This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
PHÚ YÊN THẬP CÀNH
ĐỀ VỊNH
Núi Đá Bia (1)
Kính dâng lên anh linh
Thầy Đà Giang (2)
Trần Sỹ
Đỉnh non Bia Đá phủ mù sương,
Đừng sững (3) tầng cao trời một phương. (4)
Đèo cả hôm nao tràn giặc Hán,
Rừng sâu (5) buổi ấy trú xe Đường. (6)
Ngàn thu bi tự mây mài nét, (7)
Muôn thuở danh thần sử rọi gương.
Ai kẻ chạm bia giờ khuất bóng,
Khiến người qua đó cảm hoài vương…
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Lên Núi Chóp Chài, Cảm Tác (8)
Một sáng lên thăm ngọn Chóp Chài,
Ngắm vời (9)sông biển dãi cầu dài ...
Ngại (10) vàng đồng ruộng mênh mông trải,
Nhỏ đẹp nhà thôn lác đác cài.
Lối nhựa thu đưa thiên lý khách,
Vầng mây (11)đông phủ vi ba đài.
Nơi nao dâu tháp (12)trong huyền thoại
kể chuyện tiền nhân thủa (13) mở, khai...
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Thăm Núi Nhạn Tháp
Đỉnh non Tháp Nhạn nắng mai tươi,
Mây trắng trời xanh, lác đác người.
Hoa điểm nhấp nhô ven mọi nẻo,
Đài xây dang dở tự bao thời.
Đền Chiêm nỗi nhớ tràn muôn thuở,
Tượng Phật niềm tin tỏa khắp nơi!
Chóp tháp mấy chòm mai (14)biệt dạng,
Chạnh lòng, hoài cảm dễ hồ vơi...
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
ChiềuTrên Đỉnh
GÀNH ĐÁ DIÃ
Sóng nước bao năm cuộc biển dâu,(15)
Xói mòn sa thạch hiện kỳ khâu.(16)
Trụ rêu gió ngập, bao chìm nổi;
Dĩa đá sương in, lắm dãi dầu.
Yến tiệc địa tiên (17)lưu "Đá Dĩa",
Xứ thôn ngư phủ gọi "Tiên Châu".(18)
Đỉnh cao mây ngắm bâng khuâng nghĩ:
Lại một kỳ quan chốn địa đầu!
Yên Lĩnh Nguyển Đảm
Hòn Yến Đầu Xuân
Tuyệt ngạn (19)vút cao đá dựng xây,
Mênh mông trời biển với ngàn mây.
Cù Lao đất lở màu hồng ửng,
Hòn Yến rêu phong sóng bạc vây.
Vàng rực nắng mai hoà nước biếc,
Tưng bừng gió sớm ngập ghe đầy.
Đầu xuân ngắm cảnh lòng mơ ước:
Hoá cánh chim trời viếng đó đây...
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Gành Bà(20
Một Buổi Lãng Du
(Cùng lớp chuyên Toán Trường Nguyễn Huệ 82 - 85)
Muôn đá nhấp nhô chốn biển, gành;
Đá xây sừng sững tựa tường thành.
Cát vàng mịn trải ven thềm vắng,
Sóng bạc vui reo với nước thanh.
Nắng rải trời cao màu ảo hoá,
Gió đưa khơi thẳm vị an lành.
Cảnh phong hùng vĩ mây liền núi,
Trời biển hoà đồng một sắc xanh...
Yên Lĩnh Nguyển Đảm
Viếng Đập Đồng Cam, Cảm Vịnh
(Nhân một chuyến viễn du của toàn trường Nguyễn Huệ)
Đá loạn đầy sông, cây điểm xanh,
Nước cao thác đổ cuộn cuồng nhanh.
Thẳng băng vách đập vương mây tuyết,
Dốc ngược sườn non ngập lá cành.
Bản nhạc sơn tuyền nơi Tượng Huyện,
Bức tranh nguyệt tuyết chốn Hoa Anh.
Xóm làng đồng ruộng nhờ nơi đập
Phú thịnh phì nhiêu, thật vẹn danh!
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Đến Hồ Thủy Điện Sông Hinh
Ngút xa lam biếc núi xây viền,
Núi chạy vòng cung, đập tiếp liền…
Bát ngát tiềm long(21)hồ bán nguyệt,
Yên bằng ẩn kiệt nước thanh thiên.
Thuyền nâu một lá lênh đênh nổi,
Cò trắng vài đôi lờ lững nghiêng.
Mây nước quạnh hiu nơi tụ tích,
Thế năng (22)thủy lượng chốn lâm tuyền...
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Vịnh Chùa Bửu Lâm
Bửu Lâm Tự, một sáng thăm chùa,
Phật tượng mây vương chuông vọng khua.
Mấy vị tăng nhân lo tưới xới,
Muôn loài dị thảo nở chen đua.
Nhiều tầng thiền cảnh, chân dồn bước,
Một cõi u lâm, rễ ngập tua.
Cạnh Học Viện hoằng dương Đạo Pháp,
Suối trong dẫn tưới khắp, ba mùa...
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
Trường Nguyễn Huệ
Thân tặng nguyên học sinh
trường Nguyễn Huệ Tuy Hoà
Nguyễn Huệ học đường tự khởi lai,
Rồng mây (23)cửa Võ (24)lắm danh tài.
