MỤC LỤC LỜI CÁM ƠN.................................................................................................. 1 LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................. 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT...................................................................... 5 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG..............................................................................................5 I. Khái quát về điều kiện giao dịch chung ............................................... 5 1. Khái niệm.............................................................................................5 2. Giá trị pháp lý của điều kiện giao dịch chung.................................... 6 3. Phân biệt điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu.....................10 4. Điều kiện giao dịch chung và nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng ............................................................................................................... 13 II. Ưu điểm và hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung. . .14 1. Ưu điểm của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh..................................................................................................... 14 a) Ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ chặt chẽ, chuẩn xác và có tính ổn định..................................................................................................... 15 b) Dự kiến các khả năng xảy ra, các căn cứ miễn trách, thuận tiện cho việc giải quyết tranh chấp................................................................... 16 c) Rút ngắn thời gian đàm phán hợp đồng.......................................... 17 d) Giành lợi thế cho bên đưa ra điều kiện giao dịch chung................ 18 2. Hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh..................................................................................................... 19 a) Tạo sự bất bình đẳng về quyền lợi giữa các bên.............................19 b) Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng bị hạn chế ................................ 21 c) Điều kiện giao dịch chung có xu hướng lạc hậu ............................24
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG..............................................................................................5
I. Khái quát về điều kiện giao dịch chung ...............................................5
2. Giá trị pháp lý của điều kiện giao dịch chung....................................6
3. Phân biệt điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu.....................10
4. Điều kiện giao dịch chung và nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng ...............................................................................................................13
II. Ưu điểm và hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung.. .14
1. Ưu điểm của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh.....................................................................................................14
a) Ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ chặt chẽ, chuẩn xác và có tính ổn định.....................................................................................................15
b) Dự kiến các khả năng xảy ra, các căn cứ miễn trách, thuận tiện cho việc giải quyết tranh chấp...................................................................16
c) Rút ngắn thời gian đàm phán hợp đồng..........................................17
d) Giành lợi thế cho bên đưa ra điều kiện giao dịch chung................18
2. Hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh.....................................................................................................19
a) Tạo sự bất bình đẳng về quyền lợi giữa các bên.............................19
b) Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng bị hạn chế ................................21
c) Điều kiện giao dịch chung có xu hướng lạc hậu ............................24
III. Sự cần thiết của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hóa.....................................................25
1. Đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm hàng hóa..................................25
2. Sự cần thiết của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng bảo hiểm hàng hóa...........................................................27
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM............................................................................................................31
I. Khái quát chung...................................................................................31
1. Việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh trên thế giới.........................................................................................................31
2. Khái quát việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong các lĩnh vực ở Việt Nam.............................................................................................33
3. Một số hoạt động kinh doanh áp dụng phổ biến điều kiện giao dịch chung.....................................................................................................36
a) Hoạt động kinh doanh vận tải hàng hóa.........................................36
b) Hoạt động thương mại điện tử........................................................39
c) Hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng................................41
II. Thực trạng sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam....................................................................44
2. Thực trạng sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa đối với các nghiệp vụ cụ thể.........................................46
a) Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa..........................46
b) Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu...............................51
3. Một số tranh chấp phát sinh từ thực tiễn sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa............................................53
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM.........................................................................................58
I. Xu hướng sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh tại Việt Nam...................................................................................................58
II. Đề xuất nhằm khắc phục những hạn chế khi sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh bảo hiểm..................................................62
1. Hạn chế vấn đề thông tin bất cân xứng ............................................62
2. Hạn chế việc lạm dụng vị thế của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm...............................................................................................................65
3. Xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh điều kiện giao dịch chung nói chung và kinh doanh bảo hiểm nói riêng..............................................68
4. Kiểm soát hợp lý điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa................................................................................................70
III. Những đề xuất nhằm tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam...................72
1. Đề xuất đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam...............................................................................................................72
a) Nâng cao nhận thức về điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa..............................................................................72
b) Nâng cao ý thức tôn trọng quyền lợi của khách hàng ...................73
c) Yêu cầu đối với việc soạn thảo điều kiện giao dịch chung.............74
2. Đề xuất đối với các khách hàng .......................................................76
a) Nâng cao nhận thức về điều kiện giao dịch chung ........................76
b) Ý thức việc hiểu rõ các điều kiện giao dịch chung trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm hàng hóa..............................................................78
KẾT LUẬN....................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................81
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin gửi lời cám ơn tới các thầy
giáo, cô giáo trường đại học Ngoại thương đã dạy dỗ, dìu dắt, truyền đạt cho
tôi những kiến thức bổ ích trong những năm học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn: PGS, TS
Tăng Văn Nghĩa, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiều trong
quá trình viết khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế cả về mặt chủ quan và
khách quan, nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong bài
khóa luận. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp nhận xét của các thầy giáo,
cô giáo, các bạn sinh viên quan tâm tới vấn đề này.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Hằng
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu
của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra
đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hầu hết các nền
kinh tế đều nỗ lực hết sức mình để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Chính
nhờ xu thế đó mà thương mại quốc tế ngày càng phát triển với tốc độ ngày
càng mạnh mẽ. Điều đó kéo theo các hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ
ký kết từ các quốc gia, các vùng lãnh thổ với nhau ngày càng nhiều hơn. Với
mục đích nhanh tốc độ và nâng cao hiệu quả của các giao dịch các doanh
nghiệp đã xây dựng những điều khoản hay quy tắc ổn định để áp dụng cho
các giao dịch cùng loại, từ đó điều kiện giao dịch chung được hình thành.
Trên thế giới điều kiện giao dịch chung được ra đời và sử dụng từ khoảng
giữa thế kỷ 19, nó được coi là công cụ hữu hiệu mà các công ty lớn sử dụng
trong các giao dịch với khách hàng. Với xu hướng mở cửa nền kinh tế và tự
do hóa thương mại, điều kiện giao dịch chung ngày càng được sử rộng rãi và
phổ biến. Nó đã thể hiện vai trò tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ và tính
chính xác khi tiến hành giao dịch. Ngày càng có nhiều lĩnh vực sử dụng điều
kiện giao dịch chung cho hoạt động kinh doanh của mình mà phổ biến nhất đó
là lĩnh vực bảo hiểm, tài chính ngân hàng, hoạt động kinh doanh vận tải hàng
hóa,... Tuy nhiên có 1 câu hỏi đặt ra là việc sử dụng điều kiện giao dịch chung
liệu sẽ có lợi cho tất cả các bên tham gia giao dịch?
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh
tế thế giới, cùng với đó là gia tăng mạnh mẽ các hoạt động mua bán trao đổi
hàng hóa với nước ngoài, theo đó việc sử dụng điều kiện giao dịch chung
cũng trở nên phổ biến hơn. Tuy nhiên, một thực tế là các doanh nghiệp còn
2
chưa hiểu đúng và hiểu rõ về điều kiện giao dịch chung dẫn đến nhiều thua
thiệt trong các giao dịch.
Ở Việt Nam, lĩnh vực bảo hiểm nói chung hay các hợp đồng bảo hiểm
hàng hóa nói riêng được đánh giá là sử dụng phổ biến và hiệu quả các điều
kiện giao dịch chung. Tuy đã được sử dụng phổ biến từ lâu nhưng sự thật là
cụm từ điều kiện giao dịch chung vẫn là khái niệm còn mới mẻ ở nước ta. Bởi
vậy tác giả đã chọn vấn đề “Điều kiện giao dịch chung, thực tiễn và đề xuất
áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam” làm đề tài khóa
luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong giới hạn một bài khóa luận, em xin đưa ra các mục đích nghiên cứu
của đề tài:
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về điều kiện giao dịch chung, vai trò của
điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng
- Đánh giá thực trạng sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa tại Việt Nam
- Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường việc sử dụng điều kiện giao
dịch chung trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam, đồng thời
định hướng xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh điều kiện giao dịch chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là điều kiện giao dịch chung trong
kinh doanh nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa nói riêng
cũng như những quy định pháp lý điều chỉnh vấn đề này
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng
bảo hiểm hàng hóa, nhận xét những ưu điểm và bất cập trong việc sử dụng
chúng tại Việt Nam. Ngoài ra, phạm vi nghiên cứu của đề tài còn mở rộng đến
3
việc xem xét kinh nghiệm sử dụng điều kiện giao dịch chung trên thế giới, và
giải pháp tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam.
- Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu của đề tài là từ năm 2003 cho đến
năm 2011, đây là thời kỳ nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, đặc biệt là từ khi gia nhập WTO trên cơ sở đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh
doanh bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
bao gồm: phương pháp thống kê và điều tra phân tích, tổng hợp, đánh giá và
tổng kết thực tiễn, phương pháp phân tích so sánh và các phương pháp nghiên
cứu khoa học và kinh tế khác. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ
thống với việc vận dụng các quan điểm đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ đổi mới và mở cửa nền kinh tế.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
kết cấu luận văn gồm có 3 chương:
Chương I : Những vấn đề cơ bản về điều kiện giao dịch chung
Chương II: Thực tiễn sử dụng điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa tại Việt Nam
Chương III: Đề xuất thúc đẩy sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh
Để việc giao kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh trở nên thuận lợi, các
chủ thể kinh doanh ban đầu sử dụng lặp đi lặp lại những nội dung chính của
hợp đồng, sau đó đã soạn sẵn những nội dung như vậy áp dụng cho các hợp
đồng tương tự. Việc làm này giúp tiết kiệm thời gian soạn thảo hợp đồng ,
đẩy nhanh tốc độ đàm phán và ký kết hợp đồng, từ đó đáp ứng được nhu cầu
ngày càng gia tăng của các giao dịch.
Trong trường hợp mà điều kiện kinh doanh có nhiều đặc điểm và yêu cầu
đặc thù, doanh nghiệp thường sử dụng những điều khoản và tiêu chuẩn hóa nó
để khách hàng phải chấp nhận những nội dung đó. Việc sử dụng điều kiện
giao dịch chung không chỉ làm cho các giao dịch được tiến hành thuận lợi hơn
mà còn nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi của chủ thể soạn thảo ra nó. Điều
kiện giao dịch chung ngày càng trở nên phổ biến trong điều kiện hoạt động
sản xuất và thương mại phát triển như hiện nay.
Điều kiện giao dịch chung (tiếng Anh: General terms and conditions)
được hiểu là những nội dung có tính tiêu chuẩn, ổn định trong hợp đồng, được
doanh nghiệp sử dụng chung cho các khách hàng khác nhau đối với cùng một
loại giao dịch mà các khách hàng không thể sửa đổi những nội dung đó. Điều
kiện giao dịch chung cũng có thể do một số chủ thể cùng nhau xây dựng
nhằm đảo bảo tính thống nhất và hiệu lực chung khi ký kết các hợp đồng
trong một lĩnh vực kinh doanh nào đó.
Việc sử dụng điều kiện giao dịch chung không chỉ rút ngắn thời gian của
các giao dịch, khiến các giao dịch trở nên dễ dàng hơn mà nó còn giúp tăng
cường bảo vệ quyền lợi của chủ thể soạn thảo ra nó một khi chủ thể đó nắm
được sức mạnh thị trường. Tuy nhiên, điều kiện giao dịch chung mang một
đặc trưng cơ bản đó là những nội dung soạn thảo sẵn do một bên đưa ra cho
phía đối phương, bên còn lại chỉ có thể chấp nhận hoặc khước từ ký kết chứ
không được quyền thay đổi nội dung trong đó.
2. Giá trị pháp lý của điều kiện giao dịch chung
6
Điều kiện giao dịch chung đã được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động
kinh doanh nhưng cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thức nào trong
các văn bản pháp lý hay trong các nguyên tắc quốc tế. Hiện nay chỉ có một
vài văn bản pháp lý và tài liệu nghiên cứu đề cập sơ bộ tới Điều kiện giao
dịch chung.
Ví dụ tại Điều 2.19 của “Bộ nguyên tắc hợp đồng Thương mại quốc tế”
(sau đây gọi tắt là PICC- principles of international contracts) do Viện Thống
nhất Tư pháp quốc tế (UNIDROIT) ban hành) quy định về Hợp đồng có các
điều khoản được soạn sẵn có nêu:
1. Khi có một hoặc cả hai bên sử dụng các điều khoản mẫu soạn sẵn để
giao kết hợp đồng sẽ được áp dụng theo các Điều 2.20 –Điều 2.22 dưới đây.
2. Hợp đồng soạn sẵn là những hợp đồng có những điều khoản được
chuẩn bị từ trước cho việc sử dụng nhiều lần và nhìn chung được tiến hành
mà không thông qua đàm phán với phía bên kia.
Như vậy, trong khái niệm này chỉ đề cập đến yêu cầu đối với nội dung của
Hợp đồng soạn sẵn, đó là những điều khoản được một bên chuẩn bị từ trước
và sử dụng để giao kết hợp đồng mà hai bên không cần tiến hành đàm phán,
tức là bên chấp nhận ký kết hợp đồng phải đồng ý với toàn bộ nội dung hợp
đồng mà không được thỏa thuận lại. Khái niệm này không hề đề cập đến hình
thức của Hợp đồng có những điều khoản được soạn sẵn, hoặc bên nào chịu
trách nhiệm soạn thảo sẵn Hợp đồng (một bên đối tác, Hiệp hội thương mại
hay nghề nghiệp,...), hoặc số lượng những điều khoản cần thiết để cấu thành
Hợp đồng, hoặc quy định về một vài điều khoản điển hình (điều khoản trong
tài, điều khoản miễn trừ trách nhiệm,...). Có thể nhận thấy khái niệm này còn
quá chung chung, chỉ yêu cầu liên quan tới điều khoản soạn sẵn, mà đối tác
phải chấp nhận, trong khi các điều khoản khác của chính hợp đồng đó có thể
được thỏa thuận lại giữa các bên.
7
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện hành chưa có những
quy định điều chỉnh riêng về điều kiện giao dịch chung. Các luật chuyên
ngành thường có các chương riêng hoặc điều khoản riêng quy định những nội
dung chính của hợp đồng cung ứng hàng hóa, dịch vụ cần phải có như Luật
Xây dựng, Luật Hàng không dân dụng, Bộ luật Hàng hải, Luật kinh doanh
bảo hiểm, Pháp lệnh du dịch, Luật các tổ chức tín dụng,... để trên cơ sở đó các
bên đàm phán và đưa vào hợp đồng, chứ chưa có các quy định về điều kiện
giao dịch chung; về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xây soạn thảo
điều kiện giao dịch chung; về cơ quan quản lý để hạn chế sự vi phạm của
doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Liên quan tới các loại hợp
đồng có điều khoản soạn sẵn Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đưa ra khái niệm
về Hợp đồng mẫu tại điều 407 Khoản 1: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng
gồm những điều khoản do một bên đưa ra để bên kia trả lời trong một thời
gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận
toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”. Theo khái
niệm này, Bộ luật Dân sự Việt Nam mới chỉ đề cập tới hợp đồng mẫu mà nội
dung của nó chỉ có giá trị pháp lý nếu bên được đề nghị đã chấp nhận. Trong
thực tiễn điều kiện giao dịch chung đã được sử dụng khá phổ biến trong rất
nhiều lĩnh vực kinh doanh, tuy nhiên cho đến nay nó mới chỉ được định nghĩa
trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010: “Điều kiện giao dịch chung là
những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh
doanh đơn phương công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng”. Cũng giống
như khái niệm của PCCI, định nghĩa về điều kiện giao dịch chung còn quá mơ
hồ và chưa thể hiện được chính xác bản chất của điều kiện giao dịch chung.
Như vậy, đối với điều kiện giao dịch chung “dường như chưa trở thành mối
quan tâm của giới pháp lý Việt Nam”1.
1Nguyễn Như Phát - Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2003.
8
Chính vì chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm chính thức
về điều kiện giao dịch chung mà trong thực tế đã xảy ra rất nhiều tranh luận
về giá trị pháp lý của nó. Người ta luôn tìm cách làm giảm hiệu lực của Điều
kiện giao dịch chung do nó có xu hướng bảo vệ quá mức chủ thể soạn thảo ra
nó. Tuy nhiên, trên thực tế điều kiện giao dịch chung vẫn được sử dụng như là
những nội dung mà khách hàng buộc phải chấp nhận nếu họ muốn kí hợp
đồng. Khách hàng, về cơ bản không thể thỏa thuận hay bảo lưu những điều
kiện đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ thể đã đưa ra điều kiện giao dịch
chung đó. Nếu khách hàng ký vào hợp đồng (có hình thức là mẫu sẵn) thì
những điều kiện giao dịch chung có giá trị ràng buộc họ, không phụ thuộc vào
việc họ đã đọc hay đọc kỹ nó hay chưa. Nguyên tắc tự do hợp đồng ở đây bị
hạn chế và chỉ có thể được giải thích là nếu khách hàng thấy bất lợi thì không
giao kết hợp đồng nữa2.
Điều kiện giao dịch chung về nguyên tắc ràng buộc các bên ký kết, khách
hàng buộc phải chấp nhận nó. Tuy nhiên trong những trường hợp nhất định,
điều kiện giao dịch chung sẽ bị tuyên bố hoặc theo quy định của pháp luật trở
nên vô hiệu, chẳng hạn:
- Doanh nghiệp đã lạm dụng điều kiện giao dịch chung trở thành những
nội dung thể hiện sự bất bình đẳng và có dấu hiệu áp đặt khách hàng chấp
nhận những điều kiện đó một cách bất hợp lý
- Doanh nghiệp đã lạm dụng sức mạnh thị trường của mình, sự bất tương
quan về nguồn lực hoặc đã cạnh tranh không công bằng gây thiệt hại cho
khách hàng.
- Khi chúng được quy định không rõ ràng hoặc mâu thuẫn với các điều
khoản được thỏa thuận riêng.
- Hoặc trong một số trường hợp có quy định là trước khi đồng ý ký kết
hợp đồng, phía đối phương phải đọc kỹ các điều khoản trong bản điều kiện 2 Tăng Văn Nghĩa - Bàn về điều kiện giao dịch chung của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2009.
9
giao dịch chung, nếu phía bên kia không đọc qua các điều kiện này thì điều
kiện giao dịch chung được xem là vô hiệu.
3. Phân biệt điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu
Trong giai đoạn đầu sử dụng những điều khoản soạn sẵn, với mục đích
bảo vệ quyền lợi cho các thành viên của mình, các tập đoàn, các doanh nghiệp
lớn thường đưa ra những điều quy định này, những cách ứng xử kia cho việc
mua bán hàng hoá. Đầu tiên đó là những điều khoản mẫu (standard clause;
clause type) để vận dụng vào các hợp đồng mua bán. Đó chỉ mới là các qui
định, cách xử lý cho từng vấn đề của quan hệ mua bán như: như cơ sở của giá
cả, phương thức thanh toán, điều kiện giao hàng, khiếu nại, phạt bội ước,
trọng tài. Điều khoản mẫu chưa phải là biện pháp có tính chất tổng thể cho
việc ký kết hợp đồng. Sau đó người ta đã tập hợp những điều khoản mẫu như
thế vào trong một văn bản có tính tổng quát hơn, đó là các hợp đồng mẫu.
Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp tiếp tục phát triển, họ cá biệt hóa các hợp
đồng tham khảo này và tách phần điều khoản soạn sẵn đẩy đủ nội dung thành
một bản điều kiện không thay đổi qua các thương vụ, điều kiện giao dịch
chung dần được hình thành. Sau đây xin được trình bày về sự giống và khác
nhau của hai khái niệm này.
- Giống nhau
Hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung đều giống nhau ở mục đích
sử dụng. Sự ra đời của hợp đồng mẫu, kế đến là điều kiện giao dịch chung với
tính chuẩn hóa và ổn định cao, là nhằm mục đích giúp cho việc giao kết hợp
đồng trở nên thuận tiện và dễ dàng, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho các
bên khi tham gia ký kết hợp đồng, góp phần đẩy nhanh tốc độ các giao dịch từ
đó thúc đẩy thương mại phát triển.
Thông qua việc thiết lập các quy tắc bán hàng, cung cấp dịch vụ thống
nhất, các thương nhân đã đã phát triển nhiều chủng loại hợp đồng cụ thể mà
các nhà làm luật chưa lường hết được. Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất cao vì
10
nó kịp thời đáp ứng được yêu cầu thay đổi liên tục của các loại giao dịch
trong khi Luật pháp thường có độ trễ so với thực tế.
