A – KIẾN THỨC CHUNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ Chuyên đề 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN I. Khái niệm và chủ trương, đường lối của của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Thực chất CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - 1
628
Embed
truongchinhtrinb.edu.vntruongchinhtrinb.edu.vn/Uploads/Tai_lieu/files/Boi duong... · Web viewNgoài ra, Đoàn thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng thông qua
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
A – KIẾN THỨC CHUNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ
Chuyên đề 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
I. Khái niệm và chủ trương, đường lối của của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn
là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại,
gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu
quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng
giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội
trong nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới giàu có, công
bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa. Thực chất CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ
kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp. Điều đó có nghĩa là không chỉ
phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ
các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, và đời sống văn hóa, tinh
thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả
nước nói chung.
Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển
biến quy trình kĩ thuật sản xuất từ trình độ thủ công sang một nền sản xuất
tiên tiến, hướng tới một nền sản xuất hàng hóa lớn, gắn kết vối công nghệ
chế biến và thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng
các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp.
1
2. Chủ trương, đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn
Trong từng thời kỳ phát triển, Đảng ta lại hoàn thiện những quan
điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện thực tế và xu
thế vận động của thời đại. Trên cơ sở quan điểm phát triển chung, các
ngành, các cấp vận dụng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành
mình. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn cần quán triệt các quan điểm sau:
- Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp và xây dựng
nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn. Đây là
nhiệm vụ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình
kinh tế, chính trị xã hội, củng cố liên minh công nông với tầng lớp trí thức
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải tạo ra một nền nông
nghiệp hàng hóa đa dạng trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, đáp ứng
nhu cầu trong nước và hướng mạnh về xuất khẩu.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải ưu tiên phát triển các
ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm khai thác nguyên vật liệu
tại chỗ, sử dụng nhiều lao động và yêu cầu ít vốn, chú trọng phát triển các
cơ sở có quy mô vừa và nhỏ kể cả quy mô hộ gia đình.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải đảm bảo cho công
nghiệp nông thôn có trình độ công nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ
truyền thống để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đủ khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế. Phát huy lợi thế của từng vùng và cả
nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ để phát triển hàng
hóa đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm với nhiều
thành phần kinh tế.
2
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển kinh tế đô thị và các khu công nghiệp, trong đó cần khuyến khích
phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động hiện đang
tập trung ở đô thị vào phát triển ở nông thôn.
- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn phải dựa trên cơ sở sử dụng
hợp lí các nguồn tài nguyên đất, nước, rừng; đảm bảo những yêu cầu về cải
tạo môi trường sinh thái ở nông thôn.
II. Mục tiêu và giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là xây
dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kĩ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng
năng suất lao động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nhanh chóng
nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước
ta tiến lên văn minh, hiện đại.
Nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn:
- Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, xây dựng các vùng
chuyên canh sản xuất trên quy mô lớn và từng bước hiện đại hóa, đáp ứng
yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Trước mắt tập trung một
số ngành chủ lực như: cây lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (cao su,
Các ưu tiên cần được triển khai thực hiện trong 10 năm tới (2010-
2020) trước mắt được xác định trong định hướng chiến lược phát triển
nông thôn bền vững ở Việt Nam bao gồm:
- Mục tiêu và cũng là động lực phát triển nông thôn bền vững là nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân, xét trên cả khía cạnh kinh tế, xã
hội và môi trường. Theo đó, nông dân phải là nhân vật trung tâm, người
được hưởng lợi trước tiên từ những thành quả của quá trình phát triển.
Nội dung của phát triển nông thôn bền vững bao gồm 4 quá trình:
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đô thị hóa; kiểm soát dân số; bảo vệ môi
trường sinh thái.
Có thể nói về thực chất của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển nông thôn bền vững
với 4 quá trình đó.
- Xét riêng quá trình phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm trồng
trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản), yếu tố đầu
tiên và căn bản là nông sản phải đảm bảo 4 yêu cầu:
+ Chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị
trường, trước hết là đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Đồng thời sản phẩm nông nghiệp phải đa dạng, có hàm lượng công
nghệ cao.
+ Giá cả nông sản hợp lý, có sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
+ Khối lượng nông sản phải có quy mô đủ lớn theo yêu cầu thị
trường, cụ thể là theo từng yêu cầu của nhà phân phối, nhất là của nhà nhập
khẩu nông sản từ Việt Nam.
+ Thời gian cung ứng nông sản phải đáp ứng yêu cầu khắt khe của
nhà phân phối, nhất là của nhà nhập khẩu nông sản từ Việt Nam.
Muốn đáp ứng 4 yêu cầu trên, nền nông nghiệp phải được phát triển
trên các cơ sở: thực hiện một nền nông nghiệp đa chức năng, vừa sản xuất
nông phẩm hàng hóa vừa kết hợp phát triển du lịch sinh thái và tạo cảnh
10
quan môi trường sống tốt đẹp cho con người; nông sản phải được sản xuất
theo tiêu chuẩn và quy trình GAP (good agriculture practice), ISO.1.4000
và HCACCP; và áp dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu của quá trình
sản xuất nông nghiệp, từ chọn, tạo, sản xuất giống đến sản xuất và chế
biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản.
Muốn vậy cần triển khai các mô hình sản xuất sau:
Các trang trại có quy mô lớn về diện tích đất chủ yếu tồn tại dưới
hình thức trang trại gia đình hay trang trại cá nhân, trang trại hợp doanh có
1 cấp quản trị phải trở thành lực lượng sản xuất nông sản hàng hóa chủ yếu
kết hợp với du lịch nông thôn trên các vùng nông nghiệp sinh thái.
Các Hợp tác xã (HTX) làm dịch vụ đầu vào - đầu ra cho các trang
trại phải trước hết và chủ yếu là của các chủ trang trại này, được thành lập
và phát triển do nhu cầu và khả năng quản lý của chính các chủ trang trại
sản xuất hàng hóa nông sản có quy mô lớn. Đồng thời, việc điều hành hoạt
động kinh tế của các HTX phải do những nhà quản trị chuyên nghiệp (được
đào tạo và trả công xứng đáng theo giá cả sức lao động trên thị trường)
đảm trách.
Sản xuất theo hợp đồng (Contrac farming) giữa các trang trại và
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài
nước cũng như các doanh nghiệp du lịch sinh thái, phải trở thành hình thức
giao dịch buôn bán nông sản phổ biến và chủ yếu. Doanh nghiệp kinh
doanh chế biến, tiêu thụ nông sản và du lịch nông thôn phải là lực lượng
nòng cốt tổ chức lại nền nông nghiệp hàng hóa của đất nước.
Những mô hình sản xuất kể trên là yếu tố quan trọng để nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp - cơ sở của sự
phát triển bền vững đối với một nước có mức bình quân diện tích/nhân
khẩu thấp như nước ta.
Muốn thực hiện được mô hình sản xuất nói trên, thể chế quản lý vĩ
mô của Nhà nước phải đảm bảo:
11
Tạo khung pháp lý cho thị trường đất nông nghiệp hoạt động lành
mạnh để quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra thuận lợi, hình thành các trang
trại quy mô lớn.
Đào tạo miễn phí cho con em nông dân, từ bậc tiểu học đến trung
học cơ sở và trung học cao đẳng nghề nông nghiệp, để tạo ra một đội ngũ
chủ trang trại “canh nông tri điền” và các kỹ thuật viên nông nghiệp trên tất
cả các vùng nông nghiệp sinh thái.
Đầu tư cho hoạt động khuyến nông để nâng cao kỹ năng cho đội ngũ
nông dân hiện hữu theo nhu cầu của nông dân và thị trường nông sản,
không phân biệt chủ thể (tổ chức) hoạt động khuyến nông.
Tài trợ 100% kinh phí cho các đề tài khoa học kỹ thuật và kinh tế -
xã hội phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, không phân biệt chủ thể
(tổ chức và cá nhân) thực hiện các đề tài khoa học này.
- Quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn phải theo mô hình
nhiều trung tâm trên các vùng sinh thái tự nhiên và nhân văn; mỗi trung
tâm lại có nhiều “vệ tinh”, kết nối chặt chẽ với nhau về kinh tế - văn hóa,
xã hội, lịch sử và sinh thái. Mô hình này cho phép tiến tới xóa bỏ sự cách
biệt giữa thành thị và nông thôn xét về mức sống vật chất và tinh thần.
Điều khác biệt chỉ còn ở mật độ dân số và các công trình xây dựng ở đô thị
cao hơn nông thôn, còn môi trường sinh thái tự nhiên ở nông thôn tốt hơn
thành thị; Nông thôn có cảnh quan thiên nhiên thỏa mãn nhu cầu du lịch nông
thôn của dân cư thành thị.
Muốn vậy, thể chế quản lý vi mô của Nhà nước cần:
Không được hy sinh lợi ích của bất kỳ nhóm dân cư nào trong quá
trình phát triển nông thôn, nhất là trong việc xây dựng các khu công nghiệp
- đô thị mới, phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
Quy hoạch hệ thống các đô thị trung tâm và vệ tinh trên cả nước và ở
mỗi vùng kinh tế - sinh thái; có chính sách tài trợ, khuyến khích phát triển
công nghiệp, dịch vụ ở các đô thị vệ tinh, phục vụ trực tiếp cho nông
12
nghiệp và sử dụng lực lượng lao động nông nghiệp dôi dư. Nhà nước phải
đứng ra tổ chức thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng khu
công nghiệp - đô thị, kết cấu hạ tầng, đấu thầu cho các doanh nghiệp tổ
chức thực hiện quy hoạch (không để các doanh nghiệp - chủ đầu tư trực
tiếp thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng như hiện nay). Tiền lời thu
được qua bán đấu giá phải ưu tiên chi cho việc “an cư, lạc nghiệp” của
người dân bị giải tỏa đất đai, nhà cửa, di dời đến chỗ ở mới với công ăn
việc làm tốt hơn nơi ở cũ.
Đào tạo nghề phi nông nghiệp miễn phí cho nông dân theo yêu cầu
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở các đô thị, trước hết là cho các đô thị vệ
tinh.
Miễn, giảm tiền thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất cho các cơ sở
công nghiệp, dịch vụ đóng tại nông thôn và các khu đô thị vệ tinh.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật: giao thông (kể cả đường
sông), cơ sở giáo dục phổ thông và dạy nghề, chăm sóc sức khỏe con
người, cung cấp nước sạch, khu nhà ở cho người thu nhập thấp ở các khu
công nghiệp - đô thị vệ tinh. (Không dùng ngân sách Nhà nước để đầu tư
mà chỉ tài trợ lãi suất hay cho vay ưu đãi đối với việc xây dựng các cơ sở
hạ tầng kỹ thuật để kinh doanh, như hệ thống sản xuất, truyền tải điện, bưu
chính - viễn thông, cầu, đường giao thông có thể thu phí dưới hình thức
BOT).
Để thực thi thành công chiến lược xây dựng nông thôn phát triển bền
vững, Chính phủ cần thành lập chương trình quốc gia về phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững do một Phó Thủ tướng trực tiếp điều hành; còn
ở các tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh phải trực tiếp điều hành chương trình này.
* Chiến lược phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,
hiệu quả, bền vững.
Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản
xuất hàng hóa với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
13
cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu
nhập và đời sống nhân dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc
gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với từng loại cây, con.
Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông
nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ
hài hòa lợi ích giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ, giữa
việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với tổ chức sản xuất, giữa phát triển
nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Đổi mới cơ bản phương thức tổ
chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo; bảo đảm phân
phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng. Phát
triển hệ thống kho chứa nông sản, góp phần điều tiết cung cầu. Tiếp tục đổi
mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ
chế thị trường. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất
trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích
của người trồng lúa và địa phương trồng lúa. Trên cơ sở quy hoạch vùng,
bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ và giống phù hợp với nhu cầu thị
trường và giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Phát triển các hình thức
bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng
trong công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy
trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị
gia tăng trên một đơn vị đất canh tác. Hỗ trợ phát triển các khu nông
nghiệp công nghệ cao. Đẩy mạnh chăn nuôi theo phương thức công nghiệp,
bán công nghiệp, bảo đảm chất lượng và an toàn dịch bệnh.
Phát triển lâm nghiệp bền vững. Quy hoạch và có chính sách phát
triển phù hợp các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với
chất lượng được nâng cao. Nhà nước đầu tư và có chính sách đồng bộ để
quản lý và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, đồng thời bảo đảm
cho người nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng có cuộc sống ổn định. Khai
14
thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ,
gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển. Phát triển
nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch, tập trung vào những sản phẩm có thế
mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chế biến,
nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu vệ sinh,
an toàn thực phẩm. Quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối, bảo
đảm nhu cầu của đất nước và đời sống diêm dân.
3. Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền
vững
a) Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông-lâm-ngư
nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề
nông dân, nông thôn
- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững phải chú ý những nội dung sau:
+ Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng ngành nghề và chuyển đổi
cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
+ Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào
nông nghiệp (nhất là chương trình giống). Xây dựng và mở rộng mô hình
sản xuất hàng hoá vùng núi khó khăn.
+ Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền
vững gắn sản xuất với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp
chế biến.
+ Xây dựng đề án chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản
xuất nông sản hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị
trường trong nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
15
tài nguyên (đất đai, lao động và nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một
đơn vị ha đất canh tác, trên 01 ngày công lao động; cải thiện đời sống của
nông dân.
- Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả
rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng
và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng
tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thể sinh
sống, làm giàu từ việc trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát
huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thủy,
hải sản.
b) Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông
thôn
- Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao năng suất sử dụng
đất, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước; áp dụng hệ thống sản xuất
nông lâm kết hợp; nông lâm ngư kết hợp, phù hợp với điều kiện sinh thái
của từng vùng, nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất,
nước, khí hậu.
- Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào
nông nghiệp nhất là công nghệ sinh học; thực hiện chương trình cải tạo các
giống cây, giống con.
c) Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thị trường nông
thôn, tăng khả năng tiêu thụ nông sản kết hợp với việc phát triển nguồn
nhân lực phục vụ phát triển sản xuất.
- Thúc đẩy và phát triển mối liên kết giữa các chủ thể trong các kênh
sản xuất và lưu thông sản phẩm, tạo mới và ổn định các kênh thị trường
nhằm tối đa hóa lợi ích của các thành phần tham gia.
16
- Xây dựng đề án phát triển đa dạng ngành nghề và dịch vụ ở nông
thôn; đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm phi nông nghiệp,
tăng thời gian lao động và cơ cấu lại nguồn lao động ở nông thôn.
d) Xây dựng nông thôn mới
Quy hoạch phát triển nông thôn, phát triển đô thị và bố trí các điểm
dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ
môi trường. Triển khai xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng
vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Triển khai
có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi
năm. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các
đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ. Phấn
đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6-3%/ năm. Tỷ
trọng lao động nông nghiệp đến năm 2015 chiếm 40-41% lao động xã hội.
Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8-2 lần so với năm 2010.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi 1: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn tất yếu dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường nông thôn. Vậy các
đồng chí có sáng kiến gì để khắc phục tình trạng trên?
Câu hỏi 2: Vấn đề di dân nông thôn - đô thị, nông thôn - nông thôn
có quan hệ như thế nào với phát triển bền vững?
Câu hỏi 3: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu. Vậy theo các đồng chí, thành tựu
nào là quan trọng nhất, vì sao?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
17
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001-
2010.
- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 của Ban chấp hành Trung
ương khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
- Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn hướng dẫn thi hành Bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới.
- Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4 tháng
6 năm 2010 về phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài liệu về tập huấn
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020, 2008.
18
Chuyên đề 2:
TỔNG QUAN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ
I. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới
1. Khái niệm và đặc điểm hệ thống chính trị ở xã
a) Khái niệm về hệ thống chính trị ở xã
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ
thống chính trị. Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước,
đảng phái, đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia và mối quan
hệ giữa các lực lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị
của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia, con
đường phát triển của xã hội. (Theo Từ điển Luật học của Viện pháp lý – Bộ tư
pháp do Nhà xuất bản Tư pháp và Nhà xuất bản Từ điển bách khoa phối hợp
ban hành).
Cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và
các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp
độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống.
Có các cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể) quy định vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên
với cấp dưới trong phạm vi một tổ chức với sự tác động của bộ máy tương
ứng với từng cấp. Hệ thống chính trị được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên
cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung
ương với địa phương và cơ sở.
Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ
thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp trung ương là quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp tỉnh là
quan hệ giữa Đảng bộ tỉnh với chính quyền tỉnh, Mặt trận với các đoàn thể
19
cấp tỉnh. Ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là quan hệ giữa Đảng bộ xã với
chính quyền và Mặt trận cùng các đoàn thể trong xã.
Ở đây ta đang xem xét khái niệm cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở
trên quan điểm xã hội học chính trị và quản lý xã hội. Đây là những khái niệm
xuất phát, những khái niệm công cụ để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp
cải cách hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn
nước ta hiện nay. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên cứu ở đây không phải
là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện,
doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư cách là một cấp quản
lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước bốn cấp hiện hành.
Cơ sở đó chính là xã – phường – thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước.
Phường, thị trấn là cấp cơ sở ở đô thị, được đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã là
cấp cơ sở ở khu vực nông thôn, đây là cả một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số
trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta. Vì thế, nói tới hệ thống chính trị ở xã
chính là nói tới hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.
Như vậy, hệ thống chính trị ở xã (cơ sở ở nông thôn) cũng bao gồm 3
bộ phận cấu thành: Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở
xã. Mỗi bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết
với nhau, tạo thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi hoạt động ở xã về các
lĩnh vực của đời sống.
b) Đặc điểm hệ thống chính trị ở xã
Nói tới cơ sở là nói tới xã – phường – thị trấn, trong đó xã là chủ yếu,
chiếm tới 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Cơ sở và hệ
thống chính trị ở xã là khâu trung tâm cần phải đột phá trong chỉnh đốn và
đổi mới hệ thống chính trị cơ sở. Giải quyết khâu đột phá này, lẽ dĩ nhiên
không thể không bàn tới quan hệ giữa xã và thôn, tới vai trò của Đảng bộ
hoặc chi bộ xã, của Mặt trận Tổ quốc ở xã và các đoàn thể, các tổ chức quần
chúng cấu thành thống chính trị ở xã, các phương thức tổ chức, hoạt động
20
cùng các mối quan hệ giữa chúng. Nhận thức về xã chúng ta nhấn mạnh tới
mấy điểm dưới đây:
- Xã là nơi chính quyền trong lòng dân như Đảng ta đã xác định. Xã là
cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước
nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội.
- Xã là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn thể
tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Nếu
dân chủ là dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì xã là nơi thể hiện
rõ nhất và trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và những
phương tiện, những điều kiện nhằm thực hiện và đảm bảo cho sự ủy quyền đó
phải được bắt đầu từ xã mà nhân dân là chủ thể. Bao nhiêu quyền hành đều là
của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân. Quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân. Dân có quyền làm chủ, đồng thời có nghĩa vụ của người chủ. Do ở xã
là nơi làm việc và sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, là nơi thể chế được dân
trực tiếp tổ chức nên và dân thường xuyên tiếp xúc, đề đạt nguyện vọng, yêu
cầu của mình với những người đại diện cho mình, đồng thời dân cũng có điều
kiện biết rõ sự hoạt động của thể chế, của con người và tổ chức bộ máy, mặt
hay cũng như mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu với những khuyết tật của
nó… nên quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở xã cho thấy rõ nhất
hiện trạng của thể chế nói chung. Động lực, nội lực của sự phát triển hay vật
cản kìm hãm, sự trì trệ và suy thoái được nhận thấy rõ nhất ở ngay xã. Những
yếu kém diễn ra trong thể chế ở xã làm thương tổn đến uy tín và ảnh hưởng
xã hội của thể chế nói chung. Những phản ứng, bất bình của dân đối với cán
bộ xã là khởi đầu cho những mất ổn định, thậm chí trở thành tình huống,
thành điểm nóng gây hại tới sự bình yên của chế độ nói chung. Do vậy, mấu
chốt của xã là chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, liên
21
kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức
dân.
- Xã là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động
tới. Xã là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước phải tìm đến. Đường
lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ chức
hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay
không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao
được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động
thực tế của dân chúng. Vì vậy, xã tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý
nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế độ.
Xã là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội,
không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường xuyên.
Thực chất của mất xã là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của
cán bộ xã, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu,
tham nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng.
- Xã không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách … Xã là cấp
hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết chính sách vào cuộc
sống. Là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ xã phải gần dân, hiểu
dân, sát dân và năng lực của cán bộ xã là năng lực thi hành, tổ chức công việc
và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Tổ chức bộ
máy xã phải thực sự gọn nhẹ, “thà ít mà tốt”, năng động, nhạy bén, cán bộ xã
phải thực sự nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, sáng tạo một cách thiết thực,
biết rõ phương hướng hành động, có bản lĩnh dám chịu trách nhiệm, có phương
pháp và phong cách dân vận “óc nghĩ, mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, chân đi,
tay làm” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra (Hồ Chí Minh toàn tập Nxb Chính trị quốc
gia, H.2000, t.5, tr.699). Biết làm cho dân tin, dân ủng hộ; biết tập hợp dân
thành lực lượng và hoạt động trong phong trào; phục vụ dân, làm lợi cho dân,
mưu cầu hạnh phúc cho dân, đó là tất cả những gì cán bộ xã cần có.
22
2. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới
Hệ thống chính trị ở xã có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân,
huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư. Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nói chung hệ thống chính trị ở xã
đã tích cực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cùng với nhân dân tạo
nên những thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, làm thay đổi bộ
mặt nông thôn, thay đổi đời sống nông dân theo hướng tích cực.
Cơ cấu của hệ thống chính trị ở xã
Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã bao gồm ba bộ phận cấu thành
là tổ chức Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của
Mặt trận Tổ quốc, bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân và
Hội Cựu chiến binh.
a) Tổ chức cơ sở Đảng ở xã
Hiện nay, số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở xã chiếm khoảng 20% trong
tổng số các tổ chức cơ sở Đảng, có số lượng lớn nhất so với các loại hình tổ
chức cơ sở Đảng trong cả nước. Gần 50% tổng số đảng viên của toàn Đảng
đang sinh hoạt và hoạt động trong các tổ chức cơ sở Đảng ở xã.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều 21, Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua, đã quy định:
“Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là
hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Như vậy tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của
Đảng ở xã. Điều này bắt nguồn trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò
của giai cấp công nhân – lực lượng chủ yếu của cách mạng vô sản và là người
lãnh đạo xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là hạt nhân lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ
thống chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng ở xã có vai trò hạt nhân trong
23
lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính
sách của Đảng được cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Tổ chức
Đảng ở xã có vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trong xã, lãnh đạo
chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát
triển Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn
luyện ý chí, trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông
thôn, động viên đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự,
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những
người ưu tú, xuất sắc trong phong trào quần chúng, kết nạp họ vào Đảng
nhằm xây dựng, phát triển, tăng cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ
dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường lối,
chủ trương của Đảng vào cuộc sống ở xã, tổ chức quần chúng thực hiện thắng
lợi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước;
phát triển lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở xã
thực sự là “một đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của
hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở cơ sở.
b) Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Theo Hiến pháp 1992, hệ thống chính quyền nhà nước ta bao gồm bốn
cấp từ Trung ương đến cơ sở, trong đó, chính quyền cấp cơ sở ở xã có vị trí
rất quan trọng. Đây là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh
giá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; là
nơi trực tiếp và có ưu thế trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, tạo điều kiện cho nhân dân địa phương
xây dựng một cuộc sống ổn định. Chính quyền cơ sở ở xã, bao gồm Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, được bầu ra theo Hiến pháp và pháp luật.
- Hội đồng nhân dân
24
Theo Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân xã được xác định là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân. Thông qua Hội đồng nhân dân xã, nhân dân ở cơ
sở thực hiện quyền làm chủ của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình trước cơ quan cấp trên và trước nhân dân địa phương.
Về mặt tổ chức, Hội đồng nhân dân xã có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các
đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng
nhân dân nhưng không có các ban chuyên môn như Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, huyện. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 5 năm. Số lượng đại biểu
được quy định tối thiểu là 15 người (xã có 1000 người trở xuống) và tối đa
không quá 25 người (xã có từ 3000 người trở lên). Cũng như Hội đồng nhân
dân các cấp, Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng cơ bản là quyết định và
giám sát.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện phát triển
kinh tế - xã hội hàng năm nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, quyết
định trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội và đời sống, quyết định trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyết định đối với việc
thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định trong lĩnh vực thi hành
pháp luật, quyết định trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản
lý địa giới hành chính.
Trong chức năng giám sát, Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở xã; giám sát việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân và công dân ở địa phương.
- Ủy ban nhân dân
Theo Nghị định 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 4 năm
2004 (có sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 27/2009/NĐ-CP của Chính Phủ
25
ngày 19 tháng 3 năm 2009), Uỷ ban nhân dân xã miền núi, hải đảo có dân số
từ 5.000 người trở lên; xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8.000 người trở
lên và xã biên giới, có 5 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 2 ủy
viên. Uỷ ban nhân dân xã không thuộc diện trên thì có 3 thành viên gồm có 1
Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 ủy viên. Trong đó Chủ tịch phụ trách chung,
khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội xã. Các Phó
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách khối kinh tế - tài chính, xây dựng, giao
thông, nhà đất và tài nguyên - môi trường và phụ trách khối văn hóa - xã hội
và các lĩnh vực xã hội khác. Các ủy viên Uỷ ban nhân dân thì phụ trách công
an và phụ trách quân sự.
c) Các đoàn thể nhân dân ở xã
“ Các đoàn thể nhân dân ” ở nước ta là một phạm trù rất rộng, có thể
bao gồm cả các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội,
giới chức, lợi ích, từ thiện. Phạm trù “đoàn thể nhân dân” được đề cập ở đây
là các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Ở nông
thôn, rất ít nơi có tổ chức công đoàn, vì vậy, nói đến các đoàn thể nhân dân ở
xã thuộc hệ thống chính trị, chủ yếu có năm tổ chức là Mặt trận Tổ quốc, Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh.
Đoàn thể nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị
ở xã. Cụ thể các đoàn thể nhân dân có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi
ích của thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và
nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Đoàn thể nhân dân là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào
vận động quần chúng tham gia bảo vệ trật tự trị an, xây dựng nếp sống văn
hóa, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
d) Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã
Như trên đã nói, hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn bao gồm ba bộ
phận cấu thành: Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; mỗi bộ phận
26
tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành
hệ thống thống nhất.
Tính hệ thống của hệ thống chính trị cơ sở nông thôn hiện nay thể hiện
trên các mặt cụ thể có tính nguyên tắc sau:
- Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn cùng
tồn tại và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ - dân cư, đó là đơn vị
hành chính cấp xã.
- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo
của tổ chức cơ sở Đảng về những nội dung cơ bản như đường lối, chủ trương,
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và công tác tổ chức, cán bộ.
- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất tiến hành các mặt
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và sự quản lý, điều hành
của chính quyền địa phương theo các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc
tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
- Tuy có chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và phương thức hoạt động
khác nhau, các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất cùng hướng tới
các mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân địa phương, tất cả vì mục tiêu chung của xã
hội là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh”.
Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị, Đảng là bộ phận hạt nhân,
giữ vai trò lãnh đạo của hệ thống; Chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai
trò quản lý, điều hành và các đoàn thể nhân dân là tổ chức đại diện quyền làm
chủ của các tầng lớp nhân dân. Tổ chức Đảng cơ sở vừa là hạt nhân lãnh đạo
hệ thống chính trị, lãnh đạo chính quyền và là cầu nối giữa nhân dân với
chính quyền cơ sở. Chính quyền cơ sở là cơ quan quyền lực nhà nước trực
tiếp quản lý, tổ chức đời sống mọi mặt ở địa phương, phát huy mọi tiềm năng
nhân tài, vật lực ở địa phương phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương là cầu nối giữa nhân dân với
27
tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, đại biểu cho lợi ích của các tầng lớp nhân
dân, là hậu thuẫn của Đảng và chính quyền ở địa phương.
e) Ưu điểm và hạn chế của hệ thống chính trị ở xã hiện nay
- Ưu điểm:
Nhìn chung, mối quan hệ giữa Đảng bộ xã, chính quyền xã và Mặt trận
cùng các đoàn thể trong xã đã hoạt động có hiệu quả trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư. Sự nghiệp đổi mới với việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, có nhiều mô
hình kinh tế trang trại phát triển làm cho bộ mặt nông thôn nước ta khởi sắc.
Hệ thống chính trị ở cơ sở đã và đang góp phần thực hiện tốt Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Hạn chế:
Bên cạnh những mặt ưu điểm, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống
chính trị ở xã hiện nay hoạt động với nhiều khó khăn, vướng mắc về trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ, về cơ chế hoạt động, về sự phối hợp công tác
giữa các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể. Những khó khăn vướng mắc
đó làm hạn chế vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, làm hạn chế
quan hệ giữa hệ thống chính trị với nhân dân và gây trở ngại cho quá trình đổi
mới, phát triển nông thôn. Sau đây là một số hạn chế trong của hệ thống chính
trị xã hiện nay:
+ Hạn chế về trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ xã.
Tính chung cả nước, trình độ cán bộ xã còn rất hạn chế cả về học vấn, lý luận
chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Nhìn chung, đa số cán bộ xã chưa được
đào tạo cả về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ quản lý hành chính nhà
nước, đa phần trúng cử rồi mới đưa đi bồi dưỡng ngắn hạn. Tại nhiều xã, nhất
28
là các xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cán bộ xã yếu về khả năng tư
duy, xây dựng quy hoạch, kế hoạch; yếu cả về phương pháp tổ chức thực
hiện; thường trông chờ sự hướng dẫn của cấp trên theo kiểu “cầm tay chỉ
việc”. Khó khăn trong hoạt động của hệ thống chính trị xã không chỉ đơn
thuần là vấn đề trình độ và năng lực cán bộ, mà còn là ở tính tiên phong
gương mẫu, liên quan đến phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức của đội
ngũ cán bộ. Các cán bộ hiện nay thừa nhận rằng khó khăn của họ là quần
chúng không ủng hộ mà nguyên nhân chủ yếu là cán bộ không gương mẫu,
làm mất tín nhiệm trong quần chúng, hoặc là trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu
biết về luật pháp và những quy định, thủ tục hành chính.
+ Hạn chế ở đội ngũ cán bộ giúp việc
Cái khó khi tiến hành công việc ở xã, một mặt do bản thân người cán
bộ chủ chốt, như đã nói ở trên, có những mặt hạn chế nhất định về trình độ,
năng lực và khả năng bố trí thời gian công tác; mặt khác số cán bộ giúp việc
cho họ cũng hạn chế về trình độ, năng lực. Số cán bộ giúp việc này không
phải là do dân bầu, mà do xã tuyển dụng. Các điều kiện, tiêu chuẩn tuyển
dụng và thực tế việc áp dụng các quy định về tuyển dụng còn nhiều hạn chế,
dẫn đến một số người có trình độ không được nhận vào làm việc trong khi đó
những người được nhận vào lại yếu về năng lực, trình độ.
+ Hạn chế về công tác cán bộ
Cán bộ là nhân tố quyết định, song khâu yếu nhất hiện nay ở xã lại
chính là khâu cán bộ. Phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực của đội ngũ cán
bộ xã hiện nay còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, phần nhiều do việc quản lý
cán bộ chưa tốt; chưa có sự phân công cán bộ một cách khoa học; trách nhiệm
tập thể, cá nhân cũng như tiêu chuẩn từng loại cán bộ chưa được quy định
thống nhất, rõ ràng, cụ thể nên hiệu quả và chất lượng hoạt động quản lý thấp.
Bên cạnh đó công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán
bộ xã chưa được coi trọng đúng mức, nhất là các xã vùng núi. Công tác kiểm
tra, đánh giá cán bộ không thường xuyên, nhiều nơi nguyên tắc tập trung dân
29
chủ bị vi phạm, thực hiện kỷ luật không nghiêm chỉnh. Thêm vào đó, ở nhiều
cơ sở, việc xử lý những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực chưa kịp thời và nghiêm
minh, dẫn đến tiêu cực kéo dài, ngày càng trầm trọng. Do buông lỏng công
tác quản lý và sử dụng cán bộ nên có không ít cán bộ xã thoái hóa, biến chất
về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, gia trưởng, kèn cựa địa
vị, cục bộ, bè phái, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, gây khó khăn cho việc lãnh
đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn và trình độ dân trí còn thấp.
Những khó khăn khách quan đối với hoạt động của hệ thống chính trị
xã hiện nay là “điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn nhiều khó
khăn”. Đây là điều kiện khách quan làm ảnh hưởng và tác động đến mặt bằng
chung về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ xã, hạn chế việc tuyên truyền
đường lối, chính sách và pháp luật trong nhân dân.
+ Thiếu sự quan tâm của cấp trên, đặc biệt là cấp huyện.
Ngoài những khó khăn xuất phát từ điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội,
các lý do chủ quan là khá rõ nét. Không chỉ có khó khăn về trình độ, hoàn
cảnh, năng lực, phẩm chất, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ mà còn là
sự quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, hỗ trợ, giúp đỡ của cấp trên.
+ Tổ chức, điều hành chưa hợp lý, phối hợp chưa đồng bộ và vướng
mắc về cơ chế.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi thực hiện cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
khối lượng công việc của cán bộ trong hệ thống chính trị xã tăng lên rất nhiều.
Khó khăn này vừa thể hiện trình độ, năng lực của cán bộ, vừa thể hiện sự hạn
chế trong quản lý, điều hành hệ thống chính trị xã hiện nay.
+ Bộ máy cồng kềnh, sự phân công công việc không hợp lý, một số cán
bộ, công chức làm việc quá tải, một số không có việc làm.
Sự quá tải cũng là một gánh nặng cho cá nhân. Sự phân cấp từ trên
xuống dưới hiện nay có nhiều bất hợp lý, thêm vào đó các nhiệm vụ được
30
giao cho cán bộ xã theo quy định của pháp luật cũng thật nặng nề. Điều đáng
nói ở đây là trong khi công việc tập trung vào một số chức danh, thì một số
chức danh khác lại hầu như không có việc làm.
II. Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở xã trong giai đoạn hiện
nay
Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là một bộ phận của công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước. Công cuộc đổi mới ở nước ta có ý nghĩa như một
bước ngoặt của một giai đoạn cách mạng mới. Đổi mới kinh tế và đổi mới các
lĩnh vực khác không thể tách rời đổi mới về chính trị.
Trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng nước ta hiện nay, việc đổi
mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước cũng như ở từng cơ sở, nhất là ở
xã đã trở nên vô cùng cần thiết và bức xúc. Từ đó ta có thể thấy những yêu
cầu cho sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
xã đó là:
- Đáp ứng yêu cầu của thực hành dân chủ. Thực hành dân chủ và chống
quan liêu, tham nhũng là hai mặt của cùng một vấn đề: tìm động lực cho sự
phát triển, tiến bộ xã hội. Quan tâm sâu sắc tới vấn đề hệ trọng này, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Cách tốt nhất để chống quan liêu, tham nhũng là thực hành
dân chủ” và “Thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000,
t.12, tr.249). Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra dân
chủ là động lực và mục tiêu của sự phát triển, của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng
chính là động lực và mục tiêu của một hệ thống chính trị trong sạch, của đổi
mới hệ thống chính trị để phát triển chính trị, qua đó mà phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội.
- Hiểu đúng về xã và vai trò của xã. Muốn đổi mới hệ thống chính trị ở
xã, trước hết phải đổi mới nhận thức để nhận thức đúng đắn về xã đó chính là
cơ sở xã hội của chính trị, là cơ sở của thể chế nhà nước, của chế độ chính trị
ở xã. Nó khác biệt với các loại hình cơ sở khác thuộc các lĩnh vực khác gắn
31
với ngành nghề với những tổ chức tương ứng của nó: doanh nghiệp, công ty,
bệnh viện, trường học, công sở, nhóm xã hội hay từng tế bào của xã hội là gia
đình. Ở xã là nơi nảy sinh từ thực tế biết bao kinh nghiệm có thể tổng kết để
khái quát thành lý luận, để điều chỉnh, bổ sung và đổi mới đường lối, chính
sách do thường xuyên phải giải quyết những tình huống của cuộc sống đặt ra.
Đổi mới đã manh nha nảy mầm từ những nhu cầu bức xúc ở xã, và từ xã đã
nhanh chóng nhập cuộc với đổi mới, hành động theo đường lối đổi mới của
Đảng, bởi đổi mới là hợp với quy luật phát triển và thuận với lòng dân.
- Quản lý và tự quản. Một vấn đề nổi bật ở xã cả về vai trò, đặc điểm và
tính chất của nó là trên địa bàn xã không chỉ diễn ra hoạt động quản lý mà
đồng thời còn có cả hoạt động tự quản của dân, tự quản của từng hộ gia đình,
của các đoàn thể tự nguyện đến cả cộng đồng, tập trung tiêu biểu nhất là ở
thôn, làng, ấp, bản, với vai trò của trưởng thôn, trưởng bản do dân bầu trực
tiếp. Tự quản là nét đặc thù ở xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phải phát
huy được sức mạnh, năng lực tự quản này của dân để qua đó, dân tham gia
trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát chính quyền, tham gia quản lý, xây dựng
và phát triển cuộc sống cộng đồng.
Đổi mới hệ thống chính trị vừa là vấn đề khoa học sâu sắc vừa là vấn
đề chính trị thực tiễn nhạy cảm nhất trong đời sống cộng đồng, dân tộc. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”. Cụ thể trong công cuộc đổi mới hiện nay
có đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới tổ
chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đổi mới tổ chức và hoạt
động của HĐND, UBND xã.
1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức, các phương
pháp mà Đảng vận dụng để đưa nội dung lãnh đạo tác động vào hệ thống
chính trị, xã hội nhằm đạt được mục tiêu lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại quá
32
trình lãnh đạo của Đảng mấy chục năm qua, trong mỗi giai đoạn cách mạng,
cùng với việc xây dựng đường lối và tổ chức, Đảng luôn quan tâm đến công
tác lãnh đạo. Phương pháp lãnh đạo không chỉ bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng có hiệu quả mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện đường lối
cách mạng, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.
Thực tế cho thấy, có đường lối đúng, có tổ chức hợp lý mà không có
phương thức lãnh đạo phù hợp, không giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội ở các cấp, trên từng
lĩnh vực thì hiệu quả lãnh đạo thấp.
Trong tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng” tổng kết sự lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã nhận xét:“Kinh
nghiệm cho thấy phong trào cách mạng có khi giẫm chân tại chỗ, thậm chí
thất bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ
yếu vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp”.
Trong thời kỳ đổi mới, với một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và mở cửa hội nhập kinh tế
thế giới, hệ thống chính trị ở xã đã có bước phát triển mới. Chính quyền xã
phải quản lý xã hội bằng pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội phát triển
mạnh mẽ và đa dạng hóa sự hoạt động; hàng trăm hội quần chúng, hội nghiệp
đoàn, hội từ thiện mới ra đời, hoạt động rất năng động và phong phú. Tình
hình đó đòi hỏi Đảng phải đứng đúng vị trí của mình để vừa xây dựng bộ máy
chính quyền xã thực sự vững mạnh, quản lý xã hội có hiệu quả, vừa phải lãnh
đạo các tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp
luật của nhà nước.
Thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới đất nước mấy năm qua có
sự đóng góp của sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ xã. Một số
quan điểm cơ bản, mang tính định hướng về phương thức lãnh đạo của Đảng:
- Là Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện đối với
chính quyền xã, đồng thời chịu trách nhiệm chính trị trước xã hội. Do đó,
33
Đảng phải đề phòng nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng và sự sai lầm về
đường lối.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn
thiện chính quyền xã. Đảng xây dựng nhà nước vững mạnh và tự mình tuân
thủ đúng Hiến pháp, pháp luật.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải chăm lo xây dựng và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo nhằm thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị để giữ
vững vai trò và vị trí lãnh đạo. Nghiên cứu và xây dựng phương thức lãnh đạo
không chỉ là cải tiến lề lối làm việc đơn thuần mà phải có cơ sở lý luận và
thực tiễn về Đảng cầm quyền. Cùng với việc xây dựng kiện toàn tổ chức,
phương thức lãnh đạo phải trở thành nội dung quan trọng của công tác xây
dựng Đảng.
- Một phương thức lãnh đạo đúng đắn bao giờ cũng vừa bảo đảm thực
hiện đúng định hướng chính trị, vừa phát huy được tính chủ động, tinh thần
nhiệt tình, sáng tạo và nhân lên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và của nhân dân, nhằm thực hiện đạt hiệu quả cao nhất mục tiêu đề ra.
2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND xã
Cái đích quan trọng nhất của đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
và UBND xã là nâng cao hiệu lực quản lý bằng cách thực hiện nghiêm chỉnh
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện thuận
lợi cho các hộ dân sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật và nâng cao đời
sống, tổ chức và quản lý tốt các mặt trật tự, an ninh ở địa bàn, thực hiện Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn. Bằng cách đó, xây dựng chính
quyền cơ sở thành một chính quyền được lòng dân, được dân tin tưởng và
ủng hộ. Như vậy cần phải chú ý tới những biện pháp đổi mới nào để nâng cao
hiệu lực và uy tín của chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà
nước và hỗ trợ hoạt động của dân ở cơ sở?
Trước hết, chính quyền cơ sở phải thể hiện, cụ thể hóa phương hướng,
chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng ở cơ sở trong công tác quản lý của
34
chính quyền với tinh thần chủ động và sáng tạo, đề cao tinh thần phụ trách và
chịu trách nhiệm về những nhiệm vụ được giao.
Cán bộ chính quyền phải nắm vững và am hiểu chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước để giải quyết cho đúng, không tùy tiện,
tắc trách. Quan hệ của người dân với chính quyền (giữa công dân với nhà
nước) là một trong những mối quan hệ cơ bản của quản lý dựa trên pháp luật
quy định. Để nâng cao hiệu lực quản lý và tạo điều kiện cho các công dân
thực hiện đúng những quyền và nghĩa vụ của mình, chính quyền phải đặc biệt
chú trọng cung cấp cho dân biết những thông tin cần thiết liên quan tới những
vấn đề về cuộc sống của họ, về hoạt động của chính quyền để dân giám sát và
kiểm tra.
Cuộc sống ở cơ sở thường xuyên nảy sinh rất nhiều những sự kiện, tình
huống có ảnh hưởng trực tiếp tới dân. Do đó, hoạt động của chính quyền đòi
hỏi phải khẩn trương, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc: thiên tai (lũ
lụt, hạn hán), dịch bệnh, trật tự trị an, vệ sinh môi trường, việc ăn, ở, học
hành, đi lại của dân, các tranh chấp dân sự xung quanh đất đai, xây dựng nhà
cửa, mua bán, đổi chác, quản lý hộ tịch, quản lý dân cư trên địa bàn và dân
nơi khác đến …
Cán bộ chính quyền, từ các đại biểu của dân trong Hội đồng nhân dân
đến các cán bộ trong Ủy ban nhân dân với tư cách là cơ quan hành chính có
tác phong sâu sát quần chúng, tận tâm và tận lực phục vụ dân, có kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ của quản lý, am hiểu pháp luật. Công tâm, thạo việc,
trách nhiệm và liêm khiết – đó là những phẩm chất cần thiết mà mỗi cán bộ
chính quyền cần phải có và thường xuyên trau dồi.
Để đạt được chất lượng và hiệu quả như vậy trong tổ chức bộ máy,
trong hoạt động và trong nguồn nhân lực của chính quyền cơ sở, cần phải chú
trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, có
những hoạt động cụ thể thiết thực vừa tầm có thể thực hiện được.
35
Cần tăng số lượng đại biểu của dân trong Hội đồng nhân dân là những
quần chúng ngoài Đảng, tránh tình trạng Hội đồng nhân dân hầu hết là đảng
viên và đang giữ chức vụ, làm cho tiếng nói trực tiếp của những người dân
thường bị hạn chế, ảnh hưởng đến quyền lực trực tiếp tham gia quản lý chính
quyền của quần chúng.
Phải nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân bằng cách,
ngoài chất lượng đại biểu còn cần có sự chuẩn bị tốt nội dung các kỳ họp Hội
đồng nhân dân, tăng số lượng và thời gian các phiên họp của Hội đồng để có
thể bàn bạc, thảo luận, chất vấn, kiểm tra, quyết định những vấn đề kinh tế -
xã hội – văn hóa, tài chính – ngân sách vốn liên quan mật thiết tới cuộc sống của
dân và được dân rất quan tâm.
Phải đặc biệt đề cao vai trò và trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, của
đại biểu nhân dân, tăng cường những tiếp xúc giữa đại biểu với cử tri, mở
rộng môi trường hoạt động của các đại biểu, để họ kiêm nhiệm thêm các công
tác xã hội tại cơ sở, cùng tham gia vào các hoạt động tự quản với dân.
Đối với Ủy ban nhân dân xã vừa là cơ quan chấp hành vừa là cơ quan
hành chính của dân ở cơ sở, là nơi thực hiện chức năng hành pháp ở cơ sở,
cần hết sức chú trọng tới năng lực của cán bộ, trước hết là năng lực tổ chức,
điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, quan hệ giữa Chủ tịch Ủy ban nhân
dân với Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Bí thư Đảng ủy cơ sở. Cũng như vậy
phải có sự phân công rành mạch giữa Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và cần tăng
cường chức trách của ủy viên Ủy ban nhân dân xã.
Chính quyền cơ sở là bộ phận then chốt và là một khâu đặc biệt quan
trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở. Không có một chính quyền cơ sở thực sự
vững mạnh thì việc thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân như Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đã được Đảng và Nhà nước ban hành sẽ
vấp phải những khó khăn trở ngại lớn. Những giải pháp, biện pháp nêu trên
chính là nhằm vào đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền cơ
sở, nhất là chính quyền xã, coi đó là khâu đột phá của đổi mới.
36
3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
Muốn phát huy vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội,
phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể ở xã cho phù
hợp với tình hình thực tế của xã hội, của địa phương và ý nguyện của người
dân. Cần chú trọng thúc đẩy sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể trong nhân dân để đẩy mạnh việc thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn. Có thể coi đây là trọng điểm công tác của các đoàn thể
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong tổ chức của
mình. Công tác đoàn thể nhiệt tình, tận tụy, gắn bó với phong trào, gần gũi
với quần chúng, có năng lực vận động quần chúng. Đó là phong cách của
người cán bộ dân vận như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “óc nghĩ, tai nghe, mắt
nhìn, miệng nói, chân đi, tay làm”. Yêu cầu này càng đặc biệt cần thiết ở xã,
có như thế mới thu hút được toàn dân tham gia phong trào, tiếp thu được
những kinh nghiệm, sáng kiến của dân từ hoạt động thực tiễn. Mặt trận và các
đoàn thể là lực lượng chủ yếu trong công tác vận động quần chúng cơ sở, có
những đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trên các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội ở cơ sở.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu hỏi 1: Vị trí vai trò của mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính
trị ở xã hiện nay?
Câu hỏi 2: Vì sao đổi mới hệ thống chính trị xã là nhiệm vụ cấp bách và
liên tục trong giai đoạn hiện nay?
Câu hỏi 3: Bản thân anh (chị) cần làm gì để xây dựng hệ thống chính trị
xã hiện nay?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.
37
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1999.
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân 2003.
- Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay,
Nxb Lý luận chính trị, 2005.
- Trần Nho Thìn, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã,
Nxb Chính trị quốc gia, 2001.
- Trần Văn Sơn, Những quy định pháp luật về xã, phường, thị trấn, Nxb
Lao động, 2001.
- Đặng Đình Tân, Chính quyền cấp cơ sở (xã) ở nước ta hiện nay: Thực
trạng và giải pháp, Kỷ yếu Đề tại khoa học về hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Dương Xuân Ngọc, Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể
cấp xã, Kỷ yếu Đề tài khoa học về hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Phan Xuân Sơn, Các đoàn thể nhân dân ở cấp xã, phường và một số vấn
đề về đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, Kỷ yếu Đề tài khoa học về hệ thống chính
trị ở cơ sở.
Chuyên đề 3:
VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN
Hệ thống chính trị xã có vị trí vô cùng quan trọng, là nòng cốt trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông
thôn. Vai trò của hệ thống chính trị ở xã bao gồm:
38
I. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội ở xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
1. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Với vị trí là hạt
nhân lãnh đạo hệ thống chính ở xã, trong những năm qua, tổ chức cơ sở
Đảng ở xã luôn khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Tại
Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 17)
đã đưa ra phương hướng về tiếp tục tăng cường hệ thống chính trị ở nông
thôn, trên cơ sở xác định rõ, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị trên địa bàn nông thôn, đồng thời
xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo
của đảng bộ, chi bộ tập trung cho nhiệm vụ phát triển toàn diện nông nghiệp,
nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Theo tinh thần của Nghị quyết số 17, vai
trò của tổ chức cơ sở Đảng ở xã thể hiện cụ thể :
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công
tác ở cơ sở, cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đến mọi người dân và tổ
chức thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng
của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao
trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở.
39
- Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người có lý
tưởng cách mạng, lao động giỏi (nhất là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi),
có đạo đức, lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng và tích cực hoạt
động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân
dân ở cơ sở. Đối với những đảng viên không chịu khó làm việc, lười học tập,
đã được tập thể giúp đỡ mà không tiến bộ thì vận động họ ra khỏi Đảng.
Từng Đảng bộ, Chi bộ cơ sở phải phấn đấu không còn đảng viên yếu kém.
- Đổi mới việc ra nghị quyết của Đảng bộ, Chi bộ, của cấp uỷ Đảng:
Đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo
nhân dân địa phương, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở,
Đảng bộ, Chi bộ và Cấp uỷ Đảng đề ra chủ trương và các giải pháp có tính
định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống
chính trị đề ra biện pháp và tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách nhiệm
của từng tổ chức. Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định
của chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất,
cấp uỷ đảng bàn và có ý kiến về những nội dung quan trọng.
- Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải
quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm
cho cấp uỷ đảng quán xuyến được các mặt công tác ở xã.
- Đảng bộ, Chi bộ và Cấp uỷ đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ
đảng viên, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng những người có tài, có đức
trong dân để đảm đương các vị trí công tác trong hệ thống chính trị. Dựa vào
dân và thông qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng, kiểm tra cán bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của Đảng
bộ, Đảng uỷ; kiểm tra công tác, đồng thời kiểm tra tư cách đảng viên. Chú
40
trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối với
đảng viên và tổ chức Đảng thông qua việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ
sở. Hàng năm, Bí thư cấp uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tự phê bình trước đại diện của nhân dân.
Theo tinh thần trên, Ban Bí thư ban hành quy chế và hướng dẫn cho
các tổ chức Đảng ở xã thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế.
- Củng cố, nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao
trình độ mọi mặt cho đảng viên, cán bộ, công chức cơ sở, tổ chức cơ sở đảng
ở nông thôn, đi đôi với đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của chi
bộ, đảng bộ và chính quyền cơ sở, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân ở nông thôn hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy, thực
sự là hạt nhân lãnh đạo và toàn diện trên địa bàn nông thôn. Tập trung chỉ
đạo thực hiện các mặt công việc chính như:
+ Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khơi dậy quyết tâm
vượt qua khó khăn vươn lên xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn ở
mỗi địa phương;
+ Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và thể hiện thành kế hoạch, chương trình
hoạt động cụ thể của từng cấp ủy, chính quyền cơ sở.
Qua khảo sát tại các địa bàn dân tộc miền núi, đa số những người được hỏi
của các dân tộc thiểu số đều chưa biết nhiều về các chủ trương, chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà hằng
ngày liên quan đến gia đình và bản thân họ. Một trong những nguyên nhân quan
trọng của thực trạng này là cách thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính
sách của địa phương còn chưa hiệu quả. Vì vậy, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
trong việc tuyên truyền, giáo dục và triển khai chủ trương, chính sách càng đặc
biệt quan trọng.
+ Tổ chức xây dựng và thực hiện có chất lượng quy hoạch, phát triển
cơ sở hạ tầng, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn;
41
+ Tổ chức công tác quản lý nhà nước về các hoạt động sản xuất nông
nghiệp, phát triển nông thôn, quản lý lao động, dân cư, thực hiện xóa đói
giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân;
+ Tổ chức phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, xây dựng nếp sống mới,
phòng chống tệ nạn và gìn giữ trật tự xã hội;
+ Bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn nông thôn.
2. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là chiến lược lâu dài. Để
đạt được các mục tiêu đã được đề ra nhằm tạo sự thay đổi mạnh mẽ ở khu
vực này là nhiệm vụ rất lớn, tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế- văn
hóa xã hội của đất nước. Do vậy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị. Các đoàn thể chính trị cần bám sát chương trình hành động thực hiện đề
án của cấp ủy các cấp để xây dựng chương trình công tác phù hợp.
a) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã
Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời
sống chính trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các
thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ
của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được
vai trò của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt
động phù hợp, phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói
giảm nghèo, xây dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò
quan trọng trong việc phối hợp với các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở
tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông
thôn; giải quyết những vấn đề cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội như
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn, giống và áp dụng khoa học, kỹ
thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đáp ứng với
42
những yêu cầu mới của thực tiễn. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã
cùng với chính quyền cơ sở phát động một cuộc vận động mới về kinh tế:
“Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng
đồng cơ sở và cho đất nước”. Cuộc vận động rộng lớn về kinh tế này liên kết
và phát huy các cuộc vận động của từng đoàn thể đang tiến hành về tổ chức
làm ăn, cải thiện đời sống.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò chỉ đạo hoạt động của Ban
Thanh tra nhân dân, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc sử
dụng đất đai, nhà cửa, nguồn vốn... góp phần tăng cường công tác quản lý.
Một số nơi, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở xã đã tham gia có kết quả vào việc
giám sát thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình, kế hoạch, dự án
về đầu tư và phát triển kinh tế xã hội, nhất là những dự án, chương trình, kế
hoạch ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Gần đây Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc xã đã tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm đối với một số
chức danh cán bộ chủ chốt ở xã (Chủ tịch HĐND và UBND, Trưởng thôn)
và công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm, kiến nghị miễn nhiệm
những người không đủ 50% số phiếu tín nhiệm, đã có tác dụng tốt đối với
việc phát huy dân chủ, xây dựng chính quyền cơ sở.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội
dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối
hợp với chính quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ xã,
phường và thị trấn nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
b) Hội Nông dân
Hội Nông dân là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông
dân của cả nước, được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Hội Nông
dân Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện
để không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt từ
43
khi có chỉ thị số 59-CT/TW ngày 15 tháng 2 năm 2000 của Bộ Chính trị về
”Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” và Chỉ thị số
26-CT/TTg ngày 9/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về ” Tạo điều kiện để
Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội Nông
dân”, phong trào của Hội ở xã đã phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa thiết
thực. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Hội Nông dân ở
xã đã kịp thời có những hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp, thể hiện là
lực lượng hùng hậu không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà cả
trong đấu tranh chống đói, nghèo, lạc hậu. Hội đã thực sự trở thành “chỗ
dựa” của bà con nông dân và chính quyền cơ sở, đã làm tốt chức năng đại
diện hợp pháp của nông dân. Hội Nông dân đã phối hợp với Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho nông dân vay vốn phát
triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết, tương trợ giúp nhau sản xuất kinh
doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và
đã đạt được kết quả to lớn. Hội đã phối hợp với các cơ quan nhà nước mở cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng giúp nông dân học nghề với nhiều phương thức khác
nhau, dạy nghề tập trung tại địa phương, làng, xã... cho nông dân, nhất là đối
với Hội Nông dân ở vùng sâu vùng xa dân tộc thiểu số để họ có thể phát
triển mở mang sản xuất nông nghiệp, tham gia các hoạt động kinh tế, thương
mại, hòa nhập vào thị trường. Hội Nông dân ở xã đã tích cực phối hợp cùng
với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ biến chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia thực hiện hiệp
thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân dân ở xã.
Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công tác hoà
giải ở cơ sở. Khi có mâu thuẫn phát sinh, từng chi, tổ Hội đã chủ động nắm
tình hình, sớm phát hiện, nắm chắc được nguyên nhân, bản chất của mâu
thuẫn, nắm được tâm tư nguyện vọng và yêu cầu của các bên trong tranh chấp
từ đó vận động hội viên, nông dân tự hoà giải ngay tại chi, tổ Hội, vừa có lý
44
vừa có tình. Hội chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, các
đoàn thể, chính quyền tổ chức phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý,
xây dựng câu lạc bộ pháp luật, mạng lưới cộng tác viên hoà giải tại thôn, ấp,
bản, làng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của nông dân, hạn chế khiếu
kiện sai, khiếu kiện vượt cấp; huy động sức mạnh của hội viên, nông dân
cùng tham gia giải quyết; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước của Hội
gắn với xây dựng gia đình nông dân văn hoá, thôn, ấp, bản, làng văn hoá. Hội
kiên trì vận động, thuyết phục bằng nhiều hình thức hoà giải linh hoạt như:
dựa trên tình làng nghĩa xóm, anh em, thân tộc; qua đối thoại trực tiếp, qua
sinh hoạt chi, tổ Hội; qua người có uy tín với đối tượng và phối hợp với chính
quyền, các đoàn thể. Từ đó nhiều điểm khiếu kiện phức tạp, kéo dài nhiều
năm, liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, thu hồi đất, giải toả, đền bù dần
dần được giải quyết dứt điểm, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị,
trật tự xã hội ở nông thôn.
Trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo, CNH, HĐH nông thôn hiện nay,
cần phải thực hiện những biện pháp sau:
- Đổi mới hoạt động của Hội theo hướng tiếp tục làm tốt vai trò vận
động, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giai cấp nông dân. Tiếp tục
sắp xếp tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để làm tốt các hoạt động
hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ và dịch vụ cho nông dân.
- Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức với
nông dân trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
- Tăng cường công tác đào tạo, tạo điều kiện cho bộ phận lớn nông
dân nhất là thanh niên chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ; những người
ở lại làm nông nghiệp có hiểu biết về khoa học - kỹ thuật và quản lý đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chính phủ cần có thể chế để Hội Nông dân Việt Nam có cơ sở pháp
lý tham gia nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trực tiếp
thực hiện các chương trình, dự án, tổ chức các hoạt động khuyến nông.
45
Khuyến nông, dạy nghề và hỗ trợ việc làm, chuyển giao các tiến bộ khoa
học kỹ thuật, tư vấn và hỗ trợ pháp lý, thông tin thị trường, tổ chức các dịch
vụ về vốn, giống vật tư nông nghiệp, tiêu thụ nông sản, tham gia công tác
hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo... giúp nông dân phát triển sản xuất
kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện thắng lợi công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
c) Hội Phụ nữ
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức lớn mạnh nhất của phụ nữ
Việt Nam với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ,
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hội được
tổ chức thành bốn cấp: cấp xã; cấp huyện, cấp tỉnh; cấp trung ương. Hội phụ
nữ ở cấp xã được tổ chức theo hai mô hình: Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ
- Tổ phụ nữ (mô hình này phù hợp với mô hình tổ chức của Đảng và các
đoàn thể ở cấp cơ sở) và Ban chấp hành - Tổ phụ nữ (mô hình này phù hợp
với địa bàn hẹp, ít hội viên).
Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp hành -
Chi hội phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ
chức, địa phương thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình
đẳng giới trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham
gia và hưởng lợi của phụ nữ trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện
và giám sát các kế hoạch phát triển cộng đồng, địa phương. Đảng ủy chính
quyền các cấp phải khởi nguồn và hậu thuẫn vững chắc cho các đoàn thể
thực hiện các đề án của họ, tham gia giải quyết các vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn.
Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể
hiện trong việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng
cộng đồng nông thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối
quan hệ, mối liên kết mang tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền
thống lâu đời.
46
d) Hội Cựu chiến binh
Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai
trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết,
vận động cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách
mạng, của Hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ viên chức nhà nước ở địa phương. Hội có các nhiệm vụ:
tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng, động viên cựu chiến binh; tham gia xây dựng
và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn... tổ chức chăm lo và giúp đỡ nhau nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp của
cựu chiến binh; góp phần giáo dục thế hệ trẻ; tham gia hoạt động đối ngoại
nhân dân.
Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay, Hội
Cựu chiến binh ở xã đã chú ý công tác tập huấn nâng cao kiến thức xóa đói,
giảm nghèo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh quốc phòng
ở địa phương. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức Hội ở địa phương đã tham gia xây
dựng cơ sở hạ tầng: làm đường liên thôn liên xã, tham gia công tác khuyến
nông, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở cơ sở. Nhiều công trình
mang tên cựu chiến binh đã có ý nghĩa kinh tế, xã hội lớn.
Phát huy vai trò của mình, Hội Cựu chiến binh đã tham gia có hiệu
quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở; chống quan liêu tham nhũng, lãng
phí; tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở.
e) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội
của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn Thanh niên ở xã có vai trò đoàn
47
kết, tập hợp thanh niên, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng. Bằng nhiều hình thức và biện pháp sáng tạo, Đoàn đã
thường xuyên tổ chức việc học tập quán triệt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng thời chú trọng cung cấp
thông tin về tình hình thời sự, chính trị trong nước và quốc tế, nâng cao ý
thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ Đoàn viên thanh niên. Các hoạt động
giáo dục của Đoàn đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức chính
trị cho Đoàn viên thanh niên, tạo bầu không khí chính trị - xã hội ổn định,
thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Ngoài
ra, Đoàn thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng thông qua việc tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về Đảng cho Đoàn viên thanh
niên; tham gia xây dựng chính quyền thông qua việc tham mưu, góp ý xây
dựng các chương trình, dự án phát triển, các dự án luật...
Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, Đoàn đã phát
động các chương trình: Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát triển
kinh tế xã hội; Thanh niên ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thanh niên nông thôn... Các
hoạt động xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ vốn, ứng dụng công nghệ vào nông
nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thông qua các hoạt động này
thanh niên gắn bó với quê hương, lập nghiệp và làm giàu trên mảnh đất của
mình, có trách nhiệm hơn với tổ chức Đoàn, Hội, Đội, ý thức chính trị của
Đoàn viên thanh niên được nâng cao.
II. Vai trò của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
1. Vai trò của Hội đồng nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa
phương.
48
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa
phương; quyết định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y
tế; quyết định các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết
định biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định
những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực
xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội
đồng nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn,
thể hiện cụ thể trong các hoạt động sau:
- Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do
cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài
sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các
chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động
thường xuyên, gắn bó với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra
nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản khác của dân...
2. Vai trò của Ủy ban nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng
cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà
nước một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo
đảm an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc,
tôn giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
49
Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:
- Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến
khích phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức
thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển
sản xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi
trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung. Mỗi xã có một công chức
chuyên trách về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hình thành các Ban
Nông nghiệp ở cấp xã có từ 4-6 nhân viên trên các lĩnh vực: khuyến nông,
bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm.
- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ
bổ nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền
hà cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp
xã hoạt động có hiệu quả.
- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu
bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai,
bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê
điều, bảo vệ rừng tại địa phương; tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát
triển các ngành, nghề truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ
về khoa học, công nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.
Bước sang giai đoạn mới nông nghiệp,nông dân, nông thôn nước ta có
nhiều thời cơ mới, nhưng cũng phải đối phó với những thách thức cả trong
nước và quốc tế. Ở trong nước, công cuộc CNH, HĐH đang được đẩy mạnh
nền kinh tế phát triển năng động tạo điều kiện thuận lợi về vốn, thị trường,
dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhưng lại tranh chấp đất đai và nguồn
lực khác, tạo ra nguy cơ làm cho nông thôn tụt hậu. Quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, phát triển khoa học công nghệ, khủng hoảng lương thực và năng
lượng toàn cầu tuy đem lại cơ hội để nông nghiệp nước ta tiếp cận với thị
50
trường, nguồn vốn, công nghệ mới nhưng cũng làm gia tăng áp lực cạnh
tranh, biến động thị trường.
Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có
hiệu quả các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển
hệ thống chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ
bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Một dự án hỗ trợ phụ nữ nghèo làm kinh tế gia đình bằng việc chăn
nuôi dê đã tài trợ cho Hội Phụ nữ xã X 20 con dê và tiền đầu tư chuồng trại
(tổng số vốn được quy thành tiền là trên 50 triệu đồng). Được sự đồng ý của
Uỷ ban nhân dân xã, Hội Phụ nữ xã đã thành lập một Ban Quản lý dự án để
triển khai công việc này. Tuy nhiên, không hiểu Ban Quản lý dự án bàn bạc
thế nào mà sau đó phần lớn số con dê và kinh phí được chia “nội bộ”: Bí thư
Đảng uỷ xã, Xã Đội trưởng, Phó Chủ tịch xã và Chủ tịch Hội Phụ nữ xã -
mỗi người 4 con, tiền chuồng trại chia nhau mỗi người 300.000 đồng. Bức
xúc về sự việc trên, ông Thanh, một hội viên của Chi hội Nông dân thôn 3
thuộc xã X tại cuộc họp Chi hội Nông dân đã đề nghị Chi hội Nông dân thôn
3 đứng ra yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã làm rõ các vấn đề khuất tất của dự án
do Hội Phụ nữ xã quản lý.
Trong trường hợp trên, Chi hội Nông dân và Uỷ ban nhân dân xã X cần giải
quyết như thế nào?
Tình huống 2:
Xã X nhận được một dự án về hỗ trợ người nông dân trồng cây ăn quả đặc
sản với tổng số vốn là 200 triệu đồng. Tuy nhiên, dự án này chỉ thử nghiệm
trong phạm vi hẹp (có khoảng 30 hộ dân tham gia). Điều kiện của Ban quản lý
dự án đưa ra là các hộ dân được lựa chọn phải đáp ứng các điều kiện sau: phải
có đất, có một số vốn nhất định, có khả năng bắt kịp và đáp ứng các yêu cầu của
51
kỹ thuật hiện đại… Đứng trước các yêu cầu đó, chính quyền xã phải tiến hành
như thế nào để dự án đó được triển khai và có tính khả thi?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Các Văn kiện Ðại hội lần thứ VII, VIII, IX, XI của Ðảng.
- Nghị quyết số 17- NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị BCH Trung
ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn”.
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
- Chỉ thị số 26-CT/TTg ngày 9 tháng 10 năm 2001của Thủ tướng Chính
phủ về Tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại,
tố cáo của nông dân.
- Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện
nay, Nxb Lý luận chính trị - Hà Nội, 2005.
- TS Hoàng Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương ( đồng chủ biên), Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Mặt trân Tổ quốc và các Tổ chức chính chính
trị- xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia-Hà Nội, 2007.
Chuyên đề 4:
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG
VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
I. Cải cách hành chính nhà nước ở địa phương
1. Sự cần thiết phải cải các hành chính nhà nước
a) Khái niệm chung về cải cách hành chính nhà nước
Nói đến cải cách là nói đến việc thay đổi một cách cơ bản một trạng
thái, một đối tượng, làm cho nó thay đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của
quá trình phát triển, làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. Ví dụ:
cải cách ruộng đất, cải cách giáo dục v.v.. Cải cách hành chính có nghĩa là
52
thay đổi trạng thái đang tồn tại của cơ chế hành chính hiện tại, làm cho nó
thay đổi các hoạt động phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất
nước. Chú ý rằng cải cách hành chính không làm thay đổi nền tảng của nền
hành chính nhà nước mà chỉ làm thay đổi cơ chế vận hành của nó theo yêu
cầu quản lý đất nước khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước.
Nền hành chính nhà nước là hệ thống tổ chức và định chế có chức năng
thực thi quyền hành pháp, tức là quản lý công việc hàng ngày của nhà nước.
Cải cách nền hành chính là làm cho 4 yếu tố liên quan đến nền hành chính
vận hành có tính đồng bộ nhằm mang lại hiệu quả cho quản lý đất nước. Có
thể hình dung sự vận hành của 4 yếu tố của nền hành chính như sau:
b) Đặc điểm cải cách hành chính ở nước ta
Cải cách hành chính ở nước ta tiến hành từ đầu những năm 90 của thế kỷ
trước với một số đặc điểm nổi bật là:
- Đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới được một thời gian với những
thành công ban đầu. Chúng ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội kéo dài trong nhiều năm. Nền kinh tế nước ta đã bắt đầu chuyển động theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Trên thế giới Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ
đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình nước ta. Nhiều nước cũng tiến hành cải cách
hành chính để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước.
53
Thể chế hành chính
Bộ máy quản lý hành chính
Đội ngũ cán bộ, công chức
Nền tài chính công
- Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra.
c) Sự cần thiết phải cải cách nền hành chính và cải cách hành chính nhà
nước ở địa phương
Tính cấp thiết phải tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước của
nước ta nói chung, trong đó có hành chính nhà nước địa phương, được đặt ra
do một số nguyên nhân sau đây:
- Sau một thời gian đổi mới, nền kinh tế của nước ta đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Sự khởi sắc của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước đặt ra nhiều vấn đề trong việc quản lý.
Cơ chế quản lý cũ hình thành trong quá trình bao cấp kéo dài không những
bất cập với tình hình mới, mà điều quan trọng hơn, nó còn cản trở sự đi lên
của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế mới. Muốn thúc đẩy
kinh tế tiếp tục phát triển, tất yếu phải tiến hành cải cách hành chính. Đó là
một nhu cầu khách quan có tính quy luật.
- Bản thân nền hành chính nhà nước ta được hình thành và vận hành
nhiều năm, qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, tuy đã có nhiều đóng góp
cho việc quản lý đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng thực tế cho
thấy có nhiều khuyết tật, ngày càng bộc lộ sự xa dân, quan liêu, đặc biệt bộ
máy rất cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả. Thủ tục điều hành
rất nặng nề, gây phiền hà cho dân. Chế độ công vụ không rõ ràng, cán bộ,
công chức có nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham nhũng trở nên phổ
biến và thành quốc nạn. Như vậy, chúng ta không thể nào không tiến hành cải
cách để đổi mới nền hành chính nhà nước. Điều này ảnh hưởng đến sự tồn
vong của chế độ.
- Quá trình đổi mới của nước ta đồng thời cũng là quá trình hội nhập
kinh tế thế giới. Sau khi Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ,
nước ta không thể tự cô lập mình trên trường quốc tế mà Đảng ta chủ trương
Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trên thế giới. Để thực hiện được
54
điều đó cần thay đổi cách nhìn nhận về thế giới bên ngoài của nền hành chính
cũ, phải tạo ra sự năng động và linh hoạt mà nền hành chính cũ còn thiếu do
quan hệ với thế giới bên ngoài còn hạn hẹp. Phải đổi mới luật lệ, cải cách thủ
tục hành chính theo một số thông lệ quốc tế, bồi dưỡng cán bộ để thích ứng với
nhu cầu hội nhập.
Ngoài những lý do trên, tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và
công nghệ của thời kỳ hiện đại cũng là lý do thúc đẩy chúng ta phải cải cách
hành chính.Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta không thể không hiện
đại nền hành chính nếu muốn hội nhập thành công và hoạt động có hiệu quả.
Tóm lại, cải cách nền hành chính ở nước ta là một đòi hỏi tất yếu mang
tính khách quan trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài về sau của quá
trình phát triển đất nước. Trong quá trình cải cách hành chính nói chung của
đất nước, hành chính địa phương không phải là ngoại lệ. Nhu cầu cải cách hành
chính nhà nước ở địa phương cũng là tất yếu.
2. Một số nội dung của cải cách hành chính ở địa phương
a) Cải cách thể chế hành chính
- Trước hết là cải cách thể chế phục vụ cho kinh tế và hoạt động hành
chính (cụ thể là phục vụ cho thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán, thị trường bất
động sản, lao động, công nghệ, dịch vụ công, phục vụ cho hoạt động của Chính
phủ; Bộ, Ủy ban nhân dân Tỉnh – Thành phố). Đổi mới quan hệ nhà nước với
dân, nhà nước với doanh nghiệp. Ở các địa phương phải đổi mới quy trình ban
hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là cần rà soát
lại, hệ thống hoá các văn bản đã ban hành để phát hiện các văn bản chồng chéo,
mâu thuẩn hoặc đã lạc hậu và sửa đổi bổ sung hoặc bãi bỏ cho phù hợp với quy
định của Trung ương; Tăng cường năng lực của các cơ quan soạn thảo văn bản;
Phải thay đổi cách làm theo chủ quan, cục bộ; Tăng cường sự tham gia của
nhân dân và các tổ chức vào quá trình xây dựng, đặc biệt là quá trình tổ chức
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của các địa phương.
55
- Thực thi pháp luật nghiêm minh. Cơ quan nhà nước và công chức phải
nghiêm chỉnh thi hành pháp luật, phải gương mẫu trước quần chúng trong
nhiệm vụ này.
- Đẩy mạnh công tác thông tin về văn bản cho nhân dân được biết, thực
hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đổi mới công tác
thanh tra, kiểm tra. Tăng cường các dịch vụ tư vấn...
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Các địa phương dựa vào bộ thủ
tục hành chính của nhà nước, phải tiến tới xây dựng được một hệ thống thủ tục
hành chính rõ ràng, đơn giản, thuận lợi; tính pháp lý cao và có sự minh bạch
phù hợp với địa phương mình. Các cơ quan nhà nước phải giải quyết công
bằng, dân chủ các yêu cầu của tổ chức và công dân. Mẫu hoá các loại giấy tờ.
Mở rộng hơn việc thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong giải quyết các
yêu cầu của dân. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân công chức trong giải quyết
công việc cho dân; Khen thưởng và kỷ luật rõ ràng đối với các cán bộ địa
phương khi thực thi công vụ.
b) Cải cách bộ máy hành chính địa phương
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị chuyên môn tại cơ
quan hành chính địa phương theo quy định của Nhà nước. Việc điều chỉnh dựa
trên nguyên tắc tập trung vào chức năng quản lý nhà nước; làm rõ hơn nữa ranh
giới giữa quản lý nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh.
- Điều chỉnh công việc giữa các cơ quan chuyên môn địa phương một
cách hợp lý; chuyển bớt một số công việc có tính dịch vụ cho tổ chức phi
Chính phủ thực hiện.
- Tiếp tục nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong giải quyết công việc trên địa bàn.
- Bố trí lại cơ cấu hành chính địa phương theo hướng quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực; giảm các cơ quan trung gian, định rõ tính chất của các tổ chức sự
nghiệp, dịch vụ.
56
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bên trong các tổ chức hành chính nhà nước
địa phương, xây dựng các cơ chế hoạt động thích hợp, hiệu quả.
- Xác định tiêu chí từng loại đơn vị hành chính địa phương cho hợp lý.
- Cải tiến phương thức và phương pháp làm việc .
- Cùng với các cơ quan trung ương, thực hiện hiện đại hoá từng bước
hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính điện tử, điều hành qua mạng
với sự trợ giúp của công nghệ thông tin.
c) Cải cách công vụ và công chức
- Đổi mới việc quản lý công chức. Tổ chức điều tra, đánh giá toàn diện
đội ngũ công chức nhà nước của từng địa phương; Cơ cấu lại đội ngũ công
chức, cán bộ cho hợp lý theo yêu cầu của địa phương; Tổ chức tốt việc tuyển
dụng, đánh giá, đề bạt cán bộ; Giảm biên chế hành chính, kiện toàn bộ máy
điều hành theo hướng gọn, nhẹ; Phân cấp quản lý cán bộ hợp lý. Đề xuất với
Trung ương cải tiến chế độ trả lương thích hợp.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương để có đủ trình độ
thực thi công việc theo yêu cầu mới. Xây dựng kế hoạch đào tạo theo từng loại
công chức; đổi mới chương trình đào tạo; sắp xếp lại hệ thống đào tạo cán bộ
công chức để làm tốt hơn nhiệm vụ này.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công chức. Tăng cường việc
giáo dục tư tưởng, đạo đức; thực hiện quản lý cán bộ theo quy chế, chống các
hiện tượng tiêu cực...
d) Cải cách tài chính công (tài chính nhà nước)
Nội dung này bao gồm một số nhiệm vụ cụ thể như:
- Quản lý chi tiêu công theo đúng quy định của Nhà nước.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách của các địa phương.
- Dựa vào các quy định của Nhà nước, cùng với cơ quan Trung ương,
đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách (phân biệt cơ quan công quyền và cơ quan
sự nghiệp trong phân bổ ngân sách; Phân bổ dựa theo kết quả công việc; xây
dựng các định mức công việc hợp lý...).
57
- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công (chuyển
bớt việc cho tổ chức phi Chính phủ; xoá bỏ hẳn cơ chế cấp phát “xin- cho”; cho
phép các cơ quan có quyền tự chủ tài chính...).
- Thí điểm các cơ chế tài chính mới (như cho thuê cơ sở sự nghiệp; cho
thuê đất xây trường học và bệnh viện; Quy định Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y
tế khi chuyển công chức sang dân lập; khuyến khích đầu tư đào tạo, chữa bệnh;
khoán dịch vụ công trong các hoạt động cung cấp dịch vụ công như vệ sinh -
môi trường, cấp thoát nước, công viên...).
- Đổi mới công tác kiểm toán, kiểm tra, kiểm soát thu chi tài của cơ quan
công quyền các cấp . Thực hiện việc dân chủ và công khai tài chính.
e) Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước
- Chính phủ và các bộ, ngành tổ chức nhiều cuộc họp, giao ban trực
tuyến với các địa phương; các cơ quan hành chính đã tổ chức được nhiều cuộc
đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp đã thông tin hai chiều, phản ánh kịp thời,
nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành hệ thống hành chính nhà nước, tiết kiệm
kinh phí, thời gian và nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy hành
chính.
- Thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước,
đến nay hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã triển khai
áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và từng bước chuẩn hóa quy
trình quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước.
- Các địa phương đã tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
trong chỉ đạo, điều hành; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến,
hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, đã tạo ra bước đổi mới
trong phương thức chỉ đạo - điều hành, tăng cường hình thức họp, giao ban,
trao đổi trực tuyến giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa các cơ
quan hành chính cùng cấp và giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ
58
chức, doanh nghiệp và công dân, kịp thời giải đáp và tháo gỡ các vướng mắc,
khó khăn của người dân và doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư
và kinh doanh ở nước ta.
- Triển khai Đề án 112 trong các cơ quan hành chính nhà nước, bước đầu
đã tạo ra phương thức làm việc mới sử dụng công nghệ thông tin, nâng cao
hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức; xây dựng được cơ sở hạ tầng thông
tin phục vụ tin học hoá quản lý hành chính nhà nước. Hệ thống thông tin điện
tử đã bắt đầu đưa vào vận hành các dịch vụ cơ bản như thư điện tử, các phần
mềm ứng dụng tin học hoá quản lý hành chính nhà nước...
- Thực hiện Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg và Quyết định số
48/2009/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cơ quan nhà nước các địa phương đã
tích cực xây dựng kế hoạch thực hiện đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin
nhằm cải tiến công tác chỉ đạo, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành
và chất lượng cung cấp dịch vụ công.
- Trong hiện đại hoá công sở, thực hiện Quyết định số 1441/2008/QĐ-
TTg ngày 06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch
đầu tư trụ sở cấp xã, trong năm 2009, cả nước đã thực hiện đầu tư, xây dựng,
cải tạo được 1300 công trình trụ sở xã bằng 21% kế hoạch, trong đó có 859
công trình hoàn thành và 441 công trình chuyển tiếp sang năm 2010. (Báo cáo
tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001-2010 và Dự thảo chương trình cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011-2020).
II. Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã
1. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã
Điều 119 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy
định : “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
59
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà
nước cấp trên”.
Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương,
đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của cấp xã. Với phương thức hoạt
động chính là các kỳ họp, Hội đồng nhân dân có quyền ra nghị quyết về những
vấn đề của xã và thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan
nhà nước khác ở xã trong việc tuân theo pháp luật.
Về cơ cấu, Hội đồng nhân dân xã được hình thành bởi các đại biểu do
nhân dân trong xã bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân trong xã, tuyên truyền, vận động nhân dân và gương mẫu
thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, động viên nhân dân tham gia các
hoạt động quản lý nhà nước.
Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân. Đây là cơ
quan thường trực của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, do Hội đồng nhân
dân bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa. Thành viên thường trực Hội đồng
nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Về hoạt động, Hội đồng nhân dân xã chủ yếu hoạt động thông qua các
kỳ họp. Tại kỳ họp, Hội đồng nhân dân bàn bạc và quyết định những vấn đề
được nêu ra trong chương trình nghị sự, quyết định các biện pháp để thi hành
các quyết định, chỉ thị, pháp luật của nhà nước ở xã, thực hiện quyền giám sát
thực thi pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân
họp mỗi năm 2 kỳ và có thể có những cuộc họp chuyên đề hoặc họp bất
thường. Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm cùng Thường trực Hội đồng nhân dân
chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã. Theo quy định Hội
đồng nhân dân xã họp công khai (trừ trường hợp ngoại lệ).
60
Một dung quan trọng của các kỳ họp Hội đồng nhân dân là thực hiện
quyền chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân,
các thành viên Uỷ ban nhân dân xã.
Các quyết định của Hội đồng nhân dân được thông qua dưới hình thức
nghị quyết. Nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu
HĐND biểu quyết tán thành. Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã đề ra chủ
trương, biện pháp, thời gian thực hiện và trách nhiệm các cơ quan, đơn vị thực
hiên nghị quyết đó. Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã có hiệu lực sau khi được
đại biểu HĐND thông qua và Chủ tịch HĐND ký chứng thực.
Thường trực Hội đồng nhân dân xã có các hoạt động sau đây:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp HĐND; phối hợp với Uỷ ban nhân dân
trong việc chuẩn bị kỳ họp của HĐND.
- Đôn đốc, kiểm tra UBND xã và các cơ quan nhà nước khác ở xã trong
việc thực thi các nghị quyết của HĐND.
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại xã.
- Xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công
dân, tiếp dân, tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo với
HĐND tại các kỳ họp.
- Trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND
bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND.
- Phối hợp với UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri
bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
- Tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo HĐND tại kỳ
họp.
- Giữ mối liên hệ với các đại biểu HĐND xã với thường trực Mặt trận
Tổ quốc xã; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND.
61
- Báo cáo về hoạt động của HĐND xã lên HĐND và UBND huyện.
Thường trực HĐND xã làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi tháng họp
ít nhất một lần, có thể họp bất thường.
2. Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã
Cơ cấu của UBND xã theo luật định gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và
các ủy viên. Chủ tịch UBND là đại biểu HĐND cùng cấp. Trong nhiệm kỳ
nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người
ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch
UBND trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu HĐND.
UBND xã do HĐND cùng cấp bầu ra theo nguyên tắc bỏ phiếu kín.
Theo pháp luật hiện hành, số thành viên UBND xã được quy định như sau:
- Đối với xã đồng bằng, trung du có dân số dưới 8000 người thì số
thành viên Uỷ ban nhân dân là 3 người, gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch
và một ủy viên. Các thay đổi về số lượng phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện phê chuẩn.