Kinh luân thao lược đâu chùn bước,
Khoa học văn chương há nhượng ai.
Tâm mỹ vẫn luôn gìn chẳng đổi,
Tình thâm hằng mãi nhớ không phai.
Ngôi trường, điểm tựa trong tâm cảm;
Của vạn môn sinh chốn vũ đài!
Yên Lĩnh Nguyễn Đảm
CHÚ THÍCH (1) Bài "Núi Đá Bia" phỏng hầu hết theo ý bài thơ của cụ Phan Thanh Giản,
qua bản dịch của Việt Ngâm trong báo Tiếng Dân; Trần Sĩ và Nguyễn Đình Cầm
sao chép lại trong "Địa dư Phú Yên" (1937; thấy nhiều bài biên khảo ghi 1938.
Người viết có bản photocopie lần in đầu 1937 theo sách lưu trữ ở Thư viện
Trung ương với ký số M.11068):
Mảnh đá đầu non dừng,
Tầng cao ngất một phương.
Chia bờ nêu cột Hán,
Đuổi giặc trú xe Đường.
Chữ triện mây lu nét,
Công thần sử dọi gương.
Chạm bia người xa vắng,
Hành khách chệnh lòng thương.
(2) Đà Giang là tên chữ (tự danh) của Thầy Trần Sĩ. Có hai cách đặt tên
chữ:
Một là dùng chữ có liên quan đến tên thật. Cụ Bùi Kỷ tự là Ưu Thiên vì
nước Kỷ (một tiểu quốc ở Trung Hoa thời cổ) có người lúc nào cũng ngay ngáy
lo trời (ưu thiên) sập! Tên chữ của cụ Nguyễn Văn Thành là Tiểu La, vì trong
truyện Tàu có nhân vật tên Tiểu La Thành.
Thuở nhỏ, người viết, sau khi đọc một bài nói về tự danh, đã đặt tên chữ
cho mình là Trung Can; vì trong gan (trung can) có mật, mà mật là đảm theo
tiếng Hán Việt.
Một hôm hỏi chuyện cụ thân sinh:
-Sao Thầy Trần Sĩ lúc nào cũng gọi con là Đởm?
-Tên con là Đảm với nghĩa: "gánh vác" (đảm đang). Chắc thầy con tưởng
với nghĩa "mật" (can đảm), mà với nghĩa này có thể đọc "Đởm", Việt nam Sử
Lược (Trần Trọng Kim) ghi tên vua Minh Mạng là đảm với nghĩa “mật”
Theo Đại Nam Quấc Âm Tựu Vị thì lại khác : Có một ông Hoàng nào đó tên
Đảm với nghĩa gánh vác”Do đó, để cử tên (húy danh) chữ này được đọc là Đãm
hay Đởm. Cũng theo Quấc âm Tự Vị thì “mật” là đãm chứ không phải là đảm
(không thấy ghi là để kiên cữ gì(Để cữ tên vua Minh Mạng).
Vì không hợp nghĩa và cũng vì trùng với tên tiền nhân nên ông cụ không
cho dùng tên tự ấy.
Hai là dùng một địa danh có liên quan "đối nhân" (en personne, mượn chữ
trong ngành luật) nào đó. Đông Hồ là một cảnh đẹp ở Hà Tiên. Thi sĩ Lâm Tấn
Phát rất ái mộ thắng cảnh này nên lấy Đông Hồ làm tên chữ. Sông Đà Rằng là
nguồn tự hào của dân Phú Yên nên Đà Giang trở thành tên tự của Thầy Trần Sĩ.
Tên tự thường đặt trước tên thật, trong trường hợp cần tỏ vẻ trang trọng:
Ưu Thiên Bùi Kỷ, Lệ Thần Trần Trọng Kim, Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố...
Tên tự có thể được lấy làm bút hiệu, nhưng bút hiệu không phải là tên chữ,
không thể đặt trước tên thật, nếu không thoả một trong hai điều kiện nói trên.
Giới trẻ, kể từ thời Tự Lực Văn Đoàn, coi "cái kiểu cách Á Nam Trần Tuấn
Khải" đó nặng nề thiếu tính chất trẻ trung nên bỏ không dùng đến.
Ai cũng có thể có tên chữ mà không cần phải viết lách gì chút ít. Trong lý
lịch cá nhân thường thấy:
Họ và tên:.................
Tên tự:......................
(3) "Đừng sững" là phương ngữ Phú Yên, hiện hầu như bị quên lãng. Ngoài
nghĩa sừng sững nó còn bao hàm ý trường tồn, khó suy sụp đổ ngã.
"Trên chóp núi Đá Bia thuộc dãy Đèo Cả có một hòn đá to lớn đứng đừng
sững như một tấm bia dựng".
(Trần Sĩ, Địa dư Phú Yên, trang 37)
Trong "Đại Nam Quấc (13)
Âm Tự Vị" 1895 và tự điển Việt Nam của Hội Khai
Trí Tiến Đức 1931 không có từ "Đừng sững".
(4) Về câu thừa này (trong thơ Đường câu 1 gọi là phá; câu 2: thừa, câu 3
và 4: thực; câu 5 và 6: luận; câu 7 và 8: kết) lúc đầu: