ. một trong những cảnh rõ nhất biểu hiện việc cải cách nhạc
kịch của gluck là: cảnh 1, màn 2, nhạc kịch orfeo; trong đó, hợp xướng các aria của orfeo
và ballet được hợp nhất trong một hành động; cũng như hàng loạt các cảnh của alceste và
những vở nhạc kịch khác của nhạc sĩ.
27
Hát nói và aria phụ thuộc vào các nguyên tắc cơ bản của kịch. gluck đã đơn giản
hóa giai điệu hát, hướng tới tính hồn nhiên trong thể hiện. âm điệu nói thường đưa vào
các phần hát nói, tăng cường cách thể hiện bằng âm sắc trong cách nói. aria trong nhạc
kịch của gluck là đơn giản, cách hát, màu sắc đạt đỉnh cao; khẳng định các tâm trạng của
nhân vật và tình huống kịch. nguồn gốc phong cách giai điệu của gluck là từ nghệ thuật
ca hát dân gian áo - đức, kết hợp với lối hát bel canto của ý. hàng loạt các aria là những
bài hát trữ tình đơn giản với tính dân tộc được nhấn mạnh như aria với tiếng vọng của
orfeo trong màn 1 của nhạc kịch orfeo và euridice.
Gluck. nhạc kịch orfeo và euridice
Màn 1. aria của orfeo tôi đã mất euridice là một trong những ví dụ điển hình nhất
của sự đau khổ, được thể hiện trong một giai điệu bài hát đơn giản:
Gluck. nhạc kịch orfeo và euridice. màn 3. aria của orfeo.
Trong vở iphigenie ở tauride, khi người anh hùng chuẩn bị hy sinh cho dân tộc
mình, gluck sử dụng aria như bài hát:
Gluck. nhạc kịch iphigénie ở tauride - aria số 40
Hợp xướng trong nhạc kịch của gluck có ý nghĩa và giữ vai trò tích cực trong nội
dung kịch. hợp xướng trong nhạc kịch của ông, đã hiện thực hóa các sự kiện bi thương.
hợp xướng với âm hình hợp âm đơn giản và nhiều hợp xướng lớn với đặc điểm anh hùng;
đôi khi, gần đến các chính ca cách mạng của quần chúng của thời đại cách mạng tư sản
pháp.
Một trong những hợp xướng anh hùng, dũng cảm với đặc điểm hành khúc là hợp
xướng kết trong nhạc kịch iphigénie ở tauride.
Gluck. nhạc kịch iphigénie ở tauride. hợp xướng số 55
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ
nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.
29
Bài 3: Nhà soạn nhạc Josepn Haydn
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: J. Haydn.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Nhà soạn nhạc J. Haydn sinh năm 1732 trong một gia đình nghèo tại một làng nhỏ
miền nam nước Áo. Ông là một nhà soạn nhạc vĩ đại, cha đẻ của thể loại giao hưởng và
tứ tấu, sáng tác ở đủ các thể loại như; giao hưởng, nhạc thính phòng, nhạc kịch, thanh
xướng kịch và ông còn là người mở đường cho sự phát triển và hoàn thiện những thể loại
này.
Ngay khi còn ít tuổi Haydn đã tỏ ra là một cậu bé có năng khiếu đặc biệt và âm
nhạc.
Mới đầu ông tham gia vào đội hợp xướng, tập Violino, đàn phím tại một nhà thờ ở
thành phố Hainobua khoảng ba năm. Sau đó đến Viên cũng làm diễn viên hợp xướng nhà
thờ khoảng 10 năm.
Năm 13 tuổi đã trở thành diễn viên đơn ca và không lâu sau khi vỡ giọng, ông đã
trở thành thất nghiệp. Nhạc sĩ phải thuê nhà, đi dạy thêm để lấy tiền kiếm sống, lúc này
ông đã tự học Clavoxanh, violino, lý luận âm nhạc và nghiên cứu các tác phẩm nổi tiếng.
19 tuổi sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên “Con quỷ thọt mới”, 23 tuổi tham gia một
nhóm nhạc sĩ do một ông hoàng bảo trợ nghệ thuật, 27 tuổi phụ trách một dàn nhạc có
hơn 10 người của một ông hoàng khác, ở đây ông sáng tác nhiều bản hoà tấu giải trí vui
vẻ và cũng từ đây bản giao hưởng đầu tiên của ông ra đời. Năm 29 tuổi lại đến với một
bá tước khác người Hunggari ở đây thì dàn nhạc có 14 người
Cuộc đời nhạc sĩ hầu cận của Haydn kéo dài khoảng 30 năm, ông hết sức đau khổ
vì vất vả và ông đã viết trong hồi ký sau này tự hỏi mình “Ta là nhạc sĩ hay người đầy
tớ”, ông đã gửi gắm những suy tư này trong những bản giao hưởng; “vĩnh biệt” và “tang
lễ”.
Năm 59 tuổi Haydn đoạn tuyệt với cảnh làm thuê và vững bước trên con đường
của một nhà soạn nhạc. Năm 1791 theo lời mời Salomong chủ một gánh hát ông đã sang
Luân đôn, ở đây ông đã sáng tác hàng loạt những tác phẩm có gía trị, đặc biệt là 6 bản
giao hưởng.
Năm 1792 nhạc sĩ lại rời Luân đôn về Viên, đi qua Bôn thăm bạn và Betthoven đã
gặp ông và đã quyết định học ông. Năm 1794 theo lời mời của nhiều người hâm mộ
Haydn lại sang Anh lần thứ hai và được trường Đại học Ocphoc tặng học vị tiến sĩ Âm
nhạc. Ở đây ông viết thêm nhiều tác phẩm nữa tiêu biểu là 2 vở thanh xướng kịch “Đấng
sáng tạo muôn loài” và “Bốn mùa”.
Đó là những tác phẩm cuối đời đã đưa ông tới vinh quang tột bậc. Nhà vua Anh đã
rất mong muốn mời ông ở lại hẳn Anh nhưng vì nhớ quê hương ông vẫn trở về Viên và
30
ông đã từ trần ngày 31/5/1809 trong một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Viên, khi mà quân
đội Áo đang bại trần trước quân đội Napoleong.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Cuộc đời và tác phẩm âm nhạc của Haydn, như những bức tranh sinh động của xã
hội Áo nửa sau thế kỷ XVIII. Tác phẩm âm nhạc của ông sáng ngời niềm tin yêu lạc
quan, nghị lực. Âm nhạc của ông toát lên một tâm hồn lành mạnh, vui vẻ, hồn nhiên.
Hình tượng âm nhạc giản dị, duyên dáng, có sức cảm hoá mãnh liệt.
Giai điệu: Tươi sáng nhuần nhuyễn dân ca, dân vũ Đức, Áo, Hung, Tiệp, Anh…
Hoà âm: Sử dụng những hợp âm hài hoà trong những hình thức cân đối, tính nhân
dân tính phổ cập, đó là đặc trưng trong âm nhạc của Haydn.
Hình thức: Cân phương vuông vắn.
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
Giao hưởng: Nhạc sĩ sáng tác 104 bản giao hưởng, trong đó tiêu biêủ hơn cả là 12
bản cuối đời, gọi tên là “giao hưởng Luân đôn”. Ông đã sử dụng liên khúc sonata một
cách sáng tạo, ngoài chương Menuet ông còn sử dụng các chương biến tấu, rondo… ông
đã sử dụng sự tương phản về tốc độ cũng như tính chất âm nhạc để nhấn mạnh nội dung
âm nhạc. Dân ca, dân vũ là linh hồn trong những bản giao hưởng của ông. Có thể chia
những tác phẩm giao hưởng của Haydn làm 4 giai đoạn.
Gđ1: Gồm những tác phẩm vết trước năm 1772 nhìn chung mang tính chất giải trí.
Gđ2: Những tác phẩm viết sau năm 72, lúc ông đang là nhạc sĩ hầu cận, âm nhạc
có tính đau thương, suy nghĩ, lo lắng.
Gđ3: Những tác phẩm viết vào những năm 80 của thế kỷ, khi nhạc sĩ đã thoát khỏi
những cơn khủng hoảng.
Gđ4: Giai đoạn cuối cùng là những bản giảo hưởng Luân đôn, đó là những tác
phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ. Đặc biệt là bản giao hưởng No103 “Trống Rung”.
Nhạc thính phòng: Ngoài 104 bản giao hưởng, các thể loại khác cũng là một di sản
quan trọng của Haydn.
Tứ tấu; Ông viết 83 bản, trong đó tiêu biểu là bản số 63 “chim sơn ca”. Nói chung
tứ tấu của ông đều mang phong cách của thể loại nhạc sinh động, tính chất vui vẻ, sáng
sủa lạc quan.
Tam tấu; 92 bản cũng có giá trị cao trong di sản của ông.
Đàn phím; Haydn viết 52 bản sonate cho Piano, nhiều biến tấu, rondo… trong đó
tiêu biểu là bản Sonate – D/dur.
Thanh nhạc: Nhạc sĩ viết 24 vở nhạc kịch, 14 lễ ca (messa), nhiều hợp xướng. Đặc
biệt lúc cuối đời xuất hiện hai tác phẩm thanh xướng kịch “Đấng sáng tạo muôn loài” và
“Bốn mùa”.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ
nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.
32
Bài 4: Nhà soạn nhạc W. A. Mozart
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: W. A. Mozart.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Mozart sinh ngày 27-1-1756 trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, bố ông
Lêôpôn Moda là một nhà sư phạm âm nhạc, nghệ sĩ biểu diễn Violino, mẹ là người phụ
nữ đôn hậu hết lòng vì con cái. Moda có bảy anh chị em nhưng năm người đã qua đời
sớm, chỉ còn lại Moda và người chị Maria Ana, sau này người chị cũng là một nhà sư
phạm có tiếng.
Mozart là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn Piano thiên tài người Áo thuộc trường
phái âm nhạc Cổ điển Viên, sự xuất hiện của ông đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao
cho thể loại Oopera và giao hưởng. Thông thường mỗi nhạc sĩ chỉ thành công ở một vài
thể loại âm nhạc như; Bắc có Preluyt và Phuga, Henden – thanh xướng kịch, Haydn cha
đẻ của thể loại giao hưởng và tứ tấu… nhưng đối với Moda ông sáng tác ở hầu hết các
thể loại và ở thể loại nào ông cũng đạt đến đỉnh cao, với số lượng tác phẩm đồ sộ vì vâỵ
ông được mệnh danh là vua của tất cả các thể loại âm nhạc.
Tác phẩm âm nhạc của Môda thể hiện những nét sinh động của cuộc sống, niềm
lạc quan tin tưởng vào chân lý cái thiện chiến thắng cái ác, đề cao lòng nhân đạo cao cả,
tình yêu chung thuỷ. Qua tác phẩm của mình Moda đã vạch trần được bộ mặt đểu cáng
của bọn quan lại phong kiến bóc lột nhân dân, chính vì vậy nên tác phẩm của ông có tính
hiện thực rất cao. Tuy nhiên bên cạnh tính chất vui tươi yêu đời, tác phẩm của ông còn
vang lên không ít những khúc nhạc bi thương trầm tư, tràn đầy tính kịch thể hiện tâm
trạng lo âu sáo động của người nhạc sĩ hầu cận mất tự do.
2. Ngôn ngữ âm nhạc.
Âm nhạc của Moda chứa đựng những nội dung sâu sắc mang tính nhân dân song
nó cũng rất gần gũi với tầng lớp quý tộc, nhân vật trong tác phẩm có tính cách đa dạng và
phong phú.
Giai điệu;
Giai điệu trong tác phẩm của ông tươi sáng giản dị, giàu hình tượng, mang hơi thở
của nền âm nhạc dân gian Đức, Áo và những bài hát du dương ý rất tinh tế và có chiều
sâu nội tâm phong phú. Trong tác phẩm của ông thường được cấu tạo những nét giai điệu
Cromatic, những nét hoa mĩ tinh tế và được xác định theo điệu trưởng thứ dất rõ ràng.
Ông kết hợp tinh tế giữa những làn điệu thơ ca dân gian Đức, Áo cùng với những chất
liệu âm nhạc dân gian của các nước châu âu, đặc biệt là ý để tạo nên những nét nổi bật
trong sáng tác của mình.
Hoà thanh;
33
Moda đã vận dụng một cách sáng tạo công năng T-S-D với sự kết hợp liên tiếp
những hợp âm chính và phụ, cùng với những thủ pháp chuyển điệu mạnh bạo, chuyển
điệu sa, âm hình tiết tấu phong phú đã tạo nên ngôn ngữ âm nhạc hết sức xinh động.
Phức điệu;
Moda đã tiếp thu kinh nghiệm từ J.S. Bach và kết hợp theo phong cách chủ điệu
của chủ nghĩa cổ điển viên. Nhưng cái mới trong âm nhạc phức điệu của Moda đó là các
chủ đề của ông dất giàu hình tượng, có cá tính, có sức sống và gần gũi với mọi người.
Phối khí;
Moda đã kế tục xuất sắc phong cách phối khí cổ của Haydn và ông là người đã có
công đưa Clarinet vào biến chế của dàn nhạc giao hưởng, bổ xung cho bộ gỗ.
Cuộc đời Moda tuy ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng âm
nhạc vô cùng đồ sộ, ở nhiều thể loại và trình độ khác hau. Từ những tiểu phẩm cho đàn
phím, nhạc thính phòng đến những bản Cantat, Concerto, giao hưởng, nhạc kịch… ở thể
loại nào ông cũng có những tác phẩm xuất sắc, xong thành công nhất so với ông là hai
lĩnh vực nhạc kịch và giao hưởng.
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
Thể loại nhạc kịch:
Moda là người đầu tiên đưa Trompet vào nhạc kịch.
Nét nổi bật trong nhạc kịch của Moda là sự phát triển liên tục nội dung của mỗi
nhân vật, mỗi nhân vật đều có hình tượng rõ ràng và được kết cấu theo cấu trúc số mục.
Những bản Aria trong nhạc kịch của Moda thường chịu ảnh hưởng bởi tính trữ tình, tính
kịch của thể loại giao hưởng, do đó nhiều bản được viết ở hình thức Sonate không có
phần phát triển.
Moda sáng tác hơn 20 vở nhạc kịch ở 4 thể loại.
Nhạc kịch nghiêm chỉnh: tiêu biểu như vở Idomenay, Lòng nhân từ của típ.
Nhạc kịch hài hước; Tiêu biểu như vở Đám cưới Phicaro.
Nhạc kịch Đức-Áo; Tiêu biểu như vở Cuộc đột nhập vào hoàng cung, cây sáo thần.
Bi hài kịch; Moda là người sáng tạo ra thể loại bi hài kịch, đó là sự kết hợp giữa
nhạc kịch nghiêm chỉnh và nhạc kịch hài hước. Tác phẩm tiêu biểu là vở Đông gioăng.
Giao hưởng: Giao hưởng chiếm một vị trí hàng đầu trong lĩnh vực khí nhạc của
Moda, ông là người đã sử dụng thành công liên khúc sonate trong giao hưởng.
Moda sáng tác 41 bản giao hưởng trong đó đa phần mang tính chất giải trí xinh
động và bộ dây đóng vai trò chủ chốt. Thành công nhất của Moda trong lĩnh vực này là 3
bản cuối cùng; No39 – Es/dur, No40 – g/moll và No41 – C/dur. Trong ba bản này thì bản
số 40 là phổ biến hơn cả. Tác phẩm mang tính chất trữ tình kịch tính mạnh mẽ. Chủ đề
chính ẩn chứa những tình cảm bi thương trữ tình, người ta còn gọi bản giao hưởng này là
bản gh “Bi thương trữ tình” và được nhiều nhạc sĩ phối khí, chuyển thể cho nhiều loại
nhạc cụ khác nhau.
34
Ngoài hai lĩnh vực tiêu biểu đặc sắc là nhạc kịch và giao hưởng, Moda còn có
đóng góp dất lớn cho thể loại nhạc thính phòng, đó là những tiểu phẩm viết cho nhạc cụ
độc tấu. Một trong số đó là những tác phẩm viết cho Piano mà tiêu biểu là 19 bản Sonate
cho Piano, Những tác phẩm này đã phần nào phản ánh được sự sáng tạo nghệ thuật, cũng
như quan niệm sống và cuộc đời của Moda.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ
nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.
35
Bài 5: Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Ludwig Van
Beethoven.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Chia làm 4 giai đoạn.
1.1 Những năm tuổi thơ ở quê hương.
Sinh 16/12/1770 tại Born - Đức.
Ông sớm bộc lộ năng khiếu và học nhạc từ nhỏ.
1787: ông tìm đến Mozart để học nhưng không thành vì ngay lúc đó phải về tang
mẹ.
1789: ông bỏ học ngành triết và tập trung học sáng tác.
Giai đoạn này là thời kỳ hình thành thế giới quan, tư duy thẩm mỹ và trau dồi kiến
thức về sáng tác.
Ông đã có một số sáng tác nhưng chưa khẳng định được nhiều.
1.2 Thời sớm ở Viên (1792-1802).
1792: ông đến hoạt động âm nhạc tại Viên.
Sáng tác của ông còn ảnh hưởng của Haydn, Mozart. Tuy nhiên một số tác phẩm
đã khẳng định được tài năng, cái riêng của ông. Nổi bật là Sonate No8 và No14.
1796: ông có triệu chứng bị điếc và không may mắn trong tình yêu nên dẫn tới
khủng hoảng suy sụp.
1.3 Giai đoạn thành thục (1803- 1812).
Vượt qua khủng hoảng ông hăng say sáng tác. Đây là thời kỳ ông có số lượng TP
dồi dào.
Các TP khẳng định tên tuổi của ông thông qua các đặc điểm sáng tác: TP có tính
kịch cao. Xuyên suốt TP là chủ đề anh hùng, cách mạng và chiến thắng.
Thủ pháp đa dạng, ưa sử dụng âm hình chủ đạo. Thường có phần coda kéo dài.
Hầu hết TP có quy mô đồ sộ.
TP nổi bật: Symphony No3, No5, No6, Sonate No21, No23
1803: ông bị điếc hoàn toàn.
1.4 Những năm cuối đời (1816 -1827).
Là thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông.
TP có quy mô đồ sộ, nội dung giàu tính triết lý, ngôn ngữ âm nhạc hiện đại.
TP thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào chân lý, chiến thắng, tương lai tươi đẹp.
36
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Xuyên suốt các sáng tác là tư tưởng nha hùng - đấu tranh- chiến thắng.
Quy mô tác phẩm: Đồ sộ nhưng hài hòa, tính kịch cao nhưng tự nhiên.
Có nhiều sáng tạo riêng như: Tạo ra sự không ngừng nghỉ giữa các chương
(attaca), ưa dùng bộ đồng.
Tách bè Cello và công tơ bat thành 2 bè độc lập, đặc biệt sử dụng hợp xướng trong
TP giao hưởng.
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
GH: 9 bản.
Sonate cho Piano: 32
Sonate cho Piano và Violon: 10
Sonate cho Cello và Piano: 5
3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano.
Chứa đụng quy mô, ý nghĩa như một TP giao hưởng.
Đề tài chính: anh hùng- cách mạng- chiến thắng, mở ra hướng mới cho chủ nghĩa
ÂN lãng mạn say này.
Sử dụng nhiều hình thức lạ, áp dụng những thể loại hết sức độc đáo. Những TP
cuối đời có tính triết lý sâu sắc.
Các TP nổi bật: No8 C dur- Bi hùng. No14 cis moll- ánh trăng. No 21: Rạng
đông. No 23 Apaxionata.
3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng.
Số lượng TP: 9 giao hưởng, 11 khúc mở màn, 40 vũ khúc, 5 concerto cho piano, 1
concerto cho violon
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ
nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.
38
CHƯƠNG IV. CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN
Bài 1: Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về sự hình thành và những đặc điểm
của chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Sự hình thành và phát triển.
Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm (1789) thành công, ngay sau đó giai cấp đại tư
sản quay lưng lại phản bội cách mạng và giành lấy chính quyền.
Giai cấp thống trị thực hiện chế độ hà khắc, tiêu diệt các trí thức có tư tưởng tiến
bộ, khôi phục địa vị của tư tưởng phong kiến và vị thế nhà thờ.
Các quốc gia đều dấy lên các cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dân tộc.
Tinh thần cách mạng và chủ nghĩa dân tộc được đề cao, đặc biệt có sự khai sáng
của chủ nghĩa khoa học không tưởng.
Trong hoàn cảnh như vậy nghệ thuật hình thành dòng mới đó là chủ nghĩa Âm
nhạc Lãng mạn, với các nhà soạn nhạc tiêu biểu như; F. Schubert, F. Chopin, Vê be,
Mendenxon... đã xây dựng lên cho thế giới một kho tàng Âm nhạc vô cùng qúy báu.
2. Những thành tựu cơ bản.
Sáng tác của chủ nghĩa âm nhạc lãng mạn.
Nội dung: chủ đề tình yêu xuyên suốt các sáng tác. Bên cạnh đó là tính dân tộc,
hiện thực cũng được đề cập đến rất nhiều.
Tính chất ÂN gần với thơ ca, hội họa.
Ca xướng hóa thể loại khí nhạc.
PC sáng tác: đề cao nguyên tắc đơn chủ đề, và tính tiêu đề.
Đại diện đầu tiên là nhạc sỹ Frank Schubert có các sáng tác mẫu mực của chủ
nghĩa ÂN lãng mạn.
Thể loại ca khúc được đưa lên đỉnh cao.
Nhiều thể loại âm nhạc mới được sáng tạo như; Giao hưởng thơ một chương,
Ballad…
Phong cách chỉ huy dàn nhạc được cải cách.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đầu thế kỷ XIX.
40
Bài 2: Nhà soạn nhạc F. Schubert
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc F. Schubert.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
F. Schuber là một nhà soạn nhạc người Áo, người mở đầu cho trường phái Âm
nhạc Lãng mạn Tây âu. Ông thành công ở mọi lĩnh vực sáng tác như; nhạc thính phòng,
giao hưởng, thanh nhạc… song thành công hơn cả trong nghệ thuật của Schubert là lĩnh
vực viết cho thanh nhạc. Ông là người đã có công đưa thể loại ca khúc, vốn là một thể
loại hạng thứ lên đỉnh cao để sánh ngang với các thể loại Âm nhạc chuyên nghiệp khác.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Âm nhạc của Schubert chứa đựng những chủ đề thơ mộng, tình cảm đau khổ và
những ước mơ hoài bão của những người nông dân bình dị. Tác phẩm của ông không chỉ
thể hiện những vấn đề chung của xã hội mà còn đi sâu vào thể hiện cái tôi của người
nghệ sĩ. Bên cạnh những hy vọng đẹp đẽ, tác phẩm của ông còn vang lên cả những hình
tượng đen tối bi thảm. Ông đã thể hiện thế giới quan dân chủ nhân đạo và những bất công
trong chế độ phản động đương thời một cách rõ nét và sâu sắc.
Giai điệu trong tác phẩm của Sube rất sâu sắc mang tính ca xướng, du dương uyển
chuyển và có tính chất ngâm vịnh. Giai điệu rất gần gũi với nguồn gốc Âm nhạc dân gian
nên hết sức chân thật giản dị và dễ hiểu.
Hòa thanh; Đề cao sự tương phản giữa màu sắc và điệu tính, sử dụng nhiều
phương pháp chuyển điệu đột ngột, dung nhiều biến âm và vai trò công năng phụ được đề
cao.
Phối khí; Chú trọng đến khả năng diễn tả của bộ gỗ.
Cấu trúc tác phẩm có nhiều đổi mới tự do hơn, sử dụng nhiều âm hình chủ đạo, đề
cao nguyên tắc đơn chủ đề và tính tiêu đề. Hình thức thường đơn giản, có cấu trúc hai
hoặc ba phần.
3. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu.
Sube đã để lại cho nhân loại một kho tàng Âm nhạc vô cùng đồ sộ với khoảng
1500 tác phẩm, ở nhiều thể loại và trình độ khác nhau. Nhưng đặc điểm Lãng mạn trong
nghệ thuật của Sube được thể hiện rõ nhất và hoàn thiện nhất là trong các tác phẩm viết
cho thanh nhạc.
Sube có khoảng 100 tác phẩm lớn như Metxa As-dur, Es-dur, Đại hợp xướng
“khúc hát chiến thắng của Miriam” Một trong những tác phẩm có ý nghĩa nhất đối với
ông đó là phần nhạc cho vở “Dodamuda”. Phần lớn các tác phẩm viết cho thanh nhạc của
ông là ca khúc, ông có khoảng 600 ca khúc, trong đó có nhiều chủ đề như;
Trữ tình thơ mộng; có tác phẩm “nàng meludia xinh đẹp”, Ba lát chúa rừng.
Tự chuyện; Kẻ lưu lạc, chốn nương tựa, người cô độc…
41
Triết lý chữ tình; Thần chết và cô gái, những danh giới của loài người…
Nghệ thuật: Gửi đến Âm nhạc… và nhiều ca khúc về chủ đề thiên nhiên.
Ngoài ra Sube còn sáng tác hai tập liên ca khúc “cô thợ xay xinh đẹp” và “con
đường mùa đông”. Trong đó tập cô thợ xay xinh đẹp gồm 20 bài, chủ đề nói về tình yêu
và cao trào là bài “Người yêu của tôi D-dur”.
Tập con đường mùa đông gồm 24 bài, chủ đề mang tính triết lý sâu sắc, đó là
những tình cảm bi thương đầy tính kịch. Có thể chia tập này thành hai giai đoạn; 1 – từ số
1 đến 12, gđ2 – từ số 13 đến 24. Sube đã đưa những bài ca phong tục Đức, Áo đạt tới
trình độ nghệ thuật cao, tạo ra thể loại mới có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc.
Ca khúc của Sube rất đơn giản về hình thức nhưng lại rất đa dạng và phong phú về
giai điệu, những giai điệu này có liên quan chặt chẽ đến nguồn gốc Âm nhạc dân gian với
tiết tấu điển hình của các điệu nhảy.
Nhiều ca khúc của Sube được phổ thơ của các nhà thơ như; Hai nơ, Hê ghen, Gớt,
Muyly… mặc dầu vậy nhưng ca khúc của ông không phải phụ thuộc hoàn toàn vào sự chi
phối của thơ, mà ông đã nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hình tượng trong thơ để
làm tăng thêm tính nghệ thuật của lời ca và luôn là những tác phẩm độc lập đạt tới trình
độ cao. Đặc biệt bè Piano trong ca khúc của Sube, không đơn giản là một bè đệm mà nó
còn có tầm quan trọng sánh ngang với bè của lời ca. Nhiều ca khúc có thể tách bè đệm
Piano ra thành một tác phẩm độc lập cho Piano độc tấu.
Sáng tác cho giao hưởng: Sube viết 9 bản giao hưởng và một số Uvectuya, 7 bản
giao hưởng đầu còn chiụ ảnh hưởng của trường phái Âm nhạc cổ điển Viên. Bản giao
hưởng số 8 – hmoll (bỏ dở) ra đời, đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử cho nền giao
hưởng thế giới, bản giao hưởng này đã bắt đầu cho sự hình thành nền giao hưởng lãng
mạn trữ tình, kịch tính, là mẫu mực về nội dung và cấu trúc. Ông đã ca khúc hóa các bản
giao hưởng, điều này thể hiện qua các chủ đề mang đậm chất hát, chủ đề 1 và 2 không có
nhiều sự tương phản. Bản giao hưởng này được ông xây dựng trên những cảm xúc trữ
tình, là chân dung của con người thời bấy giờ, đó là tư tưởng dằn vặt, nỗi đau khổ, những
ước mơ không tưởng về một thế giới tươi đẹp.
Bản giao hưởng này gồm hai chương.
Chương I; được viết ở hình thức Sonata Allegro với ba chủ đề.
Chương II; Viết ở hình thức Sonata không có phần phát triển, hai chủ đề không có
sự tương phản về tính chất.
Ngoài hai lĩnh vực trên Sube còn sáng tác nhiều thể loại khác như; Sonata, hòa tấu
thính phòng, tứ tấu dây, Fantadi, thánh ca… trong đó những bản hòa tấu thính phòng
cũng có mối liên hệ mật thiết với ca khúc.