- Đối với xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8000 người trở lên và
xã biên giới thì số thành viên Uỷ ban nhân dân là 5 người, gồm một Chủ
tịch, 02 Phó Chủ tịch và 02 ủy viên.
- Uỷ ban nhân dân phường và thị trấn có số thành viên là 5 người,
gồm một Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 02 ủy viên.
Uỷ ban nhân dân xã không có các cơ cấu trực thuộc mà chỉ có các
công chức phụ trách các mảng công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ
ban nhân dân xã. Các mảng công việc đó là: Công an; Quân sự; Văn phòng -
Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch;
Văn hóa - Xã hội.
Sơ đồ dưới đây mô tả sự phân công đó.
62
Hội đồng nhân dân xã
Ủy ban nhân dân xã
Công an Quân sự
Tài chính -Kế toán
Tư pháp - Hộ tịch
Văn phòng -Thống kê
Địa chính -Xây dựng
Văn hóa- xã hội
Hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã dựa trên nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, kết hợp với chế độ thủ trưởng. Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân xã là người chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo và điều hành hoạt
động của Uỷ ban nhân dân xã.
Các vấn đề Uỷ ban nhân dân xã phải thảo luận tập thể và quyết định
theo đa số là:
- Chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân xã.
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách xã, quyết toán
ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của xã trình Hội đồng nhân dân xã quyết
định.
- Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở xã trình Hội
đồng nhân dân xã quyết định.
- Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã về kinh
tế - xã hội, thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân xã trước khi trình Hội
đồng nhân dân xã.
- Đề án thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở
xã.
Ủy ban nhân dân xã họp ít nhất mỗi tháng một lần. Các quyết định của
Uỷ ban nhân dân xã thông qua nếu được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban
nhân dân biểu quyết tán thành. Hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ
ban nhân dân xã là quyết định và chỉ thị. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã thay
mặt UBND ký ban hành.
63
3. Chức trách, nhiệm vụ của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
a) Chức trách, nhiệm vụ của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
xã
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân
dân xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn xã mình.
- Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ:
+ Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã; phối hợp
với Uỷ ban nhân dân xã trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân
xã, chủ trì xây dựng quyết của Hội đồng nhân dân xã.
+ Tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra giải quyết các kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo của nhân dân ở xã.
+ Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân xã; chủ trì và phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã trong việc
quyết định đưa ra bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân xã theo đề nghị của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
+ Giữ mối quan hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân xã.
+ Báo cáo công tác của HĐND xã và thông báo hoạt động của Hội
đồng nhân dân xã với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
- Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ do Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã phân công và thay mặt Chủ
tịch Hội đồng nhân dân xã giải quyết công việc khi Chủ tịch Hội đồng nhân
dân xã đi vắng.
b) Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
- Chủ tịch UBND xã:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là người đứng đầu Ủy ban nhân dân, lãnh
đạo và điều hành mọi công việc của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm thực
64
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 127 Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; đồng thời, cùng Ủy ban
nhân dân xã chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân trước
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân huyện).
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã triệu tập, chủ trì các phiên họp và các
hội nghị khác của Ủy ban nhân dân, khi vắng mặt thì ủy quyền Phó Chủ tịch
chủ trì thay; bảo đảm việc chấp hành pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên, nghị quyết của Đảng ủy và Hội đồng nhân dân xã.
+ Căn cứ vào các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết
của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và tình hình thực tiễn của địa phương,
xây dựng Chương trình công tác năm, quý, tháng của Ủy ban nhân dân xã.
+ Tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác; phân công
nhiệm vụ, đôn đốc, kiểm tra các thành viên Ủy ban nhân dân xã và các cán
bộ, công chức khác thuộc Ủy ban nhân dân xã, Trưởng thôn trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao.
+ Quyết định những vấn đề quan trọng, liên quan đến nhiều nội dung
công việc, những vấn đề đột xuất, phức tạp trên địa bàn; những vấn đề còn ý
kiến khác nhau hoặc vượt quá thẩm quyền của Phó Chủ tịch và Ủy viên Ủy
ban nhân dân xã.
+ Ký ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân xã và
thẩm quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật.
+ Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã, hoạt động của Ủy ban nhân
dân với Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện.
+ Thường xuyên trao đổi công tác với Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và người đứng đầu các đoàn thể
nhân dân cấp xã; phối hợp thực hiện các nhiệm vụ công tác; nghiên cứu,
tiếp thu về các đề xuất của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối
65
với công tác của Ủy ban nhân dân; tạo điều kiện để các đoàn thể hoạt động
có hiệu quả.
+ Tổ chức việc tiếp dân, xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Phó Chủ tịch UBND xã:
+ Trực tiếp chỉ đạo các lĩnh vực và địa bàn công tác do Chủ tịch phân
công; chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các công việc theo
lĩnh vực được phân công trên địa bàn. Phó Chủ tịch được sử dụng quyền hạn
của Chủ tịch khi giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực được giao.
+ Chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch, trước Ủy ban nhân dân và
Hội đồng nhân dân xã về lĩnh vực được giao, về những quyết định chỉ đạo,
điều hành của mình; cùng Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân
dân chịu trách nhiệm tập thể về toàn bộ hoạt động của Ủy ban nhân dân trước
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện. Đối với những
vấn đề vượt quá phạm vi thẩm quyền thì Phó Chủ tịch phải báo cáo Chủ tịch
quyết định.
+ Khi giải quyết công việc, nếu có vấn đề liên quan đến phạm vi và
trách nhiệm giải quyết công việc của thành viên khác của Ủy ban nhân dân thì
chủ động trao đổi, phối hợp với thành viên đó để thống nhất cách giải quyết;
nếu vẫn còn ý kiến khác nhau thì báo cáo Chủ tịch quyết định.
+ Kiểm tra, đôn đốc cán bộ, công chức, các thôn và tổ dân phố thực
hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật thuộc lĩnh vực được giao.
4. Vai trò của chính quyền xã trong cải cách hành chính nhà nước ở
địa phương.
a) Về cải cách thể chế
- Cải tiến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền xã.
- Tổ chức thực hiện tốt các thủ tục hành chính phục vụ công dân qua
trung tâm một cửa liên thông. Thường xuyên rà soát thủ tục hành chính tại địa
phương để báo cáo cấp trên nhằm kịp thời bổ sung, thay thế các thủ tục không
66
phù hợp với thực tế. Giải quyết kịp thời các khiếu nại của dân theo quy định
của pháp luật và thẩm quyền của xã.
b) Về cải cách bộ máy
- Cải tiến hoạt động của bộ máy chính quyền xã, làm cho bộ máy này
hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
- Tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế văn hóa công
sở và các quy chế khác do Nhà nước ban hành phục vụ xóa đói giảm nghèo,
bình đẳng giới.
- Làm nòng cốt cùng với Mặt trận Tổ quốc xã và các đoàn thể khác
trong việc xây dựng thống chính trị cơ sở vững mạnh.
c) Về chế độ công chức
Tổ chức tốt việc tuyển dụng, bồi dưỡng năng lực làm việc, đạo đức cho
cán bộ, công chức xã góp phần xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
trên địa bàn.
d) Về tài chính công
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng trong quản lý tài
chính công của xã. Công khai các khoản thu chi công của xã với dân.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Một doanh nghiệp đến làm việc với Uỷ ban nhân dân xã về triển khai
1 Dự án an sinh xã hội trên địa bàn. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đi vắng,
Phó Chủ tịch thay mặt ra tiếp. Tuy nhiên, đại diện doanh nghiệp chỉ muốn
làm việc với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Giả sử bạn là cán bộ Văn phòng
Uỷ ban nhân dân xã, hãy nêu lên cách xử lý của mình về việc nên tiếp tục
gặp gỡ doanh nghiệp như thế nào?
67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH ngày 02 tháng 4 năm 2005
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI ban hành quy chế hoạt động của
Hội đồng nhân dân.
- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
- Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg ngày 13/4/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn.
- Chương trình Tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010.
- Dự thảo chương trình Tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011-2020.
B - KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ
Phần 1
HOẠT ĐỘNG CỦA HĐND, UBND XÃ TRONG CÁC LĨNH VỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN
Chuyên đề 5:
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
I. Nội dung hoạt động của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực kinh
tế
1. Quyết định phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế ở xã
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (2003) quy định
cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực kinh
tế:
68
- Quyết định biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm; biện pháp thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, khuyến công và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi
theo quy hoạch chung.
- Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu,
chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn
quyết toán ngân sách địa phương; các chủ trương, biện pháp để triển khai thực
hiện ngân sách địa phương và điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương theo
quy định của pháp luật; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng
nhân dân quyết định.
- Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất
được để lại nhằm phục vụ các nhu cầu công ích của địa phương.
- Quyết định biện pháp xây dựng và phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác,
kinh tế hộ gia đình ở địa phương.
- Quyết định biện pháp quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, các
công trình thuỷ lợi theo phân cấp của cấp trên; biện pháp phòng, chống, khắc
phục hậu quả thiên tai, lụt bão, bảo vệ rừng, tu bổ và bảo vệ đê điều ở địa
phương.
- Quyết định biện pháp thực hiện xây dựng, tu sửa đường giao thông,
cầu, cống trong xã và các cơ sở hạ tầng khác ở địa phương.
- Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
2. Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ở xã
- Trong lĩnh vực kinh tế, Hội đồng nhân dân xã thực hiện việc giám sát
những nội dung sau :
69
+ Việc thực hiện kế họach phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; việc
thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công
và chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi theo quy hoạch chung.
+ Việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.
+ Việc quản lý và sử dụng đất được để lại phục vụ nhu cầu công ích của
địa phương.
+ Việc xây dựng và phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế hộ gia đình
ở địa phương.
+ Việc quản lý sử dụng và bảo vệ nguồn nước, các công trình thủy lợi
theo phân cấp của cấp trên; việc thực hiện phòng chống, khắc phục hậu quả
thiên tai, bảo lụt, bảo vệ rừng, tu bổ và bảo vệ đê điều ở địa phương.
+ Việc thực hiện xây dựng, tu sửa đường giao thông, cầu cống và các cơ
sở hạ tầng khác ở trong địa phương.
+ Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại.
- Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân xã và quá trình thực hiện
chức năng quyết định phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Quyết định phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Các quyết định của Hội
đồng nhân dân chính là căn cứ pháp lý để Uỷ ban nhân dân tổ chức triển khai
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế. Để khẳng định phương hướng, kế hoạch
phát triển kinh tế trong Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có sát với thực tế
không, có được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân chấp hành
nghiêm chỉnh hay không thì hoạt động giám sát đóng vai trò quan trọng.
+ Thông qua giám sát, Hội đồng nhân dân kịp thời phát hiện các cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện không
đúng với định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế mà Nghị quyết đã đề ra, trên
cơ sở đó có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh. Đồng thời, thông qua giám
70
sát của Hội đồng nhân dân kịp thời điều chỉnh kế hoạch phát triển kinh tế của
xã cho phù hợp với thực tiễn. Quá trình giám sát thường xuyên tình hình thực
hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, giúp Hội đồng nhân dân đôn đốc,
kiểm tra qua đó yêu cầu các chủ thể thực hiện đúng nội dung, yêu cầu được
quy định trong Nghị quyết.
- Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân (HĐND)
trong hoạt động kinh tế:
+ Các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân, bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho
HĐND thực hiện quyền năng của mình. Nếu luật không quy định cụ thể về thủ
tục, trách nhiệm, quyền hạn.... của các đối tượng liên quan đến hoạt động giám
sát thì việc ghi nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ
là hình thức.
+ Tổ chức bộ máy hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan hoạt động không thường xuyên, cùng với
đặc điểm Đại biểu hội đồng nhân dân hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân. Hơn nữa
Hội đồng nhân dân là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, về mặt tổ
chức lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để thực hiện
tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân
dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi thực tế cho thấy
bất kỳ một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng
máy làm việc nhịp nhàng và mang lại hiệu quả.
+ Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của
đại biểu Hội đồng nhân dân.
Suy cho cùng, đại biểu Hội đồng nhân dân là nguồn gốc của mọi vấn đề
liên quan đến chất lượng và hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương. Trong các tổ chức, yếu tố con người mới là những thực thể tạo
71
ra các hoạt động có mục đích. Do vậy, bên cạnh đảm bảo về mặt số lượng,
trình độ am hiểu pháp luật, người đại biểu cần phải có năng lực bản lĩnh và
trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám sát.
+ Chương trình kế hoạch và chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân.
Hiệu quả của một công việc phụ thuộc rất nhiều quá trình chuẩn bị thực
hiện nó. Trong quá trình giám sát, xây dựng chương trình kế hoạch và lựa chọn
hình thức giám sát phù hợp là điều kiện bảo đảm thế chủ động cho Hội đồng
nhân dân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, giám sát là
một công việc khó khăn và phức tạp bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn,
đồng thời còn đòi hỏi sự tinh tế và nhạy bén, nếu không có kế hoạch nghiên
cứu trước các đối tượng được giám sát thì rất dễ rơi vào hình thức. Mặt khác,
phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân rất rộng, lại đặt trong điều kiện chúng
ta đang thực hiện chương trình hoá hoạt động giám sát nên xây dựng chương
trình, lên kế hoạch, lựa chọn hình thức giám sát phù hợp là những việc làm hết
sức cần thiết. Chương trình giám sát cần phải có trọng tâm, trọng điểm, nội
dung giám sát cần phải tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc và đang
được đông đảo cử tri ở địa phương quan tâm.
+ Điều kiện vật chất, chi phí hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, cần phải đầu tư
chi phí và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát. Trong đánh giá hiệu quả
giám sát của HĐND, cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động
này.
Một là, tăng đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND theo yêu
cầu của nội dung hoạt động. Nếu có đầu tư thoả đáng sẽ góp phần tích cực
nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Chẳng hạn, ở những xã thuộc vùng
sâu, vùng xa, vùng cao rất khó khăn, công việc giám sát chủ yếu lại diễn ra ở
cơ sở nên cần có chế độ kinh phí bồi dưỡng cho cán bộ trực tiếp xuống giám
sát, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn giám sát trong thời gian làm việc ở cơ
sở...
72
Hai là, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát phải tối ưu, nghĩa là chỉ đủ
mức cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Không phải bao giờ và ở
đâu, hễ cứ tăng đầu tư chi phí thì khi đó và ở đó công tác giám sát có hiệu quả.
Ngược lại, nhiều khi chỉ ở mức kinh phí hạn hẹp nhưng nếu tổ chức thực hiện
tốt, tìm ra những hình thức, phương pháp thích hợp thì cũng có thể mang lại
hiệu quả cao.
Như vậy, khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào nói chung và
giám sát nói riêng, đều đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợp lý, tối ưu.
II. Nội dung quản lý của Ủy ban nhân dân xã trong lĩnh vực kinh tế
1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn xã
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn xã là biện
pháp gần như bắt buộc phải thực hiện đối với các nhà quản lý trong giai đoạn
hiện nay. Thông thường, căn cứ theo những định hướng được xây dựng trước,
các nhà quản lý sẽ đưa ra những chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể cho
địa bàn trong từng khoảng thời gian được xem xét một cách hợp lý và khả thi.
Việc huy động các nguồn lực, công tác vận động, đôn đốc thực hiện sẽ được
triển khai trong từng giai đoạn của quy hoạch và kế hoạch. Xây dựng quy
hoạch, kế hoạch chính là bước cơ bản để tạo nên hệ thống các mục tiêu cần
thực hiện được một cách hợp lý, một cơ cấu kinh tế cân đối trong hàng loạt
những vấn để kinh tế - xã hội cần đạt được. Bên cạnh đó, xây dựng các quy
hoạch, kế hoạch cũng giúp chúng ta có thể phát huy một cách có hiệu quả nhất
các nguồn lực thực tế (tuỳ thuộc từng địa bàn đồng bằng hay miền núi có thể
có nguồn lực mạnh hay hạn chế khác nhau) vào phát triển, phát huy các điểm
mạnh và hạn chế các điểm yếu trên địa bàn. Song song với tầm quan trọng và ý
nghĩa của việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, các nhà quản lý cũng cần
hiểu rõ các kỹ năng khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch. Đánh giá không
chính xác tình hình thực tế, xây dựng quy hoạch, kế hoạch không khả thi, sai
định hướng, lúng túng trong việc sử dụng các nguồn lực tại địa bàn xã đâu đó
vẫn là nỗi lo của ngày hôm nay trong phát triển kinh tế - xã hội tại nước ta.
73
a) Yêu cầu của việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
trên địa bàn xã
- Một là: Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn xã phải phù
hợp với dự kiến phát triển kinh tế chung của huyện, tỉnh và cả nước.
Trên thực tế, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn xã
cùng tồn tại song song với các quy hoạch, kế hoạch hay các chương trình, dự
án phát triển kinh tế của chính quyền cấp trên. Vì thế, đối với xã sẽ có liên
quan về một số vấn đề như đất đai xây dựng, nhân công được sử dụng, nguồn
nguyên liệu sẽ khai thác, người tiêu dùng được phục vụ,…. (Ví dụ: Cấp trên
dự định xây dựng nhà máy đường trên địa bàn xã thì chính quyền xã không thể
dự định trồng cây khác mà phải có dự án đưa cây mía về các hộ, đồng thời
nhân lực có thể bị hút hết vào các nhà máy do cấp trên xây dựng tại xã).
- Hai là: Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của chính
quyền xã cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, từ cấp trên (đặc biệt là cấp huyện và
các tổ chức khoa học - công nghệ, các tổ chức kinh tế - xã hội khác).
+ Sở dĩ việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của chính
quyền xã cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, từ cấp trên, đặc biệt từ cấp huyện vì:
Việc phát triển kinh tế xã có liên quan đến sự phát triển kinh tế chung
của cả nước ở mọi cấp.
Có những vấn đề kinh tế liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế cần được chính quyền cấp huyện phê duyệt và quyết định vì chính
quyền xã chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền cấp huyện.
Khả năng chuyên môn, khả năng tài chính của chính quyền xã còn có
những hạn chế nhất định, đòi hỏi sự trợ giúp của chính quyền cấp trên và các tổ
chức khoa học - công nghệ, các tổ chức kinh tế - xã hội.
+ Sự hỗ trợ bên ngoài này thể hiện ở chỗ:
Chính quyền cấp huyện cho ý kiến về định hướng phát triển kinh tế xã;
phê duyệt, giải quyết kịp thời những vấn đề thuộc thẩm quyền.
74
Chính quyền cấp huyện thực hiện phân cấp ngân sách; hỗ trợ ngân sách
xã từ nguồn tài chính huyện và từ các nguồn khác; giao cho chính quyền xã
làm chủ đầu tư một số chương trình thích hợp.
Chính quyền cấp huyện, các tổ chức khoa học - công nghệ, các tổ chức
kinh tế - xã hội khác chuyển giao kinh nghiệm; phương pháp tư vấn; hỗ trợ
kinh phí lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, cung cấp thông tin thị
trường,…
- Ba là: Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa
bàn xã đòi hỏi sự tham gia đông đảo của nhân dân trước hết là trưởng thôn,
trưởng bản, của cộng đồng xã.
Việc tham gia của nhân dân sẽ giúp chính quyền xã huy động được sức
mạnh tổng hợp của cả cộng đồng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế
xã; xác định đúng tiềm năng kinh tế, nhu cầu và lợi ích đưa lại cho người dân,
cộng đồng; nâng cao quyền làm chủ, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của người
dân; nâng cao năng lực quản lý của cán bộ xã; nâng cao hiệu quả kinh tế trong
đầu tư và quản lý các quy hoạch sau đầu tư.
Sự tham gia của nhân dân xã vào việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế trên địa bàn xã có thể bằng cách niêm yết công khai cán bộ
xã trực tiếp điều tra, hỏi ý kiến người dân, trưởng thôn, trưởng bản hay tổ chức
các cuộc thảo luận đóng góp ý kiến của nhân dân tại các thôn xóm, tại các tổ chức
quần chúng.
b) Phương pháp xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của xã
- Tính toán khả năng về việc làm kinh tế của xã.
Đó là tất cả các yếu tố cần thiết mà xã có để có thể hình thành và phát
triển những ngành nghề như: đất đai canh tác và xây dựng, số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực, vốn tự có, tài nguyên thiên nhiên; Đồng thời, những
yếu tố này chưa bị cấp trên huy động vào các chương trình kinh tế do cấp trên
trực tiếp tổ chức.
Khả năng trên được tính toán như sau:
75
+ Thống kê thực có: Đo đạc đất đai, điều tra tài nguyên hoặc xin số liệu
của các cơ quan chuyên môn cấp trên, ước đoán thu nhập và tích luỹ trong dân.
+ Dự tính tác dụng của các nguồn lực đó xem có thể dùng vào việc gì,
trong ngành nghề nào,…
- Tính nhu cầu về mặt kinh tế.
Nhu cầu là tất cả những gì mà thị trường trong và ngoài xã cần nhưng
chưa có nơi đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ.
Để xác định nhu cầu trên, người ta dựa vào các căn cứ sau đây:
+ Thu nhập dân cư.
+ Tập quán tiêu dùng và nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư.
+ Các đơn đặt hàng từ thị trường ngoài xã.
c) Tác dụng của quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trên địa bàn xã
đối với công tác quản lý kinh tế của chính quyền xã
- Để chính quyền xã có cơ sở hướng dẫn công dân lập nghiệp kinh tế.
Trên cơ sở các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, chính quyền xã
mới có căn cứ để trả lời người dân “Phải làm gì để xoá đói giảm nghèo?”. Uy
tín của chính quyền cao hay thấp chính là ở chỗ này, có thể chỉ cho dân con
đường thoát khỏi đói nghèo hay không.
- Để chính quyền xã có cơ sở định hướng lâu dài cho việc xây dựng các
cơ sở kinh tế do chính quyền xã và nhân dân lập ra.
Trên địa bàn xã có một số nhu cầu công cộng rất cần thiết để phục vụ
đời sống và sản xuất kinh doanh của người dân trong xã. Song các cơ sở tư
nhân không đủ điều kiện, không có khả năng hoặc không được phép sản xuất
để cung cấp cho cộng đồng xã như: lĩnh vực chiếu sáng, cấp thoát nước, xây
dựng chợ,…. Vì vậy, chính quyền xã cần tham gia bằng cách trích ngân sách
hoặc huy động sự đóng góp của nhân dân trong xã, đáp ứng các nhu cầu
công cộng cho cộng đồng xã.
2. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trên địa bàn xã
76
Cùng với xu hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên toàn quốc theo hướng
đẩy mạnh xây dựng và khai thác các ngành công nghiệp, thương mại và dịch
vụ như nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra là đưa Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trên địa bàn xã là những thử thách đòi hỏi nỗ lực rất lớn của hệ thống quản lý.
Muốn thực hiện tốt công tác này đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải có ý thức
tự nghiên cứu, học tập, trau dồi tốt các khả năng như đánh giá thực trạng, đánh
giá các nguồn lực, nhận biết xu hướng phát triển, công tác xây dựng chiến
lược,...
Trên cơ sở làm chủ những kỹ năng nêu trên, chúng ta có thể sơ bộ xây
dựng các bước trình tự thực hiện như sau:
- Đánh giá chính xác, trung thực về hiện trạng cơ cấu kinh tế trên địa bàn
xã.
- Phân tích và đánh giá việc khai thác và sử dụng các nguồn lực hiện có
trên cơ sở hiện trạng cơ cấu kinh tế.
- Phân tích, nhận diện về các nguồn lực chưa sử dụng, chưa khai thác và
các tiềm năng khác trên địa bàn xã.
- Xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế mới cần chuyển đổi trên cơ sở phù
hợp với nhiệm vụ, nhu cầu phát triển mới. Cơ cấu kinh tế mới cần được phân
tích và xây dựng phù hợp với hệ thống các nguồn lực, bao gồm các nguồn lực
sẵn có, nguồn lực chưa sử dụng và các nguồn lực tiềm năng.
- Tổ chức thực hiện theo từng giai đoạn thời gian kết hợp với công tác
kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh kịp thời khi cần thiết.
Trong khi thực hiện các bước theo trình tự nêu trên, để chuyển đổi cơ
cấu kinh tế trên địa bàn xã cần tham khảo cơ cấu mô hình chuyển đổi giữa các
cấp quản lý, thực hiện đúng quy hoạch về cơ cấu kinh tế xã với huyện, với tỉnh
hay các vùng kinh tế.
77
3. Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nhân dân trong phát
triển kinh tế ở xã
- Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của UBND xã trong quản lý nhà
nước về kinh tế là tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nhân dân trong
phát triển kinh tế. Để làm tốt nhiệm vụ này, chính quyền xã cần công khai về
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã cho toàn dân được biết. Việc công khai
này được thực hiện:
+ Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Thông qua các đại biểu HĐND.
+ Thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng.
+ Thông qua các hội nghị toàn dân và các cuộc họp ở thôn, xóm.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nhân dân trong xã
thực hiện theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch đã đề ra.
Hoạt động này cần đáp ứng những yêu cầu sau đây:
+ Thông tin: Nhân dân trong xã biết được kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của xã.
+ Hưởng ứng: Nhân dân trong xã đồng tình với chủ trương của xã và sẵn
sàng hưởng ứng. Hay nói cách khác, nhân dân nhận thức được lợi ích của việc
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tham gia: Với hoạt động công khai, minh bạch về thông tin của mình,
UBND xã không chỉ phổ biến để nhân dân hiểu và nhận thức, mà còn lôi kéo
sự hưởng ứng và tham gia của nhân dân trong việc thực hiện tốt kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của xã mình.
- Ngoài công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và hỗ trợ cho nhân
dân đi kèm với các hoạt động công khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói
trên; Tuỳ từng kế hoạch, UBND xã cần tổ chức một số hoạt động tư vấn, hỗ
trợ đặc biệt về đào tạo, cụ thể là:
+ Tổ chức các lớp dạy nghề.
+ Tổ chức các lớp phổ biến và áp dụng khoa học - công nghệ mới.
78
+ Tổ chức các lớp học khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, nuôi trồng
thuỷ sản,...
+ Tổ chức các hoạt động tư vấn pháp lý.
+ Vận động giáo dục nhân dân.
+ Tư vấn, hỗ trợ nhân dân khắc phục những yếu kém, hạn chế trong quá
trình sản xuất (yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất, công nghệ,...).
- Trong các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, đào tạo cho người dân, cần chú ý
tính hiệu quả và thực tế, tránh tình trạng đưa ra các chương trình đại trà và
hình thức. Chương trình của các hoạt động này khi đưa ra cần bảo đảm các yêu
cầu sau đây:
+ Công khai và dân chủ.
+ Tính chính xác.
+ Đúng quy định.
+ Nội dung phù hợp.
4. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh ở xã
a) Khái niệm về kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế
Kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế là công việc của cơ quan quản lý
thực hiện xem xét, đánh giá tình trạng tốt xấu của các hoạt động kinh tế; theo
dõi, xem xét sự hoạt động kinh tế được thực thi đúng hoặc sai đối với các quy
định pháp luật.
Kiểm tra, kiếm soát hoạt động kinh tế là một chức năng quản lý của Nhà
nước. Công tác này phải được thực thi thường xuyên và nghiêm túc.
b) Sự cần thiết phải kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế ở xã
Quá trình hoạt động kinh tế không phải lúc nào cũng diễn ra một cách
bình thường và đưa lại kết quả mong muốn. Sự kiểm tra, kiểm soát kịp thời
phát hiện những mặt tích cực và tiêu cực, những thành công và thất bại, các
mô hình kinh tế đang trong trạng thái phát triển hay khủng hoảng, suy thoái,
dao động hay ổn định, hiệu quả hay kém hiệu quả, ách tắc hay thông thoáng,
đúng hướng hay chệch hướng, tuân thủ hay xem thường pháp luật,…
79
Thông qua kết quả kiểm tra, kiểm soát, nhà quản lý rút ra những kết
luận, nguyên nhân, kinh nghiệm và đề ra những giải pháp phát huy những ưu
điểm và khắc phục những khuyết điểm; đồng thời phát hiện ra các cơ hội mới
cho sự phát triển kinh tế trên địa bàn và xây dựng xã phát triển lên một bước
tiến mới. Như vậy, kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế trên địa bàn xã là cần
thiết.
c) Nội dung kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế của chính quyền xã
Kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế ở xã cần được tiến hành trên các
mặt hoạt động sau đây:
- Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước về kinh tế.
- Kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực.
- Kiểm tra, kiểm soát việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tự
nhiêm, môi trường sinh thái.
- Phối hợp với với các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm soát sản phẩm
do các doanh nghiệp trên địa bàn sản xuất ra.
- Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chức năng, việc tuân thủ pháp
luật của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế ở
địa phương (lưu ý việc kiểm tra, kiểm soát này được tiến hành phù hợp với
chức năng nhiệm vụ của chính quyền địa phương, phù hợp với mô hình và địa
bàn quản lý).
d) Những giải pháp chủ yếu thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh
tế
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của Chủ tịch
UBND xã, cán bộ chuyên trách trong việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh tế trên địa bàn xã theo trách nhiệm của từng đối tượng.
- Nâng cao vai trò của từng cán bộ về chuyên môn để phân tích, tư vấn
kinh tế,... và khi cần thiết có thể tranh thủ, sử dụng ý kiến của các tổ chức, các
chuyên gia vào việc kiểm tra hoạt động kinh tế trên địa bàn xã.
80
- Nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát của nhân dân, của các tổ chức
chính trị xã hội, các cơ quan ngôn luận, các cơ quan thông tin đại chúng trong
việc kiểm tra hoạt động kinh tế.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra, kiểm
soát hoạt động kinh tế.
- Phân công nhiệm vụ rõ ràng, nâng cao năng lực chuyên môn và đạo
đức của công chức trong bộ máy kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Xã A thuộc huyện T.H mấy năm qua vắng bóng người. Vải thiều quá rẻ
lại khó tiêu thụ; số lao động trẻ, khoẻ ở đây đều tìm cách đi khỏi làng. Phần
lớn trong số đó đi lao động xuất khẩu. Hầu hết những người ra đi đã bán
ruộng, bán vườn vải để lấy tiền “chạy” tiêu chuẩn đi lao động. Người mua
vườn chủ yếu từ thành phố về, họ chỉ mua để đó đầu cơ, không ở, cũng không
làm vườn. Con cái người dân ở đây bỏ bê học hành, sản xuất cầm chừng do
trông chờ vào nguồn thu nhập gửi từ nước ngoài về. Song số tiền làm thuê
mang từ nước ngoài về không đủ để mua lại vườn vải xưa. Thế là nghèo vẫn
hoàn nghèo. Họ lại tìm đường ra đi. Bây giờ trong số người ra đi có cả lớp
con cái họ.
- Đồng chí có cho rằng chính quyền xã cũng phải gánh trách nhiệm
trong việc này không? Nếu có thì ở khâu nào?
- Giả sử đồng chí được tăng cường về một xã có hoàn cảnh tương tự,
đồng chí sẽ có hướng giải quyết thế nào để xóm thôn trở lại trù phú, đời sống
nhân dân được cải thiện?
Tình huống 2:
Vụ rét năm 2007 kéo dài đến tận giáp Tết Nguyên đán Mậu Tý. Cây
trồng, vật nuôi thiệt hại quá nhiều làm nản lòng nông dân. Không quản khó
khăn, bà con ra sức chống rét cho mạ chiêm với hy vọng vụ tới sẽ bù đắp lại
81
một phần. Trời vừa đỡ rét, lại sắp đến Tết, nhiều nơi bà con hối hả xuống
đồng cấy lúa. Khẩu hiệu “Chưa cấy xong chưa vui lòng ăn Tết” đã trở thành
công thức nằm lòng của bà con từ thời kỳ hợp tác toàn thôn, toàn xã. Nhưng
cái vui chưa được bao lâu thì tai hoạ lại kéo đến. Mấy đợt rét liên tiếp sau Tết
làm mạ chết trắng đồng. Cả miền Bắc thiệt hại hàng nghìn héc ta lúa.
- Theo đồng chí, để xảy ra tình trạng trên có thiếu sót về phía các cơ
quan quản lý nhà nước không? Thiếu sót ở khâu nào? Trách nhiệm của chính
quyền xã đến đâu?
- Xã đồng chí có gặp hoàn cảnh này không? Năm tới, đồng chí sẽ chỉ
đạo thế nào để tránh thiệt hại cho sản xuất nếu gặp bất lợi về thời tiết nói
riêng, các biến động khách quan nói chung?
Tình huống 3:
Nhờ đổi mới trong phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế, những năm
gần đây địa phương được chủ động hơn trong việc thu hút đầu tư. Vì thế, các
khu công nghiệp, khu đô thị được mở ra với tốc độ khá nhanh. Nông dân vừa
mừng, vừa lo. Mừng vì công nghiệp sẽ làm thay đổi bộ mặt nông thôn, con
em họ có thể kiếm được việc làm tại quê nhà, các hoạt động dịch vụ phục vụ
nhu cầu sinh hoạt cho số lao động công nghiệp làm việc trong các khu công
nghiệp và dân cư mới của đô thị, và không loại trừ hy vọng giá đất sẽ tăng,…
Nhưng cũng lo khi mất ruộng thì sẽ kiếm sống thế nào từ số tiền đền bù hoa
lợi, rồi liệu “họ” sản xuất cái gì, có độc hại cho sức khoẻ người dân các vùng
lân cận không,…
- Nếu đồng chí là Chủ tịch UBND một xã ở vào tình thế đó, đồng chí
sẽ có giải pháp gì để yên dân và chuẩn bị cho một tương lai khả quan của
xã?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003.
82
- Học viện Hành chính, Tài liệu Khóa tập huấn giảng viên thực hiện
chương trình đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Hà Nội, 2008.
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, Phần Khoa học hành chính, tập 1 và
tập 2, Nxb CT-HC, H, 2010.
Chuyên đề 6:
HOẠT ĐỘNG CỦA HĐND, UBND XÃ TRONG LĨNH VỰC NGÂN
SÁCH
I. Tổng quan về tài chính, ngân sách xã
1. Khái niệm, đặc điểm tài chính,ngân sách xã
Theo quy định tại điều 1 Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 đã được
Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai
ngày 16 tháng 12 năm 2002 thì: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
Cũng theo Luật Ngân sách nhà nước thì hệ thống Ngân sách nhà nước ở nước
ta bao gồm: ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương,. ngân sách địa phương
83
bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay1 ngân
sách địa phương bao gồm: ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là ngân sách cấp tỉnh); ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là ngân sách cấp huyện); và ngân sách xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân
sách cấp xã). Cơ cấu tổ chức của hệ thống Ngân sách nhà nước ta có thể mô tả theo
sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Hệ thống Ngân sách nhà nước Việt Nam
Ngân sách xã là một bộ phận của hệ thống ngân sách nhà nước. Các
khoản thu, chi của ngân sách xã là những khoản thu, chi của Ngân sách nhà
nước giao cho Uỷ ban nhân dân xã xây dựng, tổ chức quản lý, Hội đồng nhân
dân xã quyết định và giám sát thực hiện theo nhiệm vụ quyền hạn của Luật
Ngân sách nhà nước quy định. Là một bộ phận trong hệ thống ngân sách nhà
nước nên ngân sách xã cũng mang những đặc trưng chung của ngân sách đó
là: về bản chất ngân sách xã là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước
với các chủ thể khác, phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ của chính quyền nhà nước xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước cấp cơ sở. Tuy nhiên, điểm
khác biệt giữa ngân sách xã với các cấp ngân sách khác trong hệ thống Ngân
sách nhà nước, đó là: ngân sách xã vừa là một cấp ngân sách lại vừa như một đơn
vị dự toán ngân sách.
1 Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003
84
Ngân sách nhà nước
Ngân sách Trung ương
Ngân sách địa phương
Ngân sách cấp tỉnh
Ngân sách cấp huyện
Ngân sách xã
2. Nguyên tắc quản lý tài chính - ngân sách xã
- Nguyên tắc một ngân sách duy nhất.
Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các khoản thu, chi của Nhà nước đều phải
phản ánh đầy đủ, rõ ràng trong dự toán, quyết toán Ngân sách nhà nước để
Hội đồng nhân dân xã quyết định.
- Nguyên tắc niên độ.
Nguyên tắc này yêu cầu dự toán ngân sách phải được cơ quan có thẩm
quyền quyết định cho từng năm và việc sử dụng kinh phí đã được duyệt cũng
giới hạn trong năm theo dự toán đã được duyệt.
- Nguyên tắc chuyên dụng.
Các khoản chi chỉ được sử dụng cho đối tượng và mục đích đã được cơ
quan có thẩm quyền quyết định. Tính chuyên dụng này được thể hiện qua việc
phân bổ chi tiêu theo cách phân loại trong mục lục ngân sách và các đơn vị
chi tiêu phải tuân thủ theo đúng dòng, mục đã được ghi trong dự toán ngân
sách.
- Nguyên tắc đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước.
Về nguyên tắc, ngân sách xã được cân đối với tổng số chi không được
vượt quá tổng số thu.
- Nguyên tắc hiệu quả.
Nguồn lực thì có hạn nhưng nhu cầu thì không có mức giới hạn. Do
vậy, trong quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn lực khan hiếm đó luôn phải
tính toán sao cho với chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt kết quả đầu ra như dự kiến.
Cần thực hiện ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo các nhóm mục chi sao
cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt chất
lượng cao.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch
Quản lý ngân sách đòi hỏi phải công khai, minh bạch xuất phát từ đòi
hỏi chính đáng của người dân với tư cách là người nộp thuế cho Nhà nước.
Nội dung công khai theo các mẫu đã được Bộ Tài chính quy định. Hình thức
85
công khai chủ yếu là: thông báo bằng văn bản cho các cơ quan hữu quan, phát
hành ấn phẩm; công khai trên trang thông tin điện tử. Thời gian công khai
cũng được quy định rõ đối với từng cấp ngân sách2.
II. Nội dung quản lý tài chính, ngân sách xã
Quản lý ngân sách xã bao gồm ba khâu nối tiếp nhau, đó là: lập dự toán
ngân sách (bao gồm chuẩn bị và quyết định dự toán ngân sách); chấp hành
ngân sách và quyết toán ngân sách. Lập dự toán ngân sách là công việc khởi
đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân
sách. Lập dự toán ngân sách thực chất là lập kế hoạch (dự toán) các khoản
thu-chi của ngân sách trong một năm ngân sách.
Yêu cầu lập dự toán
- Lập theo đúng nội dung, mẫu biểu, mục lục Ngân sách nhà nước, thời
hạn qui định.
- Tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức.
- Đảm bảo nguyên tắc cân đối ngân sách.
- Phải căn cứ vào điều kiện và nguồn kinh phí để lựa chọn các hoạt
động/dự án cần ưu tiên bố trí vốn tránh dàn trải.
Căn cứ lập dự toán
Dự toán ngân sách xã hàng năng được xây dựng dựa trên các căn cứ sau:
Các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng
và trật tự an toàn xã hội của xã thể hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội xã.
- Chính sách, chế độ thu ngân sách nhà nước, cơ chế phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi của ngân sách xã và tỷ lệ phân chia nguồn thu do Hội đồng
nhân dân tỉnh quy định.
2 Xem Thông tư 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các cấp NSNN và chế độ báo cáo tình hình thực hiện công khai tài chính.
86
- Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách hiện hành như: chế độ
tiền lương cán bộ công chức xã, chi cho hoạt động của các ban ngành đoàn
thể…
- Số kiểm tra về dự toán ngân sách xã do Uỷ ban nhân dân huyện thông
báo.
- Tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã năm trước và một số năm
liền kề, ước thực hiện ngân sách năm hiện hành.
- Dự báo những xu hướng và vấn đề có tác động đến ngân sách xã năm kế
hoạch.
Quy trình lập dự toán
Hướng dẫn lập dự toán.
Bước (1): Uỷ ban nhân dân huyện hướng dẫn và giao số kiểm tra dự
toán ngân sách cho các xã.
Bước (2): Uỷ ban nhân dân xã tổ chức hội nghị triển khai xây dựng dự
toán ngân sách xã và giao số kiểm tra cho các ban ngành, đoàn thể.
Lập và tổng hợp dự toán ngân sách xã.
Bước (3): Các ban ngành, đoàn thể, kế toán xã lập dự toán ngân sách
xã.
Bước (4): Uỷ ban nhân dân xã làm việc với các ban ngành, đoàn thể về
dự toán ngân sách; kế toán tổng hợp và hoàn chỉnh dự toán ngân sách xã.
Bước (5): Uỷ ban nhân dân xã trình Thường trực Hội đồng nhân dân xã
xem xét cho ý kiến về dự toán ngân sách xã.
Bước (6): Căn cứ vào ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân xã, Uỷ
ban nhân dân xã hoàn chỉnh lại dự toán ngân sách và gửi Phòng Tài chính - Kế
hoạch huyện.
Bước (7): Phòng Tài chính huyện tổ chức làm việc về dự toán ngân
sách với các xã đối với năm đầu của thời kỳ ổn định hoặc khi Uỷ ban nhân
dân xã có yêu cầu ở những năm tiếp theo của thời kỳ ổn định ngân sách; tổng
hợp và hoàn chỉnh dự toán ngân sách huyện báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện.
87
Phân bổ và quyết định dự toán ngân sách xã.
Bước (8): Uỷ ban nhân dân huyện giao dự toán ngân sách chính thức
cho các xã.
Bước (9): Uỷ ban nhân dân xã hoàn chỉnh lại dự toán ngân sách xã gửi
đại biểu Hội đồng nhân dân xã trước phiên họp của Hội đồng nhân dân xã về
dự toán ngân sách; Hội đồng nhân dân xã thảo luận và quyết định dự toán ngân
sách.
Bước (10): Uỷ ban nhân dân xã giao dự toán cho ban, ngành, đoàn thể,
đồng gửi Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, Kho bạc nhà nước huyện; thực
hiện công khai dự toán ngân sách xã trước ngày 31/12.
1. Quản lý thu ngân sách
a) Lập dự toán thu ngân sách xã
- Xác định các nguồn thu ngân sách xã năm kế hoạch.
Nguồn thu của xã được xác định căn cứ vào việc phân cấp nguồn thu3
trong từng thời kỳ. Nguồn thu ngân sách xã bao gồm:
+ Các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100%.
+ Các khoản thu ngân sách xã được hưởng theo tỷ lệ % phân chia.
+ Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên. Nguồn thu của ngân sách xã ở
năm kế hoạch (năm X+1) có thể thay đổi so với năm báo cáo (năm X) trong
trường hợp phân cấp ngân sách tại địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh
quyết định có thay đổi hoặc có các nguồn thu mới hay nguồn thu hiện hành
được các cấp có thẩm quyền bãi bỏ trong năm kế hoạch. Ngoài ra, xã có thể
thảo luận và quyết định thêm các nguồn thu đóng góp tự nguyện của nhân dân
trong xã, các hoạt động tài chính khác của xã, các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật.
3 Luật ngân sáchNN năm 2002 cho xã, được cụ thể ở Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 06 năm 2003 và quyết định phân cấp nguồn thu ngân sách của Hội đồng nhân dân tỉnh trong thời kỳ ổn định ngân sách (ví dụ: thời kỳ 2011-2015).
88
- Xác định dự toán thu ngân sách xã năm kế hoạch
Thu ngân sách xã chịu tác động của hai nhân tố là đối tượng thu và
mức thu. Căn cứ xác định số đối tượng thu hay mức thu tính cho một đối
tượng thu năm (X+1) dựa vào các văn bản sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới
thay thế cho các văn bản đang có hiệu lực thi hành năm báo cáo quy định về
các khoản thu (thuế, phí, lệ phí, các khoản đóng góp...). Kế toán xã cũng cần
phối hợp với các bộ phận thống kê xã, cơ quan thuế, cán bộ ủy nhiệm thu
(nếu có) và hội đồng tư vấn thuế xã tính toán các khoản thu ngân sách xã.
Tỷ lệ % ngân sách xã được hưởng từ từng khoản thu ngân sách phân
chia theo tỷ lệ % được xác định căn cứ vào quyết định về phân cấp nguồn thu
cho ngân sách xã của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên bao gồm: Thu bổ sung cân đối ngân
sách và bổ sung theo mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã. Số bổ
sung cân đối ngân sách xã được xác định từ năm đầu của thời kỳ ổn định ngân
sách và được giao ổn định từ 3 đến 5 năm. Số thu bổ sung theo mục tiêu từ
ngân sách cấp trên cho ngân sách xã được xác định hàng năm và xã phải sử
dụng kinh phí theo đúng mục tiêu quy định. Kế toán xã căn cứ các văn bản
pháp luật có liên quan, số kiểm tra dự toán ngân sách theo từng mục tiêu do
huyện thông báo để xác định dự toán các khoản thu bổ sung có mục tiêu.
Riêng dự toán thu bổ sung để thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp
trên ban hành có hiệu lực năm kế hoạch mà chưa được bố trí trong dự toán
ngân sách xã của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách thì Kế toán xã căn cứ
vào các quy định về đối tượng chi, mức chi, các nguồn bảo đảm cho việc thực
hiện các văn bản chính sách chế độ mới đó để xác định.
b) Nội dung tổ chức chấp hành thu ngân sách xã
Uỷ ban nhân dân xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế đảm bảo
thu đúng, thu đủ và kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp
khác vào Ngân sách nhà nước.
89
Về nguyên tắc, các khoản thu Ngân sách nhà nước được nộp qua ngân
hàng hoặc nộp trực tiếp tại Kho bạc nhà nước, trường hợp tại các địa bàn có
khó khăn trong việc nộp qua ngân hàng hoặc nộp tại Kho bạc nhà nước thì cơ
quan thu được trực tiếp thu, hoặc uỷ nhiệm cho tổ chức, cá nhân thu tiền mặt
từ người nộp, sau đó phải nộp đầy đủ, kịp thời vào Kho bạc nhà nước. Đối với
các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của Uỷ ban nhân dân xã, cũng phải tuân thủ
nguyên tắc là phải nộp vào Kho bạc nhà nước theo chế độ quy định. Đối với
các xã ở xa Kho bạc nhà nước được phép để tại xã sử dụng và định kỳ làm thủ
tục thu, chi ngân sách qua Kho bạc nhà nước.
Các khoản thu Ngân sách nhà nước bằng hiện vật, bằng ngày công lao
động được quy đổi ra đồng nội tệ theo giá hiện vật, giá ngày công lao động
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại thời điểm phát sinh để
hạch toán thu Ngân sách nhà nước.
Các khoản thu không đúng chế độ phải được hoàn trả cho đối tượng
nộp. Các khoản thu đã tập trung vào Ngân sách nhà nước nhưng được miễn
giảm hoặc hoàn trả, thì Kho bạc nhà nước hoàn trả cho các đối tượng nộp
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nguồn thu bổ sung từ Ngân sách huyện cho xã đã được thông báo theo
dự toán từ đầu năm. Căn cứ vào dự toán được duyệt, đối chiếu với nhu cầu sử
dụng kinh phí ngân sách xã, xã chủ động rút dự toán bổ sung từ Ngân sách
huyện đảm bảo nhu cầu chi.
2. Quản lý chi ngân sách
a) Lập dự toán chi ngân sách xã
Lập dự toán chi đầu tư: Có 3 loại danh mục công trình, dự án đầu tư
Loại 1: Các công trình hoặc dự án hoàn thành năm X nhưng chưa thanh
toán hết vốn đầu tư; Loại 2: Các công trình hoặc dự án chuyển tiếp từ năm X
sang năm X+1 tiếp tục thi công; Loại 3: Xác định danh mục các công trình,
dự án khởi công mới năm X+1 đã có quyết định đầu tư của các cấp có thẩm
quyền (hoặc chắc chắn sẽ có) trong năm X.
90
Đối với loại 1 và 2: Căn cứ vào kế hoạch và ước khối lượng thực hiện
các công trình đến 31/12 năm báo cáo X để xác định.
Đối với loại 3: Căn cứ vào quyết định đầu tư đã được Hội đồng nhân
dân xã/huyện ban hành (hoặc chắc chắn ban hành) trong năm X+1.
Lập dự toán chi thường xuyên.
Tổng dự toán chi thường xuyên ngân sách xã năm X+1 được xác định
bằng cách tổng hợp dự toán chi thường xuyên năm X+1 của từng nội dung
chi.
Các đơn vị căn cứ vào chính sách chế độ, tiêu chuẩn định mức chi, biên
chế và nhiệm vụ hoạt động của mình quản lý để tính toán dự trù các khoản chi
tiêu. Uỷ ban nhân dân xã làm việc cụ thể từng đơn vị, xem xét, thẩm định lại
nội dung tính toán từng nội dung chi. Trên cơ sở dự toán chi tiết của các đơn
vị đã được kiểm tra kỹ lưỡng, Uỷ ban nhân dân xã tổng hợp dự toán chi theo
Mục lục Ngân sách nhà nước (Chương, Loại, Khoản, Mục) và phân bổ theo
từng lĩnh vực trình Hội đồng nhân dân xã quyết định.
Khi lập dự toán chi cần lưu ý phân biệt khoản chi cam kết và chi đề xuất
mới.
Chi cam kết: Là các khoản chi để thực hiện đầy đủ các chính sách, chế
độ, quyết định… của cấp có thẩm quyền có hiệu lực thực hiện trong năm
X+1.
Được dùng để làm gì?
- Giúp phân biệt với chi đề xuất mới.
- Đây là những thông tin rất quan trọng để xã thảo luận khi xem xét ưu
tiên trước hết cần gắn với những chính sách/hoạt động đã cam kết, tránh đầu
tư dàn trải.
- Xác định trách nhiệm giải trình của người ra quyết định chính
sách/hoạt động, tránh tình trạng ra quyết định không dựa trên cơ sở nguồn lực
tài chính vững chắc.
Ví dụ về chi cam kết:
91
Đối với chi đầu tư: Con đường từ một làng đông dân cư tới trường tiểu
học của xã trong mùa mưa luôn ở trong tình trạng bị lầy lội, chủ tịch Uỷ ban
nhân dân huyện đã ký quyết định đầu tư nhưng Phòng Tài chính - Kế hoạch
vẫn chưa cấp vốn để xây dựng trong năm báo cáo. Năm kế hoạch xã tiếp tục
đề nghị huyện cấp vốn xây dựng con đường này và được xếp vào danh mục
chi cam kết.
Đối với chi thường xuyên: Phụ cấp cho 1 trưởng thôn là 100.000 đồng/
tháng năm báo cáo, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có quyết định điều chỉnh số tiền
này lên 150.000 đ/tháng có hiệu lực thi hành từ 1/1 năm kế hoạch. Vậy số tiền
150.000 đ/tháng này là chi cam kết.
Chi đề xuất mới: Là các khoản chi để thực hiện các chính sách và hoạt
động mà Uỷ ban nhân dân xã đề xuất nhưng chưa được các cấp có thẩm
quyền quyết định.
Được dùng để làm gì?
- Giúp phân biệt với chi cam kết.
- Giúp cho chính quyền xã thấy được tính khả thi của các chính sách,
hoạt động mới mà Uỷ ban nhân dân xã đề xuất.
- Đây là những thông tin rất quan trọng để xã thảo luận đưa ra các danh
mục dự án/hoạt động ưu tiên gắn với nguồn lực tài chính, tránh tình trạng
chính sách, chế độ đưa ra nhưng không có nguồn bảo đảm.
Ví dụ về chi đề xuất mới:
Đối với chi đầu tư: Con đường từ một làng đông dân cư tới trường tiểu
học của xã trong mùa mưa luôn ở trong tình trạng bị lầy lội, Uỷ ban nhân dân
xã đã đề nghị Uỷ ban nhân dân huyện cấp vốn để xây dựng đường từ hai năm
trước nhưng vẫn chưa được phê duyệt. Năm kế hoạch xã tiếp tục đề nghị
huyện cấp vốn xây dựng con đường này và được xếp vào danh mục đề xuất
mới.
Đối với chi thường xuyên: Phụ cấp cho 1 trưởng thôn là 100.000 đồng/
tháng năm báo cáo, các xã trong tỉnh đều đề nghị điều chỉnh số tiền này lên
92
150.000 đ/tháng. Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh đều
nhất trí với đề nghị này. Tuy nhiên, cho đến thời điểm lập kế hoạch vẫn chưa
có quyết định chính thức của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Vậy số tiền 50.000 đ/tháng
đề xuất tăng thêm này là chi đề xuất mới.
Để thuyết phục cấp có thẩm quyền chấp nhận phê duyệt cho các khoản
chi đề xuất mới đòi hòi xã cần phải sắp xếp các đề xuất mới theo thứ tự ưu
tiên, mô tả rõ các đề xuất mới và làm rõ sự cần thiết, cũng như những đóng
góp cụ thể của từng đề xuất mới vào việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội năm X+1 của xã.
b) Nội dung tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách xã
Chấp hành Ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng tổng hợp các biện
pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong
kế hoạch ngân sách năm trở thành hiện thực. Do đó, góp phần thực hiện các
chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã. Cũng qua việc chấp
hành ngân sách sẽ bảo đảm kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức về kinh tế - tài chính của Nhà nước, đánh giá sự phù hợp
giữa chính sách với thực tiễn.
Về nguyên tắc: Các đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được
Ngân sách nhà nước hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại Kho bạc nhà
nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính; chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính
và Kho bạc nhà nước trong quá trình thanh toán, sử dụng kinh phí. Các khoản
thanh toán về cơ bản theo nguyên tắc chi trả trực tiếp qua Kho bạc nhà nước.
Kế toán xã cần căn cứ vào dự toán chi cả năm đã được Uỷ ban nhân dân xã
phân bổ chi tiết theo mục lục ngân sách đã gửi Kho bạc trước ngày 31/12 để
thực hiện chi trả cho các hoạt động theo dự toán.
Kế toán xã cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu sử dụng kinh phí của các
đơn vị, và trình chủ tịch xã ký thủ tục chi ngân sách theo quy định. Việc chấp
hành các khoản chi thường xuyên của ngân sách phải căn cứ vào tiến độ thực
hiện chuyên môn, thực hiện chế độ, căn cứ vào dự toán chi cả năm.
93
Việc quyết định chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn và mức chi
trong phạm vi dự toán được phê duyệt và người ra quyết định chi phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật.
Chi Ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau
đây :
- Đã có trong dự toán Ngân sách nhà nước được giao.
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định.
- Đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã hoặc người được ủy quyền
quyết định chi.
- Trường hợp sử dụng kinh phí Ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng
cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc ...cần phải thực hiện đấu
thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
c) Quyết toán ngân sách xã
Quyết toán ngân sách xã là khâu cuối cùng của một chu trình ngân
sách. Quyết toán ngân sách xã là việc tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực
hiện thu, chi ngân sách trong năm theo quyết định của các cơ quan có thẩm
quyền, cũng như xem xét trách nhiệm pháp lý của chính quyền xã trong việc
huy động và sử dụng ngân sách.
Khi quyết toán ngân sách xã phải đảm bảo: Số liệu trong báo cáo quyết
toán ngân sách phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Báo cáo quyết toán ngân
sách phải theo đúng các nội dung trong dự toán được giao và theo Mục lục
Ngân sách nhà nước; Báo cáo quyết toán không được quyết toán chi lớn hơn
thu. Báo cáo quyết toán năm phải có báo cáo thuyết minh nguyên nhân tăng,
giảm các chỉ tiêu thu, chi ngân sách so với dự toán.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
tính chính xác, trung thực, đầy đủ của báo cáo quyết toán của đơn vị, chịu
trách nhiệm về những khoản thu, chi hạch toán, quyết toán sai chế độ. Báo
cáo quyết toán ngân sách xã phải được Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn kịp
thời để gửi cho phòng tài chính huyện theo đúng thời gian quy định của Uỷ
94
ban nhân dân tỉnh. Báo cáo quyết toán ngân sách sẽ phải công khai theo quy định
của Bộ Tài chính.
