8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich http://slidepdf.com/reader/full/duong-may-trong-coi-mong-ham-son-dai-su-nguyen-phong-dich 1/59 NHỮNG LỜI KHAI THỊ CỦA ĐẠI SƯ HÁM SƠN(Trích : Đường Mây Trong Cõi MộngTT.Thích Hằng Đạt & Nguyên Phong Phóng tác) Hám Sơn Đại Sư ---o0o--- Nguồn http://www.quangduc.com Chuyển sang ebook 26-5-2009 Người thực hiện : Nam Thiên – [email protected] Link Audio Tại Website http://www.phatpha ponline.org Mục Lục ---o0o--- Bài 1 : LUẬN VỀ SỰ CẢM ỨNG. Đức Phật đã dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian đều theo nhau như bóng với hình, không sai chạy chút nào. Tuy nhiên, những kẻ không tin tưởng vào luật nhân quả thì cho đó là lời nói ngoa. Ngoài ra, nhiều người do tin tưởng thuyết “An Mạng (an phận thủ thường)” của Khổng Tử nên thường đổ trút tất cả cho số mạng, và chỉ cầu
59
Embed
Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
phước báo, cùng thích nghe những điều tốt lành mà bỏ ngoài tai những việc xấu xa tai
hoạ. Thật là những kẻ hàm hồ ngu muội.
Thật ra, cuộc đời sanh tử chỉ như một ngày đêm. Khái niệm luân hồi trong ba thời
(quá khứ, hiện tại, vị lai) giống như hôm nay và ngày trước. Ví như trong cuộc sống hằngngày, lúc mời khách đến nhà dự tiệc, thì phải chuẩn bị đặt để thức ăn nước uống cho
trang trọng đầy đủ. Nếu có thiếu sót món chi tức là lo lắng không chu đáo. Đó là lẽ tất
nhiên.
Cuộc nhân sanh, những việc thọ mạng dài ngắn (chánh báo), gia sản tài vật (y báo),
sự nghiệp công danh, cùng phú quý bần tiện đều tuỳ thuộc vào nghiệp nhân đã trồng
trong tiền kiếp. Những sự thọ dụng trong đời nay đều không phải từ bên ngoài mang đến,
mà hoàn toàn là do tự làm tự hưởng. Vì vậy cổ nhân đã có câu : “Muốn biết nghiệp nhân
đời tiền kiếp, hãy nhìn báo ứng đang thọ. Muốn biết quả báo đời vị lai, hãy xem đang làm
những gì”. Đa số người đời ỷ vào tài năng học thức để đạt công danh phú quý, nhưng
chẳng hề biết rằng việc này khó xảy ra, vì chủ yếu chính là do nhân lành đã tự trồng trong
tiền kiếp kết hợp với khả năng tài trí trong hiện tại mới tạo dựng được. Do đó, nếu vui
mừng hớn hở khi được công danh phú quý thì rất sai lầm. Lại nữa, lúc bị người khác phá
mất công danh phú quý, liền khởi tâm oán hận, mà chẳng biết rằng phần phước mình chỉ
có thế thôi. Phần phước báo bị người khác phá mất thật ra chẳng phải là của mình màchính vì thiếu nợ người đó nên phải trả. Vì vậy, đau khổ ưu sầu, oán trời trách đất, thậm
chí kết thành cừu oán không thể xả bỏ, thì cũng là sai lầm. Do đó, phải nên biết rằng pháp
“An Mạng” của Khổng Tử tức là thuyết nhân quả của Phật giáo. Nếu hiểu được lý “An
Mạng” thì sẽ chấp nhận rằng sang hèn được mất đều tuỳ thuộc vào nhân xưa, vốn tự làm
tự thọ. Nghèo cùng hay hiển đạt, mạng ngắn hoặc dài, đều do nhân đời tiền kiếp chủ
định. Thật vậy, nếu hiểu rõ và tin tưởng quy luật nhân quả, thì sẽ chấp nhận rằng tất cả sự
thọ dụng trong hiện tại đều phát xuất từ những nghiệp nhân đã trồng vào đời tiền kiếp,
chớ chẳng phải do người khác đem đến, hay nhờ tài trí mới đạt được. Dẫu có đạt được
bằng tài trí, thì đó chẳng qua là phần phước của mình. Thế nên, sao lại khổ sở đắm chấp,
lao tâm nhọc sức, lo lắng ưu sầu những việc được mất, thậm chí vọng tích bao oán thù !
Nếu là người thông minh sáng suốt, thì phải thâm tín nhân quả báo ứng, mà không chấp
trước vào những việc đắc thất trong hiện tại, chỉ nên căn cứ theo điều kiện hiện hữu, để
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
trồng nhân lành vào ruộng phước cho tương lai. Ví như người nông dân, phải biết chọn
đất phì nhiêu để gieo trồng giống tốt, rồi siêng năng cấy cày, thì nhất định sẽ thu hoạch
được đầy ắp lúa mạ trong mùa thu. Đây là việc hiển nhiên. Có khác biệt chăng trong sự
thu hoạch là do việc bỏ phân bón ít nhiều.
Đức Phật đã dạy : “Cúng dường Phật, Pháp, Tăng thì gọi là gieo nhân lành vào
ruộng phước thù thắng. Hiếu thảo với cha mẹ thì gọi là gieo nhân lành vào ruộng phước
cung kính. Cứu giúp những kẻ nghèo cùng khốn khổ thì gọi là gieo nhân lành vào ruộng
phước tâm thức”. Tôi hy vọng quý vị sẽ không ưu sầu vế những sự được thua còn mất
trong quá khứ, mà chỉ lo gieo nhân lành vào ruộng phước cho tương lai. Nếu quý vị giảm
bớt tiêu xài vào những việc phung phí hay vô ích cùng biết tiết chế chi tiêu trong việc ăn
mặc, rồi dùng những phần được tiết kiệm trồng trong ba loại ruộng phước ở trên, thìkhông những đời vị lai được tăng phước đức trang nghiêm mà hiện thế thân an tâm lạc,
và trở thành người có phước lành bậc nhất. Nếu thường gieo giống lành vào ba loại ruộng
phước bên trên, lại còn biết lưu tâm về Phật Pháp như dùng cách niệm Phật để dẹp trừ
tâm vọng tưởng, dùng từ bi để chuyển hoá sân si, dùng nhu hoà để cảm hoá cường bạo,
dùng khiêm tốn để chiết phục ngã mạn, thì đó là hạnh của bậc Bồ-tát phát đại tâm. Nếu
có tín tâm chân thật, thì xứng đáng được gọi là đại trượng phu dũng mãnh tối thắng
---o0o---
Bài 2 : SỰ THIẾT YẾU CỦA VIỆC NIỆM PHẬT CÙNG THAM THIỀN
Người thẩm sát công án niệm Phật, phải đơn độc đề cử một âm thanh “A Di Đà
Phật” làm thoại đầu. Nơi đề khởi, phải hạ nghi tình, thẩm vấn xem người niệm Phật là ai.
Lại đề cử lại thẩm xét, xem coi rốt ráo người niệm Phật là ai. Quyết bám tựa câu thoại
đầu này như thế, thì tất cả vọng tưởng tạp niệm đều bị đốn đoạn, như chặt dây nhợ. Lại
không dung dưỡng cho chúng khởi lên, (vì nơi khởi tức tâm liễu giác bị che mất), mà chỉ
còn một niệm ; đơn độc sáng suốt rõ ràng, như mặt trời lơ lững trên không trung, thì vọng
niệm không sanh, hôn mê tự thối tán, tức tịch tịch tỉnh tỉnh.
Đại sư Vĩnh Gia thuyết: Tịch tịch tỉnh tỉnh là phải, Tịch tịch vô ký là sai. Tỉnh tỉnh
tịch tịch là phải, tỉnh tỉnh loạn tưởng là sai. Đây là dạy rằng tịch tịch mà không lạc vào
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
hôn trầm vô ký. Tỉnh tỉnh mà không lạc vào vọng tưởng. Tịch tỉnh song song lưu hành,
và tâm phù trầm đều xả. Xem đến nơi một niệm chưa sanh, thì tiền hậu tế đều đoạn,
chính giữa tự cô độc, tức khắc đập thủng thùng nước sơn, bèn thấy bản lai diện mục.
Thân tâm thế giới lập tức rơi xuống, như hoa rụng trong hư không. Mười phương tròn
đầy trong sáng, thành một tạng đại quang minh. Như thế chính là thời tiết trở về nhà.
Nhật dụng hiện tiền, viên minh trong sáng, nên không còn nghi ngờ ; tin chắc tự tâm, gốc
vốn như thế. Từ trên Phật Tổ, nơi tự thọ dụng, không hai không khác. Đến cảnh giới đó,
chớ nên giữ chấp không kiến (thấy không). Nếu giữ chấp không kiến, thì đoạ vào ngoại
đạo ác kiến. Lại không thể khởi hữu kiến, cùng tri kiến huyền diệu, vì còn hữu kiến tức
đoạ vào tà kiến. Ngay trong công phu, xuất hiện bao loại cảnh giới, quyết chẳng nhìn
nhận chúng ; nghe một tiếng quát liền tiêu. Cảnh ác hiện chớ sợ, và cảnh lành chớ vui, vì
chúng chính là con ma tập khí. Nếu sanh tâm vui mừng, tức đoạ vào đường ma. Phảiquán biết đó là hiện cảnh của tự tâm, không từ ngoài vào. Phải biết bổn lai thanh tịnh,
trong tâm vốn không có một vật. Gốc vốn không mê ngộ, chẳng nương nơi thánh phàm,
thì còn an đắc bao loại cảnh giới sao ! Ngày nay vì mê bản tâm này, nên phải dụng công
phu, để tiêu ma vô minh tập khí. Nếu ngộ bản tâm xưa nay không có một vật, vốn sáng
suốt bao la, thanh tịnh lặng lẽ, thì thong dong tự tại qua ngày, sao còn có công phu nào để
hành !
Người thời nay phải tin tâm này, xưa nay vốn không một vật. Như nay dụng công
phu, chỉ vì chưa thấy được bản lai diện mục đó, nên phải quyết hạ thủ công phu, thì mới
có ngày trở về quê quán. Từ đó mà thẳng bước, thì tự nhiên sẽ có lúc đốn ngộ bản lai diện
mục, tức là xuất ra khỏi sanh tử, mãi mãi không nghi ngờ
---o0o---
Bài 3 : KHAI THỊ ĐẠI CHÚNG
Đức Phật trụ thế, thuyết pháp lợi sanh, khiến bốn chúng đều được đắc độ. Ngài tuỳ
cơ giáo hoá, mỗi mỗi đều có phương tiện quyền xảo, khiến tất cả mọi loài đều được lợi
ích. Thí như trời mưa, cỏ cây đều được thấm nhuần, tuỳ theo loại lớn nhỏ mà được sung
túc, sanh trưởng. Thế nên tuy pháp môn có thiên sai vạn biệt, nhưng quay về nguồn thì
không hai. Nếu dùng Phật tánh mà quán sát chúng sanh, thì không có loài nào mà chẳng
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
được độ. Dùng tự tâm mà quán xét Phật tánh, thì ai ai cũng đều tu được cả. Song, chúng
sanh tự mê muội mà không biết điều này. Lại nữa, vì không có thiện tri thức chân chánh
dẫn dắt chỉ dạy, nên phải cam chịu trầm luân, uổng thọ bao khổ não. Vì vậy, lúc Tổ Huệ
Năng vừa đến, ngũ Tổ Hoàng Mai liền hỏi : “Ngươi là người xứ nào ?” Huệ Năng đáp :
“Con là người xứ Lĩnh Nam”. Ngũ Tổ nói : “Người Lãnh Nam mọi rợ lại có Phật tánh
ư ?”. Huệ Năng đáp : “Người có phân nam bắc, nhưng Phật tánh chẳng hề có hai”. Lời
này lưu bố khắp nhân gian, như tiếng sấm nổ, khiến loài sâu bọ phải khiếp đảm. Vùng
Lãnh Nam trở thành cội nguồn của thiền đạo Phật Pháp, khiến xuất sanh bao bậc trí giả
và ngộ đạo. Từ khi Lục Tổ hoằng hoá, đạo pháp được lưu truyền khắp Trung Nguyên.
Ngày nay, trước cửa môn đình, cảnh tượng tiêu điều, cỏ dại mọc khắp nơi cả ngàn
năm. Nhiều người đàm luận cho rằng đó chẳng phải là vùng đất của thiện căn. Đây thật làchưa đạt được ý chỉ Phật tánh. Tôi mong từ ân (của nhà vua) chuyển đến Lôi Dương vào
mùa xuân năm Bính Dần. Đến mùa thu năm đó thì đến Ngũ Dương. Trong thành tôi chú
giải hoàn toàn bộ kinh Lăng Già. Mùa hè năm Mậu Tuất diễn giảng cho chư đệ tử. Trong
mỗi lần ngồi toạ, thấy chư thiện nam tử hậu bối cố gắng mà đến, nên tôi rất mực khen
ngợi. Lại có hơn mười vị thiện sĩ lễ bái, khấn cầu thọ năm giới của Ưu-bà-tắc. Tôi vui
mừng chấp thuận, nên làm pháp Yết Ma. Họ tự quy tâm ngày một tín thành, và dốc lòng
lắng nghe Phật Pháp. Tôi thương cho họ chưa liễu ngộ và chưa biết cách tấn tu công phu
tự độ. Vì vậy, tôi dùng niệm Phật tam-muội, dạy họ chuyên tâm nơi tịnh nghiệp, tức là
chán chường duyên khổ, mà quy hướng Cực Lạc. Trong kỳ hội mỗi tháng, lập ra quy
chế ; trong ba thời tu hành xưng danh lễ bái tụng đọc sám hối. Vì muốn tín tâm ngày càng
khẩn thành, tội chướng ngày càng tiêu bớt, nên phải phát khởi nguyện vãng sanh. Nếu
quả tình hành theo pháp môn này, thì tuy thân tại trần lao, mà có thể bảo rằng sống không
hư, chết không phóng túng. Chẳng phải là công hạnh chân thật sao ! Phật là giác, tức là
Phật tánh của chúng sanh. Vì mê mà làm chúng sanh. Nếu ngộ thì gọi là Phật. Ngày nay
niệm Phật, tức tự tánh Di Đà. Cầu vãng sanh cõi Tịnh Độ, tức duy tâm Cực Lạc. Quý vịnếu thường niệm niệm mà chẳng quên mất, thì tâm tâm Di Đà sẽ xuất hiện, và từng bước
lần hồi sẽ vê đến quê hương Cực Lạc. Cần gì vọng mong nơi ngoài mười vạn ức cõi
nước, còn có cõi Tịnh Độ để quy hướng ! Thế nên, tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Tâm
cấu uế thì cõi nước uế trược. Do đó, một niệm ác vừa dấy khởi, thì rừng kiếm cây đao
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
liền vung dậy. Một niệm lành sanh, thì đất báu hồ sen liền hiện rõ. Thiên đường địa ngục,
sao lại ngoài tâm này ư ! Chư thiện nam tử ! Xin hãy suy nghĩ chín chắn ; phải luôn thống
niệm sanh tử đại sự, vô thường mau chóng. Một khi mất thân này, thì muôn kiếp khó
hoàn phục lại. Mặt trời mặt trăng luôn xoay chuyển, và thời gian chẳng đợi mình. Nếu
phụ duyên này, thì lỡ mất cơ hội. Khi đại hạn đến, hối hận chẳng kịp. Quý vị mỗi mỗi
hãy nỗ lực. Trân trọng ! Trân trọng !
---o0o---
Bài 4 : KHAI THỊ VỀ NHỮNG ĐIẾM THIẾT YẾU KHI NIỆM PHẬT
Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cõi Tây phương Cực Lạc, vốn là đại sự cắt đứt
dòng sanh tử. Vì vậy bảo rằng chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là có thể cắt đứt sanh tử.
Do đó, ngày nay mới phát tâm niệm Phật.
Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử, mà cứ niệm Phật mãi thì cuối cùng sẽ đi
về đâu ? Nếu niệm Phật mà không đoạn được cội gốc của sanh tử thì làm sao cắt đứt
dòng sanh tử ? Cội gốc của sanh tử là gì ? Cổ nhân nói : “Nghiệp bất trọng bất sanh Ta
Bà. Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ”. Thế nên, biết rõ ái dục là cội gốc của sanh tử. Khiến
tất cả chúng sanh thọ khổ trong sanh tử đều do ái dục. Cội gốc ái dục này không phải chỉ
hiện hữu trong một, hoặc hai, ba, bốn đời, mà nó đã tự có sẵn từ đời vô thủy cho đếnngày nay. Sanh sanh thế thế, xả thân thọ thân, đều do lưu chuyển theo ái dục.
Ngày nay, suy nghĩ nhìn lại, xem coi lúc nào có một niệm tạm rời cội gốc ái dục này
đâu ! Hạt giống ái căn, bao kiếp tích luỹ sâu dày, nên khiến sanh tử không cùng tận. Hiện
tại, vừa phát tâm niệm Phật, nếu chỉ vọng không cầu sanh Tây phương mà danh tự ái dục
(tức cội gốc của sanh tử) lại không biết đến, thì khi nào mới có niệm đoạn được nó ?
Không biết cội gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên cội gốc sanh tử lại càng
tăng trưởng nhiều hơn. Cả hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng quan hệ với nhau.
Dẫu niệm cách nào đi nữa, đến lúc lâm chung quý vị chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền.
