Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan, mét xu thế tất yếu cuốn hót các quốc gia. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và đã thu được nhiều kết quả. Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế quốc tế, Việt nam coi việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một mục tiêu quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia đến các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ mới từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên tai… Mặt khác, đặt ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh hưởng của thị trường thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các doanh nghiệp trước sức Ðp cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều nông dân bị
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một thực tế khách quan, mét
xu thế tất yếu cuốn hót các quốc gia. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hoạt
động hội nhập kinh tế quốc tế và đã thu được nhiều kết quả.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhâp kinh tế quốc tế,
Việt nam coi việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một mục
tiêu quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về thương
mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển. Nhưng việc tham gia và theo đó là thực hiện các cam kết của WTO sẽ là
một quá trình đầy gay go, thách thức trên tất cả những lĩnh vực khác nhau của
đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam về cơ
bản vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lực lượng lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu
là từ nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với
nền kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO nền nông nghiệp Việt Nam có thể chịu
sự tác động trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là mở rộng
thị trường xuất khẩu nông sản, phân bổ tốt hơn các nguồn lực quốc gia đến
các ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất, tăng cường học hỏi công nghệ mới
từ việc trao đổi ngày càng gia tăng với phần còn lại của thế giới, tăng cường
tính linh hoạt trong thương mại quốc tế để đối mặt với những cú sốc do thiên
tai… Mặt khác, đặt ngành nông nghiệp trước khả năng biến động lớn do ảnh
hưởng của thị trường thế giới bởi xu hướng tự do hoá thương mại, đặt các
doanh nghiệp trước sức Ðp cạnh tranh lớn, mặt hàng có sức cạnh tranh yếu thì
nguy cơ phá sản là không thể tránh khỏi, điều đó dẫn đến nhiều nông dân bị
mất việc làm, làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng về thu nhập trong nông
nghiệp, nông thôn và giữa thành thị với nông thôn.
Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên, nhất là khi Việt Nam đang
đứng trước ngưỡng cửa bước vào WTO, tôi chọn vấn đề: “Tác động của gia
nhập tổ chức thương mại thế giới đến nền nông nghiệp Việt Nam” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
* Xoay quanh vấn đề Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới
đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đề cập ở nhiều
khía cạnh khác nhau:
- Mét số công trình nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đã tập trung
phân tích diễn biến tình hình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO và từ đó đưa
ra các giải pháp đẩy nhanh việc gia nhập WTO; nghiên cứu nội dung của các
hiệp định của WTO, từ đó chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với các nước
đang phát triển, cũng như Việt Nam khi gia nhập WTO.
- Mét số công trình, bài báo cũng đã nghiên cứu và làm rõ sự cần thiết
Việt Nam phải gia nhập WTO. Những điểm nêu trên có thế tìm thấy trong
các tác phẩm:
+Việt Nam gia nhập WTO: “Tác động tới nền kinh tế Đồng Nai và các
giải pháp để thích ứng với quá trình hội nhập”, Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, Hà nôi 2005.
+ “Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với nền kinh tế toàn cầu”, của
Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Cộng sản.
+ “Việt Nam con đường tới WTO”, của Vũ Xuân Trường, Báo Hà Nội
mới.
+ “Nhiều lợi thế còng nh thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”,
Bích Hạnh- Báo Nhân dân ngày 19/2/2004.
+ “Một bước chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO”, Thu Hà-Báo
Nhân dân ngày 20/2/2004.
+ “Trung Quốc gia nhập WTO thời cơ và thách thức”, Võ Đại Lược-
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 2004.
+ “Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia- 2004.
* Liên quan đến hội nhập WTO và tác động của nó đến nông nghiệp
Việt Nam. Đã có một số công trình khoa học, bài báo đề cập đến các vấn đề
nông nghiệp Việt Nam trong kinh tế toàn cầu và mối quan hệ giữa bảo hộ và
tự do hoá thương mại nông sản, kinh nghiệm bảo hộ nông nghiệp trên thế
giới, cái được và cái mất và tác động đối với nông nghiệp Việt Nam khi gia
nhập WTO. Các công trình liên quan đến vấn đề này:
- “Làm gì cho nông thôn Việt Nam”, Phạm Đỗ Chí- Đặng Kim Sơn-
Nguyễn Tiến Triển, Đồng chủ biên 2003.
- “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ” Bùi Xuân Lưu, Nhà xuất bản Thống kê- Hà nội 2004.
- “WTO và ngành nông nghiệp Việt Nam”, kết quả nghiên cứu của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn do Australia tài trợ.
- “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn”, kết quả nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn do AU said tài trợ.
- “Nông nghiệp và đám phán thương mại”, diễn đàn tài chính kinh tế-
tài chính Việt-Pháp, Nhà xuất bản CTQG-2001.
- “Các vòng đàm phán Urugoay về nông nghiệp và tác động thực tiễn
của chúng”, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2-2002.
- “Chính sách thương mại nông nghiệp trong quá trình Việt Nam gia
nhập WTO” của Ths Chu Ngọc Sơn.
- “Tác động của tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
đối với nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS Tô Huy Rứa.
Những công trình nghiên cứu, đề tài trên đã đề cập dưới các góc độ
khác nhau về thời cơ, thách thức và tác động của gia nhập WTO đối với nền
kinh tế Việt Nam, trong đó có nền nông nghiệp Việt Nam song còn Ýt đề tài
đi sâu phân tích, đánh giá toàn diện, cụ thể tác động của gia nhập WTO đối
với nền nông nghiệp Việt Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì thế
đề tài “Tác động của gia nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam” vẫn cần
được nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần dự báo những tác động chủ yếu đến nền nông
nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ đó nêu ra phương hướng và giải pháp
thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam nhằm phát huy những tác động tích
cực và khắc phục hạn chế của hội nhập WTO đối với nền nông nghiệp Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích khái quát về WTO. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số
nước trong việc giải quyết vấn đề nông nghiệp khi gia nhập WTO.
+ Phân tích những tác động chủ yếu của việc gia nhập WTO đến nền
nông nghiệp Việt Nam.
+ Nêu ra một số giải pháp thích ứng của nền nông nghiệp Việt Nam
khi gia nhập WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những tác động của việc gia nhập WTO đối với
nền nông nghiệp Việt Nam trên góc độ những ảnh hưởng của điều chỉnh
chính sách và hàng nông sản xuất khẩu. Nghiên cứu đối tượng này dưới góc
độ khoa học kinh tế chính trị, nên luận văn chú trọng đến các vấn đề: xu
hướng, các phương hướng và giải pháp thích hợp để phát triển nông nghiệp
Việt Nam khi hội nhập vào WTO.
Thời gian: từ năm 2000 đến nay (từ phiên họp thứ tư-của giai đoạn 3:
Minh bạch hoá chính sách thương mại trong các cuộc đàm phán đa phương).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp
khác như: phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tổng kết thực
tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn hy vọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về những
tác động chủ yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO và đề
xuất một số giải pháp thích ứng để phát triển nền nông nghiệp Việt Nam khi
gia nhập WTO.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề kinh tế phù hợp
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được bố cục thành 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC
cña c¸c NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
NÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
Từ tháng 6-1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của
GATT-tiền thân của WTO. Ngày 1-1-1995, Việt Nam nép đơn gia nhập
WTO. Từ đó đến nay, Việt Nam đã và đang tích cực chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến cuối tháng 5-
2006 Việt Nam đã tiến hành 12 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm
phán song phương với cả 28 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán,
vào ngày 31-5-2006 với đối tác cuối cùng là Mỹ. Nh vậy, Việt Nam đang
đứng trước ngưỡng cửa gia nhập WTO.
Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động
của mình. Một nước muốn trở thành thành viên của tổ chức đó phải cam kết
tuân thủ các quy định của tổ chức và chứng tỏ khả năng của mình trong việc
hoàn thành nghĩa vụ của thành viên trong tổ chức, còng nh hưởng các lợi Ých
do việc tham gia tổ chức mang lại. Vì thế, trong chương 1 này, cần thiết phải
tìm hiểu sơ bộ về tổ chức thương mại thế giới (WTO), các hiệp định chính
trong WTO, nhất là các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp, nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích những tác động có thể của việc gia
nhập WTO đến nền nông nghiệp Việt Nam ở chương 2.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1 tháng 1
năm 1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ
chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT). GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ vòng đàm phán Urugoay (1986-1994) do
thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt
động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp
định thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề hàng rào phi quan
thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có
liên quan đến thương mại, về thương mại nông sản, hàng dệt may (dỡ bỏ năm
2005) và cơ chế giải quyết tranh chấp.
Với diện điều tiết của thương mại đa biên được mở rộng nên Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thỏa thuận
có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý tá ra không thích hợp. Do đó,
ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Ma-rốc), kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các
thành viên GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó WTO
chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hiệp quốc và đi vào hoạt
động từ 1/1/1995. Cho đến nay tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có 148
thành viên và tính đến tháng 12/2004 với khoảng 97% thương mại toàn thế
giới.