3. Quản lý cân đối ngân sách
Về nguyên tắc ngân sách xã buộc phải cân đối, không được phép vay
nợ. Vì vậy, ngay từ khâu lập dự toán ngân sách xã phải “lường thu mà chi”.
Khi lập dự toán thu cần rà soát đối tượng và mức thu để bảo đảm dự
toán thu có căn cứ khoa học phù hợp với chính sách, chế độ thu cũng như
thực tế khách quan về tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chú ý
tránh tình trạng ép thu, lạm thu.
Khi lập dự toán chi cần ưu tiên bố trí kinh phí cho các khoản chi cam
kết trước khi xem xét các đề xuất mới; Chỉ bố trí vốn cho các dự án nằm trong
quy hoạch, đã được quyết định đầu tư và phê duyệt dự toán theo đúng trình tự
xây dựng cơ bản; Ưu tiên vốn cho các công trình cấp thiết, tác động trực tiếp
đến nhiều người, góp phần giảm nghèo bền vững; Ưu tiên chi cho các hoạt
động có đủ nhân lực, vật lực để thực hiện.
Dự toán ngân sách xã cần thuyết minh rõ ràng các căn cứ tính toán các
chỉ tiêu thu, chi ngân sách bao gồm:
+ Căn cứ xác định các chỉ tiêu thu, chi trong dự toán; sự thay đổi thu,
chi ngân sách xã dự toán năm kế hoạch so với năm báo cáo; nguyên nhân của
sự thay đổi.
+ Danh mục ưu tiên các dự án đầu tư, các công trình và các hoạt động
đề xuất trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xã năm kế hoạch chưa có
nguồn lực tài chính để làm cơ sở cho việc thảo luận lựa chọn có tiếp tục để
hay loại bỏ các nhu cầu này trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xã năm
kế hoạch.
+ Nếu tiếp tục để các nhu cầu chưa có nguồn lực tài chính ở trong kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội xã năm kế hoạch thì giải quyết thiếu hụt về
nguồn lực tài chính như thế nào? Dân đóng góp hay đề nghị cấp trên tài trợ?
Lý do tại sao? các dự án đầu tư, các công trình và các hoạt động đề xuất đó
95
liên hệ gì với các chỉ tiêu, mục tiêu của từng lĩnh vực kinh tế xã hội đã phân
tích trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xã.
+ Các biện pháp cơ bản để thực hiện tốt dự toán ngân sách xã, sử dụng
dự phòng ngân sách …
Trong tổ chức thực hiện ngân sách cần phối hợp với cơ quan thuế để tổ
chức thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu ngân sách. Kiểm soát chặt
chẽ các khoản chi theo dự toán và chế độ, chính sách của Nhà nước, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát.
4. Hoạt động giám sát, kiểm tra thu, chi ngân sách của HĐND và
UBND xã
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003, Nghị
định số 73/2003/NĐ-CP ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ:
Uỷ ban nhân dân xã có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Hàng năm, Uỷ ban nhân dân xã lập dự toán thu Ngân sách nhà nước
đối với những khoản thu được phân cấp quản lý, dự toán chi ngân sách xã,
phương án phân bổ ngân sách xã và quyết toán thu ngân sách xã, chi ngân
sách xã trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định, phê chuẩn.
- Tổ chức thực hiện ngân sách xã, phối hợp với các cơ quan nhà nước
cấp trên trong việc quản lý Ngân sách nhà nước trên địa bàn xã và báo cáo về
Ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Hội đồng nhân dân xã có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định dự toán thu, chi ngân sách xã và phân bổ dự toán ngân sách
xã; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã; các chủ trương, biện pháp để triển
khai thực hiện ngân sách xã và điều chỉnh dự toán ngân sách xã theo quy định
của pháp luật; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân
quyết định.
Khi thẩm tra, xem xét, quyết định dự toán ngân sách xã và phương án
phân bổ ngân sách xã Hội đồng nhân dân cần chú ý: Thẩm tra, xem xét các
căn cứ xây dựng dự toán ngân sách; thẩm tra, xem xét tính cân đối của ngân
96
sách xã, thẩm tra tính hiệu quả của các khoản chi đầu tư, chi thường xuyên,
thẩm tra các điều kiện rải ngân nhằm tránh hiện tượng chi chuyển nguồn gây
lãng phí ngân sách ...
Đối với thẩm tra quyết toán ngân sách cần thẩm tra căn cứ pháp lý như:
Căn cứ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Hội đồng nhân dân xã
thông qua; căn cứ dự toán và giải pháp thực hiện dự toán ngân sách được Hội
đồng nhân dân xã quyết định; Số liệu báo cáo quyết toán thu, chi, kết dư đã
đối chiếu với báo cáo của Kho bạc nhà nước, cơ quan thuế chưa? trường hợp
có chênh lệch, Uỷ ban nhân dân đã làm rõ và xử lý thế nào? Ý kiến kết luận
(nếu có) của Kiểm toán Nhà nước về Báo cáo quyết toán của Uỷ ban nhân
dân trình Hội đồng nhân dân; Các vấn đề về số liệu quyết toán mà kiểm toán,
thanh tra kiến nghị (nếu có) đã được xem xét và xử lý như thế nào?
Thẩm tra việc tổ chức thực hiện các giải pháp và kết quả thực hiện dự
toán ngân sách được Hội đồng nhân dân xã thông qua.
Thẩm tra tính đầy đủ của quyết toán ngân sác về phạm vi thu, chi ngân
sách; về biểu mẫu, chỉ tiêu báo cáo quyết toán.
Thẩm tra tính chính xác của quyết toán ngân sách: Về thu ngân sách:
Đối chiếu, so sánh với số liệu của Kho bạc nhà nước, cơ quan thuế; Về chi
ngân sách: Đối chiếu; số chi đã được Kho bạc nhà nước thanh toán; So sánh số
liệu của từng mục trong các biểu của Báo cáo quyết toán với nhau.
Thẩm tra tính hợp pháp của quyết toán ngân sách:
- Chỉ tiêu báo cáo phải phù hợp với nội dung chỉ tiêu dự toán ngân sách đã
được Hội đồng nhân dân quyết định.
- Số quyết toán thu, chi phải là số thực thu, thực chi.
- Số quyết toán chi tăng so với dự toán Hội đồng nhân dân xã quyết
định phải được đảm bảo có nguồn được sử dụng đúng thẩm quyền như:
Nguồn năm trước chuyển sang được Uỷ ban nhân dân quyết định; nguồn dự
phòng; nguồn vượt thu được Uỷ ban nhân dân xã quyết định sau khi đã thống
nhất ý kiến với Thường trực Hội đồng nhân dân xã.
97
- Đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu được cơ quan
có thẩm quyền quyết định. Nội dung này dựa vào kết luận, kiến nghị của cơ
quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán (nếu có), kết quả giám sát của Thường
trực Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân xã.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Chiếc xe ô tô chở đoàn cán bộ dự án trung ương chúng tôi đang bon
bon trên con đường độc đạo để vào xã Thượng Ngàn, đột nhiên người lái xe
phanh gấp vì phải dừng lại trước cái “barie” dựng tạm bằng cây tre vừa được
hạ xuống. Một bác trạc 50 tuổi với vẻ mặt đôn hậu bước ra khỏi cái lều dựng
tạm bên đường đề nghị anh lái xe nộp một khoản “phí giao thông” 20.000
đồng. Sau khi giằng co về chuyện nộp phí, cuối cùng bác tài của chúng tôi
cũng đành ngậm ngùi rút tiền ra để đoàn làm việc cho kịp giờ. Khi làm việc
với Ủy ban nhân dân (UBND), đoàn đã phản ánh tình hình trên với chủ tịch
xã, thì được giải thích việc thu phí đường đã được Ủy ban nhân dân xã quyết
định trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã nhằm có thêm nguồn
để trả nợ cho nhà thầu đã giúp xã nâng cấp con đường vào năm ngoái.
Vấn đề thảo luận: Hãy cho biết chính quyền xã Thượng Ngàn thực
hiện tạo nguồn trả nợ như trên là đúng hay sai? Tại sao?
Tình huống 2:
.......Tại kỳ họp cuối năm của Hội đồng nhân dân xã sau khi xem xét Báo
cáo tình hình thực hiện dự toán đến ngày 30/11,Uỷ ban nhân dân xã mới chỉ
sử dụng hết 4 triệu trong tổng số dự phòng ngân sách xã là 10 triệu. Hội
đồng nhân dân xã đã quyết định thông qua Nghị quyết phân bổ 6 triệu đồng
còn lại của dự phòng ngân sách xã để sử dụng vào chi tiếp khách.
Vấn đề thảo luận: Hội đồng nhân dân xã quyết định như vậy có đúng
không ?
Tình huống 3:
98
Hãy phân biệt nhu cầu chi cam kết và chi đề xuất mới:
- Nâng cấp trạm y tế xã, dự kiến 50 triệu đồng, đề nghị ngân sách
huyện cấp kinh phí.
- Trong danh mục đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh, dự kiến năm kế
hoạch xây dựng 12 phòng học cho trường trung học cơ sở của xã Việt Hà
với tổng dự toán công trình là 4 tỷ đồng với nguồn kinh phí từ chương trình
mục tiêu quốc gia.
- Xây dựng nhà văn hóa thôn Yên Kiều với tổng dự toán 250 triệu
đồng. Công trình đã có quyết định đầu tư của Uỷ ban nhân dân xã.
- Năm kế hoạch, các đoàn thể đề xuất tăng định mức chi hoạt động từ
5 triệu đồng lên 7 triệu đồng.
- Nghị quyết của Quốc hội tăng mức lương tối thiểu lên 20% so với
mức lương hiện tại trong năm kế hoạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
- Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002.
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân số
11/2003/QH11
- Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003, Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11.
- Thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 của Bộ tài chính hướng
dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước
qua Kho bạc nhà nước.
- Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 06 năm 2003.
- Thông tư 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005.
99
Chuyên đề 7:
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
I. Sự cần thiết và cơ sở pháp lý của công tác quản lý nhà nước về nông
nghiệp, nông thôn
1. Sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông
thôn
a) Đặc thù của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam:
- Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam là một tổng thể các yếu tố gắn
bó mật thiết với nhau bao gồm: tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Sản
xuất nông nghiệp có tính chất liên ngành và diễn ra trong phạm vi không
100
gian rộng lớn từ cung cấp các điều kiện sản xuất chế biến và tiêu thị sản
phẩm. Đặc điểm này tăng thêm mức độ phức tạp của công tác quản lý.
- Lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm chỉ trọng lớn. Trình độ
dân trí thấp kém nên kéo theo lạc hậu về kinh tế xã hội, các tệ nạn mê tín dị
đoan, hủ tục lạc hậu ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế xây dựng nông
thôn mới.
- Việt Nam là quốc gia có diện tích đất tự nhiên không lớn, nhất là
đất sản xuất nông nghiệp (30%) trong khi dân số đông nên bình quân đất
sản xuất tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới. Đất sản xuất
nông nghiệp bị chia nhỏ, manh mún trong khi dân số nông thôn vẫn tăng
làm cho sản xuất hàng hóa phát triển chậm, lao động dư thừa, việc làm
thiếu, thu nhập thấp.
- Nông nghiệp Việt Nam chuyển từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu phân
tán và chưa có công nghiệp phát triển, vận động theo cơ chế thị trường là
một thách thức không dễ vượt qua.
- Sự không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và quản lý cùng
với các điều kiện về vật chất kỹ thuật giữa các vùng và đa dạng hóa của các
vùng làm phức tạp của quản lý tăng lên.
- Trình độ của lực lượng sản xuất ở nông thôn yếu kém đã tác động
tiêu cực đến cả đầu vào, đầu ra của nông sản hàng hóa.
b) Thực trạng nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn đổi mới và sự
cần thiết của quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Sau hơn 20 năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp nước ta phát triển
tương đối toàn diện, liên tục. Cơ cấu kinh tế nông thôn bước đầu chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, kim ngạch xuất
khẩu nông lâm, ngư nghiệp tăng nhanh, nhất là một số mặt hàng có giá trị
xuất khẩu lớn như: gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, tôm.... Cơ sở hạ tầng nông
thôn được tăng cường. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn
101
chưa bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh
thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu,
chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông
nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất
lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịnh vụ và ngành
nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông
thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn yếu kém,
môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn
thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa;
chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn,
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Việc ứng dụng khoa học công nghệ
và vận dụng các kinh nghiệm quản lý tiên tiến còn nhiều hạn chế... Trong
một thời gian dài, nông nghiệp nông thôn vẫn diễn ra nhiều tồn tại yếu kém,
nguyên nhân chủ yếu là:
- Đảng đề ra là coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, nhưng một số chính sách của Đảng chậm đổi mới,
chưa thông thoáng, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với nền sản xuất hàng hóa
quy mô lớn và thúc đẩy xuất khẩu, nhất là các chính sách đất đai, công nghệ,
khoa học.
- Trong điều hành chưa chú ý nắm bắt thực tiễn, không kịp thời tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn sai lệch trong thực hiện chủ trương, chính
sách, chậm tổng kết kinh nghiệm và những mô hình mới, những nhân tố mới
của quần chúng. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố để phát huy vai trò
chủ đạo.
102
Vì vậy, để phát huy những thành tựu và hạn chế những tồn tại trên vai
trò quản lý nhà nước về nông thôn là rất quan trọng và cần thiết.
2. Cơ sở pháp lý của công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp,
nông thôn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi và
phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của
pháp luật.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân tỉnh, tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh về nông nghiệp,lâm nghiệp, thủy
lợi, thủy sản và phát triển nông thôn; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn
theo sự quỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và theo quy định của pháp luật.
Thông tư liên tịch số 61/2008/TTLT-BNN-BNV ngày 15 tháng 5 năm
2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và nhiệm vụ
quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã về nông nghiệp và phát triển
nông thôn như sau:
* Về chức năng, nhiệm vụ
- Tổ chức và hướng dẫn thực hiện quy hoạch, chương trình, kế hoạch,
đề án khuyến khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ
sản.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách về nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
- Chỉ đạo kế hoạch sản xuất nông nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản, phát
triển rừng hàng năm; tổ chức hướng dẫn nông dân thực hiện các biện pháp
103
kỹ thuật chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông
lâm nghiệp, thuỷ sản theo quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt.
- Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, tổ chức huy động lực lượng và thực hiện
phòng trừ dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản; tổ chức thực hiện việc tu
bổ, bảo vệ đê điều, bờ vùng, công trình và cơ sở hậu cần chuyên ngành, bảo
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA, GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ AN SINH XÃ HỘI
I. Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa ở xã
Có nhiều định nghĩa với những góc độ tiếp cận về văn hóa khác nhau
nhưng trong phạm vi nếp sống, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng. Hồ
Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới đưa ra khái niệm về văn hóa: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như vì mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”4.
Hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa phải dựa trên quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về
phát triển văn hóa, Nhà nước xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật
để điều chỉnh hoạt động văn hóa trên phạm vi cả nước.
1. Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa
- Phương hướng: Trong các văn kiện, nghị quyết chuyên đề của Đảng
sau đại hội XIII, IX, X, XI đều thống nhất xác định phương hướng chung
của sự nghiệp văn hóa nước ta là: Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội,
vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta
4 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2000, t.4, tr. 431.
144
đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội.
Đây là phương hướng cơ bản để từ đó Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo,
nhiệm vụ và giải pháp trong xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta trong
các giai đoạn phát triển.
- Những tư tưởng chỉ đạo
Để thực hiện phương hướng trên, trong xây dựng và phát triển văn
hóa, trong nhiều văn kiện, nghị quyết Đảng ta đã đề ra các tư tưởng chỉ đạo
cơ bản. Nghị quyết trung ương IV khóa VII đã đề ra các quan điểm cơ bản
đến nghị quyết trung ương V khóa VIII tiếp tục khẳng định và đề ra những
quan điểm chỉ đạo cơ bản là:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Bốn là, Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Năm là, Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên
trì, thận trọng.
Kế thừa những tư tưởng của cương lĩnh năm 1991, các văn kiện, nghị
quyết, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra định hướng lớn về phát triển văn
hóa: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
145
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển nâng cao chất lượng
sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân,
thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những
biểu hiện phản văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng
tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ,
hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.5
2. Quản lý nhà nước về văn hóa ở xã
Quản lý Nhà nước về văn hóa là việc thông qua những giải pháp về
pháp luật, thể chế, chính sách, kế hoạch của Nhà nước để quản lý các giá trị
vật chất và tinh thần; Quản lý những hoạt động văn hóa để tạo thành những
giá trị văn hóa mới và quản lý con người – sản phẩm của quá trình lao động
sáng tạo – nhằm đưa văn hóa phát triển đúng hướng theo đường lối chủ
trương của Đảng, mặt khác đảm bảo cho quyền tự do dân chủ trong hoạt
động và sáng tạo văn hóa, xác lập vai trò của văn hóa trong sự đi lên của dân
tộc.
Nói một cách cụ thể thì quản lý lĩnh vực văn hóa là sự tác động có
định hướng, đảm bảo cho các hoạt động văn hóa thông tin thể dục thể thao ở
cơ sở phát triển lành mạnh, làm cho các chương trình, kế hoạch công tác đặt
ra được thực hiện tốt nhất.
Hoạt động văn hóa ở cơ sở vô cùng phong phú và đa dạng bao gồm
nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng chủ yếu là: Hoạt động thông tin tuyên 5 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, , Nxb Chính trị quốc gia, HN.
2011, tr. 75-76.
146
truyền; hoạt động câu lạc bộ, hoạt động thư viện, đọc sách báo; hoạt động
giáo dục truyền thống; hoạt động văn nghệ quần chúng; hoạt động thể dục
thể thao, vui chơi giải trí.
Bản chất của việc quản lý Nhà nước về văn hóa ở xã là việc xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là để hình thành
một nếp sống lành mạnh, tốt đẹp, văn minh, vừa để đáp ứng những nhu cầu
hưởng thụ và sáng tạo những giá trị văn hóa tinh thần của đông đảo quần
chúng nhân dân, chẳng hạn như: phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa,
văn hóa lễ hội dân gian, ... Mặt khác, có đời sống văn hóa tốt đẹp cũng góp
phần nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển kinh tế và làm cơ sở để chống và
xóa bỏ những hiện tượng đi ngược lại những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
Quản lý Nhà nước về văn hóa ở xã cần quan tâm tới các nội dung sau:
* Xây dựng bộ máy quản lý hoạt động văn hóa thông tin và thể dục
thể thao
Phụ trách công tác văn hóa thông tin thể dục thể thao ở xã do cán bộ
văn hóa – xã hội đảm nhiệm. Tùy theo điều kiện cụ thể ở địa phương có thể
giao nhiệm vụ này cho một cán bộ trong số cán bộ chuyên môn của xã đã
được Chính phủ quy định hoặc các cộng tác viên để giúp Ủy ban nhân dân
xã điều hành công tác văn hóa thông tin thể dục thể thao của xã.
Mỗi xã thành lập một ban văn thể và các tổ, đội thông tin, văn nghệ
làm nòng cốt cho phong trào xây dựng đời sống xã hội ở cơ sở. Toàn bộ các
hoạt động văn hóa thông tin và thể dục thể thao của xã đều phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng ủy xã.
* Nhiệm vụ quản lý các hoạt động văn hóa thông tin và thể dục thể
thao
- Chỉ đạo phong trào xây dựng bản làng văn hóa, phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở và các phong trào khác.
147
- Chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở cơ sở: nhà
văn hóa, tủ sách thư viện…
- Tổ chức quản lý các hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động và
quảng cáo và các hoạt động diễn ra tại địa phương.
- Tổ chức hướng dẫn hoạt động các lễ hội truyền thống, các hoạt động
văn nghệ quần chúng, thực hiện quy chế về lễ cưới, lễ tang, theo nếp sống
mới, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh ở địa
phương.
- Vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa…
- Ngăn chặn sự truyền bá các loại văn hóa phẩm độc hại, bài trừ mê
tín, hủ tục; phòng chống các tệ nạn xã hội, phát động phong trào giữ gìn vệ
sinh, bảo vệ môi trường, chữa bệnh bằng phương pháp khoa học.
- Đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, chống diễn
biến hòa bình của các thế lực thù địch.
- Quản lý và phát động các hoạt động thể dục thể thao và các hình
thức rèn luyện sức khỏe khác.
- Uỷ ban nhân dân xã giám sát và tham gia cấp giấy phép cho những
người hoạt động văn hóa tư nhân, các lớp dạy văn hóa, dạy nghề theo đúng
quy định của Nhà nước.
- Uỷ ban nhân dân xã kiểm tra, giám sát và xử phạt theo Pháp lệnh xử
phạt hành chính và nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính
phủ quy định xử phạt hành chính trong hoạt động văn hóa.
Với sự chỉ đạo, giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ của phòng văn hóa
huyện, quận, thị xã, công tác văn hóa trên địa bàn cơ sở cần hướng vào cả
việc xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động văn hóa thông tin một cách
thiết thực, phù hợp, đồng thời có biện pháp tổ chức thực hiện tích cực,
những nhiệm vụ đề ra đi đôi với quản lý và khai thác tốt cơ sở vật chất và
các phương tiện hoạt động, kịp thời phục vụ những nhiệm vụ chính trị, phục
vụ nhân dân.
148
* Chỉ đạo xây dựng làng bản văn hóa, nhà văn hóa
Căn cứ theo quy chế công nhận danh hiệu “gia đình văn hóa”, “làng
văn hóa”, “tổ dân phố văn hóa” ngày 23/06/2006 theo Quyết định số
62/2006/QĐ-BVHTT ban hành thì việc xây dựng làng, bản văn hóa, gia đình
văn hóa phải đảm bảo các tiêu chí sau:
- Nội dung tiêu chuẩn gia đình văn hóa theo quy định tại Điều 29 Luật
Thi đua, khen thưởng.
Danh hiệu “Gia đình văn hóa” do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã công
nhận
- Tiêu chuẩn công nhận danh hiệu “Làng văn hóa” đối với vùng đồng
bằng (cận đô thị) thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi đua, khen
thưởng.
Việc xây dựng làng văn hóa luôn gắn với việc xây dựng các hương
ước, quy ước văn hóa. Hương ước, quy ước là những điều do dân làng tự
xây dựng nên nhằm điều chỉnh những quan hệ cộng đồng và cùng tự giác
thực hiện. Hương ước, quy ước phù hợp với pháp luật hiện hành và phải có
sự thẩm định của ngành văn hóa và tư pháp cấp huyện, thị, thành phố.
Văn hóa giao tiếp, nếp sống và trật tự vệ sinh công cộng cũng là yêu
cầu bức xúc, đòi hỏi phải giải quyết. Cần khắc phục sự mất trật tự, thiếu ý
thức vệ sinh chung của người đô thị. Trong thời kỳ hội nhập và mở cửa cần
phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Đối với các khu công nghiệp tập trung có thể tổ chức các cụm văn hóa
thể thao với sự điều hành của hội đồng tự quản.
* Hoàn thiện phương pháp công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở
- Phương pháp công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là cách
thức làm công tác văn hóa thông tin ở cơ sở bao gồm một số nội dung sau:
+ Thực hiện xã hội hóa các phong trào xây dựng văn hóa, đa dạng hoá
về hình thức tổ chức và đảm bảo thiết thực về nội dung hoạt động.
149
+ Chỉ đạo điều tra, đánh giá tình hình, thực trạng nắm nhu cầu nguyện
vọng của nhân dân, căn cứ để có biện pháp giải quyết đúng đắn và tìm cách
đáp ứng phù hợp với tinh thần chủ động, tích cực.
+ Đa dạng hóa các hình thức tổ chức các hoạt động văn hóa tạo phong
trào trong nhân dân.
+ Chủ động liên kết phối hợp với các ngành, các cơ quan, các tổ chức,
các tổ chức và nhân dân trên địa bàn để huy động, khai thác các nguồn lực
để thúc đẩy hoạt động.
+ Xây dựng kế hoạch và chương trình hoạt động ngắn hạn, và dài hạn
cho hoạt động ở địa phương.
- Để nâng cao hoạt động văn hóa thông tin thể dục thể thao ở xã,
cần lưu ý:
+ Phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước cùng
với bám sát tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa thông tin
cơ sở, trước hết là nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn; phát huy năng
lực quản lý điều hành; đổi mới nội dung, phương pháp tổ chức thực hiện;
bám sát cơ sở, phục vụ tốt nhất nhu cầu của nhân dân ở địa phương.
+ Có chính sách đầu tư hợp lý, đảm bảo cơ sở vật chất và kinh phí cần
thiết cho hoạt động.
+ Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, huy động nhiều nguồn lực
cho việc phát triển và hoạt động của các thiết chế văn hóa thông tin ở cơ sở.
II. Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục ở xã
Giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế
giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề
nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người.
Giáo dục có vai trò quan trọng trong chiến lược xây dựng con người,
phát triển kinh tế - xã hội và đối với lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã hội.
150
Giáo dục có tác dụng vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng
nền văn hoá, văn học, nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối
sống mới, nhân cách mới của toàn xã hội.
Trong thời kỳ hiện nay, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, giáo dục và đào tạo trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định tốc độ
và quy mô của sự phát triển.
1. Quan điểm của Đảng về giáo dục
Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
được xác định trong các văn kiện của Đảng VII, VIII, IX, X, XI.
Thứ nhất, Giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Phải thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu về nhận
thức, về đầu tư phát triển và về lãnh đạo quản lý.
Thứ hai, Chăm lo cho giáo dục – đào tạo là chăm lo cho con người và
xã hội phát triển.
Thứ ba, Về nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo cần giữ vững
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước
và của toàn dân.
Thứ năm, Phát triển giáo dục – đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, tiến bộ của khoa học, công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
Thứ sáu: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Thứ bảy: Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập song
song với đa dạng hóa các loại hình giáo dục – đào tạo.
2. Quản lý Nhà nước về giáo dục ở xã
- Uỷ ban nhân dân xã xây dựng và trình Hội đồng nhân dân xã kế
hoạch phát triển giáo dục ở địa phương; tổ chức thực hiện kế hoạch phát
triển giáo dục ở địa phương khi được phê duyệt; xây dựng quy hoạch về đất
151
cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn theo tiêu chuẩn quy định về trường
chuẩn quốc gia do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Cho phép thành lập nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục theo tiêu
chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; bảo đảm và chịu trách nhiệm
kiểm tra các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục trên địa bàn hoạt động
đúng quy định pháp luật.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục; xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, vận động nhân dân chăm lo cho giáo dục, phối hợp với nhà trường
chăm lo giáo dục con em thực hiện nếp sống văn hóa mới, tham gia bảo vệ,
tôn tạo các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các công trình văn hóa, các
công trình giành cho hoạt động học tập, vui chơi của học sinh; huy động các
nguồn lực để phát triển giáo dục của xã.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo định kỳ và hàng năm về tổ chức
và hoạt động giáo dục trên địa bàn theo hướng dẫn của Ủy ban nhân dân cấp
huyện và Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Chính quyền xã quan tâm và trực tiếp tham gia các hoạt động hướng
nghiệp, dạy nghề cho học sinh.
- Hàng năm chính quyền xã dành một tỷ lệ thích đáng trong ngân sách
xã để chi cho sự nghiệp giáo dục như tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện
giáo dục cho nhà trẻ, trường tiểu học...
- Phối hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn tổ chức đăng ký, huy
động tối đa người trong độ tuổi đi học để bảo đảm phổ cập giáo dục, chống
mù chữ, tạo điều kiện cho mọi người được học tập thường xuyên, suốt đời.
- Quản lý trung tâm học tập cộng đồng; phối hợp với Phòng Giáo dục
và Đào tạo quản lý cơ sở giáo dục mầm non, trường tiểu học, trung học cơ
sở trên địa bàn.