Khi đó lại cho rằng Phật hoàn toàn không có thần lực, nên liền oán trách niệm Phật
không linh nghiệm ; dẫu sau này có hối hận cũng không kịp.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Vì vậy, khuyên người niệm Phật thời nay, đầu tiên phải biết ái dục là cội gốc của
sanh tử. Ngày nay dốc lòng niệm Phật, thì niệm niệm phải đoạn ái căn này. Trong cuộc
sống hằng ngày, ở nhà niệm Phật ; mắt thấy vợ con cháu chắt, gia duyên tài sản, đều
không nên đắm trước ái nhiễm, thì làm việc nào và niệm nào cũng đều vì sự sanh tử, và
cảm giác như toàn thân đang đứng trong hầm lửa. Lúc chưa biết cách chân chánh niệm
Phật, thì niệm ái dục trong tâm chưa có thể xả bỏ. Vì niệm không thiết tha và chẳng biết
ái dục là chủ tể, nên chỉ niệm Phật ngoài da. Nếu như thế thì Phật chỉ nghe niệm, còn ái
dục thì lại tăng thêm. Lúc cảnh tình của vợ con hiển hiện, phải xoay nhìn vào tâm. Một
danh hiệu Phật có thể đối địch với ái dục, thì sẽ cắt đoạn được ái căn. Không cắt được ái
dục thì làm sao đoạn được sanh tử. Do tập khí của duyên ái trong bao đời đã chín mùi mà
nay chỉ mới bắt đầu niệm Phật, lại không thiết thật niệm Phật, thì không thể niệm Phật
được đắc lực được. Nếu trước mắt không thể kềm chế được ái cảnh thì khi lâm chungquyết không thể tự làm chủ được. Do đó, khuyên người niệm Phật, việc trước nhất là phải
biết vì sanh tử mà thiết tha niệm Phật, tức là phải có tâm thiết tha cắt đoạn sanh tử, và
phải dùng niệm niệm mà đốn đoạn cội gốc sanh tử. Lúc niệm niệm đều dứt được sanh tử
thì cần gì đợi đến ngày ba mươi tháng Chạp ! Đợi đến lúc đó thì đã trễ lắm rồi ! Thế nên,
bảo rằng trước mắt luôn nghĩ đến sanh tử đại sự. Trước mắt liễu được sanh tử vốn không.
Niệm niệm thiết thật, thì đao đao đều chặt đứt. Dụng tâm như thế, nếu không vượt khỏi
sanh tử thì chư Phật bị đoạ vì tội vọng ngữ ! Do đó, người xuất gia kẻ tại gia, biết rõ tâm
sanh tử tức là biết rõ thời tiết xuất ly sanh tử, sao còn diệu pháp nào khác nữa !
---o0o---
Bài 5 : KHAI THỊ VỀ TỊNH ĐỘ.
Đa số các sĩ phu trong đời cận thế đều hướng về tai miệng, phóng túng đàm luận
ngọn ngành, cho việc tham thiền là hướng thượng nên bài bác không tu theo Tịnh Độ.
Cho đến những đệ tử của tôi, đa phần tập tành theo ngôn cú của chư cổ đức, chỉ có miệnglưỡi lanh lợi, và luôn hướng theo danh tướng, nên Phật Pháp ngày càng suy vi. Không
những thực hành chẳng được gì mà lại phỉ báng kinh điển Đại thừa, tức cho là văn tự
danh tướng, không muốn thân cận tu học. Gặp những kẻ tri thức u mê thì làm sao tránh
được những ngọn sóng cuồng ! Thật rất đáng sợ ! Đa số họ không hiểu thâm sâu về thừa
giáo, và không biết rõ việc độ sanh của chư Phật, vì phương tiện nên mới thuyết ra nhiều
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
pháp môn, nhưng xoay về cội nguồn thì không hai. Thế nhân phải biết môn hạ của chư tổ
sư, dùng việc ngộ đạo làm tối thượng, và ngộ tâm làm bổn ý. Muốn ra khỏi sanh tử, niệm
Phật chẳng phải là pháp xuất ly sanh tử hay sao ? Tham thiền đa số khó ra khỏi sanh tử,
mà niệm Phật thì chắc chắn sẽ xuất khỏi sanh tử, không nghi ngờ chi. Tham thiền phải rời
bỏ vọng tưởng. Niệm Phật thì chuyên giữ tại tư tưởng.
Chúng sanh đã lâu nhiễm sâu trong vọng tưởng, nên muốn xa rời chúng lại rất khó.
Nếu chuyển được vọng niệm ô uế thành vọng niệm thanh tịnh thì đó là cách dùng độc trị
độc, tức là pháp hoán đổi. Tham cứu thiền rất khó ngộ, mà niệm Phật lại dễ thành. Nếu
tâm thiết tha vì sanh tử, dùng tâm tham cứu mà niệm Phật, thì sao lo gì một đời không cắt
được sanh tử ! Đối với pháp môn Tịnh Độ, thế nhân dùng mắt mà cân nhắc đo lường, nào
biết đó là pháp môn chân thật vi diệu. Hãy xem rõ Ngài Phổ Hiền, dùng pháp giới làmthân, và tu mười đại hạnh nguyện, mà chỉ muốn quy về Tịnh Độ. Tổ sư Mã Minh truyền
tâm ấn cho chư Tổ sư, và dùng hàng trăm bộ kinh Đại thừa để viết bộ Luận Khởi Tín, mà
cuối cùng lại quy kết về Tây Phương. Chư Tổ sư truyền đăng ở cõi Đông Độ, tuy không
nói rõ về Tịnh Độ, nhưng lúc đã ngộ tâm tức đã xuất sanh tử ; các Ngài nếu không quy về
Tịnh Độ, thì há trở thành đoạn diệt sao !
Ngài Vĩnh Minh hiểu thấu ý nghĩa hết cả đại tạng kinh chỉ quy về nhất tâm, lại cũng
quy hướng về Tịnh Độ. Vào lúc Thiền tông cực thạnh, mà Ngài Trung Phong cũng cựclực tán dương cõi Tây Phương. Huống nữa pháp môn này, do đức Bổn sư Thích Ca vô
vấn tự thuyết, và mười phương chư Phật đồng tán dương ! Há chư Phật, chư Bồ-tát, chư
đại Tổ sư lại nói những lời vọng đàm như chúng sanh nghiệp cấu hiện thời sao ! Tịnh
Công trung niên xả ái mà xuất gia. Đầu tiên theo đại sư Tử Bá tham thiền, và thọ yếu chỉ
thiền cơ. Ngày nay đối với pháp môn Tịnh Độ, nguyện tu mà chưa quyết chắc. Vì vậy lão
nhân bảo rằng việc này không cần phải hỏi người khác, chỉ xem tự mình có vì việc sanh
tử hay không. Tâm phải vì sự sanh tử, như cứu lửa cháy đầu, và chí muốn giải quyết cho
xong trong một đời. Ví dụ, một kể bệnh nặng chắc phải chết. Có người tìm được phương
thuốc có thể cứu chữa. Nếu người này dùng thang thuốc này, thì có thể cải tử hoàn sanh.
Song, chỉ do người bệnh có tâm quả quyết, tin phục vào thang thuốc kia. Không cần phải
tìm thang thuốc khác, mà chỉ dùng thang thuốc này, thì tức khắc xuất hạn mồ hôi, rồi bèn
sống lại. Lúc ấy mới tinh diệu dụng của thang thuốc này. Thế nên, phải tin chắc pháp
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
môn này, mà chuyên tâm nhất chí. Đến lúc lâm chung, bèn tự biết cõi đó. Hà tất phải hỏi
người khác ! Hãy cố gắng mà hành. Quyết chẳng để người khác lừa !
---o0o---
Bài 6 : PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ.
Thiền nhân Hải Dương từ xa đến Lô Sơn, cầu thọ giới pháp, được pháp danh là
Thâm Ngu, rồi dâng hoa cầu pháp : “Đệ tử phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Thế nên, cùng giao kết với cả ngàn pháp lữ, đồng hội tụ một nơi, chuyên tu tịnh nghiệp.
Xin nguyện từ bi, dạy bảo pháp yếu”. Lão nhân vì đó mà bảo rằng Phật thuyết pháp tu
hành xuất sanh tử, phương tiện tuy có nhiều môn, mà chỉ có pháp môn niệm Phật cầu
vãng sanh là thẳng tắt. Hoa Nghiêm , Pháp Hoa, pháp môn viên diệu, Phổ Hiền diệu
hạnh, rốt ráo chỉ quy Tịnh Độ. Mã Minh, Long Thọ, cùng chư đại tổ sư ở cõi này như
Vĩnh Minh, Trung Phong, đều cực lực chủ trương pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này do
Phật tự thuyết, vốn bao trùm ba căn, độ khắp bốn chúng, chẳng phải vì kẻ hạ căn mà
quyền thiết.
Kinh nói : - Nếu muốn tịnh cõi Phật, thì phải thanh tịnh tự tâm. Ngày nay tu hành
tịnh nghiệp, thì phải lấy việc thanh tịnh thân làm gốc. Muốn tịnh tự tâm, trước nhất là
phải thanh tịnh giới căn. Vì mười việc ác của thân miệng ý vốn là nhân khổ của ba đườngác, nên nay phải cần trì giới, khiến cho ba nghiệp được thanh tịnh, tức tâm tự tịnh. Nếu
thân không giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo thì thân nghiệp thanh tịnh. Nếu miệng không
nói láo, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt thì khẩu nghiệp thanh tịnh. Nếu
ý không tham lam, sân hận, si mê, thì ý nghiệp thanh tịnh. Mười việc ác này mãi đoạn
dứt, ba nghiệp trong sạch, đó là điều thiết yếu của sự tịnh tâm. Trong lúc thanh tịnh thân
tâm, phải dấy khởi tâm chán khổ nơi cõi Ta Bà, mà phát nguyện vãng sanh về miền an
dưỡng ; lập chánh hạnh niệm Phật ; tâm niệm Phật phải thiết tha vì sanh tử. Đầu tiên,
ngoài đoạn ngoại duyên. Kế đến, bên trong đơn độc đề khởi nhất niệm. Dùng một câu A
Di Đà Phật làm mạng căn. Niệm niệm không quên, tâm tâm chẳng đoạn. Trong mười hai
thời, đi đứng nằm ngồi, cử động gân cốt, xoay mình cúi ngửa, động tịnh đều quên. Trong
mọi thời, không u mê không ngu muội, lại chẳng làm duyên khác. Dụng tâm như thế, lâu
ngày thuần thục, cho đến trong mộng, cũng không quên mất ; thức ngủ như nhau, tức là
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
công phu liên tục ; dệt thành một phiến, tức là lúc công phu đắc lực. Nếu niệm đến nhất
tâm bất loạn, thì lúc lâm chung, cảnh giới Tịnh Độ hiện ra trước mắt ; tự nhiên không bị
sanh tử trói giữ, bèn cảm Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn.
Đây là việc chứng nghiệm quyết định vãng sanh. Nhất tâm chuyên niệm đó là chánhhạnh, rồi phải dùng tư lương quán tưởng để xem xét rõ. Xưa kia, Phật vì hoàng hậu Vi Đề
Hy mà thuyết ra mười sáu cách quán vi diệu, nên giải quyết xong một đời. Hiện nay
Quán Kinh vẫn còn tồn tại. Lúc kết duyên với các tịnh lữ mà đồng tham học, thì dẫu ai có
chí nguyện gì, nơi mười sáu cách quán, hãy tuỳ duyên mà chọn một : Hoặc chỉ quán Phật
cùng diệu tướng của Bồ-tát, hoặc tuỳ ý mà quán tưởng cảnh giới cõi Tịnh Độ, giống như
kinh Di Đà thuyết về liên hoa bảo địa. Nếu quán tưởng rõ ràng, tức trong mười hai thời,
hiện tiền như sống tại cõi Tịnh Độ. Đi đứng nằm ngồi, nhắm mắt mở mắt, như tại trướcmặt. Nếu quán tưởng thành tựu như thế, thì lúc lâm chung, nhất niệm bèn vãng sanh. Thế
nên bảo rằng sanh tức quyết định sanh, mà đi thật chẳng phải đi. Đây là ý chỉ vi diệu về
lý duy tâm Tịnh Độ. Dụng công như thế, cùng tinh nghiêm hành trì giới hạnh, thì sáu căn
cùng tâm địa được thanh tịnh, và mãi đoạn trừ ác nghiệp phiền não. Quán niệm tương
tục, thì diệu hạnh dễ dàng thành tựu. Hạt nhân chân chánh vãng sanh qua cõi Tịnh Độ
không ngoài cách này. Nếu xưng niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ, mà không trì tịnh
giới, phiền não không thể đoạn trừ, tâm địa vẫn còn cấu uế, thì Phật bảo người này, mãi
chẳng thành tựu.
Vì vậy hành nhân, việc thiết yếu bậc nhất là phải trì giới làm căn bổn ; phát nguyện
làm nhân duyên phụ trợ ; niệm Phật và quán tưởng làm chánh hạnh. Tu hành như thế, nếu
không được vãng sanh, thì Phật sẽ đoạ vọng ngữ ! ..
---o0o---
Bài 7 : KHAI THỊ CHO THỊ GIẢ ĐẲNG NGU.Tự tâm niệm Phật, niệm Phật niệm tâm ; tâm và Phật không hai ; niệm niệm nếu
không trụ, năng niệm không thể lập, và sở niệm tánh không ; tánh không vốn tịch tĩnh.
Năng và sở đều mất, gọi là tức tâm thành tự tánh Phật. Một niệm quên mất, bèn đoạ vào
nghiệp ma.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Đức Phật thuyết pháp dùng nhất tâm làm tông chỉ. Vô luận trăm ngàn pháp môn,
chẳng ngoài hạnh liễu ngộ nhất tâm. Quan trọng nhất chỉ là tham thiền và niệm Phật. Nơi
đây, chư tổ sáng lập pháp tham thiền liễu ngộ chân tâm. Pháp môn niệm Phật, do Phật
khai thị chung cho chư Bồ-tát tam hiền thập địa, dùng niệm Phật làm hạnh thiết yếu thành
Phật. Bồ-tát thập địa đã chứng chơn như, chẳng chưa ngộ sao ? Các ngài đều dạy rằng
không rời niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng.
Thiện Tài đồng tử tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức. Vị thứ nhất là Tỳ kheo
Đức Vân. Ngài dạy Thiện Tài đồng tử môn niệm Phật giải thoát. Đến gần cuối, tham kiến
Phổ Hiền bèn nhập vào biển diệu giác của thiện tri thức, rồi hồi hướng qua cõi Tây
Phương Tịnh Độ ; Thiện Tài đồng tử bảo rằng tự thân trông thấy đức Như Lai vô lượng
quang, hiện ra trước mắt, thọ ký cho đạo Bồ Đề. Do được thấy như thế, bèn thành nhất
thừa tối thượng của kinh Hoa Nghiêm, mà xưng tu pháp giới hạnh, trước sau không rời
niệm Phật. Thập địa thánh nhân đã chứng chân như, cũng chẳng bỏ niệm Phật, mà vọng
nhân đời mạt pháp lại huỷ báng cho là hạnh thấp kém. Sao lại nghi rằng tham thiền cùng
niệm Phật là khác nhau ? Đa văn khiếm khuyết, không biết ý Phật, vọng sanh phân biệt.
Ước theo duy tâm tịnh độ, tâm tịnh thì cõi nước tịnh. Lúc tham thiền chưa liễu ngộ, ngoài
niệm Phật ra, chẳng có pháp nào để thanh tịnh tự tâm ; một khi tâm được thanh tịnh, thì
sẽ liễu ngộ chân tâm. Bồ Tát đã ngộ, mà không xả bỏ sự niệm Phật. Thế nên, ngoài việc
niệm Phật ra, không thể thành chánh giác. Phải biết chư tổ, không dùng niệm Phật mà
liễu ngộ chân tâm. Nếu niệm Phật đến độ nhất tâm bất loạn, thì phiền não tiêu trừ, tự tâm
sáng soi, tức gọi là ngộ. Niệm Phật như thế, tức là tham thiền. Từ xưa chư tổ đều không
xả bỏ cõi Tịnh Độ như thế. Niệm Phật là tham thiền. Tham thiền cũng sanh cõi Tịnh Độ.
Đây là việc của người xưa và nay, chớ có nghi ngờ. Lời này phá tận tiêu tan kiến chấp phân biệt Thiền và Tịnh. Chư Phật xuất thế cũng không thuyết khác những lời này. Nếu
bỏ qua lời này mà sanh vọng nghị luận, tức là lời của ma, chứ chẳng phải Phật Pháp.
---o0o---
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Bài 9 : KHAI THỊ CHO NHAN TRUNG TIÊN TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ.
Cư sĩ tại gia, thọ năm món dục lạc nồng hậu, cội rễ phiền não sâu dày. Nơi việc hằng
ngày thường mê muội trước mắt, như nước sôi sùng sục. Vừa an được một niệm trong
sạch, bèn phát tâm tu hành, nhưng khó bề hạ thủ công phu. Người thông minh xem kinhgiáo ; bất quá chỉ học theo đường tri kiến, rồi đàm luận lăng xăng, chẳng có thật dụng.
Họ lại xem việc niệm Phật rất ư tầm thường, nên chẳng quyết tâm tu ; hoặc tuy muốn
nhưng lại không đắc lực, và chỉ khởi vọng niệm thô phù. Tập khí trong tạng thức ẩn tàng
lưu chuyển, hoàn toàn không thể thấy được, nên dẫu có niệm Phật nhưng không thể được
chánh niệm. Niệm Phật nếu đắc lực, sao còn cầu những việc huyền diệu khác nữa ! Nghe
có pháp nhất đẳng thâm cao lạ lùng nên ngưỡng mộ. Nghe tham thiền đốn ngộ, tự phụ
cho là bậc thượng căn, mà không màng tu hành, vì sợ lạc vào thứ lớp. Trên cơ duyên của
các bậc cổ đức, ghi nhớ làm nơi hợp đầu ngữ ; mở miệng đàm luận lăng xăng ; chỉ vui
thích vẻ vời, rồi cho đó là cơ phong thiền môn. Những kẻ này thật rất đáng thương !
Nếu chân thật phát tâm vì sợ sanh tử, mà chưa có thể nhập vào môn trì chú, thì trước
tiên phải dùng tâm khẳng khái thiết thực, thì mới dễ dàng đắc được. Nhan tiên sanh có
phước trì chú, lại vấn hỏi cách tu hành thiết yếu, nên tôi mới khai thị những lời này.
Người xem chớ cho là đạo lý, vì đạo lý này làm lầm ngộ biết bao người !
---o0o---
Bài 10 : KHAI THỊ CHO TỪ TỊNH CHI.
Phật dạy rằng pháp ở trên và dưới ba cõi, chỉ do một tâm tạo tác. Trên ba cõi, tức
bốn thánh vị xuất thế gian, là Phật, Bồ-tát , Thanh Văn, Duyên Giác. Dưới ba cõi, tức sáu
đường phàm phu, là trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và A Tu La. Ba đường ác
cũng nằm trong mười pháp giới. Tất cả thánh phàm, nhân quả thiện ác, chánh báo y báo
trang nghiêm, đều do một tâm tạo tác. Tâm này không khác với tâm liễu tri phân biệtthường ngày của chúng ta.
Thế nên, tất cả đều do tâm này, mà không có gì khác tạo ra. Hiện tiền, trong cuộc
sống hằng ngày, niệm niệm tạo nghiệp, nên lưu chuyển trong mười pháp giới. Nếu một
niệm do tham sân si mà tạo ra mười việc ác (thân ba : giết hại, ăn căp, tà dâm ; tâm ba :
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Bà đau khổ, nên gọi cõi này là kham nhẫn. Kẻ ngu mê, lấy khổ làm vui, chuyên thêm
tham ái, lại tăng gốc khổ, mà không biết sự thiết yếu của việc xuất thế ra biển khổ. Thực
là điên đảo ! Thế nhân nếu có một niệm, biết là vô thường, khổ, không, mà phát tâm cầu
xuất ly, tức là người đại trí huệ. Lại nữa, nếu có một niệm phản tỉnh, phát khởi tâm chán
khổ, tức là bước trên con đường xuất ra khỏi khổ đau. Ngoài ra, nếu có một niệm nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, tức là có căn bản thành Phật.
Phật thuyết giới pháp, thiết yếu là dạy người ngưng ác hành thiện. Ác ngưng tức tâm
tịnh. Tu thiện tức khổ diệt hết. Khổ diệt hết tức tăng phước. Tâm tịnh tức làm nhân cho
cõi tịnh. Khổ diệt hết tức làm gốc cho cõi Cực Lạc . Tăng phước tức làm quả cho thường
lạc. Thế nên, biết rõ rằng một niệm phát khởi tâm thọ giới, tức là các việc khổ có thể
đoạn trừ ; các việc phước lành có thể hội tụ ; sanh tử có thể ra khỏi ; cõi Tịnh Độ có thểvãng sanh. Tất cả đều do từ một niệm phát khởi lúc đầu tiên làm nhân địa.
Cư sĩ hôm nay đã biết rõ việc này mà phát tâm, nên mọi việc làm đều là hạnh xuất
thế. Tuy chưa xuất gia, mà đã là Phật tử. Từ nay nếu dùng tâm trì giới và niệm Phật, để
tịnh trừ tập nhiễm xưa (tức tham sân si ái, bao loại phiền não) thì tâm địa sẽ được thanh
tịnh. Dùng tâm tịnh niệm Phật, và niệm niệm không quên, cùng tâm tâm chẳng đoạn, thì
ngay nơi công việc thường ngày, mọi việc đều là nhân Tịnh Độ. Bố thí các đồ vật, và tứ
sự cúng dường Tam Bảo, để làm tư lương trang nghiêm cõi Tịnh Độ. Vì vậy bảo đảmrằng tâm tịnh tức cõi Phật tịnh. Duy tâm tịnh độ, tự tánh Di Đà vốn không rời một niệm.
Đây là pháp hạnh chân thật, nên mới có pháp danh chân chánh là Phước Thường. Do
tâm tịnh bên trong, nên mới có hiệu là Tịnh Tâm. Nếu như cư sĩ tin chắc không nghi, sao
còn cầu Phật Pháp nào chi nữa ! Nếu không hằng làm những việc tầm thường ở thế gian,
thì trước mắt đạo tâm tự kiên cố, tín tâm ngày càng tăng trưởng. Trân trọng ! Trân trọng !
---o0o---
Bài 12 : BÀI TỰA VỀ TỊNH ĐỘ CHỈ QUY.
Chỉ quy Tịnh Độ : Chỉ tức ý chỉ tu hành ; quy tức quy về cõi Tịnh Độ. Đức Thế Tôn
nhiếp hoá quần sanh, thuyết ra bao loại pháp môn, phương tiện chẳng có một, mà pháp
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
yếu thuỷ chung vốn có hai tông tánh và tướng. Vì căn cơ có đại tiểu, nên giáo có thi thiết
đốn tiệm. Người sau phân hai môn thiền giáo. Giáo tức là nhiếp cả ba căn. Thiền tức là
đốn ngộ nhất tâm. Như cả Đại tạng kinh Đại Thừa, cùng một ngàn bảy trăm công án, thì
hướng về cái nào ! Pháp môn Tịnh Độ, bao trùm ba căn, đốn tiệm đều được cứu độ ;
không có căn cơ nào mà chẳng nhiếp thọ. Vì vậy bảo rằng siêu vượt ra ba cõi, đây là
pháp môn tối thắng nhất.
Từ trên chư tổ, dưới đến các bậc đại sĩ liễu ngộ chân tâm, chưa từng có ai không quy
hướng vào đó. Bồ-tát Long Thọ, Mã Minh, cực lực xiển dương, tán thán. Có người bảo
rằng pháp môn này chỉ vì những người căn cơ trung hạ, tức là họ không biết yếu chỉ Tịnh
Độ. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới, cùng chánh báo y báo, tuy có khác
biệt về sự hơn kém tịnh uế, mà đều do từ một tâm cảm hiện ra. Vì vậy, bảo rằng tâm tịnhtức cõi nước tịnh, nên gọi duy tâm tịnh độ ; cõi tịnh độ này không ngoài tâm. Thanh tịnh
tâm do nhất tâm bất loạn. Các vị chưa liễu ngộ được chân tâm, sao không muốn an cư nơi
Tịnh Độ !
Thiền gia thượng thượng căn, chưa từng có ai không quy về tịnh độ. Các bậc trung
hạ căn, tu trì tịnh giới, chuyên tâm chú niệm, quán niệm tương tục, lâm chung sẽ được
vãng sanh. Tuy có tướng đến đi, mà tướng hảo Di Đà, đài hoa rừng báu, thật do tự tâm
cảm hiện ra. Ví như những việc trong mộng, chẳng từ ngoài vào. Những kẻ ngu phu ngu phụ, thường tu thập thiện, tinh trì năm giới, chuyên tâm niệm Phật, lúc sắp lâm chung, tất
được vãng sanh. Đây là nhờ Phật lực gia trì, và hành nhân niệm tưởng được tăng ích thù
thắng. Những niệm tưởng thù thắng kia do đại nguyện mà có. Nguyện cùng niệm giao
tiếp, và tự tâm cùng Phật thầm mặc tương ưng. Tuy cảnh tịnh độ chưa hiện, mà công phu
vãng sanh đã thành, thật do lực của tự tâm thầm cảm nên, mà chẳng từ ngoài vào.
Những kẻ thường gieo mười điều ác, thì lúc lâm chung sẽ bị nghiệp lôi kéo, và bao
việc khổ trong địa ngục hiện ra trước mắt. Vì khổ quá bức bách, nên mới có tâm thiết tha
muốn thoát khổ. Tâm này cộng với ý cùng cực khổ não mà thành niệm lực, nên khởi tâm
thiết tha sám hối. Tâm sám hối đã thiết tha, thì ngay nơi ấy toàn thể ý niệm chuyển biến,
nên trong một niệm, bèn tương ưng với chư Phật. Nhờ Phật lực gia trì, cảm ứng, khiến
núi đao hoá thành rừng châu báu, và vạc lửa biến thành ao sen, nên những kẻ ác này cũng
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Bài 13 : QUY CHẾ NIỆM PHẬT TRONG MƯỜI HAI THỜI TẠI CHÙAHỒ TÂM.
Phật dạy rằng sự sanh tử của chúng sanh, cứ tương tục luân chuyển trong bao số kiếpmà không ngừng nghỉ, chỉ vì niệm niệm vọng tưởng phan duyên, chưa hề dứt đoạn. Vì
vọng tưởng không đoạn, nên sanh tử không cùng tận, rồi bị lôi kéo luân chuyển không
dừng. Phật thuyết bao phương pháp chế ngự tâm, đều là muốn bánh xe luân hồi dừng lại.
Pháp môn tuy nhiều, mà chúng sanh trần cấu nặng nề, tâm thức mê muội khó nhiếp nhập,
nên chỉ có pháp môn niệm Phật là thẳng tắt và cần yếu nhất. Thế nên bảo rằng nhớ Phật
niệm Phật, hiện tiền và tương lai, nhất định thấy Phật. Tất cả vọng kiến của chúng sanh
đều nương nơi sanh tử. Do đó, đơn độc chỉ có chánh kiến thấy được Phật là pháp xuấtkhỏi sanh tử. Do có lòng nhớ đến, nên mới thấy được chư Phật.
Lúc vọng niệm ngày đêm không gián đoạn, phải dùng niệm Phật để đoạn trừ chúng.
Đây là cách thức mà liên xã của ngài Huệ Viễn thường hành trong sáu thời khắc tại Lô
Sơn. Đương thời, trong liên xã có một trăm hai mươi người, mà chỉ có mười tám vị được
xưng là cao hiền, tức là những vị chân thật niệm Phật ; những vị còn lại đa số chưa đắc
được nhất tâm niệm Phật. Hiện nay, xem thấy người niệm Phật thường thuộc hàng mạt
phẩm. Sao không chân thật nhận biết !
Đời cận đại, người người thường lấy trâu núi làm hạnh niệm Phật, và lấy việc luyện
ma làm danh ; nghĩa là kềm chế quá cứng chắc. Tuy ngày đêm niệm Phật không gián
đoạn, nhưng chỉ trong ba mùa đông là thối thất. Người người tu hành chẳng giống nhau.
Hiếm có ai tâm tu hành dài lâu. Tuy ngày đêm có bốn thời, mà tối đến lại hôn mê. Tu
hành thiếu sự liên tục ! Thật phí cho những lời cảnh tỉnh.
Nay pháp sư Phật Thạch Huyền Tân, phát tâm trong mười hai thời thường thưathỉnh. Pháp này phải liên tục tu trì. Trong động tịnh như lúc ăn uống rất khó niệm đến
nhất tâm. Nếu điều phục chừng mực, thì mới niệm thành thục được. Đối với quy chế xưa
nay, Pháp sư muốn thỉnh vấn. Lão nhân vì thế mà thiết lập quy chế, giá sự không phức
tạp, để nhân tâm tập trung, mà hành diệu hạnh vi mật. Những quy chế giáo điều này chỉ
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
là phụ trợ. Phàm kiến lập pháp hội niệm Phật, phải tuỳ theo người và tuỳ theo nguyện,
rộng hẹp không đồng. Nếu có nhiều người thì lập ra nhiều pháp đường. Nếu có ít người
thì chỉ cần lập một pháp đường. Song, không luận là người nhiều ít, phải phân thành sáu
nhóm ; ngày đêm mỗi nhóm hành hai thời, thay phiên dâng hương ; lúc ra ngoài thì lễ bái
tụng kinh, hành đạo sám hối ; những thời gian còn lại đều ngồi tĩnh toạ, rồi nương theo
âm thanh mà mặc niệm, hoặc tập môn quán tưởng ; người nào thích gì thì tuỳ theo đó mà
hành. Nơi đây phải tĩnh lặng nhiều mà động ít ; không khẩn trương không loạn động, và
tiếng niệm Phật không gián đoạn, thì vọng tưởng không thể sanh khởi, như vừa kêu gọi ;
không mê không tán loạn ; lúc nhập vào chánh niệm thì động tịnh như nhau ; mình người
không hai không khác ; thức ngủ thường tỉnh giác. Được như thế, thì không cần rời khỏi
toà ngồi, bèn thấy được Phật A Di Đà. Đây chính là diệu hạnh như ý bậc nhất. Lúc ăn
uống cũng phải như pháp mà điều phục. Lúc làm việc, trong ngoài đều nhất như, tức lànhân và ngã đều mất, thị phi đều lặng. Đạo tràng vắng lặng tịch tĩnh, cũng chưa vi diệu
bằng như thế.
Lão nhân suy nghĩ sâu xa về pháp này, tự thẹn gót chân chưa vững, nên vẫn chưa
toại ý, nhưng đặc biệt nói ra những lời này. Đa phần tâm niệm chỉ rong ruỗi chạy đó đây.
Ngày nào thấy nghe được chúng, thì nơi nơi đều an lạc, rồi đem tông Tịnh Độ phổ biến
khắp nơi. Đây là niềm hy vọng của lão nhân.
---o0o---
Bài 14 : THƯ ĐÁP ĐỨC VƯƠNG.
Thừa Đại Vương luận sử, gởi thư đến hỏi sơn tăng pháp môn tu hành thẳng tắt. Xin
đáp : Ngài đã có khả năng trì giới không giết hại, và đã trì trai trong ba năm, mà niệm
Phật sao vẫn còn tánh nóng nảy, nên nay hỏi rằng còn có pháp nào để tu trì, hầu mong tới
lúc lâm chung được an lạc, và đời sau không mê mờ. Đây là Đại Vương kiếp xưa đã tích
tập căn lành. Bát Nhã thâm sâu, nên đời nay mới tiếp tục tu hành, lại được địa vị tôn quý
ở xứ này ; chẳng mê muội tâm niệm xưa, lại chân thật tha thiết tham cầu yếu chỉ Phật
Pháp. Sơn tăng tuy ngu dốt hạ liệt, nhưng lại dám dùng những lời chân thật để đối đáp.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
làm công quả tăng ích lợi. Phải dùng niệm Phật làm chủ yếu. Mỗi sáng sớm thức dậy lễ
Phật, rồi tụng một quyển kinh A Di Đà, hoặc kinh Kim Cang ; lần chuỗi niệm danh hiệu
Phật A Di Đà, hoặc ba bốn ngàn lần, hoặc một trăm ngàn lần, xong bèn đối trước tượng
Phật mà hồi hướng công đức, phát nguyện vãng sanh qua cõi nước kia ; lời này tại trong
kinh Công Quả thuyết rõ ràng. Đấy là công quả vào buổi sáng, còn lúc buổi chiều cũng
nên hành như thế. Ngày ngày cứ định đặt công phu tu hành như vầy, mà không thiếu sót
bê trễ. Pháp này đã từng dạy chư cung nhân quyến thuộc trong hoàng cung. Nếu theo như
pháp mà thánh mẫu của thánh tông Nhân Hiếu thường hành. Pháp này cho đến ngày nay
trong hoàng cung cũng không bỏ phế, mà lại thường hành. Nếu vì đại sự lâm chung, thì
phải dụng công phu này, và phải thường chân thành tu hành thiết tha.
Mỗi ngày, trừ hai thời công quả, trong mười hai thời đều đơn độc khởi một âm thanhPhật A Di Đà nơi ngực, mà niệm niệm không quên, và tâm tâm chẳng u muội. Tất cả việc
đời đều không nghĩ đến, mà chỉ dùng một câu A Di Đà Phật này, làm mạng căn của
mình, quyết trì giữ mãi, không thể xả bỏ. Cho đến lúc ăn uống ngủ nghỉ, đi đứng nằm
ngồi, một âm thanh A Di Đà Phật thời thời luôn hiển hiện. Nếu gặp cảnh giới phiền não,
thuận nghịch vui buồn, và lúc tâm bất an, thì phải cố khởi âm thanh niệm Phật liên tục,
thì phiền não liền bị tiêu diệt. Tâm phiền não vốn là gốc khổ của sanh tử. Nay dùng niệm
Phật để tiêu diệt phiền não, tức là nơi mà Phật cứu độ khổ não sanh tử, chứ chẳng còn
pháp nào khác. Niệm Phật cho đến lúc làm chủ được phiền não, thì ngay trong mộng
cũng tự làm chủ được. Nếu trong mộng tự làm chủ được, thì ngay trong lúc bệnh khổ
cũng tự chủ được. Nếu trong lúc bệnh hoạn khổ đau mà tự chủ được, thì lúc lâm chung
tâm sáng suốt rõ ràng, bèn biết nơi sắp đến. Việc này hành không khó, chỉ thiết yếu là
tâm phải tha thiết vì sự sanh tử. Đơn độc nương tựa một câu niệm Phật, chớ hướng ra
ngoài nghĩ ngợi chuyện khác. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên đắc được đại tự tại an lạc, và
đắc được đại hoan hỷ thọ dụng, mà dục lạc thế gian không thể nào sánh bằng. Xin Đại
Vương hãy lưu ý đến pháp này, cùng chân thật tu hành. Bỏ qua pháp môn này, thì khôngcòn pháp môn thẳng tắt nào khác.
