Du khảo Hoa Kỳ Sau thảm hoạ 11 tháng 9 Phạm Việt Long Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng thống G.W.Bu-sơ tuyên bố: "Ngày hôm nay chúng ta đã trải qua một thảm kịch của dân tộc". CHƯƠNG I. TRÁI ĐẤT NÓNG LÊN Lúc này, Hà Nội đang chuyển mùa. Đã có những đợt gió Đông Bắc se se lạnh. Vậy mà trái đất đang nóng lên. Một sự kiện dữ dội nhất mở đầu thiên niên kỷ mới đã xẩy ra: hai toà nhà thuộc Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại thành phố Niu-Yoóc Hoa Kỳ bị hai máy bay đâm thẳng vào, nổ tung, sụp đổ. Vào chính cái đêm 11 tháng 9 năm 2001 ấy, nghe Hưng, cậu con rể, thông báo, tôi không tin được. Bởi tính cậu ta hay bông đùa, và cũng bởi cái tin cậu ta đem lại quá đột ngột. Ai mà tin được rằng một cường quốc như Hoa Kỳ mà lại bị đòn đau đến như thế.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Du khảo Hoa Kỳ Sau thảm hoạ 11 tháng 9
Phạm Việt Long
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng thống G.W.Bu-sơ tuyên bố: "Ngày hôm nay chúng ta đã trải qua một thảm kịch của dân tộc".
CHƯƠNG I. TRÁI ĐẤT NÓNG LÊN
Lúc này, Hà Nội đang chuyển mùa. Đã có những đợt gió Đông Bắc se se lạnh. Vậy mà trái
đất đang nóng lên. Một sự kiện dữ dội nhất mở đầu thiên niên kỷ mới đã xẩy ra: hai toà nhà
thuộc Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại thành phố Niu-Yoóc Hoa Kỳ bị hai máy bay đâm
thẳng vào, nổ tung, sụp đổ.
Vào chính cái đêm 11 tháng 9 năm 2001 ấy, nghe Hưng, cậu con rể, thông báo, tôi không
tin được. Bởi tính cậu ta hay bông đùa, và cũng bởi cái tin cậu ta đem lại quá đột ngột. Ai mà tin
được rằng một cường quốc như Hoa Kỳ mà lại bị đòn đau đến như thế.
Tới khi cậu con rể tôi nghiêm mặt nói rằng chính thằng bạn ở tận Đức gọi điện về báo tin
này rồi vội vã xách xe chạy đến khách sạn để xem truyền hình thu qua vệ tinh về thảm hoạ 11
tháng 9, tôi mới tin đó là sự thật.
Ngay sáng hôm sau, trên các mặt báo trong nước, từ trung ương đến địa phương, đã in
nổi bật tin về thảm hoạ nói trên: "Nước Mỹ bị tấn công: 9 giờ sáng giờ Niu-Yoóc, một máy bay
Boeing 767 của hãng hàng không Mỹ American airlines chở 81 hành khách và phi hành đoàn 11
người trên đường bay từ Bô-xtơn đi Lốt-an-giơ-lét (chuyến bay số 11) đã đâm vào toà nhà 110
tầng khu Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới ở Niu-Yoóc. Khoảng 20 phút sau vụ nổ thứ
nhất, một máy bay khác cũng của hãng này từ Oa-sinh-tơn đi Lốt-an-giơ-lét (chuyến bay số 77)
chở 58 hành khách và phi hành đoàn 6 người, đã lại đâm vào khối nhà phía Nam của chính
Trung tâm Thương mại này. Những tin tức đầu tiên cho biết có ít nhất 6 người bị chết, hơn
1.000 người khác bị thương. Sau đó ít phút có một tiếng nổ lớn làm phần lớn của toà nhà chọc
trời này bị sập. Nhiều nguồn tin cho biết hiện chưa thể xác định chính xác số người chết và bị
thương, nhưng tất cả bệnh viện ở Niu-Yoóc đã quá tải. Thảm hoạ xảy ra khi khoảng 40.000
người đang làm việc tại Trung tâm Thương mại Thế giới, nơi mỗi ngày có khoảng 150.000 người
vào mua sắm, giao dịch, kinh doanh và giải trí.
Cũng trong ngày 11 tháng 9, một máy bay thương
mại của hãng hàng không Mỹ United Airlines đã lại đâm
xuống Lầu Năm góc, làm ít nhất 7 người bị thương, khiến
24.000 nhân viên của Lầu Năm góc phải sơ tán khẩn cấp
khỏi nơi làm việc. Các nhân viên Liên hợp quốc cũng được
lệnh sơ tán khỏi trụ sở ở Niu-Yoóc. Những người chứng
kiến cho biết họ nhìn thấy các xe tải bị chất xung quanh
Nhà Trắng và khói bốc lên từ phía nam của dinh Tổng
thống. Trong lúc đó ở khu nhà Quốc hội trên đồi Ca-pi-tơn
cũng xảy ra những vụ nổ. Một vụ đánh bom bằng xe hơi đã
xảy ra trước cổng Bộ Ngoại giao Mỹ.
Tổng thống G.W.Bu-sơ tuyên bố: "Ngày hôm nay
chúng ta đã trải qua một thảm kịch của dân tộc".
CNN bình luận: "Từ thời nội chiến, đến bây giờ nước Mỹ
lại chịu cảnh chiến tranh."
Những ngày tiếp theo, báo chí của chúng ta tiếp tục đưa tin, ảnh về thảm hoạ 11 tháng 9:
Hàng vạn người chết và bị thương. Các hoạt động cứu nạn đang được xúc tiến. Quân đội Mỹ
trong tình trạng báo động cao nhất. Lãnh đạo và nhân dân nhiều quốc gia trên thế giới chia
buồn với Chính phủ và nhân dân Mỹ. Tính đến chiều 12-9, Mỹ vẫn chưa xác định được chính xác
số người chết, tuy nhiên các quan chức Mỹ ước tính số người thương vong có thể rất lớn, riêng
số người chết trong vụ tiến công Lầu Năm góc lên tới 800 người. Số người chết và bị thương tại
Trung tâm Thương mại Thế giới ước tính khoảng mười nghìn người; toàn bộ 266 hành khách và
phi hành đoàn của bốn máy bay bị bắt cóc đều thiệt mạng. Ngoài ra, khoảng 300 nhân viên cứu
hộ, trong đó có 200 lính cứu hoả, 78 cảnh sát Niu-Yoóc đã chết hoặc mất tích. Tổng thống Mỹ
coi cuộc khủng bố là "hành động chiến tranh". Cộng đồng Hồi giáo trên thế giới đang đưa ra
thông điệp chứng tỏ rằng người Hồi giáo không phải là kẻ thù gây ra các cuộc tiến công khủng
bố này, và cho rằng Mỹ nên xem xét lại chính sách đối ngoại của mình. Mỹ nỗ lực giải quyết hậu
quả thảm hoạ ngày 11-9. Giới tình báo và an ninh Mỹ đang bị hoảng loạn. Tổng thống G.W.Bu-
sơ ra lệnh bắn các máy bay dân dụng khả nghi. Mỹ đang "dọn chỗ" cho cuộc tấn công vào Áp-
ga-ni xtan. Mỹ sẽ đánh vào bất kỳ quốc gia nào chứa chấp Bin Lađen . Mỹ đã phát lệnh động
viên 50.000 quân dự bị. Người Mỹ cố gắng trở lại cuộc sống bình thường. Mỹ gia tăng sức ép
quân sự đối với Áp-ga-ni-xtan. Mỹ triển khai chiến dịch "Công lý vô tận" tấn công Áp-ga-ni-
xtan...
Tình hình diễn biến quá nhanh theo chiều hướng căng thẳng. Lúc này, Chính phủ Việt
Nam đã thể hiện thái độ qua phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao, bà Phan Thuý
Thanh: "Chúng tôi cho rằng Hoa Kỳ phải thận trọng, xác định chính xác thủ phạm, và trong hành
động của mình phải tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền quốc gia các nước, không làm phức tạp quan hệ quốc tế
và tránh những hành động gây thiệt hại đến tính mạng và tài sản của thường dân vô tội."
Cũng chính vào thời điểm này, Hoa Kỳ còn gây căng thẳng cho bầu không khí thế giới bởi
đưa ra thông qua cái gọi là "Đạo luật nhân quyền Việt Nam". Dư luận thế giới và trong nước vừa
lên án khủng bố, vừa phản đối Mỹ phát động chiến tranh, đồng thời đòi hỏi Mỹ phải huỷ bỏ cái
đạo luật phi lý về Việt Nam nói trên. Tình hình hết sức phức tạp. Mỹ đã nắm lấy thời cơ để thực
hiện chiến lược của mình, cứng rắn chia thế giới thành hai cực: một cực chống khủng bố, mà
muốn thể hiện tinh thần chống khủng bố của mình thì phải ủng hộ Mỹ, và một cực không ủng
hộ Mỹ, có nghĩa là ủng hộ khủng bố. Tuy vậy, nhân loại vốn yêu chuộng hoà bình, cho nên dù
muốn loại trừ nạn khủng bố khỏi xã hội, mọi người đều yêu cầu Hoa kỳ phải tôn trọng Hiến
chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế nếu tiến công trả đũa các cuộc khủng bố.
Mười ngày sau thảm hoạ 11-9 tại Mỹ, báo chí vẫn không ngớt đưa tin về điểm nóng Hoa
Kỳ: Đến ngày 20-9, cơ quan cứu hộ xác định 6.333 người mất tích... Hầu hết người Mỹ đã trở lại
với công việc hàng ngày. Tổng thống Mỹ đã phát biểu ý kiến trước hai viện Quốc hội Mỹ về
thảm hoạ ngày 11-9. Trong bài phát biểu này, ông Bu-sơ tuyên bố sẽ sử dụng "mọi vũ khí cần
thiết" trong chiến dịch toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố và kêu gọi quân đội Mỹ "sẵn sàng
chiến đấu". Cỗ máy chiến tranh của Mỹ đang tăng tốc: Lực lượng quân sự Mỹ ồ ạt đổ vào vùng
vịnh. Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà không suy tính những hậu quả thảm khốc của
nó. Biểu tình kêu gọi không trả đũa tàn bạo. Mỹ tăng cường áp sát Áp-ga-ni-xtan.
Cách thức tuyên truyền rầm rộ và những lời phát biểu cứng rắn của giới cầm quyền Hoa
Kỳ đã làm cho tâm lý chiến tranh bùng phát ở Mỹ. Theo kết quả thăm dò dư luận của ABC và
báo Bưu điện Oa-sinh-tơn, có 8 trong số 10 người Mỹ được hỏi cho rằng bài phát biểu của ông
Bu-sơ đã làm tăng niềm tin vào khả năng giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay, 9 người ủng hộ
cách giải quyết của ông Bu-sơ và 75% ủng hộ lời kêu gọi của ông phát động cuộc chiến tranh
quy mô rộng lớn chống khủng bố. Các nhà quan sát cho rằng sự cổ vũ của các nghị sĩ và các
phương tiện truyền thông Mỹ giống như "một kịch bản chính trị" nhằm khích lệ binh lính và
thanh niên Mỹ bước vào cuộc chiến. Như để đốt cháy rực lên nữa ngọn lửa hận thù, chính
quyền Mỹ báo động trước nghi ngờ về cuộc khủng bố vòng hai, đồng thời tuyên bố tấn công bất
chấp Liên hợp quốc.
Trong khí đó, ngay giữa lòng nước Mỹ, người Hồi giáo phải sống trong lo sợ bị trả thù.
Hội đồng quan hệ Mỹ - Hồi giáo ở Oa-sinh-tơn đã ghi nhận được hơn 350 vụ đe doạ bạo lực,
phân biệt đối xử, tấn công người Hồi giáo ở Mỹ kể từ khi thảm hoạ xảy ra. Vụ giết hại một
người gốc Ai Cập bán tạp phẩm ở Lốt-An-giơ-lét hôm chủ nhật là sự việc mới nhất trong tâm lý
trả thù người Arập đang xuất hiện ở Mỹ....
Con số người thiệt mạng được báo chí ta công bố theo dự đoán của báo chí Mỹ lúc đầu
có tới khoảng 10.000 đến 20.000 người! Thật là khủng khiếp! Rồi sau đó, số người bị mất tích
được công bố giảm dần... Không hiểu vì lý do gì, mà các nguồn tin phương Tây lại thiếu thận
trọng trong việc công bố số nạn nhân của thảm hoạ đến thế? Để tạo mối quan tâm? Để "giật
gân" câu khách? Hay đơn thuần chỉ là vì sự phỏng đoán lúc đầu chưa thật chính xác? Dù sao,
nói về sự chết chóc cũng cần thận trọng, không nên phóng đại. Tính mạng một con người là cả
một vấn đề lớn lao, huống chi đây lại là con số hàng vạn người!
Đọc báo, tôi giật mình: khốn khổ thay nhân dân Áp-ga-ni-xtan khi đất nước này bị Hoa Kỳ
chọn làm mục tiêu "chống khủng bố"! Một đất nước cùng khổ, đang sống dở chết dở bởi nghèo
đói và bởi chế độ hà khắc dưới quyền cai trị của Ta-li-ban, lẽ ra cần được các nước giầu cứu
giúp, đằng này lại sắp trở thành mục tiêu của bom đạn! Chẳng nhẽ thế giới không động lòng
trước một đất nước bị cô lập và nghèo khổ như Áp-ga-ni-xtan sao? Đó là một trong 4 nước
nghèo nhất thế giới. Đã thế, hạn hán lại hành hạ đất nước này suốt 3 năm ròng, làm cho diện
tích có thể trồng trọt tụt xuống còn bằng 12% diện tích đất canh tác. Người nông dân không có
ruộng đất để gieo trồng, không có việc làm và không có lương thực. Sự nghèo đói, bệnh tật đã
làm cho nhân dân nước này chỉ có tuổi thọ trung bình là 43. Chỉ vì những bệnh thông thường,
cứ 4 trẻ em thì có 1 em chết yểu trong vòng 5 năm đầu tiên của đời người! Rồi đây, khi bom
đạn Mỹ và đồng minh trút xuống Áp-ga-ni-xtan, liệu tuổi thọ trung bình của người dân còn
được bao nhiêu? liệu tỷ lệ tử vong của trẻ em sẽ tăng lên đến mức nào? Tôi giật mình còn bởi
lẽ, tại sao lại có những tờ báo tung hô sự trả thù của Mỹ "khách quan" đến thế! Chính nhờ
những thông tin ấy mà lượng báo chí phát hành tăng vọt, có tờ gấp đôi ngày thường, thậm chí
hơn thế nữa. Người ta còn chụp lại một số bài báo về cuộc chiến sắp xảy ra, thậm chí còn sục
vào In-tơ-nét kiếm thông tin về chiến tranh để "xuất bản xem liền", bán đầy đường phố! Trên
đường phố thành phố Hồ Chí Minh, vào lúc xẩm tối, tôi thấy từng tốp thanh niên nam nữ đứng
tràn trên mặt đường bán tận tay những người ham tin những bài báo, những tờ thông tin về
tình hình Mỹ - Áp-ga-ni-xtan. Tôi chỉ muốn nói to lên để mọi người nghe lời khẩn cầu của mình
là các phương tiện thông tin hãy có trách nhiệm hơn với tính mạng con người, cần thận trọng
trước thảm hoạ của nhân loại!
Mà bây giờ, một cuộc chiến tranh được phát động nhanh quá, đơn giản quá. Ngày xưa,
khi Pháp chuẩn bị xâm lược Việt Nam, chúng phải mất cả thế kỷ thăm dò, nào là truyền giáo,
nào là giao thương... Rồi khi Mỹ muốn xâm lược Việt Nam, chúng cũng phải mất mấy chục năm
"đệm", thay chân Pháp từng bước. Còn bây giờ, vèo một cái, chỉ cần dăm ba ngày cùng vài lời
tuyên bố về sự khủng bố là Mỹ nghiễm nhiên tiến hành ngay một cuộc chiến tranh tuyên bố
hẳn hoi với một quốc gia! Tốc độ của thời hiện đại quả là khủng khiếp! Việc quyết định một chủ
trương lớn như tiến công một quốc gia, Mỹ làm nhanh tới mức chưa kịp có phương án triển
khai (Lầu Năm góc đang bối rối với các phương án tấn công - Báo Nhân Dân, 25-9). Mỹ đã cướp
thời gian, tận dụng sự ngập tràn thông tin đang có lợi để thực hiện âm mưu bá chủ thế giới của
mình. Thế nhưng, Thế giới vẫn nhận biết bản chất sự việc: "Không thể ngăn chặn khủng bố nếu
vẫn còn áp bức", đó là nhận định của Thủ tướng Ma-lai-xi-a Ma-ha-thia Mô-ha-mát. Ông cho
biết Ma-lai-xi-a không muốn các nước vô tội trở thành nạn nhân của cuộc săn lùng khủng bố mà
Mỹ phát động. Ông cho rằng săn lùng khủng bố chỉ bằng vũ khí sẽ không giải quyết được vấn đề
một cách triệt để chừng nào sự tức giận của những người bị áp bức vẫn còn tồn tại. Theo ông,
đã đến lúc cộng đồng quốc tế phải chú ý giải quyết các vấn đề, điều mà khiến người ta không
còn sự lựa chọn nào khác phải tiến hành biện pháp khủng bố. Ông nói: "Chúng ta cần ngăn chặn
sự áp bức đối với nhân dân Pa-lex-tin, Irắc, Tres-xnhi-a và những nơi khác." (Báo Nhân Dân,
25/9).
CHƯƠNG II. HOA KỲ LÀ THẾ
1. Bay về vùng lửa
Như vậy là Niu-Yoóc, một thành phố hiện đại và giầu sang bậc nhất thế giới, đã trở thành
điểm nóng của toàn cầu và ngọn lửa hận thù đang từ đây toả rộng ra, làm cho trái đất nóng lên.
Chính trong không khí oi nồng toàn cầu ấy, theo kế hoạch giữa Bộ Văn hoá Thông tin và quỹ
FORD về khảo sát văn hoá tại Mỹ, chúng tôi lên đường bay về vùng lửa Niu-Yoóc.
Nhiều người hỏi chúng tôi rằng đi vào thời điểm này có ngại "dính" khủng bố không? Đã
thế, lại còn bệnh than với những gói bột mầu trắng đáng sợ nữa! Chúng tôi không lo ngại,
nhưng hơi băn khoăn: các bạn Mỹ đang bận với việc khắc phục thảm hoạ 11 tháng 9 và đang
trong bầu không khí nóng của chiến tranh, liệu có bình tâm làm việc với chúng tôi không? Và rồi
"gió cứ thổi, đoàn người cứ tiến", chúng tôi lên đường.
Mức độ suy giảm của hoạt động hàng không quốc tế sau thảm hoạ 11 tháng 9 tại Mỹ thể
hiện rõ nét dần từ sân bay Nội Bài, qua sân bay Đài Bắc, đến sân bay Niu-Yoóc, với số lượng
khách giảm đáng kể. Chuyến bay CI.012 của Hàng không Việt Nam kết hợp với Hàng không Đài
Loan ít khách tới mức có thể tìm chỗ nằm thoải mái trên các hàng ghế trống trải. Sân bay Đài
Bắc vắng vẻ. Hun hút dọc đường nhà ga chỉ có một tốp khách Việt Nam gồm 10 người cộng với
2 người Hoa. Chúng tôi ngồi rải rác trên các dãy ghế nhựa chờ làm thủ tục để vào khách sạn
nghỉ tạm, mai lại bay tiếp sang Hoa Kỳ. Chuyến bay xuyên đại dương, vượt 12 múi giờ từ Việt
Nam đến Mỹ quả là vất vả. Cũng không hiểu vì lý do gì mà mấy anh chàng an ninh Đài Loan này
làm việc lề mề thế, săm soi cả tiếng đồng hồ trên mấy tấm hộ chiếu, làm cho chúng tôi chỉ còn
biết ngồi ngáp vặt!
Qua mỗi sân bay, càng gần tới Mỹ, chúng tôi càng thấy biện pháp an ninh được xiết chặt
hơn. Tại sân bay Nội Bài, có đôi chút thay đổi qua bóng dáng một thiếu tá công an mặc sắc
phục, đeo súng và cầm máy bộ đàm quan sát ở đoạn tiếp giáp giữa đường ống dẫn khách và
cửa máy bay. Sân bay Đài Bắc nhìn bề ngoài không có dấu hiệu gì đặc biệt. Nhưng khi từ khách
sạn trở lại nhà ga để đi Niu-Yoóc, chúng tôi mới thấy nhân viên an ninh ở đây làm việc cẩn thận
đến mức nào. Đoàn chúng tôi qua cổng kiểm soát. Mọi người qua bình thường, riêng anh Toàn
được mời đứng lại, mở túi xách cho nhân viên an ninh khám. Hoá ra ở trong túi có một con dao
dùng để gọt trái cây. Lập tức, nhân viên an ninh mời anh vào lập biên bản, giữ lại dao và đưa
một tờ giấy biên nhận. Họ cho biết khi qua Niu-Yoóc, anh Toàn sẽ được nhận lại con dao.
Vào lúc 18 giờ, hành khách của chuyến bay Niu-Yoóc đã đông, sân bay báo cho mọi người
phải rời phòng chờ, đi ngược lên trên gác làm lại thủ tục an ninh. Mọi người xếp hàng đôi chờ
đến lượt kiểm tra theo kiểu thủ công. Có lẽ lúc này, các phương tiện hiện đại không được tin
tưởng bằng con người. Nhân viên an ninh kiểm tra khá kỹ, lục vào từng túi xách, thậm chí móc
cả vào túi áo chị Đào vì thấy có vật nhọn - hoá ra đó là cái bút bi. Anh Ngà có con dao cạo râu
cán nhựa cũng bị giữ lại.
Đến sân bay quốc tế Ken-nơ-đi (Niu-Yoóc) vào hồi 19 giờ 30 giờ địa phương. Khách của
chuyến bay này ngoài người Việt chúng tôi và người Hoa, hầu như không có người các châu lục
khác. Nhìn từ trên cao xuống, Niu-Yoóc hiện ra với những ánh đèn nhấp nháy sáng rực cả một
vùng rộng lớn. Nhà ga sân bay quốc tế Ken-nơ-đi rộng nhưng cũng thấp giống như nhiều nhà ga
sân bay khác trên thế giới. Trong cái mênh mông của nhà ga và trong ánh đèn mù mù, đoàn
khách vào nước Mỹ trở nên nhỏ bé lạ lùng. Mọi người xếp hàng theo đường dích dắc của
những rào chắn bằng dây. Các nhân viên Hải quan làm việc cần mẫn và vui vẻ. Một nhân viên
người Mỹ gốc Việt có nước da hồng hào và cái đầu hói gần hết tóc vừa làm thủ tục vừa hỏi
thăm chúng tôi về tình hình Việt Nam. Anh cho biết, đôi ba năm trước đây anh đã về thăm quê
hương và vui mừng thấy cuộc sống tại đó dễ chịu. Anh chúc chúng tôi chuyến viếng thăm vui vẻ.
2. Bề mặt cuộc sống ở Mỹ
Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được các bạn trong quỹ FORD đón tại cửa nhà ga sân bay. Có
4 người ra đón, thì đã thuộc 3 quốc tịch khác nhau: giáo sư Mác-tin Su-lơ-man người Mỹ, anh
Tim Đô-ling, anh Dan J. Mác-tin người Anh và một cô gái người Mỹ gốc Tây Ban Nha có tên là
Ma-ri-sa Lôpơ. Có lẽ đây là biểu hiện đầu tiên trên thực tế tại đất Mỹ cho mọi người thấy rằng
Hoa Kỳ thực sự là một hợp chủng quốc. Đã làm việc nhiều năm ở Việt Nam, có vợ là người Việt,
anh Tim nói thành thạo tiếng Việt. Trong không khí lành lạnh của buổi tối và trong ánh sáng yếu
ớt của những ngọn đèn chiếu từ mấy cái cột tít trên cao, chúng tôi chờ xe tới đón. Ồn ào và náo
nhiệt. Thỉnh thoảng, một chiếc xe cảnh sát lại ào tới, hú còi đinh tai. Mãi không thấy chiếc xe
buýt tới, cô Ma-ri-sa móc điện thoại gọi một lúc rồi trao đổi với anh Tim. Anh Tim thông báo, do
tăng cường an ninh, nhà chức trách không cho xe buýt vào cửa nhà ga đón khách như trước
đây, do vậy chúng tôi phải đi bộ ra vành ngoài. Chúng tôi kéo valy đi ngược con dốc lên đường
lớn. May mà vào cái thời hiện đại này, valy, túi xách đều có bánh xe, cho nên ai nấy khỏi phải lễ
mễ khuân vác, chỉ cần kéo nhẹ nhàng. Tuy vậy, gặp những đoạn đường mấp mô hoặc có bậc,
phải khuân lên đặt xuống, cũng toát mồ hôi. Loanh quanh mất hơn một tiếng đồng hồ mới gặp
xe của Ban Tổ chức. Anh Tim tỏ ra rất băn khoăn, và ngỏ lời xin lỗi về việc này. Xe chạy bon bon
trong không khí đêm không mấy tĩnh lặng. Có một đoạn, xe dừng đột ngột. Ngồi cuối xe, không
rõ điều gì xảy ra, tôi hỏi thì được biết có cảnh sát lên kiểm tra. Nhổm người lên nhìn, trong ánh
đèn xe không sáng lắm, thấy một thiếu nữ mặc cảnh phục, khá trẻ, đẹp. Cô cảnh sát hỏi anh
Tim Đô-ling câu gì đó, lướt nhìn chúng tôi và cười tươi tắn rồi bước xuống xe. Ma -ri-sa cho biết
từ sau thảm hoạ 11 tháng 9, việc kiểm tra dọc đường như vừa rồi là chuyện thường tình. Anh
Tim thông báo ngày mai sẽ đưa chúng tôi đi tham quan Niu-Yoóc, trong đó sẽ đến cả Trung tâm
Thương mại Thế giới. Cô Ma-ri-sa giới thiệu lịch làm việc, căn dặn chúng tôi phải luôn luôn đem
theo giấy tờ, vì hiện nay toàn thành phố thực hiện nghiêm ngặt chế độ kiểm tra an ninh. Ngay
cả trong khách sạn, chỉ những khách nghỉ tại đây mới được vào bên trong, do đó khi muốn lên
thang máy thì phải trình chìa khoá phòng cho nhân viên bảo vệ.
Bạn bố trí cho chúng tôi nghỉ tại khách sạn Minford Plaza, trên đại lộ 8, ngay trung tâm
Man-hát-tan sầm uất nhất của Niu-Yoóc. Đập vào mắt chúng tôi khi xuống xe là bức tượng
tưởng niệm những nạn nhân của thảm hoạ 11 tháng 9. Đó là bức tượng bằng đồng khá to với
hình ảnh một người lính cứu hoả trong tư thế quỳ, đầu cúi vẻ bất lực, nét mặt đau thương. Nơi
đây có những bó hoa, lọ hoa, những tấm ảnh, những ngọn nến của người dân tỏ lòng thương
cảm đối với những nạn nhân.
Chúng tôi được dẫn đi thăm một số khu phố chính và liên tiếp các ngày sau đó được đến
làm việc với trường Đại học Niu-Yoóc, Hội Sân khấu múa, Trung tâm văn hoá Lin-côn, Câu lạc bộ
Sân khấu thể nghiệm, Trung tâm quỹ, Quỹ Tài trợ nghệ thuật Niu-Yoóc, Thư viện công cộng Niu-
Yoóc, Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan... và đi thăm thủ đô Oa-sinh-ton. Nhìn bề ngoài, cuộc
sống nói chung không có gì căng thẳng. Người dân Niu-Yoóc, Oa-sinh-tơn vẫn làm ăn, đi dạo,
xếp hàng mua vé xem nghệ thuật, đến thư viện, thăm bảo tàng... bình thường. Thậm chí, hình
ảnh Bin Lađen còn được in vào áo phông để bán thoải mái trên đường phố Oa -sinh-tơn đồng
thời với hình ảnh nhân vật kẻ thù số một của chính quyền Mỹ này nằm trong vòng ngắm được
dán khắp nơi. Ở đâu cũng thấy người ta bầy bán các hình ảnh của hai toà nhà Trung tâm
Thương mại Thế giới dưới hình thức tranh, ảnh, mô hình... như một hoài niệm đau thương
đồng thời cũng như một cơ hội kiếm tiền. Đến rất nhiều nơi, trước khi vào công sở, chúng tôi
đều bị kiểm tra túi xách. Mọi người dân Mỹ khi vào các công trình quan trọng như bảo tàng, thư
viện, toà tháp Empire... cũng đều bị kiểm tra như vậy.
Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man là Chủ nhiệm khoa Quản trị kinh doanh trong chương trình
quản lý nghệ thuật của Đại học Binh-ham-tơn. Mặc dù đã 65 tuổi và chân đi hơi khập khễnh,
phải chống ba toong, nhưng ông rất nhiệt tình trong vai trò hướng dẫn viên du lịch. Ông cho
biết đường mà chúng tôi đang đi là phố 42, cách đây 4 - 5 năm là phố đầy tội phạm, như ma
tuý, mại dâm, nhưng từ khi có thị trưởng mới, đã được cải tạo, nhờ thế hiện nay rất lộng lẫy và
có rất nhiều bảo tàng, rạp hát. Có rạp hát mang tên hãng Hàng không Mỹ, vì do chính hãng này
tài trợ. Quỹ FORD cũng tài trợ để xây dựng một Trung tâm FORD, tức là một rạp hát rất tốt.
Chúng tôi thấy có một đoàn người đứng xếp hàng bên kia đường. Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man
giải thích đó là những người đang mua vé vào xem nghệ thuật, mua ở đây được giảm một nửa
giá và những người nghèo thường đến xếp hàng mua vé tại đây. Có một rạp hát diễn quanh
năm ngày tháng chỉ một vở kịch Những người khốn khổ mà đã mấy năm nay vẫn có đông người
xem.
Khi đi qua một trụ sở của một đội cứu hoả, chúng tôi thấy có nhiều hoa, ảnh, những
mảnh giấy có chữ viết, nến đang cháy... ở một góc tường. Đó là hình thức tưởng niệm những
người lính cứu hoả bị tử nạn ngày 11 tháng 9 vừa qua. Một anh lính cứu hoả trẻ cho chúng tôi
biết đơn vị anh mất nhiều người, chiếm một phần mười số lính cứu hoả thiệt mạng trong khi
làm nhiệm vụ tại Trung tâm Thương mại Thế giơí.
Chúng tôi đi thăm toà nhà Empire, toà nhà cao nhất nước Mỹ và theo lời nhà chức trách
Mỹ hiện đang bị đe doạ phá huỷ. Chiếc xe chở chúng tôi tìm lối thuận tiện nhất để tới đó. Anh
Đíc, người lái xe, cho biết do tình hình an ninh, mà việc đi lại của xe cộ trở nên vô cùng khó
khăn. Anh than thở rằng đã phải chạy vòng vèo, len lỏi qua nhiều đường phố mới tới đón được
chúng tôi... Tới gần toà nhà Empire thì xe phải dừng lại - để đảm bảo an ninh, người ta không
cho các loại xe tiếp cận toà nhà. Chị Thuỷ, cán bộ Vụ Hợp tác quốc tế, cùng đi trong đoàn, ngạc
nhiên vì so với trước, lượng người vào thăm toà nhà quá ít ỏi. Chị cho biết, trước đây, tại gia n
chờ này người đông tới mức nghẹt thở và muốn lên tới tầng 86 để quan sát Niu-Yoóc, ít nhất
phải xếp hàng 3 giờ đồng hồ, còn bây giờ thì người lưa thưa, chờ lên tham quan chỉ mất chừng
chục phút. Mọi người phải qua khâu kiểm tra kỹ càng chẳng khác nào kiểm tra tại sân bay. Lên
đến tầng 80, khi chuyển cầu thang máy, chúng tôi thấy có một tốp cảnh sát dắt chó lượn lờ
quanh đoàn khách tham quan. Từ tháp cao nhìn xuống, do mù bao phủ, chúng tôi không thấy rõ
khu vực toà nhà Thương mại thế giới, chỉ thấy mấy làn khói vương vấn. Cần nói ngoài lề một
chút là từ hôm tới Niu-Yoóc, quan sát nhà cửa, cách thức làm ăn, tôi thấy rõ người Mỹ rất thực
dụng, tính mục đích rất cao. Có thể thấy rõ điều đó ở mọi nơi, mọi lúc: Nhà cửa rất cao, chọc
trời để tăng diện tích sử dụng, biến cả thành phố thành những thung lũng hẹp thiếu ánh nắng
và rất ít khoảng trống dành cho cây xanh, vườn hoa. Người ta chỉ quan tâm tạo hình khối và
công năng của ngôi nhà chứ ít quan tâm đến đường nét, cũng ít quan tâm đến sự trang trí mặt
tiền. Điều này khác hẳn với lối kiến trúc Châu Âu hay Châu Á. Tôi đã từng thấy ở Đan Mạch, khi
xây lại nhà ở mặt phố, chủ nhà buộc phải lập giàn giáo chằng chống giữ nguyên mặt tiền ngôi
nhà cổ, chỉ được phép thay đổi cấu trúc bên trong toà nhà. Hay ở Pháp, có thể nói mỗi mặt tiền
toà nhà cổ là một tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ. Còn ở đây, thì chủ yếu là các nhà hình hộp cao
lừng lững, có khi lắp kính đen xì, có khi mặt tiền bị che gần hết bởi các loại quảng cáo. Thậm chí,
rất nhiều ngôi nhà được lắp cầu thang sắt cạp bên ngoài tường để người trong nhà thoát hiểm
khi xảy ra sự cố, trông không có chút mỹ quan nào. Đã vậy, người Mỹ lại tính toán kỹ đến nỗi chỉ
làm cầu thang đó lơ lửng đến ngang sàn tầng một, khi cần sử dụng thì kéo xuống, trông cụt
hẫng đến bần tiện !
Khi tham quan xong toà tháp Empire, xuống đường, chúng tôi gặp hai quân nhân mặc
quân phục Mỹ đang quay phim. Họ đạo diễn cho một tốp người đứng trước ống kính đồng
thanh hô "Niu-Yoóc! Niu-Yoóc! Chúng tôi cảm ơn những người đảm bảo an ninh!" Chúng tôi
cảm thấy rằng dù biện phiện pháp an ninh được tiến hành bí mật hay công khai, nhưng hình
bóng của nó vẫn in đậm trong từng đường nét của cuộc sống Niu-Yoóc. Ngày cũng như đêm,
chúng tôi thường xuyên nghe tiếng còi hú của xe cảnh sát, xe cứu hoả hay xe cứu thương. Có
hôm, vào 3 giờ sáng, cả khu trung tâm Man-hát-tan náo động lên trong tiếng còi hú của xe cảnh
sát và tiếng ô tô chạy rầm rập. Chúng tôi mở cửa sổ ngó ra, không rõ vì sao lại huyên náo thế?
Sáng dậy, thấy không khí vẫn bình thường. Hình như các lực lượng an ninh Mỹ thích hú còi,
chạy xe rầm rập để phô trương thanh thế cho nên mới làm cho thành phố này luôn luôn náo
động như vậy. Đường phố Niu-Yoóc trước đây thường bị ùn tắc, thì nay càng dễ ùn tắc bởi lệnh
cấm đường thường xẩy ra một cách đột xuất. Đoàn chúng tôi bị chậm đến nơi làm việc nhiều
lần cũng do cấm đường. Các bạn Mỹ giải thích với chúng tôi rằng cấm đường đột xuất là biện
pháp gây trở ngại cho bọn khủng bố, ngăn chặn việc di chuyển của chúng. Có nhiều khu vực,
mọi người đều phải gửi xe ô tô ở vòng ngoài, chỉ được đi bộ vào mà thôi. Đặc biệt, các khu vực
quan trọng đều bị cấm. Không ai được đến gần khu vực Lầu Năm góc. Cũng do các biện pháp an
ninh quá ngặt nghèo mà người ta đã không cho khách lên đảo để tham quan tượng Nữ thần Tự
do như trước. Ban Tổ chức bù lại bằng cách bố trí chúng tôi đi phà vòng quanh đảo để ngắm
bức tượng nổi tiếng ấy từ xa. Gió thổi lồng lộng khiến chúng tôi ớn lạnh. Sóng nước miên man,
mây xám cuồn cuộn và những cánh chim mòng biển dập dìu trong không trung càng tôn vẻ uy
nghi cuả Nữ thần Tự do và gợi nên cảnh thanh bình... Có lẽ người Mỹ quá cẩn trọng hoặc cố
tình làm ra cẩn trọng để thu hút sự chú ý và "thông cảm" của thế giới, cho nên đã làm cho du
khách mất một chuyến viếng thăm thú vị là chui vào "bụng" Nữ thần Tự do mà xem một bảo
tàng về lịch sử nước Mỹ. Cũng có lẽ do sự tuyên truyền thái quá về nạn khủng bố trên đất Mỹ,
mà lượng người đến thăm Hoa Kỳ giảm hẳn đi. Các bạn Mỹ cho biết sau thảm hoạ 11 tháng 9,
ngành du lịch giảm khoảng 40% lượng du khách. Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man nói rằng có rất
nhiều chương trình làm việc giữa người nước ngoài với Mỹ bị huỷ bỏ, nhưng đoàn Việt Nam vẫn
giữ kế hoạch đến Mỹ, khiến các bạn hết sức cảm động, nhiều người, trong đó có cả các nhân
viên an ninh, còn tỏ ra vô cùng kinh ngạc.