III. Nội dung quản lý nhà nước về y tế ở xã
Y tế là hệ thống tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để dự phòng,
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của con người.
152
Hoạt động y tế là hoạt động có tính liên ngành: y học, dược học, trang
thiết bị y tế, những lý luận về cộng đồng và sức khỏe, về y học cổ truyền,
điều dưỡng, xã hội học y tế, kỹ thuật y tế.
Hoạt động y tế ở xã liên quan đến những vấn đề quan trọng trong đời
sống xã hội như: Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi thọ, tình trạng dinh dưỡng, môi
trường sống, bệnh tật và dịch bệnh, bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động,
sản xuất và dịch vụ cung cấp thuốc và các dịch vụ y tế, quản lý khám, chữa
bệnh của các tổ chức y tế, các thành phần kinh tế và các cá nhân ở địa
phương cơ sở.
1. Quan điểm của Đảng về y tế
Sức khỏe là vốn quý của mỗi người, là động lực quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sức
khỏe nhân dân, trước hết bằng hoạt động chăm sóc sức khỏe của ngành Y tế.
Cụ thể bao gồm những quan điểm cơ bản sau:
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: “Nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia
- Nhà nước chủ trương phấn đấu để mọi người đều được chăm sóc
sức khoẻ.
- Phải dự phòng, tích cực, chủ động – phòng bệnh hơn là chữa bệnh.
Quan điểm y học dự phòng được hiểu theo những nội dung sau:
+ Nâng cao khả năng của cơ thể chống lại sự tấn công của bệnh tật.
+ Phòng chống các nguy cơ gây bệnh trong môi trường sống.
+ Phòng chống biến chứng và diễn biến nặng của bệnh.
+ Phòng chống diễn biến xấu sau khi chữa bệnh.
+ Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc để phòng chữa
bệnh cho nhân dân.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hn. 2011, tr. 230.
153
+ Vấn đề chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng
đồng trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt.
+ Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
2. Quản lý Nhà nước về y tế ở xã
Mạng lưới y tế cơ sở đảm nhiệm các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân do Bộ Y tế quy định và theo những tiêu chuẩn kỹ thuật
nhất định, nhằm tạo điều kiện cho cả cộng đồng tham gia vào công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Nội dung quản lý Nhà nước về y tế ở xã
bao gồm những nội dung sau:
- Giáo dục sức khỏe: Căn cứ tình hình sức khỏe của nhân dân ở địa
phương và những vấn đề ưu tiên để chủ động lập kế hoạch, lựa chọn biện
pháp phù hợp cho từng đối tượng được giáo dục. Tổ chức vận động các
đoàn thể tham gia giáo dục sức khỏe, xây dựng nội dung tuyên truyền
giáo dục sức khỏe.
- Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm: Điều tra tỷ lệ trẻ dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng, lập kế hoạch, tổ chức phối hợp liên ngành trong việc
thực hiện chương trình dinh dưỡng. Kiểm tra, kiểm soát các nguồn cung cấp
thực phẩm cho cộng đồng ở địa phương.
- Cung cấp nước sạch và giữ gìn vệ sinh môi trường: điều tra thống kê
và có bản đồ theo dõi về nguồn nước sạch, hố xí, nước thải, rác. Tuyên
truyền giáo dục về dùng nước sạch, tác dụng của hố xí hợp vệ sinh. Vận
động nhân dân giữ gìn vệ sinh, phòng chống dịch bệnh. Vận động nhân dân
thực hiện phong trào vệ sinh phòng dịch, phòng bệnh và các phong trào khác
của ngành y tế như: Phổ biến cho nhân dân về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ
sinh phòng dịch trong chăn nuôi gia súc gia cầm. Tổ chức diệt trừ muỗi,
ruồi, chuột,… Tuyên truyền người dân tiêm phòng dịch đầy đủ; Nắm vững
tình hình và các hoạt động y tế trên địa bàn.
154
- Bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình: thực hiện
tốt chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bà mẹ và chăm sóc sức
khỏe trẻ em, thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
- Tiêm chủng mở rộng: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, theo dõi và
đánh giá hiệu quả của chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Phòng chống dịch bệnh lưu hành ở địa phương: Nắm tình hình sức
khoẻ của nhân dân trên địa bàn xã, báo cáo kịp thời những dịch bệnh, thực
hiện kế hoạch phòng bệnh, phòng dịch tại địa phương.
- Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng: khám và chữa các bệnh
thông thường bằng điều trị ngoại trú hoặc nội trú ..., bằng thuốc tây y hoặc
đông y, xử lý các vết thương nhẹ như vết thương phần mềm đơn giản; sơ
cứu các vết thương nặng trước khi chuyển lên tuyến trên. Vận động nhân
dân trồng và sử dụng cây thuốc nam. Tập hợp bảo vệ và khuyến khích phát
triển các môn thuốc và phương pháp chữa bệnh cổ truyền.
- Cung cấp thuốc thiết yếu: Căn cứ vào tình hình bệnh tật của nhân
dân tại địa phương để lập kế hoạch, dự trù mua thuốc. Quản lý tốt thuốc và
dụng cụ, thường xuyên kiểm tra để đảm bảo số lượng và chất lượng. Điều trị
bằng phương pháp y dược học cổ truyền không dùng thuốc...
- Quản lý sức khỏe: lập hồ sơ sức khỏe cho từng người và từng hộ gia
đình, ưu tiên cho các đối tượng là phụ nữ, trẻ em, những người thuộc diện
chính sách (thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người tàn tật...) định kỳ
khám sức khỏe.
- Có biện pháp xử lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật, đặc
biệt cương quyết xử lý những trường hợp mê tín dị đoan làm tổn hại đến sức
khoẻ và tính mạng của nhân dân.
Các hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở (trạm y tế xã) diễn ra trên 3
địa bàn chính:
- Hoạt động tại trạm: Khám chữa bệnh cho nhân dân, quản lý sức
khỏe, quản lý thai sản; khám phụ khoa, đỡ đẻ, các dịch vụ kế hoạch hóa gia
155
đình; kết hợp đông – tây y; giáo dục tư vấn sức khỏe, truyền thông giáo dục
sức khỏe và công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; tổ chức quầy thuốc
phục vụ, tiêm chủng mở rộng.
- Hoạt động tại cộng đồng: Tổ chức thực hiện các chương trình y tế
quốc gia như chương trình phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống sốt
rét, tiêu chảy, bướu cổ, nhiễm vi rút H5N1, H1N1, vệ sinh thực phẩm, tiêm
chủng mở rộng...
- Hoạt động tại hộ gia đình: Thăm khám, chữa bệnh tại gia đình, lập
sổ theo dõi sức khỏe; hướng dẫn kiểm tra công trình vệ sinh, hướng dẫn
kiểm tra về dinh dưỡng, an toàn vệ sinh thực phẩm, về sữa mẹ, chăm sóc
theo dõi thai sản, theo dõi cân nặng trẻ em dưới 5 tuổi, thu thập thông tin về
sức khỏe, tư vấn sức khỏe tại gia đình.
IV. Nội dung quản lý nhà nước về an sinh xã hội ở xã
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ
của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện
pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị
giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc
y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ.”
An sinh xã hội thể hiện quyền cơ bản của con người và là công cụ để
xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh và không có sự loại trừ. An sinh xã
hội có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng
đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc đẩy sự đồng
thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống an sinh xã hội
thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn
thu nhập và các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ
chuyển đổi cơ cấu lao động nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế
nói chung.
156
Hệ thống an sinh xã hội hiện nay của Việt Nam gồm có nhiều bộ
phận cấu thành khác nhau là bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội,
trong đó nổi bật hơn cả là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Hiện nay,
cùng với sự tăng trưởng kinh tế xã hội, đời sống vật chất tinh thần của con
người ngày càng được nâng cao, vấn đề an sinh xã hội cũng ngày càng
được quan tâm nhiều hơn.
1. Quan điểm của Đảng về an sinh xã hội
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đất nước ta đang đứng
trước những thời cơ nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, do vậy
để tạo ra những động lực cho sự phát triển từng bước cải thiện đời sống nhân
dân, đưa nước ta sớm trở thành một nước phát triển của khu vực và trên thế
giới thì chúng ta cần có quan điểm đúng đắn về vấn đề an sinh xã hội.
Đại hội XI đã chỉ rõ: “Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi hoàn
thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ
giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi
thành viên trong xã hội nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương”. 7
Từ phương hướng cơ bản trên để triển khai thực hiện vấn đề an sinh
xã hội mà trực tiếp là các chính sách xã hội thì cần nắm các quan điểm sau:
- Coi chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động một cách toàn
diện, bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
- Coi việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội là nhiệm vụ
của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, các ngành, các cấp và của toàn dân.
- Cần phải tiến hành một cách đồng bộ chính sách xã hội, song không
dàn trải mà phải tập trung ưu tiên vào một số những vấn đề xã hội có tính
chiến lược cũng như những vấn đề xã hội cấp bách nổi trội lên ở mỗi giai
đoạn.
- “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các 7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hn.
2011, tr. 43.
157
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội”8.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. Đảng ta nêu
định hướng mới về an sinh xã hội trong phát triển toàn diện hài hòa các lĩnh
vực văn hóa, xã hội với phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện hệ thống
chính sách xã hội, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các
mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước và từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo
đảm phát triển nhanh, bền vững: Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng,
ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận
và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và
không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các hình
thức cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn.
Trước tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, trong nước thiên
tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời sống, giá cả tăng cao trong
những tháng đầu năm 2011, nhằm thực hiện chính sách “bảo đảm an sinh”
xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 11/NQ – CP ngày 24-2-2011, đưa ra các giải pháp tập
trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Đặc
biệt, nhằm đưa ra một số chủ trương và giải pháp chủ yếu, xác định tập trung
ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo
đảm an sinh xã hội, ngày 16-3-2011, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 02 –
KL/TW về tình hình kinh tế, xã hội năm 2011 trong đó nêu rõ: Thực hiện tốt
các chính sách về an sinh xã hội đã ban hành; đồng thời sâu sát tình hình để
hỗ trợ kịp thời các đối tượng khác, kể cả đối tượng cận nghèo, người thu
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hn. 2011, tr. 35
158
nhập thấp gặp nhiều khó khăn do tác động của lạm phát và điều chỉnh giá.
Tập trung ưu tiên nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất
và quản lý tốt hoạt động xuất khẩu lương thực, thực phẩm, nâng cao thu
nhập và đời sống của nông dân, đảm bảo an sinh xã hội nông dân.
2. Quản lý nhà nước về an sinh xã hội
Quản lý Nhà nước về an sinh xã hội thực chất là việc chính quyền xã
sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo thực hiện đúng và đủ các chính
sách, chế độ của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng thụ hưởng.
Nội dung quản lý Nhà nước về an sinh xã hội xã bao gồm:
- Tuyên truyền, giáo dục phổ biến các chính sách cho người dân như:
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp vầ cứu trợ xã
hội, các chương trình xóa đói giảm nghèo…
- Quản lý các đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội.
- Thực hiện chế độ cho các đối tượng theo quy định.
- Xây dựng và quản lý quỹ bảo trợ xã hội, quỹ nhân đạo.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Giải quyết kịp thời những vướng mắc và sai phạm trong quá trình
thực hiện chính sách xã hội.
Để quản lý tốt an sinh xã hội với những nội dung cơ bản trên, chính
quyền xã cần thực hiện một số những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng, thiết kế và triển khai thực hiện những kế hoạch, phong
trào tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân trên địa
bàn về an sinh xã hội.
- Tổ chức đăng ký, theo dõi các đối tượng thụ hưởng chính sách xã
hội, đề nghị giải quyết chính sách, chế độ cho những người đủ điều kiện và
kiến nghị xử lý những trường hợp không đúng chính sách, chế độ.
- Thực hiện trả lương hưu và các khoản phụ cấp, trợ cấp, cứu trợ cho
các đối tượng được hưởng.
159
- Phối hợp các tổ chức, đoàn thể xây dựng phong trào quần chúng
chấp hành chính sách chăm sóc tới các đối tượng chính sách.
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo.
- Quan tâm, giúp đỡ, ưu tiên giải quyết công ăn việc làm cho các đối
tượng chính sách.
- Quản lý và tổ chức các hình thức chăm sóc thương binh, bệnh binh,
cán bộ lão thành cách mạng, thân nhân liệt sỹ và người có công với cách
mạng, người cô đơn không nơi nương tựa.
- Quản lý sổ sách, tài liệu, vật tư, tài chính liên quan đến công tác
thương binh xã hội, thực hiện chế độ thanh quyết toán theo quy định.
- Thực hiện chế độ thông tin báo cáo về công tác thương binh – xã hội
theo quy định.
- Quản lý, giải quyết và xử lý kịp thời những vi phạm.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Trường học A ở xã B mới có một số quán kinh doanh internet mở ra
ngay cạnh trường học (cách trường 150m), từ khi mở cửa có một số học sinh
bỏ học ra chơi điện tử ảnh hưởng tới kết quả học tập của bản thân. Với cương
vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B đồng chí giải quyết sự việc trên như thế
nào?
Tình huống 2:
Trong lớp mẫu giáo 4 tuổi của trường mầm non Hoa Mai ở xã A có
một cháu là con của một người bị mắc bệnh HIV mới xin vào học. Trước
vấn đề trên có một số phụ huynh học sinh vội chuyển con sang lớp khác,
một số khác thì chuyển trường cho con, còn một số bậc phụ huynh đề nghị
nhà trường không nhận cháu vào lớp, hoặc nếu theo học phải có biện pháp
cách ly cháu. Trước sự việc trên nhà trường đã mời gia đình cháu lên làm
160
việc và đề nghị gia đình chuyển trường cho cháu hoặc cho cháu nghỉ học ở
nhà.
Với tư cách là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A đồng chí giải quyết vụ
việc trên như thế nào?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
- Luật giáo dục 2005, luật sửa đổi năm 2009.
- Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 quy định
trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục.
- Giáo trình văn hóa xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà nội. 2004.
- Giáo trình đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển
kinh tế, văn hóa – xã hội và quản lý của Nhà nước, chính quyền cơ sở trên
các lĩnh vực, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.
- Học viện Hành chính quốc gia, Tài liệu bồi dưỡng về quản lý Nhà
nước – Chương trình chuyên viên, Hà Nội, 2004.
- Học viện Hành chính quốc gia, Tài liệu kiến thức và kỹ năng quản lý
nhà nước cho cán bộ chính quyền cơ sở, Hà Nội, 2006.
- Những chính sách của Đảng và Nhà nước về miền núi, khu vực miền
núi phía Bắc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.
- Những chính sách của Đảng và Nhà nước về miền núi, khu vực Tây
nguyên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007.
- Ban Tổ chức – Cán bộ chính phủ, Hỏi và đáp kiến thức cơ bản về
quản lý Nhà nước (dùng cho cán bộ chính quyền có sở khu vực miền núi),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010 – 2020 – Bộ
giáo dục và đào tạo.
- Dự thảo chiến lược an sinh xã hội thời kỳ 2011 – 2020 do Bộ lao
động và thương binh xã hội soạn thảo.
161
162
Chuyên đề 10:
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ TRONG LĨNH VỰC TÔN GIÁO
I. Khái quát về tôn giáo ở Việt Nam
1. Sơ lược các tôn giáo lớn ở Việt Nam
* Quan niệm về tôn giáo ở Việt Nam.
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng
thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân
gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã
hội.
Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện ở một số điểm như:
Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển... được truyền thụ qua giảng dạy và
học tập ở các tu viện, thánh đường, học viện... có hệ thống thần điện, có tổ
chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa,
thánh đường..., nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần
linh và con người. Còn tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các
huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian,
gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế
giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành
quy ước chặt chẽ...
* Sơ lược một số tôn giáo và đặc điểm một số tôn giáo ở Việt Nam
- Đạo Phật
Đạo Phật (phật giáo) ra đời khoảng thế kỷ thứ V trước công nguyên ở
Ấn Độ, vào thời kỳ xuất hiện các trường phái triết học khác nhau và sự phân
chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Triết lý hình thành giáo lý Phật giáo cho
rằng: mọi sự vật của vũ trụ đều do “nhân” và “duyên” hợp mà thành, chủ
163
trương của Phật giáo là từ bi, trí tuệ, một phần rất quan trọng trong giáo lý của
đạo Phật là “tứ diệu đế”.
+ Đạo Phật ở Việt Nam
Đạo Phật truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên địa bàn
đầu tiên là ở Luy Lâu (thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Thời kỳ đầu, Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Ân
Độ qua đường biển cùng với các thương nhân. Từ thế kỷ V đến thế kỷ X, do
hoàn cảnh lịch sử, Phật giáo Việt Nam dần dần chịu ảnh hưởng của Phật giáo
Trung Quốc. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát
triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc. Phật giáo Nam Tông truyền vào
phía Nam của Việt Nam từ thế kỷ thứ IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo
Nam Tông chủ yếu là đồng bào dân tộc Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông
Cửu Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me
Sau năm 1975, đất nước thống nhất các vi giáo phẩm đại diện cho các
hệ phái Phật giáo đã họp tại thành phố Hồ Chí Minh (1980). Đến ngày
4/11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo diễn ra tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội
thành lập tổ chức chung của Phật giáo cả nước, lấy tên là “Giáo hội Phật giáo
Việt Nam” được Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) phê duyệt tại Quyết
định số 83/BT ngày 29/12/1981. Hiện nay theo số liệu thống kê của Ban tôn
giáo chính phủ đến tháng 2/2011 tổ chức Phật giáo có 10.000.000 tín đồ,
42.000 chức sắc, 15.500 cơ sở thờ tự.
+ Đặc điểm của Đạo Phật ở Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam dung hợp các tín ngưỡng truyền thống của người
Việt Nam: thờ cúng tổ tiên, thờ thần, thờ mẫu nhưng Phật giáo vẫn giữ vai trò
chủ đạo để làm nên Đạo Phật Việt Nam. Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở
thành một tôn giáo gắn bó giữa đạo với đời, thể hiện tinh thần nhập thế góp
phần làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc. Phật giáo Việt Nam có truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, cùng đồng hành trong những giai đoạn
thăng trầm của đất nước, góp phần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ
164
quốc. Đưòng hướng hành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là “Đạo pháp
– Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.
- Đạo Công giáo
Đạo Công giáo (Thiên Chúa giáo) là tôn giáo thuộc Kitô giáo. Đạo
Công giáo là một trong những tôn giáo có số lượng tín đồ, giáo sĩ lớn nhất thế
giới. Giáo lý của Công giáo cho rằng con người và thế giới là do Chúa sinh ra.
Chrismar được Đức Chúa cha cử xuống để chuộc lỗi tổ tông cho loài người và
hướng dẫn loài người sống theo lời răn của Thiên Chúa để được cứu rỗi.
+ Đạo Công giáo ở Việt Nam
Nếu tính từ năm 1553, năm có giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo tại Việt
Nam, đến nay lịch sử truyền giáo và phát triển Công giáo ở Việt Nam đã trải
qua hơn 4 thế kỷ. Ngày 24/11/1960, Giáo Hoàng Gioan XXIII ra sắc chỉ
Venerabi Lium Nostrorum về việc thiết lập phẩm trật giáo hội tại Việt Nam.
Giáo hội Công giáo Việt Nam được thiết lập ở 3 giáo tỉnh (Hà Nội, Huế, Sài
Gòn – sau năm 1975 đổi thành giáo tỉnh TP. Hồ Chí Minh). Cùng với việc
thiết lập 3 giáo tỉnh, ngày 24/2/1976, Tòa thánh La Mã phê chuẩn thành lập
Hội đồng Giám mục của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đây là tổ chức được
xem là cơ quan trung ương của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Do điều kiện
chiến tranh, đất nước chia làm hai miền nên họat động của Hội đồng Giám
mục chỉ thực thi ở miền Nam. Sau năm 1975, Giáo hội Công giáo Việt Nam
qui về một mối. Hiện nay theo số liệu thống kê của Ban tôn giáo chính phủ
đến tháng 2/2011, tổ chức Công giáo có 6.100.000 tín đồ, 20.000 chức sắc,
6.000 cơ sở thờ tự.
Tháng 4/1980, tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt
Nam đầu tiên nhóm họp. Đại hội đồng ra qui chế, bầu Ban thường vụ. Đại hôi
ra Thư chung mục vụ 1980, tỏ rõ đường hướng mục vụ là “Sống phúc âm
trong lòng dân tộc”.Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo,
cần vận dụng đúng các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
165
tôn giáo, tín đồ; tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào có đạo thực hiện “sống
tốt đời đẹp đạo”, xây dựng cuộc sống mới ngày càng tốt đẹp hơn.
+ Đặc điểm Đạo Công giáo ở Việt Nam:
Đạo Công giáo truyền vào Việt Nam là đi vào tầng lớp nhân dân lao
động, tầng lớp bất mãn với nhà nước phong kiến đang trong thời kỳ suy thoái;
họ dễ tin theo một tôn giáo mang lại cho họ một lối thoát tâm linh và hy vọng
về cuộc sống trần thế được cải thiện bởi các quốc gia Phương Tây.
Sự lợi dụng lẫn nhau giữa truyền giáo và thực dân. Trong quá trình xâm
lược Việt Nam, thực dân Pháp đã nhận được sự cộng tác đắc lực của các giáo
sĩ thừa sai Pháp và một bộ phận giáo dân người Việt Nam bị các bề trên lôi
kéo tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, một số giáo sĩ sử dụng
giáo dân làm tai mắt để do thám tình hình quân đội triều đình, tuyển mộ một
lực lượng lính nguỵ và tay sai cho Pháp.
Mâu thuẫn giữa lợi ích tôn giáo và lợi ích thực dân: Khi dựa vào thực
dân thì các giáo sĩ biết rằng dân bản xứ sẽ nhìn nhận Công giáo như là công
cụ của thực dân. Trong khi đó thực dân biết rằng nếu họ nâng đỡ đạo Công
giáo thì khó thu phục được nhân dân bản xứ để củng cố việc đô hộ thuộc địa.
Đứng về mặt chính sách thuộc địa các thừa sai được coi như người phụ trợ
cho văn hoá Phương Tây. Thực dân Pháp ý thức được rằng công việc của các
thừa sai làm cho dân chúng ghét lây chính quyền thuộc địa. Do đó, các thừa
sai và chính quyền thực dân luôn ý thức được vấn đề liên minh giữa tôn giáo
và chính trị.
Đạo Công giáo ở Việt Nam phụ thuộc và chịu sự chỉ đạo về tổ chức,
hoạt động của Vatican nhưng Giáo hội Công giáo Việt Nam có nhiều chuyển
biến về nhận thức trong đường hướng hoạt động tôn giáo phù hợp với lợi ích
dân tộc. Thư chung năm 1980 khẳng định đường hướng gắn bó dân tộc “Sống
phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.
- Đạo Tin lành
166
Tin lành là một tôn giáo tách ra từ Công giáo vào những năm cải cách
trong nội bộ Kitô giáo lần thứ hai (thế kỷ XVI). Tổ chức của Giáo hội Tin
Lành không chặt chẽ mà tuỳ thuộc vào từng hệ phái, từng khu vực, từng quốc
gia. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức của đạo Tin Lành
đơn giản, nhẹ nhàng, không rườm rà như đạo Công giáo.
+ Đạo Tin Lành ở Việt Nam
Đạo Tin Lành có mặt ở nước ta từ năm 1911 do tổ chức Hội liên hiệp
Cơ đốc và Truyền giáo (The Christian and Missionnary Alliance of America –
CMA) truyền vào. Sau năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, đạo Tin Lành
ở miền Bắc và miền Nam có sự khác nhau. Năm 1955 những tín đồ, giáo sĩ
còn lại ở miền Bắc đã lập tổ chức giáo hội riêng, lấy tên gọi là Tổng hội Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) (Confederation Evangelical Church of
Vietnam - Northern), gọi tắt là Hội thánh Tin lành miền Bắc, với cơ cấu tổ
chức giáo hội hai cấp: Tổng hội và chi hội ở cơ sở. Đại hội đồng năm 1958
quyết định xúc tiến soạn thảo Điều lệ riêng. Đại hội đồng lần thứ 32 của Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) được tổ chức từ ngày 30-11 đến 3-12-
2004 và bầu ra Ban Trị sự nhiệm kỳ 2004 - 2008 gồm 13 thành viên. Hiện nay
theo số liệu thống kê của Ban tôn giáo chính phủ đến tháng 2/2011 tổ chức
Tin lành có 1.500.000 tín đồ, 3.000 chức sắc, 500 cơ sở thờ tự.
Tháng 1-2001, Đại hội đồng Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Nam) lần thứ 43 đã thông qua bản Hiến chương mới (gọi là Hiến
chương năm 2001), xác định tên gọi chính thức là Tổng Liên hội Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Nam) và bầu Ban Trị sự Tổng Liên hội gồm 23 mục
sư, truyền đạo. Đại hội đồng lần này đã xác định đường hướng hoạt động của
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) là: "Sống Phúc âm, phụng sự Thiên
Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”. Hiến chương 2001 quy định việc xây
dựng giáo hội hai cấp: Tổng Liên hội và chi hội (Hội thánh cơ sở), ở các tỉnh,
thành phố có các Ban Đại diện hoặc Đại diện, nhiệm kỳ của Ban Trị sự Tổng
Liên hội là 4 năm.
167
- Đạo Hồi (Islam)
Islam còn gọi là Hồi giáo hay đạo Hồi, xuất hiện khá sớm trên thế giới
vào giai đoạn chuyển biến xã hội từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ
có giai cấp (khoảng đầu thế kỷ thứ VII – sau công nguyên) ở bán đảo Ả Rập.
+ Đạo Hồi ở Việt Nam chủ yếu có trong cộng đồng người Chăm, thuộc
các tỉnh, thành phố: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh, Đồng Nai v.v...Theo tư liệu lịch sử, người Chăm đã biết đến
đạo Hồi từ các thế kỷ thứ X, XI ở Chiêm Thành. Năm 1991, những người
theo đạo Hồi ở Thành phố Hồ Chí Minh lập ra Ban Đại diện Cộng đồng Hồi
giáo gồm 7 thành viên với nhiệm kỳ là 4 năm. Từ năm 1992 đến nay, Ban Đại
diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh đã qua ba nhiệm kỳ: nhiệm
kỳ I (1992-1996), nhiệm kỳ II (1996-2000), nhiệm kỳ III (2000-2006). Đầu
năm 2004, đạo Hồi ở An Giang cũng lập Ban Vận động và đã tổ chức Đại hội
Đại biểu vào cuối năm 2004, thành lập Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh An
Giang. Hiện nay theo số liệu thống kê của Ban tôn giáo chính phủ đến tháng
2/2011 tổ chức Hồi giáo có 72.732 tín đồ, 700 chức sắc, 77 cơ sở thờ tự.
- Đạo Cao đài
Đạo Cao Đài thành lập vào đêm Noel 1925 tại Sài Gòn và nó được
chính thức ra mắt vào tháng 10 năm 1926 tại Tây Ninh. Đạo Cao Đài chủ yếu
có ở một số tỉnh miền Nam và miền Trung, với số lượng tín đồ tương đối
đông. Lễ nghi của đạo Cao đài khá cầu kì, phức tạp thể hiện tính đa thần của
người Việt. Từ năm 1995 đến năm 2000, lần lượt 9 hệ phái Cao đài ra đời và
xác định đường hướng hành đạo "Nước vinh, Đạo sáng". Hiện nay có các Hội
thánh sau: Hội thánh Cao đài Tiên Thiên, Hội thánh Cao đài Minh Chơn đạo,
Hội thánh Cao đài Chiếu Minh Long Châu, Hội thánh Truyền giáo Cao đài,
Hội thánh Cao đài Tây Ninh, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo, Hội thánh
Cao đài Bạch y, Hội thánh Cao đài Chơn lý và Hội thánh Cao đài Cầu Kho
Tam Quan. Hiện nay theo số liệu thống kê của Ban tôn giáo chính phủ đến
168
tháng 2/2011 tổ chức Đạo Cao Đài có 2.471.000 tín đồ, 12.722 chức sắc,
1.331 cơ sở thờ tự.