* Mục tiêu của WTO:
Với tư cách là tổ chức thương mại toàn cầu, WTO có những mục tiêu
cơ bản nh sau:
- Thóc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ, nâng cao việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn
định, bền vững và bảo vệ môi trường, thông qua việc tạo ra một tập hợp các
quy tắc và nguyên tắc cho thương mại quốc tế, bảo đảm một môi trường minh
bạch, dễ dự báo trong thương mại quốc tế. WTO vẫn đảm đương trách nhiệm
của GATT về thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tự do hoá thương mại,
đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên.
- Thóc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng
và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ
thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các
Công ước quốc tế: bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các
nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi Ých thực sự từ sự tăng
trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các
nước này và khuyến khích các nước ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền
kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành
viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
* Chức năng chính:
WTO thực hiện các chức năng cơ bản sau:
- Thống nhất việc quản lý thực hiện các Hiệp định và thỏa thuận
thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ
thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan
đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các biện pháp thương mại
đa phương và nhiều bên.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên,
bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các
quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm
điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.
- Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế nh Quỹ tiền tệ quốc
tế và Ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo
về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng Thương
mại - nhóm họp Ýt nhất hai năm một lần. Giữa hai nhiệm kỳ Hội nghị, Đại
hội đồng (Bao gồm Đại diện có thẩm quyền của tất cả các thành viên) có chức
năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng, đồng thời Đại hội đồng
đóng vai trò là một cơ quan giải quyết tranh chấp và cơ quan rà soát chính
sách của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng thương mại về hàng hoá, Hội
đồng thương mại về dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến
thương mại về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hội đồng trên chịu trách nhiệm điều
hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương ứng.
Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên.
Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng
thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận,
các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu.
WTO chứa đựng một hệ thống các quy định vô cùng phức tạp và cụ thể
cho các lĩnh vực nh thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tuy
nhiên, tất cả những quy định đó đều dùa trên 5 nguyên tắc cơ bản [1, tr.225].
- Nguyên tắc thương mại không có sự phân biệt đối xử: Nguyên tắc này
yêu cầu các nước thành viên phải dành cho nhau Đãi ngộ Tối huệ quốc (MNF)
(tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên
khác nhau) và Đãi ngộ Quốc gia (NT) (yêu cầu mỗi nước thành viên không được
phân biệt đối xử giữa hàng hoá và dịch vụ trong nước và nhập khẩu).
- Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua
đàm phán: Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép
các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều
chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các
hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương
và đa phương.
- Nguyên tắc dễ dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư còng nh Chính phủ
nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan khác sẽ không
bị thay đổi và tăng một cách tùy tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp
khác bị ràng buộc về mặt pháp lý.
- Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn
chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán
phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
- Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi:
Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang
phát triển có một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có
thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
1.2. CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA WTO LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP
Các hiệp định của WTO điều chỉnh các lĩnh vực nh thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Chúng đề ra những nguyên tắc về
tự do hoá và những ngoại lệ được phép áp dụng; nêu lại cam kết của từng
nước về giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác, về mở cửa và duy trì
mở cửa thị trường dịch vụ; quy định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định
các nước đang phát triển phải được đối xử đặc biệt, buộc các chính phủ phải
thông báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện pháp được áp
dụng trong nước song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính
sách thương mại của các nước.
Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO
và WTO thường được miêu tả nh là một hệ thống hoạt động dùa trên các luật
lệ. Để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, WTO có 16 hiệp định chính
như: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994); Hiệp định
về Hàng rào Kỹ thuật trong thương mại (TBTs); Hiệp định về các Biện pháp
vệ sinh kiểm dịch (SPS); Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu (ILP);
Hiệp định về Quy tắc xuất xứ (ROO); Hiệp định về Kiểm tra trước khi giao
hàng (PSI); Hiệp định Trị giá tính thuế hải quan (ACV); Hiệp định về các
Biện pháp tự vệ (ASG); Hiệp định về Trợ cấp (SCM) và Phá giá (ADP), Hiệp
định về Nông nghiệp (AOA); Hiệp định về Thương mại hàng dệt may và may
mặc (ATC); Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMS); Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS) và thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc
giải quyết tranh chấp (DSU)… [1, tr. 226].
Tất cả các thành viên WTO đều phải tham gia vào các hiệp định nói
trên, quy định này gọi là sự chấp thuận cả gói. Bên cạnh đó WTO vẫn duy trì
2 hiệp định nhiều bên, các thành viên WTO có thể tham gia hoặc không tham
gia, đó là: Hiệp định về buôn bán máy bay dân dụng; Hiệp định về mua sắm
của Chính phủ. Còn 2 Hiệp định nhiều bên khác là Hiệp định quốc tế về các
sản phẩm sữa; Hiệp định quốc tế về thịt bò thì cuối năm 1997, WTO đã chấm
dứt và đưa những nội dung của chúng vào phạm vi điều chỉnh của các Hiệp
định Nông nghiệp và Hiệp định về các Biện pháp vệ sinh kiểm dịch.
Trong khuôn khổ của WTO có một số hiệp định cũng như quy định liên
quan đến lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: Hiệp định chung về thuế quan và
Sau 3 năm thực hiện các cam kết của AFTA về giảm thuế quan, về mặt
lý thuyết quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN diễn ra theo chiều
hướng có lợi.
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các nước
ASEAN năm 1999 tăng 52% so với năm 1997 (trong khi mức xuất khẩu hàng
nông sản là 15%); nhập khẩu giảm 4% (trong khi nhập khẩu hàng nông sản
chung tăng 20%). Điều đó chứng tỏ hàng nông sản Việt Nam ngày càng thâm
nhập sâu hơn vào thị trường ASEAN. Đánh giá khả năng xuất khẩu của hàng
nông sản Việt Nam khi tham gia AFTA có thể phân làm 3 nhóm hàng theo
mức độ thâm nhập nh sau:
Thứ nhất, đối với những sản phẩm có khả năng thâm nhập thị trường
ASEAN: gạo, cà phê,hạt tiêu, điều.
Đây là nhóm mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không
chỉ trong khối mà đã xác định được vị thế trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên,
đây là hàng nông sản thô hoặc sơ chế và cũng là lợi thế cạnh tranh của một số
nước ASEAN do điều kiện tự nhiên tương tự như nhau hoặc do nhu cầu tiêu
dùng, do thuế suất nhập khẩu các mặt hàng này đã giảm xuống từ 0-5%, hoặc
do chất lượng sản phẩm, giá cả và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường,
do đó, mức độ thâm nhập thị trường của các loại sản phẩm không giống nhau
giữa các nước đối tác nhập khẩu trong khối ASEAN.
* Đối với gạo:
Trong những năm qua gạo của Việt Nam đã được xuất khẩu với khối
lượng tăng đáng kể vào thị trường ASEAN. Thị trường nhập khẩu gạo của
Việt Nam trong khối ASEAN gồm các nước: Indonesia, Philippin, Malaysia,
Singapore và Lào. Nếu như năm đầu thực hiện CEPT/AFTA, xuất khẩu gạo
của Việt Nam sang thị trường ASEAN chỉ đạt 964.010 tấn, chiếm 32% kim
ngạch xuất nhập khẩu, thì năm 2001, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các
nước ASEAN đạt 1.331.300 tấn với giá trị 569.600 USD, chiếm 43% tổng
kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2006, Việt
Nam đã xuất khẩu gạo sang 20 thị trường chính, trong đó Philippin là nước
nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất với 1.090.690 tấn, trị giá 308.029.650
USD (chiếm 38,8% về lượng và 39,98% về kim ngạch của cả nước), tiếp sau
đó là các thị trường Malaysia, Nhật, Indonesia…[51].
Tính đến nay, thị trường ASEAN vẫn là thị trường nhập khẩu lớn mặt
hàng gạo của Việt Nam. Mặc dù vậy, lúa gạo lại thuộc danh mục nhạy cảm
của các nước này (trừ Singgapore) nên lợi Ých của việc giảm thuế theo
CEPT-AFTA của mặt hàng này chỉ phát huy tác dụng mạnh sau năm 2010 khi
danh mục nhạy cảm được đưa vào cắt giảm. Mặt khác, gạo của Việt Nam phải
cạnh tranh mạnh với gạo của Thái Lan và Myanmar trên thị trường ASEAN,
trong khi đó các nước nhập khẩu gạo khối lượng lớn cũng đang có xu hướng
khuyến khích sản xuất trong nước vì mục tiêu an ninh lương thực, vì thế khi
CEPT-AFTA hoàn thành thì thị trường dành cho gạo của Việt Nam mở ra
cũng không nhiều.
* Đối với cà phê:
Các nước ASEAN nhập khẩu cà phê của Việt Nam có Singapore,
Thái Lan và Indonesia, nhập khẩu dưới dạng thô, sơ chế. Nhưng từ năm
1996 trở lại đây tỷ trọng xuất khẩu thô sang các nước ASEAN liên tục giảm.
Các nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu để gia công, chế biến và
tái xuất khẩu nên khi thị trường cà phê thế giới có biến động thì lượng nhập
khẩu cà phê từ Việt Nam giảm hẳn. Đối với các nước này, mặt hàng cà phê
thô, sơ chế hiện đã thuộc danh mục cắt giảm thuế với mức thuế suất 0%. Vì
vậy, thuế suất nhập khẩu không còn là yếu tố tác động tới khả năng xuất khẩu
cà phê của ta vào thị trường này mà yếu tố quan trọng cần chú ý là chất lượng
sản phẩm, giá cả và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường.
* Đối với hạt tiêu:
Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam nổi lên từ giữa những năm 1990. Từ
đó đến nay, diện tích trồng hồ tiêu tăng nhanh và đạt 28 ngàn ha vào năm
2001. Sản phẩm hồ tiêu chủ yếu dành cho xuất khẩu (95%).
Hồ tiêu Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng thô và đang chiếm lĩnh thị
trường hồ tiêu thế giới. Sản lượng xuất khẩu tăng từ 10 ngàn tấn lên 56 ngàn
tấn trong thời kỳ 1990-2001 đạt giá trị kim ngạch khoảng 90 triệu USD. Hiện
nay Việt Nam là nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu hồ tiêu.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hồ tiêu sang các nước ASEAN từ năm
1999 do giá cả thấp hơn so với hồ tiêu của Ên Độ. Kim ngạch xuất khẩu năm
2001 đạt 16.400 lượng tấn, đạt giá trị 25.807 nghìn USD. Điểm đáng chú ý là
sản lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đang giảm
dần do nhu cầu tiêu thụ tăng chậm. Vì thế nếu cung tăng sẽ làm giảm giá
nhanh chóng. Trong các nước nhập khẩu hồ tiêu của Việt Nam hầu hết đã
giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0-5% (trừ Thái Lan còn duy trì thuế MNF
30% đối với hồ tiêu Việt Nam) nên hy vọng tăng xuất khẩu nhờ giảm thuế
theo CEPT-AFTA hầu nh không đáng kể.
* Đối với hạt điều:
So với thời điểm những năm đầu khi hạt điều xâm nhập vào thị trường
ASEAN thì xu hướng xuất khẩu sang thị trường này theo chiều hướng giảm dần
cả về lượng và giá trị kim ngạch. Các nước nhập khẩu hạt điều chủ yếu của Việt
Nam trong khối ASEAN là Thái Lan, Singgapore, Malaysia, Philippin…
nhưng với kim ngạch nhỏ. Tính đến tháng 6/2006, nước nhập khẩu nhiều nhất là
Thái Lan cũng chỉ đạt 431 tấn với giá trị 1.819.602 USD, chiếm 0,8% tổng
lượng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của cả nước tính đến tháng 6/2006 [51].
Mặt khác, hiện nay các nước ASEAN đang áp dụng thuế xuất nhập
khẩu điều của Việt Nam từ 5-15%. Nh vậy trong tương lai khi CEPT-AFTA
hoàn thành thì khả năng xuất khẩu của điều sang thị trường này sẽ tăng lên.
Thứ hai, nhóm có khả năng thâm nhập trung bình sang các nước
ASEAN gồm: rau, hoa quả, cao su, chè…
* Đối với cao su:
Trên thị trường thế giới, cao su của các nước Thái Lan, Indonesia,
Malaysia chiếm tới khoảng 80% thị phần. Trong khi đó cao su của Việt Nam
mới chỉ chiếm 5% thị phần. Sản xuất cao su trong nước của Việt Nam còn
gặp nhiều khó khăn, năng suất thấp. Giá xuất khẩu cao su của Việt Nam
thường thấp hơn so với các nước trong khu vực do chất lượng, chủng loại sản
phẩm và khả năng tiếp cận với khách hàng trực tiếp. Trong khối ASEAN, cao
su của Việt Nam sang các nước Campuchia, Lào, Malaysia và Singapore
nhưng với kim ngạch không ổn định. Năm 1996, năm đầu tiên thực hiện
CEPT/AFTA, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các nước
ASEAN đạt 18.465 tấn với giá trị 24.691 USD, chiếm 9,4% kim ngạch xuất
nhập khẩu thì đến năm 2001 mức tăng vẫn không đáng kể, tỷ trọng kim ngạch
xuất nhập khẩu đạt 17,7%, tức là tăng 8,3% trong vòng 6 năm [4, tr. 46].
Tuy nhiên, so với những mặt hàng nông sản khác xuất khẩu sang thị
trường ASEAN thì xuất khẩu cao su vẫn có xu hướng tăng không chỉ về lượng mà
cả về giá trị kim ngạch, nhưng mức tăng chậm và không ổn định. Hiện nay, khi
thực hiện AFTA các nước nhập khẩu cao su của Việt Nam áp dụng thuế suất bằng
0%. Do đó, xu hướng xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các nước ASEAN là
khó có thể tăng trong những năm tới nếu như cơ cấu sản phẩm không có sự thay
đổi.
*Đối với mặt hàng rau quả:
Rau quả của Việt Nam sản xuất hàng năm với khối lượng khoảng 5
triệu tấn rau và 6 triệu tấn quả chủ yếu tiêu dùng trong nước dưới dạng tươi.
Trong đó số xuất khẩu chiếm khoảng 15% sản lượng, xuất khẩu sang các
nước ASEAN chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ chỉ khoảng hơn 3% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Các thị trường chính nhập khẩu rau quả của Việt Nam là
Indonesia, Singapore, Campuchia và Lào nhưng tỷ trọng không lớn và
không ổn định.
Thứ ba, nhóm hàng có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị đe doạ nhập
khẩu từ các nước ASEAN gồm: dầu thực vật, thực phẩm chế biến, thức ăn
chăn nuôi… Sở dĩ nhóm hàng này Việt Nam có khả năng cạnh tranh yếu và
đứng trước nguy cơ bị thay thế bởi hàng nhập khẩu khi CEPT/AFTA hoàn
thành là do công nghệ chế biến lạc hậu.
Trong cơ cấu thương mại hiện nay của ASEAN hàng nông sản chiếm
khoảng gần 40%, điều đó cho thấy trên bình diện chung, nhất là khi lịch trình
cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA hoàn thành hàng nông sản các nước
ASEAN có mức độ thâm nhập khá cao vào thị trường Việt Nam.
Bảng 2.4: Một số mặt hàng nông sản chính được nhập khẩu thường
xuyên hiện nay từ các nước ASEAN [4, tr. 38]
Thuế MNF bình quân
Thực hiện CEPT
Tỷ trọng nhập khẩu từ ASEAN
(1996-1999)1. Ngô hạt 2,5 giảm ngay 38-39%2. Hạt giống rau 0 giảm ngay 39-45%3.Dầu thực vật Đậu tương Cọ Hạt cải, mù tạt, khác Mì
5402840
giảm ngay2003
2002/032002/03
45-100%91-100%44-100%85-98%
4.Bánh kẹo 50 2003 40-97%5. Gia vị tổng hợp, mì chính 50 2000 77-85%6.Cám bã, thức ăn gia sóc 10 giảm ngay 34-100%7.Thuốc lá 30 … 56-89%
Lý do hàng nông sản các nước ASEAN có khả năng thâm nhập cao
vào thị trường Việt Nam khi CEPT/AFTA hoàn thành là do:
Mét, điều kiện tự nhiên cùng nằm trong vùng nhiệt đới nên đa số các
nước ASEAN có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế về các mặt hàng
nông sản nhiệt đới.
Hai, trình độ phát triển chung của các nền kinh tế ASEAN, nhất là 6
nước ASEAN cò cao hơn nên hậu thuẫn tốt hơn cho nhau trong các khâu sản
xuất nông sản từ công nghệ sau thu hoạch cho đến chế biến.
Ba, mặc dù mỗi nước cũng có lợi thế cạnh tranh nổi trội ở một mặt
hàng riêng biệt, như Philippin có sản phẩm dừa, Việt Nam có điều, gạo, cà
phê, Thái Lan có gạo, sắn viên, đường, gà đông lạnh, Indonesia có hồ tiêu…
nhưng trên thị trường thế giới các nước ASEAN đều không có khả năng cạnh
tranh về các mặt hàng như bông, sữa, đồ uống, thuốc lá…nên các nước thành
viên sẽ tìm cách tiêu thụ ở thị trường khu vực.
Các mặt hàng nông sản sơ chế nhờ lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ nên Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh tương đối cao chủ yếu là một số mặt hàng như: thủy sản, gạo cà phê,
điều, chè. Một số mặt hàng có sức cạnh tranh tương đương so với các nước
trong khối nh rau quả tươi, cao su sơ chế, hạt có dầu. Một số mặt hàng có
sức cạnh tranh kém do công nghệ chế biến lạc hậu. Vì vậy, việc thực hiện
AFTA sẽ sẽ làm nổi rõ hơn những yếu kém của sản xuất trong nước và tác
động mạnh đến những ngành có sức cạnh tranh tương đương và yếu so với
các nước ASEAN.
Bảng 2.5: Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá nông
sản chính của Việt Nam khi thực hiện CEPT- AFTA [4, tr. 48-50]
Ngành hàng chính
Khả năng cạnh tranh
Chiều hướng tác động của thực hiện
CEPT/AFTABiện pháp hạn chế tiêu cực
Lúa gạo Cao Tích cực nhiều hơn tiêu cực
- Quy hoạch vùng lúa gạo xuất khẩu- Đổi mới giống- Chó trọng chất lượng sau thu hoạch- Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản- Tăng cường liên kết giữa người trồng lúa và các tổ chức xuất khẩu
Cà phê Cao Tích cực nhiều hơn tiêu cực
- Ổn định vùng- Cắt giảm nơi không hiệu quả- Nâng cao chất lượng chế biến
Hạt điều Cao Tích cực nhiều hơn tiêu cực
- Nâng cao chất lượng- Phát triển công nghệ chế biến- Hỗ trợ vốn vay dài hạn- Tăng cường các biện pháp thâm canh
Chè Trung bình khá
Tích cực và tiêu cực ngang nhau
- Tăng cường khâu chế biến- Đẩy mạnh vay tín dụng để đổi mới các vườn chè già cỗi- Tìm các bạn hàng ổn định- Nâng cao chất lượng và chủng loại tuỳ theo các thị trường khác nhau
Cao su Trung bình yếu
Tích cực Ýt hơn tiêu cực
- Giải quyết các ách tắc về tín dụng, thuế cho người sản xuất.- Thay đổi cơ cấu sản phẩm chế biến theo nhu cầu của thị trường.- Tăng sử dụng cao su nguyên liệu trong nước
Rau quả Cao Tích cực là chính - Tăng cường đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản- Tiếp cận các thị trường mới- Đẩy mạnh việc chuyển giao các công nghệ trồng rau sạch- Liên kết người trồng rau với nhà sản xuất
Mía đường
Yếu Tiêu cực là chính - Cân nhắc các biện pháp bảo hộ- Tìm hướng giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành- Tìm những hình thức quản lý thích hợp với các nhà máy đường
Nh vậy, việc thực hiện cam kết CEPT/AFTA đã tác động tới nền nông
nghiệp Việt Nam theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên khoảng
thời gian 3 năm thực hiện các cam kết AFTA của Việt Nam là khoảng thời
gian chưa dài để đánh giá đầy đủ những tác động của việc gia nhập. Tổng kết
3 tháng sau khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế quan ở mức ưu đãi cho trên
10.000 mặt hàng theo Hiệp định CEPT/AFTA, nhận định ban đầu của Bộ Tài
Chính thì thị trường chưa có những thay đổi đáng kể, ảnh hưởng lớn tới sản
xuất trong nước cũng như phát triển kinh tế nói chung. So với các nước thành
viên ASEAN thì hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còng có những ưu
thế trong sản xuất. Vì thế khi tham gia CEPT/AFTA Việt Nam sẽ sớm tận
dụng được những ưu đãi về mặt thuế quan mà các nước trong khu vực dành
cho nhau nên có tác dụng lớn trong thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt
Nam sang các nước ASEAN khác.
Tuy nhiên, đi đôi với việc tận dụng được những ưu đãi về mặt thuế
quan của các nước thành viên ASEAN dành cho nhau, thì Việt Nam còng sẽ
phải đối mặt với thách thức khi hàng rào thuế quan giảm xuống. Nhiều mặt
hàng, trong đó những mặt hàng có mức độ thâm nhập trung bình và yếu so
với các nước ASEAN sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tác động của việc thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ và các cam
kết AFTA là tích cực, nó mở ra một thị trường rộng lớn hơn cho hàng hoá
nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng đồng thời với những hàng hoá có
khả năng cạnh tranh trung bình và yếu sẽ khó có khả năng tồn tại được khi
các hàng rào bảo hộ trong nông nghiệp không còn.
2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN
NỀN NÔNG NGHIỆP VIỆT Nam
Trước ngưỡng cửa gia nhập WTO, việc phân tích, đánh giá những tác
động của việc gia nhập tổ chức quốc tế này đối với nền kinh tế Việt Nam nói
chung, nền nông nghiệp nói riêng là rất quan trọng để có thể xây dựng được
một lé trình cải cách kinh tế thích hợp.
Việc gia nhập WTO còng nh hội nhập kinh tế quốc tế nói chung xét về
cả lý thuyết và kinh nghiệm thực tế (nhất là của nhiều nước đang phát triển)
đem lại nhiều lợi Ých rất to lớn cho nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực nông
nghiệp. Việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giúp loại bỏ
những sai lệch trong phân bổ nguồn lực, mở ra thị trường rộng lớn cho xuất
khẩu hàng nông sản, góp phần thúc đẩy tiến bộ công nghệ, tăng năng suất lao
động và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Tuy nhiên, việc gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra
không Ýt khó khăn, thách thức đối với ngành nông nghiệp. Không chỉ bởi
ngành này sẽ phải có những thay đổi sâu rộng để phù hợp với các quy định
trong khuôn khổ của WTO. Mặt khác, các hàng hoá nông sản của Việt Nam
sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
Bảng 2.6: Mô hình hoá tác động của việc gia nhập WTO đến ngành
nông nghiệp như sau:
Héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ
WTO
M«i trêng chÝnh s¸ch
C¸c c«ng cô
®iÒu tiÕt
Hµng ho¸
ViÖt Nam
ThÕ giíi
Gi¸ c¶, chÊt lîng, chñng lo¹i
Hµng ho¸, vèn, c«ng nghÖ
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc gia nhập WTO sẽ
tác động tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền nông nghiệp nói riêng tới
cả hai khía cạnh các công cụ điều tiết chính sách và hàng hoá xuất khẩu. Theo
đó, Việt Nam muốn tăng khả năng xuất khẩu khi gia nhập WTO cũng sẽ phải
điều chỉnh cả về giá cả, chất lượng, chủng loại. Nhưng đồng thời Việt Nam
còng có thể nhập khẩu hàng hoá, vốn, công nghệ từ các đối tác trong tổ chức.
2.2.1. Tác động đến các chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều động thái tích cực
nhằm ban hành các chính sách thương mại và đầu tư thông thoáng phù hợp
với các quy định quốc tế. Tuy vậy, nhiều cơ chế, chính sách vẫn còn những
bất cập khi gia nhập WTO. Do đó, việc thực hiện Hiệp định nông nghiệp
WTO sẽ buộc Việt Nam phải điều chỉnh những chính sách trong nông nghiệp
gây các méo mó đối với việc nhập khẩu, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
2.1.1.1. Điều chỉnh chính sách thương mại nông sản hàng hoá
* Chính sách thuế quan và phi thuế quan:
- Thuế nhập khẩu trong nông nghiệp:
Hiện nay trong biểu thuế có khoảng 836 dòng thuế với nhiều mức thuế
suất phân tán (12 mức thuế suất từ 0 đến 100%). Mức thuế nhập khẩu bình
quân cho các sản phẩm nông nghiệp là 24% nếu bao gồm cả những dòng thuế
với mức thuế suất 0% và bằng 28% nếu loại bỏ các dòng thuế với mức thuế
suất 0%. Các mức thuế suất được phân bổ nh sau:
+ Mức thuế suất 0% là mức thuế suất đánh vào các mặt hàng nh các
loại giống cây, giống con, các loại lông thó, da thó và bông sử dụng cho các
ngành công nghiệp thuộc da, công nghiệp dệt và may mặc. Đây là những
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp mà trong nước
không có hoặc không sản xuất được.
+ Mức thuế suất từ 1 đến 10% được áp dụng cho các loại gia súc khác
(trừ giống vật nuôi), những sản phẩm phụ của chăn nuôi nh xương, ngô, thức
ăn gia súc, ngò cốc… Những nhóm mặt hàng này hoặc là trong nước không
sản xuất được hoặc có nhu cầu thấp và được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào
cho ngành công nghiệp chế biến.
+ Mức thuế suất từ 15 đến 30% đánh vào các loại thịt (gia sóc, gia cầm)
tươi sống và đông lạnh, sữa, các loại thực phẩm sạch, gạo, đường thô, gia vị
(tỏi, hành, gừng, tiêu), các loại thuốc lá, chè, cà phê bán thành phẩm. Nhóm
hàng này bao gồm những mặt hàng trong nước sản xuất được và có lợi thế so
sánh khi xuất khẩu, không cần nhập khẩu.
+ Mức thuế suất từ 40 đến 50% áp dụng cho hoa quả tươi các loại, dầu
thực vật đã tinh chế, các loại đường tinh chế, các sản phẩm nông nghiệp chế
biến (như chè, cà phê, rau quả, thịt, bánh kẹo), các sản phẩm từ ngò cốc (bánh
mú các loại, bánh).
+ Mức thuế từ 80 đến 100% đánh vào rượu, bia, các loại nước uống
giải khát và các sản phẩm thuốc lá. Đây là những sản phẩm được sản xuất
trong nước đáp ứng nhu cầu nội địa. Chúng được coi là những mặt hàng mang
lại lợi nhuận cao và được xếp vào nhóm hàng xa xỉ. Việt Nam không khuyến
khích nhập những loại mặt hàng này.
- Chính sách xuất nhập khẩu
+ Cấm xuất, nhập khẩu: Trong danh mục các mặt hàng cấm xuất nhập
khẩu trong giai đoạn 2001-2005, chỉ duy nhất có một sản phẩm nông nghiệp
là thuốc lá, xì gà và các loại thuốc lá khác. Cấm nhập khẩu thuốc lá đã được
giải thích dùa trên cơ sở được nêu ở phần (b) trong điều khoản XX-GATT
năm 1994, và danh sách cấm này chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ con người. Tuy
nhiên, rất khó chứng minh được rằng các quy định của Việt Nam không vi
phạm điều III của GATT 1994 về đối xử không phân biệt một khi các nhà
máy thuốc lá, trong đó có một số công ty liên doanh vẫn tiếp tục sản xuất. Do
vậy, việc cấm nhập khẩu thuốc lá điếu trong khi vẫn cho nhập khẩu một số
nguyên liệu sản xuất thuốc lá làm cho lý do bảo vệ sức khoẻ con người và
môi trường Ýt giá trị so với lập luận bảo hộ sản xuất trong nước.
+ Hạn ngạch xuất, nhập khẩu: Theo điều 6, Quyết định sè 46/2001/QĐ/TTg
(ngày 1/5/2001), Chính phủ bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với mặt hàng
gạo. Tuy nhiên, mục 4 điều 6 trong Quyết định này lại nêu rõ: “Thủ tướng
Chính phủ sẽ xem xét những biện pháp cần thiết để can thiệp một cách có
hiệu quả vào thị trường gạo”. Các biện pháp kiểm soát trong những điều kiện
khẩn cấp cho thấy rằng Chính phủ để ý nhiều hơn đến một số những mặt hàng
xuất khẩu chính của Việt Nam và tầm quan trọng của an ninh lương thực.
+ Giấy phép xuất, nhập khẩu:
Hiện nay chỉ có một nhóm nông sản là đường thô và đường tinh luyện
cần phải có giấy phép nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp mới được quyền
nhập khẩu vào Việt Nam. Do áp dụng giấy phép nhập khẩu nên giá đường
trên thị trường trong nước cao hơn giá thế giới khoảng 30-40%, tương đương
với mức hỗ trợ khoảng 1.700 tỷ đồng một năm.
Theo quy định của WTO, giấy phép nhập khẩu là rào cản phi thuế
quan nhằm bảo vệ và hỗ trợ ngành công nghiệp trong nước nên cần phải được
loại bỏ. Do đó, về lâu dài dù muốn hay không biện pháp hỗ trợ sản xuất trong
nước dưới dạng giấy phép nhập khẩu cũng phải được bãi bỏ hoặc thay thế
bằng một biện pháp hỗ trợ khác không vi phạm với quy định của WTO, như
các dạng hỗ trợ trực tiếp cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
+ Hệ thống giấy phép của các ngành hữu quan:
Quyết định 46 cũng đề xuất một số nhóm mặt hàng xuất nhập khẩu
phải được các bộ hữu quan cấp giấy phép mới được xuất nhập khẩu. Những
Bộ này sẽ có những hướng dẫn cụ thể theo nguyên tắc các giấy phép xuất
nhập khẩu được coi như những tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các sản phẩm xuất
nhập khẩu đó. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ công bố
danh sách các loại sản phẩm được nhập khẩu tự động vào Việt Nam và các
loại sản phẩm cấm nhập khẩu. Đối với những sản phẩm không có tên trong
danh sách thì trước hết phải thông qua các kiểm nghiệm trước khi có thể được
xem xét nhập khẩu vào Việt Nam. Điều này cũng có thể gây lo ngại cho các
thành viên của WTO, tuy nhiên nếu hệ thống các giấy phép chuyên ngành này
được minh bạch hoá thì sẽ đảm bảo tuân thủ đúng nguyên tắc cấp phép nhập
khẩu tự động của WTO và khi đó Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp tục áp dụng
vì mục đích cơ bản của việc quản lý này là nhằm bảo vệ sức khoẻ của con
người, ngành nông nghiệp cũng như môi trường.
+ Biện pháp quản lý giá cả: danh mục giá tối thiểu
Trước tình trạng gian lận trong thương mại thường dẫn đến cạnh tranh
không lành mạnh, thất bại của thị trường, thất thu thuế một phần do hạn chế
của lực lượng hải quan. Vì thế Việt Nam đã phải sử dụng quy định giá tối
thiểu với một số nhóm hàng nhập khẩu vào Việt Nam cho mục đích giá hải
quan để tính thuế nhập khẩu. Nhưng từ cuối năm 2004, Chính phủ Việt Nam
chính thức áp dụng cách tính giá trị hải quan để thu thuế nhập khẩu theo Điều
VII của GATT 1994. Nh vậy, sẽ không có bất kỳ sản phẩm nào phải chịu giá
nhập khẩu tối thiểu khi nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
- Các chính sách liên quan đến doanh nghiệp:
Từ ngày 31/7/1998, 100% các công ty đang hoạt động tại Việt Nam
(ngoại trừ các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài) sẽ được tự
do xuất nhập khẩu những mặt hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh của
mình. Tuy nhiên, việc nhập khẩu một số mặt hàng nhất định vẫn chỉ do một số
doanh nghiệp được chỉ định thực hiện nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.
Xu hướng xoá bỏ các doanh nghiệp đầu mối trong việc xuất khẩu các
mặt hàng nông sản là một hướng đi đúng đắn trong quá trình tự do hoá
thương mại trong khuôn khổ của WTO. Xu hướng này sẽ có những tác động
tích cực đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
việc thu mua và xuất khẩu các sản phẩm nông sản có lợi cho người sản xuất
và người xuất khẩu.
Tóm lại, các quy định của WTO không yêu cầu cụ thể các quốc gia khi
gia nhập phải áp dụng mức thuế cụ thể như thế nào. Để tuân thủ Hiệp định
Nông nghiệp, các nước xin gia nhập WTO phải ràng buộc mọi dòng thuế đối
với nông sản và không được tăng vượt quá mức ràng buộc trong tương lai.
Tuy vậy, trong chính sách thuế quan và phi thuế quan của Việt Nam còn thể
hiện một số tồn tại.
Đối với chính sách thuế quan:
- Các mặt hàng nông sản được bảo hộ ở mức cao hơn so với các sản
phẩm công nghiệp (mức thuế bình quân chung của nông sản là 29,37% so với
mức bình quân chung của mọi dòng thuế là 20,57%).
- Có hiện tượng thuế leo thang trong biểu thuế khi các mức thuế có xu
hướng cao hơn đối với các nguyên liệu đầu vào.
- Ngành sản xuất đồ uống là ngành hiện được bảo vệ cao vì chúng
mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt có sự khác biệt giữa
mức thuế đánh vào sản phẩm thuốc lá được sản xuất từ nguyên liệu trong
nước và thuốc lá sử dụng từ nguyên liệu nhập khẩu. Cụ thể, thuốc lá sản xuất
từ nguyên liệu nhập khẩu sẽ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức 65%, trong khi
thuốc lá được sản xuất với nguyên liệu trong nước thì chỉ chịu mức thuế 45%.
Những quy định hiện hành trong biểu thuế quan này có thể vi phạm với
nguyên tắc đối xử quốc gia trong WTO, do đó Việt Nam sẽ phải điều chỉnh
cho thích hợp.
Các chính sách phi thuế quan:
Để thực hiện các cam kết của WTO liên quan đến nông nghiệp, Việt
Nam sẽ phải thực hiện thuế hoá tất cả các hàng rào phi thuế trên. Trước mắt
vẫn có thể tiếp tục duy trì được và có thể vận dụng linh hoạt vì những lập luận
liên quan đến vấn đề môi trường, hoặc lý do an ninh lương thực mà không trái
với quy định của WTO.
Theo những cam kết về việc gia nhập WTO của Việt Nam thì Việt
Nam sẽ bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp kể từ khi chính thức trở thành
thành viên của tổ chức này. Do đó, những chính sách phi thuế, đặc biệt là việc
sử dụng hệ thống giấy phép nhập khẩu mà hiện tại Nhà nước quy định đối với
mặt hàng đường sẽ phải bãi bỏ.
2.1.1.2. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp trong nước
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống dùa vào
sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP vẫn chiếm hơn
20%. Với vai trò là một ngành sản xuất quan trọng, nhà nước ta trong nhiều
năm qua đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp. Hầu
hết các chính sách hỗ trợ trong nước của Việt Nam đều nằm trong Hộp xanh
lá cây liên quan tới nghiên cứu khoa học, đào tạo, hỗ trợ các vùng khó khăn.
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều hỗ trợ trong nước của Việt Nam nằm trong
nhóm các biện pháp phải cắt giảm trong khuôn khổ quy định của WTO về
nông nghiệp.
- Các hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây:
Chi tiêu của nhà nước trong hộp xanh là những khoản đầu tư cho xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nghiên cứu khoa học, khuyến nông. Những
chi tiêu công cho nông nghiệp trong khuôn khổ các chính sách thuộc hộp
xanh lá cây là giải pháp quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng trong nông nghiệp
và gia tăng năng suất.
Đến nay chi tiêu của Chính phủ trong nông nghiệp đã gia tăng khoảng
4 lần trong thập kỷ 90. Nhưng tỷ trọng đầu tư vào ngành này chỉ chiếm bình
quân dưới 10% hàng năm trong tổng chi tiêu ngân sách của Chính phủ, bao
gồm các khoản đầu tư của Chính phủ vào kết cấu hạ tầng nông thôn, hệ thống
dịch vụ khuyến nông, đào tạo, xây dựng quỹ dự trữ an ninh lương thực quốc
gia, các chương trình vùng, chương trình môi trường và giảm nhẹ thiên tai.
Do ngân sách còn hạn hẹp nên hiện Việt Nam vẫn chưa áp dụng được
một số hình thức trợ cấp trong khuôn khổ hộp xanh lá cây mà WTO cho phép
như: hỗ trợ thu nhập cho người có thu nhập dưới mức tối thiểu, trợ giúp điều
chỉnh cơ cấu thông qua các chương trình trưng dụng nguồn lực, trợ giúp đầu
tư, bảo hiểm thu nhập và các hỗ trợ từ mạng lưới an sinh thu nhập.
- Các biện pháp thuộc hộp xanh lơ:
Việt Nam hiện đang áp dụng một số hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp
thuộc hộp xanh lơ bao gồm: Hỗ trợ đầu tư thông qua các chương trình ưu đãi
tín dụng trong khuôn khổ Quỹ hỗ trợ đầu tư, Chính phủ cung cấp tín dụng ưu
đãi cho các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nông nghiệp thông qua các ngân hàng
thương mại nhà nước, Nhà nước khuyến khích đầu tư dưới dạng miễn giảm
tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế ưu đãi cũng như các miễn giảm đối với
thuế nhập khẩu, trợ cấp đầu vào: các trợ cấp đầu vào nhìn chung được dành
cho những người sản xuất có thu nhập thấp hoặc ở những vùng gặp khó khăn
và các khoản hỗ trợ khuyến khích việc chuyển hướng từ trồng cây thuốc
phiện sang các cây trồng, vật nuôi khác.
Nhìn chung các hỗ trợ của nhà nước trong chính sách thuộc hộp xanh
lơ phù hợp với các yêu cầu trong Hiệp định nông nghiệp của WTO.
- Chính sách thuộc hộp hổ phách:
Vào cuối những năm 1990, phần lớn các chính sách hỗ trợ của Chính
phủ thuộc hộp hổ phách được xuất phát từ Quỹ bình ổn giá như: hỗ trợ lãi
suất đối với các doanh nghiệp thu mua gạo, thịt lợn… khi giá thị trường
xuống quá thấp ảnh hưởng xấu đến thu nhập và đời sống của các hộ nông dân
phụ thuộc chủ yếu vào các sản phẩm này. Kể từ năm 1999, Quỹ bình ổn giá
đã được đổi thành Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Do vậy, nhiều hình thức hỗ trợ trong
nước trước đây nay đã chuyển thành trợ cấp xuất khẩu.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có nhiều hình thức hỗ trợ trực tiếp đối
với một số ngành hàng cụ thể như đối với ngành công nghiệp mía đường kể từ
năm 1999. Thông qua những Quyết định của Chính phủ, khoản kinh phí từ
nguồn ngân sách Nhà nước đã được sử dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp
chế biến đường, ví dô nh khoanh nợ, bù thay đổi lãi suất. Trong số các hỗ trợ
đối với các ngành hàng thì hỗ trợ tài chính lớn nhất và có nguy cơ không tuân
thủ nhiều nhất các quy định của WTO đó là các dạng hỗ trợ đối với ngành
đường trong Quyết định số 28/2004/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo
Quyết định này, các nhà máy chế biến đường sẽ nhận được hỗ trợ tài chính
dưới nhiều hình thức khác nhau, đơn cử như xoá nợ thuế giá trị gia tăng đối
với đường và sản phẩm từ đường trong giai đoạn 2001-2003, cơ cấu lại các
khoản nợ hiện hành của các nhà máy đường với việc Chính phủ bù chênh lệch
về lãi suất vay vốn, bù lỗ do chênh lệch tỷ giá giữa thời điểm mua máy móc
và tỷ giá hiện hành.
Theo tính toán của nhiều chuyên gia tổng chi phí thực hiện theo Quyết
định này vượt quá mức 10% giá trị sản xuất của toàn ngành mía đường (giá trị
sản xuất của toàn ngành này vào khoảng 5,000 tỷ đồng). Nh vậy, mức hỗ trợ
của nhà nước cho ngành mía đường sẽ vượt quá mức hỗ trợ tối thiểu mà các
nước đang phát triển thông thường được phép trợ cấp cho một ngành hàng cụ
thể mà không phải kê khai khi tính tổng mức hỗ trợ gộp (AMS).
- Trợ cấp xuất khẩu:
Trước năm 1998, Chính phủ Việt Nam hầu như không áp dụng một
dạng trợ cấp nào đối với hàng nông sản. Kể từ năm 1998, khi giá nhiều nông
sản trên thị trường thế giới giảm mạnh, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu áp
dụng và gia tăng trợ cấp xuất khẩu đối với một số nông sản.
Các chương trình trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ hiện nay ở dưới
dạng giảm hay miễn thuế đối với hàng nông sản xuất khẩu: ưu đãi tín dụng,
hỗ trợ tài chính trực tiếp đối với doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng mới, sang
thị trường mới hay đối với những hàng hoá chịu biến động mạnh về giá và
thường xuất khẩu. Các mặt hàng chính được hưởng trợ cấp xuất khẩu là gạo,
cà phê, thịt lợn, rau quả, trong đó hơn một nửa là trợ cấp xuất khẩu đối với
gạo.
Xét về cơ cấu hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp, có thể thấy hầu
hết các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thuộc các hộp “xanh lá cây”, “xanh da
trời”, chiếm tỷ trọng 84,5% trong tổng lượng hỗ trợ gộp. Nhóm hỗ trợ riêng
và có phân biệt đối xử chiếm 10,8%. Hỗ trợ trong hộp “hổ phách” chỉ chiếm
4,7%% tổng ngân sách Nhà nước chi cho ngành nông nghiệp (đó là những hỗ
trợ cho phát triển ngành mía đường).
Nh vậy, những hỗ trợ trong hộp “hổ phách”, hình thức hỗ trợ được coi
là bóp méo thương mại nhất chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng mức hỗ
trợ của Nhà nước cho ngành nông nghiệp. Do đó đây sẽ không phải là điều
đáng lo ngại khi gia nhập WTO. Nhưng hiện vẫn còn một số điểm trong chính
sách này chưa phù hợp sẽ phải điều chỉnh bởi vi phạm nguyên tắc tính ổn
định và dễ dự báo đối với ngành hàng hoặc nhóm hàng được trợ cấp. Đó là:
+ Các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp Hổ phách mới chỉ dừng lại ở các giải
pháp mang tính tình thế, chủng loại cũng như khối lượng hàng hoá được nhận
hỗ trợ phụ thuộc nhiều vào cách xử lý ngẫu nhiên, thường không dự đoán.
+ Các nhóm đối tượng được hưởng hỗ trợ là các doanh nghiệp, chủ yếu là
các doanh nghiệp nhà nước, còn hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất còn rất hạn chế.
* Các quy định về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật:
Hệ thống tiêu chuẩn còng nh các quy định về vệ sinh dịch tễ và kiểm
dịch động thực vật của Việt Nam về cơ bản tương đồng với tiêu chuẩn quốc
tế. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực thi các quy định còn kém hiệu quả cả trên
phương diện bảo vệ sức khoẻ của con người và tạo hàng rào bảo hộ cho sản
xuất trong nước.
Như vậy, trong quá trình hội nhập, mặc dù Chính phủ đã ban hành mới,
bổ sung và hoàn thiện nhiều cơ chế, chính sách cởi mở và thông thoáng,
nhưng các biện pháp bảo hộ còn mang nặng tính ngắn hạn, nặng về xử lý tình
thế, hiệu quả thực hiện các biện pháp bảo hộ còn chưa cao, đối tượng tác động
của các giải pháp còn dàn trải, sự phối hợp giữa các giải pháp chưa mang tính
đồng bộ. Nhìn chung mức độ bảo hộ đối với các ngành nông sản của Việt
Nam chưa thực sự hợp lý. Căn cứ vào những Hiệp định liên quan đến lĩnh
vực nông nghiệp của WTO, theo đó những chính sách hiện nay nh đã được
phân tích ở trên có một số quy định chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định
của WTO. Đó là các vấn đề về khoảng cách cần phải điều chỉnh về chính sách
nông nghiệp để gia nhập WTO.
Thành tựu quan trọng nhất của các điều chỉnh chính sách này là tiếp tục
mở cửa nền kinh tế cho thương mại và đầu tư quốc tế. Nếu trở thành thành
viên của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng quyền tiếp cận thị trường các nước
thành viên khác tốt hơn so với hiện nay. Việt Nam sẽ đương nhiên được
hưởng quy chế tối huệ quốc thường xuyên và vô điều kiện (là điều trước đây
được áp dụng ở một số thị trường, hoặc chỉ được áp dông trong trong thời hạn
nhất định ở một số thị trường khác) trong việc xuất khẩu hàng sang nước này
hoặc nước khác. Các hạn chế định lượng đối với hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ bị bãi bỏ. Nếu trở thành viên của WTO và được đa số thành viên công
nhận là nền kinh tế thị trường, Việt Nam sẽ chỉ gánh chịu biện pháp tự vệ của
đối phương nhẹ nhàng hơn trong các vụ kiện chống bán phá giá so với hiện
nay, khi Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Kinh nghiệm cho thấy các nước có nền kinh tế mở, thu hót nhiều vốn
đầu tư nước ngoài và có chiến lược tăng trưởng chủ yếu dùa vào xuất khẩu
nh các nước công nghiệp mới ở Đông Á là những nước có tốc độ tăng trưởng
cao. Mở cửa nền kinh tế và xoá bỏ các chính sách méo mó trong thương mại
sẽ làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển các ngành có lợi thế
so sánh nh nông nghiệp, công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Các nguồn
lực sẽ được sử dụng vào các hoạt động sản xuất mang lại hiệu quả cao nhất,
góp phần phát huy tối đa tiềm năng của nền kinh tế nói chung và nông nghiệp
nói riêng thông qua việc tiếp cận được các thị trường mới với các rào cản
thương mại và kỹ thuật thấp hơn. Số việc làm mới được tạo ra trong các
ngành sử dụng nhiều lao động sẽ lớn hơn nhiều so với số lao động bị mất việc
trong các ngành không có khả năng cạnh tranh.
Thương mại tự do sẽ làm giảm đáng kể giá hàng hoá nhập khẩu và
hàng nội địa cạnh tranh với nhập khẩu. Các ngành sẽ cải thiện được năng lực
cạnh tranh thông qua giảm chi phí sản xuất.
Tăng trưởng cao hơn nói chung và trong nông nghiệp (là nơi tạo thu
nhập cho 84% người nghèo) nói riêng sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc
xoá đói giảm nghèo.
Một tác động quan trọng khác là rủi ro gắn với chệch hướng về thương
mại là điều thường xảy ra khi thực hiện các cam kết thương mại song phương
và khu vực cũng giảm đáng kể. Thể chế thương mại đa phương của WTO cho
phép Việt Nam tiếp cận thị trường của tất cả các nước thành viên ở mọi khu
vực trên thế giới với các điều kiện bình đẳng như các thành viên khác. Với
các điều kiện tiếp cận tới nhiều thị trường thuận lợi hơn so với hiện nay, kim
ngạch ngoại thương của Việt Nam sẽ tăng nhanh hơn, chủ yếu do tăng cường
quan hệ thương mại ở tất cả các thị trường chứ không phải quá thiên lệch
trong quan hệ buôn bán với một số thị trường nhất định gây giảm sút kim
ngach ngoại thương với các thị trường khác.
Một quyền lợi quan trọng của thành viên WTO là khả năng ảnh hưởng
đến chương trình nghị sự của WTO nói chung và khả năng đàm phán thương
mại đa biên trong khuôn khổ WTO nói riêng. Hiện nay, đàm phán về nông
nghiệp vẫn chưa kết thúc. Nếu Việt Nam sớm gia nhập WTO thì Việt Nam
cùng các nước thành viên tương tự như mình có thể ảnh hưởng đến chương
trình nghị sự của vòng đàm phán đó và có nhiều cơ hội hơn để tìm kiếnm
quyền tiếp cận tốt hơn cho hàng hoá xuất khẩu của mình thông qua đàm phán
song phương của vòng đàm phán này. Trở thành viên sớm nghĩa là Việt Nam
càng có nhiều cơ hội tối đa hoá các lợi Ých từ vòng đàm phán thương mại tiếp
theo.
Với tư cách là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có quyền khiếu kiện lên
cơ quan giải quyết tranh chấp WTO khi thấy quyền tiếp cận thị trường của
mình bị vi phạm. Các nước thành viên nhỏ hơn nh Việt Nam sẽ được bảo
đảm an toàn trong việc hưởng các lợi Ých do WTO mang lại.
Ngoài những tác động tích cực nói trên, các điều chỉnh chính sách
ngành nông nghiệp nói riêng và các chính sách khác khi trở thành thành viên
của WTO có thể tác động tiêu cực đến nông nghiệp. Tác động này chủ yếu
xảy ra ro khả năng cạnh tranh kém của các ngành hàng đã được bảo hộ thông
qua hàng rào thuế quan, phi thuế quan cũng như chính sách hỗ trợ trong nước
và chính sách trợ cấp xuất khẩu không phù hợp với các quy định của WTO.
Việc gia nhập WTO ngoài những tác động tích cực do chính sách
thương mại được minh bạch hoá, các cơ hội tiếp cận thị trường rộng hơn, thì
gia nhập WTO, hay những điều chỉnh trong chính sách thương mại nông
nghiệp cũng đưa đến những tác động tiêu cực đối với ngành nông nghiệp.
- Tác động tiêu cực thứ nhất có thể xảy ra đối với nông dân sản xuất
các nông sản hiện đang được bảo hộ hoặc cung cấp nguyên liệu thô cho các
ngành công nghiệp chế biến được bảo hộ và các ngành thay thế nhập khẩu.
Tuy nhiên, các kết luận đưa ra còn có những khác biệt xung quanh việc đánh
giá tác động của việc gia nhập WTO tới việc làm và đói nghèo ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản cũng sẽ phải cạnh
tranh khốc liệt với hàng ngoại nhập chất lượng cao nhưng giá thành lại hạ
hơn. Mía đường là một thí dụ điển hình về tác động của tự do hoá thương mại
đến người nông dân trồng mía và người chế biến là các lò đường thủ công và các
nhà máy đường. Hoặc ngoài ngành mía đường ra thì ngành chăn nuôi bò sữa
hoặc trồng cây nguyên liệu cho ngành giấy cũng có thể bị ảnh hưởng không tốt.
- Tác động tiêu cực thứ hai gắn liền với việc tăng giá các nông sản thiết
yếu sau khi bỏ hỗ trợ trong nước đối với việc sản xuất các nông sản này, hoặc
việc loại bỏ hạn ngạch xuất khẩu, giá cả các nông sản tăng lên sẽ làm thu
nhập thực tế của những người tiêu thụ nông sản bị giảm sút. Tuy nhiên, hiện
nay Việt Nam không hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp nhiều đối với các nông sản cụ
thể nên đây sẽ là tác động rất nhá.
Các nghiên cứu định lượng cũng đưa ra những dự báo khả quan khi
Việt Nam thực hiện tự do hoá thương mại và mở cửa hơn nữa với thị trường
thế giới. Nghiên cứu của Roland-Holst và các cộng sự (2002) đã áp dụng mô
hình cân bằng tổng thể (CGE) và dùa trên Bản chào đầu tiên của Việt Nam để
đưa ra những đánh giá về tác động kinh tế dài hạn của việc Việt Nam gia
nhập WTO, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
Mét số công trình nghiên cứu của các tác giả về mặt định lượng về tác
động có thể của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung
và một số ngành hàng nông sản nói riêng, trong đó các tác giả đã mô phỏng
năm kịch bản khác nhau cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2000-
2020. Kịch bản thứ nhất là mô phỏng nền kinh tế Việt Nam dùa trên xu
hướng tăng trưởng GDP theo “điều kiện bình thường”. Sau đó, kịch bản này
được sử dông nh mét phương án cơ bản để đối chứng với bốn kịch bản khác.
Bảng 2.10: Kết quả mô phỏng xu hướng tăng sản lượng theo ngành qua
các kịch bản [49, tr. 89]
Kịch bản
WTO + cải cách VN - US BTATù do hoá thị
trường vốn + FDI
2000 2010 2020 2000 2010 2020200
0
201
02020
Gạo 3,4 4,8 7,1 3,4 5,5 9,2 3,4 5,7 11,5Các nông sản khác 2,4 3,7 6,3 2,5 4,4 9,1 2,4 4,9 12,8Dệt may 4,7 31,1 62,9 5,3 28,0 65,1 4,9 24,5 68,8Công nghiệp chế
biến
9,4 19,8 50,0 9,8 26,9 92,5 10,1 39,7 179,9
Dịch vô 18,0 38,0 81,7
6
18,6 47,2 129,
0
18,8 60,2 212,2
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tác động của việc gia nhập WTO
nền kinh tế nói chung là theo chiều hướng tích cực, còn đối với một số hàng
nông sản thì tốc độ tăng sản lượng của hàng hoá nông sản theo cùng nhịp độ
tăng trưởng tỷ lệ thuận với tăng trưởng của GDP.