Vì chương trình làm việc tại Niu-Yoóc khá dầy đặc, chúng tôi chỉ có thời gian một ngày
thăm thủ đô Oa-sinh-tơn. Xuất phát từ 5 giờ 30 sáng, xe chúng tôi bon bon trên đường cao tốc
rộng và nhẵn với 4 đến 6 làn đường. Phải nói người Mỹ rất biết bảo vệ thiên nhiên của mình,
cho nên dọc đường xe là những cánh rừng nối dài, lá xanh, lá đỏ, lá vàng rực rỡ như bức tranh
sơn dầu khổng lồ. Biết giữ thiên nhiên cho mình nhưng Mỹ không hề quan tâm đến môi trường
chung của cả thế giới. Mỹ là nước chiếm một phần tư lượng khí thải công nghiệp trên toàn thế
giới, nhưng vào đầu năm nay, Tổng thống Busơ đã tuyên bố Mỹ rút khỏi Nghị định thư Ki -ô-tô vì
cho rằng Nghị định này không công bằng và gây thiệt hại cho các nhà sản xuất ở Mỹ. Chẳng qua,
Nghị định này quy định các nước công nghiệp phải giảm lượng khí thải do hoạt động sản xuất
công nghiệp, trong đó giảm khí thải độc hại carbon dioxide xuống mức trung bình 5,2% từ năm
1990 đến năm 2012. Thế là Mỹ tự cho phép mình tha hồ "bĩnh" chất thải độc hại vào không khí,
mặc cho hàng trăm nước khác đang ra sức giảm thiểu sự đầu độc môi trường do sản xuất công
nghiệp gây ra.
Dọc đường xe có những trạm bán xăng cùng với cửa hàng điểm tâm, giải khát. Đi được
gần nửa đường, xe ghé vào một trạm để đổi lái xe. Ở Mỹ, có quy định lái xe chở khách không
được phép chạy liên tục nhiều giờ cho nên có những trạm để lái xe chờ thay ca. Một lái xe đã
cứng tuổi, cao to, xách túi từ trong một căn phòng nhỏ của ngôi nhà trệt đi ra, lên xe, và lái xe
của chúng tôi xách túi, vào thế chỗ ở căn phòng đó. Anh ta sẽ nghỉ ngơi, chờ đến khi xe chúng
tôi quay lại, sẽ lại lái xe về Niu-Yoóc. Xe chạy tới sông Pô-tô-mác, dòng sông êm ả trải rộng
trước mắt khiến tôi nhớ tới hồi Mỹ còn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, có anh Mô-ri-
xơn, công dân nước Mỹ, đã tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh đó, và nhà thơ Tố Hữu của
chúng ta đã có bài thơ về anh với dòng sông Pô-tô-mác này. Ngày nay, Mỹ tiến hành chiến tranh
ở Áp-ga-nit-xtan, lại xuất hiện những người Mỹ yêu hoà bình, phản đối chiến tranh. Trên đường
phố Oa-sinh-tơn, tôi đã nhìn thấy một đoàn người đi bộ căng biểu ngữ đòi Mỹ chấm dứt ném
bom Áp-ga-nitx-tan. Nhìn chung, cảnh sắc Oa-sinh-tơn êm ả hơn Niu-Yoóc: nhà thưa hơn, thấp
hơn, nhiều cây và những khoảng trống, cùng sông, hồ, đỡ huyên náo và ngột ngạt. Có những hồ
nước mênh mông gợn sóng, những bãi cỏ xanh rì, những vườn cây toả bóng mát và những chú
sóc xuống tận bãi cỏ nhảy nhót. Người dân vẫn bình thản đi dạo trên đồi Ca -pi-tơn, thăm khu
tưởng niệm Lin-côn, thăm các bảo tàng, thăm nhà Quốc hội. Chỉ có lực lượng an ninh là làm việc
căng thẳng. Hồi nãy, gần với khu đồi Ca-pi-tơn, tôi thấy hai xe cảnh sát chạy ép một xe dân sự
vào vệ đường, lôi ra hai người đàn ông mặc quần áo đen, còng tay và đẩy ngã dúi xuống bãi cỏ.
Không rõ hai người đó phạm tội gì, hay chỉ là kẻ bị tình nghi?
Dọc các phố, chỗ nào cũng thấy xe cảnh sát và từng tốp cảnh sát trang bị súng ống, máy
bộ đàm làm nhiệm vụ. Đặc biệt khu vực Lầu Năm góc bị phong toả bởi lực lượng quân đội, cảnh
sát, cho nên chúng tôi chỉ được quan sát từ xa, thấy một góc nhà đen xạm. Tại khu vực Nhà
Trắng, lực lượng cảnh sát được bố trí dầy hơn và mọi người chỉ được quan sát Nhà Trắng từ
ngoài rào, không được vào tận nơi như trước đây. Khu vực nhà Quốc hội khá vắng. Nhà Quốc
hội đang đóng cửa do chính quyền Mỹ tuyên bố có bệnh than thâm nhập. Tuy vậy, những người
đến thăm nhà Quốc hội vẫn vào sát toà nhà vãn cảnh và chụp ảnh. Có một tốp nghệ sĩ nào đó
còn dăng máy phóng thanh, hát hò ngay sân trước sảnh nhà Quốc hội. Thế mà qua các phương
tiện tuyên truyền, chính quyền Mỹ đang gây cảm giác cho thế giới là nhân dân Mỹ đang hoảng
loạn trong chiến dịch khủng bố bằng sinh học! Không, bệnh than không hoành hành dữ dội
nước Mỹ như người Mỹ công bố, đó chỉ là lối tuyên truyền khuyếch đại nhằm hướng dư luận
vào nước Mỹ, lo ngại cho nước Mỹ mà quên mất nhân dân Áp-ga-nít-xtan đang xương tan thịt
nát dưới bom đạn của Mỹ. Thử so sánh con số 2 người Mỹ chết vì bệnh than với trên một nghìn
người dân Áp-ga-nitx-tan chết vì bom đạn Mỹ trong cùng một thời gian, con số nào gây khủng
khiếp hơn? Lẽ nào một mạng người Mỹ lại giá trị gấp cả trăm lần mạng người Áp – ga – nix –
tan?
Chúng tôi đến thăm khu tưởng niệm lính Mỹ chết ở Việt Nam và ở Triều Tiên. Tới tận
ngày hôm nay, tôi vẫn thấy nhiều người Mỹ đến dò tìm những dòng tên trên bảng đá ghi danh
lính Mỹ tử trận tại Việt Nam, trong đó có một phụ nữ luống tuổi chăm chú áp mảnh giấy trên
một hàng chữ và chà bút chì để in lại tên một lính Mỹ nào đó. Xong việc, bà ngồi xuống, nâng
niu mảnh giấy, mắt rưng rưng lệ. Không hiểu người chết được ghi tên trên bảng đá lạnh lùng kia
có quan hệ gì với bà và tại sao bây giờ bà mới tới thăm viếng anh ta được? Chính quyền Mỹ có
biết rằng, trong lúc tiến hành chiến tranh xâm lược, gieo đau thương tang tóc cho các dân tộc
khác, thì đồng thời cũng là gieo đau thương, tang tóc cho chính nhân dân nước mình?
3. Thăm một số cơ sở văn hoá
Người Mỹ vẫn tự hào nói rằng Niu-Yoóc là trung tâm văn hoá thế giới. Tại Niu-Yoóc có rất
nhiều công trình văn hoá tiêu biểu, nhiều cơ sở văn hoá lớn, nổi tiếng thế giới, như Trung tâm
Văn hoá Lin-Côn, Bảo tàng mỹ thuật Mêtrôpôlitan, Thư viện công cộng Niu-Yoóc, dàn nhạc giao
hưởng Niu-Yoóc, trường đại học Niu-Yoóc... Đi thăm các cơ sở văn hoá này, có thể thấy một
phần chiều sâu văn hoá Mỹ và các phương thức hoạt động văn hoá mang tính năng động, có
hiệu quả của người Mỹ.
Trường đại học Niu-Yoóc
Nơi chúng tôi đến làm việc đầu tiên và nhiều lần là Trường đại học Niu-Yoóc. Cũng như
hầu hết các trường học, trụ sở ở Niu-Yoóc, Trường đại học Niu-Yoóc nằm trong một khối nhà
lớn nhiều tầng. Khách vào làm việc với trường đều được đăng ký trước và được làm thủ tục
nhanh chóng khi qua bộ phận an ninh. Căn phòng mà các bạn Mỹ tiếp chúng tôi có kiến trúc dở
cổ dở kim, không có chút gợi cảm thẩm mỹ nào. Nhưng những chủ nhân của nó thì lại tạo ấn
tượng tốt đẹp cho chúng tôi từ đầu. Cùng với các bạn ở quỹ FORD, trường cử hai nữ giáo sư
tiếp chúng tôi, đó là giáo sư Branwi và giáo sư Sandra Lang.
Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man, chủ nhiệm khoa Quản trị kinh doanh, trình bầy về vấn đề
quản lý nghệ thuật, về các tổ chức tài trợ cho văn hoá tại Niu-Yoóc, chương trình làm việc của
đoàn tại Niu-Yoóc và cho biết tất cả các nơi mà đoàn đến tham quan, làm việc đều chờ đón
đoàn với tình bạn, với lòng mong muốn hợp tác, mở rộng quan hệ trên phạm vi toàn cầu. Giáo
sư nhấn mạnh rằng chúng tôi chỉ nên tham khảo những kinh nghiệm hoạt động về văn hoá tại
Niu-Yoóc chứ không nên áp dụng máy móc vào công việc của mình, bởi vì sáng kiến đầu tiên là
lấy được một ý tưởng chứ không phải là làm theo những kinh nghiệm .
Tôi quan tâm nhiều đến trường đại học Niu-Yoóc ở chỗ trường có những chương trình về
quản lý nghệ thuật ở cả bậc đại học và trên đại học với 3 bộ môn: Quản lý nghệ thuật biểu diễn,
Quản lý mỹ thuật, Quản lý âm nhạc. Mô hình về đào tạo cán bộ quản lý văn hoá nghệ thuật như
vậy từ bậc đại học trở lên, ở Việt Nam chưa có. Tài liệu của Quỹ FORD giới thiệu về trường đại
học Niu-Yoóc như sau:
"Từ năm 1978, chuơng trình Quản lý Mỹ thuật bắt đầu tồn tại như một thực thể riêng
biệt và là chương trình đầu tiên của Hoa Kỳ tập trung đặc biệt vào những cơ hội trong mỹ thuật,
trong cũng như ngoài phạm vi của bảo tàng mỹ thuật và phòng triển lãm. Nhận thức rõ những
ảnh hưởng văn hoá và kinh tế của mỹ thuật đối với xã hội ở tầm quốc gia và quốc tế, chương
trình này đào tạo ra các nhà quản lý có khả năng điều chỉnh để phù hợp với những đòi hỏi luôn
thay đổi trong lĩnh vực này. Các bảo tàng mỹ thuật và phòng triển lãm ngày nay giới thiệu
những ý tưởng về các trách nhiệm giáo dục và trách nhiệm xã hội. Sự tham gia của các tổ chức
mỹ thuật gắn với các hoạt động thu thập các giá trị truyền thống và tài trợ triển lãm cũng như
các chương trình sáng tạo nghệ thuật trong và ngoài cơ cấu tổ chức. Các triển lãm mỹ thuật, các
nhà bán đấu giá và các chuyên gia tư vấn độc lập cũng có ảnh huởng ngày càng nhiều đến mỹ
thuật. Khi các đơn vị và các công ty tìm đến mỹ thuật để tập trung vào các mục đích và nguyện
vọng của cộng đồng thì việc quản lý mỹ thuật trở thành một sức mạnh giáo dục trong xã hội,
giúp hình thành những giá trị văn hoá. Chương trình nhấn mạnh sự cân bằng giữa sự hiểu biết
một cách toàn diện về mỹ thuật, những ý tưởng và những lực lượng có thể làm ảnh hưởng đến
chúng, và phát triển quản lý một cách sắc bén, các kỹ năng tiếp thị và tài chính. Việc nghiên cứu
sâu hơn về các phương tiện truyền thống luôn được kết hợp với việc xem xét đến các phương
tiện và công nghệ mới có thể đưa các tổ chức mỹ thuật tiến vào thế kỷ 21. Chương trình cũng
coi trọng sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết với thực hành. Chương trình quản lý mỹ thuật
trước hết hướng sinh viên tới phần phi lợi nhuận trong lĩnh vực mỹ thuật. Đối với những ai
quan tâm đến thị phần mang tính thương mại, chương trình cũng cung cấp phần học tập trung
vào thương mại. Kể từ năm 1990, chương trình đổi mới đầu tiên đã được cơ cấu lại và tập trung
giảng dạy cho sinh viên những kiến thức cần thiết để có thể cạnh tranh trong một thị trường vì
lợi nhuận, phù hợp với những người môi giới, những giám đốc triển lãm mỹ thuật, các nhà tư
vấn, và các tổ chức bán đấu giá.
Cũng từ năm 1978, tồn tại với tư cách một chương trình riêng biệt, chương trình quản lý
nghệ thuật biểu diễn đào tạo những người đang và sẽ làm công tác quản lý của các tổ chức
nghệ thuật biểu diễn tại Hoa Kỳ và nước ngoài. Chương trình bao gồm các khoá học, những đề
án đặc biệt được xây dựng cho quản lý nghệ thuật, trong các lĩnh vực quản lý nghệ thuật, phát
triển nghệ thuật, tiếp thị nghệ thuật biểu diễn, luật và nghệ thuật, thống kê, các khoá học về thị
trường, thương mại, về kinh tế, kế toán, khoa học hành vi và tiếp thị. Nhà trường còn tổ chức
cho sinh viên đang theo học chương trình thạc sĩ tham gia những hội thảo định kỳ nhằm nâng
cao kỹ năng về quản lý nghệ thuật. Một phần bắt buộc của chương trình học tập là đi thực tập
với những nhà quản lý nghệ thuật hàng đầu. Trong những năm gần đây, với những khoản tiền
lương không đáng kể, sinh viên được đi thực tập dưới sự hướng dẫn của các giám đốc của
nhiều đơn vị nghệ thuật nổi tiếng như Carnegie Han, Liên hoan Xếch-xpia, Nhạc Viện Brôkin,
Câu lạc bộ sân khấu Man-hát-tan và Tổ chức Quốc gia trợ vốn cho Nghệ thuật. Thêm vào đó,
những giảng viên thỉnh giảng và những người có năng lực trong lĩnh vực này thường xuyên đến
nói chuyện tại các diễn đàn do trường tổ chức".
Các giáo sư của trường đại học Niu-Yoóc còn giới thiệu với chúng tôi sự phối hợp của nhà
trường với các cơ sở đào tạo khác để đào tạo những nhà quản lý nghệ thuật và nhấn mạnh
rằng, người Mỹ coi quản lý nghệ thuật cũng là một nghề, cần được đào tạo cơ bản, không
những vậy, còn phải được đào tạo ở trình độ cao. Chương trình Thạc sĩ về quản lý nghệ thuật
được xây dựng từ sự kết hợp những lĩnh vực mạnh nhất của trường Đại học Car-ni-giơ Melơn,
Đại học Mỹ thuật (CFA) và trường Chính sách và Quản lý Nhà nước. Chương trình này giúp cho
sinh viên quen với môi trường hoạt động thực tế của các tổ chức nghệ thuật. Chương trình này
được thành lập trên cơ sở niềm tin rằng tất cả các chức năng quản lý hành chính được sử dụng
để phục vụ cho lý do tồn tại của các tổ chức nghệ thuật. Chương trình này cũng nhấn mạnh đến
việc cần thiết luôn phải tập trung vào đào tạo để đáp ứng được nhiệm vụ và nhu cầu của các
nghệ sĩ. Và bởi vì các nhà quản lý phải là những người toàn diện, chương trình có tính chuyên
môn và phân tích cao, rất cần thiết cho các vị trí lãnh đạo trong cộng đồng và các tổ chức không
nhằm mục đích lợi nhuận. Chương trình đào tạo Thạc sĩ về quản lý Nghệ thuật rất linh hoạt, cho
phép sinh viên tập trung vào những lĩnh vực đặc biệt mà mình yêu thích thông qua các môn học
bắt buộc hoặc không bắt buộc, các chương trình thực tập nội trú và các chương trình hỗ trợ.
Toàn bộ chương trình giáo dục quản lý nghệ thuật đều được rút ra từ kinh nghiệm thực tế. Các
bài tập tình huống, dựa trên những vấn đề mà các tổ chức nghệ thuật tranh cãi nhiều, được sử
dụng làm cơ sở cho việc phân tích và thảo luận trong lớp học. Giữa năm thứ nhất và năm thứ
hai, các sinh viên phải hoàn thành đợt thực tập mùa hè của mình, cho phép họ ứng dụng những
kỹ năng quản lý được học trong năm thứ nhất. Trong năm thứ hai, nhiều sinh viên ngoài việc
học tập trên lớp còn tham gia chương trình hỗ trợ trong lĩnh vực mà họ đã chọn là nghề nghiệp
tương lai của mình. Các sinh viên sau khi tốt nghiệp được trang bị cách quyết định và tìm những
giải pháp đảm bảo cho họ có thể đương đầu với những thách thức và nắm bắt cơ hội để nhanh
chóng thành công và thăng tiến trong công việc. Đối với những người đã có kinh nghiệm làm
việc trước đó, chương trình thạc sĩ quản lý nghệ thuật chuẩn bị cho họ có thể đạt được một
chức vụ quản lý cao hơn trong nghệ thuật. Dù là học sinh chưa bao gìơ đi làm hay đã có kinh
nghiệm làm việc rồi, thì mọi sinh viên khi tham gia chương trình đào tạo này đều trông đợi có
được những kinh nghiệm đầy thử thách nhưng cũng rất quý báu, sẽ cho phép họ trong tương
lai tham gia vào việc hình thành cộng đồng nghệ thuật của ngày mai. Chỉ có một cơ sở, nhưng
chương trình này vẫn được cả nước biết đến và liên hệ thông qua các buổi hội thảo và nhờ vào
Uỷ ban Cố vấn những nhà quản lý nghệ thuật hàng đầu trong cả nước. Hơn nữa, các giảng viên
của chương trình này còn phục vụ cho các hội đồng và các ban của khu vực, quốc gia và quốc tế,
bao gồm Hội đồng Nghệ thuật Quốc gia, Hiệp hội những nhà quản lý nghệ thuật và văn hoá
quốc tế, Hội đồng Nghệ thuật Penxilvania. Các giảng viên thỉnh giảng từ khắp nơi trên cả nước
cũng bổ sung thường xuyên cho chương trình giảng dạy. Những liên lạc dặc biệt của trường Đại
học Mỹ thuật với các ngành nghệ thuật cung cấp cho sinh viên thạc sĩ quản lý nghệ thuật cơ hội
tham gia nhiều hơn vào hoạt động nghệ thuật trong nước và quốc tế. Chương trình này còn
phục vụ như một mạng thông tin vô giá cho sinh viên tìm kiếm những chương trình thực tập nội
trú, việc làm ổn định và cố vấn cho sinh viên.
Tôi nhận thấy việc đào tạo những nhà quản lý nghệ thuật là một điều mới mẻ đối với
nước ta. Chúng ta chưa thực sự quan tâm đào tạo ra những nhà quản lý mà mới quan tâm đạo
tạo ra những người làm nghề chuyên môn trong văn hoá nghệ thuật, hoặc những nhà chính trị.
Các khoá học bắt buộc của trường đại học Mỹ thuật có những nội dung tối cần thiết cho người
quản lý nghệ thuật mà chúng ta cần tham khảo gồm: Những nguyên tắc của quản lý nghệ thuật,
Tiếp thị nghệ thuật, Gây quỹ cho các nhà quản lý nghệ thuật, Quản lý nguồn nhân lực cho nghệ
thuật, Luật và nghệ thuật, Quản lý nghệ thuật biểu diễn hoặc quản lý Mỹ thuật, Phân tích kinh
tế ứng dụng, Các phương pháp rút ra từ thực tế về chính sách và quản lý nhà nước, Phân tích
tài chính, Hệ thống thông tin quản lý, Quản lý trong một xã hội đa văn hoá, Kỹ năng nói chuyện
chuyên nghiệp, Kỹ năng viết chuyên nghiệp, Tổng hợp hệ thống. Bên cạnh đó, còn có các khoá
học không bắt buộc nhưng lại được các sinh viên hay chọn: Nghệ thuật trong xã hội, Ngân sách
và điều hành quản lý, Khoa học quản lý, Marketing, Đa truyền thông, Thương thảo, Chính sách
và Chính trị, Các hội thảo trong thực hành chuyên nghiệp... Chỉ điểm qua đầu mục những môn
học, cũng thấy đây là một biển kiến thức và phương pháp mênh mông còn khá xa vời với việc
đào tạo cán bộ văn hoá ở nước ta.
Qua giới thiệu của các giáo sư đại học Niu-Yoóc, chúng tôi được biết đến một tổ chức khá
đặc biệt của Mỹ, đó là Hiệp hội các nhà giáo dục quản trị nghệ thuật (AAAE), một tổ chức quốc
tế hoạt động không vì lợi nhuận ở Mỹ. Nhiệm vụ của Hiệp hội là tổ chức các chương trình đào
tạo cao đẳng, đại học và sau đại học về quản trị nghệ thuật, bao gồm đào tạo quản lý mỹ thuật,
nghệ thuật biểu diễn, văn học, báo chí, và quản lý các tổ chức dịch vụ văn hóa nghệ thuật. Ra
đời năm 1975, Hiệp hội được thành lập để cung cấp một diễn đàn thông tin giữa các thành viên
và để hỗ trợ cho việc đào tạo chính thức và các tiêu chuẩn giáo đục cao cho các nhà quản lý
nghệ thuật. Hơn thế, Hiệp hội còn khuyến khích các thành viên theo đuổi, xuất bản, tiến hành
và công bố các nghiên cứu về quản lý và quản trị nghệ thuật nhằm tăng cường hiểu biết về các
vấn đề quản lý nghệ thuật trong các lĩnh vực học tập và công tác. Việc công nhận quản lý nghệ
thuật cũng là một nghề đang là một xu hướng phát triển trong thời gian gần đây. Hiệp hội tin
rằng giáo đục bậc cao vẫn là cách thức đúng đắn để đáp ứng được những đòi hỏi này cũng như
những yêu cầu hiện tại và trong tương lai của nghệ thuật. Các đơn vị nghệ thuật có thể tham gia
vào Hiệp hội với các chương trình đào tạo đại học về quản trị nghệ thuật. Các đơn vị quan tâm
đến việc tổ chức các chương trình tương tự như vậy, cá nhân vì lí do nghề nghiệp, sở thích, lý
tưởng hoặc những lý do khác nếu có mong muốn cũng có thể tham gia liên kết với Hiệp hội và
chia sẻ công việc của tổ chức này. Hiệp hội tổ chức hội nghị thường niên cho các thành viên,
sinh viên, các nhà quản lý nghệ thuật, và bất cứ ai quan tâm đến việc phát triển của lĩnh vực
này. Hội nghị năm 2001 được tổ chức ở Brisbane, Úc. Cuốn Hướng dẫn đào tạo và nghiên cứu
quản trị nghệ thuật của Hiệp hội được xuất bản nhằm kết nối sinh viên giỏi có quan tâm đến
nghề quản lý nghệ thuật và các tổ chức nghệ thuật với nhau. Hiệp hội các nhà giáo dục quản trị
nghệ thuật được điều hành bởi một ban giám đốc bao gồm các trưởng bộ môn là thành viên
đầy đủ hoặc những người do họ chỉ định, hoạt động theo điều luật đã quy định. Ban điều hành
này sẽ được bầu vào cuộc họp thường niên theo biểu quyết đa số của các thành viên đầy đủ.
Các cán bộ do Ban giám đốc cử ra.
Trung tâm quỹ
Tiếp chúng tôi tại Trung tâm quỹ là một người đàn ông xương xương, đeo kính cận, vẻ
hoạt bát. Đó là thủ thư cao cấp Bruc-Gum. Nhanh chóng vào việc, anh bật máy vi tính, truy cập
mạng và hướng dẫn chúng tôi về website của Trung tâm đang hiện trên màn hình lớn phía
trước chúng tôi. Trang web này giới thiệu chi tiết về Trung tâm, hoạt động của nó và về những
quỹ hỗ trợ nghệ thuật. Trung tâm Quỹ là một tổ chức dịch vụ quốc gia độc lập được thành lập
bởi các quỹ vào năm 1956. Theo tài liệu của Quỹ FORD thì đây là tổ chức hàng đầu ở Mỹ về tài
trợ của các tổ chức và chuyên phục vụ cho những người tìm kiếm tài trợ, những nhà tài trợ , nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, giới truyền thông và công chúng. Nhiệm vụ của
Trung tâm Quỹ là hỗ trợ và đẩy mạnh hoạt động hảo tâm của các tổ chức thông qua quỹ, việc
nâng cao hiểu biết của công chúng về lĩnh vực này và giúp đỡ những người tìm kiếm tài trợ
thành công. Để làm được điều này, Trung tâm thu thập, tổ chức và truyền bá thông tin về hoạt
động tài trợ ở Mỹ; tiến hành và hỗ trợ công tác nghiên cứu về các xu hướng phát triển trong
lĩnh vực này; cung cấp giáo dục đào tạo về quá trình tìm kiếm tài trợ, và giúp công chúng có thể
tiếp cận với thông tin và dịch vụ qua trang Web của Trung tâm, thông qua các ấn phẩm, thông
qua 5 thư viện hoặc trung tâm học tập, và thông qua một mạng lưới các sưu tập hợp tác trên
toàn quốc. Một trong những nhiệm vụ của Trung tâm là cung cấp thông tin và những tham khảo
chuyên môn cho công chúng tại 5 thư viện của Trung tâm Nghệ thuật với hơn 200 tổ chức khác
trên cả nước.
Ngay bên cạnh phòng mà chúng tôi ngồi nghe thuyết trình là một thư viện của Trung
tâm. Phòng đọc của thư viện này trang bị khoảng hai chục máy vi tính có kết nối mạng. Chúng
tôi thấy máy nào cũng có người ngồi tra cứu thông tin. Giống như 4 thư viện khác của Trung
tâm, phòng đọc này mở cửa miễn phí, cho phép độc giả truy cập vào một bộ sưu tập độc đáo
các tài liệu về các hoạt động hảo tâm. Các thủ thư với khả năng chuyên môn cao luôn có mặt để
giúp người sử dụng biết cách nghiên cứu về công tác tài trợ thông qua các ấn phầm của Trung
tâm và các nguồn thông tin in và điện tử khác, bao gồm những mẫu đơn xin tài trợ, sách và
những xuất bản định kỳ về quản lý tài trợ từ thiện và phi lợi nhuận, báo cáo hàng năm của quỹ
và báo cáo về việc tài trợ của các công ty, các website và các tài liệu khác tập trung vào hoạt
động từ thiện.
Trung tâm Quỹ cung cấp các chương trình đào tạo miễn phí hoặc chỉ phải chịu chi phí cơ
bản về nghiên cứu tài trợ, giới thiệu cho các nhà tài trợ và các khoản tài trợ của họ và các chủ
đề có liên quan ở cả 5 văn phòng của Trung tâm cũng như ở các địa điểm khác, bao gồm: Cơ sở
để tìm kiếm tài trợ, một tài liệu miễn phí ra hàng tuần về quá trình nghiên cứu tài trợ dành cho
các tổ chức phi lợi nhuận; các chương trình miễn phí về tài trợ của các công ty, cách sử dụng
hữu hiệu các nguồn thông tin trên mạng, giới thiệu cách tra cứu nhanh thông tin, cách viết thư
xin tài trợ, tìm kiếm tài trợ dành cho cá nhân, danh sách các nhà tài trợ, phim về việc gây quỹ.
v.v.
Trung tâm Quỹ xuất bản Niên giám các Quỹ - một tài liệu tham khảo kinh điển dành cho
những người tìm kiếm tài trợ, hiện đã có trên CD-ROM, trên mạng và sách in, cùng với khoảng
50 niên giám, hướng dẫn và báo cáo khác.
Khả năng chuyển tải thông tin của trang web do trung tâm điều khiển làm cho tôi thật sự
khâm phục. Được cập nhật và được mở rộng hàng ngày, trang web của Trung tâm Quỹ
(http://www.fdncenter.org) nhấn mạnh và phân tích các xu huớng tài trợ gần nhất, cung cấp
danh sách các nhà tài trợ hàng đầu, thông tin về các chương trình đào tạo do Trung tâm tài trợ
và các hội thảo, cung cấp khả năng truy cập dễ dàng vào một loạt các nguồn gây quỹ trên mạng,
bao gồm: Điểm tin từ thiện - một dịch vụ thông tin hàng tuần với các bài viết liên quan đến từ
thiện; Niên giám trên mạng của trung tâm - một dữ liệu đáng tìm kiếm về 10.000 Quỹ lớn nhất
ở Mỹ; nối mạng với hàng trăm trang web của các nhà tài trợ và các trang web của các tổ chức
phi lợi nhuận khác.
Trung tâm Quỹ còn cung cấp thư viện ảo trên mạng (http://www.fdncenter.org/onlib/)
mà ai cũng có thể truy cập chỉ với một máy vi tính có nối mạng lnternet. Các ứng dụng trên thư
viện ảo này bao gồm: Trả lời ngay những câu hỏi bằng E-mail, Công cụ tìm kiếm Quỹ (một công
cụ tra cứu miễn phí với thông tin cơ bản về 50.000 nhà tài trợ Mỹ), các khoá học ngắn hạn về
viết thư xin tài trợ, giới thiệu về quá trình tìm kiếm tài trợ, Tài liệu trên mạng về khu vực phi lợi
nhuận (một dữ liệu với nhiều thư mục về 18.000 đoạn trích dẫn, có nhiều bản tóm tắt), và Kệ
sách trên mạng (một phiên bản tóm tắt của những chuyên khảo quan trọng của Trung tâm về
gây quỹ và quản lý phi lợi nhuận).
Trong khi giới thiệu về các ấn phẩm và website của Trung tâm, viên thủ thư cao cấp này
nhắc đi nhắc lại là các CD-ROM do Trung tâm xuất bản và phát hành có giá rất đắt, chỉ những
trường học hoặc các cơ quan lớn cần sử dụng cho nhiều người khai thác mới mua, còn những
người khác nên truy cập những thông tin có trong CD-ROM này qua mạng ở 1 trong 200 điểm
truy cập miễn phí được bố trí trên nhiều địa điểm thuộc nước Mỹ. Thấy cách thức tổ chức
thông tin trên CD-ROM này quá hay, tôi định mua một đĩa về cho anh em kỹ sư tin học của cơ
quan tôi tham khảo, thì thủ thư cao cấp nhắc lại rằng giá nó rất cao, và muốn mua thì cần đến
nơi bán - đó là một quầy nhỏ nằm trong thư viện ở ngay gian nhà bên cạnh. Nghĩ rằng một CD-
ROM đắt lắm cũng vài ba trăm USD là cùng, khi tham quan thư viện, tôi tạt vào quầy bán ấn
phẩm, và giật mình trước biển giá CD-ROM: 1.150 USD/1 đĩa! Giá truy cập mạng để khai thác
thông tin này cũng không phải rẻ: 150 USD một tháng! Như thế, phát hành CD-ROM và tổ chức
dịch vụ cung cấp thông tin trên mạng cũng là một nguồn thu không nhỏ của Trung tâm. Và như
thế, nội dung thông tin trên mạng được "bán" với giá rất cao, trong khi đó tiền chi cho việc truy
nhập mạng lại rất thấp. Điều đó trái ngược với thực trạng In-tơ-nét ở nước ta: các nhà cung cấp
thông tin (ICP) không những không thu được tiền mà còn phải nộp tiền thuê đường truyền, và
bao nhiêu lợi lộc thu được từ việc truy cập mạng khai thác thông tin đều đổ dồn vào ngành Bưu
điện! Có điều đáng chú ý là các khoản thu này cũng như những lợi tức thu được qua các dịch vụ
khác như bán hàng lưu niệm, bán đồ ăn uống mà Trung tâm quỹ cũng như các tổ chức văn hoá
khác thực hiện, đều được miễn thuế.
Tôi cũng rất ngạc nhiên khi biết rằng để tiến hành hàng loạt những công việc như trên,
Trung tâm quỹ chỉ có 5 người!
Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc (NVFA)
Nằm ở tầng 14, số nhà 155 Đại lộ Châu Mỹ, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc có những phòng
làm việc không rộng rãi lắm. Đón tiếp chúng tôi là ông Thaođơ S. Bơ-gơ, Giám đốc điều hành
của Quỹ. Ông giới thiệu với chúng tôi rất chi tiết về quỹ, đồng thời có những lời tâm sự rất chân
tình.
Theo tài liệu của Quỹ FORD và của ông Giám đốc, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc được thành
lập năm 1971 bởi Hội đồng Nghệ thuật Bang Niu-Yoóc như một tổ chức độc lập nhằm hỗ trợ sự
phát triển của các hoạt động nghệ thuật trên toàn bang. Từ đầu, quỹ đã hoạt động như một tổ
chức phát triển sáng tạo, là chất xúc tác, cổ xuý và là lò phát triển chương trình và tài chính
trong nghệ thuật. Ngày nay, nó phục vụ cho các nghệ sĩ độc lập, khuyến khích sự tự do phát
triển và sáng tạo của họ, cũng như tạo cơ hội cho công chúng được thưởng thức và am hiểu về
nghệ thuật. Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đạt được điều này thông qua việc hỗ trợ về tài chính và
thông tin cho các nghệ sĩ và các tổ chức phục vụ trực tiếp các nghệ sĩ, thông qua việc hỗ trợ cho
các hoạt động nghệ thuật ở cộng đồng, và thông qua việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác với
những tổ chức vì nghệ thuật khác ở bang Niu-Yoóc và trên cả nước.
Suốt quá trình hoạt động, với tư cách là một tổ chức trung gian trong lĩnh vực, Quỹ Nghệ
thuật Niu-Yoóc đã tìm ra nhiều phương cách để phát triển và cung cấp tài trợ, tái tài trợ, cho
vay, cũng như các dịch vụ hỗ trợ tài chính và thông tin khác để đáp ứng những yêu cầu đa dạng
luôn thay đổi của cộng đồng nghệ thuật đa dạng và luôn biến động. Thông qua các chương trình
thông tin giáo dục, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc luôn tìm kiếm các cách thức hữu hiệu hơn để mở
rộng sự tham gia trong tất cả các ngành nghệ thuật, cũng như mở rộng sự hiểu biết của cả khán
giả lẫn đông đảo công chúng về vai trò của các nghệ sĩ và các tổ chức nghệ thuật trong đời sống,
trong cộng đồng của họ, cũng như trong xã hội nói chung. Buổi đầu, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc
chỉ phục vụ cho bang Niu-Yoóc, nhưng dần dần đã phối hợp và mở rộng tầm hoạt động ra phạm
vi vùng, quốc gia và thậm chí cả ở tầm quốc tế.
Trong các năm 1973-1974, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc khởi xướng một dự án thí điểm kéo
dài một vài năm và sau đó được công nhận trên toàn quốc với tên gọi chương trình Nghệ sĩ
thường trú, hỗ trợ cho việc đưa chương trình này vào dạy ở các trường và các cộng đồng trong
toàn bang. Ngày nay chương trình này vẫn tiếp tục với tên gọi Nghệ sĩ trong môi trường sư
phạm, một phần của chương trình giáo đục đa dạng và toàn điện. Các chương trình giáo dục
của Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc phát triển lên và bao gồm cả việc hoạt động như một lò luyện cho
một số ngành nghệ thuật quan trọng cũng như một số đơn vị nghệ thuật.
Sự tham gia vào việc phát triển một loạt phong trào nghệ thuật và các tổ chức nghệ thuật
đã trở thành một trong những chương trình của Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc. Năm 1984, Quỹ
Nghệ thuật Niu-Yoóc được Hội đồng nghệ thuật bang Niu-Yoóc chọn để quản lý Chương trình
học bổng cho nghệ sĩ trên toàn quốc, và quản lý phần dịch vụ công cộng của quỹ mang tên nghệ
sĩ và khán giả. Chương trình kể từ khi được mở rộng đã tài trợ trực tiếp cho nghệ sĩ bang Niu-
Yoóc trong 16 môn nghệ thuật. Trong gần 20 năm qua, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã phát triển
rất nhiều chương trình tài trợ và tái tài trợ cho cá nhân các nghệ sĩ cũng như cho các đơn vị
nghệ thuật, bao gồm nhiều hoạt động. Hiện Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc tài trợ cho 300 dự án của
các nghệ sĩ và 60 tổ chức mới thành lập.
Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc mở rộng tầm hoạt động của mình vào những năm 1980 bằng
việc tham gia một số hội nghị và nghiên cứu quan trọng. Năm 1984, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc
phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật Đại học Columbia cung cấp những dữ
liệu mang tính thống kê về đời sống, điều kiện sống và làm việc của các nghệ sĩ ở bang Niu-
Yoóc. Về sau đã xuất hiện một chương trình nghiên cứu tương tự trên toàn quốc, được lặp lại
và mở rộng trong những năm gần đây. Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã được khẳng định trên toàn
quốc với tư cách là một nhà cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc. Một nhân tố hết sức quan trọng
khác đối với sự phát triển của Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc trong vai trò một nhà cung cấp dịch vụ
thông tin là sự ra đời năm 1984 của FYI, Tạp chí ra định kỳ hàng quý của Quỹ dành cho những
người sống và làm việc trong môi trường nghệ thuật, và sau đó một thập kỷ là của Đường dây
thông tin nóng về các nghệ sĩ mỹ thuật. Hiện Tạp chí có số lượng phát hành 20.000 bản phục vụ
cho nghệ sĩ và các đơn vị nghệ thuật ở tất cả các ngành nghệ thuật trên toàn bang Niu-Yoóc và
trên cả nước. Đường dây nóng phát triển với sự trợ giúp của một tập đoàn các nhà tài trợ trong
cả nước, dẫn đầu là Quỹ nghệ thuật Marie Walsh Sharpe. Hiện nó vẫn tiếp tục hỗ trợ trực tiếp
cho các nghệ sĩ mỹ thuật trên toàn quốc.
Trong những năm gần đây, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã nổi lên như một tổ chức đi đầu
trong việc đề cập đến công nghệ và vai trò của công nghệ trong cộng đồng nghệ thuật. Các nỗ
lực của Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc trong lĩnh vực này bắt đầu bằng một công trình nghiên cứu về
nghệ sĩ trên toàn bang liên quan đến việc sử dụng những công nghệ để sáng tạo nghệ thuật. Kết
quả là, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã thiết lập được một ngành học bổng mới cho nghệ sĩ: Nghệ
thuật vi tính. Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã xuất bản Niên giám kỹ thuật số: Các nguồn nghệ
thuật ở bang Niu-Yoóc, dưới dạng văn bản cũng như dạng dữ liệu trên mạng. Một chương trình
tài trợ mới bao gồm Tài trợ cho lập kế hoạch nghệ thuật và công nghệ, Hỗ trợ kỹ thuật cho nghệ
thuật và công nghệ cũng đang được thực hiện.
Hiện nay, Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc thể hiện sức mạnh về mặt tổ chức và khả năng lãnh
đạo trong các vai trò của nhà tài trợ và nhà cung cấp dịch vụ cho các nghệ sĩ, các đơn vị nghệ
thuật và các cộng đồng nghệ thuật rộng lớn ở Niu-Yoóc. Trang Web của Quỹ miêu tả tất cả các
chương trình hiện đang tiến hành và thể hiện những nỗ lực gần đây nhất nhằm duy trì vai trò
lãnh đạo trong việc cung cấp những dịch vụ hữu hiệu và hỗ trợ cộng đồng nghệ thuật và quảng
đại quần chúng mà nó là một bộ phận.
Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc đã đưa nghệ sĩ đến hầu hết các khu vực có trường học trên
toàn bang Niu-Yoóc; cung cấp những tài trợ về tài chính cho hàng trăm tổ chức mới hình thành;
cũng đã hỗ trợ khả năng tổ chức thông qua các khoản tài trợ và tín dụng. Quỹ Nghệ thuật Niu-
Yoóc còn hỗ trợ việc tăng cường hạ tầng cơ sở tổ chức và mở rộng các nguồn từ trường học
nhằm phục vụ cho toàn bộ cộng đồng.
Qua báo cáo của Trung tâm quỹ và Quỹ nghệ thuật Niu-Yoóc, chúng tôi thấy trên đất Mỹ
có những mô hình tổ chức khá đặc biệt, có cơ chế quản lý văn hoá khá linh hoạt và thực tế giúp
cho các hoạt động văn hoá nghệ thuật có thể tìm được nhiều nguồn tài trợ.
Ở Mỹ, các tổ chức nghệ thuật có thể được chia ra làm hai nhóm: nhóm phi lợi nhuận, và
nhóm các tổ chức nghệ thuật mang tính thương mại (vì lợi nhuận).
Các tổ chức mang tính thương mại cũng giống như các doanh nghiệp thương mại khác,
họ cũng cố gắng và họ tin rằng công chúng sẽ bỏ tiền ra để xem hoặc để mua sản phẩmnghệ
thuật, vì vậy mà họ sẽ tiếp thị các sản phẩm này đến công chúng dựa vào bán vé là chính.
Các tổ chức nghệ thuật phi lợi nhuận có xu huớng sản xuất ra các sản phẩm dựa trên
những giá trị nghệ thuật vốn có của họ. Các tổ chức này không hi vọng việc có thể thu lợi nhuận
hay bù đắp được các chi phí với nguồn thu từ bán vé. Vì thế họ phải tìm các cách thức khác để
có thể tự nuôi mình. Để giải quyết thực trạng này, Mỹ đã phát triển nhiều hình thức hỗ trợ cho
các tổ chức không vì lợi nhuận này, đôi khi được gọi là “hình thức hợp tác nhà nước và tư
nhân”.
Về phía đối tác nhà nước, có ba cấp độ hỗ trợ trực tiếp của chính phủ:
Liên bang (Trung tâm Quốc gia Trợ vốn cho nghệ thuật)
Các bang (ví dụ Hội đồng Nghệ thuật Bang Niu-Yoóc)
Địa phương (các Hội đồng nghệ thuật thành phố, vùng)
Còn có sự hỗ trợ gián tiếp dưới hình thức giảm thuế đối với những quà tặng dành cho các
tổ chức nghệ thuật không vì lợi nhuận đã được chính phủ thông qua, đây là một lợi ích rất quan
trọng.
Đối tác cá nhân bao gồm các quỹ, các doanh nghiệp và các cá nhân, trong đó nhiều nhất
là hỗ trợ bằng tiền của các cá nhân; tặng các thiết bị, dịch vụ và các nguồn cung cấp; và hoạt
động tình nguyện. Hầu hết những đóng góp này đều có thể khiến chủ nhân của nó được giảm
thuế.
Nhìn qua, thấy Mỹ không có Bộ Văn hoá, cứ tưởng chính quyền Mỹ không quản lý văn
hoá nghệ thuật và không đầu tư cho văn hoá nghệ thuật, nhưng nhìn sâu vào cơ chế hoạt động
mới thấy đây là biện pháp quản lý khá chặt chẽ và có sự đầu tư không nhỏ - đầu tư bằng chính
sách thuế, bằng cách tạo cơ hội cho văn hoá nghệ thuật được đầu tư thông qua tài trợ của các
tổ chức, cá nhân. Thông qua cơ quan thuế, Chính phủ nắm rất chắc từng khoản tài trợ mà các
công ty bỏ ra cho nghệ thuật. Bản thân các quỹ tài trợ cũng được cấp kinh phí cho hoạt động,
như Quỹ Nghệ thuật Niu-Yoóc hàng năm thu được 12 triệu USD, trong đó có 4 triệu là do chính
quyền tài trợ.
Khi chúng tôi hỏi về phương thức quyên góp tiền tài trợ cho nghệ thuật, ông Thao-đơ S.
Bơ-gơ, Giám đốc điều hành Quỹ, cho biết: Nếu mọi người muốn quyên tiền thì đều phải thông
qua một tổ chức từ thiện, có vậy mới được miễn trừ thuế trên các khoản mà họ tài trợ. Quỹ
Nghệ thuật Niu-Yoóc cho các nhà tài trợ dùng mã số thuế của mình để chuyển tiền tài trợ, rồi
quỹ tài trợ lại cho các đơn vị nghệ thuật. Ông cũng nói thêm, để việc quyết định tài trợ cho các
đơn vị nghệ thuật mang tính khách quan, Ban Giám đốc Quỹ không tham gia vào việc quyết
định tài trợ cho đơn vị nào; việc này được giao cho một Ban do Quỹ thuê gồm 30 người. Trên
cơ sở những thông tin về các đơn vị nghệ thuật và nguồn tài trợ, Ban sẽ quyết định tài trợ cho
đơn vị nào mà không phụ thuộc vào bất cứ sự gợi ý nào của Ban Giám đốc Quỹ.
Ông Giám đốc tâm sự: "Tôi làm việc ở Quỹ này từ năm 1973, lúc ấy chỉ có 2 thành viên,
nay có tới 40 người vào làm việc thường xuyên hoặc thời vụ. Tôi đã qua quá trình phát triển,
khó khăn, vươn lên của Quỹ, thấy được sự thay đổi của quá trình xã hội. Bây giờ có rất nhiều
chương trình đào tạo về quản lý, còn tôi thì không được đào tạo, vừa làm vừa học. Chúng tôi
không thuộc Chính phủ cho nên làm được nhiều việc mà Chính phủ không làm được như đi đầu
đấu tranh cho quyền lợi, chính sách đối với nghệ sĩ, gây quỹ cho nghệ sĩ và nghệ thuật. Để làm
việc có hiệu quả, chúng tôi luôn lắng nghe hai phía: Yêu cầu của Chính phủ cũng như của cộng
đồng nghệ thuật và các nghệ sĩ ". Sau một số câu trao đổi về hoạt động tài trợ của Quỹ, ông
Giám đốc bộc bạch: "Niu-Yoóc còn có cách tài trợ của riêng quan chức - quan chức mới được
bầu, tìm được ngành mà họ thích thì họ tài trợ, mong sẽ được bầu lại vào nhiệm kỳ sau. Tôi
không thích loại này - mang mầu sắc chính trị, không tốt vì không đưa ra được chính sách hỗ trợ
cho văn hoá. Nếu đơn vị nghệ thuật nào đó lại không được vị quan chức thích thì sẽ không bao
giờ nhận được tiền." Sau những tiếng cười tán thưởng của người nghe, ông Giám đốc nói:
"Hiện nay, đang có sự thay đổi trong chính phủ bang Niu-Yoóc. Đó là thực hiện luân chuyển
trong thành viên Hội đồng Bang: trong số 51 người được bầu vào Chính phủ Bang thì phải có 35
người được bầu mới. Tôi nghĩ rằng quy định này sẽ làm cho việc tài trợ cho nghệ thuật từ phía
chính phủ sẽ mang tính khách quan hơn."
Nói về các đơn vị nghệ thuật tại Niu-Yoóc, ông Giám đốc nhận xét: "Chúng tôi không có
một mô hình cụ thể nào cả, không còn ranh giới tách biệt giữa hoạt động phi lợi nhuận và lợi
nhuận, nhưng khu vực phi lợi nhuận sẽ tạo cánh tay để phát triển lợi nhuận. Những tổ chức, cá
nhân nói rằng họ phi lợi nhuận thì họ đã tách mình khỏi thực tế. Trong lĩnh vực văn hoá, có thể
có nghệ sĩ chuyên nghiệp, có nghệ sĩ không chuyên, nhiều khi chúng ta lại tạo ra tấm rào cách
biệt giữa hai lĩnh vực chuyên và không chuyên, lợi nhuận và phi lợi nhuận. Cuộc đấu tranh của
văn hoá nghệ thuật không nhất thiết là lợi nhuận hay không lợi nhuận mà là phục vụ hay không
phục vụ cho cộng đồng".
Ông Giám đốc Quỹ cho biết trụ sở của Quỹ nằm gần Trung tâm Thương mại Thế giới, do
vậy đã bị phong toả sau ngày 11 tháng 9 vì lý do an ninh, may mà đoàn đến vào lúc vừa được
lệnh hoạt động trở lại. Ông cho biết bản thân đã chứng kiến cái giờ phút kinh hoàng của nước
Mỹ khi toà nhà Thương mại thế giới bị nổ tung và sập đổ, chứng kiến cảnh người nhảy từ các
tầng cao xuống, cho nên đã bị tổn thương rất nhiều tận sâu trong tâm khảm, nhưng ông phải
gượng dậy để hướng về tương lai. Cùng với thiệt hại về người và của tại Trung tâm Thương mại
Thế giới, giới nghệ thuật Niu-Yoóc cũng mất đi 1 nghệ sĩ, 1 Studio, 2 tổ chức nghệ thuật trong
thảm hoạ 11 tháng 9, đồng thời có nhiều công trình nghệ thuật bị phá huỷ, bị hư hại, nhiều tổ
chức nghệ thuật bị ảnh hưởng hoạt động cần được tài trợ. Hiện nay, khói, bụi từ đống đổ nát
vẫn bao phủ nhiều studio, nhiều tác phẩm của các nghệ sĩ, muốn làm sạch chúng phải tốn rất
nhiều tiền của và công sức. Mặt khác, do tình hình an ninh và do tâm lý, nhân dân không đến
dự các hoạt động nghệ thuật ở khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới nữa, làm cho các tổ
chức nghệ thuật, các rạp hát đóng trên khu vực này điêu đứng. Ngay như Bảo tàng Mỹ thuật
Mêtrôpôlitan có sức thu hút trên 5 triệu lượt khách tham quan mỗi năm ở xa khu vực này, cũng
bị giảm hẳn hoạt động, những ngày đầu lượng khách giảm 60%. Ông cho biết thành phố đã
quyên góp được rất nhiều tiền, đồng thời Quỹ cũng nhận được rất nhiều đơn xin tài trợ của các
nghệ sĩ, các tổ chức nghệ thuật, nhưng Quỹ vẫn chưa có khả năng đáp ứng. Ông chua chát nhận
xét rằng chính giới nghệ sĩ cũng là những nạn nhân của thảm hoạ 11 tháng 9, những nạn nhân
không trực tiếp và lại hay bị lãng quên. Ông đang vận động để thành lập Quỹ tái tạo phục vụ
nghệ sĩ, với mục đích khôi phục các công trình, tác phẩm nghệ thuật, các hoạt động nghệ thuật.
Ông nhấn mạnh rằng trách nhiệm của giới nghệ sĩ sau thảm hoạ 11 tháng 9 là tái tạo nghệ
thuật, làm cho nghệ thuật tiếp tục làm đẹp cuộc sống, làm cầu nối giữa người với người. Tôi có
nhận xét rằng, những trí thức, những người Mỹ chân chính mà tôi tiếp xúc khi nói về thảm hoạ
11 tháng 9 chỉ nhắc đến đến sự tái tạo cuộc sống chứ không ai nói đến hận thù.
Trung tâm Nghệ thuật biểu diễn Lin-côn
Khi chuẩn bị sang Mỹ, chúng tôi đã được các bạn ở quỹ FORD giới thiệu về Trung tâm
Nghệ thuật biểu diễn Lin-côn, một trong những trung tâm văn hoá lớn nhất thế giới, do đó ai
cũng háo hức mong được đến thăm tận mắt. Vậy mà hôm được bạn bố trí đi Trung tâm, lại cứ
bị "trục trặc kỹ thuật". Chờ xe mất 30 phút vẫn không thấy đến - lại tắc đường rồi. Cái sự giao
thông của anh Mỹ này cũng không mấy xuôn xẻ và cái sự chấp hành luật lệ giao thông của mấy
bác tài Mỹ cũng chẳng mấy nghiêm túc. Tôi đã chứng kiến không ít cảnh xe vượt đèn đỏ, tất
nhiên chỉ vượt khi rẽ phải chứ không dám vượt thẳng qua ngã tư, vì đông xe lắm, vượt ẩu kiểu
ấy bị tai nạn là cái chắc. Chúng tôi cũng bị khối lần nhỡ xe "nhà", đành móc USD đi tắc xi Mỹ.
Lần này thì gọi tắc xi cũng không được, chúng tôi đành đi xe điện ngầm. Đường hầm xe điện của
Niu-Yoóc khá tồi tàn, trông nhem nhuốc, thậm chí có chỗ nước chảy tong tong từ trên trần
xuống. Đi trên đường phố, có khi nghe tiếng xe điện chạy ầm ầm dưới chân và thỉnh thoảng lạ i
thấy hơi nước nóng bốc lên nghi ngút từ các miệng cống ngầm, hoá ra đó là nơi mà người ta xả
khí từ đường hầm xe điện lên. Thực ra, người Mỹ không phải không có khả năng làm cho đường
hầm xe điện trở thành những cung điện lộng lẫy, mà bởi vì với tính thực dụng, người ta chỉ đầu
tư cho nó ở mức độ tương xứng với lợi nhuận thu được mà thôi!
Chui lên khỏi mặt đất, đi bộ một hồi là đến đại lộ Cô-lôm-bơs. Một khối nhà khổng lồ
chắn trước mặt chúng tôi ngay kế vùng giao nhau của đại lộ Cô-lôm-bô với đại lộ Brôuây: Trung
tâm Lin-côn là đây! Được xây dựng từ những năm 1960, Trung tâm nghệ thuật biểu diễn Lin-
côn bao gồm 7 sân khấu biểu diễn, trong đó có Nhà hát Opera thành phố Niu-Yoóc, Nhà hát
Bang Niu-Yoóc, Phòng hòa nhạc Averi Phi-sơ, và Nhà hát Vi-viên Bơ-mau. Đây cũng là nơi 12
đoàn nghệ thuật độc lập có trụ sở, trong đó có Nhà hát Ôpêra thành phố Niu-Yoóc, Dàn nhạc
Giao hưởng Niu-Yoóc, Nhà hát Ba-lê thành phố Niu-Yoóc, Nhạc viện I-Ui-li-át và Trường Ba-lê
Mỹ. Với 7 toà nhà đồ sộ, gồm các rạp hát, chiếu phim, trong đó có những rạp có sức chứa 2.800
đến 3.700 chỗ, cùng lúc Trung tâm này có thể phục vụ 15.000 khán giả. Các bạn ở quỹ FORD cho
biết những nghệ sĩ, dàn nhạc trên thế giới đều coi đây là nơi biểu diễn lý tưởng, và được trình
diễn tại đây coi như đã được một chứng chỉ về chất lượng nghệ thuật cao. Đoàn múa rối Thăng
Long và Nghệ sĩ Đặng Thái Sơn của Việt Nam đã từng trình diễn tại đây. Nhìn kiến trúc bề ngoài
không có gì đặc biệt, nhưng nội thất từng công trình trong Trung tâm này thì tuyệt vời, vì nó vô
cùng thích hợp với công năng. Ví như Nhà hát Giao hưởng có cấu trúc tường gồ ghề, hình khối
không đẹp, trang trí đơn giản, song đã tạo cho sự chuyển tải âm thanh đến mức tuyệt hảo,
khiến cho ngồi chỗ nào cũng nghe rõ. Tôi ngồi cuối phòng khán giả 2.800 chỗ, còn người thợ
đàn thì đang chỉnh đàn Pi-a-nô ở trong cánh gà sân khấu, mà tôi vẫn nghe tiếng từng nốt nhạc
như ngay bên tai. Người phụ trách Nhà hát giải thích với chúng tôi rằng sự trang trí đơn giản
trong rạp nhằm tránh làm cho khán giả phân tán, hướng mọi sự chú ý của họ vào chương trình
biểu diễn. Hoặc như rạp hát ô pê ra với 3.700 chỗ dành cho những nghệ sĩ nổi tiếng biểu diễn,
được trang trí những vật hình nữ trang, gọi là hộp nữ trang, có 6 tầng khán giả và khán giả ngồi
ở ghế nào cũng nhìn rõ sân khấu. Quả thật, nơi đây cũng có thể được coi là nhất thế giới bởi đã
tập trung trong một khu vực một loạt rạp biểu diễn lớn và hiện đại đến thế, đồng thời quy tụ
nhiều đơn vị nghệ thuật danh tiếng trên thế giới đến thế, với sức hoạt động bền bỉ từ hàng
chục năm qua và hoạt động đều đặn hàng tuần quanh năm, phục vụ hết lớp khán giả này đến
lớp khán giả khác không những của Niu-Yoóc mà của cả thế giới đổ đến.
Đi thăm, hỏi han, xem lướt khu vực này cũng mất cả một ngày. Mà chui vào trong lòng
những toà nhà này mới thấy nó lớn đến dễ sợ, có những tầng hầm trông mênh mông ngút tầm
mắt hoặc chằng chịt những hành lang như một mê cung. Riêng việc hướng dẫn du khách đi
thăm khu vực này đã thành một nghề, được tổ chức như những tua du lịch, thu hút nhiều lao
động vào làm việc, trong đó có những nghệ sĩ đã hết khả năng biểu diễn (Việt Nam gọi là hết
tuổi nghề). Người hướng dẫn "tua" của chúng tôi là một phụ nữ đã đứng tuổi, cao ngỏng, mặt
dẹt, mũi nhọn, da mặt nhăn nheo nhưng nét mặt rất linh hoạt và lại có vẻ rất nhí nhảnh. Mỗi
khi giới thiệu xong một công trình, trong khi đưa chúng tôi đi qua công trình khác, chị bước
thoăn thoắt, đầu lắc qua lắc lại, thỉnh thoảng lại xướng lên một khúc hát thính phòng. Chị Thuỷ
quả quyết với tôi rằng đây chính là một nghệ sĩ ô-pê-ra đã chuyển nghề. Nhưng khi hỏi lại, thì
được biết chị này vốn là một nghệ sĩ Ba lê - thảo nào cao mà gầy thế, lại nhanh nhẹn nữa! Khi
chúng tôi đã tham quan xong khu vực Trung tâm nghệ thuật, chuẩn bị chia tay với người hướng
dẫn đầy chất nghệ sĩ và vui tính này, chị giới thiệu tối nay sẽ có buổi duyệt vở ô-pê-ra mới, bán
vé đồng loạt 15 USD mỗi vé, đoàn có thể mua để tới xem. Xin cảm ơn sự chu đáo của của chị,
người nghệ sĩ chuyển nghề, người hướng dẫn tham quan, và cũng xin ghi nhận lối tiếp thị nghệ
thuật rất dễ chịu kiểu Mỹ này.
Viện Giáo dục nghệ thuật Trung tâm Lin-côn
Mặc dù đến muộn, chúng tôi vẫn được đón tiếp chu đáo bởi một dàn cán bộ của Viện,
toàn là phụ nữ. Các chị em giới thiệu với chúng tôi tấm bảng đồng ghi lời người sáng lập ra
Trung tâm này rồi mới mời vào phòng làm việc.
Những ý tưởng tốt đẹp cho sự hình thành và hoạt động của Viện bắt nguốn từ thực tế.
Người ta vẫn hay lưu truyền những câu chuyện về sự thiếu hụt trong nhận thức về nghệ thuật
của học sinh, coi đó là chuyện khôi hài, cần phải khắc phục. Nữ giám đốc thông tin của Trung
tâm kể với chúng tôi rằng, 13 năm trước, có một học sinh 13 tuổi sau khi xem múa Ấn Độ đã tỏ
ra rất nuối tiếc, vì em nói rằng trên thế giới có một nền nghệ thuật độc đáo như thế này mà nay
em mới được biết đến! Bà Giám đốc chương trình giáo dục cấp cao nhắc đến ông Mát Trubát,
người sáng lập Trung tâm Lin-côn (ông mất cách đây một năm rưỡi) với thái độ kính trọng, và
kể: Lúc đầu, khi tổ chức cho học sinh xem biểu diễn một chương trình nghệ thuật, ông Mát
Trubát đã ngồi chung với khán giả và được nghe lời trao đổi giữa thầy giáo và học sinh như sau:
- Em có hiểu người ta đang diễn gì không?
- Thưa thầy không! Còn thầy?
- Thầy cũng không hiểu gì cả!
Từ lời hội thoại ấy, ông Mát Trubát nhận ra rằng nếu chỉ đưa nghệ thuật đến diễn tại
trường thì không có hiệu quả, mà phải có sự giáo dục nghệ thuật, muốn vậy, đầu tiên phải từ
các thầy giáo. Từ đấy, định hướng hoạt động của Viện là kết hợp người nghệ sĩ với người làm
công tác giáo dục để phổ cập nghệ thuật trong học sinh, từ lớp mẫu giáo đến cấp 2,3 trong bối
cảnh nước Mỹ không bắt buộc giáo dục nghệ thuật trong các trường học.
Các chương trình đưa nghệ thuật vào giáo dục cho học sinh và giáo viên được thực hiện
thông qua việc hợp tác với các cụm trường học ở Niu-Yoóc, Connéchticút và Niu Giơ-sây, đào
tạo các nhà giáo dục để họ sẽ cùng với học sinh của mình tìm hiểu về nghệ thuật thông qua
những hình thức đi thực tế có tác dụng hỗ trợ cho việc học hỏi nhiều hơn trong chương trình
giảng dạy.
Trong 25 năm qua, Viện Giáo dục nghệ thuật Trung tâm Lin-côn đã xây dựng và chuẩn
hoá cách tiếp cận với nghệ thuật và giáo dục riêng rất nổi tiếng của mình, đó là thách thức học
sinh phải học về nghệ thuật và học thông qua nghệ thuật. Cùng hợp tác với các nhà giáo, Viện
đã phát triển những nghiên cứu thực tế tập trung vào các tác phẩm nghệ thuật, bao gồm múa,
âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật và kiến trúc. Cách thức dựa vào quá trình này thể hiện vai trò toàn
diện mà nghệ thuật có thể và nên giữ trong giáo dục. Bằng cách khuyến khích học sinh hỏi và
tìm hiểu, Viện Giáo dục nghệ thuật Trung tâm Lin-côn hỗ trợ việc học trong suốt chương trình
học, xây dựng kỹ năng tư duy phân tích phê bình và khuyến khích khả năng cảm nhận và sáng
tạo của học sinh. Kết quả là, nhiều mối liên kết được tạo ra không ngờ, nhiều quan điểm khác
nhau được cân nhắc, những điều phức tạp được tìm hiểu và cánh cửa đến với những thế giới
tưởng tượng mới mẻ được mở ra.
Hoạt động của Viện Giáo dục nghệ thuật Trung tâm Lin-côn dựa trên nguyên lý giáo dục
mỹ học. Dựa vào những bài viết của những nhà giáo dục cách tân như Giôn Đơuây, Mắc-xin
Grin và Hô-uốt, Gát-nơ, ''giáo dục mỹ học'' mở rộng giớí hạn truyền thống của giáo dục tiên tiến
tới thế giới nghệ thuật. Nguyên lý đó phát biểu rằng các tác phẩm nghệ thuật cung cấp một
nguồn vô tận cho việc tìm hiểu, suy xét, và thấu hiểu. Mỗi cá nhân, không phân biệt tuổi tác,
đều có khả năng phản hồi trước một tác phẩm nghệ thuật theo những cách phản hồi thách
thức lại những quan điểm đã định trước, khuyến khích những cái nhìn tươi mới, và khuyến
khích những hiểu biết sâu hơn. Không bị hạn chế bởi những câu trả lời "đúng" hay "sai", quá
trình phản xạ này xây dựng khả năng nhận thức theo những cách thức cơ bản và có sức mạnh.
Đồng thời, giáo dục mỹ học cũng phát triển một khả năng hiểu biết nội tại những lựa chọn nghệ
thuật đóng góp cho bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào. Học sinh biết đánh giá sâu sắc nghệ
thuật, có được những phân tích thực tế trước bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào, tăng cường
những kỹ năng cơ bản ví dụ như tư duy trừu tượng, kỹ năng giải quyết khó khăn và sẵn sàng áp
dụng những kỹ năng đó vào học tập và vào cuộc sống.
Cách làm việc thông qua kinh nghiệm thực tế này của Viện Giáo dục nghệ thuật Trung
tâm Lin-côn đã thực sự lôi cuốn các em vào tìm hiểu, nghiên cứu, tư duy và thảo luận. Để đảm
bảo việc học nghệ thuật có liên quan đến những mục đích đào tạo chung được nhấn mạnh
trong chương trình giảng dạy cơ bản, Viện đã kết hợp các nhà sư phạm với các nghệ sĩ đến
giảng tại các trường học. Được hỗ trợ bằng cách lập thời gian biểu thích hợp, mối hợp tác giữa
họ sẽ thiết kế nên những hoạt động trong lớp học để học sinh được học thật kỹ một tác phẩm
nghệ thuật, đồng thời thiết lập những mối liên kết trong suốt chương trình giảng dạy. Bằng
cách này, giáo viên không chỉ đóng góp những am hiểu của mình với tư cách là những nhà giáo
dục chuyên nghiệp, mà còn tham gia với tư cách học viên vào không khí học tập hào hứng.
Hiện Viện Giáo dục nghệ thuật đang hợp tác với 255 trường trong 61 cụm trường học
trong 3 bang của nước Mỹ. Nó cũng đã phát động một số phong trào mới được phát động để
biến giáo dục nghệ thuật thành một phần kinh nghiệm học tập của mỗi học sinh, bao gồm Dự
án tập trung hợp tác trường học làm việc với 8 trường ở Niu-Yoóc, cố gắng đào sâu và mở rộng
việc thực hành đưa nghệ thuật vào giáo dục từ chỗ học các tác phẩm nghệ thuật ở trong mỗi
lớp thành việc cả trường tham gia, Dự án tập trung hợp tác trường học bậc cao cố gắng đưa
giáo dục nghệ thuật vào chương trình giảng dạy ở một số trường sư phạm có lựa chọn; Hội thảo
các nhà giáo toàn quốc dành cho giáo viên và các nhà quản lý trên khắp mọi miền đất nước; Hội
thảo Thường xuyên về phát triển nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của các trường học hoặc cụm
trường học cụ thể.
Từ khi thành lập đến nay, Viện đã được đánh giá là một tổ chức đi đầu trong lĩnh vực
giáo dục nghệ thuật trong học sinh và là một nguồn khuyến khích những đổi mới trong lý thuyết
lẫn thực tế đưa nghệ thuật vào giáo dục. Nó là mô hình cho 21 tổ chức tương tự, trong đó có 19
tổ chức ở Mỹ, 2 tổ chức ở Úc. Những viện này nay được tổ chức thành Hiệp hội các Viện giáo
dục mỹ học, một tổ chức quốc tế phục vụ cho việc tăng cường và thúc đẩy tầm quan trọng của
giáo dục mỹ học như một thành tố quan trọng của hệ thống giáo dục.
Với những thành tựu nổi bật trong hoạt động như trên, các nhà quản lý Viện Giáo dục
nghệ thuật Trung tâm Lin-côn tự khẳng định rằng Viện là tổ chức đi đầu trong phong trào đấu
tranh cho vai trò của nghệ thuật trong giáo dục không những ở Mỹ mà còn ở thế giới.
Hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của Viện là Trung tâm Thông tin. Với khối lượng lớn tư liệu
gồm sách, báo, tạp chí, băng, đĩa, tranh ảnh... Trung tâm Thông tin là nơi mà các nghệ sĩ làm
công tác giáo dục sử dụng suốt trong năm học. Trung tâm xuất bản một loại sách có tên gọi Cửa
sổ nghệ thuât giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật, nghệ sĩ, quá trình sáng tác, dàn dựng, bối
cảnh xã hội, văn hoá, phản hồi đánh giá tác phẩm. Mỗi năm Trung tâm xuất bản 7 đến 9 cuốn
sách như thế. Những tác phẩm được giới thiệu trong Cửa sổ nghệ thuật thuộc các loại hình
múa, âm nhạc, sân khấu, là những tác phẩm đã được khẳng định theo thời gian, ít nhất đã được
trình diễn 350 buổi. Những nhà biên tập còn giới thiệu trong sách các tài liệu tham khảo, nhưng
không bao giờ đưa chương trình giảng dạy cũng như nội dung giảng dạy vào sách này. Khi đến
Trung tâm Thông tin, giáo viên xem sách, băng hình rồi tự quyết định đưa nội dung gì vào giáo
án, từ cảm thụ tác phẩm nghệ thuật rồi chuyển thành bài giảng cho học sinh.
Được hỏi về nguồn tài chính cho hoạt động, bà phó Giám đốc Viện Giáo dục nghệ thuật
nói một cách hóm hỉnh: "Hơn 90% dân số Hoa Kỳ tin rằng cần đem âm nhạc vào chương trình
giáo dục. Nhưng khi bàn đến ngân sách thì số người ủng hộ giảm dần. Vì vậy, chúng tôi phải tự
tạo ra tiền để thực hiện ý tưởng của mình" (mọi người đều cười - điều này có lẽ giống Việt Nam
ta đây!). Bà cho biết có nhiều nguồn tài chính khác nhau: Thu từ các trường (trường nào tiếp
nhận chương trình giáo dục vủa Viện thì trường ấy bỏ tiền để tổ chức đào tạo) - đây là nguồn
thu quan trọng vì nó chiếm hai phần ba nguồn thu, còn lại là tài trợ từ chính phủ, từ các tổ chức
và cá nhân. Mức thu đối với các trường được quy định cụ thể, ví du: 1 trường học cử 5 giáo viên
học 2 tác phẩm thì phải đóng góp 6.000 USD để trả công cho nghệ sĩ biểu diễn và người giảng
dạy. Bà giải thích thêm: "Sự phối hợp giữa chúng tôi với các trường trong việc đào tạo cũng linh
hoạt, như chúng tôi đã phối hợp với 2 trường đại học đào tạo thạc sĩ, và 2 trường đó cấp bằng
thạc sĩ, hoặc chúng tôi cấp chứng chỉ cho người đã học ở đây để họ tích luỹ trong quá trình học
cao học. Những người học xong đại học mà chưa làm giáo viên thì có thể học ở chỗ chúng tôi
để trở thành giáo viên nghệ thuật".
Nhìn chung ở Niu-Yoóc, có sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục nghệ thuật cho học sinh,
mà biện pháp hữu hiệu là thông qua đội ngũ giáo viên được đào tạo và có phương pháp sư
phạm hiện đại khiến cho học sinh tiếp thu nghệ thuật một cách chủ động và sáng tạo. Qua giáo
viên và qua các nghệ sĩ, học sinh được dẫn dắt vào đời sống nghệ thuật bằng nhiều phương
thức, từ đơn giản đến phức tạp, như sưu tầm các bài báo viết về một tác phẩm nghệ thuật,
bình luận về những bài báo đó, nghe và tập phân tích tác phẩm... Theo lời những người quản lý
Viện và những người quản lý đơn vị nghệ thuật, thì đây cũng chính là biện pháp đầu tư vào
khán giả, tạo lớp khán giả đông đảo cho nghệ thuật từ đội ngũ học sinh.
