BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Đề tài: NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI HAI MẢNH VỎ LÀM CHỈ THỊ ĐỂ ĐÁNH GIÁ Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG TRONG TRẦM TÍCH KHU VỰC CỬA SÔNG KÔN VÀ ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH Cán bộ hướng dẫn: TS. Võ Văn Minh Người thực hiện: Hoàng Thanh Hải Chuyên ngành: Sinh thái học Khoá học: 2010 - 2012
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tài:
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI HAI MẢNH VỎ LÀM CHỈ THỊ ĐỂ ĐÁNH GIÁ Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG TRONG TRẦM TÍCH KHU VỰC
CỬA SÔNG KÔN VÀ ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Cán bộ hướng dẫn: TS. Võ Văn MinhNgười thực hiện: Hoàng Thanh HảiChuyên ngành: Sinh thái họcKhoá học: 2010 - 2012
Đà Nẵng - Năm 2012
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lý do chọn đề tài
Đô thị hoá – công nghiệp hóa là xu hướng tất yếu của một nền kinh tế
phát triển. Tuy nhiên, nó luôn đồng nghĩa với quá trình làm biến đổi môi trường
tự nhiên ở cả hai khuynh hướng tích cực và tiêu cực. Theo tài liệu của IAEA thì
hiện nay hàng năm độc tố gây bởi các KLN do hoạt động của con người tạo ra
đã vượt qua độc tố tổng cộng của tất cả các chất phóng xạ và thải hữu cơ. Ô
nhiễm KLN có khả năng tích tụ cao, khó loại bỏ do vậy khi xâm nhập vào cơ thể
có hàm lượng vượt quá tiêu chuẩn sẽ ảnh hưởng đến đời sống của các sinh vật,
gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người thông qua chuỗi thức ăn. Các chất ô
nhiễm theo các con sông ra biển và thường tới cửa sông ven biển thì kết tủa, tích
tụ lại trong trầm tích. Do vậy, xác định hàm lượng KLN trong trầm tích tại cửa
sông là rất cần thiết.(UNEP/FAO/WHO, 1996 trích trong Carles et al., 2000).
Sử dụng sinh vật chỉ thị cụ thế là động vật hai mảnh vỏ (sò, vẹm, trai,…) để
đánh giá ô nhiễm KLN trong môi trường là một hướng nghiên cứu được các nhà
khoa học trên thế giới quan tâm (Merlin, 1965; Ferrington., 1983; Doherty,
1993; Oeatel, 1998, Revera, 2003, Phillip, 1994). Qua nghiên cứu cho thấy hàm
lượng KLN trong mô tế bào của những sinh vật này cao hơn nhiều so với trong
môi trường vì thế có thể thông qua đó để đánh giá được chất lượng môi trường
tại khu vực chúng sinh sống (Al-Madfa, 1998; AbdAllah và Moustafa, 2002).
Phương pháp này không đòi hỏi những thiết bị hiện đại hay phải thu mẫu định
kỳ, tần suất thu mẫu ít và chi phí nhỏ, đồng thời đánh giá được những tác động
tổng hợp, lâu dài đối với sinh vật và hệ sinh thái.
Ở nước ta đã có một số tác giả nghiên cứu về khả năng tích lũy KLN
trong các loài hai mảnh vỏ như Đào Việt Hà (2002), Đặng Thúy Bình (2006), Lê
Thị Mùi, Lê Thị Vinh (2005), Đoàn Thị Thắm.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 05 tỉnh, Bình Định là
địa phương có quá trình công nghiệp và đô thị hóa phát triển mạnh của khu vực.
Sông Kôn là sông lớn nhất trong các sông của tỉnh, có tổng diện tích lưu vực (F)
là 3.067 km2, với chiều dài sông chính là 178 km. Lưu lượng tần suất (Q 0,75%)
khoảng 33 m3/s, lưu lượng kiệt (Qkiệt) là 3,8 m3/s, lưu lượng lũ (QLũ) là 5.200
m3/s . Sông bắt nguồn từ vùng rừng núi của dãy Trường Sơn có độ cao 700 -
1.000 m, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến Thanh Quan- Vĩnh Phúc
(Vĩnh Thạnh), chảy theo hướng Bắc Nam, về đến Bình Tường (Tây Sơn), chảy
theo hướng Tây Đông và đến Bình Thạnh sông chia thành 2 nhánh chính: Nhánh
2
Đập Đá chảy ra cửa An Lợi rồi đổ vào đầm Thị Nại; nhánh Tân An có nhánh
sông Gò Chàm cách ngã ba về phía hạ lưu khoảng 2 km, sau khi chảy qua vùng
đồng bằng rồi nhập với sông Tân An cùng đổ vào đầm Thị Nại tại cửa Tân
Giảng (xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước). Tất cả các nhánh sông Đập Đá và Tân
An sau khi đổ vào đầm Thị Nại được thông ra biển qua cửa Quy Nhơn. Độ cao
trung bình của lưu vực khoảng 567 m, độ dốc lưu vực 15,8% và mật độ lưới
sông là 0,65 km/km2
Sông Kôn là con sông lớn có tầm quan trọng rất lớn tới kinh tế, xã hội,
môi trường của Bình Định, có cửa sông với hệ sinh thái khá dồi dào. Trong
nhiều năm trở lại đây do tích tụ chất ô nhiễm có nguồn gốc từ các chất thải sinh
hoạt và ảnh hưởng của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của khu vực… đã
làm tăng nguy cơ ô nhiễm KLN.
Trước những vấn đề trên, việc nghiên cứu sử dụng động vật 2 mảnh vỏ để
quan trắc ô nhiễm KLN đồng thời thông qua đó đánh giá được khả năng ô nhiễm
KLN tại khu vực cửa sông trở nên cấp thiết. Xuất phát từ những cơ sở trên,
chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng tích lũy sinh học các KLN ở
một số loài Động vật hai mảnh vỏ tại khu vực cửa sông Kôn và đầm Thị Nại,
tỉnh Bình Định".
1.2 Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất phương pháp giám
sát ô nhiễm KLN bằng các loài động vật hai mảnh vỏ cho các vùng cửa sông
ven biển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu góp phần đánh giá hiện trạng tích lũy KLN trong trầm tích và
một số loài động vật hai mảnh vỏ, đồng thời đánh giá khả năng giám sát ô nhiễm
KLN vùng cửa sông Kôn, tỉnh Bình Định.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Tình hình nghiên cứu
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tài liệu hướng dẫn khu vực bị ô nhiễm của trung tâm nghiên cứu
môi trường Ltd thì trong số các loài động vật, động vật không xương sống là các
chỉ số hữu ích hơn so với các động vật khác, và động vật không xương sống
dưới nước hữu ích hơn so với động vật không xương sống trên mặt đất khi sử
dụng chúng làm sinh vật chỉ thị cho môi trường bị ô nhiễm.
3
Dữ liệu độc tính cấp tính trên động vật không xương sống nước ngọt và cá
của Úc đã được tổng kết bởi Firth (1981), Hart (1982) và Skidmore và Firth
(1983). Đối với cá tiến hành nghiên cứu KLN Cr và Zn. Đối với động vật không
xương sống nước ngọt, cadmium là kim loại được chú ý nhất tiếp theo sau là
đồng, rồi tới kẽm. Ô nhiễm kẽm đã làm giảm đáng kể sự phong phú và đa dạng
của động vật không xương sống của con sông Molonglo (Weatherley và
(2003). Bioaccumulation of Some Heavy Metals (Cd, Fe, Zn, Cu) in Two
Bivalvia Species (Pinctada radiata Leach, 1814 and Brachidontes pharaonis
Fischer, 1870). Faculty of Fisheries, Ukurova University, 01330 Balcaly,
Adana - TURKEY.
21. Perey Perera (2004). Heavy metal concentrations in the Pacific Oystre
Crassostrea gigas. Auckland University of Technolo, Auckland.
22. Sari Airas (2003). Trace metal concentrations in blue mussels Mytilus edulis
(L.) in Byfjorden and the coastal areas of Bergen. Master Thesis in Marine
Biology for the degree Candidata Scientiarium.
12
7. DỰ KIẾN KINH PHÍ THỰC HIỆN LUẬN VĂN
7.1. Dự kiến tổng kinh phí: 11.000.000 (Mười một triệu đồng chẵn)
7.2. Dự kiến kinh phí cho các mục chi: (Đơn vị tính: Đồng)
Stt Nội dung chiĐơn vị
tínhSố lượng Đơn giá Thành tiền
1 Tài liệu - - - 500.000
2Đà Nẵng – Quy Nhơn và ngược lại
Chuyến 6 200.000 1.200.000
3 Công lấy mẫu Đợt 2 500.000 1.000.0004 Phân tích mẫu Mẫu 40* 100.000 4.000.0005 Xử lý số liệu Công 20 50.000 1.000.0006 Viết đề tài Công 1 1500.000 1500.0007 In ấn, photo - - - 1.000.0008 Chi phí khác - - - 800.000
Tổng cộng 11.000.000
(*)Tổng số mẫu = 2 đợt x [(3 khu vực thu mẫu x 6 mẫu/ 1khu vực)] +1 mẫu trắng + 1 mẫu thêm chuẩn + 2 mẫu lặp)]
8. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN HOÀN THÀNH LUẬN VĂN
Stt Thời gian Nhiệm vụ Dự kiến kết quả
1 03/2012 – 06/2012Khảo sát thực địaThu thập tài liệu thứ cấp
Khảo sát để chọn được đối tượng nghiên cứu (động vật, KLN)Thu thập được các tài liệu cần thiết
2 07-08/2012Tiến hành thu mẫu đợt 1 và phân tích
Có được các kết quả phân tích đợt 1
3 08/2012- 10/2012Xử lý các số liệu đợt 1 và viết bài
Đánh giá được kết quả quan trắc của đợt 1.
4 01-02/2013Tiến hành thu mẫu đợt 2 và phân tích
Đánh giá được kết quả quan trắc của đợt 2.
5 02/2013Tổng hợp kết quả 2 đợtViết luận văn
Bản thảo
6 02/2013 Chỉnh sửa luận văn Luận văn hoàn chỉnh
13
9. CHỮ KÝ CỦA KHOA PHỤ TRÁCH CHUYÊN MÔN, NGƯỜI HƯỚNG