Lại nữa, quyết không thể nghe theo bọn tà kiến tà thuyết để bị mê hoặc. Ngoài ra,
nếu Đại Vương muốn biết nơi đi của mình vào lúc lâm chung, còn có một diệu pháp ; xin
hãy nhớ cho. Pháp này có thể dùng trong lúc niệm Phật ; nghĩa là thời thời thường tĩnh
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
mặc quán tưởng trước mặt có một đoá hoa sen lớn, hình dạng như bánh xe lớn, mà không
màng xanh đỏ trắng vàng. Quán tưởng hình dạng hoa sen phân minh rõ ràng, rồi lại tưởng
nghĩ thân mình đang ngồi an nhiên bất động trong hoa sen. Quán tưởng Phật phóng ánh
sáng chiếu đến thân mình. Lúc quán tưởng, không câu nệ đi đứng nằm ngồi, lại cũng
không màng năm tháng ngày giờ, chỉ cần thiết là cảnh quán phải rõ ràng tường tận ; mở
mắt nhắm mắt phải hằng tỉnh giác không mê ; cho đến trong mộng cũng thấy Phật A Di
Đà, cùng Quán Âm, Thế Chí đến, đồng ngồi trong hoa sen, như thấy rõ sự việc vào ban
ngày. Nếu quán tưởng thành tựu, thì đó là lúc cắt đứt được sanh tử. Đến lúc lâm chung,
hoa sen hiện ra trước mắt, và tự thấy thân mình ngồi trên hoa đó ; ngay lập tức, Phật A Di
Đà, Quán Âm, Thế Chí đồng đến tiếp dẫn. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh
qua thế giới Tây Phương Cực Lạc , rồi cư nơi địa vị bất thối, mãi chẳng trở lại thọ khổ
sanh tử. Một đời chân thật tu hành thì quyết sẽ có thật hiệu nghiệm. Pháp môn thẳng tắtnày, không phải chỉ nói suông, mà trong kinh điển, nơi nơi Phật đều khai thị tường tận.
Thế nên, bảo rằng tuy có nhiều cách thức tu hành, mà nếu bỏ niệm Phật A Di Đà, thì
không còn diệu pháp nào khác.
Nghe tâm Đại Vương, không cầu trường sanh, chỉ nguyện phút cuối được sáng suốt.
Trừ pháp này ra, không còn pháp nào nữa. Nếu sợ bịnh hoạn mà học cách điều hơi vận
khí, thì chẳng phải là pháp hay. Nếu không thể vận được khí, thì ngược lại sanh ra trọng
bịnh, khiến không thể cứu chữa. Chớ nên mê hoặc vì pháp thức này. Nếu là pháp niệm
Phật thì phải nhất quyết bước vào, còn những pháp khác chẳng màng lưu tâm tới. Xin Đại
Vương hãy chân thật lắng nghe những lời đó, chớ có hoài nghi !
Lại nữa, vào ngày hai mươi bảy tháng giêng, tăng Uẩn Chân phụng lệnh chỉ của Đại
Vương, đem thơ đến vấn hỏi. Sơn tăng đọc qua nhiều lần, nhận thấy Đại Vương muốn
nghiên cứu thể hội đại sự sanh tử, và muốn hiểu rõ căn tông tánh mạng, cùng liễu đạt chỉ
thú thiền giáo của Phật Tổ. Sơn tăng ngu muội, không dám vọng đàm, chỉ kính cẩn dùng
giáo điển để phân trần đối đáp rõ ràng những điều hỏi đó. Xin hãy xét rõ. Hỏi : Đạo của
ba thừa, nguồn gốc của tánh mạng, thuyết của thiền giáo, đạo của Đạt Ma, sao thường
bảo : “không có ngôn từ”, thì tâm địa nơi đâu mà dụng công, nhân sanh đến đâu, gì là hạ
lạc ? Lại bảo : “Màng chi đến việc có Phật hay không có Phật”. Lại bảo : “Trong một tĩnh
niệm, không nhân không ngã, ví như hư không”, ý chỉ như thế nào ? Xin hãy dùng ngôn
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
từ thượng trung hạ căn, niệm độ sanh của Phật Tổ, mà giải thích tường tận. Đáp : Tông
chỉ Phật giáo, chỉ lấy nhất tâm làm tông. Nguyên vì tâm này, bổn gốc vốn tròn đầy, sáng
soi bao là, thanh tịnh chẳng dính một hạt bụi. Trong đó vốn không có mê ngộ hay sanh
tử, và chẳng lập thánh phàm ; chúng sanh cùng Phật đồng một thể, không hai không khác.
Đây chính là việc mà ngài Đạt Ma từ Tây Vực sang, chỉ thẳng chơn tâm sẵn có, dùng làm
Thiền tông, nên đối đáp với vua Lương Võ Đế :
- Lãng nhiên vô thánh. Nếu đốn ngộ tâm này, thì sẽ cắt đứt đường sanh tử. Dẫu cho
người nào, chỉ trong một niệm mà đốn ngộ, thì được gọi là như Phật, không cần phải tu
chứng theo giai đoạn tiệm thứ của ba thừa giáo. Đây là mục đích con đường hướng
thượng của Thiền tông. Từ xưa chư tổ đã truyền, tức là chỉ tâm này, mà dùng làm tông
chỉ ; đó gọi là thiền. Tông này không lập văn tự, chỉ quý tại minh tâm kiến tánh. Bàn vềcách dụng công tiến tu, buổi ban đầu tổ Đạt Ma hỏi nhị tổ Huệ Khả :
- Ông thường làm gì ?
- Khất cầu Thầy dạy con phương pháp an tâm.
- Đem tâm ra đây để Ta an cho.
- Con tìm tâm mãi chẳng được.
Tổ Đạt Ma bèn ấn chứng :
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Không thể dùng lời nói mà đạt được tâm này. Đó là ý chỉ của Tây Lai. Nhị Tổ lại hỏi
:
- Còn phương tiện nào chăng ?
Ngoài ngưng các duyên, trong không cấp bách ; tâm như tường vách, mới có thể
nhập đạo. Đây chính là lời dạy tham thiền đầu tiên. Đạo của tổ Đạt Ma, chỉ như thế thôi.
Trừ tâm này ra, lại không còn pháp nào khác. Người sau tuy vào thiền đạo đã lâu, nhưng
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
vẫn chưa đốn ngộ, nên mới có thuyết tham thiền quán thoại đầu. Thoại đầu này không
hạn cuộc là ai, chỉ dùng công án của người xưa, giữ tại nơi ngực mà hạ nghi tình, và
chẳng dùng một chữ ; đó là công án ; thẳng đến chỗ phát xuất nghi tình, tức là tham cứu.
Lâu ngày tham cứu tới lui, rồi tâm địa bỗng nhiên khai mở, như tỉnh giác từ cơn đại
mộng ; gọi đó là ngộ.
Dùng tham cứu tức là dụng công. Lúc tham cứu chân chánh, trong tâm một niệm
chẳng sanh một vật, nên gọi là vô ngã vô nhân, đồng như hư không. Nơi ngộ tức là hạ
lạc, nghĩa là đã liễu ngộ được tự tâm, thì căn tình sanh tử trong bao kiếp, nhất tề bèn đốn
đoạn. Đã ngộ được tâm này rồi, thì còn thuyết gì là Phật và chúng sanh ! Thế nên, từ đó
bước ra ba cõi, rồi tuỳ ý qua lại mà độ chúng sanh, mãi mãi dứt các khổ não, không còn
bị sanh tử trói giữ ; đó gọi là Bồ-tát . Đây là tham thiền đến nơi hạ lạc (giải thoát) ; tánhmạng từ đó đoạn dứt. Nếu chưa ngộ tâm này, thì suốt đời luôn bị nghiệp thiện ác dẫn dắt,
luân chuyển trong sáu đường khổ não. Chưa đến nơi hạ lạc (giải thoát), thì gọi là biển
khổ sanh tử, không có bến bờ, chính là như thế.
Hỏi : Đạo của ba thừa là gì ?
Do Phật độ sanh, tuỳ theo căn cơ mà thuyết lập ra các pháp môn phương tiện quyền
xảo. Thuyết đại tạng kinh, cũng do ý đó. Pháp của nhất tâm (chúng sanh cùng Phật đồngchung bản thể) vốn không có thân tâm thế giới. Chỉ vì một niệm vọng động lúc ban sơ,
khiến mê mất tâm này, nên mới kết thành thân tâm huyễn vọng, tức nay là thân máu mủ
thịt thà của mọi người ; đó gọi là sắc thân. Tri giác suy nghĩ hôm nay, chính là vọng
tưởng. Tâm kinh thuyết năm uẩn vốn là nó. Năm uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nhục thân tức là sắc uẩn. Tâm tức là bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức. Thân tâm biết khổ
vui là thọ. Phân biệt tham cầu, niệm niệm không đoạn ngừng là tưởng. Tưởng này tương
tục không đoạn là hành. Chúng là tâm thức tri giác suy nghĩ. Thức tức là mạng căn. Lúc
chưa mê, chỉ gọi là tánh. Khi đã mê chân tâm, thì trở thành thân tâm huyễn vọng. Thức
đó giữ mất sắc thân, nên gọi là mạng, cũng là cội nguồn của tánh mạng. Phật vừa xuất
thế, chỉ dạy người liễu ngộ tâm này. Song, vì mê muội đã lâu, nên không thể liễu ngộ. Vì
vậy, Phật quyền thiết phương tiện ; đầu tiên dạy người nên biết thân này là gốc khổ. Khổ
đó do sự huân tập của tham sân si ái, phiền não mà sanh. Vì vậy, trước tiên con người
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
phải đoạn phiền não, thì mới có thể vượt qua khỏi khổ này. Các người trung căn hạ căn, y
theo đó mà tu hành, đoạn dứt phiền não, thì ra khỏi khổ não sanh tử. Đó gọi là Thanh
Văn, Duyên Giác, tức là hạ trung nhị thừa. Họ chỉ có khả năng tự độ, không thể độ người.
Họ chẳng biết ý chỉ chúng sanh đồng thể tánh, mà chỉ đắc được nửa phần, nên gọi là tiểu
thừa.
Người có tâm quảng đại vì chúng sanh, tức là có khả năng tự độ, lại độ được người ;
tự lợi lợi tha, rộng tu lục độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Hành
lục độ này, khiến tâm kia rộng lớn ; đó gọi là Bồ-tát, hay đại thừa, cũng gọi là thượng
thừa. Hai thừa pháp này, đại tạng kinh đều thuyết rành rẽ. Người nào liễu ngộ tâm này,
cuối cùng quy về tâm đó, được gọi là tối thượng thừa nhất thừa, hay là Phật thừa. Đây là
pháp cao siêu nhất trong thiền giáo.
Pháp tu hành của ba thừa rất nhiều, kể không thể hết. Song, nếu y một pháp mà tu
hành, thì đều có thể xuất ra khỏi sanh tử khổ não, chứ chẳng hạn cuộc vào cái nào. Lập ra
các loại phương tiện, chỉ vì muốn chúng sanh liễu ngộ tâm này. Chưa đến nơi hạ lạc, tức
là chưa liễu ngộ tâm này, thì vẫn còn ở trong biển khổ, và mãi mãi lưu chuyển tuỳ theo
nghiệp thiện ác. Nếu làm thiện, thì sanh vào loài trời người. Nếu từ tham sân si ái mà
gieo nghiệp ác thì đoạ vào ba đường ác, thọ khổ vô lượng. Trong ba thừa pháp này, nếu
tu học theo trung hạ thừa, thì đa số khi bị ái dục quyến rũ, liền tham đắm nơi thọ dụng,nên không thể cắt đứt tâm vọng tưởng. Người tu học theo thượng thừa, phần nhiều tuy có
thể hành bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, nhưng chưa có thể vẹn toàn, cũng
chưa có thể xuất ra khỏi sanh tử. Lo mãi tu pháp thiện, nên sanh lên trời. Phước báo tận
hết thì lại bị đoạ, như trục quay kéo nước giếng, cuối cùng không thể hạ lạc (giải thoát).
Nếu cầu ngộ sáng tâm này, để có thể liễu sanh tử, thì cần chi dùng những pháp xen kẻ
như trên.
Lại nữa, nếu không quyết tâm tham cứu, hay tuỳ tiện phóng túng tham cứu mà
không được thiện tri thức chỉ dạy, thì e rằng sẽ dụng tâm sai lầm, rồi trở lai bị đoạ vào tà
kiến, khiến một đời trôi qua vô ích. Tuy muốn cầu hạ lạc (giải thoát) mà không thể được.
Chỉ thọ phước báo trên trời, sao miễn khỏi luân hồi ! Thế nên, Phật đặc biệt thiết lập
phương tiện thẳng tắt, tức là pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu trong một đời
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
tu hành thành tựu pháp môn này, thì khi lâm chung, quyết định hạ lạc (sẽ được vãng
sanh). Nay vì Đại Vương mà giảng giải pháp môn Tịnh Độ.
Hỏi : Vì sao thiết lập pháp môn Tịnh Độ ?
Đáp : Phật thiết lập pháp ba thừa, cần yếu cho người tu hành, không phải chỉ một đời
mà có thể thành tựu. Vì sợ đoạ lạc vào trong biển khổ sanh tử, khó mà ra khỏi, nên hành
tham thiền, có thể trong một đời được liễu ngộ, xuất ra khỏi sanh tử. Song, vì vọng tưởng
rối rắm, tập khí sâu dày, nên không thể tham cứu. Nếu chưa ngộ sáng tâm này, thì không
miễn luân hồi. Thế nên, Phật mới đặc biệt thiết lập pháp môn cầu vãng sanh qua cõi Tây
Phương Cực Lạc. Không luận thượng trung hạ căn, cùng giàu sang nghèo hèn, nếu y
chiếu theo đó mà tu hành, thì trong một đời có thể thành tựu. Vì vậy, bảo rằng tuy có
nhiều đường lộ tu hành, mà không có pháp nào vi diệu thù thắng bằng pháp môn Tịnh
Độ.
Hiện tại, nơi cõi Ta Bà đầy dẫy các sự khổ nhọc, sao chúng ta lại trú ở ? Nào là khổ
vì sanh, già, bệnh, chết, cho đến khổ vì cầu không được, hay khổ vì oan gia tụ hội, bao
loại khổ não, kể không thể hết. Tuy là vương hầu tể tướng, được hưởng thọ sung sướng,
nhưng đều là nhân khổ. Những sự khổ cực này, khó mà tránh khỏi. Thế nên, Đức Phật
thuyết về cõi Tây Phương Tịnh Độ, mà gọi là Cực Lạc thế giới. Trong cõi nước đó, chỉthọ các sự sung sướng, nên gọi là Cực Lạc ; cõi nước kia không có sự dơ bẩn, nên gọi là
Tịnh Độ ; không có người nữ, và hoá sanh từ hoa sen, nên không có khổ vì sanh. Thọ
mạng dài vô cùng, nên không có khổ vì già, bệnh chết. Y phục thức ăn, tự nhiên sẵn có,
nên không khổ vì cầu chẳng được. Chư thượng thiện nhơn đồng tụ hội một nơi, nên
không khổ vì oan gia tụ hội. Cõi nước này dùng bảy loại châu báu để trang nghiêm, nên
không có đất đá ngói sỏi, hay phẩn tiểu bất tịnh. Bao loại thanh tịnh, hoàn toàn không
đồng với thế giới này. Những lời trong kinh A Di Đà, mỗi mỗi đều là sự thật.
Hôm nay, tất cả mọi người nên cầu sanh qua cõi nước đó, chứ không nên cầu pháp gì
khác. Nhất tâm niệm Phật dùng làm chánh hạnh, rồi ngày ngày hồi hướng ; dùng tâm
quán tưởng hoa sen, và thân ngồi trong đó. Đến lúc lâm chung, liền thấy Phật A Di Đà
phóng ánh hào quang tiếp dẫn ; thấy hoa sen lớn, vụt ra trước mắt ; thấy tự thân đang
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
ngồi trên hoa. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh. Đã vãng sanh qua cõi đó rồi,
thì mãi mãi không bị đoạ vào đường khổ sanh tử ; đó gọi là Bồ Tát Bất Thối Địa. Đây là
kết quả của một đời tu hành. Đời sau hạ lạc (giải thoát) rõ ràng như thế. Trừ pháp này ra,
nếu có nói cảnh giới gì khác vào lúc lâm chung, thì đó là tà thuyết. Nếu không niệm Phật,
thì đến lúc lâm chung, tuỳ theo nghiệp lành ác đã tạo, cảnh giới thiện ác bèn hiện bày, hối
hận cũng không kịp. Đây là pháp môn tu hành thẳng tắt quan trọng nhất, vốn do Đức Phật
đặc biệt quyền thiết phương tiện.