Trong cuộc đời ngắn ngủi của một nhà soạn nhạc chưa bước qua tuổi 32 nhưng
ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng âm nhạc vô cùng quý báu ở nhiều thể loại khác
nhau, trong đó có những tác phẩm đã trở thành mẫu mực mà chính ông cũng chưa một
lần được nghe.
42
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
43
Bài 3: Nhà soạn nhạc C. M. Vêbe (Carl Marie Weber)
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc C. M. Vêbe.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Những năm đầu của thế kỷ XIX nói chung là xã hội Đức còn lạc hậu và trì trệ, vì
vậy nó cũng có ảnh hưởng nhất định đến nền nhạc kịch Đức, hai nữa nhạc kịch Đức còn
chịu sự ảnh hưởng lâu đời của nền nhạc kịch Ý, Pháp. Sự ảnh hưởng đó cũng là một cản
trở nặng nhất cho sự hình thành phong cách nhạc kịch dân tộc Đức.
Trong khi nền nhạc kịch Đức đang bế tắc như vậy, thì đã xuất hiện một nhà soạn
nhạc “Vê be” ông đã quyết định những vấn đề lịch sử của nền nhạc kịch dân tộc lãng
mạn của Đức.
Vê be là một nhà soạn nhạc, nhà chỉ huy, nhà biểu diễn Piano và nhà hoạt động xã
hội. Ông là người sáng lập ra sự nghiệp sân khấu của Đức và còn là người viết văn. Hoạt
động của ông đã nói lên được những tình cảm dân chủ yêu nước của nhân dân Đức.
Vê be sinh ngày 18 – 11 – 1786 trong một gia đình Âm nhạc, ngay từ khi còn bé
ông đã cùng gia đình đi khắp nơi trong nước Đức, chìm đắm trong thế giới nhạc kịch và
đó là sự tích lũy, giúp cho những hoạt động tương lai của Vê be về sân khấu. Khả năng
nghệ thuật của Vê be còn thể hiện trong cả hội họa, chính vì vậy ông đã đưa vào nhạc
kịch những yếu tố mới của hội họa.
Do điều kiện gia đình nên Vê be không được học hành có hệ thống cả về văn hóa
lẫn học nhạc. Năm 17 tuổi Vê be mới hình thành về tư duy sáng tác nhờ nhà lý luận Âm
nhạc “Phông le” và là người có ảnh hưởng rất nhiều đến nghệ thuật của Vê be.
2. Sự nghiệp sáng tác.
Vê be đã để lại hơn 90 bài đơn ca và một số hợp ca viết theo phong cách nhạc dân
gian. Ngoài ca khúc những tác phẩm sân khấu đầu tiên của Vê be đã xuất hiện trong năm
12 tuổi như “Sức mạnh của tình yêu và tội lỗi”, “Cô gái câm trong rừng”... ngoài ra còn
có một số điệu Van.
Năm 1804 Vê be đi nhiều nước khác nhau với tư cách là một nhà chỉ huy và với ý
thức của một công dân yêu nước, ông đã bắt đầu sự nghiệp tổ chức lại sân khấu Đức và
dương cao ngọn cờ dân tộc trong nền âm nhạc của Đức. Để củng cố cho những tư tưởng
của mình, ông đã tổ chức nhiều sự kiện âm nhạc, đổi mới chương trình biểu diễn, sửa đổi
phần phối âm, phối dàn nhạc và đòi hỏi nâng cao nghệ thuật biểu diễn.
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
Vê be là người đã sáng tạo ra nền nhạc kịch dân tộc của Đức. Tác phẩm tiêu biểu
là vở “Mũi tên thần” và với vở này thì ông đã được công nhận là nhà soạn nhạc dân tộc
Đức. Vở nhạc kịch viết theo phong cách chính thống đậm đà tính dân tộc và tính lãng
mạn. Chủ đề của vở nhạc kịch liên quan đến truyền thuyết trong cuộc đời người đi săn,
44
nổi tiếng trong văn học dân gian Đức, Tiệp, theo truyện ngắn của nhà văn lãng mạn
“Apen”. Tất cả những cảnh thật trong đời sống nhân dân đều được đưa vào sân khấu nhạc
kịch, chính vì vậy nó rất gần gũi với nhân dân, đồng thời nó cổ vũ và thức tỉnh lòng tự
hào dân tộc của họ.
Vở nhạc kịch hoàn thành đầu năm 1820 và cuối năm được biểu diễn lần đầu tiên ở
Beclin, lần biểu diễn này nó đã biến thành cuộc biểu tình yêu nước, khán giả đã tiếp nhận
với cảm xúc hân hoan vui mừng vì nó mang tính dân tộc, thoát khỏi sự ảnh hưởng thống
trị lâu đời của nền nhạc kịch Ý, Pháp. Âm nhạc của vở này được phổ biến rộng rãi trong
quần chúng, với vở “Mũi tên thần” Vê be đã tìm thấy con đường mới cho sự phát triển
của nhạc kịch.
Bên cạnh nhạc kịch Vê be còn sáng tác nhiều tác phẩm cho nhạc đàn như; Sonata
cho Piano, Côngxecto… với những thành tựu trong sự nghiệp sáng của mình, Vê be sứng
đáng là một nhà soạn nhạc lãng mạn đặc sắc.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
45
Bài 4: Nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon
Batođi.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Mendenxon sinh ngày 3-2-1809 ở Hămbuốc Đức, trong một gia đình chủ nhà băng
lớn có nền học vấn cao và rất quan tâm hiểu biết về nghệ thuật. Ngay từ khi còn nhỏ ông
đã có thể gần gũi với tất cả những người làm công tác khoa học, triết học, văn học nghệ
thuật nổi tiếng như; Hêgen, Hainơ, Gớt, Vêbe...
Mendenxon là một nhà soạn nhạc, chỉ huy, biểu diễn Piano, phê bình, sư phạm âm
nhạc, hoạt động xã hội... ông được công nhận là một trong những nhà hoạt động nổi tiếng
trong lĩnh vực âm nhạc của nửa đầu thế kỷ XIX. Bằng những cống hiến của mình ông đã
đem lại sự đổi mới cho nền âm nhạc Đức và làm phong phú cho nền âm nhạc Lãng mạn.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Chủ đề, hình tượng và các thể loại âm nhạc của ông có sự liên quan chặt chẽ đến
nền văn hóa đương thời ở Đức. Nghệ thuật của Mendenxon là rõ ràng ấm áp và dễ hiểu.
Giai điệu đẹp có tính ca xướng, liên quan chặt chẽ đến những yếu tố trong âm nhạc dân
gian. Ngôn ngữ hòa âm và dàn nhạc được nâng cao và đặc biệt quan tâm đến sự pha trộn
về màu sắc.
Hoạt động xã hội của Menddenxxon.
Từ năm 1829-1832 ông đi thăm nhiều nước như; Thụy sĩ, Áo, Ý, Pháp, Anh... trở
về Đức năm 1833, ông rất ngạc nhiên là khắp nơi người ta còn chưa quan tâm đến các
sáng tác của các nhà cổ điển, chính vì vậy sau đó ông đã thực hiện những cuộc tuyên
chuyền âm nhạc cho các nhạc sĩ như; Bắc, ông là người đầu tiên tuyên truyền cho nhạc
Bắc với tác phẩm “Matêpaxion” nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Bắc. Năm
1838 bản giao hưởng C-dur của Schubert đã tìm thấy và biểu diễn lần đầu tiên. Sau đó
dưới sự lãnh đạo của ông hàng loạt những tác phẩm của các nhạc sĩ khác như; Haydn,
Mzart, Henden, Laxo... được đến với công chúng. Đặc biệt ông còn là người có công cải
cách phong cách chỉ huy dàn nhạc.
Từ năm 1833-1835 ông là nhà lãnh đạo âm nhạc ở Đuyxem, ở đây ông bắt đầu
hoạt động trong lĩnh vực sư phạm, biểu diễn đồng thời tìm tòi và nghiên cứu các tác
phẩm của các nhà cổ điển.
Năm 1835 ông tích cự tham gia vào các hoạt động âm nhạc và giáo dục ở Lai xích,
đến năm 1843 nhạc viện Laixich được thành lập và đó là sự nghiệp hoạt động xã hội lớn
nhất của Menđenxon. Ông đã soạn chương trình cho nhạc viện để đào tạo ra những người
làm công tác âm nhạc chuyên nghiệp cần thiết cho nền âm nhạc Đức.
46
3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.
Menđenxon sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau, những tác phẩm
thời kỳ đầy còn chịu ảnh hưởng của các nhạc sĩ cổ điển, từ những năm 30 là thời kỳ hoàn
thiện trong sáng tác cũng như phong cách âm nhạc của Menđenxon.
Những thể loại hoàn thiện nhất mang đặc điểm lãng mạn của ông là; Uvectuya,
giao hưởng, Concerto và tuyển tập “bài ca không lời” cho piano.
Giao hưởng: Những tác phẩm giao hưởng ông viết đa số là để đánh dấu hoặc kỷ
niệm một sự kiện lịch sử quan trọng nào đó trong xã hội như; Bản số 2 “Cải cách” là
nhân kỷ niện 300 năm ngày cải cách tôn giáo ở Đức… ông sáng tác tất cả năm bản giao
hưởng song tiêu biểu hơn cả là hai bản; số 3 “Ý đại lợi” và số 4 “Xcotlen”.
Uvectuya: Ông là người đầu tiên tách các khúc Uvectuya ra thành những tác phẩm
độc lập, ông rất thành công với các tác phẩm “Động phi gan”, “Biển lặng và những
chuyến bơi kỳ thú”, “Nàng Meludia xinh đẹp” và đặc biệt nổi bật là tác phẩm “Giấc
mộng đêm hè”, nó mang phong cách của ông và điển hình của trường phái âm nhạc lạng
mạn. Chủ đề thể hiện tính tinh tế của hình tượng, tính huyền ảo và cái đẹp của tự nhiên,
thiên nhiên.
Concerto: Cả cuộc đời của nhạc sĩ chỉ viết có một bản Concerto cho Violino và
dàn nhạc giọng e-moll, nhưng đó lại là tác phẩm điển hình xuất sắc của thời kỳ âm nhạc
lãng mạn, được coi là bản Concerto hay nhất thế kỷ XIX.
Tác phẩm gồm 3 chương;
Chương I; Viết ở hình thức Sonate Allegro chỉ có một lần trình bày với sự hiện
diện của cây đàn Violino.
Chương II; Mang tính chất chữ tình như một khúc hát du dương huyền ảo.
Chương III; Mang đặc tính “Xkecro” với sắc thái ảo tưởng.
Với bản Concerto này nó đã làm thay đổi tư tưởng của nhiều nhà sáng tác và cả
người nghe.
Piano; Điển hình cho phong cách của Menđenxon là tập “Bài ca không lời” ông đã
thơ hóa các khúc nhạc làm cho nó gần gũi với các tác phẩm thanh nhạc, tạo ra tính giai
điệu trữ tình ca xướng của nó.
Tập này gồm 48 tác phẩm, mỗi một tác phẩm đều có một hình tượng rõ ràng, như;
số 2”Đi săn”, số 12 “Pacaron chèo thuyền”, số 27 “Hành khúc tang lễ”… tất cả tập này là
những mẫu mực hoàn thiện nhất của tính trữ tình Menđenxon.
Ngoài ra ông còn viết khoảng 80 ca khúc, 60 tác phẩm hợp ca thanh nhạc.
Menđenxon qua đời ngày 4-11-1847 khi chưa đầy 39 tuổi đời, nhưng ông đã đạt
được những vinh quang của một người sáng tạo.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
48
Bài 5: Nhà soạn nhạc Robert Schuman
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Robert Schuman.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Suman là một nhà soạn nhạc, nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng người Đức, sinh ra
trong một gia đình trung lưu khá giả. Suman còn là một nhà tư tưởng với những quan
điểm chính trị tiến bộ và là người tuyên truyền nhiệt tình cho vai trò đạo đức trong xã
hội.
Suman là một người hết sức mâu thuẫn, luôn muốn làm nhiều việc cho xã hội
nhưng lại cảm thấy mình không có chỗ đứng, vì vậy âm nhạc của ông chứa đựng những
tình cảm luôn thay đổi khó hiểu, chính vì vậy ông được coi là đi vào lịch sử âm nhạc
Lãng mạn như một nhà cách tân táo bạo.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Hình thức: Rất tự do.
Nội dung: mỗi tác phẩm đều có tính cách riêng, khi thì hài hước đau khổ lúc thì trữ
tình nổi loạn.
Giai điệu: Thường có những quãng nhảy xa và hay có giai điệu ẩn.
Hòa âm: Hay sử dụng phương pháp chuyển điệu đột ngột mà không cần chuẩn bị.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Sáng tác cho đàn phím;
Trong tất cả các thể loại Suman đã viết thì lĩnh vực sáng tác cho đàn phím thể hiện
đầy đủ nhất sự đổi mới của ông. Những tác phẩm này có tính chân dung cá tính độc đáo,
nhiều khi phát triển thành một câu truyện âm nhạc, vì vậy người ta gọi Suman là nhà viết
truyện ngắn bằng âm nhạc.
Tác phẩm tiêu biểu ở thể loại này là Carnaval Op9, ông viết trên cơ sở biến tấu
một chủ đề. Suman gọi tác phẩm này là “Các cảnh trên bốn nốt nhạc” A E C H.
Thể loại ca khúc;
Ca khúc chiếm một vị trí thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Suman. Ông là
người kế tục Sube về ca khúc và nâng lên ở một trình độ mới, tinh tế và sau sắc hơn.
Trong lĩnh vực này Suman chủ yếu phổ thơ của các nhà thơ như; Sile, Haino,
Gớt… tác phẩm tiêu biểu là tập liên khúc “Mối tình của nhà thơ” gồm 16 bài rút ra từ tập
thơ trữ tình của Hainơ.
Những bài tiêu biểu như số 1 “Trong ánh hào quang của ngày tháng năm ấm áp”
số 13 “Trong giấc mơ tôi khóc nức nở” số 16 “Bài ca độc địa”. Tiêu biểu nhất trong tập
này là bài số 7 “Tôi không giận” là tác phẩm điển hình nhất về ca khúc của Suman.
49
Ngoài hai lĩnh vực trên Suman còn viết nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau
như; Concerto, sonata, giao hưởng…
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
50
Bài 6: Nhà soạn nhạc Giochino Rossini
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Giochino Rossini.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Gioacchino Rossini sinh ngày 29 tháng 2 năm 1792 tại thành phố Pesaro Ý, trong
một gia đình cả cha và mẹ đều là nhạc sĩ. Cha của nhạc sĩ là một nghệ sĩ kèn cor. Mẹ là
con gái một chủ lò bánh mì. Bà đã từng là một ca sĩ có giọng hát rất đẹp. Rossini đã bắt
đầu cuộc đời lao động của mình trong công việc phụ việc của một người thợ rèn.
Ngay từ khi còn trẻ, Rossini đã cùng gia đình tới thành phố Bologna. Đây là một
trong những trung tâm âm nhạc lớn nhất của nước Italia thời bấy giờ. Ở đây Rossini bắt
đầu được học âm nhạc một cách có hệ thống và nhanh chóng chiếm được sự chú ý của
mọi người trên cương vị một ca sĩ và nghệ sĩ biểu diễn đàn Clavecin.
Năm 14 tuổi, G. Rossini đã được bầu chọn làm thành viên của Viện hàn lâm
Bologna và cũng chính năm này cậu được vào học tại Trường âm nhạc. Nhưng ấn tượng
mạnh nhất đến với cậu lại xuất hiện sau khi ông tự nghiên cứu tác phẩm của Haydn và
Mozart..
Trong suốt thời gian này chàng nhạc sĩ trẻ tuổi Rossini chủ yếu hướng tới nghệ
thuật biểu diễn thanh nhạc. Nắm vững kỹ thuật viết cho thanh nhạc là đặc điểm nổi bật
của cậu.
Năm 1810, Rossini đã sáng tác vở Opera đầu tiên có tiêu đề “Vecxen cưới vợ”.
Cũng từ đó hàng loạt các vở opera của Rossini lần lượt ra đời và đạt được những thành
công rực rỡ.
Cho đến năm 30 tuổi, tên của ông đã được nổi tiếng khắp thế giới. Âm nhạc của
ông vang lên không chỉ ở Italia, mà còn ở Áo, Đức, Pháp, Nga, Anh… Âm nhạc của
Rossini là một phần không thể thiếu của văn hoá âm nhạc phương Tây những năm 20 –
30 thế kỷ XIX.
Từ năm 1855 Rossini chuyển đến sống tại Paris. Và ông đã từ trần ở nơi đây vào
ngày 13 tháng 11 năm 1868. Năm 1887 tro của ông đã được đưa về Tổ quốc và an táng
tại Điện Panteon Santa – Kroch ở Florensia cùng với Mikenlanghelo và Galile.
2. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu.
Nhạc kịch;
Trên con đường sáng tạo của mình Rossini không phá vỡ truyền thống sân khấu
âm nhạc mà ông đã biết cách tân nó rất nhiều. Ông kiên trì đi theo hai khuynh hướng
sáng tạo của sân khấu âm nhạc Italia là: hài hước-sinh hoạt và anh hùng ca.
Không phá vỡ những gì đã được xác định của thể loại này, ông đã khẳng định một
khuynh hướng mới tiến bộ của mỹ học opera Italia: nghệ thuật bel canto tuyệt vời.
51
Những đặc điểm này đã được kết hợp hoàn mỹ cùng sự biểu hiện kinh điển trong “Người
thợ cạo thành Xê vin” nổi tiếng (1816).
Mười năm cuối đời (1857 – 1868) Rossini dành sức lực cho âm nhạc piano và soạn
các tiểu phẩm hài hước.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
52
Bài 7: Nhà soạn nhạc Hector Berlioz
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Hector Berlioz.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Beclio (1803-1869) là một nhà soạn nhạc, nhà chỉ huy và phê bình âm nhạc người
Pháp, ông còn là nhà giao hưởng đầu tiên của Pháp có ý nghĩa đối với toàn châu âu.
Ngoài ra ông còn xây dựng nền tảng cho nghệ thuật chỉ huy.
Thời niên thiếu ông sống ở quê hương, đến năm 18 tuổi đến Pari học ngành Y
(theo yêu cầu của bố mẹ) nhưng ông hoàn toàn không có hứng thú mà âm nhạc mới là
điều ông mơ ước đầu tiên. Cuối cùng ông đã quyết định con đường sự nghiệp của mình là
âm nhạc, do vậy đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với gia đình, cuộc sống của ông trở nên
vô cùng khó khăn vì thiếu trợ cấp.
Beclio sống độc thân trong thế giới âm nhạc và sân khấu. Ông chịu đựng như vậy
trong 10 năm học hành với nhạc sĩ pháp nổi tiếng là Liôxuio, và cũng chỉ mười năm sau
ông trở thành người sáng lập ra trường phái giao hưởng của Pháp.
2. Ngôn ngữ âm nhạc.
Giai điệu: Rất độc đáo được xây dựng trên nền tảng ca xướng, giai điệu và tiết tấu
có cơ sở dân tộc, mang tính ngâm ngợi kiểu Pháp.
Hình thức: Khác với cổ điển, có thể là 3, 4, 5 chương.
Mở rộng thành phần dàn nhạc của cổ điển, làm phong phú cho bộ hơi và bộ gõ.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Beclio sáng tác nhiều thể loại khác nhau nhưng mang rõ sự đổi mới của ông là lĩnh
vực viết cho giao hưởng. Ông là nhạc sĩ đầu tiên viết giao hưởng có tiêu đề, tạo bước
ngoặt mới cho loại hình này cũng như tìm được cách giải quyết mới, độc đáo cho nguyên
tắc tiêu đề.
Tác phẩm tiêu biểu ở thể loại này là bản giao hưởng “Tưởng tượng”. Tác phẩm có
liên quan đến cuộc đời riêng của nhạc sĩ, đó là tình yêu đơn phương với kịch sĩ Xmít-
xon. Tác phẩm gồn 5 chương.
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
53
Bài 8: Nhà soạn nhạc Federic Chopin
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Federic Chopin.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Chopin (1810-1849) là một nhà soạn nhạc vĩ đại, nghệ sĩ biểu diễn Piano thiên tài.
Người sáng tạo ra trường phái âm nhạc dân tộc Balan. Ông viết một số lượng tác phẩm
đồ sộ ở nhiều thể loại và trình độ khác nhau nên được mệnh danh là “nhà thơ của cây
đàn Piano”.
Chopin là một người có nhiều thay đổi về hình thức cũng như thể loại âm nhạc,
ông đã đưa vào nhạc đàn những tư tưởng đấu tranh lớn lao của dân tộc, sự giải phóng dân
tộc mà trước đây nó chỉ được thể hiện trong các vở nhạc kịch.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Chủ đề âm nhạc của Chopin đã thể hiện nỗi xúc động của thời đại, tình cảm yêu
nước.
Giai điệu: Sử dụng nhiều trang sức, Cronaticque và không ổn định giọng.
Hình thức: Là người đầu tiên viết Prelute, Skerzo, Valse, thành tác phẩm độc lập.
Sử dụng Polone, Mazurka, thành những tác phẩm độc lập cho Piano mang tính chất bác
học.
Hòa thanh: Rất phức tạp, chuyển giọng đột ngột, đôi khi không ổn định giọng.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Cả cuộc đời Chopin gắn liền với cây đàn Piano.
Ông viết 58 Mazurka, và được công nhận là thể loại âm nhạc chuyên nghiệp của
Balan từ thế kỷ XIX. Thể loại này viết ở nhịp 3 nhưng trọng âm lại rơi vào phách thứ 2
hoặc thứ 3 hoặc thay đổi tùy từng nhịp.
16 Polonedo thể hiện tình cảm bất tử của tổ quốc.
24 Prelute được sắp xếp theo vòng hòa âm giống như tổ khúc.
4 bản Ballad, Chopin là người đầu tiên viết Ballad cho nhạc cụ độc tấu, hình thức
chỉ có một chương với tính chất anh hùng sử thi. Tiêu biểu là bản g - moll.
3 bản Sonata, tiêu biểu là bản sonata b - moll.
Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm ở các thể loại khác như 17 Valse, 19
Nocturne, 27 Etude và 2 bản Concerto cho Piano và dàn nhạc, cùng một số tác phẩm
khác cho Piano.
Chopin đã sống và sáng tác trong tình cảm yêu nước tha thiết, trong nỗi đau vì tự
do của tổ quốc. Ông mất ngày 17-10-1849 với nhiều suy tư về tổ quốc còn chưa được
thực hiện. Lời mong muốn cuối cùng của ông trước khi mất là trái tim của ông được đưa
về tổ quốc Balan thân yêu.
54
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
55
Bài 9: Nhà soạn nhạc Mikhail Glinka
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Mikhail Glinka.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Glinka (1804-1857) là ngà soạn nhạc Nga đầu tiên có ý nghĩa thế giới, ông không
chỉ nổi bật là người hoàn thiện một giai đoạn âm nhạc, mà còn mở ra một con đường mới
cho sự phát triển của nền âm nhạc Nga.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Âm nhạc của Glinka không chỉ mang đậm bản sắc dân tộc mà ông còn biết kế thừa
những thành tựu tốt đẹp của nền nghệ thuật thế giới. Phản ánh toàn bộ đời sống của nhân
dân và vai trò của họ trong lịch sử.
Giai điệu: điển hình hóa tính ca xướng, có tính mềm mại, sử dụng rộng rãi giai
điệu dân ca.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Glinka sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau nhưng thành công hơn cả
là thể loại nhạc kịch và giao hưởng.
Nhạc kịch: có một vị trí quan trọng trong toàn bộ sáng tác của ông và nó đã khẳng
định sự phát triển của thể loại này ở Nga. Nhạc kịch của ông thể hiện tính anh hùng, tình
yêu tổ quốc, tin tưởng vào ánh sáng tươi đẹp.
Tác phẩm tiêu biểu: “Ivanxuxanhin” và “Ruxlan và Lutmila” Từ hai tác phẩm này
đã xinh ra hai dòng nhạc kịch cổ điển Nga, đó là nhạc kịch sử thi và nhạc kịch thần thoại
sử thi. Glinka đã thực hiện nguyên tắc giao hưởng trong nhạc kịch, cùng với nhạc kịch
“Ivanxuxanhin” giao hưởng Nga bắt đầu đi vào con đường phát triển.
Giao hưởng: Glinka là người sáng lập ra nền giao hưởng thuộc truyền thống sinh
hoạt, cảnh trí, mặc dù ông sáng tác giao hưởng không nhiều nhưng nó được coi là đặt nền
móng cho nền giao hưởng cổ điển ở Nga.
Tác phẩm tiêu biểu: Phăngtadi “Kamarinxkaia” được viết theo cấu trúc biến tấu
trên hai chủ đề dân gian.
Bên cạnh những thể loại trên, Glinka còn viết nhiều tác phẩm ở các thể loại khác
như Rômance, ca khúc, nhạc thính phòng, nhiều tiểu phẩm cho Piano...
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, Chủ
nghĩa Âm nhạc Lãng mạn nửa đâù thế kỷ XIX.
57
Bài 10: Nhà soạn nhạc Frank Liszt
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Frank Liszt.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp.
Sinh ngày 22/10/1810 tại Extecgadi, Hungari. Ông là nhà sư phạm, chỉ huy, nghệ
sỹ Piano tài ba và là nhà soạn nhạc lỗi lạc.
Sớm tham gia biểu diễn (9 tuổi)
Ông học nhạc bởi người thầy là học trò của Beethoven.
Ông từng gặp gỡ với nhiều nhà văn hóa, nghệ sỹ nổi tiếng cùng thời như
Beethoven, Victo Huygo, Chopin, Paganini...
Ông là đại diện của “Trường phái Vâyma”.
Ông mất ngày 31/7/1886.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Nội dung: thể hiện cuộc đấu tranh, niềm say mê, những suy tư, hy vọng, hoài nghi,
thất vọng; đan xen giữa tư tưởng tiến bộ và hiện thực phức tạp.
Giai điệu giàu tính ngâm vịnh, giao hưởng hóa TP cho Piano, đề cao âm nhạc có
tiêu đề.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Giao hưởng: Ông là người đầu tiên sáng tạo ra thể loại giao hưởng thơ một
chương, với tác phẩm tiêu biểu là “Những khúc dạo đầu”.
Rapsodi Hungari: 19 bản, tiêu biểu như số 2,6,12,14.
TP cho piano: 3 tập “Những năm chu du”
Nhiều Etude cao cấp.
Các tp chuyển thể cho đàn Piano: GH No 5,6,7 của Beethoven, GH Ảo tưởng,
Haron ở Ý của Berlio, ...
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
58
Bài 12: Nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp
Sinh ngày 7/5/1833 tại Hamburg. Trong gia đình bình dân, cha ông là Nhạc công.
1853 ông có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhạc sỹ lớn như Schumann, Liszt. Điều
đó có nhiều ảnh hưởng lớn đến phong cách sáng tác của ông. Ông tham gia vào diễn đàn
của trường phái “Lepzich’. 1862 ông di cư và định cư tại Viên.
Ông mất ngày 3/4/1897.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc
Ông là nhạc sỹ thuộc trường phái cổ điển của TK XIX, thuộc trường phái
“Lepzich” (đối lập với Vâyma).
Âm nhạc của ông đề cao tính mẫu mực của ÂN cổ điển Viên.
Đề tài: thể hiện thế giới quan xa vời với tư tưởng tiến bộ của thời đại.
Giai điệu: Khai thác âm nhạc dân gian Áo, Đức, Hungari, Tiệp ...
TP giao hưởng: đậm chất sử thi, tương phản rõ nét hình tượng chữ tình và kịch
tính.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Ông thành công chủ yếu ở thể loại khí nhạc.
Các sáng tác cho Piano và thính phòng.
Các sáng tác nổi bật cho Piano; Rapsodi Bungari: No5, Intermezzo OP 117, Nhiều
capricio.
Sáng tác thính phòng: có 24 TP lớn trong đó có 16 TP cho Piano, ngoài ra có các
tp thuộc thể loại tứ tấu, tam tấu.
Sáng tác cho dàn nhạc giao hưởng; 2 Serenard (Bi kịch và Ngày hội), 2 Uvecture,
Các biến tấu trên chủ đề Haynd, Concector: 2 cho Piano, 1 cho Vilon, 1 cho Violn và
Cello.
GH: có 4 bản
No1 c moll (anh hùng, đồ sộ), No2 D dur (vũ khúc, dan gian), No3 F dur (trữ tình
kịch tính), No4 e moll (bi kịch)
Sáng tác cho thanh nhạc;
Tổng 300 ca khúc, trong đó 200 đơn ca có phần đệm piano, 20 song ca, 60 tứ ca,
đồng ca không có phần đệm. Nhiều tuyển tập dân ca và dân ca cải biên.
01 Rekiem Đức OP 45 ( theo thể loại Cantat).
60
Bài 13: Nhà soạn nhạc Josph Verdi
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Josph Verdi.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
1. Thân thế sự nghiệp
Sinh 10/10/1813 trong gia đình bình dân tại Ý. Ông ít có điều kiện theo học âm
nhạc bài bản. Sau này ông được người dân quyên góp và theo học tại Milan. Ông sinh ra
trong giai đoạn đất nước Ý có nhiều biến động lịch sử với hai thách thức lớn: quân xâm
lược Áo - Phổ và sự thống trị của thánh đường Vatican.
Ông là người nói lên tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân thông qua các tác phẩm.
Ông mất ngày 27/1/1901.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc
Nội dung: phản ánh hiện thực XH đương thời, đề cao tình yêu chung thủy, sự
thanh cao phẩm chất của người nghèo.
Giai điệu bóng bẩy, khai thác chất liệu âm nhạc dân gian Ý.
ÂN nhạc phản ánh rõ nét phong trào giải phóng dân tộc Ý.
Ông là nhạc sỹ cổ điển vĩ đại của nền âm nhạc, nhạc kịch Ý.
Ông được coi là “Ca sỹ cách mạng” của Ý.
Âm nhạc của ông phản ánh hiện thực sâu sắc, đưa nhạc kịch Ý bắt nhịp hơi thở
thời đại và nâng lên tầm cao mới.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Ông thành công chủ yếu ở thể loại nhạc kịch.
Sự nghiệp sáng tác của ông chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1; Thời niên thiếu và những năm 40: các sáng tác còn mang chất lãng
mạn. Các TP nổi bật:
Obecko, Nabecko, Ecnani....
Giai đoạn 2: Đỉnh cao thứ nhất của chủ nghĩa hiện thực. Các TP mang tính hiện
thực sâu sắc. Các TP nổi bật: Rigoletto, T’rubadua, T’raviatta...
Giai đoạn 3: Đỉnh cao thứ 2 chủ nghĩa hiện thực những năm 50 - 60 và những
năm cuối đời. Các TP nổi bật: Buổi chiều Xixtin, Vũ hội giả trang, Động các- lốt, Sức
mạnh số phận.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
62
Bài 14: Nhà soạn nhạc George Bizet
(G. bi-dê: 1838 - 1875)
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc George Bizet.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
Nghệ thuật nhạc kịch pháp đạt tới một trong những đỉnh cao nhất trong sự phát
triển của mình ở thế kỷ xix với vở carmen của bizet.
Bizet là một trong những nhà soạn nhạc thiên tài của pháp. những tác phẩm của
ông đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp và những quan điểm tiến bộ của nền văn hoá
pháp, đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực trong nền âm nhạc pháp thế kỷ xix.
Mặc dầu số lượng nhạc kịch là không nhiều nhưng sáng tác của bizet đã thể hiện
những nội dung sâu sắc, nghiêm túc; đạt tới khuôn khổ rộng lớn với ý nghĩa lịch sử nhất
định trong con đường phát triển của nghệ thuật nhạc kịch pháp. tác phẩm của bizet đã
biểu hiện mối liên quan chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. đề tài trong tác phẩm hình
thành trong cuộc sống thường nhật, gần gũi với quần chúng và được thể hiện bằng ngôn
ngữ âm nhạc mới mẻ, táo bạo, chân thực để thể hiện ý chí vươn lên của con người.
Sáng tác của bizet gắn liền với sân khấu, và đó cũng là truyền thống dân tộc của
nền âm nhạc pháp. tuy ông còn viết những tác phẩm khí nhạc nhưng không để lại những
ấn tượng mạnh mẽ như nhạc kịch.
1. cuộc đời và sự nghiệp
Bizet sinh ngày 25 tháng 10 năm 1838 ở paris trong một gia đình âm nhạc. bố là
thày dạy về âm nhạc, còn mẹ là người chơi đàn piano có tài. truyền thống âm nhạc của
gia đình đã ảnh hưởng tới sự nghiệp của bizet sau này. những bài học piano đầu tiên của
bizet là với mẹ của mình; đến 10 tuổi bizet đã thi vào nhạc viện paris và học suốt trong 9
năm cả về piano và sáng tác. thày dạy của bizet ở nhạc viện là những giáo sư có tên tuổi
zimmermann, marmontel, benoist và halévy nhưng người có ảnh hưởng mạnh mẽ tới con
đường sáng tác của bizet là gounod. những năm tháng học ở nhạc viện bizet đã sáng tác
nhiều tác phẩm như giao hưởng c dur, cantate, tiểu phẩm piano, romance, tác phẩm hợp
xướng và nhạc kịch hài hước: ngôi nhà của bác sĩ... tuy nhiên, lúc này khả năng của bizet
về piano trội bật hơn. những năm tháng này bizet quen biết một nghệ sĩ violon tây ban
nha nổi tiếng là pablo sarasate, người đã cho ông nghe nhiều làn điệu dân ca độc đáo của
tây ban nha, của những người digan và để lại những ấn tượng mạnh đối với bizet.
Tác phẩm tốt nghiệp nhạc viện của bizet, bản cantate clovic và clotida viết năm
1857 đã nhân được giải thưởng rome. cùng lúc với tác phẩm này là operette bác sĩ mirak,
mà bizet đã chia giải thưởng với lecocq trong concour offenbach.
Bizet là nhạc sĩ đa tài. ông có khả năng đọc tổng phổ dàn nhạc nhẹ nhàng trên đàn
piano với trí nhớ âm nhạc tuyệt vời. bizet không chỉ có tài năng xuất chúng về âm nhạc
mà còn quan tâm và hiểu biết sâu về nhiều lĩnh vực như triết học, văn học, nghệ thuật tạo
hình và sân khấu.
63
Với giải thưởng rome, bizet được tới ý để học tập và nghiên cứu âm nhạc. tại đây,
bizet bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của các tượng đài cổ đại, đi thăm các bảo tàng; nghiên cứu và
đi nghe hoà nhạc.
Ở ý, bizet đã gần gũi với e. guiraud nghệ sĩ piano, nhà soạn nhạc người pháp và
sau này là giáo sư nổi tiếng của nhạc viện paris. quan điểm nghệ thuật chung của họ đã
làm cho họ liên kết với nhau trong toàn bộ cuộc đời. thời gian này, bizet làm việc rất
căng thẳng; nghiên cứu văn học và lịch sử nghệ thuật, nhiều suy tư cho tác phẩm xuất
hiện trong thời gian này như hài nhạc kịch don prokopio và giao hưởng vasco de gama.
Năm 1860, bizet trở về tổ quốc nhưng lúc này là những năm bắt đầu của cuộc đấu
tranh. số phận của ông cực nhọc, nhưng lao động không ngưng nghỉ. bizet đã phải dạy
đàn piano, đệm đàn và sáng tác nhạc giải trí để có ăn và để sáng tạo tiếp tục.
Năm 1863, vở nhạc kịch những người mò ngọc trai được công diễn. để khắc phục
tính quy tắc và hiệu quả trang trí của nhạc kịch lớn, bizet đã thể hiện những tình cảm
mạnh mẽ và tình yêu trong âm nhạc có giai điệu rõ ràng. song, chất lượng của vở nhạc
kịch này còn yếu nên nhanh chóng không còn xuất hiện trên sân khấu.
Năm 1867, bizet hoàn thành nhạc kịch cô gái đẹp thành perth. trong đề tài thời
trung cổ, bizet được cổ vũ bởi hình tượng của quần chúng nhân dân. các cảnh nhân dân
và những yếu tố kịch đã tạo nên những đặc điểm tâm lý được phát triển trong nhạc kịch.
bản giao hưởng suy nghĩ ở rome được hoàn thành là fantaisie giao hưởng hồi tưởng về
rome (1868), bizet còn viết những tác phẩm cho piano, cải biên nhạc hát cho piano dưới
tiêu đề nghệ sĩ piano - ca sĩ. trong đó, đặt ra vấn đề quan trong để đạt tới tính ca xướng
của nhạc đàn.
Sáng tác trong những năm 70 của bizet đã thể hiện sự già dặn và điêu luyện trong
nghệ thuật của mình.
Năm 1873, ông đã viết ouverture “tổ quốc” bằng tất cả tình cảm yêu nước nồng
cháy của mình; tiếp đến là vở nhạc kịch dở dang don rogrigo hoàn thành cùng năm 1873,
mà nhân vật chính là người giải phóng nhân dân. trong thẩm mĩ của bizet hình thành
phản đề điển hình: hạnh phúc và chủ nghĩa lạc quan - nỗi đau khổ sâu sắc và tính bi
thảm. mục đích nghệ thuật của ông là phải nêu lên được tính hiện thực sâu sắc trong cuộc
sống. trong cao trào văn hoá dân tộc, khi nhiệm vụ của văn hoá pháp trong một số lĩnh
vực đã hiện thực hoá rõ ràng, thì bizet đã đưa nhạc kịch pháp đến với quan điểm của văn
học. sáng tác cuối của bizet, nhạc kịch carmen đã gần với chủ nghĩa hiện thực. năm 1871
còn xuất hiện nhạc kịch một màn djamiled, trong đó đã thể hiện chính xác số phận của
con người và những cảm xúc trữ tình.
Năm 1872, bizet viết nhạc cho vở kịch nói của a. dode “l’ arlésienne” trong đó
miêu tả cuộc đời người nông dân phía nam nước pháp, trong tình yêu bi thảm, trong thế
giới nội tâm phức tạp, phong phú của nhân vật chính và sự xung đột của tình cảm rộng
lớn. đó là chủ đề lớn về cuộc sống của quần chúng, mà ông lý giải một cách lạc quan.
mặc cho nỗi đau khổ của con người và số phận bi thảm của con người; cuộc sống vẫn còn
đầy sức mạnh với niềm vui và sự sáng sủa. bizet đã thể hiện nội dung của vở kịch trội bật
trong âm nhạc. ông tạo ra cảnh rộng lớn của cuộc sống và âm nhạc thấm đượm những bài
64
ca, điệu nhẩy dân gian. âm nhạc cho vở kịch nói này như thể hiện những thành tựu có
tính hiện thực của tác giả. sau này, bizet đã soạn lại và sắp xếp âm nhạc của l’ arlesienne
thành hai tổ khúc, trong đó tổ khúc thứ hai do guiraud hoàn thành tiếp sau khi bizet qua
đời. sau này l’arlesienne được công chúng có khuynh hướng dân chủ đánh giá cao. thời
gian này bizet đã viết 12 tiểu phẩm cho piano 4 tay trên chủ đề của thế giới trẻ thơ, một
số trong đó được soạn cho dàn nhạc trong tổ khúc giao hưởng nhỏ “trò chơi trẻ em”. từ
thành công trong âm nhạc l’ arlesienne, bizet bắt đầu sáng tạo carmen với quan điểm rõ
ràng về những vấn đề thẩm mĩ - nhạc kịch.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Nội dung: Có tính hiện thực cao, phản ánh chân thực số phận con người, nói lên ý
trí vươn lên khát vọng tự do. TP Carmen có tính bi kịch nhưng có tính lạc quan.
Ông có nhiều đổi mới trong nhạc kịch:
Dùng thủ pháp cấu trấu theo số mục.
Sử dụng Âm nhạc để dẫn dắt câu truyện và kết nối các tiết mục: các khúc mở màn
TP, các màn, nối các tiết mục các khúc aria, hát nói để liên kết các mục...
Dùng nhạc để báo trước tình huống kịch, sử dụng phong phú nhuần nhuyễn thể
hành khúc và các khúc Valse.
Hợp xướng trẻ em và cảnh đông người giữu vai trò quan trọng trong thủ pháp sáng
tác.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Sáng tác cho Piano và dàn nhạc; 12 tiểu phẩm 4 tay cho trẻ em.
Giao hưởng Cantat: Vaxco Der Gama.
Sáng tác cho kịch.
Nhạc kịch carmen, bizet bắt đầu viết từ năm 1873 và hoàn thành năm 1874. đề tài
của carmen dựa trên truyện ngắn cùng tên của nhà văn pháp prosper mérimée. hai nhân
vật chính khi chuyển sang kịch bản nhạc kịch đã bổ sung những đường nét mới. trong tác
phẩm của mérimée hoze là một tên cướp khét tiếng, thô lỗ, cục cằn; còn carmen là cô gái
tinh ranh, láu cá hay ăn cắp. khi chuyển sang nhạc kịch hoze là người lương thiện, tử tế
biết trọng danh dự nhưng nhu nhược nên bị mua chuộc và dẫn tới tấn bi kịch; còn nhân
vật carmen là cô gái sôi nổi, có tình yêu phóng khoáng nên số phận của cô là bi kịch.
nhân vật carmen là nhân vật của mẫu hình mới chưa gặp trong nhạc kịch. cô ta có tình
yêu tự do, có ý chí và độc lập trong tình cảm, sinh động và luôn thay đổi tâm trạng nhưng
mạnh mẽ trong cách sống tự hào và dũng cảm. bizet đã tạo cho hình ảnh của carmen
không chỉ là cuộc sống cá nhân mà còn nhấn mạnh những đường nét có tính nhân dân
của cô. trong kịch bản bổ xung sự khắc hoạ rõ nét, tính chất thơ mộng hình ảnh anh
chàng đấu bò escamilo và cô thôn nữ micael, nhân vật tương phản với hình tượng của
nhân vật chính và được khắc hoạ với tính chất đơn giản và tính trữ tình. tính độc đáo cho
sân khấu nhạc kịch không chỉ là hình ảnh của carmen, mà còn có mặt của những tập thể -
công nhân, những người lính, những người bán hàng. những tầng lớp thấp này chưa bao
giờ được tiếp nhận là các nhân vật trong nhạc kịch của luân lý tư sản thành thị.
65
Song, đường nét kịch nền tảng của nhạc kịch là sự bi thảm của hai nhân vật
carmen và hoze. tài năng của bizet đã biết phát triển kịch dựa trên những cảnh rộng hơn
trong cuộc sống để nêu ra tính bi thảm trong sự sục sôi bão tố và sự đa dạng của thực tại
hiện thực. bizet sáng tạo độc đáo theo sự chính xác của mình các cảnh nhân dân và các
cảnh trực tiếp của cuộc sống như cảnh đổi gác của đội vệ binh và hành khúc tuỳ tùng của
trẻ em; bức tranh sinh động của người bán hàng; tốp người thách thức, khiêu khích của
công nhân sau sự đánh lạc hướng; không khí quán rượu nơi tập trung những người dân
giã, trạm của người buôn lậu và sự vui vẻ, ồn ào... khắp nơi cảm thấy nhịp sống chân
thực vang lên khắc nơi. bizet đã đề cập mạnh tới cuộc sống và thấm đượm những mặt bi
thảm của đời sống con người nhưng khác ở chỗ ông không giới hạn nội dung của nhạc
kịch trong nỗi bi thảm tối tăm. vì vậy, vở nhạc kịch không dẫn tới sự bế tắc mà ngược lại
trong đó vẫn vang lên tư tưởng nhân văn lớn lao của cuộc sống không đạt tới chiến thắng.
với sự suy nghĩ như vậy, nhạc kịch đã bổ sung những âm thanh lạc quan.
Hình thức của carmen, được viết theo truyền thống của thể loại comique - tiết mục
âm nhạc luôn phiên với đối thoại; sau khi tác giả qua đời; guiraud đã thay bằng hát nói.
vở nhạc kịch cấu trúc theo tiết mục, nhưng tính bi thảm được phát triển sinh động dẫn tới
những cảnh kịch tính căng thẳng; trong đó, ranh giới giữa các tiết mục bị lu mờ, và kết
quả dẫn tới hình thức được xây dựng khái quát, tổng thể với sự phát triển kịch tính - giao
hưởng phức tạp.
Vở nhạc kịch mang màu sắc dân tộc tây ban nha với âm điệu và tiết tấu của âm
nhạc dân gian tây ban nha làm chất liệu cho sự hình thành các chủ đề âm nhạc; bởi câu
chuyện xẩy ra ở thành phố sevil. đó là các tiết mục habanéra trong màn i và introduction
của màn bốn.
Hành khúc và điệu nhẩy của người digan cũng được thực hiện rộng rãi trong nhạc
kịch. tính chất tiết tấu hành khúc được viết trong hợp xướng của những người lính, phần
của trung sĩ và hợp xướng trẻ em ở màn i; mở đầu của màn ii và trong couplet của người
đấu bò ở màn này.
Trong việc sử dụng nhiều lần hành khúc vẫn không tạo nên sự đơn điệu mà ngược
lại bizet đã thay đổi bằng âm sắc các nhạc cụ một cách chính xác để biểu hiện phù hợp
với sự phát triển trong từng màn.
Những bài ca và những điệu nhẩy của những người digan ở màn ii và màn iii đã
đem tới màu sắc độc đáo. bizet đã tạo nên đặc tính về âm nhạc của các hình tượng để
phản ánh màu sắc tâm lý khác nhau trong tình cảm của họ trong quá trình phát triển. nhân
vật carmen nổi bật với tính sinh động nhất. giai điệu có tính chất nhẩy múa nhấn mạnh
tính chất dân tộc của cô ta và làm cho hình ảnh của carmen rất hiện thực và sinh động.
nhưng trong quá trình phát triển của kịch, còn xuất hiện những giai điệu biểu hiện tính ca
xướng, thể hiện thế giới nội tâm của nữ nhân vật này như duo với escamilo ở màn iii; và
duo với hoze, trong cao trào của nhạc kịch ở màn iv. và hình tượng của carmen dần dần
trở thành kịch tính.
66
Ở tác phẩm này bizet đã sử dụng âm hình chủ đạo cho tính cách nhân vật. âm hình
chủ đạo, biểu hiện tình yêu định mệnh vang lên trong ouverture. âm điệu quãng hai thứ
tạo cho chủ đề một màu sắc dân tộc (người digan) độc đáo:
Âm hình chủ đạo này vang lên rất độc đáo trong lần xuất hiện đầu tiên của
carmen; và còn một số lần cuối và kết của nhạc kịch.
Khúc ouverture có sự sinh động đặc biệt, được xây dựng trên hai chủ đề chính với
tính chất hành khúc.
Chủ đề một như biểu không khí ngày hội trong đất nước tây ban nha, thành phố
sevil.
Chủ đề hai là giai điệu couplet của người đấu bò; giữ vai trò của âm hình chủ đạo:
Âm hình chủ đạo bi thảm của số phận ở cuối ouverture là tương phản với tính chất
sinh động, nghị lực của hai chủ đề trên (xem ví dụ 212).
Ở vở nhạc kịch này, dàn nhạc giữ vai trò rất lớn. các đoạn giao hưởng, các đoạn
tấu lúc đóng màn trước mỗi màn đã bổ sung cho nội dung chung. tài năng phối khí của
bizet trong nhạc kịch này đã thể hiện sự xuất sắc điêu luyện trong việc sử dụng tổng hợp
pha trộn màu sắc nhạc cụ. tính phong phú về giai điệu của carmen rất độc đáo không chỉ
trong phần thanh nhạc, mà cả trong phần dàn nhạc. nhân tố quan trọng cho sự tạo màu
của nhạc kịch là hoà âm.
Sự thống nhất giữa giai điệu, hoà âm, phối khí gây nên những ấn tượng lạc quan
của nhạc kịch, và đưa ra quan niệm cuộc sống không chỉ có những khía cạnh bi thảm mà
còn có vẻ đẹp và sự rực rỡ của nó.
Tuy nhiên, buổi trình diễn đầu tiên năm 1875, carmen không được khán giả đón
nhận. nhưng về sau đã được đánh giá đúng từ những người cùng thời vĩ đại của bizet,
giữa những người ca ngợi phải kể đến tschaikowsky. và được công chúng không chỉ
trong nước pháp, mà nhiều nước đã ca ngợi tác phẩm này cho tới ngày nay.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
68
Bài 15: Nhà soạn nhạc Bedrich Smetana
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Bedrich Smetana.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
B.smétana là nhà soạn nhạc, chỉ huy, nghệ sĩ piano, nhà hoạt động xã hội về âm
nhạc với tinh thần yêu nước nhiệt tình. ông đã cống hiến tất cả sức lực của mình cho tổ
quốc và nhân dân. âm nhạc của ông thấm đượm từ chủ nghĩa yêu nước tha thiết và biểu
hiện chủ nghĩa lạc quan, niềm tin vững chắc vào tương lai. smétana đã khái quát và phát
triển truyền thống đạt tới tính chuyên nghiệp của âm nhạc tiệp khắc ở trình độ của nền
âm nhạc kinh điển tây âu. ông đã khẳng định đặc điểm dân chủ, dân tộc, đa dạng của âm
nhạc tiệp khắc trong âm nhạc giao hưởng, nhạc kịch, thính phòng, piano và hợp xướng.
ông đã sáng tạo nghệ thuật biểu hiện những khuynh hướng có ý nghĩa nhất của nhân dân
tiệp khắc - yêu tự do, dân chủ.
1. cuộc đời và sự nghiệp
B.smétana sinh ngày 02 tháng 03 năm 1824 ở litomysl trong tầng lớp tiến bộ, được
giáo dục trong tinh thần yêu tự do, dân chủ. smétana nghiên cứu lịch sử dân tộc và đời
sống của nhân dân. gia đình smétana quan tâm tới các sự kiện cách mạng không chỉ của
tổ quốc mà cả các đất nước láng giềng. các sự kiện ấy giữ vai trò quan trọng cho sự hình
thành ý thức người công dân ở nhạc sĩ.
Ngay từ những năm ấu thơ, những bài ca, điệu nhảy dân gian ở nông thôn đã gây
cho ông những ấn tượng mạnh mẽ và được giữ lại trong suốt cuộc đời sáng tạo của mình.
gia đình smétana thường tổ chức các buổi hòa nhạc. năm 4 tuổi, học violon, sau một năm
đã tham gia biểu diễn bản tứ tấu của haydn; 6 tuổi đã biểu diễn piano trước công chúng
và đã có những tác phẩm đầu tay đơn giản. khả năng âm nhạc của smétana nổi bật như
một nghệ sĩ piano. những sáng tác đầu tay là những điệu nhảy polka, những khúc galop
và những điệu nhảy phong tục khác. smétana rất quan tâm đến nền văn hóa âm nhạc quê
hương và tự nghiên cứu với các hoạt động của các nhà thức tỉnh và với những nhạc kịch
đầu tiên của tiệp. đồng thời ông còn nghiên cứu học tập những tác phẩm của nền cổ điển
thế giới.
Trong những năm thứ 40, smétana đã giành tất cả thời gian cho âm nhạc. ông đã
đến praha và học với một trong những nhạc sĩ nổi tiếng của tiệp là j.prokch. đến 24 tuổi,
smétana đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn piano và sự hiểu biết về sáng tác. từ
đó, smétana đã đi biểu diễn tại nhiều nơi của tiệp, được công nhận như một nghệ sĩ piano
tài năng.
Từ năm 1848, các sự kiện cách mạng tới gần, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở praha. với
tình cảm cách mạng, yêu nước, smétana đã sáng tác nhiều tác phẩm như hợp xướng khúc
ca tự do. đồng thời smétana còn tham gia vào các hoạt động xã hội. với sự giúp đỡ của
liszt, ông đã mở trường âm nhạc của tiệp và sau đó còn tổ chức và chỉ huy các buổi hòa
69
nhạc ở praha, tiếp theo là hội khuyến nhạc. smétana là người đặt nền móng cho sự nghiệp
hòa nhạc ở tiệp, tổ chức và lãnh đạo các hợp xướng phổ biến rộng rãi.
Sáng tác trong thời kỳ này là liên khúc polka, giữa chúng là hành khúc sinh viên,
hành khúc cận vệ quốc tế, khúc ouverture hân hoan, giao hưởng huy hoàng edur…
những năm tháng ở thụy điển, sau những vụ khủng bố, bắt bớ các lực lượng dân chủ, ông
đã viết ba bản thơ giao hưởng đầu, trong đó đã thể hiện những ảnh hưởng của liszt, bởi
giữa hai người có quan hệ tình thân gần gũi- richard iii, mặt trận wallenstein và hakon
jarl. smétana luôn nghĩ về tổ quốc của mình, được thể hiện trong liên khúc piano hồi
tưởng về nước tiệp; và sau sự ra đi vĩnh viễn của người vợ và con gái, với nỗi đau đớn vô
bờ ấy được biểu hiện trong bản trio bi thảm gmoll.
Trở về tổ quốc vào những năm 60, smétana trở thành người lãnh đạo trụ cột của
phong trào âm nhạc của nhân dân tiệp và dần được công nhận là nhà soạn nhạc dân tộc.
năm 1862, khai trương nhà hát, smétana đã chỉ huy ở nhà hát này trong một thời gian dài
và đã viết những vở nhạc kịch đầu tiên của mình. năm 1863, hoàn thành vở nhạc kịch
những người brandebourg ở tiệp trong đó ca ngợi tinh thần yêu nước, phản ánh cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc ở thế kỷ xiii. tiếp theo là vở hài nhạc kịch bán vợ chưa
cưới, vở dalibor (1887), libuse (1870-1872). sau đó smétana đã viết một vài vở comique
như hai quả phụ, cái hôn, bí mật. trong những năm 80, bản nhạc kịch cuối cùng là bức
tường quỷ (1882).
Những tác phẩm lớn tiếp theo smétana viết trong tình trạng sức khỏe nặng nề vì
ông bị điếc rất nặng, hiện tượng này bắt đầu xuất hiện từ năm 1874. tứ tấu trong cuộc đời
tôi viết năm 1876 đã thể hiện nỗi đau khổ của con người; tuy nhiên chương iv- chương
kết rất sáng sủa, trong đó vang lên điệu nhảy dân gian folka.
Liên khúc giao hưởng thơ tổ quốc tôi bắt đầu từ năm 1874 đã thể hiện tình yêu của
nhạc sĩ - nhà yêu nước đối với đất nước mình. đến năm 1879, ông hoàn thành bộ thơ giao
hưởng này, gồm sáu bản với tiêu đề riêng của từng bản, là tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông, là một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất của thể loại giao hưởng có tiêu đề của
thế giới.
Cũng trong thời gian này, smétana viết vũ khúc tiệp cho đàn piano gồm 14 bản,
được đánh giá rất cao và mang đậm chất âm nhạc dân tộc tiệp. tiếp theo là bản tứ tấu số 2
và tổ khúc giao hưởng carnaval tiệp.
Smétana còn là tác giả của những tác phẩm cho thanh nhạc: hợp xướng, ballade
thanh nhạc, liên ca khúc…
Smétana là một trong những nhà soạn nhạc lớn của thế kỷ xix, luôn giữ được tính
lạc quan và sự sống động, niềm tin và sức lực của con người. ông là người đặt nền móng
cho nền âm nhạc của tiệp theo con đường hiện thực, dân tộc.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Đề tài: anh hùng, dân tộc.
Nội dung: Tình yêu tổ quốc, thể hiện tính hiện thực, tính nhân dân.
Chất liệu ÂN: Khai thác chất liệu âm nhạc dân gian, ngôn ngữ Tiệp.
70
Ông là nhạc sỹ cổ điển đầu tiên của Tiệp.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Tác phẩm của smétana gồm đủ các thể loại nhưng hai lĩnh vực nhạc kịch và giao
hưởng có tiêu đề đạt tới những đỉnh cao không chỉ với nền âm nhạc tiệp mà còn được thế
giới công nhận.