2.2.2. Tác động đến một số hàng hoá nông sản xuất khẩu
Những năm đổi mới cơ chế quản lý và phát triển sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hoá vừa qua đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam mỗi ngày
một mở rộng quan hệ thương mại với nhiều nước và nhiều thị trường trên
khắp thế giới, sản phẩm tham gia thị trường cũng ngày một đa dạng, phong
phó do các lợi thế tương đối về đất đai, khí hậu của đất nước tạo ra. Nhiều sản
phẩm đã chứng tỏ khả năng cạnh tranh, giữ vị trí ngày một vững chắc trên thị
trường thế giới nh gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, hàng thuỷ sản, rau quả
tươi…
Bên cạnh đó, qua tiếp cận thị trường thế giới, nhiều sản phẩm đã và
đang thể hiện khả năng cạnh tranh thấp như: mía đường, ngô, đậu tương, thịt,
sữa…Các sản phẩm này muốn tiếp tục phát triển và tham gia thị trường thì
phải được nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời gian tới. Đặc biệt khi cánh
cửa gia nhập WTO đang đến gần. Điều đó sẽ tác động tới ngành hàng nông
sản xuất khẩu theo cả hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực theo nghĩa
những ngành cạnh tranh yếu sẽ bị đình trệ hoặc bị “bóp chết” do không có thị
trường tiêu thụ.
Có thể đánh giá và phân loại hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
theo tiêu chí năng lực cạnh tranh của từng nhóm sản phẩm. Qua đó có thể
đánh giá được chiều hướng tác động có thể của việc gia nhập WTO đối với
từng nhóm hàng đó.
- Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh và đang cạnh tranh có hiệu quả,
thể hiện rõ rệt cả về ưu thế tự nhiên và kinh tế xã hội, ngay trong tình hình
công nghệ hiện nay vẫn có giá thành thấp hơn so với mọi mức biến động giá
cả thị trường quốc tế, có tiềm năng phát triển lâu dài, có thị trường rộng. Thể
hiện lợi thế cạnh tranh so với các nước xuất khẩu khác về Ýt nhất một trong
các mặt sau: năng suất, phẩm chất hoặc giá thành. Nhóm có khả năng cạnh
tranh cao ở Việt Nam gồm các sản phẩm: thuỷ sản, gạo, hạt tiêu, hạt điều, cà
phê.
- Nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh trung bình: thể hiện lợi thế và
điều kiện tự nhiên, nhưng kỹ thuật sản xuất nguyên liệu thô và công nghệ chế
biến kém làm năng suất, chất lượng, giá thành không vượt trội hẳn so với các
nước xuất khẩu khác. Khả năng xuất khẩu tuỳ thuộc vào biến động giá cả thị
trường quốc tế, năm nào giá cao xuất khẩu có lợi, năm nào giá thấp chịu lỗ
hoặc thu hẹp sản xuất, thị trường không ổn định. Các mặt hàng trong nhóm
này gồm: cao su, chè, sản phẩm chế biến từ gỗ…
- Nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh kém: có một số lợi thế về tự
nhiên hoặc xã hội, nhưng có nhiều cản trở về kỹ thuật, tổ chức, kết cấu hạ
tầng, chính sách cho sản xuất, chế biến và kinh doanh làm năng suất, chất
lượng và giá thành đều thua kém các nước xuất khẩu khác, hiện chưa có thị
trường rõ rệt, mặc dù có thị trường triển vọng trong tương lai. Xuất khẩu với
số lượng hạn chế khi có điều kiện bán buôn thuận lợi, bị xâm nhập thị trường
khi điều kiện bán buôn trở nên bất lợi, phải áp dụng các biện pháp bảo hộ
mậu dịch để duy trì thị trường trong nước. Các mặt hàng thuộc nhóm này có:
rau quả, đường, thịt lợn …
- Nhóm sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh: điều kiện sản xuất
không thích hợp hoặc điều kiện tự nhiên không thuận lợi bằng các nước xuất
khẩu chính. Năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm nguyên liệu và sản
phẩm qua chế biến đều cao hơn so với giá quốc tế. Hiện nay Việt Nam phải
nhập khẩu các mặt hàng thuộc loại này nh: bét mú, sữa, dầu ăn, nguyên liệu
thuốc lá, nguyên liệu bia, bông…
2.1.1.1. Nhóm hàng nông sản có khả năng cạnh tranh
* Mặt hàng thuỷ sản:
Thuỷ sản là ngành có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam,
với 3.200 km bờ biển, có nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng. Mặt khác,
giá lao động trong ngành này còn tương đối rẻ. Do đó, nhiều mặt hàng thuỷ
sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng liên tục, xuất khẩu thuỷ sản đã trở
thành một trong số những thành viên câu lạc bộ xuất khẩu đạt kim ngạch triệu
USD. Năm 2005, mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do các vụ kiện nhưng kim
ngạch xuất khẩu vẫn đạt 3,41 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2004. Trong 7
tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 1,72 tỷ USD, tăng 24,2% so
với cùng kỳ năm 2005 và thực hiện được 55,4% kế hoạch [51].
Danh mục sản phẩm xuất khẩu và hàm lượng chế biến của thuỷ hải sản
không ngừng gia tăng trong thời gian qua, từ chỗ chủ yếu xuất khẩu sản phẩm
đông lạnh đến nay đã sản xuất được nhiều loại sản phẩm ăn sẵn. Tuy nhiên,
so với sản phẩm xuất khẩu của các nước xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới hay
so với các sản phẩm có nguồn gốc từ thủy sản bày bán trong các siêu thị ở các
thị trường nước ngoài có thể thấy tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ hải sản
chế biến sâu còn rất lớn.
Thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam vẫn là EU, Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong 7 tháng đầu năm 2006, cơ cấu xuất khẩu vào các
thị trường này đều tăng, trong đó mức tăng nhiều nhất là thị trường EU với
mức tăng 80%. Dự tính trong vài năm tới có thể hướng tới thị trường
ASEAN, Trung Quốc và các nước Đông Âu cũ.
* Mặt hàng lúa gạo:
Gạo luôn là cây trồng có tầm quan trọng hàng đầu trong cơ cấu sản
xuất nông nghiệp Việt Nam. Diện tích gieo trồng lúa đạt 7,326 triệu ha,
chiếm khoảng 90% diện tích trồng cây lương thực và 60% tổng diện tích canh
tác.
Năm 1990 cả nước xuất khẩu 1,62 triệu tấn gạo cho kim ngạch 304,6
triệu USD, thì năm 2005, lần đầu tiên xuất khẩu gạo đạt mức trên 5 triệu tấn,
thu về cho đất nước hơn 1,34 tỷ USD. Đây là mức cao nhất đạt được trên cả 3
chỉ tiêu lượng, kim ngạch và giá cả xuất khẩu kể từ khi Việt Nam chính thức
tham gia thị trường xuất khẩu gạo thế giới. So với năm 2004, lượng gạo xuất
khẩu tăng gần 1 triệu tấn (25%), kim ngạch tăng trên 400 triệu USD (45%) và
giá cả tăng 48USD/tấn (15%) [36, tr. 27-28].
Các vùng sản xuất gạo của Việt Nam đã hình thành và phát triển theo
hướng thâm canh. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và giống mới đã
giúp nâng cao năng suất và chất lượng gạo. Tỷ lệ lúa chất lượng cao từ 15%
(năm 2000) tăng lên 35% (năm 2005), riêng ở vùng xuất khẩu đạt tỷ lệ 50%
diện tích, tỷ lệ lúa xuất khẩu chiếm 30% sản lượng (2005).
Nét đặc biệt đánh dấu sự phát triển và tăng trưởng của xuất khẩu gạo
Việt Nam là tính ổn định cao trong điều kiện có sự cạnh tranh quyết liệt trên
thị trường thế giới. Xu hướng thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước về lượng gạo
xuất khẩu. Năm 1989, năm đầu tiên Việt Nam chính thức tham gia thị trường
xuất khẩu gạo với số lượng 1,42 triệu tấn, giá bình quân 204 USD/tấn va thu
về cho đất nước 189 triệu USD. Thời kỳ 5 năm 1991-1995 là 1,734 triệu
tấn/năm. Thời kỳ 1996-2000 với mức 3,663 triệu tấn/năm và giai đoạn 2001-
2005 đạt mức xuất khẩu bình quân là 3,706 triệu tấn/năm, Như vậy nếu so với
năm 1989 thì lượng gạo xuất khẩu năm 2005 gấp 3,57 lần, giá gạo tăng 63
USD/tấn và kim ngạch tăng gấp 7 lần [36, tr. 27].
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đã được mở rộng ra 50 nước,
chiếm 20% thị phần gạo thương mại thế giới. Những nước nhập khẩu lượng
lớn gạo của Việt Nam là Indonesia, Phillipin, Singapore, Thuỵ Sỹ, Irắc, Hà
Lan, Malaysia, Hồng Kông, Iran. Theo khu vực thì Châu Á 55,2%, Trung