- Đạo Hòa hảo
Đạo Hoà Hảo hay Phật giáo Hoà Hảo xuất hiện 1939 ở làng Hoà Hảo
thuộc tỉnh Châu Đốc (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang)gắn với tên tuổi của ông Huỳnh Phú Sổ, quê tại làng Hoà Hảo. Giáo lý
của đạo Hoà Hảo đơn giản, bình dân, dễ hiểu lấy cơ sở từ giáo lý Phật giáo
người tại gia có thể theo được.
Tháng 4/1999, Nhà nước cho phép Phật giáo Hoà Hảo lập Ban vận
động Đại hội đại biểu Phật giáo Hoà Hảo và tiến hành Đại hội Phật giáo Hoà
Hảo lần thứ nhất vào ngày 25, 26/5/1999 và cử ra Ban đại diện Phật giáo Hoà
Hảo có đường hướng hành đạo tiến bộ và gắn bó với dân tộc: "Vì đạo pháp, vì
dân tộc”. Đặc điểm chung của sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng tín đồ Phật
giáo Hoà Hảo là tại gia. Việc tín đồ đến nơi công cộng (thờ tự chung) không
phải là bắt buộc mà chỉ là thể hiện nhu cầu tình cảm tôn giáo của mình đối với
những nơi mang tính "kỷ niệm lịch sử" của tôn giáo mình. Hiện tại, những
địa điểm thăm viếng này là: Tổ đình, An Hoà Tự, các chùa Phật giáo Hoà Hảo
rải rác ơ một số tỉnh Tây Nam bộ, trong đó chủ yếu vẫn là Tổ đình An Hoà
Tự. Hiện nay theo số liệu thống kê của Ban tôn giáo chính phủ đến tháng
2/2011 tổ chức Đạo Hòa hảo có 1.260.000 tín đồ, 2.579 chức sắc, 39 cơ sở
thờ tự.
Ngoài 6 tôn giáo trên có số lượng tín đồ đông đảo hoạt động ổn định,
gần đây Nhà nước ta đã công nhận thêm một số tôn giáo và tổ chức tôn giáo
như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ cư sĩ phật hội, Bà-la-
môn, Bàhai, Giáo hội Phật đường Minh sư đạo; Minh Lý đạo Tam tông miếu;
và các giáo phái Tin lành...
2. Quan điểm của Đảng về vấn dề tôn giáo
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
169
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
- Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
- Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị
đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị: Công tác
tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các
ngành, các địa bàn. Cốt lõi của công tác tôn giáo là dân vận.
3. Tình hình tôn giáo tại địa phương
Tôn giáo là một thành tố văn hoá do đó tuy cùng một tôn giáo những khi
xâm nhập hay phát sinh ở vùng nào thường mang dấu ấn về đặc điểm địa lý,
lịch sử, không gian văn hoá ở đó. Ở Việt Nam với địa hình hình chữ “S”
không gian địa lý văn hoá được chia làm ba miền rõ rệt: Miền Bắc, miền
Trung, Miền Miền Nam. Ở Miền Bắc Phật giáo chủ yếu là Phật giáo Bắc tông
hay còn gọi là Phật giáo Đại thừa, Tăng sĩ vừa có sư tăng vừa có sư ni, y phục
thường màu nâu, chùa bài trí nhiều tượng, dáng hình cổ kính, kinh sách chịu
ảnh hưởng của Hán tạng. Vùng đồng bằng Bắc Bộ cư dân chủ yếu theo đạo
Phật, đạo Công giáo và sống đan xen với nhau. Công giáo được tập trung ở
một số tỉnh như Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội. đạo Tin lành mới
phát triển rộng rãi mấy năm gần đây, chủ yếu vùng đô thị như Hà Nội, Hải
Phòng, và ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong cộng đồng dân tộc thiểu số như
Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn . Ở miền Trung Phật giáo, Công
giáo, Tin Lành đều hiện diện và có thêm các tôn giáo khác như đạo Cao Đài,
đạo Bhaii... ở Đà Nẵng, Đặc biệt ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình thuận không
gian văn hoá người Chăm có sự hoà nhập giữa Hồi Giáo với văn hoá bản địa
để tạo thành Hồi giáo Bà Ni. Ở miền Nam vùng đồng bằng Nam Bộ, một
170
không gian văn hoá trẻ phóng khoáng ngoài những tôn giáo truyền thống còn
xuất hiện một loạt các tôn giáo nội sinh như: đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo,
Tịnh độ Cư Sĩ Phật Hội, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh
Sư Đạo, Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu. Đạo Phật ở miền Nam cũng có nhiều
nét khác biệt: chủ yếu là Phật giáo Nam Tông với kinh sách Pali, y phục màu
vàng, chùa chỉ một pho tượng Thích Ca Mâu Ni. Trong Phật giáo Nam Tông
có Phật giáo Nam Tông Kher me ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như
Trà Vinh, Đồng Tháp, An Giang... Phật giáo Nam tông Kher me gắn bố chặt
chẽ với đời sống cộng đồng người Kher me Nam Bộ. Mỗi vùng miền với
những nét sinh hoạt tôn giáo riêng biệt, cán bộ quản lý về tôn giáo cần có sự
hiểu biết để có biện pháp quản lý và ứng xử cho phù hợp.
II. Nội dung quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo
a) Khái niệm: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được hiểu
theo hai nghĩa như sau: Theo nghĩa rộng: Là quá trình các cơ quan nhà nước
theo quy định của pháp luật để tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình
tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra
phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý. Nghĩa
hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các
cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp)
để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật.
Đối tượng quản lý: Tín đồ tôn giáo, Chức sắc, Nhà tu hành, Chức việc,
Nơi thờ tự, Cơ sở vật chất khác của tôn giáo, Đồ dùng việc đạo, Sinh hoạt tôn
giáo.
Mục tiêu quản lý: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước
hết phải đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đảm
bảo cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định của
pháp luật. Đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được
171
những mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế tiêu cực của tôn giáo đối
với sự phát triển của xã hội. Tăng cường được vai trò của Nhà nước trong
việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo; nâng cao hiệu lực, hiệu quả Nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo.
Phương thức Quản lý: Quản lý bằng pháp luật; Quản lý bằng chính
sách, Quản lý bằng tổ chức bộ máy và cán bộ; Quản lý bằng thanh tra, kiểm
tra; Quản lý bằng tuyên truyền giáo dục thuyết phục; Quản lý bằng tổ chức bộ
máy và cán bộ.
Nội dung quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo gồm những công việc
sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền đối với
hoạt động tôn giáo. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo trên địa bàn.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với hoạt động tôn giáo.
- UBND xã phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan khi giải
quyết các công việc liên quan đến các hoạt động tôn giáo. Kiểm tra, thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo.
1. Quản lý hoạt động truyền giáo.
Hàng năm trước ngày 15 tháng 10, người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ
sở có trách nhiệm gửi bản đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ diễn ra vào năm sau
tại cơ sở đó đến Ủy ban nhân dân xã. Nội dung bản đăng ký nêu rõ người tổ
chức, chủ trì hoạt động, dự kiến thành phần, nội dung hoạt động, thời gian,
địa điểm diễn ra hoạt động. Đối với các sinh hoạt tôn giáo bất thường (không
có trong lịch đăng ký) thì phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh (với trường hợp có tín đồ ngoài tỉnh tham dự), Ủy ban nhân dân cấp
huyện (trường hợp có sự tham gia của các tín đồ trong quận, huyện, thị xã)
nơi diễn ra hoạt động tôn giáo. Các hoạt động tôn giáo chỉ được diễn ra trong
khuôn viên của các cơ sở tôn giáo. Các hoạt động tôn giáo sau khi được cơ
172
quan có thẩm quyền cho phép, UBND xã có trách nhiệm tạo điều kiện cũng
như thực hiện giữ gìn an ninh trật tự đảm bảo cho hoạt động tôn giáo đó diễn ra
bình thường.
2. Quản lý việc tổ chức lễ hội tôn giáo
Cộng đồng tín đồ là một bộ phận của khối đoàn kết toàn dân, họ vừa là
tín đồ vừa là công dân dó đó chính quyền xã phải tôn trọng quyền tự do tôn
giáo của người dân, bảo vệ chính sách đoàn kết. Tạo điều kiện xây dựng phát
triển kinh tế văn hoá cho đồng bào theo đạo. Đồng thời xử lý người lợi dụng
tôn giáo để gây mất đoàn kết ảnh hưởng an ninh trật tự trên địa bàn. Việc mở
các lớp bồi dưỡng chức sắc tôn giáo phải được sự chấp thuận của Chủ tịch
UBND cấp tỉnh nơi mở lớp, UBND xã có trách nhiệm tạo điều kiện cho các
cơ sở đào tạo tôn giáo hợp pháp hoạt động trên địa phương mình quản lý. Duy
trì trật tự an ninh, đảm bảo đoàn kết giữa cơ sở đào tạo tôn giáo, người theo
học đạo và nhân dân địa phương.
3. Quản lý tổ chức cộng đồng tín đồ tôn giáo
Sau khi thực hiện việc phong chức, phong phẩm hoặc bầu cử, tổ chức
tôn giáo có trách nhiệm đăng ký về người được phong với chính quyền sở tại
để họ có đầy đủ tư cách hoạt động tôn giáo trong chức trách được
giao.Trường hợp chức sắc, nhà tu hành bị tổ chức tôn giáo cách chức, bãi
nhiệm thì cũng cần thông báo với chính quyền địa phương để biết để xử lý nếu
những họ vẫn dùng chức danh cũ để hoạt động.
4. Quản lý việc sửa chữa, cải tạo các công trình tôn giáo trên địa bàn
xã
Nhà đất và các tài sản khác đã được các tổ chức cá nhân, tôn giáo
chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng hoặc tặng, hiến cho
Nhà nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.UBND xã có trách nhiệm bảo vệ tài sản của các tổ chức tôn giaó và
bảo vệ di tích lịch sử văn hoá nếu cơ sở tôn giáo đó được công nhận theo luật
về di sản văn hoá. Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc,
173
kiến trúc công trình thuộc cơ sở thờ tự tôn giáo thì khi tiến hành phải thông
báo cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sở tại.
Xét duyệt quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo: UBND xã có
trách nhiệm kiểm tra xem xét các cơ sở in, sản xuất, kinh doanh, lưu hành và
tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn
kết trong nhân dân trên địa bàn để báo với cơ quan có thẩm quyền xử lý.
5. Giải quyết các khiếu nại, tố cáo, xử lý các vi phạm về tôn giáo
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo tham gia
nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cơ sở chăm sóc sức khỏe
người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/ADIS, bệnh nhân phong, bệnh
nhân tâm thần. Còn đối với cơ sở giáo dục mầm non như mẫu giáo, nhà trẻ thì
các tổ chức tôn giáo được phép hỗ trợ phát triển các loại hình trường lớp này,
không nhân danh tổ chức tôn giáo đứng tên trực tiếp mở lớp. Đối với chức
sắc, nhà tu hành, nếu họ tham gia các hoạt động xã hội về giáo dục, y tế, từ
thiện nhân đạo với tư cách công dân thì sẽ được khuyến khích, tạo điều kiện.
Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp hoặc lợi dụng từ thiện để có dụng
ý xấu.
- Xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi phạm chính
sách tôn giáo: Việc xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi
phạm chính sách tôn giáo căn cứ theo Luật khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998
và các chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để giải quyết ngay từ ngay từ
cơ sở và đúng thẩm quyền pháp lý của từng cấp quản lý. Xử lý các điểm nóng
tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo phải bảo đảm có lý, có tình, đúng luật
pháp.
6. Quản lý các hoạt động khác về tôn giáo
Tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm, các thế lực thù địch luôn lợi
dụng vấn đề tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh
hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị. Do đó, chúng ta phải cương
174
quyết, nhưng cũng phải hết sức khôn khéo, tế nhị, tránh mọi sơ hở, thiếu sót
để địch lợi dụng can thiệp vào nội bộ nước ta. Đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo là vấn đề lâu dài không thể giải quyết một số một sớm một chiều vì vậy
chúng ta cần phải có những biện pháp vừa mang tính cấp bách vừa phải mang
tính lâu dài bền vững. Địa bàn xã là nơi trực tiếp tiếp nhận chính sách pháp
luật của nhà nước về tôn giáo, cũng là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo của
các tổ chức tôn giáo do đó UBND xã phải nắm bắt được các cơ sở tôn giáo,
các loại tôn giáo để tạo điều kiện cho các tôn giáo đó hoạt động bình thường
qua đó giúp cho ngươì dân thấy được chính sách tự do tôn giáo của nhà nước
thu phục niềm tin của họ vào chính quyền. Như vậy sẽ tạo được hậu thuẫn của
nhân dân với chính quyền và cô lập được các lực lượng chống đối.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1:
Tại một phiên chợ ở xã H người dân thấy xuất hiện nhiều tờ rơi, băng
đĩa có nội dung tôn giáo. Nhận được thông tin trên chủ tịch Uỷ ban nhân dân
đã chỉ thị cho cán bộ Uỷ ban đặt loa phóng thanh yêu cầu nhân dân không
được đọc và tàng trữ các loại băng điã và tờ rơi có nội dung tôn giáo nói trên
nếu ai vi phạm sẽ bị xử phạt, đồng thời chỉ đạo nhân viên Uỷ ban thu gom tờ
rơi băng đĩa để tiêu huỷ. Với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đồng chí
xử lý như thế nào đối với tình huống trên?
Tình huống 2:
Tại xã A của huyện T tỉnh Nam Định xảy ra vụ mất trộm chuông của
nhà thờ Công giáo. Trong khi cơ quan chức năng chưa tìm ra manh mối thì có
dư luận cho là thanh niên của xã B bên cạnh không theo đạo lấy đi để trả thù,
do trước đó có va chạm giao thông dẫn đến xô xát giữa hai thanh niên theo
công giáo của xã A với 1 nam thanh niên khác không theo đạo của xã B. Sự
việc trên đã gây ra bầu căng thẳng giữa nhân dân hai xã nhất là giữa những
175
người theo Công giáo và những người không theo tôn giáo. Với tư cách là chủ
tịch Uỷ ban nhân dân xã A đồng chí xử lý tình huống trên thế nào?
Tình huống 3:
Do bị một số đối tượng tuyền truyền theo đạo Vàng Chứ nên một số hộ
dân ở bản X xã Y thuộc tỉnh Điện Biên đã có hành vi tụ tập rỉ tai, và truyền
nhau tờ rơi kêu gọi người Hmông nên theo đạo Vàng Chứ để đón chờ một vị
thần của người Hmông xuống dẫn dắt người Hmông tới vùng đất riêng để có
cuộc sống sung sướng thoát khỏi nghèo đói bệnh tật. Đứng trước tình huống
trên với tư cách là chủ tịch xã đồng chí xử lý tình huống trên như thế nào?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết của Bộ Chính trị
về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (1990)
- Ban Chấp hành Trung ương Nghị quyết số 25/NQ – TW ngày
12/3/2003 Về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
- Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
- Nghị định số 22/NĐ/CPcủa Chính phủ ngày 01 tháng 3 năm 2005 về
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Các văn bản pháp luật liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2006.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Hỏi đáp pháp luật liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2008.
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo
của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb, Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008.
- Đặng Nghiêm Vạn, Dân tộc Văn hoá Tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội
Hà Nội, 2001.
- Hoàng Văn Chức, Giáo trình quản lý nhà nước về tôn giáo và dân
tộc, Nxb ĐHQG, Hà Nội, 2004.
176
- Nguyễn Đức Lữ, Tôn giáo - Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2009.
Chuyên đề 11:
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ TRONG LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH - TƯ PHÁP
I. Tổng quan về quản lý hành chính - tư pháp ở xã
1. Sự cần thiết của quản lý hành chính - tư pháp ở xã
Quản lý công tác tư pháp là một lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước
ở địa phương mà bất cứ cấp chính quyền nhà nước nào cũng phải thực hiện.
Quản lý nhà nước đối với công tác tư pháp là sự tác động có tổ chức điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình vận động xã hội và hành
vi hoạt động của con người trong lĩnh vực tư pháp để duy trì, phát triển các
mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, góp phần thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ
quốc. Xuất phát từ đặc điểm xã, phường, thị trấn là đơn vị cơ sở trong hệ
thống hành chính của nhà nước ta, là nơi tổ chức, triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, biến chúng thành hiện
thực trong đời sống hàng ngày; đồng thời chính quyền xã là cấp chính quyền
trực tiếp với dân nhất nên có thể hiểu, nắm được những diễn biến, tâm tư, tình
cảm, ý chí, nguyện vọng của nhân dân; công tác quản lý tư pháp ở xã có vai
trò quan trọng đối với hoạt động quản lý của chính quyền xã và nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
Đối với chính quyền xã, công tác tư pháp thông qua các nội dung như
phổ biến, giáo dục pháp luật; hoà giải; hộ tịch; thi hành án... giúp chính quyền
xã tổ chức tốt hoạt động thực thi pháp luật, tăng cường pháp chế, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, tạo lập môi trường thuận lợi để phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và
177
thực hiện công bằng xã hội ở cơ sở, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của
chính quyền xã.
Đối với nhân dân ở xã, phường, thị trấn; công tác tư pháp góp phần
củng cố đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm; nâng
cao ý thức pháp luật; ngăn ngừa có hiệu quả các việc vi phạm pháp luật; bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy vai trò và khả năng
to lớn của nhân dân trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội góp phần xây
dựng đời sống mới văn minh, hạnh phúc ở cơ sở.
2. Cơ sở pháp lý của quản lý hành chính tư pháp ở xã
Quản lý hành chính tư pháp ở xã được thực hiện dựa trên các cơ sở
pháp lý cơ bản sau:
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực quản lý
hành chính tư pháp, theo qui định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên
quan.
- Về nhiệm vụ tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương;
xây dựng tủ sách pháp luật để cán bộ, nhân dân nghiên cứu, tìm hiểu pháp
luật của nhà nước thực hiện theo qui định của Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg
ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg
ngày 12/03/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012...
- Về nhiệm vụ tổ chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hoà giải; kịp
thời giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo
qui định của pháp luật thực hiện theo qui định của Pháp lệnh về tổ chức và
hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998.
- Nhiệm vụ tổ chức việc đăng ký và quản lý hộ tịch theo qui định của
pháp luật thực hiện theo qui định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, ngày 27/12/2005.
178
- Thực hiện một số việc về chứng thực theo qui định của pháp luật theo
qui định của Nghị định của Chính phủ số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về
cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
- Thực hiện một số công việc tư pháp khác theo qui định của pháp luật
như thi hành án, tổ chức xây dựng hương ước... theo các văn bản: Luật thi
hành án dân sự năm 2008, Luật thi hành án hình sự năm 2010...
3. Tổ chức quản lý hành chính tư pháp ở xã
a) Hệ thống các cơ quan quản lý hành chính tư pháp ở Việt Nam
- Ở trung ương:
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, có chức năng
quản lý mọi mặt đời sống xã hội nên Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản
lý lĩnh vực hành chính –tư pháp trong toàn quốc
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ giúp Chính phủ quản lý lĩnh vực
hành chính - tư pháp
- Ở địa phương:
+ UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý lĩnh vực hành chính-tư pháp trong
phạm vi tỉnh . Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp tỉnh quản
lý lĩnh vực hành chính-tư pháp.
+ UBND cấp huyện thực hiện quản lý lĩnh vực hành chính - tư pháp
trong phạm vi huyện. Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện quản lý lĩnh vực
hành chính - tư pháp.
+ UBND xã thực hiện quản lý lĩnh vực hành chính - tư pháp trong
phạm vi xã. Công chức Tư pháp - hộ tịch giúp UBND xã quản lý lĩnh vực
hành chính-tư pháp ở xã.
b) Tổ chức quản lý hành chính tư pháp ở xã
Công tác hành chính - tư pháp ở xã do Chủ tịch UBND xã phụ trách
với sự thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của công chức Tư pháp - hộ tịch.
- Công chức Tư pháp - hộ tịch có nhiệm vụ sau:
179
+ Giúp Uỷ ban nhân dân xã soạn thảo, ban hành các văn bản quản lý
theo quy định của pháp luật; giúp Uỷ ban nhân dân xã tổ chức lấy ý kiến nhân
dân đối với dự án luật, pháp lệnh theo kế hoạch của Uỷ ban nhân dân xã và
hướng dẫn của cơ quan chuyên môn cấp trên; giúp Uỷ ban nhân dân xã phổ
biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân xã, phường, thị trấn.
+ Giúp UBND xã chỉ đạo cộng đồng dân cư tự quản xây dựng hương
ước, quy ước, kiểm tra việc thực hiện hương ước, quy ước; thực hiện trợ giúp
pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp
luật; quản lý tủ sách pháp luật; tổ chức phục vụ nhân dân nghiên cứu pháp
luật; phối hợp hướng dẫn hoạt động đối với tổ hoà giải. Phối hợp với trưởng
thôn, tổ trưởng tổ dân phố sơ kết, tổng kết công tác hoà giải, báo cáo với
UBND xã và cơ quan tư pháp cấp trên.
+ Thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch theo các nhiệm vụ cụ thể
được phân cấp quản lý và đúng thẩm quyền được giao.
+ Thực hiện việc chứng thực theo thẩm quyền đối với các công việc
thuộc nhiệm vụ được pháp luật quy định.
+ Giúp Uỷ ban nhân dân xã thực hiện một số công việc về quốc tịch
theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp ở xã, phường, thị trấn.
+ Giúp Uỷ ban nhân dân xã về công tác thi hành ánh theo nhiệm vụ cụ
thể được phân cấp.
+ Giúp Uỷ ban nhân dân xã trong việc phối hợp với các cơ quan, tổ
chức liên quan quyết định việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
+ Giúp Uỷ ban nhân dân xã thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về
quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
+ Chấp hành quy chế làm việc của cơ quan, các chế độ quản lý hồ sơ
tài liệu, chế độ báo cáo công tác theo quy định.
+ Thực hiện các nhiệm vụ Tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
180
- Để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý hành chính-
tư pháp, pháp luật qui đinh công chức tư pháp hộ tịch cần có những tiêu
chuẩn sau:
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Với công chức đang công tác ở khu vực
miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ tư pháp xã;
nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp luật trở lên. Phải
qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi được tuyển dụng.
II. Nội dung quản lý hành chính tư pháp ở xã
1. Tổ chức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi
pháp luật, là cầu nối chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Thông qua hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp
luật cho nhân dân nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong đời
sống xã hội. Do đó thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật góp
phần tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu quả quản lý. Đối với xã phường thị
trấn là cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền nhà nước, phổ biến giáo dục
pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì chính quyền có điều kiện để
nắm vững nhu cầu, ý chí, nguyện vọng của nhân dân nên việc tuyên truyền
phổ biến pháp luật phù hợp và có hiệu quả cao.
Để thực hiện tốt việc phổ biến, giáo dục pháp luật, cán bộ chính quyền
xã cần nắm được những vấn đề sau:
a) Yêu cầu đối với công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị
trấn
- Phổ biến, giáo dục pháp luật phải phù hợp và phục vụ nhiệm vụ chính
trị của địa phương.
181
- Đảm bảo trang bị cho các tầng lớp nhân dân những kiến thức pháp
luật cơ bản về các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của họ
để họ nắm được và vận dụng vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước và xã hội.
- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
- Nội dung phổ biến, tuyên truyền pháp luật phải đảm bảo ngắn gọn,
chính xác.
- Hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật phải phù hợp với tình hình
kinh tế-xã hội ở địa phương, với đặc thù của từng vùng, miền, từng đối tượng.
- Phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và phải gắn với việc tổ
chức thực hiện pháp luật và các phong trào quần chúng ở địa phương.
b) Một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả ở xã,
phường, thị trấn
- Tuyên truyền miệng (phổ biến pháp luật qua hội nghị, tập huấn, hội
họp).
- Phổ biến giáo dục pháp luật qua hệ thống loa truyền thanh.
- Phổ biến giáo dục pháp luật qua lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn
hoá. (chủ yếu được áp dụng ở các vùng nông thôn, vùng cao, vùng có nhiều
đồng bào dân tộc sinh sống).
- Phổ biến,giáo dục pháp luật thông qua công tác hoà giải.
- Phổ biến,giáo dục pháp luật thông qua việc khai thác tủ sách pháp luật
xã, phường, thị trấn.
- Phổ biến,giáo dục pháp luật thông qua các loại hình câu lạc bộ.
- Phổ biến,giáo dục pháp luật thông qua đấu tranh, phê phán, xoá bỏ
phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống mới.
c) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp
luật ở xã, phường, thị trấn
Xây dựng kế hoạch phổ biến, tuyên truyền pháp luật là việc đề ra có hệ
thống những công việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật ở xã, phường thị trấn
182
dự định làm trong một thời gian nhất định, với cách thức, trình tự. thời hạn
tiến hành cụ thể.
* Qui trình xây dựng kế hoạch
Giai đoạn chuẩn bị
Trong giai đoạn này cần tiến hành một công việc sau:
- Lựa chọn loại kế hoạch cần xây dựng
Theo thời gian, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị
trấn được phân thành kế hoạch dài hạn (từ ba đến năm năm), kế hoạch ngắn
hạn (hàng năm, hàng quí, hàng tháng), kế hoạch theo từng đợt tập trung tuyên
truyền một nội dung pháp luật (về bầu cử, về phòng chống ma tuý, về thuế sử
dụng đất nông nghiệp...) hoặc một văn bản cụ thể.
- Xác định căn cứ xây dựng kế hoạch:
+ Các chương trình, kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật.
+ Các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
ở địa phương.
+ Mức độ hiểu biết và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân
địa phương ( xác định bằng cách phát phiếu điều tra, thông qua đề xuất của
cán bộ, các tổ chức đoàn thể ở cơ sở, qua giao tiếp với người dân trong giải
quyết công việc...).
Giai đoạn x ây dựng kế hoạch và lập dự toán kinh phí thực hiện
Nội dung cơ bản của kế hoạch
- Mục đích, yêu cầu của kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật: cần nêu
rõ mục đích, kết quả cụ thể cần đạt được cũng như các yêu cầu đặt ra khi triển
khai kế hoạch.
- Nội dung pháp luật cần phổ biến đến đối tượng: xác định căn cứ vào
yêu cầu chung của kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên và nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của người dân ở xã, phường, thị trấn (không chỉ các luật, pháp lệnh,
183
văn bản của trung ương mà còn cả văn bản của chính quyền cấp tỉnh, cấp
huyện và xã).
- Hình thức phổ biến giáo dục pháp luật; trên thực tế công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật được triển khai bằng nhiều hình thức khác nhau như tuyên
truyền miệng, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng lưới
truyền thanh ở cơ sở...Tuỳ từng địa phương căn cứ vào đặc thù của đối tượng
phổ biến, giáo dục pháp luật (trình độ văn hoá, điều kiện sinh sống, nhận
thức, phong tục tập quán...), căn cứ vào điều kiện của từng địa phương để lựa
chọn hình thức phổ biến giáo dục pháp luật phù hợp và có tính khả thi.
- Tiến độ thực hiện: kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật càn xác định
thời gian thực hiện các công việc dể ra. Tiến độ cụ thể cũng là căn cứ theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
- Các biện pháp bảo đảm việc thực hiện:
+ Xác định biện pháp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp
với đối tượng, với địa bàn thực hiện: Có thể tổ chức các hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật độc lập, cũng có thể tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
lồng ghép trong các chương trình, kế hoạch khác ở địa phương (như phong
trào xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, các chương trình về xoá đói,
giảm nghèo, bảo vệ và phát triển rừng, chương trình nước sạch, vệ sinh môi
trường...).
+ Phân công trách nhiệm hợp lý, rõ ràng cho các chủ thể tham gia phổ
biến, giáo dục pháp luật.
+ Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chế độ thông