Smétana đã tiếp nối, kế thừa truyền thống âm nhạc của tiệp và những thành tựu
nhạc kịch của các nhà soạn nhạc trước ông. nhạc kịch của smétana đã thể hiện rõ tính dân
tộc, dân chủ, hiện thực; phản ánh những sự kiện, những vấn đề đòi hỏi của thời đại. nhân
vật trong các nhạc kịch của smétana là những con người bình dị, những anh hùng lịch sử
gần với đông đảo quần chúng. nhạc kịch của ông theo hai dòng - anh hùng lịch sử và hài
hước. thể loại hài hước trong những vở nhạc kịch của smétana đạt tới trình độ "séria", bởi
lẽ không chỉ để mua vui mà với ý nghĩa xã hội sâu sắc, lên án những thói ích kỷ, tham
lam; những thói hư tật xấu của bọn quý tộc… vì vậy trong cơ cấu của nhạc kịch, thường
sử dụng những tiết mục tập thể và nhân vật chính là gắn bó với cảnh quần chúng. hát nói
có liên quan đến đặc điểm ngôn ngữ xa xưa của dân tộc.
Nhạc kịch bán vợ chưa cưới hoàn thành năm 1866, loại hài nhạc kịch; dựa theo
kịch bản của nhà văn tiệp karensabina. smétana đã mở ra giai đoạn cổ điển, trong sự phát
triển của nhạc kịch tiệp. bán vợ chưa cưới được phổ biến rộng rãi và chiếm được vị trí
lớn trong nền nhạc kịch thế giới. ông viết tác phẩm trong thể loại hài hước sinh ra từ
truyền thống phong tục và tạo thành nhạc kịch dân tộc. nhạc sĩ đã khắc họa tính dân gian
điển hình với sự giản dị, tươi mát, thấm đượm âm điệu, biến tấu, ngôn ngữ âm nhạc dân
gian. tính hiện thực được xuất hiện trong các cảnh quần chúng, là những bức tranh sinh
động của làng quê tiệp. trong tất cả các màn, smétana tạo nên những điệu múa điển hình
của tiệp như điệu polka ở màn i, furiant ở màn ii và skotchna ở màn iii.
Vở nhạc kịch mở đầu bằng khúc ouverture do dàn nhạc tấu như miêu tả những
trạng thái tình cảm của các nhân vật trong cuộc sống thường nhật ở nông thôn tiệp.
Chủ đề chính của ouverture được hình thành theo phong cách phức điệu:
Hình ảnh nhân dân được đưa vào hợp xướng của màn i và trong hợp xướng kết
của màn III.
Trong các giai điệu phong phú của vở kịch là sự biểu hiện tính trữ tình nội tâm
cũng như tính hài hước, nhẹ nhàng, dân gian. giai điệu ấy không chỉ ở phần của thanh
nhạc mà cả ở phần của dàn nhạc. dàn nhạc cũng có những giai điệu trữ tình và hài hước.
Theo kịch bản bán vợ chưa cưới, thoạt đầu là vở nhạc kịch chỉ có một màn, năm
1966 mở rộng thành hai màn, năm 1869, ông lại bổ sung và mở rộng thành ba màn. năm
1870, smétana đã thay những chỗ nói thường sang loại hát nói. tác phẩm nổi tiếng thế
giới; bởi đã thể hiện được nội dung với niềm lạc quan và có tính hiện thực; đồng thời còn
thể hiện được sự đấu tranh cho nền nhạc kịch dân tộc của tiệp.
Trong toàn bộ tác phẩm viết cho giao hưởng, liên khúc giao hưởng thơ tổ quốc tôi
chiếm một vị trí trung tâm của smétana.
71
Liên khúc giao hưởng thơ tổ quốc tôi (được sáng tác từ 1874 - 1879) là một liên
khúc gồm 6 giao hưởng thơ, mỗi bản có một nội dung tiêu đề riêng, nhưng chúng đều có
sự liên quan theo ý đồ chung của toàn bộ liên khúc.
Thơ giao hưởng i - thượng thành là khúc mở đầu sử thi vĩ đại - bức tranh quá khứ
huyền thoại, hình tượng tự hào của thành phố ngai vàng và những dải đất mênh mông của
đất nước tiệp được tái hiện lại. ca sĩ huyền thoại loumir với âm thanh nhạc cụ dây cổ-
varito đã kể về quá khứ hùng vĩ đó. ngay từ những nhịp đầu, chủ đề thượng thành vang
lên ở hai đàn harpe (gần với nhạc cụ cổ). chủ đề này có đặc điểm của ca sĩ hiệp sĩ, với
tâm trạng sáng sủa, hào hứng và tính chất tự hào.
Chủ đề hai như miêu tả những dải đất mênh mông của đất nước tiệp, do kèn cor và
bộ gỗ trình bày, có tính chất trữ tình lãng mạn xa xôi.
Thượng thành được cấu trúc gồm ba phần, phần đầu và phần cuối hình thành trên
hai chủ đề đã nêu ở trên. còn phần giữa là miêu tả các cảch chiến đấu xa xưa của các hiệp
sĩ tạo thành phần tương phản. các chủ đề luôn thay đổi và phát triển, chủ đề 1 có tính
chiến trận, kêu gọi; còn chủ đề hai có tính ca xướng.
Trong khuôn khổ có tính chất ba phần, smétana đã đưa vào nguyên tắc của hình
thức sonate (phần trình bày, phần phát triển và phần tái hiện của sonate allegro). ông đã
tạo ra những hình thức tổng hợp phức tạp. thượng thành là tiêu biểu cho sự bất tử và
vinh quang của tổ quốc.
Thơ giao hưởng ii. vltava là bức tranh về thiên nhiên, về cuộc sống và những hình
tượng ảo tưởng của huyền thoại dân gian. chủ đề nền tảng của vltava giữ vai trò của hạt
nhân âm điệu, từ đó xuất hiện những mô típ còn lại. chủ đề này được nhắc lại, xuất hiện
trong dạng thay đổi và giữ vai trò nổi bật giữa các cảnh - các đoạn chen khác nhau. với
phương pháp ấy, tạo cho thơ giao hưởng này có cấu trúc tổng hợp giữa hình thức rondo
và hình thức sonate.
Trong các đoạn chen - các cảnh riêng biệt là sự liên tiếp con đường chảy của dòng
vltava, từ đầu nguồn qua các thảo nguyên và những cánh đồng, qua những vách đá hoang
dại với những thành quách cổ kính. smétana đã thể hiện hào hứng con sông yêu thích
trong âm nhạc đẻ nói lên lịch sử của dân tộc tiệp. chủ đề vltava là giai điệu rất đẹp, thể
hiện sự ấm áp nội tâm, điển hình của dân tộc slaves. để thể hiện được cảnh sắc thiên
nhiên, ông đã dùng phương tiện biểu hiện có tính hội họa. bắt đầu của tác phẩm khắc họa
hai nguồn của vltava. với thủ pháp đơn giản - mô típ ngắn của flute và bộ dây pizzicato
thể hiện âm thanh từ dòng chảy của hai con sông.
Giữa mô típ này và chủ đề vltava (ví dụ 236) có sự gần gũi về âm điệu (những âm
cơ bản của chủ đề - mi, fa, sol, la, si chứa đựng trong mô típ ngắn).
Thơ giao hưởng III - sarka được viết trên chủ đề trong huyền thoại dân gian tiệp
về cuộc chiến tranh đàn bà. không hài lòng về tình hình phụ thuộc mới, sau việc thành
lập của nhà vua tiệp libucha giao chính quyền cho đàn ông; cuộc chiến tranh đàn bà với
người đứng đầu là sarka tuyên bố cuộc chiến với đàn ông, mà người đứng đầu là hoàng
tử stirad. bị quyến rũ bởi hình ảnh sarka, stirad đã hy sinh trong nỗi đau khổ.
72
Sarka là bản thơ giao hưởng kịch tính nhất trong toàn bộ liên khúc. đặc điểm sử
thi của hai chủ đề đầu tiên ở đây được thay đổi với nội dung xung đột bi thương. toàn tác
phẩm được phát triển với tốc độ nhanh, căng thẳng. chủ đề với đặc điểm bi hùng và giai
điệu ngâm vịnh của âm hình đảo phách và các dấu lặng điển hình cho hình ảnh của sarka.
bản thơ giao hưởng gồm năm phần, phần trung tâm được mở rộng của cảnh trữ tình giữa
sarka và stirad. những đoạn ngoài cùng có đặc điểm hành khúc.
Thơ giao hưởng IV. từ những ngọn núi và cánh đồng của tiệp là bức tranh về
thiên nhiên và phong tục dân gian tiệp. tác phẩm có cấu trúc tự do, gần với rhapsodie
hoặc fartaisie. hình ảnh về dải đất của tiệp được thể hiện trong hai chủ đề - chủ đề một là
vẻ đẹp của thiên nhiên và đời sống đa dạng của nó. chủ đề hai có tính chất như một bài ca
êm ả, đượm nỗi buồn. sự xuất hiện của đoạn chen là cảnh có đặc điểm của điệu polka, âm
điệu gần với chủ đề một.
Ở bản thơ giao hưởng này, smétana đã sử dụng thủ pháp phức điệu trong cách phát
triển.
Thơ giao hưởng V - tabor là ca ngợi cuộc chiến tranh giải phóng của tiệp ở thế kỷ
xv - xvi và hình ảnh của những người đã bảo vệ giữ gìn quê hương tiệp, được thể hiện
trong chính ca của quân tabor: các người là ai, hỡi các chiến binh thần thánh trở thành
âm hình chủ đạo cho toàn thơ giao hưởng này. cấu trúc của tác phẩm là tổng hợp hình
thức ba phần với những yếu tố của sonate - allegro và monothème. phần thứ nhất là trần
thuật chủ đề cơ bản của chính ca. phần thứ hai có tính chất của phần phát triển, và phần
thứ ba xuất hiện lại chủ đề nhưng có màu sắc bi thương, sau cảnh chiến đấu hi sinh. bản
thơ giao hưởng này có ý nghĩa quan trọng để dẫn tới bản cuối cùng.
Thơ giao hưởng VI - blanik- một trong những huyền thoại dân gian yêu thích của
nhân dân tiệp. theo họ, những anh hùng hútxít không bao giờ chết mà họ chỉ đang ngủ
dưới lòng núi blanik để chuẩn bị đấu tranh về tổ quốc. bản thơ giao hưởng này được xây
dựng bằng các đoạn và thống nhất trong sự phát triển giao hưởng liên tục của chính ca.
các người là ai, hỡi các chiến binh thần thánh. bài chính ca được phát triển biến tấu và
cuối cùng là bài ca hútxít được cải biên trong hành khúc chiến thắng vang lên hùng mạnh
của toàn dàn nhạc. chủ đề chính ca tiếp nhận khuôn khổ lớn với đặc điểm anh hùng.
Trong coda được tổng hợp hình tượng đồ sộ bài ca chiến binh, hútxít với môtíp
thượng thành, tượng trưng cho sự thống nhất giữa vinh quang của quá khứ và tương lai.
Liên khúc giao hưởng tổ quốc tôi của smétana đã khẳng định con đường của nền
giao hưởng tiệp khắc. những truyền thống ấy được nhiều nhạc sĩ tiệp khắc sau ông kế
thừa và phát triển.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
74
Bài 16: Nhà soạn nhạc Antonin Dvorak (1841- 1904)
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Antonio Dvorak.
Kỹ năng: Nắm được ngôn ngữ âm nhạc và phong cách sáng tác của soạn nhạc
Antonio Dvorak.
A.dvorak cùng với smétana là những người đặt nền móng cho nền âm nhạc kinh
điển của tiệp khắc. đối với lịch sử âm nhạc tiệp khắc, ông được đánh giá là người tiếp
nhận trực tiếp những truyền thống của smétana. sáng tác của ông gồm đủ các thể loại
khác nhau nhưng trội bật nhất và có ý nghĩa nhất đó là đã dựng nên nền giao hưởng của
tiệp tới trình độ kinh điển của tây âu. dvorak đã giành tất cả sức lực của mình cho sự phát
triển của nền âm nhạc tiệp đậm bản sắc dân tộc. ông còn là thầy dạy của nhiều thế hệ
nhạc công, nhà soạn nhạc trẻ tuổi của tiệp và đã bảo vệ những nguyên tắc dân chủ, nhân
dân trong nghệ thuật.
Sáng tác của dvorak thể hiện tình cảm yêu nước mãnh liệt và gắn với phong trào
giải phóng của nhân dân mình trong thế kỷ xix. tác phẩm của ông dù là viết cho nhạc
kịch, giao hưởng, nhạc thính phòng hay cho thanh nhạc đều giàu chất giai điệu, tràn đầy
sự tươi mát trên cơ sở của nền dân ca, dân vũ phong phú của tiệp. âm nhạc của ông đã
khắc họa bức tranh thiên nhiên tuyệt vời của đất nước, những hình ảnh về quá khứ anh
hùng, sự phong phú về tâm hồn của con người biểu hiện chủ nghĩa lạc quan, có tính nhân
văn.
1. cuộc đời và sự nghiệp
A.dvorak sinh ngày 08 tháng 09 năm 1841 tại làng negalozeves bên bờ sông vltava
gần thủ đô praha. ông lớn lên ở nông thôn và đã tìm thấy sự phong phú kỳ lạ của những
bài ca, điệu nhảy dân gian. từ nhỏ, dvorak đã có năng khiếu âm nhạc, lúc đầu học violon
rồi đến viola và organ. ông đã hiểu thấu đáo truyền thống dân tộc và nền văn hóa âm
nhạc tiệp. những thể nghiệm sáng tác đầu tay là những khúc nhạc đàn nhỏ dựa trên những
bài ca và điệu nhảy dân gian.
Năm 1857, học ở trường dạy chơi đàn organ ở praha, nơi ông đã đạt những thành
tích xuất sắc trong cả lĩnh vực lý thuyết và cả nghệ thuật đàn organ, piano và viola. sau
khi tốt nghiệp, dvorak được nhận vào chơi viola trong dàn nhạc nhà hát lâm thời. đầu
những năm 60, dvorak gần gũi với smétana và tham gia vào buổi biểu diễn tác phẩm nhạc
kịch và giao hưởng của ông. đối với dvorak, những tác phẩm của smétana là mẫu mực
cho sự tìm tòi sáng tạo. song để thực hiện những khát vọng nghệ thuật của mình, dvorak
phải trải qua con đường sáng tạo khó nhọc, căng thẳng. những tác phẩm thời kỳ đầu làm
cho ông không hài lòng và đã hủy bỏ phần lớn trong số đó mà ông đã viết trong những
năm 60. giữa những tác phẩm ấy là hai ouvertune cho dàn nhạc, messa và những tác
phẩm thính phòng. hai bản giao hưởng thời kỳ đầu, xuất bản năm 1865, ngẫu nhiên còn
được giữ lại. khi ấy, dvorak đã viết cả liên khúc kiparisi mà sau này khi xuất bản đã sửa
75
lại. song, những sáng tác thời kỳ đầu đã chứng tỏ quá trình căng thẳng trong sự tìm tòi
sáng tác của dvorak.
Nững năm 70, dvorak đã thể nghiệm vào lĩnh vực sáng tác nhạc kịch với vở nhạc
kịch đầu tiên alfred nhưng cũng không làm ông hài lòng.
Những sáng tác trong những năm 70 đã thể hiện rõ sự phát triển và mối quan hệ
chặt chẽ với nhân dân của dvorak. bản cantat chính ca, tác phẩm đồ sộ cho sự hợp xướng
hỗn hợp, và dàn nhạc giao hưởng trên chủ đề của cuộc đấu tranh giải phóng vang lên lời
kêu gọi tinh thần yêu nước đối với nhân dân. trong ba vở nhạc kịch ông vua và người thợ
mỏ, người ngang bướng, và người nông dân khôn ngoan, dvorak đã tiếp tục đường nét,
phong tục- dân gian trong nhạc kịch tiệp. nhạc sĩ đã đổi mới những truyền thống dân tộc
cả trong nhạc kịch anh hùng- yêu nước vanda. nếu như trong lĩnh vực nhạc kịch đã biểu
hiện ý thức của một người công dân yêu nước của nhạc sĩ thì trong các lĩnh vực khác
được hoàn thành trong giai đoạn này như trio clavir, tứ tấu dây, concerto piano… đã thể
hiện những tìm tòi sáng tạo của dvorak. tâm trạng này tìm thấy sự đáp lại cả trong
oratorio lớn stabat mater, tứ tấu rê thứ tặng brahms, hoàn thành năm 1877.
Cuối những năm 70, sự nổi tiếng của dvorak là một nhà soạn nhạc thiên tài, đặc
biệt với liên khúc đầu vũ khúc slaves (1878, liên khúc thứ hai hoàn thành năm 1886). vũ
khúc slaves đã khái quát những tính chất dân tộc điển hình nhất của nền dân gian của
người slaves. năm 1879, dvorak còn thể hiện những tính chất ấy trong tổ khúc tiệp. hàng
loạt các tác phẩm giao hưởng và nhạc đàn khác là những cảnh phong tục dân gian như tứ
tấu esdus (1879), dumka.
Những sáng tác cho giao hưởng trong những năm 80 đã đem lại những thành tựu
lớn cho vinh quang của dvorak nói riêng và cho nghệ thuật giao hưởng tiệp nói chung,
sánh ngang với nghệ thuật tây âu. ông đã viết 9 bản giao hưởng nhưng chỉ công bố 5 bản,
vì vậy bản số 9 là bản số 5.
Giao hưởng của dvorak đã thể hiện thế giới phong phú của các hình tượng nhân
vật quá khứ, bức tranh thiên nhiên và cuộc sống đấu tranh anh hùng. giao hưởng của ông
chứa đựng nội dung cảm xúc đa dạng, phản ánh những khát vọng tự do của nhân dân
tiệp.
Những năm 90, dvorak đi biểu diễn ở nhiều nước với tư cách là nhà chỉ huy-
moscou, peterbourg, london, berlin, budapest, new york… năm 1890, dvorak dạy sáng
tác ở nhạc viện praha, và có gần 3 năm sang new york chỉ huy dàn nhạc và giám đốc
nhạc viện ở đây (1892-1895).
Sáng tác của nhạc sĩ trong những năm tiếp theo đạt những thành tựu kinh điển
trong các thể loại. những hình thức lớn- oratorio sainte ludmila, messa và réquieme…
Đỉnh cao trong sáng tác của dvorak đạt được trong những năm 90 là giao hưởng số
5 thế giới mới, concerto cho violoncelle; nhạc kịch roussalka, các ouverture có tiêu đề
giữa thiên nhiên, carnaval, othello; một số thơ giao hưởng, những tứ tấu dây, sonate
cho violon và piano… tiếp theo là hai nhạc kịch con quỷ và catherine (1988) viết trên
chủ đề truyền thuyết dân gian tiệp và armida là sử dụng poỗme của nhà thơ thời phục
hưng tasso.
76
Dvorak mất năm 1904 khi nhạc kịch armida được tiếp nhận ở nhà hát dân tộc ở
praha.
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Những tác phẩm của dvorak đã khẳng định tính đặc sắc và ý nghĩa thế giới của âm
nhạc tiệp khắc. những chủ đề về tổ quốc về thiên nhiên tiệp và quá khứ của slaves được
phát triển rộng rãi trong sáng tác của ông. ít ai có thể sáng tác và nắm vững mọi hình thức
thể loại với một di sản đồ sộ như dvorak. tác giả của 10 vở nhạc kịch, nhiều cantat và
oratorio, 9 giao hưởng, 3 concerto cho nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc (piano,
violon,violoncelle), nhiều ouverture, rhapsodie, vũ khúc (trong đó có 2 liên khúc vũ khúc
slaves), 5 giao hưởng thơ, 15 tứ tấu dây, 5 ngũ tấu, 6 tam tấu và nhiều tác phẩm thính
phòng khác.
Giai điệu đẹp, phóng khoáng và biểu hiện chi tiết các cảm xúc khác nhau. sử dụng
hòa âm một cách chi tiết để hỗ trợ cho giai điệu và hình tượng; ưa dùng lối bè tông. sáng
tác của dvorak tràn đầy tính trữ tình đa dạng để thể hiện cảm xúc nội tâm của con người.
Dvorak thường ít sử dụng tiêu đề, tuy nhiên âm nhạc của ông biểu hiện những hiện
tượng và những hình tượng rõ ràng mang tính hiện thực cao. một số ít có sử dụng tiêu đề
nhưng khác với quan điểm của liszt và wagner.
Dvorak đã tiếp tục con đường của smétana, sử dụng âm điệu, tiết tấu điển hình của
các làn điệu dân ca, dân vũ của tiệp và của người slaves nói chung. khác với smétana,
ông ít tham gia vào các hoạt động xã hội mà giành tất cả sức lực cho sáng tác và chỉ huy;
đồng thời còn là nhà sư phạm. bằng tất cả trái tim và sự suy nghĩ của mình giành cho đất
nước tiệp thân yêu của ông.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Thể loại giao hưởng đã thu hút nhiều sức lực của dvorak, đạt được những thành
tựu đặc biệt lớn lao của nền giao hưởng châu âu. từ năm 1865-1893, dvorak đã viết 9 bản
giao hưởng, tuy nhiên 4 bản đầu không công bố khi nhạc sĩ còn sống.
Bản giao hưởng cuối cùng hoàn thành năm 1893 khi dvorak sống ở mĩ là tác phẩm
xuất sắc nhất có tên gọi là thế giới mới.
Bản giao hưởng thế giới mới emoll là bản số 5 hay số 9 nếu tính cả bốn bản đầu.
thế giới mới được coi là một trong những bản giao hưởng xuất sắc nhất của nền giao
hưởng châu âu nửa cuối thế kỷ xix. giao hưởng thế giới mới có tính kịch sâu sắc giống
như giao hưởng số 3, số 4 của brahms, cũng giao hưởng số 5, số 6 của tchaikovsky.
Những năm tháng sống xa quê hương, làm việc tại new york, dvorak có dịp nghiên
cứu sử thi và âm nhạc dân gian của người da đỏ và cả nền âm nhạc của người da đen. nỗi
nhớ da diết về quê hương nước tiệp xa xôi, cộng với những suy tư về số phận của các dân
tộc da màu là nội dung của bản giao hưởng này.
Bản giao hưởng bắt đầu bằng phần mở đầu chậm (adagio) có tính chất suy tư, bi
thương, ảm đạm và là cơ sở cho chủ đề một trong phần sonate-allegro.
Chương I; được hình thành trên ba chủ đề và viết ở tốc độ nhanh. chủ đề một có
tính chất trong sáng, rõ ràng, giản dị và sắc nét. chủ đề một gồm hai nhân tố. nhân tố một
77
có vai trò như âm hình chủ đạo, vang lên trong các chương của tác phẩm. với tiết tấu đảo
phách và âm điệu gần với dân ca dân vũ của người da đen, do kèn cor tấu. nhân tố thứ hai
có tính chất vũ khúc dân gian do kèn clairinette và fagott diễn tấu:
Chủ đề hai là tương phản với chủ đề một. âm nhạc có tính chất mục đồng, như một
điệu thôn vũ của tiệp, mềm mại, như gợi lại hình ảnh quê hương.
Chủ đề thứ ba- chủ đề kết, giai điệu buồn, suy tư là sự kết hợp giữa âm điệu dân ca
tiệp với âm điệu dân ca người da đen, có âm hưởng của gam năm âm với âm hình tiết tấu
đảo phách.
Chương II. chậm (largo), thoạt đầu có tựa đề là huyền thoại. những hình tượng từ
bài thơ bài ca về haiavat của nhà thơ mỹ longfelo đã tạo cho dvorak nhiều cảm xúc.
dvorak đã dùng âm thanh của dàn nhạc giao hưởng để miêu tả đoạn xúc động nhất của
bài thơ - đám tang người vợ của haiavat - nàng mennigaghi. ở chương nhạc này không
chỉ là những xúc động của nhạc sĩ từ bài thơ, mà còn thể hiện cả nỗi buồn nhớ quê hương
da diết và những hồi ức về đất nước tiệp. chủ đề vang lên ở kèn coranglais với một giai
điệu đẹp nhưng ai oán:
Chương III. scherzo tạo sự tương phản trong liên khúc. chương nhạc được hình
thành trên ba chủ đề khác nhau- chủ đề một có tính chất của điệu nhảy nhanh, sôi nổi;
chủ đề hai có tính chất du dương êm ả; còn chủ đề ba trong phần trio của chương này có
tính chất của điệu nhảy nhịp 3 landder. toàn bộ chương scherzo tạo nên bức tranh sinh
hoạt rực rỡ, phong phú.
Chương kết; có ý nghĩa khái quát, toàn bộ bản giao hưởng. chủ đề chính của
chương kết có tính chất hùng mạnh, như hồi tưởng những hành khúc chiến trận của đội
quân hútxít, do kèn cor diễn tấu.
Phần nối tiếp gần với tính chất của điệu nhảy dân gian tập thể. chủ đề ii có tính
chất trữ tình du dương, chủ đề đẹp và duyên dáng nhất của toàn bản giao hưởng; đồng
thời cũng có những âm điệu anh hùng của chủ đề một và xen lẫn âm hình chủ đạo của
bản giao hưởng. chủ đề hai vang lên ở âm thanh kèn clarienette.
Phần phát triển của chương kết rất sôi động, chủ đề chính của chương một vang
lên trong từng chương của bản giao hưởng, giờ đây cũng có mặt ở chương này. phần kết
của giao hưởng với âm lượng mạnh mẽ của cả dàn nhạc như khẳng định sự chiến thắng
trong niềm vui và ánh sáng.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
79
Bài 17: Nhà soạn nhạc Edvard Grieg
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Edvard Grieg.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc Nauy và nhà soạn nhạc
Edvard Grieg.
E.grieg không chỉ là nhà soạn nhạc mà còn là nghệ sĩ piano có tài, nhà chỉ huy và
nhà hoạt động xã hội lớn của nauy. grieg được coi là người đứng đầu trường phái âm
nhạc nauy nửa cuối thế kỷ xix, có ảnh hưởng lớn tới các nhạc sĩ vùng scandinaves và thế
giới.
Sáng tác của grieg đã thực hiện những truyền thống dân chủ của cuộc sống nauy
một cách thơ mộng. phong tục độc đáo của nauy khẳng định đặc điểm lãng mạn đầy cá
tính của âm nhạc grieg. những ước mơ lãng mạn được phát triển trên nền tảng nhân văn
và tính hiện thực chắc chắn. âm nhạc của ông đã biểu hiện những ấn tượng, sự suy tư và
các tâm trạng liên quan tới cuộc sống dân tộc. nghệ thuật của grieg không có những xung
đột tương phản to lớn. nghệ thuật ấy như miêu tả tinh thần mạnh mẽ của nhân dân nauy,
về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. trong đó được hòa nhập tính chất lãng mạn với
tính khắc nghiệt của cuộc sống phương bắc, tính độc đáo thơ mộng của truyền thống và
tính ảo tưởng dân gian phong phú.
Grieg đã thể hiện những tình cảm, suy nghĩ của mình với ngôn ngữ âm nhạc giản
dị, dễ hiểu. ông đã nghiên cứu nền dân gian nauy, tính chất đặc biệt của nó và thực hiện
trong hệ thống của phương tiện biểu hiện âm nhạc mới. trong sáng tác của ông được tập
trung tính chất độc đáo nhất của dân tộc, của đất nước phương bắc.
1. cuộc đời và sự nghiệp
E.grieg sinh ngày 15 tháng 06 năm 1843 tại bergen- trung tâm của nền văn hóa
dân tộc và có nhiều nhà hoạt động nổi tiếng như ibsen, ole bull… lãnh đạo các hoạt động
sáng tạo ở đây. tuy nhiên grieg lại tiếp nhận nền học vấn âm nhạc ở nhạc viện leipzig.
Ông sinh ra trong một gia đình gốc là người scotland nhưng sống nhiều đời ở
nauy. bố là lãnh sự anh ở thành phố bergen, mẹ là nghệ sĩ piano có tài và là thầy dạy đàn
đầu tiên cho grieg. người đầu tiên quan tâm đến tài năng của ông là ole bull. trong những
thể nghiệm sáng tác thời trẻ cho grieg, ông đã nhìn thấy nhạc sĩ tương lai của nauy. từ
năm 1858 đến 1862, grieg đã học tại nhạc viện leipzig. mặc dầu những tháng năm học tại
đây không thể đáp ứng với mong muốn sáng tạo của ông cho nền âm nhạc nauy nhưng lại
có vai trò rất quan trọng đối với nhạc sĩ. grieg đã có dịp tiếp xúc với các thành tựu to lớn
của nền văn hóa âm nhạc tây âu như trong nghệ thuật của schumann và chopin, weber và
schubert cũng như của mozart và beethoven… đã tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ
trong sự hình thành sáng tạo của nhạc sĩ. thời kỳ ở leipzig, ông đã viết hàng loạt các khúc
romance và các khúc nhạc cho đàn clavir. tiếp theo, grieg còn tiếp tục học tập với nhà
soạn nhạc nielsgade ở thủ đô copenhagen (đan mạch) và cảm thấy thoải mái hơn khi học
ở nhạc viện leipzig. nhưng có lẽ, sự dẫn dắt để grieg trở thành nhà soạn nhạc của nauy
80
chính là sự gặp gỡ của ông với nhà soạn nhạc nauy rikard nordraak. nordraak là nhà
yêu nước và là thiên tài âm nhạc, ông đã cổ vũ grieg hãy cống hiến sức lực để xây dựng
nền âm nhạc dân tộc nauy. cũng trong năm nay hai người đã tổ chức hội evterpa, có
nhiệm vụ tuyên truyền tác phẩm của các nhà soạn nhạc trẻ nauy. tình bạn của grieg với
ole bull có một ý nghĩa lớn, bởi trong những năm sống xa tổ quốc lại tìm thấy sự phong
phú đặc biệt của sáng tác dân gian và vẻ đẹp của thiên nhiên nauy.
Trở về nauy năm 1866, ông đã ở oslo, nơi có hoạt động của trí thức và âm nhạc
rộng rãi. grieg đã cùng với vợ là ca sĩ tham gia các buổi biểu diễn âm nhạc thính phòng.
ông trở thành người đứng đầu hội khuyến nhạc và chỉ huy nhiều tác phẩm của các nhà cổ
điển như giao hưởng của haydn, mozart, beethoven, schumann, mendelssohn, và những
tác phẩm của các nhà soạn nhạc scandinaves và nauy.
Sáng tác nổi bật của grieg trong thời kỳ này là những tiểu phẩm cho đàn piano,
sonate piano op.7, sonat vilon op.8, ouverture giao hưởng mùa thu mà grieg hoàn thành
ở rome và nhiều bài ca… năm 1867 xuất hiện hai tác phẩm nổi tiếng của grieg- tập đầu
những khúc trữ tình op.12 và sonate vilon thứ hai op.13.
Những khúc trữ tình đạt tới sự đơn giản độc đáo, điển hình của grieg. còn sonate
violon thứ hai khẳng định sự điêu luyện của nhà soạn nhạc trong thể loại nhạc đàn thính
phòng. đồng thời, các tác phẩm ấy đã thể hiện tính chất dân tộc trong âm nhạc của grieg.
ông còn thể nghiệm sáng tạo ở thể loại lớn như concerto piano a-moll op.16 hoàn thành
năm 1868 biểu hiện những âm điệu, tiết tấu đặc sắc nền âm nhạc dân gian nauy. thời kỳ
này grieg sống ở rome, đã được liszt động viên, cổ vũ nhiệt tình và grieg đã đạt tới đỉnh
cao trong sự sáng tạo của mình, được thế giới biết đến.
Tiếp theo ông đã được chính phủ nauy trợ cấp suốt đời để toàn tâm sáng tác và
biểu diễn âm nhạc. năm 1874, grieg trở về sống tại quê hương- thành phố bergen. thời kỳ
này đã biểu hiện sự điêu luyện trong sáng tạo của grieg, rõ nhất là nhạc viết cho vở kịch
nói peer gynt của ibsen. grieg viết tác phẩm này ở bergen, hoàn thành năm 1876 được
công chúng tán thưởng nhiệt liệt và trở nên nổi tiếng thế giới. ngoài ra, thời gian này
grieg còn viết nhiều tác phẩm khác như những bài ca op.18 và liên khúc thanh nhạc op.25
phổ thơ của ibsen, nhiều tác phẩm cho đàn clavir. từ năm 1875 đến 1886 là ballade op.24
cho piano, tứ tấu dây op.27, sonate thứ ba cho violon op.45, những khúc nhạc trữ tình
op.38, 43 và 47; liên khúc op.44… những năm 90 grieg viết tập những khúc nhạc trữ tình
tiếp theo, nhưng điệu nhảy giao hưởng cho dàn nhạc lớn trên môtíp nauy op.64…
Thời kỳ cuối trong cuộc đời, ông thường xuyên đi biểu diễn ở nhiều nơi- đức,
paris, vienne, london, praha… ông còn có mặt ở bayreuth để nghe parcifat của wagner.
trong các chuyến đi grieg đã gặp gỡ với nhiều nhạc sĩ nổi tiếng- brahams, tchaikovski…
song, công việc sáng tạo căng thẳng nhất đến cuối đời là vừa sáng tác, vừa tập trung viết
báo phê bình về âm nhạc. ông đã viết về schumann, wagner; về mozart; bảo vệ brahams
và còn giới thiệu về debussy và faurée… công việc đó của grieg đã góp phần vào cuộc
đấu tranh của những nhạc sĩ tiến bộ cho chủ nghĩa hiện thực và tính dân tộc trong âm
nhạc. grieg được đánh giá cao trong nghệ thuật của thế kỷ xix.
81
2. Ngôn ngữ Âm nhạc.
Cũng giống như Chopin, Grieg là một nhà yêu nước sâu sắc, nên trong tác phẩm
của mình ông thường thể hiện những nét điển hình về dân tộc như; những làn điệu dân
ca, cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước...
Chủ đề âm nhạc; hình ảnh tổ quốc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Giai điệu; Trữ tình mềm mại, sử dụng nhiều âm láy, âm tựa, âm muộn, tiết tấu đặc
biệt...
Hòa thanh; yêu thích sử dụng các điệu thức dân gian (Ly điêng).
Hình thức; cân phương vuông vắn, gần với cổ điển.
Phối khí; chủ yếu sử dụng bè dây, đặc biệt chú trọng đến đàn Harp.
3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.
Sáng tác của grieg gồm nhiều thể loại: khoảng 150 khúc nhạc nhỏ cho piano, 125
bài hát và romance, thanh nhạc, sáng tác thính phòng và những tác phẩm nhạc đàn lớn-
sonate, ballade, concerto piano, những cảnh kịch giao hưởng- thanh nhạc được viết theo
dàn ý oratorio, âm nhạc cho kịch peer gynt. grieg trước hết là một nhà trữ tình nhưng
trong một số tác phẩm được mang âm hưởng trữ tình- sử thi; điều đó không xa lạ với cả
sự thể hiện kịch tính- anh hùng. grieg đã phản ánh trong nội dung tác phẩm của mình sự
vĩ đại có tính sử thi của phong cảnh quê hương, tính lãng mạn của huyền thoại dân gian;
tính trữ tình nồng cháy, và sự ấm áp nội tâm trong tâm lý dân tộc mình và cả tính anh
hùng trong đời sống của họ. toàn bộ sáng tác của ông là thuộc về tổ quốc của mình, trong
đó đã thể hiện đầy đủ tính hiện thực trong toàn bộ nghệ thuật của ông.
Trong ngôn ngữ âm nhạc của grieg đã tìm thấy sự phản ánh những tính chất điển
hình nhất của nền dân gian nauy. sự tự do chính trị của nông dân nauy đã tạo khả năng và
sự sáng tạo của nghệ thuật trong sáng, được thể hiện với tình cảm và tư duy lành mạnh.
mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên đã đem tới nghệ thuật tính chất thơ mộng, đẹp đẽ và
cả những ước mơ nồng cháy.
Âm nhạc dân gian nauy gồm những bài ca ở nhiều thể loại- anh hùng, hát ru, trào
phúng, trữ tình, cả những bài ca hiệp sĩ và của những người chăn cừu… điển hình của
một số bài là có tính chất nhảy múa và tính tự do ngẫu hứng, vốn có trong sáng tác của
grieg. còn trong giai điệu thường gặp sự tương phản giữa tính nhảy múa sinh động và trữ
tình. giai điệu trong nhạc đàn thường dùng nhiều thư pháp trang sức và những âm điệu
tiết tấu điển hình của vũ khúc dân gian nauy cũng như các điệu thức dân gian. thường gặp
tiết tấu từ tục, đôi khi tổng hợp với tuolet:
Nhịp cuối cùng là điển hình trong mối tương quan về tiết tấu và âm điệu. sự
chuyển động ấy thường gặp trong sáng tác của grieg. tiến hành kết cấu giống ví dụ 248,
ta gặp trong chủ đề chính của concerto piano của grieg:
Trong tác phẩm của grieg còn gặp những âm hình tiết tấu hành khúc, tổng hợp với
âm hình tiết tấu nhảy múa như ví dụ sau- khúc nhạc ngày cưới ở troldhaygen:
Giai điệu có tính trang sức là điển hình trong nhạc đàn dân gian của nauy, ta gặp
trong chương chậm concerto piano; còn chương kết là điển hình cho dân vũ nauy:
82
3.1. Sáng tác piano;
Grieg thực hiện trong cả cuộc đời, khoảng 150 tác phẩm với quy mô nhỏ ví như
những trang nhật kí; giống như thể loại sonate với beethoven, mazurka với chopin.
khoảng 70 tác phẩm được xuất bản trong "mười quyển những khúc piano trữ tình". tất
cả đều có tiêu đề, là những khúc nhạc gia đình ấm áp, thể hiện những cảm xúc trữ tình
hoặc gắn liền với thể loại ca múa dân gian; là những bức tranh sinh hoạt phong tục hoặc
ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên mang tính chất dân tộc nauy. chẳng hạn như trong giai điệu
một bè của khúc nhạc buổi chiêu trong núi grieg đã khắc họa rất tài tình cảnh thiên
nhiên:
Những sáng tác piano ở thể loại lớn là bản sonate op.7 ballade trong hình thức
biến tấu op.24 và bản concerto op.16.
3.2 sonate;
Op.7 là liên khúc bốn chương, tác phẩm piano nổi tiếng, hoàn thành năm 1865. tác
phẩm có tính anh hùng, kịch tính.
Chương một viết ở hình thức sonate-allegro xây dựng trên hai chủ đề tương phản.
chương một biểu hiện hình tượng cương nghị, dũng cảm.
Chương hai- chậm, chương trữ tình, như một khúc nocturne tuyệt diệu, kết hợp với
tính chất điệu nhảy dân gian. chương hai cấu trúc ở hình thức ba đoạn phức.
Chương ba- chương menuet nhưng nhịp đầu của chương có tính chất nặng nề như
miêu tả hành khúc chiến binh của các hiệp sĩ. phần trio- phần giữa của chương nhạc vang
lên những âm thanh kêu gọi của điệu kullok.
Chương kết được viết ở tốc độ rất nhanh, xây dựng trên hai chủ đề tương phản và
cấu trúc ở hình thức sonate. chủ đề chính có tính chất mạnh mẽ, anh hùng trên âm hình
tiết tấu vũ khúc. còn chủ đề hai gần với chủ đề chương hai có tính chất trữ tình.
Tác phẩm được kết thúc với tính chất hân hoan và trang trọng.
3.3. concerto piano và dàn nhạc - amoll op.16
Hoàn thành năm 1868 của grieg là tác phẩm có tính chất trữ tình, tràn đầy cảm
hứng lãng mạn. cấu trúc theo kiểu truyền thống gồm ba chương.
Chương một- được mở đầu bằng những hợp âm mạnh mẽ của piano, tiếp theo là
nét chạy sôi nổi từ thấp lên cao. chủ đề một là giai điệu tính chất suy tư, điềm tĩnh kết
hợp tiết tấu có tính chất nhẩy múa và được phát triển ngày càng sôi nổi. chủ đề hai là giai
điệu trải rộng, có tính ca xướng.
Chương hai- adagio như hồi ức về một quá khứ xa xưa, miêu tả phong cảnh thiên
nhiên phương bắc, có cấu trúc ở hình thức ba phần (xem ví dụ 251a).
Chương ba- chương nhanh như miêu tả ngày hội dân gian. âm nhạc chuyển động
không ngừng (xem ví dụ 251b).
Sáng tác thính phòng khác trội bật nhất là ba bản sonate cho violon và piano;
sonate cho violoncelle và piano; tứ tấu dây op.27.
83
Sáng tác cho dàn nhạc giao hưởng của grieg thường có cấu trúc ở các hình thức
nhỏ như ouverture mùa thu op.11 những vũ khúc giao hưởng op.64, tổ khúc từ thời
honber xa xưa op.40 và tổ khúc peer gynt được hình thành từ âm nhạc viết cho kịch peer
gynt của ibsen.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
84
Bài 19: Các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc Nga, cũng như phong
cách sáng tác của các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga.
Nhóm Khỏe, hùng mạnh, nhóm 5 người, nhóm balakirev là tên gọi của một
trường phái âm nhạc nga mới nửa cuối thế kỷ xix gồm năm nhà soạn nhạc nổi tiếng:
balakirev, césar cui, moussorgski, borodine và rimski- korsakov.
Họ là những người làm các nghề khác nhau, ở các nơi của đất nước nga, tập hợp
lại với nhau vì yêu âm nhạc dưới sự dẫn dắt của balakirev ở pétersbourg. các nhạc sĩ này
có sự nỗ lực tự học hỏi để sáng tạo và sớm hình thành một trường phái nổi tiếng không
chỉ với nước nga, mà còn đối với thế giới, đặc biệt là nền âm nhạc pháp và trường phái ấn
tượng.
Xã hội nga nửa cuối thế kỷ xix có nhiều biến động lớn lao và sâu sắc. chế độ chính
trị phản động của nga hoàng, sự tồn tại của chế độ nông nô song song với sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản đã đè nặng lên cuộc sống của người dân nga. cuộc chiến tranh phi
nghĩa crimée (1853-1856) càng gây nên những tâm trạng bất mãn trong các tầng lớp nhân
dân. năm 1861, nga hoàng alexandre ii hoảng sợ trước tình thế cách mạng có thể xảy ra
nên đã ký sắc lệnh giải phóng nông nô. nhưng điều đó cũng chẳng cải thiện thêm được
tình cảnh người nông dân. cuộc đấu tranh giải phóng diễn ra rất sinh động, phong phú.
thực tiễn xã hội được phản ánh sâu sắc trong văn học, nghệ thuật. xuất hiện những nhà
triết học nổi tiếng như bélinsky, tchernichevshi, dobrolubov… với những công trình có ý
nghĩa dẫn đường. nghệ thuật hội họa xuất hiện trường phái nhóm triển lãm lưu động.
nghệ thuật văn học nổi bật những nhà văn tiến bộ, tập hợp xung quanh tờ báo người cùng
thời và trong lĩnh vực âm nhạc là nhóm 5 người- nhóm khỏe luôn luôn giương cao ngọn
cờ âm nhạc dân tộc từ glinka.
Nhóm 5 người- nhóm hùng mạnh được tập hợp trên một cơ sở cùng chí hướng,
đấu tranh cho những quan điểm tiến bộ và những nguyên tắc nghệ thuật dân tộc, dân chủ.
họ chịu những ảnh hưởng của quan điểm thẩm mỹ của các nhà cách mạng dân túy, đề cao
tính hiện thực và tính nhân dân trong sáng tạo. khẩu hiệu quán triệt quan điểm đường lối
nghệ thuật của nhóm hùng mạnh là nội dung cuộc sống. trong tác phẩm của họ, xuyên
suốt là chủ đề nhân dân và chủ đề tổ quốc, với nhân vật trung tâm là người nông dân lao
động. vì vậy, họ đã dựa trên chất liệu âm nhạc dân gian nông thôn làm nền tảng để hình
thành các chủ đề âm nhạc của mình.
Nhóm hùng mạnh đã tiếp nối quan điểm nhạc kịch và giao hưởng từ glinka. họ đã
cùng với các nhạc sĩ nga cùng thời khác, đã đưa nghệ thuật nhạc kịch và giao hưởng nga
lên đỉnh cao thế giới.
Các nhạc sĩ trong nhóm hùng mạnh còn tham gia tích cực vào lĩnh vực phê bình
âm nhạc. cùng với các nhà lý luận âm nhạc nổi tiếng serov, stassov, họ đã tuyên truyền
85
cho những tư tưởng tiến bộ và các quan điểm dân chủ. song song với sự hình thành hai
nhạc viện ở pétersbourg do rubinstein antoine (anh) làm giám đốc năm 1862 và ở
moscou do rubinstein nicolas (em) làm giám đốc năm 1866; do sáng kiến của balakirev
và lomakin hình thành những trường nhạc không học phí. nhạc viện có công đào tạo các
nhạc sĩ, nhạc công; trường nhạc không học phí đào tạo được các danh ca, diễn viên hợp
xướng và tuyên truyền giáo dục âm nhạc phổ cập trong quần chúng nhân dân.
Hai khuynh hướng khác biệt giữa rubinstein- người quá thiên về âm nhạc chuyên
nghiệp tây âu; và stassov, sérov, balakirev- những người quá thiên về âm nhạc dân gian,
đã được các nhạc sĩ thế hệ sau khắc phục. các nhạc sĩ trong nhóm hùng mạnh trong quá
trình sáng tạo và sự trưởng thành của họ trên con đường nghệ thuật, đã khắc phục dần
những hạn chế về những kiến thức âm nhạc chuyên nghiệp và có những đóng góp lớn lao
trong sự cách tân của nền âm nhạc nga cuối thế kỷ xix.
1. M.a.balakirev (1836-1910)
M.a.balakirev sinh ngày 2 tháng 1 năm 1836 ở hạ novogorov. từ nhỏ, balakirev đã
được học đàn piano với nghệ sĩ piano với nghệ sĩ nên lại trở về quê hương học với nhạc
trưởng nhà hát địa phương. được sự bảo trợ của oulibichev, ông đã có điều kiện học tập
thiên về âm nhạc và sau trở thành nhạc trưởng của dàn nhạc oulibichev. từ năm 1853 đến
1855, balakirev tiếp tục học đại học ở kazan nhưng balakirev chủ yếu lại hoạt động âm
nhạc như một nghệ sĩ piano, nhạc trưởng và sáng tác. cuối năm 1855, balakirev đã tới
pétersbourg để được gặp glinka, và những quan niệm tiến bộ của ông đã được glinka quý
mến. khả năng âm nhạc của ông đã được giới nghệ thuật pétersbourg đánh giá cao và
được sánh ngang với rubinstein. balakirev còn kết thân với stusov và tình bạn giữa họ đã
trở thành thân thiết cho tới cuộc đời. năm 1856, nhóm khỏe được hình thành ở
péterbourg dưới sự dẫn dắt và lãnh đạo của ông. balakirev đã hướng dẫn các nhạc sĩ trong
nhóm sáng tác bằng cách tự trình diễn các tác phẩm của mình để toàn nhóm trao đổi,
nhận xét.
Balakirev còn giành thời gian sưu tầm dân ca. mùa hè năm 1860, ông đi học sông
volga và đã sưu tầm được 40 bài. ba lần tới kavkaz và những ấn tượng về miền nam được
ghi lại trong tác phẩm fantaisie piano islamey và giao hưởng thamar.
Những năm 60, ông để nhiều tâm sức cho các hoạt động xã hội về âm nhạc; tổ
chức trường nhạc miễn phí và chỉ huy các buổi hòa nhạc. năm 1866 balakirev đến thành
phố praha dựng rousslan và ludmila của glinka. những năm đầu 70 do những bất đồng
với các nhạc sĩ trong nhóm và những nỗi buồn riêng đã dẫn tới sự khủng hoảng về tinh
thần khiến ông hầu như xa vời âm nhạc. phải tới cuối 70 và đầu 80 balakirev mới trở lại
âm nhạc - chỉ huy dàn nhạc và giám đốc trường nhạc không lấy tiền. 1883 nhận chức
nhạc trưởng hợp xướng hoàng gia và từ 1894 viết tiếp những tác phẩm còn dở dang.
Cho tới cuối đời, balakirev vẫn giữ trọn tình cảm của mình với glinka, ông đã tổ
chức biểu diễn, dựng tượng và xây dựng nhà kỷ niệm glinka.
Balakirev mất ngày 16 tháng 10 năm 1910 và để lại cho đời những tác phẩm ở các
thể loại.
Về giao hưởng:
86
Uverture trên chủ đề ba bài dân ca nga (1858); ouverture trên chủ đề hành khúc
tây ban nha (1857), vua lear (1859) 1.000 năm (1862)
Thơ giao hưởng: ở nước tiệp (1867), thamar (1882)
Hai bản giao hưởng (1898, 1909).
Sáng tác cho piano gồm nhiều tiểu phẩm và những cải biên dân ca. bản fantasie
islamey là một trong những tác phẩm nổi tiếng viết về phương đông.
Nhiều romance và tuyển tập dân ca nga.
2. césar cui (1835-1918)
César cui tuy tài năng về sáng tác không trội bật nhưng có nhiều đóng góp trong
lĩnh vực phê bình âm nhạc trong những năm 60. cui đã tích cực đấu tranh cho nền âm
nhạc có tính hiện thực và là người phát ngôn cho các quan điểm tiến bộ của toàn nhóm.
César cui sinh ngày 18-1-1835 ở thành phố vilno trong một gia đình cựu sĩ quan
pháp. theo truyền thống gia đình, ông được đào tạo trong trường kỹ thuật quân sự và trở
thành giáo sư. là nhà lý luận quân sự tài năng và say mê âm nhạc. là tác giả của 10 vở
nhạc kịch, 250 bản romance và ca khúc hợp xướng, liên ca khúc, nhiều tiểu phẩm cho
piano và hòa tấu thính phòng.
3. a.p.borodine (1833-1887)
3.1. cuộc đời và sự nghiệp
A.p.borodine được đánh giá như một người sáng lập dòng giao hưởng sử thi, anh
hùng nga; là một nhạc sĩ thiên tài trong nhóm hùng mạnh.
Sinh ngày 31-10-1833 ở thành phố saint-pétersbourg, cha mất sớm nên dưới sự
chăm sóc của người mẹ và sau này của bố dượng là bác sĩ quân đội. mẹ của ông là một
phụ nữ hiểu biết, có văn hóa và yêu thích âm nhạc. từ nhỏ, borodine được nuôi dạy toàn
diện, nói nhiều thứ tiếng- pháp, anh, đức và sau này cả tiếng ý. từ nhỏ, ông đã say mê âm
nhạc, được mẹ cho học piano, flỷte. năm 9 tuổi, ông đã có sáng tác đầu tay- ploka cho
piano; 13 tuổi đã viết concerto cho flỷte.
Săm 1850 -1858, học và tốt nghiệp tại viện hàn lâm y phẫu thuật và được công
nhận học vị tiến sĩ. từ năm 1858-1862, công tác tại đức và quen biết nghệ sĩ piano và sau
này là vợ của ông, đã được tìm hiểu về những tác phẩm của schumann và chopin.
Năm 1862, là giáo sư khoa hóa của viện hàn lâm y phẫu thuật pétersbourg. tại đây,
ông đã tham gia nhóm hùng mạnh của balakirev. song song với công tác khoa học, ông
còn dành nhiều tâm sức cho sáng tác âm nhạc.
Năm 1867, hoàn thành bản giao hưởng số 1 và trình diễn thành công dưới sự chỉ
huy của balakirev. tiếp đến là giao hưởng dũng sĩ phải trải qua 7 năm mới hoàn thành vì
bận nhiều công việc nghiên cứu khoa học (1876). cùng thời gian ấy, ông còn viết nhạc
kịch hoàng tử igor; nhiều tác phẩm thính phòng và những bản romance được viết suốt
cuộc đời.
Từ những năm 80, sáng tác của borodine có tiếng vang không chỉ ở trong nước mà
cả thế giới.
87
Nhạc kịch hoàng tử igor và bản giao hưởng số 3 với chương kết dở dang đã được
rimsky-korsakov và glazounov hoàn thành.
Ông mất ngày 15 tháng 2 năm 1887 tại pétersbourg.
3.2. tác phẩm
sáng tác của borodine là không liên tục, bởi ông còn là nhà hóa học lỗi lạc, bận tâm
nhiều trong lĩnh vực khoa học. tuy nhiên, những sáng tác âm nhạc của ông đã đi vào lịch
sử âm nhạc nga một khuynh hướng mới cho giao hưởng và nhạc kịch- sử thi, anh hùng
đặc biệt là lĩnh vực giao hưởng.
borodine kế tiếp con đường của glinka trong nhạc kịch nhưng đi xa hơn glinka, tiếp
tục truyền thống sử thi, không những trong nhạc kịch với vở hoàng tử igor, mà còn trong
lĩnh vực giao hưởng và ca khúc thính phòng. sáng tác của borodine đã biểu hiện mối
quan hệ sâu xa với nền văn hóa nga thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các quan điểm, tư
tưởng xã hội nga những năm 60 của thế kỷ, mà các giới nghệ thuật và các học giả quan
tâm đến nguồn gốc nghệ thuật dân tộc, sáng tác dân gian và lịch sử đất nước.
Nhạc kịch hoàng tử igor là vở nhạc kịch thuộc dòng sử thi trữ tình gồm bốn màn
và phần mở đầu, mà sau này rimsky-korsakov và glazounov hoàn thành nốt trình diễn
năm 1890.
Về giao hưởng, borodine đã viết hai giao hưởng (1867, 1876); bản giao hưởng số
3 đang dang dở, sau này glazounov đã tiếp tục, dàn dựng và xuất bản. ông còn viết tranh
giao hưởng giữa miền trung á (1880).
Mỗi bản giao hưởng của ông là sự sáng tạo độc đáo và borodine đã xây dựng được
kiểu giao hưởng mới được bắt nguồn từ cảm thụ thế giới của nhân dân, của những truyền
thuyết xa xưa đầy thi vị. tác phẩm của borodine thấm đượm tính chất cổ tích, tính khái
quát của những truyền thuyết sử thi. nhà chỉ huy người đức, weingartner khi tiếp xúc với
bản giao hưởng số 2 của borodine đã nhận xét: "thậm chí chưa đến nước nga, cũng có thể
cho mình một ý niệm về nhân dân và đất nước của họ".
Âm nhạc giao hưởng của borodine hình thành trên cơ sở có sáng tạo những truyền
thống tốt đẹp của âm nhạc cổ điển và gần gũi với ngôn ngữ dân ca, dân vũ.
Bản giao hưởng số 1 đã được thừa nhận tài nghệ điêu luyện của tác giả như chuẩn
bị cho sự ra đời của bản số 2 với bút pháp rộng rãi, tính chất hùng hậu và quy mô to lớn.
hình tượng âm nhạc của giao hưởng số 1 mang tính chất tranh họa rõ nét, liên tưởng đến
loại sử thi, hùng ca; là liên khúc giao hưởng gồm bốn chương.
Bản giao hưởng số 2 giọng h moll viết trong 8 năm cùng với thời gian viết nhạc
kịch hoàng tử igor. bản giao hưởng này được stassov gọi là bản giao hưởng dũng sĩ bởi
hình tượng âm nhạc như gợi lại các hiệp sĩ nga thời trung cổ trong sử thi, hùng ca.
Bản giao hưởng gồm liên khúc 4 chương như truyền thống nhưng nội dung các
chương là phong phú, đa dạng.
Chương I; Viết ở hình thức sonate-allegro. chủ đề một gồm hai nhân tố. nhân tố
một vang đồng âm, ở bộ dây một nét nhạc chắc nịch, mạnh mẽ như thể hiện sức mạnh
88
của những nhân vật truyền thuyết. nhân tố hai là âm thanh rực rỡ vang lên ở bộ gỗ với
màu sắc mới như ánh mặt trời lấp lánh trên những mũ giáp và tấm chắn của các hiệp sĩ.
Tương phản với các nhân tố của chủ đề i, chủ đề ii là một nét giai điệu khoáng đạt,
có tính ca xướng, như miêu ra miền thảo nguyên xa xôi vang lên ở bè violoncelle.
Chương II; Scherzo: âm nhạc có tính vui vẻ, náo nhiệt, như miêu tả cảnh tụ hội và
cuộc đua tài dũng mãnh của các dũng sĩ. cấu trúc ở hình thức ba đoạn phức với phần đầu
và cuối trên hình thức sonate có hai chủ đề tương phản.
Chương III; Chương chậm, có cấu trúc ở hình thức sonate. tác giả muốn miêu tả
hình ảnh nghệ sĩ hát rong của nước nga cổ xưa.
Chương IV; chương kết của bản giao hưởng, miêu tả không khí ngày hội dân
gian, sôi nổi, những tiệc rượu của các dũng sĩ. chương iv viết ở hình thức sonate-allegro,
xây dựng trên hai chủ đề tương phản.
Tranh giao hưởng giữa miền trung á là tác phẩm giao hưởng một chương có tiêu
đề được sáng tác từ cuối năm 1879 và hoàn thành năm 1880, khiến borodine được ca
ngợi là nhà soạn nhạc nga và thế giới. tác phẩm được trình bày lần đầu ở pétersbourg vào
ngày 8 tháng 4 năm 1880. tác phẩm đã khơi thác chất liệu âm nhạc dân gian của các tộc
người thiểu số vùng trung á của nga.
Cấu trúc của tác phẩm liên quan chặt chẽ đến âm nhạc có tiêu đề; được viết trong
hình thức tự do, trên hai chủ đề âm nhạc từ các bài ca dân gian. đầu tiên là sự trần thuật
của chủ đề một, tiếp đến là chủ đề hai. ở phần tái hiện cả hai chủ đề vang lên cùng lúc
theo kiểu đổi vị.
Romance, ca khúc và nhạc thính phòng
Borodine viết khoảng 18 bản romance, tuy số lượng romance và ca khúc ông viết
không nhiều nhưng chúng có một vị trí đặc biệt trong thể loại romance cổ điển nga. trong
số đó có những bản nổi tiếng như ballade biển, bài ca rừng thắm, cho những bến bờ xa
xăm, thanh âm lạc lõng, nàng công chúa đang ngủ…
Borodine được đánh giá là người đặt nền móng cho âm nhạc thính phòng của nga
cùng với tchaikovski.
Đó là hai bản tứ tấu dây số 1 (1879), số 2 (1882) tổ khúc cho piano gồm 7 tiểu
khúc… những tác phẩm thính phòng của borodine có giai điệu đẹp, cấu trúc chặt chẽ;
phong phú về hòa âm, phức điệu, mang phong cách trữ tình tinh tế, luôn cuốn hút thính
giả.
4. M. p. moussorgski (1839-1881)
Modest petrovitch moussorgski là một nhạc sĩ thiên tài nga, nhà cách tân táo bạo,
là một trong những nhạc sĩ trội bật trong nhóm hùng mạnh, người có ảnh hưởng đến chủ
nghĩa ấn tượng và là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng của châu âu nửa cuối thế
kỷ xix.
Thiên tài và sự sáng tạo của moussorgski mỗi ngày người ta lại tìm ra những yếu
tố mới. ngay cả rimski-korsakov- bạn thân thiết và là người đã giành nhiều thời gian,
công sức để hoàn thành nốt những tác phẩm còn dang dở, dàn dựng, xuất bản cho
89
moussorgski, cũng chưa thấu hiểu hết được những ý đồ sáng tạo cách tân táo bạo qua
việc sử dụng giai điệu, hòa âm, phức điệu và phối khí của moussorgski.
Tiếp tục truyền thống của glinka, trong các tác phẩm của mình, moussorgski đã
phản ánh những mâu thuẫn gay gắt của xã hội nga, đời sống của người dân nga cuối thế
kỷ xix đậm nét nhất.
Các nhà phê bình âm nhạc lớn của thế giới đánh giá rất cao những đổi mới trong
tác phẩm của moussorgski, coi ông là một mốc lớn để chuyển tiếp sang thời kỳ mới của
nền âm nhạc cuối thế kỷ xix, đầu thế kỷ xx. âm nhạc của ông được nhiều nhạc sĩ cận hiện
đại kế thừa, phát triển. mùa xuân thần thánh của stravinski là tiếp tục các nhân tố âm
nhạc dân gian ở đêm trên núi trọc và boris godounov đã tạo cho nhạc kịch của débussy
thoát khỏi ảnh hưởng của nhạc kịch wagner. yếu tố âm nhạc có tính hội họa, ngôn ngữ
âm nhạc có tính đặc tả, đầy sức biểu hiện trong những bức tranh trong phòng triển lãm
khiến débussy, ravel… dày công nghiên cứu. ông là một trong những nhạc sĩ mà
chostakovitch yêu thích nhất và chính ông đã phối khí lại những tác phẩm của
moussorgski.
4.1. Cuộc đời và sự nghiệp
Moussorgski sinh ngày 9 tháng 3 năm 1839 ở karevo, tỉnh pskov trong một gia
đình quý tộc nhỏ. từ 4 tuổi đã được học đàn piano với người mẹ. năm 9 tuổi đã biểu diễn
tiểu phẩm của liszt. đến 10 tuổi, lên pétersbourg để thi học ở trường sĩ quan cận vệ và vẫn
tiếp tục học piano với nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng a.gerke. moussorgski trở thành người
chơi đàn piano ngẫu hứng tài ba và còn là một ca sĩ giọng nam trung đẹp. tốt nghiệp
trường sĩ quan, ông phục vụ ở trung đoàn với dagormyjiski, tiếp đến với balakirev… và
đã được các nhà soạn nhạc nga hướng dẫn sáng tác.
Năm 1858, moussorgski từ bỏ quân đội để dồn tất cả thời gian cho âm nhạc. thời
kỳ này, moussorgski đã hoàn thành nhiều tác phẩm- sonate esdur cho piano, fis moll,
nhiều romance, khúc scherzo bdur cho dàn nhạc giao hưởng. scherzo cis moll cho
piano… năm 1859 viết nhạc cho vở kịch nói vua edipe của sophocle. năm 1862,
moussorgski tham gia vào nhóm hùng mạnh.
Từ năm 1861, khi tiếp xúc với giới sinh viên moscou, moussorgski đã quan tâm
đến vấn đề giải phóng nông nô, bản thân ông đã khước từ ruộng đất gia sản của gia đình
chia cho mình.
Moussorgski rất yêu thích màu sắc phương đông trong tiểu thuyết salammbo của
flaubert, nên đã viết thành nhạc kịch từ nội dung này, kéo dài trong 3 năm (1863-1866).
cũng trong thời gian này, ông còn sáng tác những bản romance và tác phẩm thính phòng.
những romance nổi tiếng như đêm khuya, gió giật ào ào, từ dòng nước mắt của tôi, hát
ru… và đặc biệt là màn viết cho thanh nhạc svertik saissna mà stassov gọi đó là
shakespeare trong âm nhạc. tập bài hát những bức tranh nhân dân trong đó phản ánh sự
nghèo nàn, cực khổ của nông dân nga dưới chế độ nga hoàng; một số bài châm biếm và
liên khúc nhi đồng.
Năm 1867, moussorgski viết khúc phóng túng giao hưởng đêm trên núi trọc với
sự cách tân táo bạo về bút pháp, khiến balakirev không chấp nhận và từ chối dàn dựng.
90
Cuối năm 1869, ông đã hoàn thành vở nhạc kịch lớn về đề tài lịch sử boris
godounov gồm 7 màn. tiếp theo, moussorgski đã viết vở nhạc kịch nữa là
khovanchtchina (1872-1881) nhưng còn dở dang, sau này rimsky-kosakov đã tiếp nối.
Những năm 70, moussorgski còn viết những tác phẩm thanh nhạc và thính phòng
khác như những bức tranh trong phòng triển lãm, liên khúc thanh nhạc những bài ca
và điệu nhảy của thần chết.
Những năm cuối đời là thời kỳ đen tối nhất trong cuộc đời của ông. thất nghiệp,
bệnh tật, nghèo đói; ông đã phải sống bằng nghề đệm đàn thuê và tấu piano ngẫu hứng.
một vài bạn bè lại xa lánh vì không chấp nhận, sự cách tân táo bạo trong tác phẩm của
moussorgski. giới cầm quyền thì tiếp tục cản trở trình diễn nhạc kịch và các tác phẩm của
ông.
Moussorgski mất ngày 16 tháng 3 năm 1881 tại pétersbourg với những tác phẩm
và dự định sáng tạo dở dang.
4.2. tác phẩm
Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của moussorgski, tác phẩm viết cho thanh nhạc
gồm ca khúc, liên ca khúc, romance và nhạc kịch chiếm một vị trí quan trọng, thu hút
nhiều sức lực của nhạc sĩ so với lĩnh vực khí nhạc. có thể cho rằng, nhạc kịch và ca khúc
thính phòng đã hấp dẫn hoàn toàn sự sáng tạo của nhạc sĩ.
Nhạc kịch của ông là những vở bi nhạc kịch, thật sự nhân dân. nội dung trong hai
vở nhạc kịch boris godounov và khovanchtchina đã miêu tả những cuộc nổi dậy của
nông dân trong những giai đoạn giao thời của lịch sử nước nga. moussorgski là nhà soạn
nhạc giỏi về mô tả tâm lý xã hội bằng âm thanh. ông đã biểu hiện bản chất tích cách của
từng nhân vật thông qua việc sử dụng ngôn ngữ nhân dân- chất giai điệu trong cách phát
âm và quy luật của dân ca.
Trong lĩnh vực nhạc kịch, mà moussorgski đã quan tâm trong suốt cuộc đời sáng
tạo của mình, boris godounov và khovanchtchina là những tác phẩm vĩ đại, độc đáo; thể
hiện đầy đủ sự cách tân táo bạo của mình.
Nhạc kịch boris godounov là tác phẩm sáng tác dựa theo đề tài cùng tên của
pouchkine; là một trong những thành tựu nổi bật nhất của nền nhạc kịch nga nửa cuối thế
kỷ xix. tác phẩm đã biểu hiện một cách chân thực và sâu sắc thực tiễn xã hội nga qua
những sự kiện lịch sử.
Tác phẩm sáng tác năm 1868, hoàn thành năm 1872 và công diễn ngày 27-1-1874
dưới sự chỉ huy của napravnik tại nhà hát marinski.
Tác phẩm gồm phần mở đầu và 4 năm, được cấu trúc theo lối phát triển liên tục
âm nhạc, phù hợp với sự tiến triển của hành động kịch. moussorgski còn đưa vào sự phát
triển âm nhạc những ca khúc, độc xướng, hợp xướng có tính hoàn chỉnh, kết hợp với thủ
pháp âm hình chủ đạo. sự cách tân trong vở nhạc kịch là sử dụng phương pháp biểu hiện
theo kiểu hát nói và đặc biệt là cách sử dụng hòa âm, phức điệu, cách phối dàn nhạc phối
thanh nhạc. ở vở nhạc kịch đó, ông sử dụng nhiều hợp xướng để nổi bật vai trò quần
chúng.
91
Âm nhạc mở đầu, vở nhạc kịch như miêu tả hình ảnh nhân dân bị đè nén, đau khổ.
Nhạc kịch khovanchtchina được viết từ năm 1872 sau đó rimsky-korsakov hoàn
thành nốt và trình diễn năm 1886. tác phẩm đã đề cập tới thời kỳ lịch sử nga cuối thế kỷ
xvii trước giai đoạn cải cách của pierre đệ nhất; ở vở nhạc kịch này, nhạc sĩ viết theo
kiểu nhạc kịch ca hát. moussorgski đã sáng tác trong 8 năm, về cơ bản đã hoàn thành
tổng phổ piano, chưa kịp phối khí hết cho dàn nhạc. năm 1883, rimsky đã hoàn thành nốt.
bản thảo của moussorgski xuất bản năm 1931; cuối năm 1939, chostakovitch đã phối khí
theo bản thảo của tác giả, năm 1958, chostakovitch đã hoàn thành và hiệu quả rất cao
theo ý đồ của moussorgski.
Khúc mở màn của vở nhạc kịch có tên riêng bình minh trên sông moscou có ý
nghĩa bình minh trên đất nước nga, mở đầu giai đoạn mới trong lịch sử nước nga. khúc
mở màn còn biểu hiện như một bức tranh tinh xảo, một khúc nhạc độc lập, hoàn chỉnh và
luôn được trình diễn như một danh mục biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng.
Thanh nhạc thính phòng chiếm một số lượng lớn và được ông viết suốt cuộc đời.
Tác phẩm thanh nhạc thính phòng là những ca khúc, liên ca khúc và romance (67
bản romance)
Moussorgski viết ba liên khúc- không ánh mặt trời (1874), những bài ca và điệu
nhảy của thần chết (1875), nhi đồng (1870-1872).
Liên ca khúc không ánh mặt trời là tác phẩm nói về cuộc đời riêng của nhạc sĩ.
Hầu hết các tác phẩm thanh nhạc là phản ánh cuộc sống hiện thực, là những bức
tranh sinh hoạt nhân dân, những tranh biếm họa, những bài ca có tính kịch sâu sắc
miêu tả mọi lứa tuổi với màu sắc đa dạng. có bài như hình thức một người kể chuyện, tự
sự; có bài như hình thức ballade…
Những bài như những bức tranh sinh hoạt nhân dân những năm 60 là gần gũi
với phong cách nông thôn và cuộc sống của người nông dân nga.
Bài kalitrat (thơ nekrakov) là miêu tả cuộc sống cơ cực của người nông dân.
phong cách tự truyện, âm nhạc buồn, u tối.
Phần đệm piano mở đầu theo nhịp võng ru.
Phần giai điệu gần giống với dân ca. câu hát được nhắc lại nhiều lần với tính chất
buồn.
Bài em bé mồ côi (lời của moussorgski) miêu tả cuộc sống đứa trẻ mồ côi, cô độc,
bơ vơ không nhà cửa. lời của bài hát gần với ngôn ngữ của nông dân thời ấy. bài hát có
âm điệu chủ yếu:
Những bài ca có tính châm biếm là một trong những sở trường của moussorgski,
bởi ông có tài khắc họa nhân vật hóm hỉnh, sắc sảo như léminarit, con người cổ điển,
hoặc liên khúc thanh nhạc raika làm người nghe liên tưởng tới carnaval op.9 của
schumann, nhưng vì viết cho hát với bút pháp trào lộng làm cho người nghe cười đến
chảy nước mắt.
Những bài có tính kịch sâu sắc có thể kể đến liên khúc thanh nhạc những bài ca
và điệu nhảy của thần chết. lúc đầu ông dự định viết 12 tiết mục nhưng chỉ thực hiện
92
được bốn. đó là 4 bức tranh có tiêu đề- trépak: hình ảnh một nông phu say rượu nằm chết
trên đống tuyết; khúc hát ru: bi kịch của người mẹ mất người con yêu quý; sérenade: cái
chết của cô gái trẻ mơ mộng; thống soái: một điệu múa man rợ của thần chết ngự trị trên
chiến trường.
4.3. Sáng tác khí nhạc
Những tác phẩm viết cho khí nhạc của moussorgski còn lưu lại tới ngày nay là
không nhiều; nhưng lại có ý nghĩa lớn lao về sự cách tân và sức biểu hiện nghệ thuật độc
đáo.
Kế thừa truyền thống từ glinka, moussorgski đã biểu hiện một phong cách mới
khác với truyền thống đức - áo đang thịnh hành khắp châu âu. bắt nguồn cảm xúc từ sinh
hoạt đời sống của nhân dân nga, vận dụng táo bạo các thủ pháp biểu hiện trên cơ sở dân
gian nga, gắn liền với hội họa và thơ ca; moussorgski đã mở đường mới cho nền âm nhạc
châu âu cuối thế kỷ xix.
Năm 14 tuổi đã xuất bản polka cho piano tặng học sinh trường sĩ quan cận vệ. bản
sonate piano es dur (1858) còn lưu lại 3 chủ đề. bản sonate piano fis moll (1858) đến
nay không còn. scherzo bdur cho dàn nhạc giao hưởng (19-11-1858) biểu diễn ngày 11-
1-1860 dưới đũa chỉ huy của rubinstein.
Nhạc cho vở kịch nói vua edipe đến nay không còn, chỉ còn một vài số viết cho
piano 4 tay từ tổng phổ glinka.
Mùa hè năm 1867, moussorgski hoàn thành intermezzo đêm trên núi trọc trong 12
ngày, mặc dầu dự định đã có từ 7 năm về trước. tác phẩm thoát khỏi hoàn toàn tư duy
kiểu đức. đêm trên núi trọc đã diễn tả một đêm ma quái trước bình minh theo truyền
thuyết dân gian, một huyền thoại dân gian, có tính tạo hình rất cao trên chất liệu dân gian
nga. nhưng từ tác phẩm này đã nảy sinh sự mâu thuẫn với balakirev, người bạn thân nhất
của ông. balakirev đã không chấp nhận bút pháp mới của ông và từ chối dàn dựng tác
phẩm. sau này một số tác phẩm khác của moussorgski đã sử dụng nhạc đêm trên núi
trọc.
Trong các tác phẩm viết cho piano như các bản sonate thời kỳ học với balakirev,
và "u già của tôi", trong làng, trẻ em vui chơi, giấc mơ, hồi ức tuổi thơ… sau này là tác
phẩm những bức tranh trong phòng triển lãm có giá trị độc đáo, đầy cách tân táo bạo.
tác phẩm này là nổi tiếng nhất cuối thế kỷ xix trong các sáng tác cho piano.
Năm 1874, stassov đã tổ chức triển lãm tranh của kiến trúc sư - họa sĩ hartmann
nhân kỷ niệm một năm ngày qua đời. moussorgski và hartmann có tình bạn thân thiết vì
trong nghệ thuật của họ đều quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. xúc động trước những
bức tranh của bạn, ông đã say sưa sáng tạo chỉ trong một tuần lễ đã hoàn thành. ở tác
phẩm của mình, ông không muốn là "bản sao" bằng âm nhạc những bức họa của
hartmann, mà tác phẩm được lý giải theo tư duy của nhạc sĩ. do vậy, các bức tranh ấy chỉ
là nền tảng tư duy của nhà soạn nhạc. chẳng hạn từ bức tranh- dự án đồng hồ có kiểu
dáng ngôi nhà nhỏ dựng trên hai chân gà, khiến moussorgski nghĩ tới ông già lùn- đồ
chơi để đập hạt dẻ- trở thành bức chân dung âm nhạc của một con người kỳ lạ; còn dự án
thiết kế cổng thành kiev lại biến thành bức tranh âm nhạc có tính sử thi.
93
Liên khúc piano những bức tranh trong phòng triển lãm là cảm xúc thơ ca, hội
họa gắn chặt. điều ấy là một tư duy xuyên suốt từ ballade người chiến thương bị bỏ
quên, đêm trên núi trọc, bình minh trên sông moscou… mà moussorgski là người mở
đường cho trường phái âm nhạc ấn tượng pháp.
Những bức tranh trong phòng triển lãm gồm 10 ca khúc khác nhau về tính cách, là
những bức tranh chân dung tâm lý và những bức tranh phong tục được liên kết với nhau
nhờ nét nhạc chuyển tiếp gọi là "bước dạo". chất nhạc bước dạo rất gần với dân ca và hợp
xướng dân gian nga kiểu hòa âm xen với phức điệu bè tòng.
Có thể coi bước dạo theo cốt truyện là đi dạo trong phòng triễn lãm- sự tán
thưởng, bình luận về những bức họa của harmann; cho nên mỗi lần bước dạo xuất hiện
đều được thay đổi, không còn là khúc nhạc độc lập; thậm chí được xen lẫn vào các bức
tranh, phát triển trong các bức tranh ấy (cổng thành lực sĩ).
Là một tác phẩm cách tân táo bạo, những bức tranh trong phòng triển lãm của
moassorgoki đã nổi tiếng thế giới, là danh mục biểu diễn của các nghệ sĩ piano. tác phẩm
được nhiều nhà soạn nhạc phối cho dàn nhạc. đầu tiên là rimsky-korsakov, tiếp đến là
học trò của rimsky. tiếp theo là hai nhạc sĩ nga khác gorsakov và logal-levinski. cuối
cùng bản phối khí nổi tiếng nhất là bản của nhạc sĩ pháp ravel hoàn thành năm 1922.
5. N.A.Rimsky-Korsakov (1844-1908)
Rimsky-korsakov có vị trí quan trọng trong nhóm hùng mạnh, người tiếp tục và
hoàn thành các công việc và tác phẩm của các nhạc sĩ trong nhóm còn dang dở, người đã
khắc phục những khuynh hướng khác biệt giữa rabinstein và balakirev trong sự đổi mới
nền âm nhạc nga cuối thế kỷ xix. rimski không chỉ là nhà soạn nhạc lớn của nga, mà còn
là nhà sư phạm, nhà hoạt động xã hội tích cực.
Những tác phẩm của ông đã trội bật trong hai lĩnh vực-nhạc kịch và giao hưởng.
ông đã viết 15 vở nhạc kịch, mười lăm bản tổng phổ ấy là sự lao động căng thẳng của
nhạc sĩ. mối liên hệ chặt chẽ giữa thể loại giao hưởng và nhạc kịch là điển hình cho sự
nghiệp sáng tác của ông.
Mười lăm tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng trong đó có 3 giao hưởng nhiều
tổ khúc giao hưởng, tranh giao hưởng, ouverture, fantaisie… nhiều hợp xướng, romance,
hòa tấu thính phỏng và tác phẩm cho piano. là một nhà sư phạm và lý luận âm nhạc
rimski-korsakov đã biên soạn 2 tuyển tập dân ca nga, một công trình về phối khí, sách
giáo khoa về hòa âm, cuốn biên niên sử về hoạt động âm nhạc của tôi và viết nhiều bài
báo về các vấn đề nghệ thuật âm nhạc.
5.1. Cuộc đời và sự nghiệp.
Rimski - korsakov sinh ngày 6 tháng 3 năm 1844 ở tikhvin, làng nhỏ của thành
phố novgorod, trong một gia đình quý tộc. từ 4 tuổi đã học đàn piano và 12 tuổi gia đình
gửi đến petersbourg để học ở trường hải quân. những năm tháng trong trường hải quân
rimski vẫn dành thời gian để học piano, sáng tác và dự các buổi hòa nhạc, nhạc kịch.
94
Năm 1861 quen biết với balakirev, dưới sự hướng dẫn của balakirev, rimski-
korsakov đã hoàn thành bản giao hưởng số 1 năm 1865 là liên khúc giao hưởng nga đầu
tiên gồm 4 chương.
Tốt nghiệp trường hải quân (1862), ông đã đi vòng quanh thế giới suốt ba năm, và
những ấn tượng về biển cả, về những mảnh đất xa lạ cùng nhiều bài ca, điệu nhảy của các
cư dân nơi con tàu cập bến đã để lại nhiều ấn tượng trong các sáng tác của rimski sau
này.
Năm 1865 trở về petersbourg cũng là lúc hoàn thành giao hưởng số 1, được trình
diễn dưới sự chỉ huy của balakirev, có tiếng vang và đã cỗ vũ ông sáng tác tiếp theo.
Sáng tác tiếp theo của những năm 60 như tranh giao hưởng sadko (1867), tổ khúc
giao hưởng antar (1868-1903), tựa khúc dựa trên những chủ đề nga.
Năm 1871, r.korsakov được mời làm giáo sư nhạc viện petersbourg, dạy sáng tác
và phối khí. những sáng tác trong những năm 70 đã hoàn thành 60 bản fuga, tuyển tập 40
bài dân ca nga có đệm; hoàn thành hai nhạc kịch: đêm tháng năm (1878) và nàng bạch
tuyết (1881) v.v…
Những năm 80 r.korsakov đã hoạt động tích cực trong lĩnh vực chỉ huy dàn nhạc ở
trong và ngoài nước rất thành công. cũng trong thời gian này sáng tác cho giao hưởng là
những tác phẩm nổi bật như capriccio tây ban nha (1887), tổ khúc giao hưởng
schéhérazade (1888)…
Vì những nỗi buồn trong cuộc sống gia đình, nên mấy năm đầu của thập kỷ 90,
r.korsakov bị sa sút tinh thần, đồng thời đời sống xã hội nga lúc này rất căng thẳng khiến
nhạc sĩ không viết được nhiều. từ giữa những năm 90, ông lại có cảm hứng để sáng tác và
nhiều tác phẩm được hoàn thành như các nhạc kịch đêm trước lễ giáng sinh (1895), sadko
(1896), mozart và salieri (1897), vợ chưa cưới của nga hoàng (1898), câu chuyện vua
saltan (1900), vera cheloga (1898), servilia (1901), pan voùevoda (1903) v.v
Cuộc cách mạng 1905 bùng nổ, rimski-korsakov đã tin tưởng đi theo cách mạng,
cùng với các sinh viên tham gia tích cực vào các cuộc biểu tình, bãi khóa. sáng tác ghi lại
những dấy động xã hội như hai vở nhạc kịch - kachtchei bất tử (1902) và con gà trống
bằng vàng (1907)
Rimski-korsakov mất ngày 21 tháng 6 năm 1908 ở petersbourg.
5.2. Tác phẩm
Cả cuộc đời sáng tác của rimsky-korsakov đã để lại một di sản tác phẩm to lớn,
khó ai sánh kịp. ngoài những khúc romance, tiểu phẩm, hòa tấu thính phòng; là 15 vở
nhạc kịch; 3 bản giao hưởng; những tổ khúc giao hưởng, những ouverture và fantaisie,
sérenade; concerto cho piano và dàn nhạc…
Những tác phẩm giao hưởng của r.korsakov có liên quan đến tư duy thẩm mĩ về
nhạc kịch của chính bản thân mình. những tác phẩm ấy đều có tiêu đề, và chú ý nhiều đến
tính chất hội họa. âm nhạc giao hưởng của ông luôn tư duy cụ thể có tính sân khấu, cân
đối và làm cho thính giả như có thể nhìn thấy hình tượng một cách rõ rệt và sinh động.
trong phương pháp phối khí, r.korsalov đạt tới trình độ hoàn hảo, tạo sự phong phú, đa
95
dạng và tinh vi trong cách xử lý âm thanh; làm cho người nghe như nhìn thấy cử chỉ,
hành động và sắc màu rõ rệt.
Tổ khúc giao hưởng schéhérazade là tổ khúc giao hưởng gồm bốn chương, dựa
trên truyện cổ tích ả rập một nghìn lẻ một đêm. bốn chương của tổ khúc được liên kết lại
với nhau bằng một nét nhạc do violon diễn tấu xuất hiện ở mở đầu chương một, được coi
là âm hình chủ đạo của schéhérazade. trong bản in lần đầu mỗi chương đều có một nhan
đề: i- biển và con tầu sindbad; ii- câu chuyện thần kỳ của hoàng tử calender; iii- hoàng tử
và công chúa; iv- ngày hội ở bagdad và con tầu va vào đá, tan vỡ cùng kỵ sĩ đồng. sau
này, ông đã hủy các nhan đề vì không muốn đi vào quá cụ thể, để giành cho thính giả sự
tưởng tượng phong phú qua âm nhạc.
Chương i với phần mở đầu gồm hai hình tượng chính có ý nghĩa cho sự phát triển
của toàn tác phẩm. hình tượng thứ nhất là một nét giai điệu tấu đồng âm ở âm khu trầm
thể hiện tính chất nặng nề, hung bạo.
Nhân tố hai là một nét giai điệu uyển chuyển, dịu dàng do violon độc tấu trên phần
đệm của đàn harpe.
Chương I; Viết ở hình thức sonate-allegro không có phần phát triển, như kể lại
câu chuyện đi biển của hoàng tử sindbad, miêu tả cảnh biển khi yên tĩnh, lúc lại nổi sóng,
một bức tranh biển cả phương nam với hai chủ đề tương phản:
Chương II; Được bắt đầu bằng chủ đề schéhérazade do violon tấu như thể hiện
câu chuyện đang được kể tiếp. chương iii cấu trúc ở hình thức ba đoạn phức nhưng hai
phần đầu và cuối của chương là những biến khúc trên một chủ đề. phần giữa của chương
nhạc tương phản hoàn toàn, âm nhạc như miêu tả những trận giao chiến ác liệt.
Chương III; Chương trữ tình. âm nhạc thể hiện sự tràn trề hạnh phúc giữa hoàng
tử và công chúa. chương nhạc được xây dựng trên hình thức sonate không có phần phát
triển, có cấu trúc tự do trên hai chủ đề. chủ đề một có màu sắc phương đông, uyển
chuyển, dịu dàng.
Chủ đề hai mang đặc điểm vũ khúc rõ nét:
Chương IV; Gồm hai phần. phần thứ nhất mô tả ngày, hội bagdad rực rỡ, náo
nhiệt và phần thứ hai- cảnh biển nổi sóng. chương nhạc có cấu trúc phức tạp, là sự tổng
hợp chất liệu chủ đề của các chương.