Dàn nhạc Giao hưởng Niu-Yoóc
Cùng trong khối nhà khổng lồ cuả Trung tâm Lin-côn, nằm trên tầng bốn, là trụ sở của
Dàn nhạc giao hưởng Niu-Yoóc. Chúng tôi được mời đi vào phòng làm việc qua cửa dành cho
diễn viên. Đón tiếp chúng tôi có ông Thô-mát Ca-bi-nét, Giám đốc Giáo dục, các chị Toi-a Li-lát,
Trợ lý Giám đốc Giáo dục, Mi ki Takabe, Điều phối hoạt động, Jơremy Ghe-phen, Quản lý Nghệ
thuật, Mai-cơn Ni-sơn, Cộng tác viên giáo dục. Trong năm vị này thì đã có ba mầu da: trắng,
đen, vàng với hai quốc tịch gốc là Nhật và Mỹ. Báo cáo của các vị này giúp chúng tôi hiểu biết về
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau của Dàn nhạc Giao hưởng Niu-Yoóc, ví dụ như giáo dục, lưu
diễn, tài chính, nghệ thuật. v.v
Dàn nhạc giao hưởng Niu-Yoóc thành lập năm 1842, là dàn nhạc có tuổi đời vào loại "già"
nhất thế giới. Với biên chế chính thức gồm 106 nhạc công và 15 người làm hành chính, Dàn
nhạc Giao hưởng Niu-Yoóc hoạt động rất có hiệu quả. Ngay tại Trung tâm Lin côn này, Dàn nhạc
biểu diễn mỗi năm 150 buổi trong Nhà hát có sức chứa 2800 chỗ mà bao giờ cũng bán hết 90%
số vé với giá từ 10 đến 90 USD một vé. Đó là chưa kể những buổi lưu diễn ở nhiều nước trên
thế giới hoặc diễn ở quảng trường phục vụ đông đảo công chúng và diễn tại các trường học
phục vụ học sinh, sinh viên. Nhạc trưởng của Dàn nhạc giao hưởng là một người nổi tiếng thế
giới, ông Cớt Ma-sơ. Từ năm 1991, Cớt Ma-sơ giữ chức Giám đốc âm nhạc, tạo dấu ấn riêng của
ông đối với Dàn nhạc Giao hưởng vốn trong nhiều năm đã quen với ảnh hưởng của Ma-lớt,
Tôcanini, Bơ-xơ-tên, Bulơ và Meta. Ngoài việc dẫn dắt Dàn nhạc giao hưởng đi lên đỉnh vinh
quang, có chỗ đứng vững vàng trên đất Mỹ, ông còn đưa Dàn nhạc đi biểu diễn ở khắp các châu
lục, được giới hâm mộ âm nhạc bác học toàn thế giới đánh giá cao. Chương trình biểu diễn của
đoàn hết sức phong phú, bao gồm hầu hết những tác phẩm nổi tiếng của các nhà soạn nhạc thế
giới, như Bách, Bét-tô-ven, Rachamaninốp, Trai-cốpx-ki... đồng thời có cả những bản nhạc mới
được sáng tác qua đặt hàng của chính Dàn nhạc. Bên cạnh những hoạt động biểu diễn đáng
khâm phục, điều đáng quan tâm hơn, mang tính độc đáo và tân tiến cũng rất đáng học tập của
Dàn nhạc Giao hưởng Niu-Yoóc, là những hoạt động phụ trợ. Đó là công tác thông tin truyên
truyền, công tác giáo dục, hoạt động gây quỹ. Về mặt thông tin tuyên truyền, phải công nhận
người Mỹ là bậc siêu đẳng mà tôi sẽ dành một mục riêng để giới thiệu với bạn đọc. Trong phần
này, tôi chỉ giới thiệu sơ lược rằng Dàn nhạc có cả một bộ phận chuyên lo về hoạt động thông
tin tuyên truyền có nhiệm vụ truyền bá hoạt động của Dàn nhạc ra cộng đồng. Để thực hiện
được nhiệm vụ, bộ phận tuyên truyền thực hiện hai biện pháp là họp mặt với báo chí, và phát
hành xuất bản phẩm của nhà hát. Các tài liệu phục vụ cho giới báo chí được chuẩn bị công phu,
chi tiết, từ việc giới thiệu chung về dàn nhạc, nhạc trưởng, các nghệ sĩ hàng đầu, tới việc giới
thiệu tác phẩm, các chương trình công diễn... giúp báo chí nắm chắc thông tin để tuyên truyền.
Tờ báo mà Dàn nhạc cộng tác chặt chẽ nhất là tờ Thời báo Niu-Yoóc. Bên cạnh đó, đã trở thành
nền nếp, chương trình biểu diễn của dàn nhạc mỗi tháng đều được phát trên đài phát thanh, và
mỗi năm có 2 đến 3 lần phát trên sóng truyền hình.
Chị Toi-a Li-lát, trợ lý Giám đốc giáo dục, cho biết: Dàn nhạc coi giáo dục nghệ thuật là
chương trình lớn nhất của mình. Dàn nhạc đã hợp tác giáo dục với 8 trường học của Niu-Yoóc.
Cùng với các trường, Dàn nhạc tổ chức các hội thảo, mời nghệ sĩ nói chuyện, cung cấp cho học
sinh những trường quốc lập có kiến thức về âm nhạc. Mỗi năm thường có 16-17 cuộc hội thảo
như vậy. Dàn nhạc có chương trình học bổng hỗ trợ học sinh học âm nhạc, tổ chức những buổi
hoà nhạc của sinh viên để mời học sinh các trường đối tác đến học. Dàn nhạc cũng cộng tác
chặt chẽ với các trường đối tác để bồi dưỡng nghiệp vụ âm nhạc cho giáo viên vào dịp hè bằng
những tài liệu giảng dạy riêng do Dàn nhạc biên soạn hướng vào đối tượng là giáo viên trong
các trường đối tác. Dàn nhạc Giao hưởng thực hiện một loạt chương trình giáo dục đổi mới, mở
rộng cánh cửa đón học sinh đến với nhạc giao hưởng. Trang web của Dàn nhạc Giao hưởng
cung cấp rất nhiều thông tin về các chương trình giáo dục nhằm vào các trường học, giáo viên,
gia đình và thanh thiếu niên.
Các chương trình của Dàn nhạc Giao hưởng Niu-Yoóc dành cho trường học bao gồm:
Chương trình hoà nhạc Ngày của Trường đón các học sinh và giáo viên từ lớp 3 đến lớp 12.
Cuộc gặp gỡ với âm nhạc dưới hình thức hội thảo giao lưu hoặc buổi họp sau tổng duyệt với các
thành viên của Dàn nhạc Giao hưởng dành cho học sinh lớp 4 đến lớp 12. Chương trình hợp tác
trường học 3 năm là một chương trình công phu nhằm xây dựng những kiến thức cơ bản về âm
nhạc, qua việc tạo điều kiện cho giáo viên, học sinh cùng phụ huynh giao lưu với một dàn nhạc
giao hưởng và dự các buổi biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng đó; phát triển mối quan hệ kéo
dài nhiều năm với một số trường học được lựa chọn ở thành phố Niu-Yoóc, xây dựng một bộ
chuẩn để đánh giá tài năng nghệ thuật, từ đó định nghĩa mối quan hệ giữa một dàn nhạc giao
hưởng với các trường học trong cộng đồng dân cư khu vực đó. Đội thiếu niên Dàn nhạc giao
hưởng là tên một loạt chương trình có đăng ký dành cho học sinh 7 đến 12 tuổi. Tổng duyệt cho
phép vào xem là chương trình tổng duyệt chương trình, tiết mục mới của Dàn nhạc cho phép
các nhóm học sinh vào dự. Các Chương trình Thường trú và Hỗ trợ Kỹ thuật tại chỗ dành cho
các trường trung học, cao đẳng và các tổ chức cộng đồng nào đã có những chương trình âm
nhạc đặc sắc. Chương trình Hợp tác nhạc viện theo đó Dàn nhạc giao hưởng Niu-Yoóc phối hợp
với Nhạc viện Du-li-át, Nhạc viện Man-hát-tan, Trường Cao đẳng âm nhạc Man hat tan cũng
như với các sinh viên nhạc viện, để cung cấp cơ hội được học tập về âm nhạc cho những học
sinh này ở một số khu vực. Dàn nhạc Giao hưởng còn thực hiện một loạt chương trình cho giáo
viên, bao gồm các Hội thảo âm nhạc 3 ngày dành cho các giáo viên âm nhạc quan tâm đến việc
dạy khái niệm âm nhạc cho học trò bằng việc sử dụng các chương trình biểu diễn của Dàn nhạc
Giao hưởng Niu-Yoóc. Thêm vào đó, Dàn nhạc Giao hưởng còn tổ chức các hoạt động: Cuộc thi
nghệ sĩ Trẻ, Hoà nhạc của giới trẻ, dành cho trẻ em từ 6 đến 12 tuổi và từ 12 đến 17 tuổi, Kể
chuyện về âm nhạc, dành cho các em từ 3 đến 6 tuổi nhằm giới thiệu với các em các nhạc cụ và
các nhạc sĩ, và Đội thiếu niên dàn nhạc giao hưởng dành cho những học sinh đã “tốt nghiệp”
tức là đã học qua các chương trình giáo dục âm nhạc mà Dàn nhạc tổ chức. Dàn nhạc Giao
hưởng còn có một trang web giao lưu đặc biệt cho trẻ em, tên là Vùng dành cho trẻ em của Dàn
nhạc giao hưởng Niu-Yoóc. Trang web này đến nay đã được rất nhiều thanh thiếu niên từ 50
bang và 55 nước truy cập.
Như để kết luận, chị Toi-a nói: "Bộ phận giáo dục cũng góp phần quan trọng tạo nên khán
giả, bởi vì sự giáo dục nghệ thuật đã giúp học sinh có hiểu biết về nghệ thuật để rồi trở thành
khán giả".
Coi trọng việc gây quỹ, Dàn nhạc có bộ phận chuyên trách việc này. Chị Barbana, phụ
trách bộ phận phát triển – quyên tiền, cho biết bộ phận của chị phải thường xuyên tiếp xúc với
công chúng để kêu gọi sự đóng góp của cá nhân thông qua hình thức mua vé hoặc ủng hộ tiền,
tổ chức cho họ trở thành thành viên của Dàn nhạc. Chị cho biết thu hút khán giả là công việc đòi
hỏi kiên trì và năng động, chứ không chỉ đơn thuần là bán vé hay xin tài trợ. Một trong những
biện pháp có hiệu quả nhưng đòi hỏi nhiều công sức là tổ chức các cuộc tiếp xúc thân mật giữa
khán giả và nghệ sĩ, tổ chức các buổi trình diễn đồng thời với giới thiệu, phân tích tác phẩm, tổ
chức câu lạc bộ khán giả... Các công ty, doanh nghiệp cũng chi tiền cho Dàn nhạc bằng nhiều
cách như tài trợ cho các chương trình đối tác với các trường học, tài trợ cho các hoạt động vì
mục đích chung, tài trợ cho một số buổi biểu diễn khác nhau. Bộ phận của chị cũng có trách
nhiệm tiếp cận các quỹ, tiếp cận và kêu gọi sự tài trợ của Chính phủ. Chị nhấn mạnh rằng ở Mỹ
không có truyền thống Chính phủ tài trợ cho các hoạt động nghệ thuật; việc này được tiến hành
bởi các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội là chính, đổi lại, Chính phủ Mỹ đã tạo ra
hệ thống thuế rất khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho nghệ thuật.
Trong phần trao đổi ý kiến, chúng tôi hỏi về việc sử dụng lao động trong Dàn nhạc, ông
Thômas Carbines trả lời một cách cởi mở: "Khi có chương trình lớn thì chúng tôi thuê thêm một
số nhạc công giỏi. Nhạc công của chúng tôi cũng được tạo điều kiện để đi trình diễn ngoài Dàn
nhạc, như trình diễn cá nhân hoặc trình diễn cùng những nhóm khác nhằm có thêm thu nhập."
Chị Maicơn Naisơn, cộng tác viên giáo dục của Dàn nhạc, hỏi chúng tôi: "Tôi nghe nói Việt Nam
đang nhấn mạnh xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Có phải rằng làm như thế là
bởi Việt Nam sợ sự xâm nhập và ảnh hưởng của các nền văn hoá khác không?" Thế đủ biết
những người hoạt động văn hoá Mỹ cũng quan tâm đến văn hoá Việt Nam, nhưng thông tin
đến họ lại phiến diện, khiến họ có thể hiểu sai bản chất xã hội ta. Chúng tôi đáp lại rằng nói một
cách toàn diện, thì Việt nam chủ trương xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, kết hợp hài hoà giữa quá khứ và hiện tại, dân tộc và thế giới, không bài ngoại mà tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới.
Hội sân khấu múa (DTW)
Nằm ỏ tầng 5 số nhà 220 West phố 19th, Hội Sân khấu múa đang làm việc trong khung
cảnh chật chội, bởi vì đây chỉ là nơi làm việc tạm - trụ sở chính của Hội nằm ở khu đất đối diện,
đang được xây dựng với vốn đầu tư 12 triệu USD. Theo tài liệu do quỹ FORD cung cấp, thì Hội
Sân khấu là một tổ chức phi chính phủ, cũng là một trong những tổ chức nghệ thuật biểu diễn
ưu việt nhất nước Mỹ. Hội có trách nhiệm xác định và nuôi dưỡng các nghệ sĩ có tài mới xuất
hiện hoặc đang công tác trong các tổ chức nghệ thuật khác nhau, khuyến khích đông đảo công
chúng đến với các nghệ sĩ này cũng như các tác phẩm của họ. Hội tổ chức một nơi giao lưu cộng
đồng vì óc tưởng tượng và yêu cầu cần thiết phải ứng dụng óc tưởng tượng đó vào thế giới
ngày nay.
Theo lịch, thì Hội bố trí những người lãnh đạo đón tiếp chúng tôi, gồm Đavid R. Oai, Giám
đốc điều hành, Ca-thơ-ry Ét-Uốt, đồng Giám đốc Nghệ thuật, và Cay Bakơ, Giám đốc Dịch vụ
Nghệ thuật, nhưng khi chúng tôi đến thì chưa thấy ông giám đốc điều hành đâu. Trước khi vào
phòng khách, chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt dẫn chúng tôi đi thăm các phòng làm việc. Đã vào nhiều
phòng làm việc ở Niu-Yoóc, tôi thấy người Mỹ ít quan tâm đến sự ngăn nắp và tính thẩm mỹ,
như những căn phòng này có những vật dụng gác cẩu thả trên các giá sát trần nhà mà trên đó,
các đường ống dẫn nước hay dẫn khí, đường điện... chạy lộn xộn trông đến rối mắt. Tất nhiên
đây là nơi làm việc tạm, nhưng kể cả những nơi làm việc ổn định, tính mỹ thuật cũng không có
gì đáng khen. Đổi lại, người Mỹ quan tâm đặc biệt đến tính tiện lợi của vật dụng. Phòng khách
nào cũng có bàn uống nước mà trên đó có một cái bình nước căm điện gồm nhiều ngăn đựng
nhiều thứ nước, chủ yếu là ba thứ: cà phê, chè, và nước sôi, một ít bánh trái điểm tâm, dưới
bàn là thùng rác. Phục vụ làm việc, các phòng đều trang bị máy vi tính đến từng cá nhân, và ở
phòng làm việc chung có các phương tiện nghe nhìn hiện đại. Giống như khi thăm các cơ quan
khác, tôi được giới thiệu trước hết là bộ phận gây quỹ, bộ phận ma két tinh. Tôi hiểu rằng đây là
những bộ phận hết sức quan trọng, góp phần chủ yếu tạo ra nguồn tài chính và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị văn hoá nghệ thuật ở Mỹ. Khi ra hành lang, chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt chỉ sang
ngôi nhà 11 tầng đang xây dựng, cho biết đó là trụ sở chính của Hội. Bên đó, các công nhân xây
dựng đang lắp ghép các khối bê tông vào khung nhà. Khác với phương pháp xây dựng bên ta,
anh Mỹ này giầu cho nên sử dụng rất nhiều sắt thép cho xây dựng: không đổ bê tông các cột trụ
hay thanh dầm mà ghép các thanh sắt khổng lồ vào nhau thành khung, rồi lắp các khối bê tông
nhẹ đúc sẵn làm sàn, vách, cho nên tiến độ xây dựng rất nhanh mà công trường lại không ngổn
ngang cát sỏi... Người phụ nữ Mỹ này rất tự hào với công trình đang xây dựng đó của Hội mình,
và nhắc đến ông Giám đốc điều hành với niềm kính trọng: "Công trình kia do ông Đavít R. Oai
chủ trì, lát nữa các bạn sẽ được ông ấy giới thiệu kỹ về nó. Các bạn sẽ thấy ông Đavít là một
người nhìn xa trông rộng". Cơ chế tổ chức ở Mỹ có chỗ khác biệt, đó là một ban lãnh đạo gồm
có nhiều giám đốc, trong đó giám đốc điều hành là người chịu trách nhiệm chung, các giám đốc
khác phụ trách từng lãnh vực, chứ không phải chỉ có một giám đốc và một số phó giám đốc như
ta. Qua cách nói của người phụ nữ này, tôi có thể hiểu rằng ông Đavít là người rất có uy tín,
được trọng nể.
Chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt giới thiệu với chúng tôi quá trình hình thành và hoạt động của Hội
Sân khấu múa: Thành lập năm 1965, Hội Sân khấu múa như là một tập hợp của những nhà biên
đạo múa có nhiệt tâm cống hiến cho sự tài trợ và hỗ trợ cho công việc của đồng nghiệp và các
nghệ sĩ mới vào nghề. Nằm ở khu vực Chelsi, trong hơn 30 năm qua, Hội đã mở rộng tầm nhìn
ban đầu của mình để trở thành một tổ chức đa diện cống hiến cho việc phát triển các chương
trình và các nguồn lực có thể giúp cho các nghệ sĩ độc lập phát triển một cách chuyên nghiệp,
đồng thời tăng sự tham gia của quần chúng vào nghệ thuật. Với tư cách là một trong những
trung tâm nghệ thuật biểu diến có ảnh hưởng nhất ở Mỹ, Hội Sân khấu múa đã hỗ trợ cho 3 thế
hệ các nghệ sĩ có tài nhất của nước Mỹ. Gần 1.000 nghệ sĩ đã tìm thấy ngôi nhà nghệ thuật của
mình tại Nhà hát Bét-si Sơ-trong-bơ của Hội. Các chương trình của Hội đã phát triển thành
những mạng lưới được thiết lập một cách hữu hiệu có khả năng tăng cường đời sống của các
nghệ sĩ và của cộng đồng nơi họ phục vụ. Hơn 200 buổi hoà nhạc và trưng bày triển lãm bởi
khoảng 70 nghệ sĩ múa, sân khấu, âm nhạc và video được Hội tài trợ hàng năm, khiến Hội trở
thành một trong những nhà sản xuất năng động nhất nước Mỹ. Các nghệ sĩ nhận được tiền tài
trợ cho các tác phẩm mới của họ từ chương trình đặt hàng của Hội mang tên Ánh sáng đầu tiên.
Mức đầu tư cho việc đặt hàng tạo ra tác phẩm mới này là từ 3.000 đến 10.000 USD cho 1 nghệ
sĩ, mà thông thường là 3.000 USD. Tham gia các hoạt động do Hội tổ chức, các nghệ sĩ có cơ hội
để thể hiện và mài dũa tài năng nghệ thuật của mình trong một môi trường vừa mang tính hỗ
trợ vừa mang tính phê bình sắc sảo. Ca-thơ-ry Ét-Uốt kể ra hàng chục tên của các nghệ sĩ nổi
tiếng cùng với con số hàng trăm nghệ sĩ tài danh khác mà khởi nghiệp của họ là tại Hội, đã góp
phần quan trọng tạo nên bức tranh văn hoá Mỹ. Chị nói một cách tự hào: "Hàng năm chúng tôi
đón tiếp rất nhiều đoàn nghệ thuật, không chỉ có múa mà cả sân khấu, âm nhạc, múa rối, tổ
chức biểu diễn cho đa dạng nghệ sĩ từ những người lần đầu lên sàn diễn đến những nghệ sĩ
thành danh. Từ sân khấu của chúng tôi, rất nhiều nghệ sĩ đã nổi tiếng trên thế giới. Chúng tôi là
nhà vô địch trong việc lăng xê nghệ sĩ mới".
Trong vô số hoạt động hữu ích của mình, Hội Sân khấu múa coi việc phục vụ cho cộng
đồng nghệ sĩ biểu diễn là một hoạt động trọng tâm. Cùng với các chương trình tà i trợ, hàng
năm Hội cung cấp gần 40 dịch vụ kỹ thuật, quản lý và tiếp thị cho hơn 500 nghệ sĩ và các đoàn
nghệ thuật nhỏ thông qua chương trình Dịch vụ nghệ sĩ. Chương trình này đón nhận tất cả các
nghệ sĩ độc lập, các đoàn và các đơn vị nghệ thuật có quan tâm, giải phóng nghệ sĩ khỏi gánh
nặng quản lý luôn xuất hiện trong khi tổ chức các chương trình biểu diễn, tạo cho nghệ sĩ khả
năng tìm được nguồn tài trợ và thiết lập sự hỗ trợ giữa các nghệ sĩ với nhau trong một bối cảnh
xã hội bị phân quyền và luôn bị tách biệt.
Những hoạt động quan trọng khác của Hội có Giải thưởng múa và biểu diễn Niu-Yoóc
hàng năm, chương trình Óc tưởng tượng của công chúng - trong đó bao gồm một dự án nghệ sĩ
thường trú và một số chương trình văn hoá cộng đồng đang được thực hiện, được thiết kế làm
tăng khả năng đến với nghệ thuật của công chúng và làm cho cộng đồng địa phương của Hội trở
thành một đối tác toàn diện hơn trong công việc chung của Hội. Chương trình Óc tưởng tượng
của công chúng đưa nghệ sĩ đến gần với công chúng, mỗi năm cấp tiền cho 6 nghệ sĩ để họ đến
với các cộng đồng.
Quỹ valy là một dự án được tài trợ bởi hãng Rockơfellơ do Hội điều hành, giúp cho các
nghệ sĩ và các dự án có sự giao thoa giữa các nền văn hoá, từ đó loại bỏ những rào cản kinh tế
và địa lý cản trở các nghệ sĩ có thể tiếp cận với những nền văn hoá khác. Một loạt hoạt động
trao đổi văn hoá có sự tham gia của các nghệ sĩ múa Việt Nam đã được phát động trong một vài
năm gần đây trong phạm vi của dự án.
Chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt khẳng định: "Trong bối cảnh Chính phủ và các quỹ rất ít tài trợ cho
nghệ sĩ, thì những hoạt động trên đây của Hội Sân khấu múa rất quan trọng đối với sự phát
triển của nghệ thuật và hình thành bộ mặt văn hoá của nước Mỹ"
Mãi 10 giờ 30 phút, ông Đavít R. Oai, Giám đốc điều hành Hội Sân khấu múa, mới tất tả đi
tới. Đội mũ lưỡi trai, đeo kính đen, người chắc, tay xách một gói thức ăn nguội, trông ông có
dáng vẻ của một nhà thể thao nhiều hơn. Xin lỗi vì lý do xe điện ngầm trục trặc cho nên đến
muộn, ông đưa ra một nhận xét: "Bây giờ ngay cả xe điện ngầm cũng lâm vào tình trạng tồi tệ.
Giao thông ở đây có thể kém cỏi hơn ở Đông Nam Á". Liền đó, ông mở bịch đồ ăn, lấy chai
nước, cắm que hút một hơi, rồi bắt đầu nói về hoạt động của Hội. Ông nói: "Chúng tôi quan tâm
đến hai loại: một là xây dựng một cộng đồng nghệ thuật, hai là tài trợ cho nghệ sĩ để họ có thể
đứng vững trong cộng đồng nghệ thuật. Tới nay, chúng tôi có 900 nghệ sĩ là hội viên. Chúng tôi
cũng tìm cách làm cho các nghệ sĩ đã thành danh quay lại giúp đỡ các nghệ sĩ trẻ."
Không biết là căn cứ vào các tài liệu nào, mà ông giám đốc nói chắc chắn như sau: "Tôi
biết là Việt Nam đang muốn đổi mới hoạt dộng văn hoá bằng cách xã hội hoá. Chúng tôi gọi là
tư nhân hoá. Cách xây dựng cộng đồng nghệ thuật, cộng đồng văn hoá ở Việt Nam và Mỹ cơ
bản là giống nhau. Bởi vì, khi xây dựng một cộng đồng nghệ thuật (văn hoá) cần ba yếu tố: Nghệ
sĩ - công chúng, Tổ chức trung gian, Cơ chế hỗ trợ. Cả ba yếu tố trên đây đều cần được nuôi
dưỡng."
Cách nghĩ về xã hội hoá hoạt động văn hoá như trên của ông Đavít không phù hợp với
cách nghĩ của chúng tôi, bởi vì ở Việt Nam, xã hội hoá không đồng nghĩa với tư nhân hoá.
Hết sức nhiệt tình và quyết đoán, ông Đavít khẳng định: "Khi hỗ trợ cộng đồng nghệ
thuật phát triển, chúng tôi không phân biệt giữa nghệ thuật truyền thống với nghệ thuật đương
đại (thể nghiệm), chỉ phân biệt loại hình văn hoá quen thuộc với loại hình văn hoá chưa quen
thuộc. Hiện nay, công chúng không chỉ những người lớn tuổi mà cả lớp trẻ có rất ít thông tin về
sự hỗ trợ cho nghệ thuật. Dù cách tiếp cận thế nào, cũng thấy rằng tương lai của bản chất văn
hoá phụ thuộc rất nhiều vào lớp nghệ sĩ trẻ mà chúng ta chưa biết đến họ. Chúng tôi tập trung
hỗ trợ nghệ sĩ bất kể họ có ở tổ chức nghệ thuật nào không, hỗ trợ cho cả những nghệ sĩ độc
lập, cũng không phân biệt nghệ sĩ có được đào tạo hay không. Muốn tăng cường văn hoá,
không phải chỉ đầu tư cho các đơn vị văn hoá. Nền văn hoá của Mỹ được mạnh lên không phải
do các đơn vị nghệ thuật, mà là do các nghệ sĩ - các đơn vị chỉ đóng vai trò trung gian, tổ chức
hoạt động chứ không đóng vai trò sáng tạo nghệ thuật. Gần đây chúng tôi đã thay đổi quan
điểm đầu tư, tức là không chỉ tài trợ tập trung cho dự án, mà tài trợ cho cả quá trình lao động
của nghệ sĩ. Việc quan trọng nhất trong quá trình phát triển là khuyến khích cá nhân. Chúng tôi
không muốn các đơn vị nghệ thuật tạo ra mô hình chuẩn cho nền văn hoá mà là các nghệ sĩ
sáng tạo ra. Chúng tôi đã cử rất nhiều nghệ sĩ đến Đông Nam Á, ở đó có một số nghệ sĩ phát
triển từ thế giới truyền thống lên và trở thành nghệ sĩ của thế giới hiện đại. "
Có lẽ thấy vị giám đốc của mình hăng hái quá, đã nói cả vào những nội dung vừa được
mình trình bầy hồi nãy, chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt nhắc: "Thưa ông, các bạn Việt Nam rất quan tâm
đến trụ sở mới của Hội mà chúng ta đang xây dựng!" Như được gãi đúng chỗ ngứa, ông Đavít
càng thêm sôi nổi: "Để có trụ sở kia, chúng tôi đã mua đất cách đây 5 năm." Dừng lời, nháy mắt
và cười hóm hỉnh, ông Đavít tiếp: "Tay chủ đất ấy cũng chẳng tốt đâu, bán đất cho nghệ sĩ mà
không có sự ưu đãi nào. Nhưng không sao, chỉ 5 năm nữa thôi, thị trường mỹ thuật của thành
phố sẽ chuyển về khu vực này, lúc ấy giá đất sẽ tăng lên gấp nhiều lần. Mà lúc trước chúng tôi
chỉ phải trả tiền cho việc mua đất, còn khoảng không thì được miễn phí. Bây giờ, không dùng
hết khoảng không, chúng tôi bán cho người ta đầu tư tiếp cũng thu được 3,3 triệu USD." Ông
Đavít giảng giải: "Các ngài có biết không, chúng tôi phải mở cả một chiến dịch quyên tiền để xây
dựng trụ sở đấy. Tới nay, đã quyên được 11 triệu rưỡi USD rồi, phần lớn do các cá nhân đóng
góp. Chúng tôi chi 10% tiền quyên được cho chiến dịch này. Cộng với 3 triệu 3 USD bán khoảng
không, là thừa tiền xây dựng rồi. Người ta xây dựng thêm 7 tầng trên 4 tầng của chúng tôi để
làm chung cư cho thuê. Chúng tôi cũng sẽ được hưởng một phần lợi nhuận trong việc cho thuê
chung cư đó."
Cách thức mà chính quyền Niu-Yoóc thực hiện với Hội Sân khấu múa là một cơ chế rất
thoáng, tạo cơ hội cho các đơn vị văn hoá có thêm nguồn thu mà tự lực hoạt động.
Sau khi chúc mọi người có chuyến làm việc tại Mỹ đầy hiệu quả, ông giám đốc Đavít tất tả
xách túi đồ ăn nguội đi vì "có việc gấp".
Chị Cay Bakơ, Giám đốc Dịch vụ Nghệ thuật, giới thiệu với chúng tôi về các loại dịch vụ
phục vụ các nghệ sĩ trên 4 nhóm công việc chính là: Quảng cáo, Kinh tế - tài chính, Sân khấu -
nhà hát để trình diễn, và Thông tin. Hiện nay, có 900 nghệ sĩ tham gia đóng hội phí để đựoc
hưởng sự phục vụ này. Những nghệ sĩ đóng hội phí ở mức 30 USD một năm sẽ được hưởng ưu
đãi về bảo hiểm y tế, chi phí thuê rạp biểu diễn. Những nghệ sĩ đóng hội phí ở mức 85 USD một
năm (một nửa số hội viên) sẽ được hưởng ưu đãi trên tất cả 4 nhóm dịch vụ trên đây. Chị Cay
Bakơ nói cụ thể hơn: "Hoạt động nghệ thuật và tổ chức biểu diễn có nhiều gánh nặng đè lên vai
nghệ sĩ, cần có người chia sẻ. Chúng tôi làm giảm bớt gánh nặng đó bằng cách giúp nghệ sĩ
quảng cáo, thuê rạp ở mức chi thấp nhất, giao lưu với những khán giả ưa thích họ, gửi tài liệu
tuyên truyền về nghệ sĩ đó cùng với những tác phẩm, chương trình biểu diễn của họ cho các cơ
quan báo chí." Chị giảng giải cho chúng tôi biết về những nguyên tắc trong bảo hiểm ở Mỹ và
nói: "Nếu cá nhân mua bảo hiểm y tế, sẽ rất đắt. Chúng tôi tập hợp các nghệ sĩ để mua bảo
hiểm theo Hội thì sẽ rẻ hơn rất nhiều. Khi thuê rạp biểu diễn, các nghệ sĩ là Hội viên cũng được
hưởng những lợi ích tài chính đáng kể. Gần đây, do thương trường phát triển, tiền thuê các rạp
hát tại Malhatan tăng lên rất cao, làm cho các nghệ sĩ gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhờ sự
giúp đỡ của Hội, các nghệ sĩ được thuê rạp với giá giảm thiểu: thông thường thuê 50 USD một
giờ, nhưng qua Hội chỉ thuê 10 USD một giờ. Năm ngoái, Hội đã tài trợ cho mỗi nghệ sĩ từ 300
đến 750 đôla để bù đắp vào khoản tiền thuê rạp hát." Chị Cay Bakơ còn cho biết Hội thường tổ
chức những hội thảo cho nghệ sĩ (2-3 lần mỗi năm), tổ chức cho nghệ sĩ gặp gỡ những nhà sản
xuất, những người có khả năng tổ chức cho nghệ sĩ biểu diễn. Chị Cay Bakơ khẳng định: "Hội
chúng tôi đấu tranh vì quyền lợi nghệ sĩ, tư vấn cho nghệ sĩ, và làm cầu nối giữa các nghệ sĩ với
các nhà tài trợ. Tài trợ thông qua các tổ chức của Hội thì sẽ đỡ phức tạp hơn cho nghệ sĩ và nhà
tài trợ."
Chị Ca-thơ-ry Ét-Uốt bổ sung: "Đã 25 năm nay chúng tôi có 1 chương trình quốc tế gọi là
Quỹ valy. Mục đích cũng là quyên tiền cho nghệ sĩ tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế. Quỹ
valy đã tích luỹ được 4 triệu USD. Năm 2.000, chúng tôi chi 200.000 USD cho các nghệ sĩ, tổ
chức để họ thực hiện dự án của họ. Đã đồng tài trợ cho các dự án của các nghệ sĩ ở khoảng 50
quốc gia. Một vài năm gần đây, chúng tôi tập trung cho Châu Á, Đông Âu. Hiện nay, chúng tôi đã
phối hợp với hơn 20 đơn vị nghệ thuật ở Đông Âu, thảo luận với họ cách sử dụng tiền quyên
được từ nước Mỹ. Trong việc thúc đẩy quan hệ quốc tế về nghệ thuật, chúng tôi thực hiện
nhiều việc như: tài trợ cho sự liên kết của 1 nghệ sĩ Mỹ với 1 nghệ sĩ nước ngoài, tổ chức họp
mặt theo mạng lưới (các nghệ sĩ trong khu vực), mời các nhà quản lý nghệ thuật tới để đào tạo
nghiệp vụ quản lý (trao đổi kinh nghiệm với nhau), mời nghệ sĩ nước khác đến biểu diễn và
thuyết trình trong hội thảo. Hàng năm, chúng tôi tổ chức biểu diễn cho 70 nghệ sĩ thì có từ 7
đến 10 người là nghệ sĩ từ các nước khác đến. Đối với hoạt động giao lưu của nghệ sĩ, chúng tôi
chỉ tài trợ từ 1.500 đến 3.000 USD cho 1 nghệ sĩ chứ không nhiều. Còn nếu giúp họ ra nước
ngoài thì chúng tôi chỉ cấp vé máy bay đi lại; nước tiếp đón phải lo cho họ ăn ở. Năm 2.000, Quỹ
valy đã tài trợ cho 19 nghệ sĩ đi các nước Việt Nam, Lào, Thái Lan. Tháng 8 năm 2.001, Hội đã
gặp các nghệ sĩ này để nghe ý kiến của họ, xem họ đánh giá thế nào, có muốn tiếp tục thực hiện
dự án không? Như vậy là chúng tôi đã thực hiện một chuyến nghiên cứu nghệ thuật các nước
Đông Nam Á dưới con mắt nghệ sĩ chứ không phải là nhà nghiên cứu. Các nghệ sĩ này rất phấn
khởi, mong muốn tiếp tục dự án. Sang năm chúng tôi sẽ sang Việt Nam xem xét việc xây dựng
lại dự án ở Việt Nam".
Một số phòng tranh
Tại Mỹ, việc bán các tác phẩm mỹ thuật có giá trị hầu hết phải thông qua các phòng tranh
do những nhà chuyên kinh doanh nghệ thuật tổ chức, chứ các tác giả thường không đứng ra
bán tác phẩm của mình. Chính vì thế mà ở Mỹ, các phòng tranh mọc ra như nấm. Người ta chia
ra nhiều loại phòng tranh: loại trưng bày tác phẩm của những hoạ sĩ đã nổi tiếng, loại của các
hoạ sĩ mới, loại đã được giới thiệu và đang cần được tiếp tục giới thiệu để trở nên nổi tiếng.
Người hướng dẫn cho chúng tôi đi tham quan các phòng tranh ở Niu-Yoóc là nữ giáo sư Sandra
Lang, chủ nhiệm khoa quản lý mỹ thuật trường đại học Niu-Yoóc. Chị cho biết nét đặc thù trong
hoạt động của các phòng tranh là Giám đốc có trách nhiệm quan hệ chặt chẽ với các nghệ sĩ để
lựa chọn hoặc đặt hàng các tác phẩm trưng bày. Người Mỹ thường coi trọng danh tiếng, vì thế
người ta luôn luôn nói đến những cái nhất của mình hoặc của những đối tác của mình: có uy tín
nhất, hiện đại nhất, lớn nhất, độc đáo nhất, có địa bàn hoạt động rộng nhất, có nhiều quan hệ
với thế giới nhất, vân vân và vân vân. Chính vì vậy mà những người giầu có ở Mỹ hoặc ở các
nước khác đến Mỹ muốn mua tranh thường tìm đến các phòng tranh nổi tiếng. Cũng chính vì
vậy, các hoạ sĩ đều muốn trưng bày và gửi bán tranh của mình tại những phòng tranh lớn với
những nhà sưu tập nổi tiếng. Và thế là hình thành cặp đôi cộng sinh: nhà sưu tập tranh và nghệ
sĩ. Để đảm nhận tốt nhiệm vụ, Giám đốc phòng tranh phải có đôi mắt tốt để thẩm định tác
phẩm, đồng thời phải có đôi tai tốt để nghe yêu cầu của thị trường, tạo uy tín cho phòng tranh
của mình. Quan hệ giữa chủ phòng tranh và nghệ sĩ rất thoải mái và sòng phẳng: việc treo tranh
được hai bên thoả thuận mà không có gì ràng buộc, thường treo từ 4 đến 6 tuần, khi bán được
thì hưởng theo tỷ lệ 50/50 giá trị bức tranh. Nếu không bán được, nghệ sĩ đem tranh về và
không phải thanh toán công treo tranh, cũng như không được nhận tiền "nhuận treo." Tuy có
chung mô hình như vậy, nhưng phương thức hoạt động của mỗi phòng tranh lại có những nét
riêng. Theo lời giới thiệu của nữ giáo sư Sandra Lang, thì ở khu vực này có tới 200 phòng tranh.