Lúc tu Tịnh Độ, không cần cầu ngộ sáng tâm tánh, chỉ chuyên dùng niệm Phật và
quán tưởng làm chánh hạnh ; lại bố thí, cúng dường chư tăng, tu bao công đức phước
điền, để trợ cho việc trang nghiêm cõi Phật. Trong tâm niệm Phật, tuy phát nguyện vãng
sanh, mà trước hết phải nên cắt đứt cội gốc sanh tử, thì mới mau có hiệu nghiệm.
Cội gốc sanh tử là gì ? Tức là tham đắm hưởng thọ vật chất trên thế gian, cùng sắc
đẹp, lời hay, vị ngọt, khẩu nồng. Tất cả đều là gốc khổ. Hiện nay, một hạng người tà có
đủ cả tâm sân hận phẫn nộ, cùng tâm chấp trước si ái, và đồng với tà ma ngoại đạo, tà
thuyết của tà sư, tà pháp của tà giáo, mà dám tự vọng xưng là hành giáo pháp Đạt Ma
Viên Đốn, cùng vọng lập giáo pháp Nam Dương Tịnh Không Vô Vi, Quy Gia. Mỗi mỗi
đều là lời nắn tạo của bọn tà nhân trong đời cận đại, khiến làm rối loạn mê hoặc luật pháp
của thế nhân. Người người phải lánh xa chúng. Cho đến những thuật toàn chân nắm bỏâm dương, thuyết nội đơn ngoại đơn, đều là tà pháp, không thể tin được, mà chỉ đơn
thuần tin chắc pháp môn niệm Phật. Mỗi ngày tụng kinh A Di Đà hai quyển. Niệm vài
ngàn danh hiệu Phật, hoặc không cần đếm số. Tâm tâm không quên danh hiệu Phật, tức là
thoại đầu, và cũng là căn gốc của tánh mạng. Lại nữa, không cần hỏi tánh mạng là gì, bản
lai diện mục là gì, cùng những thuyết ba hồn bảy vía nguyên thần là gì.
Nếu nhận thức sai lầm nơi luận đàm tông chỉ, thì không thể hạ lạc (giải thoát). Nếu
hỏi rằng cuộc đời này như thế nào, và đời kế ra sao, thì nên biết rằng đời này nếu tạo
nghiệp ác thì đời sau cảnh ác hiển hiện. Đời này niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì đời sau
cảnh giới Phật hiển bày. Toại ý theo sở cầu của mình, đó là việc tốt. Nếu không phải theo
đúng sở cầu của thiện tâm, thì đó là việc của tà ma ; quyết không thể tin lầm theo. Nếu
không, sẽ bị ngộ nhận trong trăm kiếp ngàn đời. Kinh Lăng Già và Lăng Nghiêm nói rõ
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
tường tận. Nếu nói lời rằng phàm có tướng đều là hư vọng, thì đó là lời của pháp môn
tham thiền. Đơn độc chỉ cầu chân tâm thanh tịnh, mà chẳng dung chứa một vật ; phàm có
tướng tức là hư vọng. Niệm Phật cầu vãng sanh qua cõi Tịnh Độ, vốn là do tâm tưởng mà
thành tựu.
Kinh nói - Nếu quán tưởng vi tế thì cõi nước sẽ thành. Tham thiền muốn đoạn vọng
tưởng thật khó. Thế nên, nay dùng tâm tưởng thanh tịnh để tẩy rửa tâm tưởng nhiễm uế.
Nếu hoa sen hiện trước mặt thì quán tưởng thành tựu, sao còn bị tướng vọng thôi thúc
nữa ! Các pháp môn tu hành chẳng đồng, nên không thể bàn luận tóm tắt.
Những lời đối đáp bên trên, mỗi mỗi đều y theo kinh giáo của Phật Tổ mà kiểm
nghiệm rõ ràng, chẳng phải là lời đàm luận hư vọng. Nếu tham thiền, tức là lấy việc minh
tâm kiến tánh làm chủ. Nếu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì không cần phải mong cầu
minh tâm kiến tánh, mà đơn thuần chỉ luôn niệm Phật, tức tự tâm niệm đều minh giác
sáng suốt. Nếu quên mất Phật, tức là chẳng giác. Nếu niệm đến độ trong mộng cũng có
thể niệm, tức là thường giác không mê. Hiện tại, nếu tâm này không mê, thì lúc lâm
chung tâm này cũng không u muội. Nơi tâm không u muội, tức là hạ lạc (được giải thoát).
Hiện tại, Hiền Vương vì quốc sự đa đoan, quyết không thể tham thiền, mà chỉ nên niệm
Phật là hay nhất. Không câu nệ trong động tịnh, tức là tại mọi nơi đều niệm được. Đạt
được nhất niệm không quên, thì đâu còn pháp vi diệu nào nữa ! Trước mặt vẫn biếtnhững việc thần thông, nhưng không thể cần cầu. Xưa kia, đức Phật không hứa khả cho
sự tu tập việc đó. Nếu được thành Phật, thì tự nhiên sẽ có thần thông, chẳng cần mong
cầu. Đây là việc mà quỷ thần biết trước, chứ con người không thể học được. Vì vậy,
không nên nghĩ tưởng đến những việc này. Nếu niệm Phật được nhất tâm bất loạn, thì khi
lâm chung, tự nhiên sẽ dự biết thời tiết ; đó là thành tựu niệm Phật tam muội. Những điều
quyển kinh Lăng Già làm tâm ấn. Tuy truyền ngoài giáo lý (giáo ngoại biệt truyền), mà
thật ra Thiền tông lại dùng giáo để ấn chứng, mới thấy đạo của Phật Tổ không hai. Công
phu tham cứu, cũng từ giáo mà ra.
Kinh Lăng Già thuyết : - Ngồi thiền tĩnh toạ trong núi rừng, bậc thượng trung hạ,nên xem xét tự tâm vọng tưởng lưu chú. Đây chính là bí quyết công phu của đức Thế
Tôn. Kinh lại nói : - Ý thức kia do tự tâm mà hiện ; tướng của cảnh giới tự tánh vốn là hư
vọng. Sanh tử mênh mông như biển cả. Nghiệp thức mù mờ vô tri. Những việc này, quyết
phải độ tận hết. Đây là lời dạy của đức Như Lai về diệu chỉ ngộ tâm. Kinh lại thuyết : -
Từ trên chư thánh, tương chuyển truyền thọ, đều dạy rằng vọng tưởng vốn vô tánh. Đó là
nơi biểu thị tâm ấn bí mật, và là chỗ ông già mặt vàng (đức Phật) dạy người nơi tham cứu
thiết yếu. Lại nữa, tổ Đạt Ma dạy ngài Huệ Khả (487-593) : - Ngoài ngưng các duyên,trong không cấp bách. Tâm như tường vách, thì mới có thể nhập đạo. Đây là lời dạy thiết
yếu đầu tiên của tổ Đạt Ma về phương pháp tham cứu. Lúc ngũ tổ Hoằng Nhẫn (602-674)
tầm cầu người kế thừa, vừa nghe Lục Tổ (638-713) nói : “Xưa nay không một vật”, nên
bèn truyền y bát cho. Đó là tông chỉ tương truyền tâm ấn.
Sau này, khi vào nam (tức Tào Khê) Lục Tổ lại dạy Huệ Minh : - Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác, chính khi đó, gì là bản lai diện mục của thượng toạ Minh ? Đó là bí quyết
tham cứu mà Lục Tổ dạy người trong buổi đầu. Đấy mới biết rằng từ trên Phật Tổ chỉ dạyngười liễu ngộ tự tâm, nhận ra tự tánh, mà chưa thuyết công án hay thoại đầu.
Sau đời tổ Hành Tư (660-740) ở Thanh Nguyên và tổ Hoài Nhượng (677-744) ở
Nam Nhạc, chư tổ sư tuỳ theo căn cơ mà khai thị ; phần nhiều đánh vào những chỗ nghi
ngờ, khiến người xoay đầu chuyển não để đến nơi ngơi nghỉ. Nếu có những kẻ chưa khai
ngộ, tuỳ theo thời tiết nhân duyên, các ngài giáng búa kềm. Đến đời tổ Hoàng Bá (776-
856), Ngài bắt đầu dạy người tham khán thoại đầu. Qua đời thiền sư Đại Huệ (1089-
1163), Ngài lại cực lực chủ trương dạy người tham khán công án của cổ nhân. Đây là
nắm mũi mà gọi là thoại đầu, vì muốn người thiết thật tỉnh ngộ.
Tại sao ? Chỉ vì trong ruộng thức thứ tám của các học nhân, chứa đầy bao chủng tử
tập khí xấu xa, mà niệm niệm đã huân tập sâu dầy, nên mãi mãi bị tương tục lưu chuyển.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Vọng tưởng không thể đoạn, thì chẳng làm gì được. Cứ nắm chặt một câu thoại đầu vô vị
vô nghĩa, hầu mong xả bỏ hết nội ngoại tâm cảnh vọng tưởng. Vì xả bỏ chưa nổi nên dạy
đề câu thoại đầu, như chặt dây nhợ ; vung một đao lên bèn đoạn dứt hết. Dòng ý thức
chảy tương tục đến đây bị cắt đứt.
Đó chính là quy tắc pháp thức ngoài ngưng muôn duyên, trong không cấp bách, tâm
như tường vách của tổ Đạt Ma. Nếu không dùng phương pháp đó mà hạ thủ công phu, thì
quyết không thể thấy được bản lai diện mục của mình. Không phải dạy quý vị tham tầm
suy nghĩ nơi ngôn ngữ của công án, như bàn thảo đàm luận về nghi tình. Thiền sư Đại
Huệ chuyên dạy người tham khán thoại đầu, như hạ độc thủ bằng tâm lạnh lùng. Ngài
dạy đại chúng:
- Tham thiền chỉ cần yếu bỏ hư tâm. Lấy hai chữ sanh tử dán lên trán như nhắc mình
đang bị thiếu nợ trăm nghìn đồng. Ngày đêm ba thời, lúc ăn cơm uống trà, đi đứng nằm
ngồi, cùng bạn bè đối đáp, nơi náo nhiệt chỗ tĩnh lặng, đều giữ câu thoại đầu. - Con chó
có Phật tánh không ? Tổ Triệu Châu (778-897) đáp : - Không. - Quý vị chỉ lo xem khán
thoại đầu tới lui, mãi đến lúc không còn mùi vị, như đánh vào tường vách. Cuối cùng,
như chuột chui vào sừng trâu, bao điên đảo đều đoạn dứt. Phải lập tâm lâu dài cùng tự
nhắc nhở tiến bước, thì tự nhiên hoa tâm khai sáng, chiếu khắp mười cõi quốc độ. Một
lần ngộ bèn ngộ tận cùng triệt để. Trên đây là búa chày tầm thường mà lão nhân Đại Huệhằng dùng. Ý chỉ này dạy quý vị dùng thoại đầu để cắt đứt ý căn, hạ vọng tưởng. Nơi
vọng tưởng lưu chú không hành, phải nhìn lại bản lai diện mục của mình, chứ không phải
dạy quý vị tham tầm suy nghĩ về công án, rồi cho là nghi tình, mà khởi tâm phân biệt
thảo luận.
Lại nữa, bảo rằng hoa tâm được khai sáng, tức là chẳng do từ người ngoài mà được.
Đó là mỗi mỗi lời chỉ dạy của Phật Tổ, răn nhắc quý vị phải tham cứu chính mình, chứ
không tìm kiếm diệu ngữ của người khác. Ngày nay tham thiền tạo công phu, người
người đều bảo tham khán thoại đầu, phát khởi nghi tình, mà không biết hướng vào gốc để
tham cứu, cứ lo tầm cầu trên thoại đầu. Cầu đến cầu lui, rồi chợt loé ra một tia sáng, bèn
bảo là đã liễu ngộ, liền thuyết kệ trình câu cú. Vì cho là rất hiếm được, nên nghĩ rằng đã
đắc đạo, mà không biết hoàn toàn đoạ trong lưới của vọng tưởng tri kiến. Tham thiền như
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
thế, có phải là làm cho mắt của người hậu thế bị mù loà chăng ? Những kẻ thiếu niên
ngày nay, ngồi bồ đoàn chưa vững, mà dám xưng ngộ đạo. Nói càn nói bậy, đùa giỡn với
con quỷ tri kiến ; xem việc tham thiền như món đồ chơi. Khi cơ phong chợt vụt lên, thì
tưởng rằng dùng ý kệ đó để đối đáp với cổ nhân. Nếu ngộ đạo quá dễ dàng như người đời
nay, thì người xưa chắc đã bất tài hết rồi. Ngài Trương Khánh ngồi rách cả bảy chiếc bồ
đoàn. Triệu Châu trong ba mươi năm không dụng tâm tạp loạn. Nếu dựa vào dữ kiện này,
thì căn tánh của người xưa chắc rất đần độn, và chắc cũng không xứng để cầm đôi giày
cỏ của người đời nay. Cứ mãi tăng thượng mạng khinh người, và chưa được mà tự bảo đã
được. Thật rất đáng sợ.
Thuở xưa, khi Thiền tông thạnh hành, nơi nơi đều có các bậc minh nhãn thiện tri
thức. Thiên hạ đầy dẫy những kẻ tham cứu thiền cơ, cho đến nơi đây cũng còn khai phát,thì hà huống bảo rằng không có thiền. Thật ra, chỉ vì hiếm tìm được thiện tri thức. Ngày
nay nhà thiền vắng vẻ hoang tàn đã lâu. Đôi khi, có nhiều người phát tâm tham cứu, rồi
may mắn gặp được thiện tri thức xem xét huyền cơ, tuỳ theo đương tình mà ấn chứng.
Song, những học nhân còn tâm thức thô thiển, tự cho rằng đã đạt đạo. Lại nữa, họ không
tin thánh giáo của Như Lai, chẳng tầm cầu đường lộ chân chánh, chỉ u mê tu hành, tức
lấy dấu ấn rẻ mạt mà cho là chân thật, nào biết tự mình lầm lạc và kéo người khác lạc
theo. Có phải đáng sợ lắm không ! Y cứ theo quyển Truyền Đăng Lục, có rất nhiều vị tể
quan và cư sĩ đạt đạo. Song, người trong trần lao vào thời nay, giới thô không giữ, lại xúc
loạn vọng tưởng, ỷ mình thông minh. Vừa xem qua pháp tắc cơ duyên của người xưa,
mỗi mỗi đều tự phụ, cho mình là bậc thượng thượng căn, rồi ganh tỵ cơ phong, cũng tự
bảo là đã ngộ đạo. Kẻ mù dẫn đoàn người mù, tệ hại đến thế !
Ngày nay, lão nhân đề khởi tôn trọng nơi dụng công phu chân chánh thiết thật của
Phật Tổ, để cùng mọi người thương lượng. Các bậc cao minh đạt sĩ, mỗi người hãy tự sửa
mình chân chánh.
---o0o---
Bài 16 : KHAI THỊ CHO TIÊU HUYỀN ĐOÀN.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Tâm thể của chúng ta, xưa nay vốn tròn đầy trong sáng. Hiện tiền không thể đốn ngộ
hay đắc được thọ dụng, đều vì từ vô lượng kiếp đến nay, do tham sân si ái cùng bao loại
phiền não chướng ngại che lấp tự tâm. Thế nên, không thể dụng công phu tiệm tu ít oi.
Ngài Quy Sơn bảo : - Học nhân nếu nơi một niệm mà đốn ngộ tự tâm, rồi lại dùng sở ngộ đó, tịnh trừ nghiệp thức lưu chuyển trong hiện tại ; đó mới gọi là tu, chứ chẳng có
cách nào khác.
Nếu có học nhân vì cầu đốn ngộ, mà cho rằng không có công phu nào để dụng, đấy
là do tập khí tiềm ẩn thâm sâu, vừa gặp cảnh bèn phát khởi, nên mới lưu nhập vào ma
giới dài lâu. Vã lại, công phu tiệm tu, chẳng có thứ lớp ; trong nhật dụng thường ngày,
hướng vào nơi tâm chưa khởi động niệm, lập định vững chân, phản quán chiếu soi vào
trong. Nơi một niệm vừa khởi, bèn thẩm xét niệm đó, từ đâu phát ra. Truy cứu đến nơi
nhất niệm vừa sanh xuất, liền nhận rõ nó vốn vô tánh, thì tất cả vọng tưởng tình lự đều
ngưng lập tức, như nước chảy băng tan. Song, những kẻ quên tâm mình, không phát lực
dõng mãnh, và không thể đoạn dứt yết hầu, chẳng giác tâm tương tục, thì mãi bị lưu
chuyển mà không biết xoay về.
---o0o---
Bài 17 : KHAI THỊ CHO CƯ SĨ VƯƠNG HIỂN NGUNG.
Thế nhân dùng thân tâm cảnh giới huyễn vọng mà sinh hoạt sống còn. Từ sanh đến
tử, chưa từng có một niệm giác biết lại tự tâm bản lai diện mục. Vì chưa giác ngộ, nên
không biết gốc rễ của bịnh tật. Nơi nước lửa xung đột, bốn đại cùng nhau công phá, đó là
thân bịnh. Vọng tưởng phan duyên, thương ghét thủ xả, đó là tâm bịnh. Thân bịnh thì
thuốc có thể trị, mà tâm bịnh thì không có thuốc để trị.
Đức Phật là đấng y vương ở thế gian, có thể điều trị tâm bịnh của chúng sanh. Ngàituy dạy bao loại phương tiện, mà rốt ráo chỉ dùng chánh giác để phá vọng tưởng vô tánh ;
đó gọi là lương dược hoàn sanh vi diệu. Học nhân muốn cầu pháp môn an lạc, trước tiên
phải nhận rõ thân vốn chẳng có bản ngã. Hãy quán xem trước khi cha mẹ sanh ra, thân
máu thịt này từ đâu mà có ? Lúc bốn đại phân ly, thân này an lập tại nơi nào ? Thời thời
quán sát như thế, lâu ngày đột nhiên sẽ có một niệm tỉnh giác, thì không còn khổ vì thân
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
không có pháp thật và người thật. Bảo là tu, chỉ vì tuỳ thuận tự tâm, tịnh trừ bóng ảnh của
vọng tưởng tập khí, mà mới dùng lực nơi đó. Nếu nhất niệm vọng tưởng chợt ngưng, bèn
thấy rõ tự tâm, xưa nay vốn tròn đầy sáng soi bao la, bản nhiên thanh tịnh, chẳng chứa
một vật, đó gọi là ngộ. Trừ ngoài tâm này, chẳng vật gì là có thể tu có thể ngộ. Tâm như
thể tấm kiếng ; vọng tưởng phan duyên như bóng hình ; làm nhiễm ô chân tâm, nên gọi
tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Nếu vọng tưởng tan mất, thì bản thể tự hiện.
Ví như lao kiếng, sạch bụi bặm thì ánh sáng tự hiện ra.
Chúng ta tích tụ tập nhiễm kiên cố đã bao kiếp, nên cội gốc ngã ái thâm sâu khó nhổ
trừ. Đời nay may mắn gặp được pháp Bát Nhã. Trong huân tập làm nhân. Ngoài nhờ
thiện tri thức dẫn dắt làm duyên. Tự biết bản hữu của tâm tánh, nên phát tâm chí nguyện
hướng đến việc giải thoát khỏi sanh tử, há là việc nhỏ ư !
Nếu không phải là người khoẻ mạnh, tự thân đơn độc mang đao nhập thẳng vào, thì
rất là khó khăn. Cổ nhân bảo rằng như một người mà chống với muôn người, chẳng phải
là lời nói hư vọng. Nói chung, đời mạt pháp người tu hành rất nhiều, nhưng đắc chân thật
thọ dụng lại rất ít. Phí sức lực thì nhiều, mà đắc lực thì ít. Tại sao ? Vì không đi thẳng đến
nơi hạ thủ công phu, chỉ lo tu trên ngôn từ thấy nghe tri giải, cùng bám chấp thức tình, đè
ép vọng tưởng, và dụng công phu trên bóng hình. Họ lấy những lời huyền ngôn diệu ngữ
của cổ nhân chấp chứa trong ngực, mà làm pháp thật, rồi tự cho đó là tri kiến của mình,chứ chẳng biết trong đó dùng một điểm nhỏ cũng không thể được. Đó chính gọi là y theo
người mà tác giải, khiến làm bế tắc cửa tự ngộ.
Nay dụng công phu, trước hết phải chẻ dẹp tri giải, chỉ nhắm vào nơi một niệm mà
dụng công. Phải tin chắc tự tâm, bản lai thanh tịnh trong sạch, chẳng quảy một tấc dây,
tròn tròn sáng sáng, tràn đầy khắp pháp giới, vốn không có thân tâm thế giới, cùng chẳng
có vọng tưởng tình lự. Một niệm này, vốn tự vô sanh. Bao loại cảnh giới trước mắt đều là
vọng huyễn không thật, chỉ xuất phát từ trong chân tâm mà hiện ra bóng hình. Thấy rõ
như thế, ngay nơi vọng tưởng khởi diệt, nhất định tìm xem nó từ đâu khởi và từ đâu diệt.
Dùng lực ép chặt như thế, chẳng màng đến bao vọng niệm ; kẹp nát chúng khiến tan
thành phấn vụn, thì băng tan ngói bể. Thiết yếu chẳng nên chạy theo chúng, cũng không
thể khởi tâm tương tục.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Đại sư Vĩnh Gia bảo rằng phải đoạn tâm tương tục là như thế. Tâm thô phù hư vọng,
vốn không có chỗ tựa. Chớ nên cho chúng là thật. Cứ giữ tại ngang ngực, lúc chúng khởi
lên liền quát. Vừa quát chúng liền tiêu. Thiết yếu không đè ép, hãy để chúng tự nhiên
khởi, như nước trên quả hồ lô, chỉ ném phứt thân tâm thế giới qua một bên. Đơn độc đề
khởi một niệm nghi tình ; vung bảo kiếm trong hư không, dẫu là Phật là ma, một đao liền
chặt hết, như chém dây nhợ. Phải dùng niệm lực mà giữ chúng. Đó gọi là trực tâm chánh
niệm chân như. Chánh niệm tức là vô niệm. Quán được vô niệm thì mới gọi là hướng đến
tri kiến của Phật.
Vừa mới phát tâm tu hành, cần thiết phải tin chắc pháp môn duy tâm. Phật thuyết ba
cõi duy tâm, vạn pháp duy thức. Đa số, giáo lý Phật Pháp, thường giải thích tám chữ này
rõ ràng để người người tin nhận. Hai đường thánh phàm chỉ nằm trong hai con lộ mê ngộcủa tự tâm. Tất cả nhân quả thiện ác, trừ ngoài tâm này, chẳng một mảnh gì có thể đắc
được. Diệu tánh thiên nhiên của chúng ta, vốn không nương nơi ngộ, sao còn có mê !
Hôm nay thuyết mê, chỉ vì chưa nhận rõ tự tâm vốn không có một vật ; không đạt được lý
thân tâm thế giới vốn không, nên bị chúng làm chướng ngại. Cứ chuyên cho tâm vọng
tưởng sanh diệt là chân thật, nên nơi cảnh duyên của sáu trần, bao loại huyễn hoá nhận
lầm là thật có. Bây giờ phát tâm tu hành, tiến bước đi ngược dòng để hướng thượng, thì
hoàn toàn phải tận tình vứt hết những tri giải thuở xưa. Một điểm tri kiến hay pháp thiện
xảo dùng cũng không được. Chỉ việc nhìn suốt thân tâm thế giới, hoàn toàn là do tự tâm
hiện ra sắc thô phù hình huyễn, như ảnh tượng trong kiếng, như trăng soi mặt nước. Quán
tất cả âm thanh, như gió thổi qua cây. Quán tất cả cảnh giới, tựa như mây nổi trên nền
trời ; chúng đều là những việc huyễn hoá không thật, và chẳng đơn độc từ ngoài đến.
Vọng tưởng tình lự của tự tâm, và tất cả hạt giống ái căn, cùng tập khí phiền não, đều là
hư phù huyễn hoá không thật. Quán sát thâm sâu như thế, phàm một niệm khởi, quyết
định nhìn thấu nó đến khi hạ lạc (đốn ngộ). Thiết yếu không thể khinh nhờn mà bỏ qua,
cũng không để chúng làm che mờ. Phải dụng công phu như thế, cùng thêm thiết tha chânthật. Trừ pháp này ra, hợp lại những xảo pháp huyền ngôn tri kiến, hoàn toàn không có
chút liên hệ. Dẫu gọi là dụng công phu, cũng chỉ là bất đắc dĩ mà làm. Ví như dụng binh,
nếu quân không có vũ khí tốt, thì bất đắc dĩ mới dùng.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
nương nhờ mật ấn của chư Phật mà tiêu trừ chúng. Các bài mật chú, như bảo xử kim cang
đập nát tất cả vật. Vật vừa chạm vào bèn bị tan nát như hạt bụi. Từ trên Phật Tổ tâm ấn
mật quyết, đều không vượt ngoài lý này. Vì vậy, bảo rằng mười phương Như Lai, nhờ trì
tâm chú này, mà đắc thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lời của Phật rõ rằng ;
sợ môn hạ của tổ sư bị lạc vào thường tình, nên thầm thuyết mật chú, chẳng phải là vô
dụng.
Thế nên, ngày thường phải định thời khoá, thì lâu sau thuần thục, đắc lực được
nhiều, nhưng không thể hy vọng cầu mong thần thông cảm ứng. Phàm người tu hành, có
ngộ rồi mới tu, hay tu rồi mới ngộ, mà ngộ có giải và chứng không đồng. Nếu y theo
ngôn giáo của Phật Tổ mà minh tâm giải ngộ, thì đa phần lạc vào tri kiến. Nơi mọi cảnh
duyên, đa phần không thể đắc lực. Tâm cảnh đối lập nhau, không thể dung hoà, nên trở thành ngưng trệ, và đa phần tự làm chướng ngại.
Đây gọi là danh tướng tựa như Bát Nhã, chẳng phải là nơi tham cứu chân thật.
Người chứng ngộ, mọi việc từ trong tự tâm, thật đã xả bỏ hết. Bức ép đến nước cùng non
tận, thì một niệm chợt ngưng, khiến thấy rõ tự tâm, như giữa ngã tư đường, gặp lại cha
mình.
Lại nữa, không thể nghi ngờ ; ví như người uống nước, lạnh nóng tự biết ; không thểthố lộ với người ; đó mới là tham cứu chân thật và liễu ngộ chân thật. Sau đó, dùng nơi
chỗ ngộ mà dung hội tâm cảnh, để tịnh trừ nghiệp chướng đang lưu chuyển trong hiện tại.
Ý thức vọng tưởng tình lự, đều chảy tan ra thành một vị chân tâm, tức là chứng ngộ.
Chứng ngộ này, sâu cạn không đồng. Từ cội rễ mà khởi công phu, phá được hang hố
của thức thứ tám, lấp trừ hầm hố của vô minh ; vừa siêu thoát liền nhập vào, mà không có
thừa pháp nào khác. Đây là nơi chứng đắc thâm sâu của bậc thượng thượng căn ; còn lại
thì là tiệm tu, sở chứng rất ít. Việc đáng sợ nhất là thường lấy ít cho là đủ, khiến lạc nơi bóng ảnh. Chưa phá trừ được cội gốc của tám thức, sao mãi buông lung làm bậy !
Đó là việc bên ngoài thần thức. Nếu cho rằng chúng là thật, tức nhận giặc làm con.
Cổ nhân bảo rằng người học đạo, không nhận thức chân thật được, chỉ vì nhận lầm thần
thức trước mắt. Cội gốc sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay, người ngu nhận lầm chính là
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
mình. Ngay nơi đó, việc tối trọng là phải nhìn thấu suốt. Thế nên, bảo rằng đốn ngộ rồi
tiệm tu, nghĩa là trước ngộ đã triệt thấu, nhưng vẫn còn tập khí, chưa có thể tẩy rửa liền.
Ngay trên tất cả cảnh duyên, dùng lý ngộ này, khởi lực quán chiếu, duyệt cảnh kiểm
nghiệm tâm. Dung hoà đắc được một phần cảnh giới, thì chứng đắc một phần pháp thân,
tiêu một phần vọng tưởng, hiển lộ một phần căn bản trí ; tất cả hoàn toàn đều do nơi công
phu liên tục. Dụng công ngay trên cảnh giới, thì mới đắc lực.
Đối với người lợi căn, tín tâm dũng mãnh, lúc dụng công phu, sự chướng dễ trừ,
nhưng lý chướng khó thay đổi. Bịnh này lược kê có vài phần.
Trước nhất, không thể tham cầu huyền diệu. Việc này vốn thanh tịnh khắng khít, thật
hiển nhiên rõ ràng, chỉ là một vị bình thường, chẳng có chi là huyền diệu. Thế nên cổ
nhân dạy rằng đã ngộ đồng với chưa ngộ ; y nhiên chỉ như người xưa, lại chẳng có huyền
diệu. Công phu nếu đủ, thì tự nhiên trở nên bình thường chân thật, và tập khí tri giải sẽ
được tẩy trừ. Ngược lại, bên trong huân tập trí Bát Nhã ; khởi các huyễn hoá xảo kiến bao
đời, rồi buộc ràng tâm đó, mà gọi là huyền diệu, và chấp vào không xả. Đó chính là bóng
ảnh của thần thức, và là cội gốc vọng kiến phân biệt, cũng gọi là kiến chấp, khác biệt với
vọng tưởng thô phù khi trước. Song, sanh diệt vi tế vẫn còn trôi chảy, cũng gọi là tri
chướng, chính làm ngăn ngại chánh tri kiến. Người nào nhận lầm đó là chân thật, bèn
khởi bao loại kiến chấp điên cuồng. Phải nên bỏ đi. Thứ đến, không thể đem tâm chờ ngộ. Chân tâm vi diệu tròn đầy, xưa nay vốn không có mong chờ. Nhân vì vọng tưởng
kết tụ, khiến tâm cảnh căn trần đối đãi, nên khởi mê hoặc tạo nghiệp. Nay người tu hành,
chỉ nên nhất niệm xả bỏ thân tâm thế giới. Đơn độc đề khởi niệm này hướng về phía
trước. Cần thiết là chẳng màng ngộ hay không ngộ, chỉ lo là niệm niệm bước bước chưa
vững được. Công phu nếu đến nơi đến chốn, thì tự nhiên sẽ thấy bản lai diện mục, sao
còn tính toán chi ! Dùng tâm mong đợi ngộ, tức nó là gốc rễ của sanh tử. Đợi đến cùng
kiếp, cũng không thể ngộ.
Thế nên, không thể mong đợi chân tâm, mà bảo rằng sẽ có. Tâm mong đợi nếu
không trừ, thì dễ dàng sanh mỏi mệt chán chường, và đa phần trở thành thối đoạ. Ví như
tìm vật mà không thấy, thì khởi tâm muốn nghỉ ngơi. Lại nữa, không thể hy vọng mong
cầu diệu quả. Vọng tâm sanh diệt, nguyên là thể tánh chân thật của Như Lai. Ngày nay,
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Phải bước theo đường lộ hướng thượng của Phật Tổ, mà không màng đến những lộ trình
khác. Đây là phương tiện cho người sơ phát tâm. Phải nhìn xuyên thấu đáo.
---o0o---
Bài 19 : KHAI THỊ CHO PHÙNG SANH VĂN PHỤ.
Người học đạo, trước hết phải quyết định phát khởi ý chí tu hành dài lâu. Đến suốt
cuộc đời, mãi tới ba đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, muôn ngàn đời, cùng
đến sanh sanh kiếp kiếp, nhất định tới khi nào đại ngộ mới thôi. Không đại ngộ được tâm
này thì quyết chẳng ngơi nghỉ. Dẫu có đoạ lạc vào ba đường khổ địa ngục, hay nhập thai
lừa bụng ngựa, thì chí nguyện thành Phật cũng quyết không xả bỏ. Lại nữa, ngày nay
không vì bao khổ não bức bách mà thối thất tín tâm. Ví như có người phát tâm đi muôn
dặm đường, quyết định đến được mục đích mới thôi. Từ ngày vừa bước chân ra cửa, đi
thẳng đến nơi cửa nhà của người đó, thân cận người muốn gặp đó, cùng người đó giao
thiệp, mãi tới lúc mất mạng mới thôi. Đây mới gọi là có ý chí quyết định. Nếu như không
có ý chí quyết định rõ rệt, chỉ bảo bước ra cửa là đủ, rồi xoay đầu nhìn lại chỗ cũ ; bao
tham ái không xả, hoặc dè dặt ngập ngừng. Miệng nói đi mà tâm không muốn tiến. Hoặc
may mắn gặp bạn bè thông minh mạnh khoẻ, rồi cùng vị này bước chân ra cửa. Vừa lên
đến đường lộ thì phóng túng buông lung. Hoặc gặp phường hát xướng tại những nơi phú
quý giàu sang, khiến mắt tai tham luyến mà đến gần để vui chơi, rồi quên mất tâm
nguyện bước ra cửa nhà khi trước. Hoặc mơ màng chẳng biết nơi phải đến, hoặc giữa
đường thấy duyên sai biệt, (tức là gặp bạn ác duyên xấu), đùa giỡn mãi đến khi hao của
hư tài, lại thêm tật bịnh bủa vây, nên tiến thối bàng hoàng, sanh vô lượng khổ sở. Hoặc
thân thể mỏi mệt vì đã lâu chịu bao lao khổ gió sương, rồi lại sanh tâm thối thất. Hoặc
gần đến cửa nhà, mà gặp những cảnh cơ sai biệt. Hoặc cho những lời sai tiếng bậy là
chân thật, nên đến gần mà không thể gặp được người đó. Đã đến được cửa mà không thể
vào nhà. Những người như thế đều bỏ phí công huân may mắn. Nói chung, không thểchân thật đến nơi cứu cánh, vì lúc vừa phát tâm không có ý chí quả quyết. Cứ như thế mà
muốn có chút ít công danh sự nghiệp ở thế gian, quyết chẳng làm được, hà huống Phật
đạo vô thượng, cắt đứt sanh tử, chứng quả Bồ Đề !
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Vì vậy bảo rằng Phật đạo dài dăng dẳng, tinh cần thọ khổ nhọc, mới có thể thành
tựu. Sao muốn sớm có hiệu nghiệm, và cầu thành tựu mau chóng ! Ngoài ra, khi đã có ý
chí kiên quyết rồi, cần phải có tri kiến chân thật. Nếu tri kiến không chân thật thì chí
nguyện không thể hướng tới, hạnh nguyện không thể hành đến, khiến uổng phí công phu.
Chúng ta đã có chí nguyện cầu đạo, thì phải tin tự tâm, thể vốn là Phật ; bản lai thanh
tịnh không chứa một vật, và vốn sáng soi bao la. Ngay tại công việc hằng ngày mà chưa
đắc được thọ dụng chỉ vì bị các huyễn vọng làm mê muội, và bị bốn đại làm che mờ,
cùng vọng tưởng tâm phù làm chướng ngại, nên khó được thấu triệt. Vượt qua cửa ải
sanh tử không chỉ là ngàn đời vạn kiếp ! Chúng ta đã biết tâm này, thì phải tin chắc chẳng
nghi. Ngày nay phát tâm, quyết lấy sự đắc ngộ làm kỳ nhật, rồi từ đó phát khởi công phu,
tức là đã đi ra cửa một bước. Bây giờ thân cận và thừa sự những lời chỉ dạy của thiện trithức, tức là đã xuất phát đi. Xuất phát khởi hành, trên đường gặp bao cảnh giới, bao khó
khăn, bao việc trì hồi chậm trễ, bao việc bịn rịn không bịn rịn, bao việc thối lui không
thối lui. Tất cả đều do học nhân tự kiểm nghiệm xem xét coi có hợp với bổn phận sự của
mình không, chứ thiện tri thức chẳng giúp gì được hết !
Nguyên Sanh Văn Nhụ có chí như thế, phải chọn nhặt ra lông mi, và xem coi gót
chân đầu tiên vừa bước ra cửa như thế nào !
---o0o---
Bài 20 : KHAI THỊ THIỀN NHÂN TRÍ VÂN.
Người học đạo phải hội đủ những điều kiện sau :
1 . Phải nhìn thấu suốt mọi cảnh giới ở thế gian. Không để vọng duyên xoay chuyển.
2 . Phải chuyên tâm vì đại sự sanh tử. Tâm tràng sắt đá quả quyết. Chẳng để vọng
tưởng phan duyên xâm đoạt ý chí.
3 . Phải tẩy rửa sạch tận hết tất cả tập khí xấu xa và ác giác tri kiến thuở xưa, mà
không chừa một cọng lông nào.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Phật dạy hai mươi việc khó được, mà trong đó có : “Được thân người là khó ; sanh
tại trung quốc là khó ; được gặp Phật Pháp là khó ; thân cận thiện tri thức là khó ; sanh
chánh tín là khó”. Đây là năm việc khó trong những cái khó. Sa di Tại Tịnh đã đủ bốnviệc, chỉ còn thiếu việc sanh chánh tín. Hôm nay, may mắn xuất gia, gặp được đại thiện
tri thức mà quy y, lại đem thân vào biển Phật Pháp. Việc này do duyên tu hành như thế
nào mà được ? Nếu không phấn tấn dũng mãnh, sanh đại chánh tín, rồi đem thân tâm
huyễn vọng tẩy rửa cho thanh tịnh trong sạch, lật ngược tánh mạng, chí xuất sanh tử,
rộng tu vạn hạnh, kết đại duyên thành Phật vô thượng, thì chẳng phải xấu hổ, làm mất
hạt giống thiện căn trong bao đời sao !
Cổ đức dạy rằng thọ khổ trong ba đường ác, chưa gọi là khổ. Làm mất y ca sa trên
thân mới thật là khổ. Phật bảo rằng tâm như dây tơ thẳng, mới nhập đạo được. Dây tơ
thẳng tức là không có tướng cong vạy. Tướng cong vạy là gì ? Tức là tâm tinh xảo máy
móc, tâm trộm cướp, tâm láu lỉnh, tâm che đậy, tâm chẳng biết xấu hổ, tâm làm biếng,
tâm thấy lỗi của người, tâm cống cao ngã mạn, tâm tự thị khi dễ người, tâm không sanh
hiếu thuận từ mẫn. Tổng quát, tất cả tâm bất thiện đều là tướng cong vạy của tự tâm. Nay
muốn phát tâm tu hành, chỉ đem tất cả tâm như trên, tận hành quét sạch. Thời thời kiểm
điểm, niệm niệm chiếu soi quản thúc, chớ xả bỏ chúng. Sợ không thể đốn ngộ, hãy lấymột công án của cổ nhân, giữ trong ngực. Lúc tập khí phát khởi, bèn đề lên câu thoại đầu
này, chống cự với chúng. Lâu sau thuần thục, thì tâm tự điều phục ngay thẳng, mà đạo
tâm ngày càng tăng trưởng, hạnh môn ngày càng tinh tấn, tâm địa ngày càng sáng suốt.
Suốt đời hành như thế, thì gọi là không uổng phí đời tu. Ngược lại, đợi lúc sanh tử đến,
thì dùng gì để đề đối chúng !
Sa di Tại Tịnh hãy tự suy nghĩ, quyết chẳng nên bỏ qua, xem thường những lời này.
---o0o---
Bài 23 : KHAI THỊ CHO THẦY ĐẠI TỊNH.
Hỏi : Ngài luôn bảo là trừ phi được ấn giáo, không thể cho rằng có chánh tri kiến.
Song, tham tầm giáo lý vốn là tập khí sâu xa, thật khó tẩy trừ, ví như dầu đã bị đổ vào
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
bún. Nếu nơi sự ấn chứng, hành nhân “liễu ngộ” vẫn còn bám vào sợi dây ý thức, khiến
đoạ vào những ấm ma và tăng trưởng tà kiến, thì phải làm sao ? Tai hại thật không thể
lường ! Thỉnh cầu Ngài khai thị chúng con tại điểm thiết yếu này.
Đáp : Lão nhân thường nhấn mạnh rằng hành nhân phải so sánh kinh nghiệm cánhân theo đúng tông giáo để được ấn chứng. Nghĩa là nếu tự dùng tri kiến của mình mà
không thể gặp được minh nhãn thiện tri thức, (những vị năng phân biệt chánh tà), thì phải
tầm cầu kinh điển ấn chứng. Các bộ kinh như Lăng Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác đều chỉ
rõ công phu tu thiền cùng thể ngộ chân thật của tâm. Phải so sánh cảnh giới tự tâm với
những tấm kính đó, và kiểm nghiệm xem coi có đúng như lời của đức Phật dạy bảo
chăng. Thế nên, có câu : “Dùng thánh giáo lượng làm minh cảnh (kiếng sáng) để chiếu
soi tự tâm”. Đây không có nghĩa là lạm dụng những câu cú ẩn mật của kinh điển để biệnminh cảnh giới tự tâm. Câu hỏi này là một ví dụ điển hình mà những kẻ đã bị mất câu
thoại đầu thường nói đến. Chỉ có đức Phật mới hoàn toàn chân thật chỉ bày tâm thức bịnh
hoạn của chúng ta. Phần “năm mươi ấm ma” của kinh Lăng Nghiêm và “tính chất thăng
trầm của bảy loài” của kinh Lăng Già hiển bảy rõ ràng về tà kiến của ngoại đạo và nhị
thừa. Nếu đức Phật không diễn đạt rõ ràng, thì làm thế nào có thể biết cách thận trọng
ngăn ngừa chúng ? Tôi nói nghĩa “ấn chứng” tâm chỉ là như thế. Do đó, phải dùng tấm
kiếng của thánh giáo mà chiếu soi tự tâm, chứ không cần màng đến việc tham tầm giáo lý
hay không. Nếu vẫn còn bị xoay về tập khí cũ, thì do nhiều nhân duyên khác, chứ không
hẳn chỉ hạn cuộc ở việc tham tầm giáo lý !
---o0o---
Bài 24 : KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ NHƯ LANG.
Phật dạy :
- Cạo bỏ râu tóc, mà làm Sa Môn. Rời tham dục được tịch tĩnh, là điều quan trọng
nhất.
Thế nên, biết rõ tham dục vốn là sanh tử, cũng là lộ đường đại sự quan trọng nhất. Vì
vậy, phải nên tha thiết trì giới. Rời xa tham dục, bèn được an ổn tịch lạc. Sở dĩ chúng
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Người xuất gia phải rõ đại sự. Thứ nhất, tâm phải chân thật tha thiết vì sự sanh tử.
Thứ hai, phải quyết định phát khởi ý chí xuất ra khỏi sanh tử. Thứ ba, phải xả mạng cho
đến chết, quyết không thay đổi. Thứ tư, phải chân chánh biết rõ thế gian là đau khổ, nên
cực lực sanh tâm nhàm chán xa rời. Thứ năm, phải thân cận thiện tri thức tuyệt thắng, và
đầy đủ chánh tri chánh kiến. Thời thời thưa thỉnh, thừa sự theo lời giáo huấn, rồi y như
lời dạy mà hành, tinh cần không giải đãi ; không để năm món dục phiền não làm che
chướng ; không để tập khí xấu xa sai sử ; không bị giao động vì bạn xấu ; không bôn ba
chạy theo duyên ác ; không cho rằng vì độn căn mà tự thối thất. Như thế mà phát tâm và
tiến bước, rồi lâu ngày thuần thục, thì tự nhiên sẽ tương dung hợp với sở cầu nguyện xưa.
Hiện đời, tuy chưa có thể liễu ngộ, thấy rõ tự tâm, nhưng trăm kiếp ngàn đời, cũng dựa
theo ngày nay mà làm nhân địa sơ khởi tu hành. Nếu không như thế, chỉ dùng tri kiến
thấp kém hẹp hòi, tập khí sôi nổi mỏng manh, tâm đua đòi theo thói cũ, tâm cuồng vọng,khẩu đầu thiền, khí trọc uế, căn tà kiến, để làm chánh nghiệp xuất gia, rồi lấy đó mà vọng
cầu xuất ra khỏi biển khổ ; đó là thích chí siêu việt mà lại an nghỉ, và không chịu đi mà
cầu tiến bước.
Hy vọng người chánh tín trong đời mạt pháp, và những thiền nhân đã biết chỗ hướng
tới, phải thẩm xét nhận biết bản tâm, dùng đó làm đệ nhất nghĩa chân thật.
---o0o---
Bài 28 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN VÔ SANH.
Cổ nhân vừa mới phát tâm, chân chánh vì đại sự sanh tử, quyết chí xuất ly, nên cắt ái
từ thân, tham phương tầm cầu thiện tri thức ; trải qua bao gian nan khổ cực, tâm tâm niệm
niệm, chỉ vì nhắm thẳng vào việc chưa sáng ; ưu bi thống thiết, như khóc mẹ đã già chết.
Gặp được thiện tri thức như con thấy mẹ. Được nghe một lời hay nửa câu, liền khai mở
tâm địa, như bệnh được thuốc. Một niệm tương ưng, liễu ngộ nơi tâm, như kẻ nghèo được
châu báu. Quăng thân bỏ mạng, nổi trôi bị bao khinh rẻ, mà chưa từng than van nản lòng.
Nhị tổ Huệ Khả vì muốn an tâm mà chặt cánh tay. Lục tổ Huệ Năng đeo đá giã gạo.
Bá Trượng làm chấp sự bao lao nhọc. Dương Kỳ làm công quả cúng dường đại chúng.
Phàm danh tiết được truyền đăng chiếu soi thiên cổ, chẳng ngoài sự khắc khổ mà nên.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Chư Phật trong đời quá khứ, cầu vô thượng Bồ Đề, xả thân mạng như số cát vi trần ;
không loài nào mà chẳng thọ thân ; không thân nào mà chẳng tu khổ hạnh. Trăm kiếp tu
nhân, nên cảm thiên thượng nhơn gian cúng dường vô lượng. Mạt pháp tử tôn, vì lãng phí
thọ dụng nên mất phần công đức bất tận. Sao lại có trời sanh Di Lặc, và có tự nhiên Thích
Ca ! Đau đớn thay ! Đời mạt pháp, đã xa quá thời thánh giáo ; phép tắc pháp môn để
dùng quét đất. Hậu bối xuất gia, không biết vì việc gì. Sanh ra chỉ biết sợ đói lạnh, nên
mãi lo việc ấm no.
Vừa bước vào cửa không, bèn trở lại theo tập quán thế tục ; đàm luận suông cả ngày,
phủng phệ túng tình, để sáu căn chạy rong ; chuẩn bị tạo các việc ác ; không làm lụng cực
nhọc mà hưởng thức ăn ngon ; không chăn tằm mà mặc y đẹp ; hư tiêu của tín thí, lãng
phí thời giờ ; chẳng biết sanh từ đâu đến, chết sẽ đi về đâu ! Sao lại không biết nhân quảkhó trốn thoát, và tội phước không sai chạy ! Đại hạn lâm chung đến, như đá chìm thẳng
xuống nước ; ba đường ác khổ cùng cực ; một quả báo phải chịu cả năm ngàn năm, biết
ngày nào mới được thoát khỏi !
Nhắc những lời này, lão nhân đau xót chua cay ! Mục kích thời lưu hiện tại, đều
buông lung như thế. Hy vọng người tu phải như đãi cát lấy vàng, chẳng nên bảo là không
có, vì vàng vẫn còn nguyên. Lao tù ba cõi, gông cùng trong bốn loài, lửa lớn cháy phừng
phựt, nhà sanh tử hiểm hoạ, làm thế nào để dũng mãnh thoát các khổ, đến nơi vô uý ?
Chẳng phải là đấng trượng phu đầy đủ linh căn, hàm chứa bao cốt cách, thì không
thể phấn tấn dũng mãnh, vừa siêu vượt liền nhập vào. Các thầy sanh ra may mắn được
gặp Phật Pháp ; sáu căn đầy đủ, hình vóc nương nhờ y ca sa, sớm gặp minh sư. Nếu
không thống niệm vô thường, nghĩ ngợi thâm sâu về đại sự, tư duy khổ nơi địa ngục, mà
phát tâm Bồ Đề, sửa đổi tâm tánh, để ngày đêm tinh cần, sớm cầu xuất ly, mà cứ dần dà
sống qua ngày, phóng túng thân tâm, thì lúc đại hạn đến, hối hận sao kịp ! Hãy nên cố
gắng mà hành. Nếu quên lời khuyên răng nhắc nhở của tôi thì phụ lòng tôi và cũng chính
là tự phụ mình !
---o0o---Bài 29 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ TÔNG.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Phật dạy đệ tử tu pháp xuất thế, chỉ có hai loại diệu hạnh là tự lợi và lợi tha. Lợi tha
gọi là tu phước. Tự lợi gọi là tu huệ. Bồ Tát phát tâm, cần cầu đạo Bồ Đề vô thượng. Bồ
Tát tuy biết pháp tánh là lặng lẽ không tịch, mà chẳng xả bỏ các hạnh hữu vi. Biết các
pháp vốn không tịch tức là tự lợi. Không xả bỏ các hạnh hữu vi gọi là lợi tha. Từ trên chư
Phật Tổ, chưa có ai chẳng từ hai hạnh này mà được xuất ra khỏi sanh tử. Đức Thế Tôn
muôn kiếp tinh cần tu bao khổ hạnh khó hành. Chúng ta từ bao kiếp dài lâu, lặn hụp trong
biển sanh tử, đầu xuất đầu mất, xả thân thọ thân, không thể nghĩ bàn, đều là sống hư chết
phí, thì làm sao có một chút gì là hạnh môn chân thật ! Nếu có hạnh chân thật thì quyết sẽ
không như mặt mũi đời nay. Sao không thống niệm, mà hồi quang phản chiếu, dũng
mãnh tự suy gẫm !
Đời nay thiền nhân do túc duyên may mắn, sớm đã thoát tục, mãi rời biển khổ, lạiđược an cư tại danh sơn, nơi đạo tràng thù thắng vi diệu mà chư tổ thường thuyết pháp.
Đây là duyên lành muôn kiếp khó gặp. Chính là đói gặp tiệc vua. Bệnh được gặp vương.
Tự phải biết mình may mắn vô ngần, rồi tận suốt cả đời, xả bỏ thân mạng, làm các việc
công đức, thì vượt trội trăm kiếp ngàn đời thường sống vô tích sự. Thiền nhân hãy tin lời
của lão nhân ; từ rày về sau, phát tâm kiên cố bất thối, trì chí dũng mãnh can cường, tận
hết sức lực, lượng hết tài năng, biện một mảnh tâm khăng khít, nhậm duyên tuỳ nguyện,
nhịn tâm nhịn phiền, nhẫn khổ nhẫn lao, thì sẽ có một ngày thành tựu công đức, tức sống
đời hữu ích. Thiền nhân tự bảo thân yếu thần suy, không thể lãnh nhận công tác. Cổ nhân
quý tại tâm lực cường, nguyện lực lớn, chứ không kể tại sắc thân khoẻ hay không khoẻ.
Nay tuy có ít bệnh, không quá khổ đau. Nếu tạo nghiệp ác, đoạ nơi ba đường dữ, thì có
cầu như hôm nay bịnh ít, thân tâm phiền não ít, hay muốn gieo lợi ích trong ruộng phước,
cũng chẳng được.
Phật bảo chúng sanh, phải nhớ các nỗi khổ nơi địa ngục, mà phát tâm Bồ Đề, tức là
bây giờ phải nên tự thúc đẩy, phát khởi tinh tấn. Cổ đức bảo rằng thà chết mà có pháp,
còn hơn sống mà chẳng có pháp. Xả bỏ thân mạng này, làm những diệu hạnh đó ; ví như
chiếc thuyền Bát Nhã, có thể đạt đến bờ giác. Câu nệ chi mà không cố gắng cưỡng ý chí,
để phụ bạc bỏ phí cuộc đời này ! Đã đến núi báu, lại trở về tay không. Sao không tiếc
thay !
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Nếu thường an tâm nơi vô sự, tức là tâm không. Tâm không tức thần chẳng suy.
Thần chẳng suy tức thần không lao nhọc. Đó là diệu hạnh vô tác. Gặp duyên tức là tông
thú tu hành ; quyết không để công việc thường ngày xoay chuyển. Nơi nơi đều thành tựu
môn đại giải thoát. Xin hãy suy gẫm cho kỹ !
---o0o---
Bài 30 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ GIÁC.
Phật bảo chư tỳ kheo rằng mỗi sáng sớm phải tự lấy tay xoa đầu. Lời này thật thâm
thuý. Lão nhân mỗi mỗi suy gẫm, đức Phật từ bi thống thiết triệt xương tuỷ. Ngài hằng
bảo rằng mạt pháp tỳ kheo, đa số thường thích thọ dụng, an nhiên hưởng thụ tứ sự cúng
dương. Mỗi mỗi tự bảo đó là điều ưng phải được, mà không xét coi mình là người gì,cùng vật cúng dường từ đâu đến, và làm thế nào mà thọ nhận ! Người biết ân thì hiếm, và
người báo ân thì ít, chỉ vì chưa chịu rờ đầu. Nếu chịu xoay lại rờ đầu, thì bất giác tự
hoảng sợ, thốt lời rằng tại sao mình cắt bỏ râu tóc, không mặc y phục người thế tục ! Biết
hình dạng khác tục, nên không dám cư trú gần người thế tục ; thân không dám vào chốn
thế tục ; tâm không dám niệm nhớ thế tục. Như thế tức là an lạc nơi hạnh viễn ly. Không
đợi thiện tri thức dạy bảo, mà tự phát tâm dõng mãnh ; vào núi chỉ sợ núi không sâu.
Song, có những hạng thầy tu lại an nhiên trú ngụ trong phồn hoa đô thị hỗn tạp ;
phóng túng thân tâm, để làm người vô loại, và hành bao hạnh vô ích. Thiền nhân Tự Giác
vốn trụ ở nhân gian, nay đến Khuông Sơn lễ bái lão nhân, nguyện khô tâm trụ núi, tu
hạnh xuất thế. Lão nhân vì đó chỉ dạy hạnh phước huệ song tu. Tu hụê tức tại quán tâm.
Tu phước tức hành nơi vạn hạnh. Quán tâm dùng niệm Phật làm phương pháp tối thắng.
Vạn hạnh dùng sự cúng dường làm đầu. Hai việc này, chính là hạnh tổng trì.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, đều là vọng tưởng, (tứccội gốc của sanh tử), nên phải chiêu lấy quả khổ. Ngày nay dùng tâm vọng tưởng đó,
chuyển làm tâm niệm Phật, tức niệm niệm thành nhân Tịnh Độ, đó là quả an lạc. Nếu
niệm Phật mà tâm tâm không gián đoạn, thì vọng tưởng sẽ tự tiêu diệt. Ánh sáng của tự
tâm phát lộ, và trí huệ hiện tiền, tức trở thành pháp thân Phật. Chúng sanh bần cùng
không phước huệ, do sanh sanh thế thế, chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo, để
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Quý vị ! Lão nhân nay yết cáo với chư đồng tham học !
---o0o---
Bài 32 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN BẢO QUÝ BỔN TỊNH
Thiền nhân Bảo Quý, tự dụng tâm thủ hộ Phật Pháp. Lúc trẻ viết kinh Pháp Hoa và
các bộ kinh khác. Mộ tiền tạo hai thánh tượng Thích Ca và Di Đà bằng chiên đàn, để nơi
Đỉnh Hồ ở Đoan Châu. Lúc qua lại Ngũ Dương, nghiêng đầu thỉnh vấn. Tôi bảo rằng
Phật dạy các pháp từ duyên sanh, các pháp từ duyên diệt ; duyên hội mà sanh, tức là
duyên chưa sanh thì không có ; duyên chưa có, tức là tuy có mà tánh thường tự không.
Tánh không tức là chư pháp vốn chẳng có tự tánh. Vì vậy bảo rằng biết pháp thường vô
tánh. Hạt giống Phật từ duyên khởi. Người năng đạt duyên khởi vô tánh, tức là hạt giốngchân chánh thành Phật.
Thiện tai Phật tử ! Thầy đã viết các quyển kinh pháp, cùng tạo các thánh tượng Như
Lai bằng gỗ chiên đàn. Dùng tín lực làm nhân, và mượn các việc huyễn hoá làm duyên ;
đó là Phật từ duyên khởi, mà pháp cũng từ duyên sanh. Nơi trong pháp tánh, pháp tức là
Phật, và Phật cũng là pháp.
Song, nếu không xem xét kỹ rằng pháp tánh là không, thì tánh chẳng không. Nếu bảo tánh không, tức nay thấy tướng hảo trang nghiêm của Phật, quang minh sáng chói,
hừng thạnh như núi báu, mà tám mươi quyển kinh linh văn Hoa Nghiêm, thứ lớp ba mươi
chín phẩm, năm vòng nhân quả hạnh bố, bốn mươi hai quả vị sâm nghiêm, không thiếu
một chữ. Ba lần thọ ký trong kinh Pháp Hoa, cùng lễ lạy chư Phật trong hồng danh sám
pháp, không thiếu một người. Hình thể sáng soi, rực rỡ đầy khắp, có thể bảo là tánh
không vô vật chăng ? Nếu bảo tánh này chẳng phải là không, thì lúc duyên hội tụ, giấy
vẫn là giấy, mực vẫn là mực, vàng tự là vàng, hương tự là hương. Giấy mực như thế, đều
vì thế đế mà lưu bố. Vàng hương như thế đều vì ác nghiệp mà trang nghiêm. Danh từ
Phật Pháp từ đâu mà có ! Cầu kia vốn không, tức tánh tự không. Nay do duyên tụ hội, tức
dùng vàng hương của thế đế mà cho là tượng Phật, và dùng giấy mực của thế đế mà cho
là kinh. Hiện thời, tướng giấy mực không khác, và xưa kia thể không tăng. Danh từ Phật
Pháp đã rõ rêt ; người thành thục bèn khởi tâm cung kính hay ngạo mạn khiến cách ngăn,
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
mà cơ thiện ác thấu suốt trời xanh. Do đó, quán xét tất cả pháp, vốn không tự tánh, rõ
ràng chỉ từ duyên khởi mà sanh. Năng liễu đạt Phật Pháp vốn không có tự tánh, đấy chính
là hạt giống chân chánh thành Phật.
Song, tuy tạo bao nghiệp lành thù thắng, mà không thẩm xét liễu đạt vô tánh mà làm,thì do làm nên sau này sẽ liễu đạt được vô tánh. Nếu liễu đạt vô tánh mà làm, tức Phật
Pháp ngay nơi mình mà không ở nơi vật. Nếu không liễu đạt mà làm, thì Phật Pháp ngay
nơi vật chứ không ở trong tâm mình. Nếu do làm mà sau này được liễu đạt, thì mình và
vật đồng vô tánh. Đạt được vô tánh, tức là không có người năng tác. Đạt được pháp vô
tánh, tức là không có pháp để làm. Người và pháp đều không, thì thị phi đều tiêu mất ;
mình và vật đều không còn dấu tích, sao còn phân biệt chỗ nào ! Nếu đạt được như thế
thì công đức không thể nghĩ bàn. Đạo Bồ Đề cũng không thể nghĩ bàn. Chư Phật tử !Hiểu biết như thế, chính là hiểu biết chân chánh. Hành được như thế, thì chính là diệu
hạnh. Sao dùng tâm suy nghĩ mà làm những việc Phật sự khó suy tư ! Ví như tay cầm lửa
đom đóm mà muốn đốt núi Tu Di, thì chỉ tự mệt nhọc chứ có ích lợi gì, và cứu cánh ở
chỗ nào !
Lành thay chư Phật tử ! Hãy quán xem pháp vương pháp. Pháp vương pháp là như
thế ; phải nên biết mà hành và trì theo đó, mới gọi là vượt trên hết các loài hữu tình !
---o0o---
Bài 33 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN CHÂN NGỘ.
Thiền nhân Chân Ngộ sanh trưởng tại Lô Lăng, chán vợ con mà xuất gia ; thích hạnh
viễn ly, chí hướng danh sơn, tham tầm tri thức. Huyễn nhân dùng nghiệp huyễn, chọn đến
Lãnh Hải. Vừa đến tham tầm, thiền nhân lại từ biệt qua Phổ Đà lễ thầy Quán Âm, thọ kệ
chúc phó của Phật Tỳ Xá Phù, rồi lại đến Ngũ Dương. Huyễn nhân nơi đạo tràng huyễn
hoá, làm Phật sự như huyễn, khai thị chư huyễn chúng, thuyết pháp môn như huyễn.
Thiền nhân lễ bái cầu pháp. Huyễn nhân lại y tam muội như huyễn, mà thuyết tất cả chư
pháp như cảnh giới mộng huyễn, bảo :
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
- Lành thay Phật tử ! Hãy suy nghĩ chính chắn ! Tất cả chư Phật y huyễn lực mà thị
hiện. Tất cả Bồ Tát y huyễn lực mà tu trì. Tất cả nhị thừa y huyễn lực mà trầm không thủ
tịch. Tất cả ngoại đạo y huyễn lực mà hôn mê. Tất cả chúng sanh y huyễn lực mà sanh rồi
tử. Thiên cung tịnh độ y huyễn lực mà kiến lập. Quỳnh lâm bảo thọ y huyễn lực mà bày
biện. Giường thiếc trụ đồng y huyễn lực mà thi thiết. Vạc nóng lò than y huyễn lực mà
xông lên. Chim chóc rùa cá y huyễn lực mà bay ẩn. Sâu bọ nhện gián y huyễn lực mà
sống còn. Chỗ chứng đắc của ba đời chư Phật, và sự truyền thừa của sáu đời tổ sư, cũng
hoàn toàn không vượt ngoài lưỡi huyễn. Tam muội thiền nhân vừa được mà lại bỏ mất.
Hãy thử suy nghĩ cho kỹ, vì sao bị đoạ lạc vào vòng sanh tử, vì sao nhập vào thai mẹ, vì
sao chìm trong ái tình triền phược, vì sao nguyện xuất trầm luân, vì sao khởi bước du
phương, vì sao tầm cầu thiện tri thức, vì sao lê giày đến danh sơn leo lên vùng đất
phước ? Xuyên tùng lâm vào hệ xã, rồi nay đến Nam Hải, năm kế tới Ngũ Đài, năm kếnữa đến Nga Mi, cứ đi khắp hoàn vũ, trải qua bao trần kiếp, cùng tận mười phương quốc
độ nhiều như số vi trần, thừa sự mười phương chư đại thiện tri thức, mà chẳng thoát khỏi
vòng huyễn hoá, vì không phải là nơi cứu cánh chân thật. Lúc mê lầm cho bóng là đầu,
không do dẫm được đường về nhà, mà có thể đạp một cú đứt đoạn được lưới huyễn kết
tụ, thì vô biên lưới huyễn nhất thời đều đứt đoạn. Bao bờ bể huyễn hải, nhất thời đều khô
cạn. Vô lượng huyễn nghiệp, nhất thời đốn tiêu. Vô biên huyễn hạnh, nhất thời bèn đắc
được. Vô lượng chúng sanh huyễn hoá, nhất thời bèn độ tận. Đây tức là dùng huyễn để tu
huyễn. Vì vậy bảo rằng tâm huyễn hoá của chúng sanh lại phải y huyễn mà diệt. Nếu
chưa được như thế, thì phải trải qua ba lần sanh sáu mươi kiếp, tôn Văn Thù làm cha,
kính Quán Âm làm mẹ, thờ Phổ Hiền làm thầy, để nương nhờ thân cận những vị này, cầu
mong xuất sanh tử. Hãy suy nghĩ cho kỹ ! Đây chẳng phải bảo rằng Ta vi người huyễn
hoá, và lời nói cũng không chân thật. Tham khán ! Tham khán !
---o0o---
Bài 34 : KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN PHÁP CẨM.
Pháp Cẩm tự bảo tánh nhiều sân hận. Lão nhân vì thế mà chỉ dạy phương tiện để
điều phục, tức là pháp môn nhẫn nhục.
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
Đức Phật thiết giáo, chú trọng về lý dứt sanh tử, thông tới cõi u minh, đạt đến tình
thức loài quỷ thần, độ tận tất cả chúng sanh, dẹp trừ tất cả khổ não. Vì vậy bảo rằng từ bi
làm duyên. Gieo duyên với chúng sanh khổ não. Nếu chúng sanh không bị khổ não kịch
liệt, thì không thể thấy lòng từ bi quảng đại. Do đó mà xuất ra giáo lý Du Già. Tiếng
Phạn chữ Du Già, nơi đây gọi là Tương Ưng, tức bảo rằng tâm và cảnh hoà hợp như một.
Song, giáo có hiển và mật. Hiển tức là chỉ thẳng bản nguyên tâm thể của chúng sanh,
khiến họ liễu ngộ, để thoát khỏi sự ràng buộc ràng rịt của sanh tử. Lại nữa, chư Phật ấn
tâm là dùng thần chú để gia trì, khiến chúng sanh mau thoát các khổ não kịch liệt. Do đó
mới thiết lập quy thức độ sanh.
Chân ngôn vốn từ bộ Quán Đảnh, để phá trừ u minh, và cứu vớt vong hồn lưu lạc.
Khởi đầu do tôn giả A Nan, vào một buổi tối nọ, đang ngồi thiền trong rừng, thì thấy quỷvương hiện ra trước mặt, cầu khai mở pháp thí thực, cùng chú nguyện thức ăn nước uống,
để tế độ hà sa chúng sanh. Nhân duyên này xuất phát từ thần tăng Tây Vực, rồi lưu truyền
qua cõi Chấn Đán. Từ đó, ngài tam tạng Bất Không tuyên dương mật ngôn. Dần dần đến
đời vua Lương Võ Đế ; nhân hoàng hậu Hy Thị bị đoạ làm thân rắn mãng xà, hiện hình
cầu cứu độ, nên nhà vua thỉnh hoà thượng Chí Công, vân tập chư đại đức sa môn, soạn ra
văn nghĩa đàn tràng Thuỷ-Lục, u hiển linh kỳ, tức thông ba cõi, thấu tới loài tình thức. Từ
đó đến nay, tăng đồ nương theo nhân này, làm Phật sự Du Già. Đến đời vua Hồng Võ
(Chu Nguyên Chương), ông lập quy chế, dùng ba khoa thiền, giảng, Du Già để độ tăng ;
dùng ba bộ kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già, Kim Cang của Phật Tổ để khảo hạch chư tăng
giảng pháp và hành thiền ; dùng diệm khẩu thí thực, văn sao tân tế để khảo hạch chư tăng
hành pháp Du Già. Nếu đậu một trong những điều kiện thi đó, thì mới được làm tăng.
Ngày nay ở vùng nam bộ, chùa Thiên Giới theo thiền, chùa Báo Ân theo giảng pháp,
chùa Năng Nhân theo Du Già. Nơi nơi đều tôn thủ chế độ của quốc gia. Song, kể từ đó,
pháp này dần dần theo thế tục mà sinh lắm điều tệ hại. Họ dám phá luật nghi, xem như
trò chơi, làm mất đi bổn hoài độ sanh của Như Lai. Biết chư hiếu tử thương mến thân bằng quyến thuộc, nên ngài thuyết ra chân ngôn mật chú, để diễn bày tâm ấn của Như Lai
; thuyết một bài kệ bèn biến địa ngục thành tịnh độ ; tuyên một lời, khiến vạc dầu trở
thành ao sen ; pháp âm vang khắp chốn, khiến tội đều tiêu diệt ; nghe tiếng chuông bèn
8/4/2019 Duong May Trong Coi Mong - Ham Son Dai Su - Nguyen Phong Dich
trở về quê quán, thì sao lại cho là việc nhỏ ! Bỏ mất ý chỉ đó, mà làm những việc vô ích,
khiến tự tổn hại, cứ vẫn chưa tỉnh !
Sở tăng nọ vì muốn học Du Già, nên theo Tuyết Lãng cùng chư đại đức, nghe giảng
kinh luận, bèn hiểu ý chỉ độ sanh của Như Lai, cùng nơi quy hướng. Bùi ngùi vì phápmôn này ngày càng lưu hành thậm tệ, nên lấy quyển văn nghi thức Thuỷ-Lục mà soạn lại
khoa nghi, và tuỳ thời mà sửa đổi ; phân điều chiết lý, chương chương rành rẽ, khiến cho
những ai cầu nguyện, vì thân bằng quyến thuộc, tận khởi tâm thành, thì được cảm ứng.
Ngoài ra, sa môn Thích tử cũng triển chuyển được tam bi, và khởi lòng chí thành, để làm
lợi ích cho chúng sanh, hầu mong không quên mất bổn ý của Như Lai. Soạn tập xong, thì
Thầy tịch mất. Môn nhân chúng ta, phải nên kế thừa chí nguyện của Thầy, mà khắc bản
này để lưu truyền, giúp người làm Phật sự, tránh khỏi sai lầm, phiền hà về những thuậtthần bí. Những ai có ý chí khẩn thiết tinh thành, và hiếu tử vì từ thân trong đời hiện tại,
mỗi mỗi phải tận tâm cầu đạt thần minh cảm ứng, thì công đức này không phải là ít oi.
Hôm nay do lời thỉnh cầu, tôi vì diệu hạnh, và vì những vị có tâm làm lợi ích cho quần
sanh, mà viết lời tựa cho pháp Du Già, hầu mong người người đều biết bổn hoài ý chỉ của