Đoạn coda lại vang lên chủ đề schéhérazade và chủ đề sakhriar.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
96
Bài 20: V. Piotr illitch Tchaikovski (1840-1893)
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Tchaikovsky.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết về lịch sử cũng như phong cách sáng tác của nhà soạn
nhạc Tchaikovsky, từ đó thể hiện những tác phẩm của ông sáng tác được tốt hơn.
P.i.tchaikovski là một trong những nhạc sĩ vĩ đại của thế giới. ông thành công
trong tất cả các thể loại âm nhạc, sáng tác với một bút pháp điêu luyện, tinh tế. là một
người nhạy cảm, ông chỉ viết về những gì mà bản thân cảm nhận được, những gì mà
chính ông đã trải qua. vì vậy, không chỉ giới âm nhạc chuyên nghiệp mà hầu như các tầng
lớp trong xã hội đều yêu quý âm nhạc của tchaikovski. ngoài sáng tác, tchaikovski còn là
nhà sư phạm, lý luận phê bình và chỉ huy. tchaikovski bằng tác phẩm đã biểu hiện sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc dân tộc nga và kế thừa sáng tạo nền âm nhạc kinh điển
thế giới. âm nhạc của ông đã phản ánh sâu sắc thực tế xã hội nga cuối thế kỷ xix, thể hiện
tình yêu quê hương tha thiết, tính triết lý sâu sắc, tâm lý tinh tế; ngôn ngữ âm nhạc phong
phú về giai điệu, hòa âm, phối khí; cấu trúc chặt chẽ, khiến cho tác phẩm được phổ biến
rộng rãi không chỉ ở nga mà toàn thế giới.
1. cuộc đời và sự nghiệp
P.i.tchaikovski sinh ngày 25 tháng 4 năm 1840 ở votkinsk trong gia đình kỹ sư, bố
là giám đốc nhà máy luyện kim, mẹ là phụ nữ có trình độ văn hóa, yêu âm nhạc, có giọng
hát hay. ngay từ nhỏ, tchaikovski rất yêu âm nhạc, bố biết thổi flúte và yêu sân khấu.
tchaikovski thường được bố mẹ cho nghe nhạc và người vú nuôi luôn hát cho nghe những
điệu hát ru. từ 10 tuổi, gia đình cho học trung cấp luật ở pétersbourg (1850-1859) nhưng
âm nhạc vẫn cuốn hút tchaikovski. theo lời khuyên của rubinstein, tchaikovski đã thi vào
nhạc viện pétersbourg học trong ba năm 1862-865. tốt nghiệp nhạc viện đạt huy chương
bạc với các tác phẩm ouverture c dur, f dur, tứ tấu dây b dur, sonate piano cis moll,
cantate "đến niềm vui" (thơ của schiller). năm 1865, ông được mời làm giáo sư của nhạc
viện moscou. thời kỳ này, tchaikovski quen biết với các nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng-
nhà văn léon tolstoùski, nhà viết kịch ostrovski, nhà phê bình âm nhạc odoevski, nhà thơ
plesev… trong khoảng từ 1865-1877, tchaikovski đã hoàn thành 3 bản giao hưởng;
concerto piano số 1; biến tấu trên chủ đề rococo cho violoncelle; 3 tứ tấu và trio piano;
4 vở nhạc kịch; vũ kịch hồ thiên nga; 3 ouverture: roméo và juliette, bão tố, francesca
da rimini; liên khúc bốn mùa và nhiều romance.
Tình hình xã hội nga lúc này rất nặng nề, trí thức và các nghệ sĩ cảm thấy bế tắc.
cuộc sống riêng không may mắn khiến tchaikovski rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh
thần một thời gian.
Từ cuối 1877 đến 1885, ông thường sống ở nước ngoài- ý, thụy sĩ và mùa hè
thường về ucraine, nơi ở của người chị. thời kỳ này được sự đỡ đầu về kinh tế của bà
triệu phú nadejdavon meck nên tchaikovski hoàn toàn có thể yên tâm để sáng tác âm
nhạc.
97
Sáng tác trong thời kỳ này là giao hưởng số 1, capriccto italien, sé renade cho
đàn dây, ouverture năm 1812 cantate moscou, trio (tặng n.rubinstein) concero cho
violon và dàn nhạc, concerto số 2 cho piano, hai vở nhạc kịch cô gái orléans và
mazeppa.
Giữa những năm 80, tchaikovski là nhà chỉ huy dàn nhạc giao hưởng và đi biểu
diễn ở nhiều nước châu âu. ông không chỉ dàn dựng và chỉ huy các tác phẩm của mình
mà còn chỉ huy các tác phẩm của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng thế giới như brahms, grieg,
saint-saởns, massenet ở các thành phố của nga, đức, tiệp, pháp, anh và mỹ.
Những năm 90, tchaikovski đạt tới tột đỉnh của sự vinh quang. opéra của nhạc sĩ
được biểu diễn ở nga và ở nhiều nước trên thế giới. năm 1893, tchaikovski được trường
đại học tổng hợp cambridge của anh tặng học vị tiến sĩ. từ những năm 1885-1893, là thời
kỳ sáng tác sung sức nhất của tchaikovski- 3 opéra trong đó có con đầm pique; 2 vở
ballet người đẹp ngủ trong rừng, kẹp hạt dẻ, 3 bản giao hưởng: số 5, số 6 và manfred
cùng nhiều tác phẩm khác.
Những sáng tác trong những năm cuối đời đã phản ánh trung thực thời kỳ đen tối
nhất của đời sống chính trị xã hội nga cuối thế kỷ xix, mà nhân vật tích cực trong tác
phẩm của ông không còn con đường nào khác là phải chịu sự hy sinh. (con đầm pique,
giao hưởng số 5, số 6…)
Ngày 16 tháng 10 năm 1893, tchaikovski chỉ huy lần đầu bản giao hưởng số 6 của
mình và sau 9 ngày ông đã qua đời vào ngày 25 tháng 10 năm 1893.
2. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu
Ít ai trong số các nhà soạn nhạc lại đạt sự thành công và vinh quang như
tchaikovski ở tất cả các lĩnh vực sáng tạo- giao hưởng, nhạc kịch, vũ kịch, nhạc thính
phòng.
2.1. giao hưởng
Tchaikovski viết khoảng 30 tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng- 7 bản giao hưởng
(kể cả bản giao hưởng có tiêu đề manfred); một số ouverture có tiêu đề và ouverture
fantaisie; 2 giao hưởng thơ, 2 tổ khúc giao hưởng; 3 concerto cho piano; 1 concerto cho
violon và biến tấu trên chủ đề rococo cho violoncelle; capriccio italien…
Sáng tác giao hưởng đối với tchaikovski được thực hiện trong suốt cuộc đời, từ
những ngày là sinh viên nhạc viện pétersbourg cho tới những năm tháng cuối đời sáng
tạo của mình.
Những giao hưởng của tchaikovski có thể phân chia thành hai giai đoạn rõ rệt. giai
đoạn đầu là ba bản giao hưởng đầu và cả bản số 4; các ouverture có tiêu đề- giông tố,
rómeo và juliette, bão táp, francesca da rinmini… viết trước 1877. giai đoạn thứ hai là
những tác phẩm có tính bi kịch sâu sắc như giao hưởng số 5 và số 6.
Bản giao hưởng số 1 hoàn thành năm 1866 được tác giả đặt tên những giấc mơ
mùa đông. thiên nhiên nga và hình tượng mùa đông là những đề tài mà nhiều nghệ sĩ nga
đã phản ánh trong tác phẩm của mình và tchaikovski còn đề cập trong cả các tác phẩm
98
khác. bản giao hưởng số 1 tràn đầy chất trữ tình nhưng còn cả những suy tư về cuộc
sống.
Bản giao hưởng số 2 viết năm 1872, sửa chữa 1879 và khi viết tác phẩm này
tchaikovski sống trong một ngôi làng ở ucraine. tác phẩm biểu hiện niềm vui và thấm
đượm màu sắc âm nhạc dân gian ucraine. có người gọi đó là giao hưởng nước nga nhỏ
hoặc bản giao hưởng với chim sếu (tên gọi một bài dân ca được sử dụng trong tác phẩm).
Bản giao hưởng số 3 hoàn thành năm 1875 gồm 5 chương và nội dung các
chương cũng đặc biệt. nhiều chương có tính sân khấu, âm nhạc sinh hoạt phong tục
phong phú như hành khúc, diễu hành, nhảy múa làm cho bản giao hưởng gần với tổ khúc.
chương ba là tính chất tâm lý, trữ tình, chương chậm tạo sự tương phản với các chương
có tính phong tục.
Bản giao hưởng số 4 hoàn thành năm 1877 tặng nadejda von meek. tác phẩm ra
đời trong tình trạng căng thẳng về tư duy và tình cảm, là sự tổng kết những tìm tòi của
tchaikovski trong thể loại giao hưởng. đó là cuộc đấu tranh của con người để đạt tới hạnh
phúc.
Chương I; Được mở đầu bằng một chủ đề diễn tả sức mạnh đen tối ngăn cản con
người tới hạnh phúc.
Tiếp đến là chủ đề chính của chương một với tính chất uyển chuyển của điệu
valse, giàu sắc thái và nhiều chuyển biến:
Chủ đề hai gồm hai chất liệu. chất liệu đầu xuất hiện ở kèn clarinette solo có tính
chất buồn, duyên dáng (mà theo bản thảo của tchaikovski đó là hồi ức về một vũ hội.
chất liệu hai là một nét nhạc âu yếm:
Chương II; chương chậm, như một bài ca trữ tình, là những hồi ức buồn thương.
cấu trúc ở hình thức ba đoạn phức.
Chương III; chương scherzo, là khúc nhạc arabesque có tính chất phóng túng,
đỏng đảnh với thư pháp pizzicato của bộ dây. ở phần trio- phần giữa của chương nhạc là
âm thanh của kèn gỗ bắt chước vũ điệu dân gian nga; tiếp đến kèn đồng tấu một giai điệu
hành khúc nhanh, hối hả.
Cả hai chương II và chương III không tạo tính kịch, mâu thuẫn, là những phút giây
yên tĩnh, vui vẻ trong cuộc sống.
Chương IV; chương vũ hội của quần chúng được viết ở hình thức rondo, chủ đề
chính- chủ đề ngày hội dân gian, có tính chất như cuộc diễu hành tưng bừng:
2.2. Nhạc kịch
Trong suốt cả cuộc đời của mình, tchaikovski lúc nào cũng không ngừng viết nhạc
kịch. tiếp tục truyền thống của glinka về dòng nhạc kịch lịch sử (cô gái orléans, maeppa,
iolanta…) đồng thời ông còn viết nhiều nhạc kịch về dòng tâm lý xã hội (eugène
onéguine, con đầm pique…)
Trong lĩnh vực sáng tác nhạc kịch, tchaikovski rất quan tâm đến đề tài bi kịch về
tình yêu, những xung đột mạnh mẽ trong cuộc sống, tình yêu chung thủy, sự ghen
tuông… nhạc sĩ thường sắp đặt những màn, cảnh tương phản về tâm lý của các nhân vật
99
cạnh nhau. tchaikovski rất quan tâm và cũng dành nhiều công sức cho dàn nhạc coi trọng
sự biểu hiện của dàn nhạc để phát triển tình cảm, nội tâm đa dạng của nhân vật; đồng thời
cũng đề cao những tiết mục thanh nhạc. giai điệu của các aria, ariozo, hợp ca và đồng ca
trong nhạc kịch của ông rất hấp dẫn.
Nhạc kịch eugène onéguine là một trong những tác phẩm đạt thành tựu xuất sắc
của tchaikovski, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của pouchkine. tác phẩm viết trong những
năm 1877-1878 và công diễn lần đầu tại moscou năm 1879. trong tiểu thuyết của
pouchkine, nhân vật onéguine "con người thừa" trong xã hội, rất thông minh, tràn đầy
sinh khí nhưng lại không biết làm gì cho xã hội, đi đến đâu là gieo rắc sự bất hạnh đến
đó. nhưng trong nhạc kịch của tchaikovski, nhân vật trung tâm lại là tachiana- một mẫu
người điển hình về lòng chung thủy của phụ nữ nga, với các khía cạnh tâm lý phức tạp,
tinh tế.
Tác phẩm cấu trúc gồm 3 màn, 7 cảnh. ở tác phẩm này, tchaikovski dùng nét nhạc
mở đầu của màn i như một âm hình chủ đạo, được xuất hiện lại ở cảnh một, cảnh hai và
cảnh 7.
2.3. Nhạc vũ kịch (ballet)
Trước tchaikovski, ballet ở nga chưa được đề cao, ngay vở opéra-ballet của
dargomyjski cũng chẳng bao giờ được trình bày. trong nhạc kịch của glinka tuy đã có
những màn múa rất độc đáo, nhưng cũng chưa phải là một ballet với ý nghĩa là một tác
phẩm độc lập. vì vậy, tchaikovski sáng tác 3 vở ballet- hồ thiên nga (1876), người đẹp
ngủ trong rừng (1889), cái kẹp hạt dẻ (1892) có một ý nghĩa lớn. ông đã đưa vào ballet
yếu tố của nhạc kịch và giao hưởng, tạo cho ballet trở thành một loại hình nghệ thuật
hoàn chỉnh với ý nghĩa cách tân.
Ballet của tchaikovski có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nghệ thuật này đối
với các nhạc sĩ nga sau này và cả với thế giới.
2.4. Sáng tác cho các thể loại khác
Hòa tấu thính phòng của tchaikovski gồm 3 tứ tấu dây, trio tặng rubinstein (em)
khi nhạc sĩ mất năm 1881.
Bản tứ tấu dây số 1 ddur viết năm 1871 đã sử dụng một bài dân ca và viết theo
kiểu biến tấu như glinka. bản số 2, f dur có cấu trúc phức tạp hơn và về nội dung âm
hưởng là gần với bản giao hưởng số 4. bản số 3- es dur viết tặng nghệ sĩ violon, giáo sư
nhạc viện moscou- lau. âm nhạc gần với thể loại giao hưởng. cả ba bản tứ tấu của
tchaikovski.
Tác phẩm piano trội bật nhất của tchaikovski là 3 bản concerto số 1- 1875, số 2-
1880 và số 3-1893. ngoài concerto, còn có sonate lớn cho piano, các tiểu phẩm như
dumka, bài ca không lời, liên khúc bốn mùa, tuyển tập cho trẻ em…
Các tác phẩm cho piano của ông đã sử dụng nhiều chất liệu từ các dân ca thành thị
cũng như các dân vũ nông thôn.
Sáng tác cho violon và violoncelle
100
Những tác phẩm cho violon là bản concerto độc nhất, sérénade mélancolique,
valse scherzo, sérénade cho đàn dây…
Tác phẩm biến tấu trên chủ đề rococo cho violoncelle và dàn nhạc là một tác
phẩm tuyệt vời của ông, được đánh giá là chuỗi ngọc trong sáng. tính chất hào nhoáng
của phong cách rococo đã được nga hóa và tác phẩm luôn được các nghệ sĩ violoncelle
nổi tiếng thế giới biểu diễn trong các chương trình của mình.
Sáng tác cho thanh nhạc
Romance là những tác phẩm thanh nhạc mà tchaikovski đã kế thừa, phát triển từ
glinka và dargomyjki.
Trong các romance của ông, nổi bật vẫn là phong cách trữ tình nội tâm sâu sắc,
mặc dù nhạc sĩ còn ứng dụng những nguyên tắc phát triển giao hưởng.
Bè piano có vai trò rất quan trọng để miêu tả nội tâm tâm lý trữ tình tinh tế đôi khi
là sự đối thoại giữa bè hát và piano, hoặc có ý nghĩa phức điệu bè tông.
Romance là thể loại được tchaikovsky viết đều đặn trong cả cuộc đời sáng tác của
mình. ông viết khoảng 100 romance.
Ông viết 4 bản cantate với dàn nhạc và nhiều cải biên dân ca.
Ít ai như tchaikovski được coi là một nhà soạn nhạc toàn năng. với 53 tuổi đời và
30 năm sáng tác, tchaikovsky đã để lại cho nhân loại một gia tài tác phẩm của ông sống
mãi trong lòng nhân dân nga và trong lòng toàn nhân loại.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
101
CHƯƠNG V: ÂM NHẠC THẾ KỶ XX
Bài 1. Nhà soạn nhạc Claude debussy
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Claude debussy.
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử nhà soạn nhạc Claude debussy, từ
đó thể hiện những tác phẩm của ông được tốt hơn.
Debussy là nhà soạn nhạc Ấn tượng vĩ đại. Với hội họa Ấn tượng thì Monet là đại
diện tiêu biểu, còn với âm nhạc Ấn tượng là Debussy. “La Mer” (Biển cả) mới kỳ diệu
làm sao. Những tiểu phẩm đầy sáng tạo viết cho piano mịn màng như nước với những tên
gọi gợi mở như “Estampes” (Những bức tranh khắc), “Images” (Những hình ảnh). Và tất
nhiên là cả tác phẩm viết cho dàn nhạc mang vẻ đẹp mờ ảo “Prelude to the Afternoon of
a Faun” (Prelude Giấc ngủ trưa của thần Điền dã).
Debussy yêu thích những hợp âm nghịch tai, mà ngày nay chúng ta thấy giống
nhạc jazz, như những hợp âm mà Duke Ellington và Bill Evans đã sử dụng. Nhưng trong
ngôn ngữ hòa âm của Debussy còn có những đồng vọng của thời kỳ Phục hưng, cũng như
âm nhạc ngũ cung Nam Á mà ông nắm bắt được sau một buổi biểu diễn của các nghệ
nhân Indonesia tại hội chợ triển lãm quốc tế ở Paris năm 1889.
Sau hàng trăm năm âm nhạc cổ điển phụ thuộc vào giai điệu, Debussy đã dám viết
thứ âm nhạc hầu như tĩnh tại trải dài suốt tác phẩm. Ông đã viết rất nhiều những điệu
nhảy, những tiểu phẩm piano ngất ngây, một tứ tấu đàn dây cung Son thứ mang tính chất
bước ngoặc trong lịch sử âm nhạc thính phòng, và đến cuối đời, là ba bản sonata theo
phong cách Tân Cổ điển độc đáo Sonata for cello; Sonata for flute, viola và
harp; Sonata for violin and piano. Tuy nhiên, kéo giãn thời gian tới những giới hạn của
nó là một đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Debussy.
Trước đó, đã có những nhà soạn nhạc từng thử nghiệm cách này ở một mức độ
nhất định, đặc biệt là Wagner, người mà trong suốt cuộc đời mình, Debussy giữ thái độ
yêu-ghét lẫn lộn. Vào giữa những năm 1880, Debussy thực sự là “một người ngưỡng mộ
Wagner nhiệt thành tới mức quên cả những nguyên tắc xã giao thông thường”, như ông
hồi tưởng lại. Debussy kiếm tiền từ các nhà xuất bản nhờ việc soạn bản rút gọn cho các
vở opera của Wagner. Một người bạn của ông, Pierre Louys, nói rằng Debussy có thể
chơi từ đầu đến cuối vở opera “Tristan und Isolde” mà không cần nhìn bản nhạc. Nhưng
kể từ sau chuyến hành hương đến Festival Bayreuth (nơi chỉ chuyên biểu diễn các vở
opera của Wagner), ông lại thường xuyên chỉ trích Wagner một cách chua cay.
Và opera “Pelléas et Mélisande” như “một kiệt tác của chủ nghĩa Tượng trưng
Pháp, vở opera duy nhất trong sự nghiệp sáng tác của Debussy, đã nhận được rất nhiều
lời khen ngợi cũng như chê bai sau buổi công diễn đầu tiên, tại nhà hát Opéra - Comique
ở Paris vào ngày 30-4-1902 dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng André Messager.
1. Thân thế sự nghiệp.
102
Achille-Claude Debussy; sinh ngày 22-8-1862, mất ngày 25-3-1918. Là một nhà
soạn nhạc người Pháp nổi tiếng. Cùng với Maurice Ravel, ông được coi như nhà sáng tác
nổi bật nhất trong trường phái Âm nhạc ấn tượng (mặc dù bản thân ông không thích thuật
ngữ này được dùng để miêu tả những sáng tác của mình) Ông là tên tuổi lớn trong nền
âm nhạc châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông đã để lại nhiều tác phẩm kinh
điển cho âm nhạc Pháp thời kỳ này, chủ yếu là các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và
các bản solo piano.
Gia đình Debussy có gốc lâu đời, là nhánh của dòng họ Burgundy, đã là nông dân
từ những năm 1600. Thời thơ ấu của nhạc sĩ Claude Debussy ít được biết đến. Khi
Claude sinh ra thì gia đình đang sở hữu một cửa hàng đồ sứ nhỏ và cậu được người cô
Clémentine dạy dỗ. Người cô này có mối quan hệ với nhà sưu tập nghệ thuật Achille-
Antoine Arosa, và ông trở thành cha đỡ đầu của Claude.
2. Hoạt động về Âm nhạc.
Lần đầu tiên Claude đến với âm nhạc là từ chuyến đi Riviera, ở đó cậu được học
piano từ Giovanni Cerutti, một giáo viên người Ý. Được trao học bổng nhà nước, cậu vào
học ở nhạc viện Paris, ở đây, thầy giáo piano Marmontel đã nhanh chóng nhận ra tài năng
âm nhạc đặc biệt của cậu. Cậu còn học hòa âm với Emile Durand và học sơ qua về organ
với César Franck. Để kiếm thêm, Claude còn đi gia sư piano và đệm đàn cho những
người nghiệp dư giàu có. Quá trình làm việc trong các gia đình giàu có đã thường xuyên
đưa cậu đi xa, các chuyến đi Italy và Nga đã có một ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến trí
tuệ và cảm xúc của cậu. Công việc là nghệ sĩ piano cho đại gia đình Marguérite Wilson–
Perlouze đã đem lại cho cậu cơ hội được ở một thời gian trong một trường văn hóa nghệ
thuật rất thú vị, đó là lâu đài đẹp đẽ ở Chenonceaux, cậu đã ở cùng với nhiều nghệ sĩ
khác, trong đó có cả nhà văn George Sand.
Năm 1880, ở tuổi 18, Debussy bắt đầu làm việc cho Nadia von Meck, người bảo
trợ nổi tiếng của Tchaikovsky, và đã cùng với bà đi vòng quanh châu Âu (ở Vienna, cậu
còn được xem cả vở Tristan và Isolde của Wagner). Quá sốt ruột với những hòa âm
truyền thống đang học ở nhạc viện, cậu đã bắt đầu mày mò đưa các chủ đề của De
Musset vào âm nhạc và viết nên bản Trio Piano Son trưởng, đây là tác phẩm mới được
tìm lại.
Debussy cũng dành ba mùa hè (1880 - 1882) để làm việc cho Nadia von Meck,
chơi piano cho gia đình và dạy nhạc cho nhiều đứa con của bà, chúng nhớ đến Debussy
"như một người Pháp tế nhị nhưng vui vẻ, người không bao giờ ở yên một chỗ và luôn
mang lại một sức sống cần thiết cho bầu không khí ngột ngạt của gia đình". Tuy nhiên,
chính một chuyến đi Nga đã quyết định đến sự phát triển tài năng nghệ thuật của
Debussy, bởi vì anh đã khám phá ra âm nhạc của Mussorgsky, người đã vừa qua đời
trong bệnh viện quân y ở St. Petersburg. Những cấu trúc bất hình dạng tuyệt vời và
những hình ảnh chất phác một cách tự nhiên của Mussorgsky đã gây nên một ảnh hưởng
sâu sắc đến sự nghiệp là một nhà soạn nhạc của Debussy. Anh cũng có rất nhiều ấn tượng
khi được nghe âm nhạc dân gian và gypsy ở đây. Cuộc đời nghệ thuật thực sự của
Debussy ở Paris bắt đầu vào cuối năm 1881 khi anh gặp gỡ gia đình kiến trúc sư Vasnier,
103
một trí thức cực kỳ rộng rãi phóng khoáng, có người vợ là một ca sĩ xinh đẹp, người đã
lần đầu tiên hát nhiều bài hát đầu tay của Debussy.
Lập trường âm nhạc và nhận thức của Debussy mang màu sắc của hai khuynh
hướng nghệ thuật chủ đạo trong thời đại của ông, chủ nghĩa Tượng trưng trong văn học
và chủ nghĩa Ấn tượng trọng hội họa, những chủ nghĩa này đã từ bỏ tất cả các hình thức
chính thống, tính hàn lâm học thuật hoặc chỉ đơn thuần là tính thụ động. Và cũng không
ngạc nhiên gì khi khi những chủ nghĩa đó phải chịu những phản ứng coi thường của giới
nghệ thuật được coi là chính thống thời bấy giờ. Từ năm 1885 đến 1887, Debussy sống
tại biệt thự Medici ở Roma sau khi được trao Giải thưởng Roma với bản cantata L’enfant
prodigue (Đứa trẻ lang bạt, 1884). Debussy ngày càng trở nên nổi bật với sự cách tân
nghệ thuật trong thời đại của ông. Ở Roma, ông đã sáng tác hai tác phẩm cho dàn nhạc,
Zuleima và Le printemps (Mùa xuân) lấy cảm hứng từ bức họa nổi tiếng của Botticelli, cả
hai tác phẩm này đều bị hội đồng thẩm định Viện hàn lâm phê bình gay gắt vì chủ nghĩa
phản quy tắc (anti-conformism) của chúng. Điều này đã đẩy sáng tác thứ ba của ông vào
một sự ép buộc đối với một người được nhận Giải thưởng Roma, La demoiselle élue
(Thánh nữ, 1886 - 1887), dựa trên phần lời của Dante Gabriel Rossetti.
Debussy trở nên gần gũi với âm nhạc của Wagner trong sáu năm, từ 1887 đến
1893, và mặc dù, trước công chúng ông tỏ ra không đồng tình với Wagner, nhưng nhiều
nhà phê bình đã nhận thấy rằng đây chỉ là một điệu bộ để che giấu sự ngưỡng mộ và kính
nể của ông đối với âm nhạc của nhà soạn nhạc người Đức này. Tuy Debussy đã từng coi
Wagner là "một lão già chuyên đầu độc tinh thần", nhưng sự ảnh hưởng của Wagner đến
âm nhạc của ông là rất rõ ràng trong các tác phẩm La demoiselle (Thiếu nữ), Pelléas et
Mélisande và Sự hy sinh của St Sebastian.
Trở về Paris năm 1888, Debussy đã cắt đứt mối quan hệ lâu dài với Gaby Dupont
để cưới Lily Texier, và tiếp tục giao thiệp với những nghệ sĩ theo chủ nghĩa Tượng trưng,
tất cả những người này đều là những người ủng hộ Wagner rất mạnh mẽ. Khi Debussy
đến buổi dạ hội âm nhạc Ngày Thứ Ba tại nhà riêng của nhà thơ Stéphane Mallarmé, ông
đã cảm hứng từ một bài thơ của nhà thơ này để viết nên một tuyệt tác đầu tiên, Prélude à
l’après-midi d’une faune (Khúc dạo đầu Giấc nghỉ trưa của thần Điền dã, 1894). Bài thơ
của Mallarmé là hình ảnh về những người phụ nữ trong một buổi trưa mùa hè nóng như
thiêu như đốt, và âm nhạc của Debussy là một sự diễn dịch tài tình bầu không khí đầy ảo
giác và mang tính gợi tả của bài thơ. Đối với khán giả, nó đã thành công ngay trong lần
trình diễn đầu tiên, nhưng đối với các nhà phê bình, nó lại bị gây khó dễ. Tuy nhiên,
Mallarmé lại rất thích thú, ông viết cho Debussy: "Ngài đã dịch ngôn từ của tôi thành
những hòa âm hoàn hảo, ngoại trừ một điều là tác phẩm của ngài còn đi xa hơn thế, nó đã
xuyên sâu vào tận cùng của sự luyến tiếc quá khứ, nó chứa đựng sự cảm nhận phong phú
và sâu sắc về những thứ ánh sáng mơ hồ". Prélude à l’après-midi d’une faune là tác phẩm
điển hình cho phong cách âm nhạc gợi tả tinh tế của Debussy: một sự cảm nhận nửa vời
và hoàn toàn lơ đãng, với một nhóm nhỏ các chủ đề mà dường như không bao giờ được
phát triển một cách trọn vẹn.