Chúng tôi chỉ đi thăm 4 phòng tranh.
Phòng tranh thứ nhất có tên gọi DIE chỉ triển lãm tranh của những nghệ sĩ đã ổn định
nghề nghiệp, nổi tiếng. Theo lời giới thiệu, thì hoạt động của phòng tranh này không nhằm lợi
nhuận, nhưng giá vé vào cửa là 6 USD một người. Tầng một của phòng tranh được chia làm hai
phòng, đều có trưng bày mỹ thuật. Người phụ trách tầng này cho biết người ta vừa mới cho tu
sửa căn nhà này theo kiểu hiện đại và phù hợp với nơi trưng bày mỹ thuật. Lúc này, phòng
tranh đang có một cuộc trưng bày khá lạ lùng: toàn bộ trần của hai phòng thuộc tầng một được
chăng các dải lụa mầu vàng, đỏ chạy ngang dọc như mắc võng và có những dải rủ lòng thòng
xuống phòng. Một đôi nơi có thả thõng xuống từ trần nhà một chiếc micrô mà dưới sàn đối
diện là một bệ gỗ. Đang ngơ ngác không hiểu đây là loại mỹ thuật gì, thì chúng tôi được giới
thiệu là nơi này thể hiện sự kết hợp giữa mỹ thuật và công nghệ. Người hướng dẫn đứng vào
một bệ gỗ, ghé miệng nói mấy tiếng vào chiếc micrô, lập tức từ các "vòm lụa" trên trần nhà dội
lại một âm thanh âm âm. Những âm thanh mơ hồ ấy kết hợp với mầu sắc mạnh và đường nét
rối rắm của các dải lụa tạo ra một ảo giác về một cõi thần bí. Tuy vậy, chúng tôi cũng khó có thể
có cảm xúc với loại hình mỹ thuật này. Người hướng dẫn đưa chúng tôi lên tuốt sân thượng để
"giới thiệu một tác phẩm mỹ thuật độc đáo". Đứng trên tầng thượng cao chót vót, gió lồng
lộng, chúng tôi lại một lần nữa ngơ ngác không hiểu tác phẩm mỹ thuật độc đáo kia đâu. Người
hướng dẫn đưa chúng tôi về phía giữa sân thượng, chỉ vào một "căn phòng" bằng kính và nói
rất tự hào: "Đây là tác phẩm kết hợp thành công giữa nghệ thuật và công nghệ. Những tấm kính
dùng để ghép căn phòng này có độ khúc xạ ánh sáng khác nhau, cho nên khi vào trong phòng
nhìn ra, sẽ có những cảm giác siêu thực!". Trong khi chúng tôi thận trọng len theo hành lang
nhỏ được tạo thành bởi những tấm kính, thì nữ hướng dẫn viên nói tiếp: "Lúc đầu, chúng tôi
đặt hàng cho tác giả trưng bày tác phẩm này ở đây ba tháng, nhưng vì giá trị của nó được khẳng
định mạnh mẽ quá, chúng tôi đã mua đứt tác phẩm này." Tôi đứng giữa phòng kính nhìn quanh,
không thấy có gì đặc biệt. Nhưng khi nhìn kỹ về hướng Tây, thấy tấm kính in hình những đám
mây chiều cuồn cuộn và xuyên qua tấm kính ấy là những ngôi nhà đồ sộ của Niu-Yoóc, thì một
cảm giác kỳ ảo xuất hiện: cái khối nhà đồ sộ kia như đang nổi bồng bềnh trên mây và tôi như
đang phiêu du trong cõi bồng lai! Lúc này thì tôi tin vào lời giới thiệu của nữ hướng dẫn viên.
Chắc chắn là vào những giờ khác nhau, với cường độ ánh sáng và độ chếch khác nhau của mặt
trời, người đứng trong phòng kính nhìn ra sẽ nhận được những hình ảnh khác nhau, tạo ra
những cảm giác khác nhau. Xin ghi nhận tính độc đáo của sự tìm tòi kết hợp nghệ thuật và công
nghệ. Chúng tôi được hướng dẫn đi theo cầu thang chứ không đi thang máy để xuống dần từng
tầng mà xem các phòng tranh khác nhau. Tôi gặp mấy thanh thiếu niên cắp cặp và bút vẽ đi
ngược lên. Có lẽ đấy là học sinh mỹ thuật tới để thực tập. Phòng trưng bày tiếp theo, không giới
thiệu cũng thấy ngay tính độc đáo của nó: không có bức tranh nào, mà chỉ có 5 máy chiếu
phóng hình ảnh xuống sàn nhà và tường. Thế là tạo ra một bức tranh không gian ba chiều sống
động, trên đó là cảnh mùa thu vàng với những chú ong bay rộn rã. Thấy chúng tôi trầm trồ khen
ngợi, cô hướng dẫn viên hào hứng: "Nghệ sĩ tạo ra bức tranh có một không hai trên thế giới này
là một nữ hoạ sĩ kiêm kỹ sư. Chị ấy đã phải mất nhiều năm nghiên cứu và sáng tạo mới đi đến
kết quả này. Nhưng các ngài cần lưu ý, ngay cả bức tường cùng hai cái cửa sổ kia, và cả ánh
sáng tự nhiên nữa, mới làm nên một bức tranh hoàn chỉnh như thế này. Nữ hoạ sĩ đã phải thay
đổi nhiều lần vị trí đặt 5 máy chiếu mới tìm được sự hài hoà đến tuyệt đốí giữa hình ảnh trong
phim và bối cảnh thực như các ngài thấy đó. Khi ánh sáng thay đổi theo các giờ khác nhau thì
bức tranh này cũng có những sắc thái khác nhau". Đến đây, tôi chợt nhớ tới tài liệu của quỹ
FORD có nói đến mối tình của nước Mỹ với công nghệ. Trong thế kỷ 20, phim ảnh, truyền hình,
radio, máy quay đĩa và và máy vi tính đã tạo nên một nền văn hoá đại chúng chiếm tỉ lệ rất lớn.
Và bây giời, công nghệ đã tác động mạnh mẽ cả vào nghề vẽ vốn là một nghề không liên quan
nhiều lắm đến công nghệ. Mối tình với công nghệ của Mỹ sẽ còn thắm thiết hơn nữa khi nó
được biểu hiện trên lĩnh vực công nghệ thông tin mà Mỹ đang làm bá chủ.
Phòng tranh thứ hai có giám đốc tên là Max, một người có tính khôi hài. Ông cho biết
phải là người đam mê nghệ thuật mới làm được chủ phòng tranh. Ông Max làm nghề này 30
năm nay, luôn luôn có sự cộng tác chặt chẽ với các hoạ sĩ. Các hoạ sĩ đã treo tranh ở đây thì
không treo ở nơi khác nữa, nhưng nếu nơi khác muốn treo thì phải thông qua ông. Đó cũng là
một biện pháp quản lý, không làm bão hoà thị trường tranh. Ông Max xác nhận đây là một
phòng tranh thương mại, luôn phải nghĩ đến lợi nhuận. Tranh ở đây thường có khổ lớn và thể
hiện bằng sơn dầu, có giá rất cao. Ví dụ bức tranh treo ở đưới tầng hầm mà chúng tôi hỏi là một
bức sơn dầu rộng khoảng 2 mét X 2 mét rưỡi, vẽ phong cảnh, giá 130.000 USD. Mỗi năm phòng
tranh này bán được khoảng 1.000 đến 2.000 bức tranh.
Chủ nhân phòng tranh thứ ba là một phụ nữ nhỏ nhắn, mới vào nghề 3 năm nay. Chị là
một thạc sĩ về quản lý nghệ thuật, đã tốt nghiệp đại học mỹ thuật năm 1997 ở Đại học Niu-Yoóc
và đã từng có một triển lãm nhỏ trưng bày những tác phẩm của mình. Phòng tranh tập trung
vào những tác phẩm của những nghệ sĩ mới xuất hiện, chọn lọc những bức tranh đương đại,
hiện đại, đòi hỏi người xem phải suy nghĩ nhiều. Chị cho biết tiêu chuẩn của phòng tranh là
chọn những hoạ sĩ mà chị thấy thích và những hoạ sĩ yêu nghề, còn chị thì thích nhất là trường
phái tối thiểu, tức là loại tranh rất đơn giản, giống như những bức tranh cổ động của Việt Nam,
ít đường nét và nhiều màu, cũng giống như những phim hoạt hình của Mỹ. Những hoạ sĩ đã có
tranh trưng bày tại đây thường giới thiệu những hoạ sĩ khác cho phòng tranh, nhờ đó, số lượng
tác giả và tác phẩm cộng tác với phòng tranh ngày một tăng. Phòng tranh này độc quyền triển
lãm tranh của những hoạ sĩ mới vào nghề. Tuy vậy, những hoạ sĩ này cũng có quyền đưa tranh
đi trưng bày ở các phòng tranh khác trong và ngoài nước Mỹ. Được hỏi về tổng số vốn đầu tư
vào phòng tranh, chị nói không thể tính được, vì đầu tư nhiều lần, từ bất động sản, các thiết bị
treo tranh tại phòng này, đến các biện pháp quảng cáo giúp các hoạ sĩ thiết lập thị trường. Giá
thuê nhà ở khu vực này là 50 USD một phít vuông một tháng, như vậy riêng tiền thuê nhà chị
phải chi 120.000 USD một năm. Chị nói thật là dù muốn, cũng không có khả năng mua hết các
tranh treo ở đây, do vậy chị chỉ giúp các hoạ sĩ thiết lập thị trường mà thôi. Giá tranh ở đây thấp
hơn so với các phòng tranh khác, thường là 1.500 đến 2.000 USD một bức, loại rẻ thậm chí chỉ
vài trăm USD, bức đắt cũng chỉ lên 5.000 USD, bức đắt nhất đã bán là 25.000 USD. Sở dĩ tranh ở
đây giá rẻ vì tác giả của chúng còn trẻ, chưa nổi danh, mặt khác những tranh này lại khác lạ,
người xem chưa thể hiểu ngay để mà thích được. Chị chủ phòng tranh hướng mắt về phía giáo
sư Mác-tin Su-lơ-man và nói: "Ngay vị giáo sư này cũng nói rằng những bức tranh ở đây có rất
nhiều thách thức đối với người xem, cho nên ông ấy cũng chưa có thể nói rằng chúng đẹp hay
không đẹp, ông ấy thích hay không thích." Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man nói xen vào: "Dù có vì lợi
nhuận hay không, thì ngoài tiền bạc ra, cũng phải có sự đam mê nghệ thuật nữa."
Phòng tranh thứ tư đã hoạt động 40 năm. Hoạ sĩ tham gia triển lãm tại phòng tranh này
đều là những người nổi tiếng. Chúng tôi thấy phòng tranh này đang trưng bày tranh của A-lếch
Kát, mà theo lời giám đốc phòng tranh giới thiệu thuộc "giữa trường phái trừu tượng và trường
phái sau trừu tượng". Đó là những bức tranh màu dầu khổ lớn, có bức choán gần hết bức tường
chính diện vẽ hình mấy nhóm người đứng trò chuyện trong vườn cây. Bên cạnh đó là một số
bức tranh sơn dầu, mầu dầu cỡ nhỏ treo sát nhau. Giám đốc phòng tranh cho biết tranh của tác
giả này giá bán khá cao, bức nhỏ có giá 12.000 USD, bức lớn giá mấy trăm nghìn USD. Phòng
tranh còn có những tác phẩm giá trị của những hoạ sĩ bậc thầy đã qua đời, như Picátxô. Thấy
tranh quá lớn, tôi hỏi ai có thể mua, thì được ông giám đốc trả lời: "Chúng tôi nhằm vào khách
hàng là những công ty, hoặc những nhà sưu tập có phòng trưng bày rộng." Phòng tranh này mở
cửa miễn phí cho mọi người vào xem, kể cả những người chỉ vào xem mà không có ý định mua
tranh. Giám đốc tự gới thiệu đây là một trong những triển lãm thành công nhất tại khu vực này,
mà nguyên nhân thành công là người chủ luôn luôn chú trọng đến nghệ sĩ. Chúng tôi được biết
ông là một nhà chuyên môn cao, được chủ công ty thuê để phụ trách phòng tranh này. Ông có
thái độ niềm nở và chu đáo. Thấy mọi người quan tâm đến cuốn sách giới thiệu phòng tranh,
ông nói rằng đó là ấn phẩm thương mại, nhưng cũng có thể dùng để biếu tặng, và xăng xái lấy
ngay ra mấy cuốn tặng chúng tôi. Ông nói với chúng tôi rằng uy tín của phòng tranh sẽ làm cho
tranh bán được giá cao. Ông kể với chúng tôi rằng chủ nhân của phòng tranh này lúc đầu là sinh
viên ở Bôx-tơn, chỉ có 10.000 USD để khởi dựng cơ nghiệp, không đủ tiền thuê nhân công, phải
huy động cả vợ con ra treo tranh, lúc đó bán tranh với giá thấp, chỉ mấy nghìn USD một bức, vì
phòng tranh chưa có danh tiếng, nếu như để đến bây giờ thì phải bán vài trăm nghìn USD một
bức.
Qua 4 phòng tranh, tôi đều thấy sự chuẩn bị chu đáo về tuyên truyền. Phòng tranh nào
cũng có áp phích quảng cáo, có ca-tơ-lô, thậm chí có những cuốn sách in rất đẹp giới thiệu các
tác phẩm được bầy bán. Một đặc tính chung đáng quan tâm là mối quan hệ mật thiết giữa các
giám đốc phòng tranh với nghệ sĩ, đó là mối quan hệ cộng sinh, nâng đỡ nhau trong hoạt động
sáng tạo và thu lợi nhuận, mà trong đó, để bán được tranh với giá cao, bên cạnh giá trị nghệ
thuật, còn có yếu tố cũng mang tính quyết định là uy tín của phòng tranh. Có lẽ ở nước ta, khó
có hoạ sĩ nào chấp nhận tỷ lệ ăn chia 50/50 giữa người sáng tạo ra tác phẩm và người bán tác
phẩm như thế này.
Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan
Với địa chỉ: số 1.000 Đại lộ 5 phố 82, Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan nằm ở một khu vực
có nhiều cây cối xanh tươi vào loại nhất của Niu-Yoóc. Phần trưng bày về kiến trúc của bảo tàng
này còn được đặt ngoài sân, tiếp giáp với một công viên, tạo một cầu nối giữa hiện vật trưng
bày và cỏ cây hoa lá ngoài trời, làm cho bảo tàng gắn kết chặt chẽ với thiên nhiên, tạo nên một
cảm giác dễ chịu cho người xem sau khi đã khá mệt mỏi vì "lùng sục" qua các phòng trưng bày
ngồn ngộn những hiện vật.
Hướng dẫn chúng tôi tham quan là Mary Bét-thơ O-re-ly, một phụ nữ khoảng 50 tuổi,
dáng người đậm nhưng khá nhanh nhẹn và rất tận tâm. Đáng nể, chị không phải là nhân viên ăn
lương của bảo tàng, mà là một tình nguyện viên hướng dẫn tham quan. Chị cho biết mỗi ngày ở
đây có 4 tua tham quan có hướng dẫn, nhưng khách có thể tự đi xem những nơi mình thích mà
không theo tua cũng được. Vào bảo tàng, tôi gặp rất nhiều học sinh. Các em đi thành từng tốp,
có giáo viên hướng dẫn. Dọc các hành lang, người ta đặt nhiều ghế băng, thậm chí cả sàn gỗ
lớn, để khách nghỉ chân. Người hướng dẫn cho biết chúng tôi sẽ đi thăm bảo tàng chỉ trong
vòng 45 phút, cho nên chỉ có thể thăm những nơi đáng quan tâm nhất.
Chúng tôi được giới thiệu khái quát về bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan như sau:
Với hơn 5 triệu lượt khách hàng năm, Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan (thường gọi là
"The Mét") là nơi thu hút khách du lịch nhiều nhất ở Niu-Yoóc.
Được thành lập năm 1870, bộ sưu tập của Bảo tàng hiện gồm hơn 2 triệu tác phẩm nghệ
thuật các loại từ thời cổ đại cho đến hiện đại. Bảo tàng phân loại và trưng bày các hiện vật theo
nội dung như sau:
Bộ sưu tập Nghệ thuật trang trí Mỹ gồm có đồ đạc, đồ bạc, thiếc, thuỷ tinh, gốm và hàng
dệt may từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, cũng như nền kiến trúc trong nước được thể hiện
trong những căn phòng được bố trí theo từng thời kỳ, cùng với các bức chân dung, tranh phong
cảnh, tranh về lịch sử, tĩnh vật, nghệ thuật dân gian và điêu khắc từ thời thuộc địa đến đầu thế
kỷ 20.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Cận Đông cổ đại gồm các tác phẩm chạm khắc và điêu khắc bằng
đá, ngà voi và các hiện vật làm bằng các kim loại quý từ rất nhiều nơi và rất nhiều thời kỳ khác
nhau - từ xứ Anatôli đến thung lũng In-đớt, từ thời kỳ đồ đá mới (8.000 năm trước Giáo hội Anh
quốc) đến thời kỳ chinh phục của người Ảrập (thế kỷ thứ 7 Giáo hội Anh quốc).
Bộ sưu tập Vũ khí và các loại xe bọc thép bao gồm các loại thiết giáp, chiến xa, cộng với
vũ khí và trang phục võ thuật với vẻ đẹp trang trí và điêu khắc đến từ Châu Âu, Châu Á, Trung
Đông và Châu Mỹ.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Châu Phi, Châu Đại Dương và Châu Mỹ bao gồm các vật làm lễ và
các tác phẩm tưởng niệm, tư trang, dụng cụ sử dụng hàng ngày đến từ ba lục địa và hàng loạt
các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương, từ 2.500 năm trước Giáo hội Anh quốc đến hiện tại.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Châu Á bao gồm các bức tranh, thư pháp, in ấn điêu khắc, gốm,
đồng, ngọc, sơn mài, dệt và màn the từ cổ chí kim của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nam Á
và Đông Nam Á.
Bộ sưu tập Các nhà tu, ghi lại nghệ thuật và kiến trúc Châu âu thời Trung cổ, bao gồm
điêu khắc, các chữ viết cổ có thuyết minh, thuỷ tinh nhuộm, tác phẩm từ kim loại, men, ngà, các
bức hoạ và các thảm.
Viện Trang phục trưng bày quần áo thời trang của 7 thế kỷ và 5 châu lục, trang phục
vùng, và các đồ dùng dành cho nam giới, phụ nữ, trẻ em từ xưa đến nay.
Bộ sưu tập Các tác phẩm vẽ và in bao gồm nghệ thuật đồ hoạ thời Phục hưng và sau đó,
trong đó có các tác phẩm in theo mọi kỹ thuật, từ những bức phác hoạ cho đến những tác
phẩm hoàn thiện, sách có minh hoạ và những tác phẩm trên giấy khác.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Ai Cập bao gồm tượng, chạm khắc, bia khắc, các đồ vật trong lễ
tang, đồ trang sức, đồ dùng hàng ngày và kiến trúc thời Ai Cập tiền sử qua các Vương quốc Tiền,
Trung và Hậu đến thời kỳ La Mã (thế kỷ thứ 4 Giáo hội Anh quốc).
Bộ sưu tập Hội hoạ Châu Á bao gồm các khung tranh, panô, tranh bộ ba, bích hoạ do các
bậc thầy người Ý, người F-lan-đơ, Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha... sáng tạo từ thế kỷ 12 đến thế kỷ
19.
Bộ sưu tập Nghệ thuật điêu khắc và trang trí châu Á bao gồm những tác phẩm điêu khắc,
đồ đạc, gốm, thuỷ tinh, kim loại, các dụng cụ khoa học, hàng dệt và các phòng bố trí theo từng
thời kỳ của các nước Tây Âu từ thời Phục hưng đến đầu thế kỷ 20.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã trưng bày các tác phẩm nghệ thuật Hy Lạp, La
Mã, E-tru-ria, Síp cho đến thế kỷ thứ 4 Giáo hội Anh quốc, bao gồm đá cẩm thạch, điêu khắc
bằng đồng và bằng sành, lọ hoa, các bức bích hoạ, đồ trang sức, ngọc chạm, thuỷ tinh và các vật
dụng.
Bộ sưu tập Nghệ thuật Hồi giáo bao gồm các mẫu chữ viết tay, các bức tiểu hoạ, thảm,
các vật trang trí phức tạp các kiểu, và các yếu tố kiến trúc có từ khi Hồi giáo được thành lập từ
thế kỷ 7 Giáo hội Anh quốc trở đi, từ Marốc đến Ấn Độ.
Bộ sưu tập Rôbớt Lê-man là một bộ sưu tập cá nhân các bức tranh. bức vẽ và nghệ thuật
trang trí được hiến tặng cho Bảo tàng, trong đó có rất nhiều tác phẩm có từ thời Phục Hưng -
Italia và phương Bắc cho đến thế kỷ 20.
Các thư viện tra cứu có các xuất bản phẩm in lần thứ nhất rất hiếm, các chuyên luận và sổ
tay của các nghệ sĩ, át lát có minh hoạ, vở dán bài rời, các bìa sách đẹp đẽ và các tác phẩm đầu
tiên về lịch sử nghệ thuật
Bộ sưu tập Nghệ thuật trung cổ trưng bày các tác phẩm Châu Âu, đế quốc La Mã phương
Đông, triều đại Phờ-ranh được Cha-lơ-meng tìm thấy, kiểu Roman thịnh hành vào thời kỳ giữa
cổ điển và Gô-tíc có từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 16, bao gồm điêu khắc, thảm thêu, áo quan, những
đồ vật đựng đồ tế lễ...
Bộ sưu tập Nghệ thuật hiện đại bao gồm các bức hoạ của Mỹ và Châu Âu, các tác phẩm
trên giấy, điêu khắc, thiết kế và kiến trúc, đại diện cho những trào lưu nghệ thuật chính từ năm
1.900.
Những bộ sưu tập quan trọng khác gồm có: Bộ trưng bày các nhạc cụ có tầm quan trọng
về mặt lịch sử, kỹ thuật và xã hội, có gá trị cả về âm thanh và hình ảnh, có từ đàn ắccorđêông
đến đến đàn tam thập lục. Bộ ảnh trưng bày những bức ảnh có từ khi kỹ thuật chụp ảnh mới
xuất hiện, các tác phẩm tiên phong của Mỹ và Châu Âu, và các bộ sưu tập đương đại đến từ
khấp nơi trên thế giới; Trung tâm hàng dệt Atonio Ratti có các thảm thêu, nhung, tác phẩm
thêu, ren, vải thêu mẫu, may chần, len và vải in từ tất cả các thời kỳ và các nền văn minh có từ
3.000 năm trước Giáo hội Anh quốc.
Bên cạnh đó, Bảo tàng còn có một trang web giới thiệu khoảng 3.500 hiện vật trong đó
có 50 hiện vật đẹp nhất từ mỗi bộ phận chính của bảo tàng cũng như từ bộ phận Tranh Châu
Âu. Với đặc tính tương tác cao, trang web của Bảo tàng giúp độc giả có thể tra cứu về hiện vật
của bảo tàng theo tác giả, thời kỳ, phong cách hoặc những từ quan trọng.
Điểm qua như trên cũng đủ thấy sự phong phú, đa dạng của bảo tàng này. Đó thực sự là
một bảo tàng mang tầm cỡ thế giới.
Nơi mà chúng tôi được giới thiệu kỹ nhất là khu vực bảo tàng mỹ thuật Hy Lạp thế kỷ thứ
VI trước Công nguyên. Tại đây có rất nhiều tượng đá lớn nguyên bản, nguyên dạng, tuy có bị
sứt mẻ ít nhiều. Hướng dẫn viên tình nguyện Me-ri Bét O-ri-li dừng lại khá lâu trước một bức
tượng nam giới khoả thân trong tư thế đứng và giảng giải rất kỹ về giá trị mỹ thuật cũng như giá
trị lịch sử của nó. Gần nhóm chúng tôi, cũng đứng trước một bức tượng đá khá lớn là một tốp
học sinh và một người đàn ông cao lớn, có lẽ là giáo viên. Tôi thấy người đàn ông nói gì đó với
học sinh khiến các em cười vui vẻ, sau đó một em đến sát bức tượng và cũng giảng giải về giá trị
bức tượng. Có lẽ đây là hình thức học tập tại bảo tàng, một cách học trực quan khá phổ biến tại
Mỹ. Thăm khu vực trưng bày các tác phẩm mỹ thuật của Mỹ, tôi chú ý đến một bức tranh lớn
bằng kính các mầu. Tác phẩm này của một hoạ sĩ Mỹ làm theo đơn đặt hàng của một ông chủ
vào năm 1920, thể hiện phong cảnh mùa thu khá gợi cảm. Người Mỹ rất tự hào về tác phẩm
này bởi giá trị nghệ thuật của nó và tính độc đáo trong việc ứng dụng công nghệ vào sáng tạo
nghệ thuật của tác giả. Nghệ sĩ người Mỹ này đã học tập cách thức dùng chất liệu thuỷ tinh của
nhà thờ để làm tranh, nhưng có sáng tạo trong cách xử lý, ví dụ đã tạo cảm giác về sự thô ráp
của một thân cây bằng cách nung chảy thuỷ tinh và khi thuỷ tinh chưa đông đặc lại đã dùng hơi
nóng sấy khô, làm cho bề mặt thuỷ tinh gợn lên. Một lần nữa tôi được thấy biểu hiện rõ nét
một đặc tính của người Mỹ - họ rất giỏi trong việc ứng dụng các công nghệ hiện đại vào đời
sống. Người Mỹ cũng ưa sự mạnh mẽ, cho nên cách thức xây dựng nhà cửa, trang trí, các tác
phẩm nghệ thuật đều được làm theo hướng hoành tráng, tạo mảng, khối.
Tại gian trưng bày sưu tập Nghệ thuật Ai Cập có một ngôi đền cổ Ai Cập bằng đá có độ
tuổi 2.060 năm "được tặng cho nước Mỹ như sự biết ơn vì nếu không có người Mỹ khai quật thì
có thể nó đã bị mất rồi. Ngôi đền này đại diện cho kiến trúc của các ngôi đển cổ Ai Cập" - hướng
dẫn viên tự hào giới thiệu như vậy.
Sau 45 phút thăm các phòng trưng bày, chúng tôi về phòng trao đổi công việc. Những
người phụ trách bảo tàng thông báo với chúng tôi về hoạt động của bảo tàng. Người Mỹ có sự
phân công rạch ròi, cho nên từ hôm đến đây đến giờ, làm việc ở đâu tôi cũng được nghe nhiều
người trong một cơ quan thông báo công việc, mỗi người nói về công việc của mình, không
giống ở bên ta thường thường thường thủ trưởng đơn vị bao sân tất cả, những người khác chỉ
"bổ sung". Tại Bảo tàng này, tôi được nghe tới 5 người thông báo về các nội dung khác nhau:
hoạt động chung của Bảo tàng, công tác lưu trữ, công tác vận chuyển hiện vật sưu tập về Bảo
tàng, công tác phát triển, công tác thông tin. Đáng chú ý là Bảo tàng có lối làm ăn năng động,
tạo được nhiều nguồn lực để tồn tại và phát triển.
Ông Pitơ M. Ke-my, Giám đốc Bảo tàng nghệ thuật trang trí Mỹ thuộc bảo tàng Mỹ thuật
Mêtrôpôlitan , giới thiệu như sau: "Từ năm 1924, những người xây dựng bảo tàng đã có ý
tưởng xây dựng một bảo tàng mỹ thuật Mỹ để lưu giữ những giá trị thuần Mỹ. Từ đó, chúng tôi
đã sưu tầm được những bộ sưu tập cổ rất có giá trị gồm 15.000 hiện vật (hội hoạ, điêu khắc,
trang trí, những yếu tố kiến trúc bằng bạc, kim loại...) từ thế kỷ thứ 17 (1600-1690). Hiện nay
chúng tôi có 10 người phụ trách các nội dung khác nhau: gốm, sứ, dệt, kim loại, thuỷ tinh, hội
hoạ, điêu khắc… Cùng với phần trưng bày, chúng tôi còn xuất bản sách, lưu trữ các tài liệu trên
mạng máy vi tính. Hoạt động của chúng tôi mang tính dân chủ. Chúng tôi cũng giới thiệu các
nhà sưu tập đến mua cổ vật tại các cuộc bán đấu giá, rồi đến lúc nào đó, chúng tôi lại vận động
các nhà sưu tập ấy hiến cho bảo tàng. Đổi lại, những người hiến tặng sẽ được ghi tên danh dự
vào hiện vật và được miễn giảm thuế. Hệ thống thuế ở Mỹ rất tích cực hỗ trợ cho các bảo
tàng." Ông cho biết ở Mỹ, có hai cách đào tạo về quản lý bảo tàng: đào tạo tập trung trong các
trường chuyên về bảo tàng, và không tập trung qua hình thức mở lớp cấp chứng chỉ. Về ngân
sách, bảo tàng của ông được cấp 130.000 USD cho các hoạt động, chưa kể lương, đồng thời còn
có 2 nguồn tài trợ chính là tài trợ cho xuất bản 1 triệu USD một năm, tài trợ để mua các bộ sưu
tập 250.000 USD một năm. Ngoài ra, khi có việc xây dựng thì phải dự trù, để được cấp. Bảo tàng
cũng quyên góp được nhiều từ các cá nhân. Có của ăn của để, bảo tàng đã thiết lập được quỹ
trợ vốn, tạo ra lãi để bổ sung cho việc chi tiêu. Khi tôi hỏi lại ông Giám đốc về tính thuần Mỹ
được biểu hiện trong Bảo tàng thế nào, ông trả lời: "Đó là bức chân dung Tổng thống Lin-côn,
Oa-sinh-tơn, những hiện vật có liên quan đến các vị Tổng thống này, hoặc phòng các Tổng
thống uống trà tại Philadenphia. Và không gian, không khí trong bảo tàng cũng gợi ra cuộc sống
Mỹ trong lịch sử.." Sau đó, như nhớ lại tính hợp chủng quốc của Hoa Kỳ, ông giám đốc nói tiếp:
"Tuy nhiên, ngày nay chúng tôi không nhấn mạnh vào ý tưởng thuần Mỹ nữa. Ngay trong các
trường học, ngày nay cũng không còn các bài giảng về thuần Mỹ."
Stela Pôn, nhà giáo dục về bảo tàng, giới thiệu: "Tôi đại diện cho bộ phận giáo dục của
Bảo tàng này. Có 60 nhân viên, đây là bộ phận lớn nhất trong Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan.
Năm 2.000, chúng tôi đã đón tiếp 5,5 triệu lượt khách tham quan. Chúng tôi phải cung cấp
thông tin cho khách bằng nhiều hình thức, như thông qua các ấn phẩm, đồ lưu niệm, các cuộc
hội thảo... Chúng tôi đã tổ chức 20.000 buổi nói chuyện trong bảo tàng và tại các phòng học,
đón nhận vài trăm nghìn sinh viên đến tham quan, học tập hàng năm. Những người đến với
mục đích học tập, nghiên cứu rõ ràng, nghiêm túc, hoặc các đoàn khách quốc tế được chúng tôi
phục vụ miễn phí. Việc xuất bản phục vụ cho giáo dục bảo tàng rất lớn, bằng cả ấn phẩm in trên
giấy và ấn phẩm điện tử." Sơ-te-la Pôn giới thiệu với chúng tôi một hình thức huy động nhân
lực phục vụ Bảo tàng mang tính xã hội cao, rất Mỹ: "Nhiều bảo tàng ở Mỹ có các chương trình
khai thác tình nguyện viên. Đó là những người đã về hưu hoặc rỗi việc nhưng có sức khoẻ và có
khả năng, tình nguyện vào làm việc trong các bảo tàng mà không đòi hỏi đãi ngộ. Bảo tàng này
có khoảng 1.000 tình nguyện viên, trong đó có 800 người tình nguyện làm các công việc giấy tờ,
trả lời điện thoại, 200 người tham gia giảng dạy. Thời gian đầu, chúng tôi phải mất rất nhiều
công sức để huấn luyện và giám sát họ, giúp họ làm quen với các công việc của bảo tàng. Riêng
đội ngũ những người tình nguyện giảng dạy đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động giáo
dục của chúng tôi. Hỗ trợ cho hoạt động giáo dục là 20 thư viện trong bảo tàng, với rất nhiều
sách của Mỹ và thế giới về bảo tàng."
Qua phẩn trao đổi, chúng tôi rất quan tâm đến việc tạo ngân sách cho hoạt động của bảo
tàng này. Các bạn Mỹ đã giải thích rất rõ ràng như sau: Bảo tàng có nhiều hình thức tạo ngân
sách, trong đó có ba nguồn thu quan trọng là thu từ phí hội viên, thu từ các khoản tài trợ, và
thu từ bán vé. Tôi hết sức sửng sốt khi thấy các khoản thu được ở đây quá lớn: mỗi năm riêng
các khoản tài trợ, quà tặng là 48 triệu USD, tiền phí hội viên cũng lên tới 18 triệu USD. Khi tổ
chức từng cuộc triển lãm, Bảo tàng còn kêu gọi các công ty tài trợ và luôn luôn nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình. Năm 2.000, Bảo tàng đã thu được 6,5 triệu USD cho các cuộc triển lãm. Đáp
lại, Bảo tàng in tên các công ty tài trợ trong các ấn phẩm, các phương tiện quảng cáo giới thiệu
các cuộc triển lãm đó.
Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên ở phương thức tổ chức hoạt động của Bảo tàng. Tôi đã đi
nhiều bảo tàng trên thế giới, nhưng đến nước Mỹ này mới được nghe giới thiệu về các hội viên
của một bảo tàng với số lượng lên tới 110.000 người, đã đóng góp cho Bảo tàng nguồn kinh phí
lớn như đã nói ở trên. Người ta chia mức phí hội viên thành nhiều loại, loại đóng thấp nhất là
50 USD một năm được phép truy cập trang web của Bảo tàng, loại đóng 80 USD một năm được
hưởng nhiều quyền lợi hơn, như được vào tham quan bảo tàng bất cứ lúc nào, được mời xem
trước hoặc dự khai mạc những cuộc trưng bày quan trọng, được nhận những ấn phẩm mới giới
thiệu về các bộ sưu tập, được giảm giá khi mua hàng lưu niệm... Trong số hội viên, nhóm liên
hợp từ các bang khác là đông nhất, gồm 42.000 người, đóng Hội phí 45 USD một năm. Bên cạnh
đó, có những công ty cũng tham dự với tư cách hội viên tập thể, không chỉ ông chủ công ty mà
toàn thể thành viên của công ty đều được hưởng quyền lợi của một hội viên.
Về mặt tổ chức, Bảo tàng có hai bộ phận cũng rất quan trọng. Đó là bộ phân Phát triển,
gây quỹ với 50 người, và bộ phận Quản lý hội viên với 50 người. Những bộ phận này hoạt động
có chương trình, kế hoạch và phương pháp sát hợp, tạo hiệu quả cao. Họ thường xuyên tiếp
cận với công chúng để mời chào làm hội viên, để huy động tài trợ, thông qua nhiều hình thức,
như gửi thư, trao đổi qua thư điện tử, điện thoại, gặp gỡ trực tiếp... Trong hoạt động của mình,
bộ phận phát triển, gây quỹ tập trung nhiều nhất vào các cá nhân, rồi đến các quỹ. Coi tất cả
những người quan tâm đến Bảo tàng là thành viên của mình, họ rất hiểu tâm trạng, sở thích
những người này và có những cách thức ứng xử phù hợp. Có những ông chủ giầu có cần uy
danh, Bảo tàng mời vào Hội đồng chủ tịch của Bảo tàng. Riêng những thành viên danh dự của
Hội đồng này mỗi năm đã tài trợ cho Bảo tàng 40 triệu USD. Đối với những người quan tâm đến
các chuyên đề, Bảo tàng tổ chức những chương trình dành riêng cho nhu cầu của từng nhóm, ví
dụ nhóm ưa thích nghệ thuật cổ La Mã, nhóm ưa thích nghệ thuật Hồi giáo… Phwong châm của
Bảo tàng là: Hãy tạo cho những người đến Bảo tàng có cảm giác là thành viên của Bảo tàng,
phải quan tâm đến người ta để người ta quan tâm đến mình, để người ta đóng góp cho Bảo
tàng như đóng góp cho gia đình họ. Được hỏi về vai trò của chính quyền trong hoạt động của
Bảo tàng, ông Pi-tơ cho biết: Thành phố Niu-Yoóc hỗ trợ cho các chi phí về nước, cơ sở hạ tầng.
Tuy vậy, mức hỗ trợ đã bị giảm đáng kể, trước kia chiếm 20% chi phí về nước và hạ tầng cơ sở
của Bảo tàng, nay chỉ còn 14%. Ông nói thêm: "Gần đây ở Mỹ có tình trạng sáp nhập các công
ty, do đó số đầu công ty tài trợ cho Bảo tàng cũng bị giảm đáng kể. Đó là những thử thách mới
khiến chúng tôi phải nỗ lực hơn trước."
Như hầu hết các cơ sở văn hoá ở Mỹ, Bảo tàng có bộ phận kinh doanh tạo ra lợi nhuận.
Được thành lập ngay từ ngày Bảo tàng ra đời, hệ thống kinh doanh hoạt động rất hiệu quả,
hàng năm tạo ra thu nhập 70 triệu USD cho Bảo tàng. Đây thực sự là một doanh nghiệp hoạt
động chuyên nghiệp, tạo ra lợi nhuận cao, nhưng được miễn thuế. Phương thức kinh doanh
cũng như các mặt hàng ở đây rất độc đáo, không phải chỉ tập trung kinh doanh trong khuôn
viên Bảo tàng, mà còn mở rộng ra ngoài xã hội, nhưng tập trung vào những gì liên quan đến
Bảo tàng và phục vụ khách tham quan. Giống như nhiều Bảo tàng khác, bán đồ lưu niệm cho
khách tham quan là một cách tạo nguồn thu cho Mêtrôpôlitan. Có điều đặc biệt là việc bán đồ
lưu niệm được định hướng rõ - hàng phải mang nội dung của bảo tàng, mục đích bán hàng lưu
niệm là để giáo dục, tạo liên tưởng đến bảo tàng; 90% số hàng lưu niệm bán ra là do Bảo tàng
sản xuất. Tư tưởng này được thực hiện triệt để, và tôi để ý rằng ngay cả trong các bao bì đựng
tặng phẩm tặng đoàn chúng tôi, cũng đều in những hình ảnh hoặc lời giới thiệu về bảo tàng
này. Người phụ trách kinh doanh cho chúng tôi biết, ngoài cửa hàng bán hàng lưu niệm tại chỗ,
Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan còn có 19 cửa hàng rải ra khắp nước Mỹ. Không những vậy,
Mêtrôpôlitan còn liên doanh với các nhà kinh doanh trên thế giới bán đồ lưu niệm của bảo tàng
này. Tôi nhẩm tính, với khối lượng trên 5 triệu lượt người vào tham quan mỗi năm, chỉ cần mỗi
người mua hoặc được tặng một đồ lưu niệm, thì đã tiêu thụ hết trên 5 triệu văn hoá phẩm,
cộng với lượng hàng hoá được bán ngoài bảo tàng, số lượng chắc lớn lắm. Cũng cần nói thêm
rằng, số lượng người đến tham quan bảo tàng được tính chính xác đến hàng đơn vị chứ không
áng chừng như ở ta, vì Bảo tàng này có máy đếm tự động, và các dữ liệu đều được lưu vào hệ
thống máy vi tính. Muốn đáp ứng được yêu cầu cung cấp hàng lưu niệm, chắc chắn Bảo tàng
này phải tổ chức một bộ phân sản xuất đủ mạnh. Chúng tôi còn được giới thiệu là cửa hàng
sách của Bảo tàng là cửa hàng sách bằng tiếng Anh lớn nhất thế giới. Một nguồn thu quan trọng
khác là phục vụ ăn uống cho khách tham quan (Tôi chợt liên hệ đến nước ta, việc kinh doanh ăn
uống trong bảo tàng thường bị dư luận phê phán, coi là làm "uế tạp" các giá trị văn hoá). Như
rất nhiều nước xứ lạnh khác, mọi công việc ở Mỹ đều bắt đầu rất muộn, thường là từ 9 giờ hoặc
9 rưỡi sáng, cho nên người ta thường làm việc thông tầm và cũng vì vậy, việc ăn trưa thường
diễn ra ngay tại công sở. Bảo tàng này cũng mở cửa muộn, nội dung tham quan lại phong phú,
cho nên ăn trưa tại bảo tàng là nhu cầu thiết yếu đối với hầu hết khách tham quan. Cũng vì thế,
bảo tàng có một cửa hàng ăn ngay trong lòng toà nhà lớn nhất, với đủ loại món ăn, và lượng
người đến ăn đông tới mức chúng tôi phải phân công người "xí" chỗ ngồi trước rồi mới xếp
hàng mua đồ ăn sau. Nếu ăn một cách bình dân, cũng phải mất khoảng chục USD, còn ăn có
món cá hồi thì chi đến 18 USD cho một suất. Nếu so sánh với mức thu nhập của một lái xe bình
thường là 1.200 USD một tháng (trừ các khoản phải nộp rồi thì còn khoảng sáu, bẩy trăm USD),
thì đây là giá "cắt cổ". Thế nhưng, người ăn cứ nườm nượp, đến nỗi mấy thùng rác to đùng
đựng đồ phế thải do khách ăn uống ném vào luôn luôn phải thay vì nó đầy lên một cách nhanh
chóng.
Một điều phổ quát trong hoạt động của tất cả các cơ sở văn hoá mà tôi được biết ở nước
Mỹ này, là công tác thông tin được coi trọng và được tiến hành một cách tuyệt hảo. Bảo tàng
Mêtrôpôlitan này cũng vậy, có thể nói là công tác thông tin đã đem lại thành công lớn cho bảo
tàng. Bộ phận này đã đảm nhận trách nhiệm sưu tập 2 triệu hiện vật về cho Bảo tàng, ngoài ra
còn mượn hiện vật trên thế giới khi có triển lãm lớn. Cung cấp thông tin cho báo chí, bộ phận
thông tin phải biên tập nội dung cần tuyên truyền và liên hệ với 6.000 người đưa thông tin lên
mạng. Hàng năm, bộ phận thông tin in ca-tơ-lô, gửi đến khoảng 4 triệu khách hàng. Sau thảm
hoạ 11/9, khách đến bảo tàng giảm 60%, thì việc cung cấp thông tin về hoạt động của bảo tàng
là một việc làm bức thiết. Bộ phận thông tin đã làm hết sức mình: thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng, gửi thư điện tử, thông báo trên trang web... để mọi người trên thế giới
hiểu rằng bảo tàng vẫn mở cửa bình thường, đường đến Niu-Yoóc vẫn thông suốt và an toàn,
và nhờ vậy, số khách đến bảo tàng tăng dần, cho đến nay chỉ còn giảm 25% so với cùng thời kỳ
năm trước.
Điều mà các nhà lãnh đạo Bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan muốn nhấn mạnh với chúng
tôi là, nhìn tổng thể, hoạt động của Bảo tàng là không vì lợi nhuận, nhưng mỗi thành viên của
Bảo tàng đều phải nghĩ ra và thực hiện bao nhiêu cách phụ trợ để kiếm ra tiền, có thế mới tồn
tại và phát triển được.
Thăm bảo tàng Mỹ thuật Mêtrôpôlitan, tôi suy nghĩ nhiều. Những điều đáng ghi nhận là
phương thức hoạt động linh hoạt, hiện đại, tập trung cho mục đích chính, tạo hiệu quả xã hội
cao. Tuy vậy, chính từ bảo tàng này, tôi cũng nhận ra tư tưởng bá chủ thế giới của Hoa Kỳ.
Người Mỹ đã thu thập về cho đất nước mình nhiều hiện vật quý giá của các nước trên thế giới,
tạo nên một Bảo tàng lớn, với hơn 2 triệu hiện vật, thu hút cả trăm triệu lượt khách tham quan.
Về công sức mà nói, người Mỹ quả đáng tự hào vì đã chuyên chở được một khối lượng hiện vật
lớn về nước mình, trong đó có những hiện vật khổng lồ như ngôi đền cổ của Ai Cập bằng đá lớn
khủng khiếp mà tôi đã nói ở trên, trong đó có những hiện vật do họ bỏ tiền ra mua, nhưng cũng
có những hiện vật do họ chiếm đoạt của các nước bị xâm lược. Về mặt văn hoá, lẽ nào cứu một
di tích của dân tộc khác khỏi bị quên lãng bằng cách đem nó về đất nước mình lại là biện pháp
đáng tự hào? Bảo tàng có tới 36.000 hiện vật cổ của Ai Cập, Hy lạp, trong khi đó chỉ có 15.000
hiện vật của nước Mỹ. Và cái cách tỉnh khô khi giới thiệu những hiện vật chiếm đoạt được từ
khắp nơi trên thế giới như đó là lẽ tất yếu, như là của chính mình mới đáng sợ làm sao. Trong
khi đó, người Mỹ lại xuất khẩu ra thế giới những sản phẩm văn hoá đồi truỵ, bạo lực, làm biến
dạng nền văn hoá của nhiều dân tộc khác. Phải chăng, đây chính là tội ác của việc xâm lược,
cưỡng bức, đồng hoá và cướp đoạt văn hoá mà loài người cần lên án, chứ không riêng gì lên án
hành động cướp bóc vật chất, tiến hành chiến tranh!
Khu Roclefeller
Chị San-đơ-ra Lang dẫn chúng tôi đi tham quan khuRoclefeller. Mặc dù khá to béo, chị
vẫn rất nhanh nhẹn, lôi chúng tôi đi khắp các công trình mà chị thấy đáng quan tâm. Đây là một
khu nhà chọc trời với những hình khối vuông vức cao ngất ngưởng trải dài từ khu phố 49 đến
khu phố 5, được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX. Ngước nhìn theo chiều cao của các
ngôi nhà, chúng tôi đều phải bỏ mũ ra hoặc lấy tay chặn mũ trên đầu vì sợ bị rơi. Khu này gồm 5
khu vực hoà hợp với nhau: văn phòng, giải trí, buôn bán, kiến trúc, nghệ thuật. Có các khối nhà
do người Italia, người Pháp, người Anh trang trí với những bức phù điêu lớn ở bề mặt. Có một
nhà thờ cổ lớn bằng đá nhưng bị nuốt chửng bởi những ngôi nhà hiện đại ngồn ngộn quanh nó.
Đối diện với nhà thờ, phía bên kia đường có một bức tượng lớn mầu đen thể hiện hình tượng
một nhân vật thần thoại bị thần Dớt trừng phạt phải nâng quả địa cầu. Trên một mặt tiền ngôi
nhà lớn có bức phù điêu khổng lồ thể hiện những hoạt động của những ngành kinh tế chính của
nước Anh thời kỳ đang còn đô hộ nhiều nước trên thế giới. Công ty đầu tiên thuê khu này là
công ty thu thanh, thu hình RCA, nay công ty này sở hữu cả hãng truyền hình NBC. Nhìn chung,
các tác phẩm nghệ thuật ở đây đều được các ông chủ công ty đặt hàng, làm bằng các chất liệu
mới như kính, kim loại kết hợp với các chất liệu mầu, đều to lớn, và người nghệ sĩ chú ý thể
hiện mảng khối chứ không quan tâm đến đường nét. Chị San-đơ-ra Lang rất tự hào giới thiệu
con đường giữa hai toà nhà lớn do người Anh và người Pháp xây dựng, mà người dân ở đây
quen gọi là con kênh có ý liên tưởng tới dòng sông ngăn cách giữa nước Anh và nước Pháp. Con
đường này được trang trí bằng những bồn phun nước, trồng hoa rất đẹp, xuôi dốc xuống
khoảng đất rộng. Ngay ở khu kiến trúc, kinh tế đồ sộ nhất nước Mỹ này cũng thể hiện tính hợp
chủng quốc, đa văn hoá của Mỹ - tại khu vực này, người Mỹ chẳng có gì gọi là văn hoá của riêng
mình, nhưng lại có tất cả bởi vì người Mỹ đã quy tụ được khả năng của nhiều nước đến sáng
tạo trên đất nước mình. Bản sắc văn hoá Mỹ chính là đa văn hoá.
Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm La Mama
Nếu tôi không nhầm, thì không nơi nào trên thế giới có một chiếc thang máy độc đáo
như thang máy của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm La Mama: cửa vào ở phía trước, còn cửa ra
lại ở bên cạnh. Nhưng độc đáo hơn lại là ở tính chất của câu lạc bộ này, tính chất thể nghiệm,
đột phá về hình thức biểu hiện nghệ thuật. Vào chủ nhật tới, Câu lạc bộ sẽ tổ chức kỷ niệm ngày
thành lập, cho nên nơi chúng tôi đến đang ngổn ngang các vật dụng mà người ta đem đến để
chuẩn bị cho chương trình hát múa mừng Câu lạc bộ tròn 40 tuổi. Theo lời giới thiệu, thì đây là
một trong 3 sân khấu của Câu lạc bộ. Rất tuyềnh toàng, sân khấu này có sàn biểu diễn bằng gỗ,
còn phần dành cho khán giả thì không có ghế cố định. Khi chúng tôi đến, bà Ê-lân Sơ-ti-uốt -
Giám đốc Câu lạc bộ Sân khấu thể nghiệm La Mama - đang chỉ huy việc dàn dựng sân khấu. Đó
là một phụ nữ da đen trạc 70 tuổi, da khô và nhăn nheo nhưng dáng người nhanh nhẹn, khoẻ
khoắn. Bà tết mái tóc bạc trắng của mình thành nhiều đuôi sam nhỏ tí teo, đeo trên tay 4 chiếc
nhẫn vàng to tướng. Với hình thức hơi lập dị, với giọng nói khàn khàn nhưng đầy nhiệt huyết,
bà thể hiện mình là một nghệ sĩ độc đáo và yêu tha thiết nghệ thuật. Kéo những chiếc ghế cũ kỹ
mời chúng tôi ngồi, bà nhanh chóng bắt vào chuyện. Bà quan niệm rằng nghệ thuật cần phải
dựa vào yếu tố âm nhạc, múa, hát và có cả lời thoại, nhưng lời thoại không quan trọng lắm, mà
ý tưởng mới thật sự quan trọng. Bà nói:
- Tôi tin vào các giá trị thế giới và muốn trở thành một bộ phận của thế giới. Tôi cố gắng
làm cho các vở diễn giúp khán giả nhìn mà cảm nhận được, cảm nhận một cách thoải mái.
Không có gì trừng phạt tệ hại hơn là xem sân khấu mà không hiểu người ta nói gì trên sân khấu!
Ra đời 40 năm nay, Câu lạc bộ Sân khấu thể nghiệm La Mama quản lý 3 sân khấu (được
coi là độc đáo nhất Niu-Yoóc), thường xuyên tổ chức biểu diễn những vở mang tính thể nghiệm,
cách tân. Đã thành nền nếp, từ tháng 9 năm này đến tháng 6 năm sau, Câu lạc bộ đều cho trình
diễn các vở mới, theo lịch cứ 3 tuần một vở, và mỗi vở được diễn 3 tuần.
Bà Ê-len Sơ-ti-uốt tự nhận Câu lạc bộ của bà có đoàn nghệ thuật mang tính quốc tế thực
sự duy nhất ở nước Mỹ này. Bà giải thích: "Mọi người ở khắp nơi trên thế giới đều đến đây biểu
diễn. Chúng tôi có 1 diễn viên múa người Việt Nam, nhiều diễn viên từ Trung Quốc, Nhật, Phi -
lip-pin đến. Không những thế, chúng tôi còn có La Mama ở Trung Quốc, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ,
Nhật. Tại Sécbi, chúng tôi vừa xây dựng xong dự án Sự lãng mạn của âm nhạc dành cho trẻ em
9 đến 13 tuổi".
Bà kể lại chuyện sang thăm Việt Nam và nói một cách cởi mở: "Tôi rất thú vị ở Việt Nam
là vừa có nghệ thuật dân gian nhà quê, như nhà hát Rối, lại có kịch quốc gia diễn những vở như
Xếch-xpia. Tôi đã kết hợp cả loại ấy lại làm một vở kịch kiểu Hy Lạp".
Bà đưa ra nhận xét không mấy chính xác: "Tôi thấy các con rối nước của các bạn không có
vai trò nào trên sân khấu, chỉ chạy qua chạy lại lăng xăng. Và hai nhà hát Rối và Kịch tuy đều là
của Việt Nam nhưng lại chưa bao giờ có quan hệ với nhau. Vì thế, trong chuyến thăm Việt Nam
cách đây hai năm, tôi đã liên kết hai nhà hát lại để dựng một vở kịch kiểu Hy Lạp. Tôi đã khiến
cho những con rối có vai trò. Lần đầu tiên đoàn Rối nước quốc gia của các bạn làm những con
rối to trước đây họ chưa từng làm. Thế rồi, trong cảnh thần Dớt giấu con, các con rối nước đã
đóng những vai như những diễn viên thật. Chúng tôi đã kết hợp hai nhà hát và đã thành công. "
Như còn rung động với chuyến đi Việt Nam đầy ấn tượng, bà Ê-lân Sơ-ti-uốt bồi hồi nhớ
lại: "Các bạn Việt Nam sống rất cởi mở và thân thiện. Lúc tôi sang, nhà hát Rối trung ương đang
sửa trụ sở, nay có lẽ đã xong. Đến Hà Nội, chúng tôi đã cố gắng dựng nhiều điệu múa dân gian,
có sử dụng nhạc mới nhưng do các nhạc sĩ Việt Nam sáng tác. Các con rối nước trở thành người
dẫn truyện. Cách suy nghĩ của chúng tôi là chúng ta cùng một thế giới, cần giao tiếp, chung sống
với nhau. Cần kết hợp nền văn hoá của các bạn với chúng tôi để thành văn hoá mới".
Khi nghe nói đến hoạt động của Câu lạc bộ toả rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới, tôi
hỏi rằng vì sao mà Câu lạc bộ Sân khấu thể nghiệm có ảnh hưởng rộng đến vậy, bà Ê-lân Sơ-ti-
uốt trả lời: "Chúng tôi không cố gắng toả ảnh hưởng đến ai. Chúng tôi chỉ thuyết phục các quỹ
văn hoá để họ tài trợ cho các hoạt động của chúng tôi, làm cho nó được có mặt ở các nước.
Chúng tôi đã được quỹ văn hoá ở châu Á tài trợ cho chuyến đến thăm và dựng vở thể nghiệm ở
Việt Nam. Các quỹ văn hoá không cung cấp tiền cho cá nhân, mà cho các tổ chức xã hội. Ngoài
ra, chúng tôi còn được sự tài trợ của quỹ Vì sự hiểu biết chung, cũng như nhiều tổ chức từ thiện
khác".
So với các nhà hát ở Mỹ, thì "rạp" của Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm hơi nhếch nhác.
Sân khấu rất sơ sài với sàn gỗ và những phông màn cũ. Tầng gác và bao lơn dành cho khán giả
cũng chỉ được dựng bằng gỗ thường, trông có vẻ không vững chãi. Mặc dù bà Giám đốc giải
thích rằng do đang chuẩn bị cho buổi biểu diễn kỷ niệm ngày thành lập, nhưng tôi vẫn khó hình
dung lúc thường nó đàng hoàng như thế nào. Bù lại, là nhiệt tình đến cháy bỏng của chủ nhân
Câu lạc bộ - tôi có cảm giác rằng bà Ê-lân Sơ-ti-uốt sẵn sàng đánh đổi tất cả để cho những thể
nghiệm nghệ thuật của mình có thể được công nhận. Chị Thuỷ hỏi về khán giả và nguồn thu cho
các hoạt động biểu diễn tại đây, bà Giám đốc trả lời: "Tuỳ theo vở. Có vở 150 người, có vở 350
người vào xem, nhưng không bao giờ quá số đó." Biết rằng đoàn EADOLA của Việt Nam do một
nữ đạo diễn Pháp gốc Việt dẫn dắt đã đến biểu diễn ở đây, tôi hỏi thì được biết số khán giả đến
xem là 75 người. Thấy bà Ê-lân Sơ-ti-uốt dừng lại, chị Thuỷ lại hỏi về thu nhập của Câu lạc bộ. Bà
cười hồn hậu: "Tiền bán vé không bao giờ đủ chi phí. Các buổi biểu diễn luôn luôn lỗ. Lương trả
cho nhân viên bao giờ cũng thấp so với tiêu chí của Niu-Yoóc, có khi làm không lương, làm bằng
tấm lòng. Vì thế, nghệ sĩ làm việc ở đây phải thắt lưng buộc bụng, có khi chạy sô bên ngoài". Bà
bộc bạch: "Ở Mỹ, không bao giờ chúng tôi được mời đến diễn ở nơi khác, ngoài sân khấu của
chúng tôi. Chúng tôi không thể tồn tại được ở nước Mỹ, thế nhưng lại hay được mời đi các
nước khác. Chúng tôi đã có kế hoạch sang năm đi Hàn Quốc, Áo, Italy." Như cảm nhận được sự
ngạc nhiên của chúng tôi trước hiện tượng một câu lạc bộ sân khấu của Mỹ không thể tồn tại
được trên đất Mỹ, bà Ê-lân Sơ-ti-uốt giải thích: " Ở Mỹ, khán giả thích ngôn từ, còn chúng tôi
muốn chuyển tải nội dung mà không cần ngôn từ nên không hợp. Người Mỹ thích nghe, còn
chúng tôi lại thích nhìn để mà cảm nhận nghệ thuật". Bà nói tiếp: "Tôi còn là giáo sư thỉnh giảng
ở Hàn Quốc. Đến tháng 1 năm 2.002, chúng tôi sẽ đến Cămpuchia để làm dự án như dự án Việt
Nam"
Bà Ê-lân Sơ-ti-uốt đưa ra kết luận khiến tôi không khỏi băn khoăn: "Với cách dàn dựng
của chúng tôi, thì ngay cả các vở bi kịch của Sếch-Xpia cũng không cần lời thoại mà khán giả vẫn
cảm nhận được nội dung". Thực tế cho thấy, trong kịch của Sếch-Xpia, các lời thoại có tính biểu
hiện rất cao, nếu tước bỏ nó đi thì làm sao giúp khán giả thưởng thức được tác phẩm một cách
trọn vẹn? Thôi, dù sao đây là sự thể nghiệm. Nói như giáo sư Mác-tin Su-lơ-man thì ở La Mama,
cái gì cũng có thể xẩy ra, người có thể cưỡi lợn chứ không cưỡi ngựa và lợn có thể bay. Khi
chúng tôi chào tạm biệt, bà Ê-lân Sơ-ti-uốt giữ riêng nhóm phụ nữ lại và thì thào điều gì đó vẻ
rất riêng tư và thú vị. Trong khi chờ chị em ra, chúng tôi tranh thủ xem những áp phích về
những vở kịch do Câu lạc bộ đưa lên sân khấu, thấy khá lạ lẫm, trong đó có một bức in hình một
phụ nữ khoả thân cưỡi con lợn trắng to đùng, cả người và lợn đều có vẻ tươi cười hớn hở.
Chẳng lẽ người ta có thể bệ nguyên hai "nhân vật" như vậy lên sân khấu?
Công viên B-rai-an
Vào một buổi sáng trời nắng nhưng khá lạnh, chúng tôi đi thăm công viên B-rai-an. Tài
liệu của quỹ FORD giới thiệu về công viên B-rai-an như sau:
"Nằm sau thư viện Công cộng Niu-Yoóc ở khu Man-hát-tan, giữa phố 40, 42 và các đại lộ
5 và 6, B-rai-an Park là một công viên công cộng của thành phố Niu-Yoóc và là một thắng cảnh
của thành phố, được công nhận bởi Ban Bảo tồn thắng cảnh năm 1974. Kể từ năm 1842, khi nơi
này khởi đầu là một khu hồ chứa, đến nay công viên đã trải qua 3 lần thay đổi lớn và được sử
dụng với mức độ cao.
Cho đến những năm 70, các điều kiện trong công viên đã xuống cấp đến mức nó là tụ
điểm của ma tuý và tội ác. Tuy nhiên, sau đó nó đã được xây dựng lại và khu vực này đã tái sinh
nhờ anh em Rốc-kơ-phe-lơ đã thiết lập ở đây Công ty Trùng tu B-rai-an Park (BPRC). Sau đó, Đa-
ni-e A Beđơman, một nhà tư vấn về hệ thống 26 tuổi, khi đó đang làm chủ tịch Ban Kế hoạch
cộng đồng địa phương, được anh em nhà Rốc-kơ-phe-lơ và Thư viện Công cộng Niu-Yoóc chọn
làm người điều hành cho Công ty. Ông cùng với Anđrêy Hai-ken, Chủ tịch Thư viện, đồng thành
lập Công ty Trùng tu B-rai-an Park vào ngày 3 tháng 1 năm 1980. Biederman đã lập nên một kế
hoạch quản lý và tài chính riêng cho công viên. Khu này, theo lý thuyết của nhà dô thị học Uy-li-
am H Oai-tơ, nhằm vào những hoạt động trùng tu vì lợi ích của công viên. Công viên B-rai-an
mới mở cửa năm 1992 sau khi xây dựng những giá đỡ dài 84 dặm làm thành khu lưu trữ ngầm 2
tầng cho thư viện Niu-Yoóc ở lòng đất khu vực kề bên. Nó được mở cửa trở lại với ngân sách
gấp 6 lần ngân sách theo quản lý của thành phố trước đó.
Công viên này rất được ưa thích, điều này khẳng định cho những nhận định của Wai
trong báo cáo Dự án cuộc sống đường phố, theo đó ông cho rằng những gì mà người dân ở
thành phố tìm kiếm nơi công cộng là những người khác, là sự an ủi và quan tâm, chứ không
phải là một nơi để tách biệt, để trốn chạy khỏi thực tế. Ngày nay, công viên này thường được so
sánh với các công viên vĩ đại ở Lon don và Pari, và vào năm 1996 nó đã giành được Phần
thưởng xuất sắc của viện Đất đô thị dành cho các Dự án công cộng.
Công ty Trùng tu Brai Park là một công ty đo tư nhân quản lý hoạt động không vì lợi
nhuận, do Đa-ni-e A Beđơman và An-đri Hai-sơ thành lập, với sự hỗ trợ từ Quỹ Anh em nhà
Rốc-kơ-phe-1ơ, từ các cá nhân và từ một cụm hợp tác phát triển kinh doanh của những người
chủ tài sản láng giềng. Thoả thuận 15 năm ký năm 1988 giao quyền quản lý và phát triển công
viên cho Công ty Trùng tu Brai-an Park là sự thử nghiệm lớn nhất ở Mỹ trong việc áp dụng quản
lý tư nhân và tài chính tư nhân vào một công viên công cộng, và đã đạt được thành công theo
đánh giá của dân chúng, của báo chí và của các cơ quan lân cận. Hiện ông Đa -ni-e A Beđơman
vẫn tiếp tục điều bành công viên.
Công ty Trùng tu B-rai-an Park chia sẻ việc quản lý với Công ty Đối tác phố 34, và hai bên
cùng chia sẻ những nguyên lý quản lý chung. Nhiệm vụ của nó là: xoá bỏ tội phạm, rác bẩn,
những hình vẽ bậy trên tường và những điều kiện không hay ho trong giới hạn của công viên;
cho những người buôn bán và những người thuê đất điều kiện tốt nhất để tổ chức những hoạt
động kinh doanh mới trong khu vực và giúp đỡ những người đang buôn bán có thể phục vụ
khách hàng tốt nhất; hỗ trợ cho những công dân gặp khó khăn hoặc nghèo đói vì lợi ích của bản
thân những người này cũng như vì lợi ích cộng đồng; phát triển phố xá và công viên với chất
lượng không chê vào đâu được; và thiết lập một kênh thu nhập đa dạng và ổn định để chi cho
các hoạt động bảo dưỡng thường xuyên để duy trì những phát triển vượt trội này".
Trong khi chờ người của Ban Quản lý công viên tới làm việc, chúng tôi dạo quanh công
viên. Phần lớn nhất của công viên này là một bãi cỏ phẳng phiu và xanh rì. Xung quanh là những
hàng cây, lối đi và tường thấp ngăn cách công viên với hè phố. Trong cái giá lạnh của buổi sáng,
vẫn có khá nhiều người đến công viên. Họ ngồi trên các chiếc ghế sắt mầu xanh mà Ban Quản lý
công viên đặt rải rác khắp nơi, kể cả trên cỏ. Có những nhóm người ngồi nói chuyện. Có những
người ngồi đọc báo. Có những người ngồi ăn. Có những người ngồi sưởi nắng. Và có ba người
nằm ngủ giữa bãi cỏ. Mọi người ai việc nấy, không lưu tâm đến nhau, kể cả 3 người nằm ngủ
thế kia, trông chẳng mấy mỹ quan, vậy mà không thấy ai dựng dậy.
Mất khoảng 20 phút chờ đợi, chúng tôi mới thấy một người đàn ông đeo kính trắng,
hồng hào và nhanh nhẹn bước đến chào hỏi. Ông xin lỗi vì tưởng rằng chúng tôi sẽ vào văn
phòng làm việc chứ không phải là tại hiện trường như thế này. Người đàn ông này là Ơthan
Lơche, Giám đốc Quan hệ công cộng của Công ty Đối tác phố 34. Ông mời chúng tôi ngồi trên
những chiếc ghế sắt mầu xanh của công viên, quây tròn dưới ánh nắng vàng tươi nhưng lạnh
giá của Niu-Yoóc. Ông giới thiệu:
- Với tư cách một công ty tư nhân, để điều hành công viên này, chúng tôi không chỉ có
một nguồn tài chính. Lương của tôi do nguồn từ việc người ta thuê những căn phòng ở các toà
nhà xung quanh đây. Công ty chúng tôi điều hành 3 công viên, một là đây, còn hai cái ở chỗ
khác. Những năm 1980, khi chúng tôi bắt đầu dự án cải tạo công viên này, thì đây là nơi rất
thiếu an ninh, bẩn thỉu. Xu hướng chung của nước Mỹ là khi muốn sửa chữa một công viên,
người ta thuê người đến thiết kế. Nhưng theo chúng tôi, đó không phải là cách quản lý tốt.
Chúng tôi phải dành ra rất nhiều tháng để theo dõi xem xem ở đây, các sinh hoạt diễn ra như
thế nào, người dân có thói quen gì khi vào công viên...
Sau đó, ông chỉ cho chúng tôi nhìn khung cảnh quang quẻ quanh công viên và nói:
- Trước kia, quanh đây là những lùm cây rậm rạp, những búi dây điện chằng chịt. Còn
công viên thì bị ngăn cách với đường phố bởi những bức tường cao và kín. Mặt khác, ánh sáng
ở đây lại rất thiếu. Khung cảnh ấy, các ngài biết không, chính là điều kiện cho bọn tội phạm hoạt
động và khiến người dân sợ hãi. Cho nên, điều đầu tiên mà chúng tôi phải làm là phá tường,
chặt cây, dọn dẹp lại các đường dây điện, lắp thêm đèn, biến nơi này thành khu vực thông
thoáng và sáng sủa. Chỉ riêng điều đó đã kéo thêm khá nhiều người đến với công viên.
Có vẻ rất tự tin, ông Ơthan Lơche nói tiếp:
- Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Chúng tôi phải nghiên cứu thói quen khi vào công viên của
công chúng nữa. Có hai điều mà chúng tôi quan tâm là: Thứ nhất người ta không thích những
ghế băng lắp cố định, mà chỉ thích những ghế di động, để họ có thể xách đi xách lại đặt vào chỗ
mà họ thích ngồi, để chọn được hướng ngồi thích hợp, như quay mặt vào nhau khi nói chuyện,
hoặc hướng về phía mặt trời để sưởi nắng. Thứ hai, người ta không thích đi thẳng theo chiều
dọc hay ngang của công viên, mà thích kết hợp đi theo nhiều chiều, vì thế nếu chỉ mở một vài
cổng thẳng nhau thì người ta không thích, phải mở cả những cổng bên hông để người ta đi chéo
qua công viên.
Ông giới thiệu chi tiết 10 nguyên tắc được thực hiện khi tiến hành sửa chữa công viên
này gồm:
Thiết kế: Có vai trò quan trọng, nhưng không phải là cái duy nhất, vì sẽ phải có sự thay
đổi. Tôi sẽ chỉ cho các bạn thấy những chỗ phải sửa so với thiết kế đầu tiên của nó, như trước
kia công viên này được quây lại, không có đường đi chéo, chúng tôi đã phải mở thêm đường đi
chéo.
Vệ sinh: Chú ý đến rác bẩn vứt ở đây.
Vấn đề an ninh: Có hai nhân viên an ninh của chúng tôi làm việc tại đây nhưng không
mang súng. Chỗ này bây giờ không còn tội ác nữa nên họ không cần sử dụng súng. Mọi người
đều biết ở đây có nhân viên an ninh và mọi người rất an tâm.
Chỗ này chúng tôi đưa vào những kiến trúc bằng đá, còn ở phía trước kia thì đặt những
bồn hoa nhỏ.
Dịch vụ: Một đặc điểm nữa mà chúng tôi thấy là người Niu-Yoóc khi đến những nơi công
cộng thường rất thích ăn uống, cho nên chúng tôi đưa dịch vụ ăn uống vào, và đã thu hút được
rất nhiều người. Vào những ngày cuối tuần, hay buổi tối, người ta hay đưa nhau đến ăn tối tại
đây.
Phần quan trọng nhất là chúng tôi đặt vào đây những chiếc ghế. Trừ 3 công viên mà
chúng tôi điều hành, thì không có công viên nào có ghế rời như ở đây. Tôi có ba lý do để đặt loại
ghế rời như thế này chứ không đặt ghế băng cố định: Tuỳ vào từng ngày, thời tiết thay đổi mà
người ta có thể di chuyển ghế ra ánh nắng hay vào bóng râm. Có thể ngồi thế nào để đỡ bị chói
nắng. Thường những người da đen hoặc da mầu hay quay mặt về phía ánh nắng, còn người da
trắng thì ngược lại. Đặc điểm nữa là khi vào đây nói chuyện, ít khi người ta không muốn quay
mặt vào nhau. Ghế băng làm người ta phải ngồi cạnh nhau, quay chéo vào nhau mà nói chuyện
rất bất tiện. Như hai chị phụ nữ kia, họ đang ngồi đối diện nhau mà nói chuyện vẻ thích thú.
Đây cũng là nơi lý tưởng cho những cặp tình nhân tâm sự, cho nên họ cần quay lại nhau, thậm
chí còn cần ôm nhau nữa. Khi người ta cần di chuyển ghế, thì ghế của chúng tôi rất nhẹ, ai cũng
có thể nhấc lên được. Chúng tôi có 2.300 ghế ở công viên này. Tôi đã tư vấn cho rất nhiều đối
tác làm ghế như thế này nhưng họ nói chỉ có ở Niu-Yoóc mới làm được, vì không sợ bị mất cắp.
Các bạn Việt Nam thử xem có thể đặt ghế di động tại các công viên không. Nếu có làm thì chụp
ảnh gửi cho tôi, khi thuyết trình, tôi sẽ sử dụng những ảnh của các bạn.
Tổ chức những buổi diễn trong công viên này : (Đang nói dở thì ông giám đốc chỉ tay vào
một người đàn ông đang đi phía sườn công viên: "Các bạn nhìn xem, ông kia không đi theo
chiều dọc hay ngang mà đi theo chiều chéo của công viên").
Nói tới điều này tôi cũng hơi ngượng. Đó là vấn đề về toa lét. Nếu không có, người ta sẽ
bậy ngay ra đường. Chúng tôi có một khu toa lét nằm ở đầu đằng kia. Vào năm 1965 không có
cái toa lét nào ở khu vực này cả.
Về ánh sáng: Ngày xưa, công viên này đóng cửa vào buổi tối. Chúng tôi thấy cần phải có
hệ thống đèn thật tốt. Chúng tôi đã tiến hành chiếu sáng cho công viên này theo nhiều cách
khác nhau: Đèn trên cột. Đèn trụ đồng, rất đắt, có 13 cái như vậy, có quý bà rất giàu có đã hiến
cho chúng tôi. Đèn chiếu từ trên cột xuống trông như những giọt nước mắt. (Đang nói, ông
giám đốc lại chỉ cho chúng tôi xem: "Có thể thấy anh vừa ngồi xuống đó trước khi ngồi đã chọn
rất kỹ, sau khi đã nhấc ghế điều chỉnh hướng ngồi thì anh ta gọi điện thoại. Thường với thời tiết
như thế này, ít người đến công viên để ngắm cảnh."). Đèn chiếu vào các tia nước. Đèn pha kiểu
của sân vận động. Với ánh sáng tốt như các bạn thấy, khi thời tiết ấm áp, chúng tôi mở cửa tới
11 giờ đêm, chứ không đóng cửa vào buổi tối như trước.
Không chỉ đầu tư trong khuôn viên mà ngay cả đường ở ngoài chúng tôi cũng chăm nom.
Công viên chúng tôi cũng có rất nhiều người vô gia cư đến. Như trên bãi cỏ có ba người
đang ngủ. Lý do khiến nhiều người Niu-Yoóc không đến công viên là vì họ sợ những người vô gia
cư này. Nhưng tại công viên này thì người ta lại không sợ vì an ninh đảm bảo.
Như tôi đã nói ở trên, ngay trên thảm cỏ của công viên, giữa trưa, có 3 người ngủ mê
mệt - hai người đàn ông luống tuổi, một phụ nữ. Mặc dù trời khá lạnh, lại không có gì đắp, vậy
mà cả ba ngủ ngon lành, có lẽ vì họ mệt quá. Cũng cần nói thêm rằng ở nước Mỹ, những người
vô gia cư, nằm đầu đường xó chợ như ba người kia, hầu kết là người da mầu. Tôi cũng quan sát
kỹ và thấy rằng người da mầu có thể làm cảnh sát, làm nhân viên bán hàng, nhưng cũng chỉ
người da mầu mới làm các công việc nặng nhọc, vất vả như khuân vác, bán hàng rong, đánh
giầy, chứ tôi không nhìn thấy người da trắng nào làm việc ấy cả.
Phần nói về các khoản thu của công viên làm tôi hết sức kinh ngạc - có nhiều phương
thức thu quá và có nhiều tiền thu được quá. Ông giám đốc nói:
- Hàng năm, công ty phải chi cho công việc ở công viên này 4 triệu USD. Tiền thu do cho
thuê các ki ốt quanh công viên được 1 triệu, cho thuê địa điểm biểu diễn được 1 triệu, thu từ sự
đóng góp của các chủ nhà quanh công viên được 1 triệu USD mỗi năm. Ngoài ra chúng tôi còn
bán những cái ghế như chúng ta đang ngồi để mọi người làm lưu niệm. Trước đây giá mỗi chiếc
ghế chỉ 29 USD, nay lên đến 120 USD, mà mọi người vẫn mua, chứng tỏ người dân yêu mến
công viên chúng tôi như thế nào. Trước đây, khi công viên này thuộc nhà nước thì họ tốn rất
nhiều tiền để mà điều hành. Còn khi chúng tôi điều hành thì nhà nước không tốn tiền nữa. Tôi
có thể sửa chữa bất kỳ công viên nào trên thế giới để cho nó tốt như công viên này. Tôi biết ở
Anh có công viên Pli xơ cớt cũng đang xuống cấp nặng nề, tôi rất muốn đến đó để sửa lại (tôi
hỏi nhỏ anh Tim rằng điều này có chính xác không, anh Tim kín đáo lắc đầu). Việc trùng tu lại
công viên này làm cho giá trị của khu vực này tăng, chính vì thế mà giá thuê nhà quanh công
viên cũng tăng. Tôi sẽ làm việc với các chủ nhà quanh đây để yêu cầu tăng tiền đóng góp cho
chúng tôi, chứ chỉ 1 triệu USD như hiện nay thì quá ít. Các bạn biết không, nhờ sự cải tạo công
viên này, biến nó thành địa điểm văn hoá thu hút đông đảo mọi người, mà giá nhà cho thuê ở
đây đã tăng 15 đến 20%. Thế thì người ta phải trả thêm tiền cho chúng tôi chứ!
Tôi ghi khá tỷ mỉ buổi làm việc với ông giám đốc công viên vì việc này khá độc đáo và để
thấy người Mỹ tính toán chi li như thế nào khi tiến hành một công việc, đồng thời cũng thấy
tính mục đích của người Mỹ cao như thế nào. Trong khi giới thiệu với chúng tôi về hoạt động
của công viên, đã ba lần ông giám đóc ngừng lại để chỉ cho chúng tôi xem cách thức người dân
vào công viên sử dụng ghế của công viên, nhằm chứng minh cho chúng tôi thấy những luận
điểm mà ông nêu ra về lí do đặt các ghế ngồi di động tại đây và hiệu quả cao của nó. Chỉ riêng
chuyện các cái ghế, ông đã thuyết trình gần một tiếng đồng hồ. Tuy vậy, ngay sau khi dừng lại
nói về việc người ta dùng ghế, ông đã trở lại vấn đề mình đang thuyết trình chứ không bị phân
tán sang chuyện khác.
Vào một ngày chủ nhật, tôi quay lại quan sát hoạt dộng của công viên B-rai-an. Đúng là
hết sức náo nhiệt. Rất lạ là người ta không cấm mọi người đi lên cỏ, không biết là vì cỏ ở đây
"dai", không bị nát dưới các gót chân hay vì người ta luôn luôn chăm sóc, thay thế những cụm
cỏ bị hư hỏng? Có cả hàng nghìn người đến công viên này. Họ kéo nhau đi dạo trên con đường
chạy vòng công viên, dưới bóng loà xoà của những tán cây. Họ ngồi tập trung trên bãi cỏ mượt
như nhung chờ xem biểu diễn nghệ thuật. Có rất nhiều cửa hàng lưu động căng lều bán các
hàng lưu niệm, sách báo hoặc bán đồ ăn uống. Tiếng nhạc rộn rã làm cho không khí thêm náo
nhiệt. Vậy mà ở trên bãi cỏ, vẫn có một phụ nữ đầu quấn kín chiếc khăn in hình lá cờ Mỹ nằm
ngủ say sưa mà tôi đã chụp được ảnh làm tư liệu cho cuốn sách này.
Người vô gia cư nằm ngủ thoải mái trên bãi cỏ công viên
Thư viện công cộng Niu-Yoóc
Thư viện công cộng Niu-Yoóc nằm ở phố 42, liền kề với công viên B-rai-an. Đây là một
thư viện tư nhưng phục vụ rộng rãi, miễn phí tất cả mọi người. Một phụ nữ mặc bộ vét, trông
có vẻ rắn rỏi, đón chúng tôi ở cổng. Tất nhiên, dù là khách nào thì khi qua cổng cũng phải tuân
theo thủ tục khám xét. Người bảo vệ yêu cầu mọi người mở túi xách ra, xem qua rồi mời mọi
người vào. Có thể nói đây là công trình có nội thất đẹp nhất Niu-Yoóc mà chúng tôi thấy. Tài
liệu của Quỹ FORD giới thiệu về Thư viện công cộng Niu-Yoóc như sau:
"Một trăm năm trước đây, Niu-Yoóc, thành phố vĩ đại nhất nước Mỹ, không có một thư
viện công cộng thực sự nào. Ngày nay, nhờ những ý tưởng đầy hoài bão và hàng triệu hàng
triệu lượt người sử dụng, thư Viện công cộng Niu-Yoóc đã được công nhận là một trong những
thư viện công cộng lớn nhất thế giới. Khi toà nhà thư viện chính được xây dựng năm 1911, nó
đứng vào vị trí là có kết cấu đá cẩm thạch vĩ đại nhất mà người ta từng thử sức tại Mỹ . Nay nó
được biết đến với tên gọi thư viện Nhân văn và khoa học xã hội. Ngày nay, Thư viện công cộng
Niu-Yoóc là một trong những nền tảng quan trọng của truyền thống Mỹ về những cơ hội bình
đẳng. Nó mở rộng cửa và miễn phí, giúp người ta có thể tiếp cận với những tinh hoa đã được
đúc kết của nhân loại, mà không phân biệt thu nhập, tôn giáo, chủng tộc hoặc bất kỳ một điều
kiện nào khác. Nó là trường đại học của tất cả mọi người; là nơi các học giả và các tác giả được
lưu trú, là nguồn thông tin cần thiết của công chức, các nhà khoa học và các doanh nhân; là kỷ
niệm của quốc gia. Nó đảm bảo quyền tự do về thông tin và độc lập về suy nghĩ. Nó cho phép
mỗi cá nhân có thể theo đuổi sự học theo đúng sở thích, khả năng, sự chuẩn bị và mong muốn
của mỗi người. Nó giúp đảm bảo sự tự do trao đổi ý tưởng, và quyền có ý kiến trái ngược.
Nhiệm vụ của Thư viện công cộng Niu-Yoóc là sử dụng những nguồn lực sẵn có theo một
chương trình cân bằng từ việc thu thập, phân loại và lưu giữ sách và các tài liệu khác, giúp cho
người đọc có thể truy cập nhanh chóng tại thư viện cũng như ở mọi nơi nhờ có hệ thống thư
viện nối mạng và thư viện hợp tác. Trách nhiệm của Thư viện công cộng Niu-Yoóc là phải phục
vụ như một nơi lưu trữ kiến thức ngay tại chính giữa một trong những trung tâm thông tin lớn
nhất thế giới, và phải hoạt động như một phần nội tại của kết cấu thông tin, của việc học trên
cả nước và trên toàn thế giới. Thư viện công cộng Niu-Yoóc, Quỹ Astor, Quỹ Lenox và Quỹ
Taiden tạo nên 4 trung tâm nghiên cứu ở Man-hát-tan, và 85 thư viện chi nhánh ở B-rôn-xơ,
Man-hát-tan và Staten Ai-xơ-lan. Nó là thư viện duy nhất có những trung tâm nghiên cứu được
cả thế giới khâm phục, đồng thời lại có cả một hệ thống rộng khắp các thư viện chi nhánh ở các
vùng lân cận, mà tất cả các thư viện này đều miễn phí cho mọi người. Nó có nhiều tài liệu hơn
bất cứ một thư viện công cộng nào khác trong nước, đồng thời cũng là thư viện dành cho
nghiên cứu lớn nhất trên thế giới với một hệ thống thông tin và một hệ thống chi nhánh lớn
nhất thế giới.
Công nghệ ví tính giúp truy cập từ mọi nơi trên thế giới bất cứ phân loại tài liệu nào của
thư viện. Các bộ sưu tập của thư viện cũng phản ánh bản chất dân chủ và toàn diện của thư
viện. Với số lượng hàng chục triệu, thư viện này có những tài liệu từ những công trình bất hủ
nhất của văn hoá nhân loại, ví dụ như những phiên bản chữ viết tay của Gutenbớc Bible và bản
thảo gốc Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của Jeferson, cho đến những tài liệu về cuộc sống hàng ngày
của những người mà nếu không được lưu trữ sẽ trở nên vô danh".
Toà nhà Thư viện rất lớn, dùng chất liệu gỗ, đá là chính, tường các căn phòng được ốp gỗ
có trạm trổ rất đẹp. Công nghệ thông tin và tự động hoá được áp dụng khá tốt - thư viện có hệ
thống dữ liệu lớn chạy trên mạng máy tính giúp mọi người tra cứu thông tin được nhanh chóng,
có hệ thống ống chuyển phiếu yêu cầu và hệ thống băng truyền chuyển sách. Tuy vậy, có nhiều
người mượn sách nên bạn đọc phải chờ từ 20 đến 40 phút mới lấy được cuốn sách mà mình
yêu cầu. Thư viện được tu bổ lộng lẫy như thế này hoàn toàn bằng tiền tài trợ của các nhà hảo
tâm. Trên tường, có nhiều bức tranh sơn dầu khổ lớn, hoàn toàn về đề tài sách, nhà in, nhà
xuất bản. Ngay trong trang trí, người Mỹ cũng rất thực tế, hướng những giá trị thẩm mỹ vào nội
dung công việc của họ. Ví dụ có một phòng đọc được tài trợ bởi một ông trùm xuất bản, thì
quanh tường treo toàn tranh về các nhà xuất bản có liên quan đến ông ta. Lại có một triển lãm
ngay trong thư viện, nội dung tập trung vào các tài liệu, văn bản quan trọng trong suốt lịch sử
phát triển của nước Mỹ. Bà Pau Léc-lơ, Chủ tịch Thư viện, nói rằng đây là thư viện rất độc đáo,
riêng chỉ có ở Mỹ. Bà dẫn chúng tôi vào phòng đọc chính, một phòng rất lớn, có trang bị nhiều
máy vi tính, được đặt tên là phòng đọc Hoa Hồng. Có rất nhiều bạn đọc từ nước ngoài đến truy
cập In-tơ-nét tại phòng này - mọi người im lặng ngồi trước màn hình, tai đeo cáp nghe. Đến
phòng Châu Á, tôi thấy có khá nhiều sách về Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, nhưng về Việt
Nam thì chỉ có bốn năm cuốn, mà lại không thuộc loại sách tiêu biểu. Người phụ trách cho
chúng tôi biết họ có sách của Việt Nam về đồ cổ, về giáo hội Phật giáo, còn sách văn học chỉ có
bốn năm cuốn. Chúng ta còn quá yếu trong tuyên truyền đối ngoại. Tôi tặng ông phụ trách
phòng cuốn "Bê trọc" của tôi do Nhà Xuất bản Thanh niên ấn hành năm 1999 và Nhà Xuất bản
Văn học tái bản năm 2001. Nhìn thái độ trân trọng của ông khi lật giở những trang sách mà tôi
đã ghi về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta suốt 7 năm ròng cho tới ngày
toàn thắng, lòng tôi chợt bồi hồi khôn xiết. Đã đành rằng ngày ấy, dù có phải luồn rừng đội bom
B52 của Mỹ, tôi vẫn luôn luôn tin vào ngày đại thắng của dân tộc, nhưng có ngờ đâu đến hôm
nay lại được đặt chân lên đất Mỹ để tặng người bạn Mỹ cuốn sách viết về thời chống giặc Mỹ
xâm lược ấy! Mong rằng qua cuốn sách này, những người bạn Mỹ sẽ cảm nhận được lòng yêu
hoà bình tha thiết của người Việt Nam, ngay cả khi buộc phải cầm súng để bảo vệ độc lập, tự
do.
Trước khi chia tay chúng tôi, bà Chủ tịch Thư viện thể hiện lòng mong muốn trao đổi và
hợp tác với Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh điều cần chúng tôi ghi nhận là sự hợp tác giữa tài
trợ của cá nhân với tài trợ của Chính phủ cho một cơ quan dành cho công cộng như thư viện
này thể hiện tính dân chủ rất cao.
4. Người Mỹ: Siêu đẳng về kiếm tiền
Vào một ngày chủ nhật, chúng tôi đi thăm phố phường, vào các cửa hàng. Ai ra nước
ngoài cũng có cái thú đi ngắm nghía các cửa hàng, mua sắm quà cáp. Người nước ngoài cũng
vậy, khi đến Việt Nam, thế nào các bạn cũng dành thời gian đi "sốp pinh". Có dịp dự một hội
nghị ở Phi-lip-pin, tôi cũng thấy những đại biểu của các nước có nền kinh tế phát triển như
Singapo, Brunây luôn luôn tỏ ra thú vị khi rủ nhau đi "sốp pinh", nhưng hầu như chẳng mua gì.
Có lẽ, bây giờ đi siêu thị không còn đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế nữa, mà đã mang ý nghĩa
văn hoá. Bởi vì người ta đi xem là chính, như là đi xem triển lãm về một nền kinh tế vậy. Chúng
tôi cũng cảm thấy hạnh phúc trước thành quả của sự đổi mới trên đất nước ta, nó in bóng cả
vào hành động của những người Việt Nam chúng ta khi đi nước ngoài. Thời bao cấp, đi nước
nào cũng xăng xái mua sắm hàng tiêu dùng, khệ nệ khuân vác đến bệ rạc, còn bây giờ thì tay
đút túi quần, đi để nhìn ngó cho vui mắt là chính, có mua sắm cũng chỉ quanh quẩn mấy thứ
hàng lưu niệm hoặc đồ dùng cao cấp. Một điểm đáng chú ý là nước Mỹ cũng nhập khẩu khá
nhiều, trong đó nhiều nhất là hàng hoá của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, từ đồ điện tử,
quang học tới hàng đệt may. Hàng của Trung Quốc có giá thấp hẳn so với giá các mặt hàng cùng
loại của Mỹ, và chất lượng tốt hơn hàng nhập vào Việt Nam. Có lẽ Trung Quốc là nước "thống
soái" về chiếm lĩnh thị trường hàng nhập khẩu ở Mỹ. Đi đâu, vào cửa hàng nào cũng thấy hàng
Trung Quốc, nào là quần áo, dày dép, túi xách, đồng hồ, nào là xoong nồi, dao thớt... Người
Trung Quốc đã tạo nên cả một khu phố buôn bán nổi tiếng ở Niu-Yoóc có tên là Chinathao mà
tại đó hầu hết là hàng quán, hàng hoá của Trung Quốc, do người Trung Quốc quản lý. Hàng
năm, Mỹ nhập khẩu khoảng 1,5 tỷ đôi giày dép các loại, trong số đó hàng Trung Quốc chiếm từ
60 đến 70%. Riêng hàng may mặc, Mỹ nhập khẩu khoảng 50% cho nhu cầu trong nước, thì
Trung Quốc chiếm 80% số hàng đó. Ông bố cậu Vinh, một Việt kiều sang đây từ năm 1983 mà
chúng tôi tới thăm nhà, cho chúng tôi biết nhờ có hàng hoá Trung Quốc mà hàng hoá nói chung
bên Mỹ giảm giá hẳn đi, rất có lợi cho người tiêu dùng. Nhiều hãng sản xuất của Mỹ như RCA,
APEX (sản xuất hàng điện tử) cũng thực hiện phương thức đầu tư sản xuất hàng hoá tại Trung
Quốc, nơi có chi phí sản xuất thấp, rồi nhập về bán tại thị trường trong nước với giá rất dễ chịu.
Có điều, người Mỹ khá rành mạch, hàng nước nào ghi nhãn nước ấy, không lập lờ đánh lận con
đen như một số nhà kinh doanh ở ta. Riêng hàng của Việt Nam thì chúng tôi thấy hầu như
chẳng có gì, ngoài việc nghe nói có cá tra, có tôm chua. Mà việc nhập hàng vào nước Mỹ không
dược tự do, nếu mặt hàng nào có sức cạnh tranh lớn, có khả năng gây khó khăn cho các doanh
nghiệp Mỹ, mặt hàng ấy lập tức bị các giới hữu trách Mỹ ngăn chặn. Tiêu biểu là loại cá tra, cá
ba sa của nước ta. Trong một bữa ăn, khi dùng đến món cá tra, Vinh nói rằng vừa rồi Hiệp định
Thương mại Việt Mỹ bị chậm thông qua cũng bởi các cuộc tranh luận trong Quốc hội Mỹ về việc
nhập cá của Việt Nam vào Mỹ. Do chất lượng tốt, giá thành hạ, cá tra, ba sa của Việt Nam có
khả năng cạnh tranh khá lớn đối với loại cá nheo mà người Mỹ nuôi thả. Sau đó, do những lợi
ích khác, Mỹ đã thông qua Hiệp định Thương mại với Việt Nam. Thế nhưng, vào ngày 4 tháng 10
năm 2001, Hạ viện Mỹ lại thông qua dự luật HR 2964 không cho phép bất cứ loài cá nào không
thuộc họ cá nheo Mỹ Ictaluridae (họ cá được nuôi phổ biến tại Mỹ) được mang tên thương mại
là cá "catfish". Tiếp theo đó, ngày 25 tháng 10 năm 2001, Thượng viện Mỹ lại thông qua dự luật
HR 2330 về phân bố ngân sách cho khu vực nông nghiệp năm 2.002, trong đó có điều khoản
sửa đổi số SA 2.000 với nội dung "Không cho phép Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm sử
dụng bất kỳ khoản ngân sách nào vào việc cho phép nhập khẩu cá hoặc sản phẩm cá có tên
"catfish", trừ các sản phẩm cá thuộc họ Ictaluridae". Hai việc làm nói trên hoàn toàn sai trái,
nhằm mục đích tạo thế độc quyền cho ngành sản xuất cá nheo của Mỹ, hoàn toàn đi ngược tinh
thần Hiệp định Thương mại Việt Mỹ. Nói một cách nôm na, thì Mỹ đã loại cá ba s a, cá tra của
Việt Nam ra ngoài vòng pháp luật. Đã vậy, giới chủ các trại cá Mỹ còn bỏ ra nhiều tiền và công
sức phối hợp với giới truyền thông mở các đợt công kích vào cá ba sa, cá tra Việt Nam, trong đó
có một luận điệu cực kỳ nguy hiểm là loại cá này sống trong môi trường bị nhiễm chất độc mầu
da cam của Mỹ thời kỳ chiến tranh! Mà thực tế, cá của Việt Nam được nuôi thả trong môi
trường hoàn toàn trong lành, đã được các tổ chức về vệ sinh thực phẩm quốc tế công nhận.
(Nhân đây, tôi muốn lưu ý rằng cách thức tuyên truyền của Mỹ bao giờ cũng sặc mùi thực dụng
và đậm mầu chính trị, mà cách tuyên truyền về môi trường Việt Nam là một ví dụ: khi cần chối
tội đã gieo rắc chất độc mầu da cam trên đất nước Việt Nam, thì họ chối phắt, nhưng khi cần cô
lập sản phẩm nông – ngư nghiệp của Việt Nam thì họ nói rằng chúng được sản sinh trên vùng
đất nhiễm chất độc mầu da cam). Bên cạnh lý do kinh tế, việc bài trừ cá da trơn Việt Nam còn
mang sắc thái kỳ thị. Người ta biết rằng, hàng năm thị trường Mỹ nhập khẩu khoảng 20 tỷ USD
hàng hải sản, chiếm 60 đến 70% thị phần trong nước, trong khi đó lượng cá da trơn Việt Nam
nhập vào Mỹ chỉ chiếm 2% sản lượng cá nheo tiêu thụ tại Mỹ, đó chỉ là cái vẩy trên mình con cá
lớn, không có khả năng đánh bại ngành nuôi cá Mỹ. Vậy thì lý do cạnh tranh kinh tế đơn thuần
không mang ý nghĩa quyết định trong việc bài trừ cá Việt Nam này.
Một ấn tượng mạnh mẽ đối với tôi, là các hình thức quảng cáo ở Niu-Yoóc. Các loại màn
hình điện tử, các tấm pa-nô bằng chất liệu nhẹ và đẹp được gắn khắp nơi, mà loại phổ biến là
màn hình tinh led cỡ lớn có chiếu hình ảnh động. Tại trung tâm Man-hát-tan, tôi đã thấy có
những dẫy phố dài hầu như bị phủ hết mặt tiền bằng các loại quảng cáo, có loại quảng cáo điện
tử với màn hình cỡ lớn, có khi chiếm toàn bộ bề mặt của cả một ngôi nhà cao tầng, lại có cả
những khoảng tường được mở tung ra để lộ một căn phòng nhỏ có bầy bàn ghế, tủ... cũng là
một cách quảng cáo trực quan bằng hàng thật rất gây ấn tượng.
Tác giả cùng đoàn cán bộ văn hóa Việt Nam tại trung tâm Niu Yooc
Nếu ai đó nghĩ rằng người Mỹ quảng cáo bừa bãi và lố lăng, thì người đó lầm to. Thực ra,
người Mỹ quảng cáo rất có văn hoá, tập trung vào việc giới thiệu mặt hàng chứ không phơi bầy
những hình ảnh nhố nhăng như một số nhà quảng cáo của chúng ta hay làm. Sau thảm hoạ 11
tháng 9, các nhà quảng cáo Mỹ đã thể hiện ý thức chính trị của mình khi thay đổi nội dung
quảng cáo. Họ hướng vào những hình ảnh quảng cáo không gợi nhớ những kỷ niệm đau thương
về toà tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC), thể hiện được tinh thần yêu nước,
nhưng gây ấn tượng mạnh mẽ, kích thích người tiêu dùng. Các nhà quảng cáo đã rút biểu tượng
WTC trên các sản phẩm và thay đổi chiến thuật quảng cáo cho phù hợp với tình hình mới. Hãng
Gien-ne-rô Mô-trơ (GM) thu hồi hình ảnh quảng cáo trong đó có cảnh một chiếc xe hơi hiệu
Cadillac của hãng né những vụ tấn công bằng tên lửa. Hãng FORD huỷ bỏ ảnh quảng cáo nhãn
hiệu xe hơi Linhcoln đang chạy trên đường phố Niu-Yoóc và toà tháp đôi WTC vẫn còn nguyên
vẹn. Hãng xà phòng Le-vơ Pha-be-gơ loại bỏ quảng cáo sản phẩm xà phòng mới Persil có ảnh
một đứa bé muốn trở thành phi công. Thay vào đó, các công ty đưa ra những chiến dịch quảng
cáo cổ động lòng yêu nước và hướng đến tương lai. Xu hướng chọn các hình thức quảng cáo
phản ánh cuộc chiến tranh hiện nay như tiêu diệt Bin Lađen, hoặc hình ảnh binh lính Mỹ trong
chiến tranh thế giới lần thứ hai ngồi trên chiếc xe zeep cũng được nhiều người làm theo. Các
nhà quảng cáo Mỹ cũng đã tính tới các hình thức quảng cáo thoát ly thực tế, không liên quan
đến chiến tranh, khủng bố nhưng lại gợi lòng tự hào về nước Mỹ và hàng hoá Mỹ. Mở truyền
hình vào lúc quảng cáo, tôi hay bắt gặp câu "Tôi là người Mỹ" với những hình ảnh mô tả sinh
động mặt hàng mà người ta muốn quảng cáo. Tôi đã rất thích cái máy hút bụi của Mỹ bởi vì trên
quảng cáo truyền hình, người ta đã giới thiệu về nó một cách tuyệt vời: nó hút tùn tụt cả một lô
xích xông con ốc sắt to đùng, lại nhỏ gọn, nhẹ nhàng. Một lần nữa tôi thấy rõ tính trọng mục
đích, thực tế của người Mỹ, họ quảng cáo là để giới thiệu hàng, để bán hàng chứ không để khoe
mẽ nhố nhăng. Cũng trên truyền hình, tôi chưa hề bắt gặp một cách quảng cáo phi văn hoá và
thiếu tự tôn dân tộc nào kiểu như sơn trên mông một đàn con nít hoặc hô mãi câu "Uống bia
kiểu Úc! Phong cách Úc!" như truyền hình của chúng ta đã làm. Ngay trong quảng cáo, người
Mỹ cũng tuân theo những nguyên tắc nhất định, trong đó có nguyên tắc tập trung thông tin vào
mặt hàng cần quảng cáo. Trong một buổi thuyết trình về chiến lược thông tin với chúng tôi,
giáo sư Mác-tin Su-lơ-man đã phê phán kịch liệt lối quảng cáo cứ phơi mặt các ông giám đốc ra,
chiếm phần lớn trang quảng cáo. Giáo sư mỉa mai: "Người ta cần xem mặt hàng mà người ta
mua, chứ có phải xem mặt giám đốc đâu, hay là giám đốc muốn bán cái mặt của mình?". Chẳng
hiểu vị giáo sư Mỹ kia có biết rằng quảng cáo ở Việt Nam có tình trạng đúng như giáo sư nói,
hay đây chỉ là cách nói dựa trên thực tế chung? Dù sao, chúng tôi cũng có cảm giác hơi xấu hổ
khi thấy lời mỉa mai của giáo sư phù hợp với cảnh trạng quảng cáo nước mình quá, trong đó có
tình trạng mặt các ông giám đốc hay được trưng ở vị trí quan trọng nhất của trang quảng cáo!
Qua quan sát và tiếp xúc với những cửa hàng và người bán hàng, tôi thấy người Mỹ có lối
móc túi khách hàng thật diệu nghệ. Bao giờ người ta cũng bầy đầy hàng hoá ở tủ kính phía mặt
đường. Với những hàng đã lạc hậu, họ ghi giá rất rẻ nhưng không ghi tính năng, tác dụng. Với
những hàng mới, họ ghi tính năng, tác dụng mà không ghi giá (ví như ghi giá một chiếc máy vi
tính xách tay Sony giá 700 USD nhưng không ghi cấu hình, bên cạnh đó là chiếc máy vi tính xách
tay Sony khác được ghi cấu hình cao mà không ghi giá). Đó là cách hút người mua vào cửa hàng
để rồi chào mời theo kiểu chèo kéo đầy sức thuyết phục khách hàng. Những người bán hàng
chủ động mang hàng ra, hướng dẫn, giới thiệu, vận hành thử và mời mua. Bạn hãy cảnh giác, vì
dù là cửa hàng có niêm yết giá, họ cũng nói thách một tấc đến trời. Thường giá họ phát ra cao
gấp đôi hoặc gấp ba, thậm chí gấp bốn lần giá họ bán. Cửa hàng nào cũng vậy, khi bạn xem
hàng rồi quay lưng ra, lập tức người bán hàng kéo bạn lại, hạ tụt giá xuống ít nhất là một phần
ba, để bạn có cảm giác là giá rẻ bất ngờ. Một chiếc máy quay video Sony cỡ băng 8 ly được yết
giá 890 USD, nhưng đã được hạ xuống còn 400 USD và bán với giá 280 USD! Tôi còn thấy ở Mỹ
một kiểu bán hàng không nơi nào trên thế giới có. Đó là cách giả bán hàng này để bán được
hàng nọ. Một người trong đoàn tôi hỏi mua chiếc máy quay video của Nhật Bản và được đồng ý
bán với giá 350 USD. Người bán hàng yêu cầu anh nộp tiền. Sau đó, người bán hàng bảo chờ để
gọi điện thoại nhắn mang máy đến. Nhưng rồi không thấy ai đem máy đến cả, mà chiếc máy
định mua lại chỉ là hàng mẫu, đã cũ, xước ống kính. Thế là kẹt tiền trong két của cửa hàng rồi!
Trong lúc đó, người bán hàng đem ra chiếc máy khác, vận hành thử và giới thiệu mọi tính năng
ưu việt của nó so với cái máy kia, yêu cầu nộp thêm 200 USD. Cò cưa mãi, cực chẳng đã, đành
móc túi trả thêm 150 USD. Sau này mới biết đã bị mua đắt 150 USD so với giá bình thường . Tuy
vậy, cách phục vụ khách hàng của người Mỹ lại rất chu đáo. Một anh bạn tôi mua chiếc đầu
DVD, về khách sạn thử thấy không chạy, hôm sau đem đến siêu thị khiếu nại. Lúc sắp đi, mọi
người bàn nhau là cứ đi hú hoạ, chắc gì cửa hàng đổi cho, mà sẽ chỉ đến chỗ bảo hành nào đó
giống như bên ta mất thôi. Nhưng chúng tôi đã lầm. Sau khi nghe chúng tôi trình bầy, người bán
hàng dễ dãi buông ra mỗi hai từ "Thì đổi" và bảo chúng tôi mở hộp máy ra. Anh ta xem qua rồi
bê cả hộp máy quẳng đến "bịch" xuống đất khiến chúng tôi giật mình, và bảo chúng tôi chọn lấy
chiếc máy khác. Tôi hiểu rằng người Mỹ sẵn sàng cho bạn thứ họ không mất, đó là thái độ phục
vụ, để bạn mua hàng của họ nhiều nhất, với giá cao nhất. Người Mỹ cũng thật tài tình khi biến
mọi thứ thành hàng hoá. Ngay tại trước toà Nhà Trắng, tôi đã thấy hình của nguyên tổng thống
Bin Clin-tơn và tổng thống Busơ giống như thật bày trên đường, bên cạnh là hàng chữ: "Chụp
ảnh với Tổng thống, máy của bạn: 4 USD, máy của chúng tôi: 6 USD". Đừng tưởng bạn có thể
láu cá đứng từ ngoài chụp vào, bởi vì người Mỹ đã tính toán hết cả rồi, họ đeo trên đầu hai
"tổng thống" của mình hai cái biển nhỏ, che khuất một phần mặt, khiến cho bạn không thể
chụp "gỡ" được đâu.
Hình Tổng thống Mỹ để cho khách chụp ảnh chung
Người Mỹ còn biết tận dụng tâm lý muốn giải trí nhẹ nhàng của con người để đặt ra các
trò chơi mất tiền. Các máy chơi trò chơi điện tử tự động được đặt khắp nơi. Nhưng có một loại
trò chơi độc đáo mà tôi cũng chưa thấy nơi nào trên thế giới có, đó là trò chơi ép tiền xu thành
huy hiệu. Thiết bị của trò chơi này khá đơn giản, chỉ là một máy ép có ba khe bỏ tiền vào. Phải
thả vào đó 2 đồng xu loại 20 cen và 1 đồng xu loại 5 xen. Bạn có thể lựa chọn 3 loại huy hiệu mà
bạn thích, trong đó loại được ưa thích nhất là huy hiệu hình Nữ thần Tự do. Sau khi thả tiền xu
và lựa chọn hình, bạn chỉ cần quay nhẹ cần điều khiển, đồng xu 5 xen sẽ được ép thành hình
chiếc huy hiệu bầu dục với hình nổi bán thân của Nữ thần Tự do! Một cách phá tiền công khai,
đem lại lãi lớn (người có máy thu được 40 xen một lần chơi) mà lại có sức thu hút lớn. Có lẽ đó
cũng là một trò chơi nhỏ thôi nhưng mang tính "Mỹ" rất rõ rệt – ở những nước khác, chắc khó
có ai được phép kinh doanh loại trò chơi phá tiền như vậy. Một điều đáng lưu ý khi mua hàng ở
Mỹ cũng như ở các nước phát triển, là người mua luôn luôn nhớ rằng giá bán hàng được thoả
thuận không bằng giá tiền bạn phải trả, bởi vì bao giờ cũng phải cộng thêm tiền thuế, có mặt
hàng là 4%, có mặt hàng là 8%, thậm chí trên 10% tuỳ theo quy định của Chính phủ. Người Mỹ
rất nghiêm túc trong việc nộp thuế. Không bao giờ họ chấp nhận bán hàng không hoá đơn để
trốn thuế. Họ giải thích: "Đây là thuế nộp cho Chính phủ, cho ông Busơ, không phải cho chúng
tôi, xin các ông hãy vui lòng nộp giúp!".
Bên cạnh những nhà kinh doanh giầu sang, có cửa hàng đàng hoàng như tôi vừa kể, tại
Mỹ có rất nhiều người nghèo không có cửa hàng phải bán hàng rong. Nếu khá, họ có những xe
đẩy. Còn nghèo quá, họ chỉ có các bao, túi đựng hàng. Phần lớn họ là những người da mầu. Một
buổi xẩm tối, trên đường phố Niu-Yoóc chúng tôi gặp một tốp bán hàng rong bán các túi xách,
mũ. Chúng tôi đang nói đùa: "Hoá ra ở Mỹ không có Nghị định 36" thì nghe tiếng còi cảnh sát.
Nhìn quanh, tôi thấy một nhóm bán hàng rong chạy tán loạn. Một thanh niên da đen xương xẩu
kéo một bọc hàng to đùng gồm quần áo, túi xách chạy hào hển vào một ngõ, bị chặn, chạy bật
trở ra, rơi vãi cả mấy cái túi xách xuống đất, quanh qua quanh lại một lúc rồi ngã dúi xuống hè
đường. Lập tức một cảnh sát mặc sắc phục đen xì to cao như hộ pháp xông đến xốc đứng dậy,
bẻ giật cánh khuỷu, còng tay lại và đẩy ngã dúi vào chân tường. Viên cảnh sát rút máy bộ đàm
gọi gì đó, còn anh da đen thì nằm còng queo trên hè đường, mặt mày nhăn nhúm như quả táo
Tầu khô, trông đến thảm hại. Tôi chợt nói thầm trong bụng: "Các bà hàng rong Việt Nam ơi, nếu
có bị dẹp bán hàng thì đừng trách mấy anh cảnh sát nhé, các anh ấy hiền lắm, chỉ tạm thu hàng
là cùng, chứ chẳng bao giờ còng tay các bà như kiểu người Mỹ đâu!". Nhân chuyện này, tôi chợt
nhớ rằng, chính quyền Mỹ luôn luôn hô hào tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng thực ra, họ chỉ
áp đặt thứ tự do, dân chủ, nhân quyền vô nguyên tắc cho các dân tộc khác, chứ trong nước họ,
họ giữ kỷ cương đâu ra đấy, lôi thôi là bị còng tay liền. Họ chỉ cho phép tự do, dân chủ, nhân
quyền khi không ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia mà thôi, còn khi có biểu hiện thiếu an ninh, họ
sẵn sàng "súp" hết - chẳng thế mà nhân danh chống khủng bố, họ đã cho phép cơ quan an ninh
nghe trộm điện thoại, kiểm soát thư điện tử, thậm chí bắt người ngước ngoài trong vòng 7 ngày
mà không cần bằng chứng phạm tội... đó sao? Trên thực tế, chính quyền Busơ đã ra lệnh bắt
hàng trăm người trong một thời gian dài mà không hề cho biết người bắt giữ họ là ai, vì sao họ
bị bắt giữ, họ ở đâu và họ bị buộc tội gì. Khi bà Kate Martin, một luật sư phụ trách vấn đề quyền
công dân, hỏi về lệnh bắt những người này, thì Bộ Tư pháp Hoa Kỳ trả lời rằng trong lệnh bắt có
tên một số người nước ngoài cần phải giữ bí mật nên không thể cung cấp cho bà bản sao được.
Trở lại chuyện kiếm tiền của người Mỹ, tôi có nhận xét rằng họ có biệt tài trong việc tận
dụng các cơ hội để tạo ra lợi nhuận. Ngay cả sự kiện khủng khiếp nhất đối với nước Mỹ là thảm
hoạ 11 tháng 9 cũng trở thành cơ hội kiếm tiền của cả một hệ thống xã hội Mỹ.
Đến Niu-Yoóc, với niềm thương cảm sâu sắc, chúng tôi muốn lại thật gần khu vực đổ nát
của hai toà tháp Trung tâm Thương mại để tỏ lòng thương xót những người đã khuất. Nhưng
chúng tôi không thể nào tiếp cận được khu vực đó. Quân đội, cảnh sát đã dùng các hàng rào
sắt, thậm chí những ống bê tông, để ngăn đường. Mọi người chỉ có thể đứng bám vào các hàng
rào dựng tạm đó để nhìn vào khu Trung tâm Thương mại Thế giới.
Bị hàng rào chắn, du khách đứng nhìn vào tòa tháp đôi đổ nát
Tôi đã chứng kiến rất nhiều người thuộc nhiều quốc tịch đứng dọc mấy con đường bao
quanh khu Thương mại thế giới, có người quay phim, có người chụp ảnh, và nhiều người chỉ
nhìn ngó. Khu vực này khói vẫn bốc lên nghi ngút. Chúng tôi nhìn thấy một khối nhà sập trơ ra
những thanh thép đen sì, cong queo.
Hai tòa tháp đổ nát còn nghi ngút khói
Nhưng, trong khu vực này không chỉ có những người đến để tưởng niệm, để quan sát,
mà có cả không ít người đến ''làm ăn''.
Trên phố 14, con phố gần nhất với nơi mà những người có trách nhiệm đang mải miết
thu dọn, là những người bán bưu ảnh về hai toà tháp đã sập. Các bưu ảnh được phân làm hai
loại: Trước, là những ảnh khi vẫn còn hai toà nhà. Còn sau, là những bức có cảnh máy bay đang
lao vào hai toà tháp. Trước kia, chỉ với 1 USD người ta sẽ mua được 10 tấm ảnh chụp hai toà
tháp. Giờ thì phải mua 1 USD một tấm. Giá những bức "sau" thảm hoạ đắt hơn nhiều. Chẳng
hạn một bức ảnh có cảnh chiếc Bô-ing của United Airlines đâm vào toà tháp thứ hai được bán
với giá 3 USD mà vẫn có rất nhiều người mua. Quanh khu vực này cũng như ở nhiều quầy hàng
rong hoặc cửa hàng khác bầy bán đầy những chiếc áo phông có in những hình ảnh liên quan
đến thảm hoạ 11 tháng 9, mà nhiều nhất là cảnh hai toà tháp quấn cờ, rồi những khẩu hiệu như
"Hãy đoàn kết nhau lại", "Chúng ta tự hào là người Mỹ", "Tôi đã sống những giây phút kinh
hoàng", "Hãy trả đũa thích đáng", thậm chí còn in cả hình Bin Lađen . Một lá cờ Mỹ không có
cán bình thường được bán với giá 2 USD, đến những khu phố ở Man-hát-tan nó tăng lên 7 USD.
Hình Bin La Đen trở thành món hàng kinh doanh
Tôi dừng lại để nói chuyện cờ Mỹ một chút. Lúc mới sang Niu-Yoóc, tôi có nhận xét rằng
người Mỹ rất thích treo cờ. Họ treo cờ trên các cột cờ ở công sở, trên các nóc nhà, trên xe ô tô,
xe bán hàng rong, thậm chí trên thùng rác, và chiếu cả hình cờ trên những màn hình quảng cáo
nữa. Tìm hiểu kỹ, tôi mới biết rằng ý thích treo cờ ấy mới bùng phát vào sau thời điểm 11 tháng
9. Hình như sau thảm hoạ, ý thức về Tổ quốc bỗng trào lên mãnh liệt trong lòng người Mỹ và
người ta biểu lộ ý thức ấy bằng cách treo thật nhiều cờ Mỹ. Chỉ riêng siêu thị Wal Mart trong
ngày 11 tháng 9 đã bán 116.000 lá cờ Mỹ để người dân tưởng niệm những nạn nhân 11/9. Và
thế là những nhà kinh doanh cờ "vào mánh". Số lượng cờ được tiêu thụ tăng vọt và giá cờ cũng
tăng theo - lên gấp 3 gấp 4 lần bình thường. May cờ trong nước không đủ, không kịp, người Mỹ
với tay sang tận Trung Quốc để đặt may gia công. Thế là các công ty chuyên may cờ ở Trung
Quốc đã "trúng một quả đậm" khi nhận được hàng loạt đơn đặt hàng khổng lồ từ Mỹ. Mấy ngày
sau thảm hoạ 11 tháng 9, công nhân của các công ty may cờ lớn ở Trung Quốc như Mei -Hi-Hua
(Thượng Hải), Jin-Teng (Triết Giang) ráo riết làm việc suốt ngày đêm để kịp giao hàng. Ông U
Guô-min cho biết trong vòng một tuần lễ kể từ ngày xảy ra thảm hoạ tại Niu-Yoóc và Oa-sinh-
tơn D.C, công ty của ông đã nhận được đơn đặt hàng may hơn 500.000 lá cờ từ các khách hàng
Mỹ. Cũng như vậy, công ty Jin-Teng nhận được đơn đặt hàng may 600.000 lá cờ Mỹ. Những lá
cờ Mỹ có kích thước trung bình được các công ty này bán cho các nhà phân phối Mỹ với giá 1
USD một lá, để rồi về đến nước Mỹ, nó được bán ba, bốn, thậm chí sáu, bẩy USD. Những cây
thông bằng nhựa quấn quanh dải băng có duy nhất từ "Tự hào" cũng bán rất chạy với giá 2 USD
một cây. Những cửa hàng bán mặt nạ chống khí độc luôn thiếu hàng. Những người bán hàng
rong khoe: "Tuy mệt nhưng chúng tôi đã thu được món lợi không tồi".
Tại thành phố đau thương này, chúng tôi còn được nghe kể về những hành động kiếm
chác vô lương tâm nữa. Kẻ thì hôi của. Kẻ lại lừa đảo. Chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau khi toà
nhà thứ hai của Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ, những kẻ hôi của đã tràn vào khu vực
bị nạn. Họ vượt qua hàng rào cảnh sát với những lý do rất khác nhau. Kẻ này làm như hết sức
đau đớn chạy đến tìm người thân. Kẻ kia huơ cao chiếc máy quay video đòi làm phóng sự
truyền hình. Lại có kẻ nói rằng muốn tìm tài liệu cho tờ báo địa phương, nhưng vội quá nên đã
để quên thẻ nhà báo trong ô tô. Một trong những kẻ hôi của đó kể rằng y đã kiếm được một
chiếc nhẫn kim cương, bốn đôi giày và một mớ tài liệu trong một chiếc cặp da rách nát. Suốt
một tuần liền, cảnh sát không biết đến tình trạng hôi của. Khi báo chí công bố rằng dưới đống
đổ nát còn cả một kho vàng bạc trị giá trên 231 triệu USD, thì số lượng những kẻ hôi của tăng
lên khủng khiếp, cản trở nghiêm trọng công việc cứu hộ. Lúc này, thị trưởng Niu-Yoóc mới giật
mình, vội vã lên tiếng cảnh báo những kẻ làm ăn phi pháp này có thể bị bắt và phải ra trước
vành móng ngựa. Từ đó, số người hôi của mới giảm đi. Vậy mà vẫn có những kẻ tham lam nhẫn
tâm tiếp tục trò hôi của. Có một phụ nữ 48 tuổi đã bị bắt khi bà ta chạy đến đội cứu nạn, khóc
lóc thảm thiết nói rằng chồng bà vừa gọi điện thoại di động báo đang nằm trong một đống gạch
vụn, và khi đội cứu nạn tập trung vào nơi bà ta chỉ, bà ta liền quay ra tìm kiếm đồ đạc của
những người bị nạn.
Mấy ngày sau thảm hoạ 11 tháng 9, tại Niu-Yoóc xuất hiện hàng loạt những "công ty tìm
kiếm người mất tích" sẵn sàng truy tìm tung tích những nạn nhân cho thân nhân của họ. Không
ít người cả tin hoặc do quá đau đớn đã giao tiền cho những công ty "ma" ấy, để rồi từ đó không
bao giờ còn nhìn thấy chúng nữa. Tiếp theo, xuất hiện những "tổ chức từ thiện" đi khắp đất
nước quyên tiền ủng hộ những người bị nạn. Hàng trăm website từ thiện được mở ra. Không ít
người thả tiền vào cái thùng không đáy của bọn lừa đảo mà không biết.
Thế nhưng, trên đây chỉ là những người kiếm ăn vặt. Kiếm chác nhiều nhất qua thảm hoạ
11 tháng 9 lại chính là những tổ hợp sản xuất lớn của chính nước Mỹ. Theo lời bình luận của
một chuyên gia quân sự, đó chính là các tổ hợp công nghiệp sản xuất vũ khí. Điều này được thể
hiện rõ qua việc doanh số và chỉ giá cổ phiếu của những tổ hợp sản xuất vũ khí của Mỹ tăng
mạnh sau thảm hoạ 11 tháng 9. Ví dụ như Công ty Ray-thê-on Sít-xơ-tâm (nhà cung cấp lớn các
loại vũ khí, khí tài kỹ thuật cao cho quân đội Mỹ, trong đó có tên lửa Tô-ma-hốc và Stin-gơ nổi
tiếng): trước thảm hoạ 11 tháng 9, trong 3 quý đầu năm 2001, doanh số giảm liên tục, quý 3
này (trước khi xảy ra thảm hoạ 11/9) doanh số đạt 4 tỷ USD, giảm 200 triệu USD so với cùng kỳ
năm trước, nay giá cổ phiếu tăng vọt, lợi nhuận cũng tăng, có thể đạt trên 1 tỷ USD trong năm
tài chính sắp tới. Cổ phiếu của những tập đoàn sản xuất vũ khí truyền thống (như phản lực
chiến đấu và tầu chiến), vũ khí điện tử, các ngành bảo mật thông tin... tăng chóng mặt. Cổ phiếu
của L-3 chuyên cung cấp mạng lưới bảo vệ các phương tiện thông tin liên lạc và các sản phẩm
chuyên biệt cho ngành công nghiệp quân sự và vũ trụ không gian tăng 38%. Cổ phiếu của Hệ
thống hỗ trợ kỹ thuật tăng 34%, Tập đoàn tư vấn máy tính CACI Inc tăng hơn 20%, Raytheon,
nhà sản xuất hệ thống chiến đấu và tên lửa Patriot tăng 25%. Hai ngành công nghiệp quốc
phòng khổng lồ của Mỹ Lóc-hít Mác-tin Cóp-pơ và Nót-róp Grăm-mun Cop-pơ sản xuất bom B-2
tăng 12%. Hiện giá cổ phiếu của công ty Nót-róp Grăm-mun (sản xuất máy bay ném bom chiến
lược tàng hình B-2) đã tăng tới mức cao nhất trong vòng 3 năm qua, đạt 107,60 USD, tăng 10
xen. Giá cổ phiếu của công ty Ge-nơ-rô Đai-nơ-míc đạt mức kỷ lục là 94,99 USD, tăng 2,39 USD.
Công ty này cung cấp cho quân đội Mỹ từ viên đạn súng tiểu liên, tới những quả bom "thông
minh" hoặc tàu sân bay của hải quân. Giá cổ phiếu của công ty Ray-thê-on (sản xuất tên lửa Tô-
ma-hốc) đạt 36,30 USD, tăng 1,33 USD. Ông Jêm Saothơlan, chuyên viên về các hợp đồng quốc
phòng, cho biết chi phí quân sự của đợt ra quân này có nhiều điểm giống với cuộc ra quân dưới
thời cựu tổng thống Ri gân trong thập kỷ 80. Theo ông Pau H. Ni-bơ, phân tích gia thuộc hãng
JSA Re-sớt chuyên nghiên cứu tinh hình cho các công ty đầu tư Mỹ, đự đoán, chi phí cho quốc
phòng trong năm tài chính 2001 sẽ tăng từ 50 đến 350 tỷ USD và sẽ là 400 tỷ USD trong năm
2002. Mỗi tên lửa Tô-ma-hốc giá từ 600.000 đến 2.200.000 USD và mỗi tên lửa bắn vào áp-ga-
ni-xtan giá trung bình 1,2 triệu USD; từ khi Mỹ tấn công áp-ga-ni-xtan đến ngày 7 tháng 10, gần
100 tên lửa Tô-ma-hốc được phóng đi từ các tầu chiến. Người ta ước tính mỗi tháng Mỹ chi 1,2
tỷ USD cho chiến dịch quân sự ở Áp-ga-ni-xtan, và dự đoán cứ với cường độ như vậy thì cả
chiến dịch có thể lên tới 15 đến 20 tỷ USD, trong đó 70% chi phí chui vào tài khoản các nhà sản
xuất vũ khí. Các công ty công nghiệp quân sự đã vớ được hàng loạt hợp đồng béo bở cung cấp
vũ khí, khí tài quân sự cho quân đội Mỹ. Nổi bật là hợp đồng trị giá 200 tỷ USD mà Lầu Năm góc
ký với tổ hợp hàng không Lóc-hít Mác-tin nhằm chế tạo máy bay tàng hình siêu thanh thế hệ
mới X25. Cuối tháng 10 vừa qua, một lô thiết bị ca-mê-ra tìm nhiệt có giá trị gần 100 triệu USD
đã được bàn giao cho quân đội Mỹ để gắn vào các máy bay do thám hòng phát hiện quân Ta -li-
ban trong mùa đông lạnh giá. Quân Mỹ còn sử dụng nhiều bom khoan, bom xuyên có giá từ
200.000 đến 1 triệu USD một quả. Điều đó có nghĩa là những tay lái súng cỡ thế giới này sẽ
kiếm được những món lợi khổng lồ trên thảm hoạ của loài người!
Người ta vẫn hay nói rằng hạnh phúc trong đời là cái chăn hẹp, đắp kín đầu thì hở chân,
và ngược lại. Nền kinh tế thế giới ngày nay cũng vậy, khi người này thu lợi lớn thì tất người kia
phải chịu thiệt thòi. Sau thảm hoạ 11 tháng 9, trong khi các giới kinh doanh, đặc biệt là kinh
doanh vũ khí, vớ bở, thì thảm hoạ lại giáng xuống đầu một số công ty và vô khối người lao động
trên đất Mỹ. Sau thảm hoạ 11 tháng 9 tới cuối tháng 10, các hãng hàng không Mỹ bị giảm 650 tỷ
USD doanh thu. Cố gắng hoạt động trở lại, các hãng hàng không cũng chỉ đạt một nửa công
suất. Tâm lý hoảng loạn lan rộng khiến lượng hành khách đi bằng máy bay ở nước Mỹ giảm
70%. Các hãng hàng không A-me-ri-cân, Vôn-ti-nen-tô, Den-ta... cắt giảm 20% số chuyến bay.
Các công ty tài chính như bảo hiểm đang có nguy cơ mắc nợ vì phải trang trải các chi phí khôi
phục WTC. Thiệt hại về vật chất và tiền bồi thường của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm
phải chi trả sau sự kiện 11 tháng 9 có thể lên tới 22 tỷ USD. Cổ phiếu của ngành hàng không và
du lịch giảm mạnh nhất, từ 40 đến 50%. Cổ phiếu của hãng phim giải trí Oan Đít-sơ-nây, sở hữu
hãng tin ABC, sụt giảm mạnh, mỗi cổ phiếu giảm từ 4,33 USD đến 19,5 USD. Sau 11 tháng 9,
hãng U.A và A.A đã giảm 20.000 nhân công, hãng B.A giảm 5.200 nhân công, hãng U. Atlantic
giảm 12.000 nhân công. Hãng sản xuất máy bay khổng lồ Boing cho biết sẽ cắt giảm gần 30.000
nhân công trong vòng 12 tháng tới. Vào cuối tháng 9, giới chủ các hãng hàng không Mỹ đã một
lần nữa khẳng định rằng sẽ có 100.000 nhân viên ngành hàng không nước này bị sa thải do ảnh
hưởng của vụ khủng bố ngày 11 tháng 9. Theo các nhà phân tích công nghiệp Mỹ, có ít nhất 6
ngành khác có liên quan đến ngành hàng không bị ảnh hưởng do vụ khủng bố và đã bắt đầu
chiến dịch sa thải hàng loạt, bất chấp quyền lợi của người lao động. Khoảng 600.000 nhân viên
có nguy cơ bị sa thải hàng loạt trong vài tháng tới. Nhưng không như trước đây, các "chiến
dịch" sa thải hàng loạt nhân viên lần này của giới chủ các ngành công nghiệp Mỹ không vấp phải
trở ngại nào, bởi vì đã có lý do "chính đáng" là ảnh hưởng của thảm hoạ 11 tháng 9. Ngay cả phi
công, tiếp viên hàng không cũng không có quyền khiếu kiện nếu như các hãng hàng không
chứng minh được vụ tấn công ngày 11-9 là hành động chiến tranh. Điều này có nghĩa là không
có tổ chức nào đứng ra bảo vệ giới lao động... Trong khi đó, các tổ chức công đoàn tại nhiều
hãng hàng không khác cho biết sẽ không chống đối kế hoạch sa thải đặc biệt hiện nay. Thế là,
mượn gió bẻ măng, lợi dụng tình trạng sa sút của một số ngành sản xuất, kinh doanh do ảnh
hưởng thực sự của thảm hoạ 11 tháng 9, nhiều công ty, tập đoàn Mỹ đã sa thải hàng loạt công
nhân, điều mà trước đó họ đã muốn làm nhưng chưa kiếm được cớ để thực hiện. Cuối cùng,
mọi thiệt thòi đều đổ dồn vào đầu những người lao động nghèo khổ của một đất nước giầu
mạnh là Mỹ.
5. Người Mỹ: Siêu đẳng về thông tin
Trong phần viết trên đây, tôi đã nhắc đến nhiều hoạt động của các cơ quan văn hoá, giáo
dục Mỹ mà ở đó, thông tin đựơc coi trọng và được thực hiện một cách tài tình, đầy hiệu quả.
Trong phần này, tôi mô tả một số biện pháp cụ thể mà các cơ quan ở Mỹ thực hiện trong chiến
lược thông tin của mình, qua đó phác hoạ bức tranh khái quát về hình ảnh bộ máy tuyên truyền
ở Mỹ.
Hơn bất cứ nước nào trên thế giới, Mỹ là một cường quốc về thông tin, và người Mỹ đã
tận dụng triệt để sức mạnh về thông tin của mình để tiến hành các chiến dịch truyền thông
phục vụ đất nước mình, và để tiến hành chiến tranh tâm lý chống lại những lực lượng đối địch.
Đối với những người Mỹ này, thông tin là công cụ bán hàng, và diễn đàn thông tin là một thị
trường sôi động. Đối với những người Mỹ khác, thông tin là công cụ để phát triển sự nghiệp, và
diễn đàn thông tin là một sân chơi cho mọi đối tượng muốn tham gia phát triển sự nghiệp ấy.
Đối với giới cầm quyền hiếu chiến, thì thông tin chính là một thứ vũ khí sắc bén, và diễn đàn
thông tin là một mặt trận quyết liệt.
Trong phần trên, tôi đã nói nhiều về quảng cáo. Trong phần này, tôi lại nói đến một
chuyện cũng về quảng cáo, nhưng mang tính thông tin xã hội nhiều hơn. Đó là việc có một hình
thức quảng cáo mà tôi cứ tưởng rằng ở một nước hiện đại như Mỹ, thì không thể tồn tại, vậy
mà vẫn cứ có mặt trong cuộc sống nước Mỹ. Đó là quảng cáo vặt, bằng cách dán các tờ rơi trên
tường, trên cột điện... Tôi đã đi dạo trên nhiều phố phường của Niu-Yoóc, Oa-sinh-tơn, và đã
bắt gặp những tờ rơi ở khắp các ngả đường, góc phố, trên những cột đèn hiệu giao thông và cột
điện. Trên những mảnh giấy được sao chụp hàng loạt là những thông tin về các lớp dạy học, về
cho thuê hoặc tìm thuê nhà cửa, về tìm chó mèo lạc, về bán lẻ hàng hoá, nhưng gây ấn tượng
nhất là thông tin về nạn nhân của thảm hoạ 11 tháng 9. Tôi được những người sở tại cho biết
rằng, chưa bao giờ những tờ rơi lại tràn ngập Niu-Yoóc, nhất là khu vực hạ Man-hát-tan, như
những ngày qua, đã biến nơi này thành một thành phố của những tờ rơi. Hàng ngàn người đã
sao chụp hình ảnh và thông tin của những người thân bị mất tích dán khắp mọi nơi có thể trên
những khu phố dài xung quanh vùng trống trước đây là những toà nhà cao tầng... Những thông
tin trên tờ rơi thường ngắn gọn nhưng cụ thể về một vài đặc điểm nhân dạng, như vết chàm
trên mặt, vết sẹo trên tay, chiều cao, thể trạng, nơi làm việc, cộng thêm hình ảnh mới nhất của
người mất tích. Điều này cho thấy, người Mỹ hết sức coi trọng tính mục đích, để đạt mục đích,
họ có thể sử dụng bất cứ phương tiện nào, phương pháp nào. Để đẩy thông tin ra xã hội, người
Mỹ đã sử dụng cả những phương thức thô sơ cổ lỗ nhất như vừa nói, đến những phương thức
tân tiến nhất, và phương thức nào cũng đem lại những hiệu quả thiết thực. Trong khi đó, ở
nước ta, nhiều khi chưa đạt đến được những phương thức hiện đại, người ta đã muốn loại bỏ
những phương thức thông thường, ví dụ như đã có dạo có người nêu vấn đề loại bỏ phim đèn
chiếu hoặc xem xét lại sự tồn tại của các đội thông tin lưu động, vì cho rằng chúng không còn
chỗ đứng trong thời đại của ti vi, video... nữa. Đã từng tiếp xúc với nhiều đơn vị nghệ thuật của
nước ta, tôi có cảm nhận rằng các nhà quản lý nghệ thuật của ta chưa hiểu biết lắm về vai trò
của thông tin, và kỹ năng làm thông tin của họ hầu như ở con số không. Trong khi đó, thông tin
đối với các đơn vị nghệ thuật ở Mỹ là một bộ phận máu thịt trong cơ cấu tổ chức cũng như
trong hoạt động của họ. Họ thực hiện tới mức hoàn hảo cả hai loại thông tin - thông tin về kỹ
thuật để thực hiện các chuyến công diễn, và thông tin tuyên truyền để quảng bá cho mình.
Tại trường đại học Binh-ham-tơn, tôi đã được dự một buổi thảo luận bàn tròn về thông
tin và tiếp thị rất thú vị. Giáo sư Mác-tin Su-lơ-man mở đầu:
- Các đoàn nghệ thuật muốn đến biểu diễn ở Trung tâm nghệ thuật An-đe-sơn đều phải
cung cấp thông tin cho ông Stivơ Mắclin, giám đốc Kỹ thuật của Trung tâm này. Họ cần thông tin
của các đoàn nghệ thuật đó để chuẩn bị cho công tác biểu diễn và để tuyên truyền trên báo chí.
Tuyên truyền trên báo chí là rất hữu hiệu. Phải cung cấp thông tin để họ hiểu ta là ai, như thế
nào. Ví dụ như đoàn rối Thăng Long của Việt Nam sang Mỹ. Người Mỹ chưa biết gì về đoàn này.
Nhưng qua báo chí, khán giả Mỹ đã có hiểu biết sơ bộ về nội dung vở diễn của đoàn, đó là
những trò rối nói về các cảnh sinh hoạt ở thôn quê, tính phức tạp và độc đáo của nó trong việc
điều khiển các con rối, tác giả là dân gian, Nhà hát thuộc thành phố Hà Nội, có rạp biểu diễn
riêng tại thủ đô Hà Nội, dư luận về những buổi diễn trước đó từ nhiều nước trên thế giới như
Pháp, Italia... đều khen ngợi hết lời. Những thông tin ấy đi kèm với ảnh những chú rối ngộ
nghĩnh đã thu hút khán giả đến rạp. Các bạn cần nhớ rằng thông tin không phải chỉ để cho
người ta biết, mà còn cần giúp người ta hiểu về nghệ thuật mà các bạn sẽ đem tới cống hiến
cho họ. Một đặc tính quan trọng của người Mỹ mà các bạn cần nhớ là họ rất muốn biết thông
tin qua báo chí. Do vậy, phải cung cấp càng nhiều thông tin cho báo chí càng tốt. Cùng với bài
viết, ảnh, các bạn còn cần phải giới thiệu bằng băng, đĩa hình, cả CD-ROM và cả In-tơ-nét nữa.
Một điều mà tôi muốn các bạn đừng quên, tiếp thị không phải là cho đơn vị nghệ thuật hay cho
giám đốc, mà là cho bản thân thứ nghệ thuật bạn muốn đem đến công chúng, tạo ra niềm hứng
khởi cho khán giả. Những bức ảnh dùng cho thông tin cần trong tình trạng động, nghĩa là các
diễn viên phải đang trong hành động nghệ thuật biểu diễn, chứ không phải đang yên lặng trong
những bức chân dung.
Giáo sư Su-lơ-man giới thiệu với chúng tôi diễn giả chính hôm nay như sau:
- Ông Sơ-ti-vơ D. Mắc-lin là Giám đốc Kỹ thuật của Trung tâm Nghệ thuật An-đe-sơn ở
trường đại học Binh-ham-tơn, trường đại học quốc lập bang Niu-Yoóc. Chức vụ hiện thời của
ông Stive là Giám đốc Kỹ thuật, chịu trách nhiệm quyết định và điều phối các yêu cầu kỹ thuật
của 3 nhà hát nằm trong khu Trung tâm An-đe-sơn. Sự điều phối này bao gồm cả công tác tư
vấn cho các nghệ sĩ và đại diện của các nghệ sĩ để đảm bảo hỗ trợ đúng về mặt kỹ thuật và phải
am hiểu về các yêu cầu trong biểu diễn. Điều này bao gồm việc phải quyết định về âm thanh,
ánh sáng, sân khấu, lắp ráp và đảm bảo an toàn cho mỗi buổi diễn. Ông Stive là thành viên của
Hiệp hội Bình quyền cho Diễn viên (AEA), Hội Kỹ sư âm thanh (AES) và Viện Công nghệ Sân khấu
Hoa Kỳ (USITT).
Không rào đón, tiếp lời giáo sư Mác-tin Su-lơ-man, ông Sơ-ti-vơ D. Mắc-lin đi thẳng vào
nội dung:
- Với tư cách là những người đón đoàn đến biểu diễn, chúng tôi cần được cấp đầy đủ
thông tin. Chúng tôi chính là đối tác của các buổi biểu diễn đó. Chúng tôi cần biết những yêu
cầu của đoàn về các phương tiện phục vụ biểu diễn, như âm thanh, ánh sáng, phông màn, sân
khấu, đạo cụ... Trước khi đoàn Thăng Long của các bạn đến đây, chúng tôi đã đón một đoàn
kịch của Hy Lạp diễn trên sân khấu nước. Chúng tôi đã phải trao đổi rất kỹ về lượng nước tối đa,
tối thiểu cho sân khấu, trọng lượng sân khấu. Nhờ bàn bạc cặn kẽ, từ dự kiến mức nước của sân
khấu phải cao 20 cm, chúng tôi đã thoả thuận rút xuống còn 5 cm mà vẫn đảm bảo cho yêu cầu
của nghệ thuật. Cũng từ việc rút đi 15 cm chiều cao mực nước ấy, trọng lượng sân khấu đã
giảm đi, đồng thời rất nhiều chỉ tiêu khác phục vụ biểu diễn đã được điều chỉnh theo, giúp đoàn
nghệ thuật ấy giảm nhiều chi phí. Nhờ kinh nghiệm về sân khấu nước ấy mà khi đoàn Thăng
Long chuẩn bị sang biểu diễn, chúng tôi đã hướng dẫn và nhanh chóng thu thập đầy đủ thông
tin giúp cho việc tổ chức biểu diễn được thực hiện không tồi.
Giở ra một bản sơ đồ có những đường nét và hình khối được tô đậm, ông Sơ-ti-vơ D.
Mắc-lin giải thích:
- Đây là sơ đồ về bố trí ánh sáng phục vụ sân khấu. Các bạn đừng quên cung cấp cho
chúng tôi thông tin đầy đủ đối với các yêu cầu cụ thể về ánh sáng, phông màn, kích thước sân
khấu, ví dụ như về ánh sáng: cần bao nhiêu đèn, công suất ra sao, bố trí ở những vị trí nào...
Ngược lại, nơi tổ chức biểu diễn cũng phải cung cấp thông tin về sân khấu, phương tiện kỹ
thuật... của mình cho đơn vị nghệ thuật.
Ông Gie-rô Li-tô-ne, một người Anh, cũng làm cho Quỹ FORD, đóng góp:
- Nếu các bạn định gửi ảnh giới thiệu nghệ thuật đến nước nào, thì những ảnh ấy phải
phù hợp với bối cảnh nền văn hoá nước đó. Chúng tôi đã gặp thảm hoạ khi tổ chức biểu diễn
cho một đoàn nghệ thuật Hàn Quốc tại Luân Đôn. Do không nghe lời chúng tôi, các bạn Hàn
Quốc đã gửi ảnh chân dung các diễn viên sang Luân Đôn và nói rằng loại ảnh đó có tác dụng
quảng cáo rất tốt ở Hàn Quốc. Trên thực tế, thì những ảnh ấy không có ý nghĩa gì đối với người
dân Luân Đôn, họ có biết các gương mặt trong những tấm ảnh ấy là ai đâu! Giá như đó là ảnh
người yêu của họ thì họ còn xúc động, chứ đây là ảnh những người xa lạ, họ ngắm làm gì! Các
bức chân dung ấy không gợi cho họ một cảm hứng nghệ thuật nào. Cuối cùng, các buổi biểu
diễn đều có quá ít người xem. Thế là chúng tôi gặp thảm hoạ!
Mọi người cười ồ lên vì cách nói hóm hỉnh của ông bạn người Anh này. Con người cao to
lừng lững, da đỏ au, mặt nhẵn bóng, râu quai nón xén gọn và dáng vẻ điềm đạm ấy rất ít nói,
nhưng thông tin ông đưa ra lại rất hấp dẫn.
Ông Sơ-ti-vơ D. Mắc-lin nói tiếp:
- Chúng tôi cũng đã đón đoàn từ Liên bang Nga đến Luân Đôn vào những năm 1992 -
1993. Lúc đầu, họ tìm những nhà tổ chức nhỏ, không có tham vọng bán nhiều vé - họ chấp nhận
mỗi buỗi diễn có khoảng 300 khán giả. Dần dần, vừa diễn vừa quảng cáo, họ đến với những nhà
tổ chức lớn hơn. Kiên trì trong nhiều năm để tạo dựng thị trường, tới nay đoàn nghệ thuật của
Liên bang Nga đã có đông khán giả, mỗi buổi bán được 2.000 vé.
Dẫn chuyện Anh quốc, Hàn quốc và Liên bang Nga rồi, Ông Sơ-ti-vơ D. Mắc-lin quay qua
khẳng định:
- Nhà tổ chức của Mỹ là nhà tổ chức có hiệu quả nhất thế giới. Các nhà hát ở Mỹ có hệ
thống kỹ thuật rất tốt, có đội ngũ nhân viên rất tốt, khi có đủ thông tin, họ sẽ giúp bạn biểu diễn
rất tốt. Vì thế, những đoàn nghệ thuật Anh quốc chúng tôi rất thích đến lưu diễn ở Hoa Kỳ.
Buổi thuyết trình về thông tin tại trường đại học Niu-Yoóc cũng gây cho tôi ấn tượng khó
quên. Diễn giả là giáo sư Đan Mác-tin. Ông trình bầy về vấn đề ứng dụng công nghệ vào hoạt
động nghệ thuật với nội dung khá phong phú, trong đó có vấn đề văn hoá trên mạng rất mới
mẻ và sâu sắc. Cao khoảng gần hai mét, nặng chừng hơn một tạ, giáo sư có giọng nói sang sảng
và có cách trình bầy rành mạch, gọn gàng. Nắm rất chắc vấn đề mình cần trình bầy, giáo sư hay
nói ở thể khẳng định:
- Nước Mỹ đã từng tranh luận về việc ứng dụng In-tơ-nét vào đời sống. Tiêu chí của Mỹ là
nếu có 10 triệu người sử dụng thứ hàng hoá hoặc đồ dùng nào, thì thứ ấy được coi là được
chấp nhận trên thị trường. Với khả năng tiếp cận 10 triệu lượt người chỉ trong 6 tháng, In-tơ-
nét được coi là công cụ đáng sử dụng mãi mãi. Tuy nhiên, In-tơ-nét chỉ là công cụ, không phải là
đấng cứu thế. In-tơ-nét bổ sung cho các nỗ lực tiếp thị hiện có chứ không thay thế chúng. In-tơ-
nét phải được hoà nhập vào kế hoạch tiếp thị hiện có của bạn. In-tơ-nét lôi kéo mọi người vào
websites của bạn.
Giáo sư cho rằng người Mỹ đã nắm được một công cụ lợi hại nhất để tiến hành toàn cầu
hoá, đó là In-tơ-nét. Người Mỹ suy nghĩ, điều tra, dự đoán để phát triển In-tơ-nét và đã đưa ra
những con số như sau: Mức độ truy cập In-tơ-nét cứ 100 ngày lại tăng gấp đôi. Đến năm sẽ
2003 sẽ có trên 500 triệu người sử dụng In-tơ-nét trên khắp thế giới. Máy vi tính sẽ mang tính
nhân bản nhiều hơn. Các mạng sẽ có ở mọi nơi và mọi thứ đều được kết nối. Trang web sẽ trở
nên "thông minh" - nó sẽ biết nhiều hơn về bạn, về nội dung cuả nó. Các hình thức giải trí sẽ
mang tính công nghệ số nhiều hơn. Tốc độ máy vi tính có thể tiếp tục tăng 18 tháng một lần.
Nền kinh tế In-tơ-nét sẽ trở thành bộ phận lớn nhất của hạ tầng kinh tế toàn cầu. Dẫn ra một
loạt thông số dự đoán về công nghệ thông tin, máy vi tính, công nghệ không dây, giáo sư Đan
Mác-tin quy về một tất yếu là hoạt động nghệ thuật phải tận dụng được thế mạnh của In-tơ-
nét. Giáo sư giải thích:
- Sử dụng In-tơ-nét vào tiếp thị nghệ thuật, chúng ta sẽ đạt được hiệu quả theo nguyên
tắc AIDA[1] - đó là: Thu hút sự tập trung, Tạo sự thích thú, Tạo ra mong muốn,Kích thích hành
động. Sở dĩ như vậy vì In-tơ-nét hỗ trợ trong việc tạo ra sự thay đổi trong khách hàng (khán
giả), làm cho quá trình mua hàng của khách hàng có tiến trình sau: Từ không biết đến biết, từ
biết đến hiểu, từ hiểu đến tin tưởng, từ tin tưởng đến quyết định hành động. Có nghĩa là, In-tơ-
nét hỗ trợ trong việc đạt được các mục tiêu tiếp thị của đơn vị nghệ thuật: Phát triển khán