104
Tiếp tục với những sáng tác như Trois chansons de Bilitis (1897) (Ba bài hát của
Bilitis) cho giọng hát và piano, và ba Nocturne (1897 - 1898) cho hợp xướng nữ và dàn
nhạc, Debussy đã tập trung vào âm nhạc cho piano để viết nên Tổ khúc Bergamasque
(1895 - 1899) nổi tiếng. Vở opera duy nhất của ông, Pelléas et Mélisande, dựa trên vở
kịch của Maurice Maeterlinck mà ông đã xem ở Paris năm 1893, cũng bắt đầu được viết
trong thời kỳ này. Mười năm sau, nó được trình diễn lần đầu tiên tại Opéra Comique ở
Paris vào ngày 30/4/1902, nó đã tạo ra một sự phản ứng hỗn hợp giữa sự phản cảm gay
gắt và sự phấn khích cuồng nhiệt, chính nó đã làm kết thúc mối quan hệ bạn bè của
Debussy với Maeterlinck, người đã công khai chỉ trích việc Debussy đã từ chối, không
cho một ca sĩ vốn là bạn của Maeterlinck, được hát trong vở opera. Hình như là
Maeterlinck đã không nghe vở opera mãi cho đến tận 1920, khi Debussy đã qua đời.
Ngay sau buổi biểu diễn, ông đã viết cho Mary Garden: "Tôi đã tự thề với mình là tôi sẽ
không bao giờ đi xem Pelléas et Mélisande, nhưng hôm qua tôi đã tự phá lời thề, và tôi
thấy vui. Nhờ có bạn, lần đầu tiên tôi đã hiểu được tác phẩm của chính mình". Trong
Pelléas et Mélisande, Debussy đã tạo ra một sự diễn đạt hư ảo mới, trong đó giai điệu
được dựa trên các nhạc tố của hợp âm ba nốt. Theo một nhà phê bình (Lockspeiser)
"thành tựu lớn nhất trong những năm tháng trưởng thành của Debussy là sự chuyển đổi
của opera vào thi ca".
Ngay sau Pelléas là một tiểu phẩm cho piano, Les estampes (Những bức tranh
khắc) và vào năm 1903, Debussy bắt đầu viết tuyệt tác lớn nhất của ông, La mer (Biển),
gồm ba phác họa giao hưởng cho dàn nhạc. Debussy đã viết cho nhà soạn nhạc André
Messager vào năm 1903: "Có lẽ ngài không biết rằng, tôi luôn luôn hướng đến cuộc sống
thú vị của một thủy thủ, và rằng, chỉ vì những thăng trầm của cuộc đời đã ngăn cản tôi
theo đuổi cái thiên hướng nghề nghiệp thực sự của mình". Chủ đề về nước, một trong
những biểu tượng yêu thích của Debussy, được tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm của
ông, bao gồm cả Pelléas, trong tác phẩm này, nó trở thành một Chủ đềâm nhạc và hội
thoại trọng yếu. Toàn bộ vở opera được choán đầy bởi tập hợp những hình ảnh: suối
nước, biển bão, giếng nước, vẻ tráng lệ của những mặt nước đáng đóng băng, và những
vật thể mờ đục khác. Debussy đã bị ám ảnh bởi cái bản chất biến đổi của nước, bởi
những vòng xoáy, cuộn lại hay tan ra, trong suốt hay mờ đục – nhìn vào những chiều sâu
của nó, với sự hiện hữu đầy sức mạnh và thậm chí là đau đớn của những cảm nhận và tư
duy vô thức.
Sau La mer, Debussy bắt đầu làm việc với tuyển tập thứ hai về Các hình ảnh cho
piano, xuất bản Tổ khúc Bergamasque vàIberia năm 1905, và hoàn thành một tổ khúc
nhỏ cho piano, Góc trẻ thơ, tặng cho Chouchou, con gái của ông, có trong cuộc hôn nhân
lần thứ hai với Emma Moyse Bardac, một phụ nữ có địa vị xã hội cao. Trong năm sau,
Debussy nhận ra rằng ông bị ung thư nặng và bắt đầu phải dùng morphine để vượt qua
những cơn đau dễ dàng hơn, nhưng ông vẫn tiếp tục làm việc và sáng tác, ngay cả khi
yếu đến mức không thể rời khỏi giường. Những khúc dạo đầu cho piano tập 1 được hoàn
thành năm 1910, và trong thời gian đó, Debussy đã có thể gặp được những nhà soạn nhạc
châu Âu quan trọng nhất trong thời đại của ông. Ông đã gặp Richard Strauss, nhà soạn
nhạc đương đại hàng đầu của Đức, ở Paris năm 1906 và ngay sau đó viết một bài báo về
105
ông (sau này được xuất bản ở Monsieur Croche antidilettante, một tuyển tập về phê bình
âm nhạc của Debussy) và năm 1910, ông gặp Gustav Mahler, âm nhạc của Mahler bấy
giờ bị chế nhạo ở Paris (nó bị coi là quá theo phong cách Schubert và Slave).
Có rất nhiều mâu thuẫn xung quanh sự khác nhau của âm nhạc Đức và âm nhạc
Pháp trong suốt thời kỳ này, và sự tranh luận về khuynh hướng dân tộc và bản chất âm
nhạc thuần túy đã dự báo trước cho một cuộc xung đột bao trùm khắp châu Âu sau đó
một thời gian ngắn. Có những năm mà châu Âu hình thành Đồng minh Ba nước giữa
Đức, Áo-Hung, Italy, và Hiệp ước Ba bên giữa Pháp, Nga, Anh, tất cả các phe này đều
đang lao vào chuẩn bị cho chiến tranh. Trong bầu không khí ngột ngạt và căng thăng của
các mối quan hệ quốc tế, cả Debussy và Fauré đều từ chối không tham gia vào Festival
Pháp ở Munich.
Debussy gặp Igor Stravinsky năm 1910. Họ nói chung là mang những quan điểm
âm nhạc khác xa nhau, và mối quan hệ bạn bè của họ cũng không phải thực sự là êm đẹp,
tuy nhiên, trên thực tế thì họ đã hết sức ngưỡng mộ các tác phẩm của nhau.
Vào tháng 2 năm 1911, Debussy bắt đầu viết nhạc sân khấu cho Le martyre de
Saint Sebastien (Sự hy sinh của St Sebastien), vở kịch tôn giáo năm màn của Gabriele
d’Annunzio, được biểu diễn ngày 25/5/1911 tại nhà hát Châtelet ở Paris với biên đạo múa
do Fokine và trang phục do Bakst. Mặc dù có phần âm nhạc gợi tả thú vị của Debussy,
nhưng tác phẩm đã không thành công. Giữa những năm 1910 và 1915, Debussy hoàn
thành các Prelude và Etude của ông, chúng đã được coi là những tuyệt tác của âm nhạc
piano thế kỷ 20, tiếp đó, năm 1912, là vở ballet Jeux (Những trò chơi), được sáng tác cho
đoàn Ballet Russe của Diaghilev, theo ý tưởng của Nijinsky, một diễn viên kiêm biên đạo
múa. Một vở ballet khác cho thiếu nhi, La boite à joujou (Hộp đồ chơi), ra đời năm 1913.
Tác phẩm cuối cùng của ông, Sonata cho violin, viết năm 1917. Debussy mất ở Paris
ngày 25 tháng 3 năm 1918 vì bị bệnh ung thư.
Mặc dù Debussy sáng tác thất thường và không liên tục, nhưng ông đã cực kỳ
thành công trong việc phác họa lại những hình ảnh phù du, thoáng hiện lên trong nhận
thức của con người về âm nhạc. Debussy đã không lập nên bất cứ trường phái nào và
cũng không đưa ra bất cứ một quy tắc định dạng lý thuyết nào đối với sự diễn đạt của ông
dựa trên sự thực chứng với các âm sắc, hòa âm và sự thể hiện âm nhạc trong nhận thức
của chúng ta về tự nhiên.
106
CHƯƠNG VI: GIỚI THIỆU MỘT SỐ KHUYNH HƯƠNG MỚI CỦA ÂM NHẠC
THẾ KỶ XX.
Bài 1: Âm nhạc biểu hiện
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc
Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc.
Chủ nghĩa biểu hiện (expressionism) trong âm nhạc nổi lên vào quãng thời gian
giữa hai thế chiến. Những nhà soạn nhạc đã thông qua chủ nghĩa này để diễn đạt những
nỗi lo âu, hoảng sợ và bi quan về số phận con người trong thế kỷ 20. Họ đã thay thế các
cấu trúc hài hòa của truyền thống cổ điển và lãng mạn bằng những cảm giác nhức nhối,
bất an của cấu trúc âm nhạc phi điệu thức.
Nhân vật trung tâm của chủ nghĩa biểu hiện là Arnold Schoenberg. Đối với nhà
soạn nhạc này, "biểu hiện hóa" trong âm nhạc gắn liền với sự "phi điệu thức hóa". Bản
Tứ tấu số 2 (1907-1908) chính là tác phẩm đầu tiên của Schoenberg được thực hiện theo
nguyên tắc đó. Tác phẩm này có 4 chương và qua các chương nó dần dần mất đi tính điệu
thức.
Sau sự thử nghiệm với Tứ tấu số 2, năm 1909,
Schoenberg viết vở nhạc kịch một màn Erwartung (Nỗi
lo sợ).
Đó là một tác phẩm đỉnh cao chủ nghĩa biểu hiện trong
âm nhạc, kể về một người phụ nữ không tên đi tìm người
yêu của mình. Cô đã phải thực hiện một hành trình gian
khổ, băng qua khu rừng rậm để đến được một vùng thôn
quê. Tại đây, cô đã tìm thấy xác chết của người yêu mình
nằm bên cạnh căn nhà của một người phụ nữ khác. Kể từ
đó, vở kịch chuyển sang mô tả sự khủng hoảng nặng nề
về tâm lý: người phụ nữ không tin vào những gì cô nhìn
thấy và trở nên hoang tưởng rằng chính mình đã giết chết
người yêu. Toàn bộ không khí và tinh thần của vở kịch
đều được phản ánh qua cái nhìn chủ quan của nhân vật
chính, tức là người phụ nữ không tên. Cảm xúc đau đớn của cô cũng được phản ánh trong
âm nhạc. Về mặt mỹ học, âm nhạc của Schoenberg trong vở kịch này có thể được so sánh
với bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch: toàn bộ bối cảnh trong tranh đều bị ảnh
hưởng bởi tiếng thét của nhân vật chính. Sự so sánh này cho thấy bản chất nghệ thuật đa
ngành của chủ nghĩa biểu hiện. Nói cách khác, chủ nghĩa biểu hiện trong văn học giống
với chủ nghĩa biểu hiện trong hội họa và văn chương.
Đến 1913, Schoenberg cũng viết xong một vở nhạc kịch nữa, Die Glückliche
Hand (Bàn tay May mắn). Một lần nữa, âm nhạc lại là phi điệu thức. Cốt truyện được bắt
đầu với một người đàn ông không tên, luôn phải mang trên lưng mình một con quái vật.
Anh ta đã rất đau đớn khi vợ mình bỏ theo một người đàn ông khác. Con quái vật biến
Arnold Schoenbergtrong
phòng làm việc.
107
mất khi anh ta ảo tưởng rằng vợ anh sẽ quay lại và hạnh phúc của anh sẽ trở lại. Nhưng
khi nhân vật chính gặp lại vợ và cầu xin cô ta quay lại, người vợ đã từ chối và đặt một
hòn đá lên lưng anh ta. Hòn đá biến thành con quái vật, và cảnh cuối cùng của vở kịch lại
giống như cảnh ban đầu của nó: người đàn ông mang trên lưng mình con quái vật. Cốt
truyện của vở kịch mang tính biểu tượng cao, dường như nó kể về một giai đoạn trong
chính cuộc đời của Schoenberg, khi vợ ông rời bỏ ông để đi theo họa sỹ Richard Gerstl.
Mặc dù người vợ đã trở về ngay khi Schoenberg bắt đầu viết tác phẩm nhưng mối quan
hệ giữa họ đã không thể được như trước.
Vào khoảng năm 1911, họa sỹ Wassily Kandinsky đã viết cho Schoenberg một
bức thư bày tỏ mong muốn được làm bạn với ông và hợp tác với ông trong công việc. Hai
người nghệ sỹ này có cùng quan điểm, đó là nghệ thuật nên diễn tả tiềm thức một cách tự
do và không bị trói buộc bởi nhận thức. Bài chuyên luận Bàn về Linh hồn trong Nghệ
thuật (Concerning The Spiritual In Art -1914) của Kandinsky chính là một sự minh họa
nổi tiếng cho quan điểm này. Còn với Schoenberg, đó là bộ Năm Tiểu phẩm cho dàn
nhạc hoàn thành năm 1909. Chúng được cấu trúc một cách tự do và dựa trên tiềm thức.
Mục đích của các tác phẩm này là khiến người nghe không thể nào nhận ra được hình
thức của chúng. Bản chất nghệ thuật đa ngành của chủ nghĩa biểu hiện cũng được tìm
thấy trong các bức họa của Schoenberg, ra đời từ sự khích lệ của Kandinsky. Mối quan
hệ giữa Schoenberg và Kandinsky có lẽ là mối quan hệ có ý nghĩa nhất đối với âm nhạc
biểu hiện, thậm chí còn ý nghĩa hơn cả mối quan hệ giữa chính các thành viên trong
Trường phái Vienna Đệ Nhị.
Âm nhạc của Anton Webern chỉ gần với phong cách biểu hiện của Schoenberg
trong một thời gian ngắn, từ 1909 đến 1913. Những đóng góp của Alban Berg cho chủ
nghĩa biểu hiện có phong phú hơn Webern, bao gồm Piano Sonata Op.1 và bộ Bốn Bài
hát Op.2 và đặc biệt là vở opera Wozzeck, sáng tác trong giai đoạn 1914-1925.
Vào quãng thời gian vở Wozzeck được trình diễn (năm 1925), Schoenberg cũng
đã giới thiệu với các học trò kỹ thuật 12 âm của ông. Kể từ 1923, Schoenberg không còn
đi theo chủ nghĩa biểu hiện nữa. Tuy nhiên, những gì mà ông đã tạo dựng cho chủ nghĩa
biểu hiện trong giai đoạn 1908-1923 có một tầm ảnh hưởng khá rộng đối với nghệ thuật
nói chung và nghệ thuật âm nhạc nói riêng. Một trong những sự ảnh hưởng đáng được kể
đến là vở opera Lâu đài Bá tước Râu Xanh (1911) của Béla Bartók, nhấn mạnh sự kịch
tính tâm lý trong âm nhạc.
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.
108
Bài 2: Âm nhạc giảm thiểu
Mục tiêu
Kiến thức: Cung cấp kiến thức về sự ra đời và cách cấu tạo cũng như những đặc
điểm của Âm nhạc giảm thiểu.
Kỹ năng: Hiểu biết về Âm nhạc giảm thiểu, nghe và nhận biết được Âm nhạc giảm
thiểu.
Thuật ngữ giảm thiểu được ra đời từ một nhóm họa sĩ ở New York, mà tôn chỉ
sáng tác của nhóm họa sĩ này là hướng tới sự đơn giản nhất có thể để tạo ra các tác phẩm
nghệ thuật dễ dàng được công chúng đón nhận. Những tác phẩm hội họa tiêu biểu nhất
của nghệ thuật giảm thiểu đơn giản chỉ là những đường kẻ và các chấm.
Âm nhạc giảm thiểu là một xu hướng sáng tác của âm nhạc đương đại, bắt đầu
xuất hiện từ những năm 60 TK XX ở Mỹ (mặc dù nó lại được coi là một phần quan trọng
của âm nhạc cổ điển Mỹ). Ở Pháp, xu hướng sáng tác này được gọi là loại âm nhạc lặp
lại, vì trong các tác phẩm viết theo kiểu này luôn sử dụng một kỹ thuật điển hình đó là
nhắc lại. Những nhạc sĩ tiêu biểu của trường phái âm nhạc giảm thiểu là La Monte
Young, Terry Riley, Steve Reich, Philip Glass và John Adam. Tác phẩm được coi là đặt
nền móng cho âm nhạc giảm thiểu là In C (trên giọng đô trưởng) của T.Riley viết vào
năm 1964.
Nhìn chung, âm nhạc giảm thiểu là sự quay trở về với loại âm nhạc có điệu tính,
đôi khi sử dụng cả điệu thức trung cổ, có mạch đập tiết tấu đều đặn và sự lặp đi lặp lại
của một môtip âm nhạc ngắn. Đặc điểm cơ bản của âm nhạc giảm thiểu chính là sự lặp đi
lặp lại một câu nhạc có giọng điệu rõ ràng và tiết tấu vững chắc. Sự biến đổi tiếp theo có
thể dùng thủ pháp canon, tăng cường hòa âm hoặc màu sắc của các nhạc cụ. Mục đích
của loại âm nhạc này làm cho người nghe nhớ giai điệu và dần dần dẫn con người đến
trạng thái thôi miên hoặc ru ngủ.
Như vậy, thực chất âm nhạc giảm thiểu ra đời là sự công kích chống lại sự phức
tạp của âm nhạc serie toàn phần đang thống trị ở châu Âu vào thời điểm đó, hay nói cách
khác, âm nhạc giảm thiểu được coi là sự nổi dậy của người Mỹ để chống lại châu Âu.
Những nhạc sĩ thuộc trường phái âm nhạc giảm thiểu cũng muốn nhấn mạnh đến yếu tố
cảm xúc trong các tác phẩm, điều đang bị bỏ ngỏ trong các tác phẩm viết theo âm nhạc
seri toàn phần, một loại âm nhạc đề cao nhân tố trí tuệ của con người hơn là trái tim.
Sau điểm khởi đầu khá gần với âm nhạc cổ điển, các nhạc sĩ thuộc trường phái âm
nhạc giảm thiểu bắt đầu tìm những hướng đi mới. Vào thời gian đó, âm nhạc của châu Á
(đặc biệt là âm nhạc Ấn Độ và Indonesia) đã được nhiều người biết đến, và bắt đầu phát
triển rất phổ biến ở Mỹ. Trong hai loại âm nhạc này, có rất nhiều những quãng nhỏ hơn
nửa cung và có những tiết tấu rất khác biệt so với âm nhạc Tây Âu. Chính vì sự mới lạ
nên nhiều nhạc sĩ đã tổng hợp các nhân tố này, sau đó kết hợp với những nét đặc trưng có
trong nhạc rock, jazz, blue, nhạc ngẫu hứng, điện tử có từ những năm 30-40 TK XX, đó
là hòa âm nghịch, các câu nhắc lại và bè trì tục để tạo thành một tác phẩm mới. Vào
khoảng thời gian đó, người ta thấy trên vô tuyến truyền hình và nhiều bộ phim mới sản
xuất đã sử dụng rất nhiều tác phẩm âm nhạc giảm thiểu kiểu này, điển hình là những tác
109
phẩm của P.Glass, và được đông đảo công chúng đón nhận. Tuy nhiên, âm nhạc giảm
thiểu cũng nhận được nhiều lời chỉ trích từ các nhà phê bình âm nhạc. Họ cho rằng âm
nhạc giảm thiểu là loại âm nhạc thương mại, phiến diện và không có tâm hồn.
L. M. Young (sinh 1935) được coi là người đi tiên phong cho xu hướng sáng tác
âm nhạc giảm thiểu. Cuối những năm 50 TK XX, ông đã sử dụng lại những tác phẩm viết
theo nguyên tắc của âm nhạc serie và mang đến cho nó một dáng vẻ hoàn toàn mới. Điển
hình là tác phẩm Tam tấu cho đàn dây viết vào năm 1958. Trong tác phẩm này L.M.
Young đã lấy cảm hứng từ những sáng tác của Webern (một nhạc sĩ tiêu biểu của trường
phái Viên mới sáng tác theo kỹ thuật dodecaphone) rồi sử dụng một nốt ngân dài trong
nhiều phút trên nền những hợp âm thuận và những hợp âm bảy trưởng. Tác phẩm mang
lại một cảm giác hoàn toàn mới lạ, như dẫn người nghe đến một thế giới khác.
Trong tác phẩm Con rùa: những giấc mơ và cuộc hành trình của nó, L.M. Young
đã áp dụng nguyên tắc ngẫu hứng của một nhạc công và một ca sĩ theo kiểu biến tấu hòa
thanh trên nguyên tắc đã tổng hợp lại. Chính nhạc sĩ cũng đã chơi rất nhiều bản nhạc theo
nguyên tắc sử dụng một motif giai điệu như một bè trì tục, trên đó là các biến tấu và các
câu chơi lệch nhau.
Khoảng từ năm 1961, L.M. Young đã chú ý đến loại âm nhạc ngẫu hứng. Ông đã
viết một tác phẩm cho kèn saxophone sopranino mà ở đó, nhạc công sẽ chơi ngẫu hứng
trên những điệu thức trung cổ với tốc độ nhanh và đệm bằng bourdon (một loại nhạc cụ
quay cổ). Tác phẩm chịu ảnh hưởng từ John Coltrane và âm nhạc của người Ấn Độ.
Nếu như L.M. Young được coi là người đặt nền tảng cho âm nhạc giảm thiểu, thì
T.Riley (sinh 1935) lại được coi là người đã mở ra hai nhân tố đặt nền móng cho âm nhạc
giảm thiểu: việc quay trở lại âm nhạc có điệu tính và sự nhắc lại của một môtip âm nhạc.
Trong tác phẩm Tứ tấu đàn dây viết vào năm 1960, T.Riley đã đến gần với loại âm nhạc
có giọng điệu, lấy cảm hứng từ nốt ngân dài trong bản Tam tấu cho đàn dây của L.M.
Young. Còn trong bản Tam tấu cho đàn dây viết năm 1961, T.Riley sử dụng kỹ thuật
nhắc lại nhờ vào băng từ được thử nghiệm ở Trung tâm âm nhạc San Francisco. T.Riley
đã làm rất nhiều thử nghiệm với băng từ. Ông đã ghi lại tiếng piano, giọng nói, tiếng cười
hay cả chương trình ở đài phát thanh, sau đó sử dụng chúng dưới dạng những môtip nhắc
lại. T.Riley đã gặt hái được nhiều những thành công với băng từ, và đỉnh cao nhất chính
là tác phẩm In C viết vào năm 1964, đánh dấu một bước quan trọng trong việc để các nhà
phê bình có thể đưa ra được định nghĩa về âm nhạc giảm thiểu. Ngay cái tên của tác
phẩm (giọng đô trưởng) cũng chỉ ra một sự đơn giản nhất trong vấn đề về giọng điệu để
bất cứ một nhạc công nào, hoặc bất cứ một loại nhạc cụ nào cũng có thể chơi được. Tác
phẩm gồm 53 môtip âm nhạc, mỗi lần nhắc lại, nhạc sĩ mong mọi người nhớ đến nó. Đây
được coi là tác phẩm đặt nền móng cho âm nhạc giảm thiểu, bởi nó có mạch đập đều đặn,
âm nhạc có giọng điệu, các môtip âm nhạc ngắn được lặp lại, và tất cả những nhân tố này
tạo nên một thế giới âm thanh rất độc đáo. Tác phẩm thu âm ở hãng đĩa Colubia và được
phát hành dưới dạng đĩa nhựa vào năm 1968. In C đã được đón nhận rất nồng nhiệt ở
nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là nhạc sĩ Takomitsu (người Nhật Bản) và nhạc sĩ
Cornelius Cardew (người Anh) đã đánh giá rất cao tác phẩm này.
110
Năm 1969 T.Riley đã viết tác phẩm Cầu vồng trên đường cong của chân trời, dựa
trên một thang âm và tiết tấu của Ấn Độ cho đàn phín diễn tấu. Tác phẩm được công
chúng tán thưởng nồng nhiệt, và chính nó đã khẳng định vị trí của ông trong dòng chảy
âm nhạc lúc bấy giờ.
Nối tiếp các kỹ thuật mà T.Riley đã đặt nền móng, Steve Reich (sinh 1936) đã
phát triển kỹ thuật gần như canon. Ông sử dụng một câu nhạc và chồng lên đó là băng từ
của nhiều giọng nói. Hai tác phẩm Piano Phase (1967) và Violon Phase (1967) được coi
là những tác phẩm tiêu biểu nhất. Trong tác phẩm Violon Phase, T.Reich đã chồng violon
với ba băng từ. Vào năm 1979, khi xuất bản tác phẩm này, ông đã cho chồng 4 violon
hoặc 1 violon cùng 3 tổng hợp thu thanh.
Người đạt được những thành công vang dội nhất viết theo ngôn ngữ âm nhạc giảm
thiểu, chính là Philip Glasse (sinh 1937). Lấy từ những kinh nghiệm thử nghiệm băng từ
của T.Reich, P.Glass đã có bước tiến xa hơn. Âm nhạc của P.Glass chịu ảnh hưởng của
âm nhạc châu Phi và âm nhạc Ấn Độ trên phương diện tiết tấu; chịu ảnh hưởng về giai
điệu, hòa âm nghịch, sự tăng cường độ của nhạc rock. P.Glass đã xuất bản 20 tác phẩm
sau khi tốt nghiệp trường Juilliard khi cùng làm việc với Nadia Boulanger và sau đó là
Pierre Boulez. Quan điểm của ông là âm nhạc "không có khởi đầu, không có kết thúc”.
P.Glass đã chứng minh quan điểm của mình qua vở nhạc kịch Einstein trên bãi biển, viết
vào năm 1976 gồm 1 màn dài 4h30'. Sau sự thành công của nhạc kịch, tên tuổi của
P.Glass trở nên nổi tiếng hơn nhờ vào những tác phẩm viết cho nhạc phim lấy chất liệu từ
nhạc pop. Ngoài ra ông còn viết 6 tứ tấu, 9 giao hưởng, 6 concerto với những chủ đề và
tiết tấu khác nhau, nhưng tất cả đều rất đáng nhớ và là những tác phẩm điển hình của âm
nhạc giảm thiểu.
Sau những thành công vang dội của P.Glass, ở New York đã có hàng loạt nhạc sĩ
đi theo con đường sáng tác này như Meredith Monk, Frederic Rzewski, Pauline Oliveros,
James Tenney... Xu hướng sáng tác âm nhạc giảm thiểu cũng lan mạnh sang châu Âu với
những tên tuổi như Louis Andriessen (Hà Lan), Gavin Bryar và Michael Nyman (Anh),
Renaud Gagneux (Pháp), Arvo Part (Estonia), Henryk Górecki (Ba Lan)...
Sự thành công của âm nhạc giảm thiểu cũng là tiền đề cho sự phát triển của nghệ
thuật nhảy múa đương đại. Rất nhiều nhà biên đạo múa nổi tiếng trên thế giới, đã chọn
âm nhạc đương đại cho các tác phẩm múa của mình như Merce Cunninggham, Morton
Ferdman, Anna Halrpin, Mats Ek...
Mối liên hệ mật thiết giữa hội họa và âm nhạc giảm thiểu cũng được thể hiện rõ
nét. Nhiều triển lãm hội họa đã trưng bày những tác phẩm vẽ theo bút pháp giảm thiểu
trên nền của âm nhạc giảm thiểu. Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa âm nhạc giảm thiểu và
nghệ thuật thị giác khi kết hợp với nhau, thì số lượng công chúng yêu thích nó đã tăng
theo cấp số nhân. Hai nhạc sĩ được nhắc đến nhiều nhất trong mối liên hệ này là P.Glass
và A.Part.
Kỹ thuật nhắc lại cũng trở thành một thủ pháp sáng tác được rất nhiều loại nhạc
phổ thông mang tính chất quần chúng sử dụng, thí dụ như nhạc pop của Andy Warthol.
111
Cho dù bị chỉ trích từ nhiều nhà phê bình, nhưng âm nhạc giảm thiểu đã có một
chỗ đứng khá vững chắc trong lòng công chúng và gặt hái được nhiều thành công cho
đến những năm 80, 90 TK XX, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông đại chúng
Tài liệu tham khảo: Trương Nguyệt Ánh: Trích giảng Âm nhạc Châu âu – Nửa
cuối thế kỷ XIX.