- Khác nhau
Hợp đồng mẫu thường do các tập đoàn kinh doanh, các hiệp hội soạn thảo
để các thành viên của mình sử dụng, ví dụ: Hiệp hội buôn bán ngũ cốc Luân
đôn (The London Corn Trade association) có tới trên dưới 60 loaị hợp đồng
mẫu: Hiệp hội đường của Luân đôn (The Sugar association of London) cũng
có hàng chục loại hợp đồng mẫu để các hội viên tuỳ nghi sử dụng. Trong khi
đó, các điều kiện giao dịch chung là nội dung do từng doanh nghiệp soạn thảo
sẵn và thường in vào mặt sau của hợp đồng, nó có tính chất cá biệt hóa, phù
hợp với từng doanh nghiệp.
Về lĩnh vực áp dụng: trước chiến tranh thế giới lần hai, các hợp đồng
mẫu chỉ được áp dụng đối với tất cả các mặt hàng, kể cả những loại hàng hoá
vô hình như dịch vụ tư vấn kỹ thuật (Engineering), mua bán sáng chế
(Licence) và bí quyết kỹ thuật (Knowhow)... Tuy nhiên, lĩnh vực mà các hợp
đồng mẫu được áp dụng phổ biến vẫn là lĩnh vực buôn bán những mặt hàng
nguyên liệu nông sản và khoáng sản, nghĩa là những mặt hàng có khối lượng
lớn. Còn điều kiện giao dịch chung được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực
kinh doanh đặc thù như xây dựng, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, bưu chính
viễn thông,...
Với hợp đồng mẫu, khách hàng có thể đồng ý hoặc không đồng ý với nội
dung của các điều khoản được soạn sẵn, tuy nhiên nếu muốn thực hiện giao
dịch với phía bên kia, hai bên vẫn có thể đàm phán thỏa thuận để cùng đi đến
thống nhất để hình thành một bản hợp đồng mới mà không dùng đến hợp
đồng mẫu nữa. Nhưng với điều kiện giao dịch chung, khách hàng chỉ có thể
lựa chọn một là không thực hiện giao dịch với chủ thể soạn thảo ra điều kiện
giao dịch chung, hai là đồng ý toàn bộ nội dung trong điều kiện giao dịch
11
chung khi muốn giao dịch diễn ra, chứ không thể thỏa thuận về việc sửa đổi
hay bảo lưu bất kỳ điều khoản nào trong bản điều kiện giao dịch chung.
- Nhận xét
Điều kiện giao dịch chung không dựa trên lý thuyết về hợp đồng truyền
thống. Việc ra đời của điều kiện giao dịch chung nhằm đáp ứng nhu cầu của
việc phát triển giao dịch thương mại đến mức việc sản xuất, trao đổi, mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ mang tính hàng loạt; việc tiến hành các giao dịch,
trong đó nội dung của hợp đồng giao kết được tiêu chuẩn hóa ở mức độ cao
về mặt nội dung cũng như hình thức.
Điều kiện giao dịch chung thường được xây dựng theo hướng có lợi cho
người soạn ra nó. Bên đưa ra điều kiện giao dịch chung thường khai thác mối
quan hệ bất bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng. Họ sẽ buộc phải chấp
nhận những điều kiện do người soạn thảo điều kiện giao dịch chung đưa ra do
không có hoặc hầu như không có sự lựa chọn nào khác. Cho nên, nguyên tắc
tự do hơp đồng bị hạn chế nhất định trong các giao dịch dựa trên điều kiện
giao dịch chung.
Điều kiện giao dịch chung được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
và chúng đều có giá trị pháp lý như nhau, chẳng hạn thông qua mẫu bắt buộc,
thông qua việc in vào mặt sau của hợp đồng, mặt sau của chứng từ (vận đơn),
thông qua điều lệ, quy tắc kinh doanh của doanh nghiệp,...và nhiều dạng tồn
tại khác cũng được coi là điều kiện giao dịch chung.
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng điều kiện giao dịch chung đặt ra một
vấn đề là liệu chúng có thể làm hạn chế đến quyền tự do hợp đồng của các
chủ thể trong xã hội?
12
4. Điều kiện giao dịch chung và nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng
Nguyên tắc tự do hợp đồng có thể nói là nguyên tắc phổ quát nhất trong
pháp luật về hợp đồng, nó được thể hiện rất rõ trong pháp luật Việt Nam cũng
như các quy tắc quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại.
Ngay tại Điều 1.1 (Tự do hợp đồng) - Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp
đồng thương mại quốc tế 2004 đã quy định: “Các bên được tự do giao kết hợp
đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng”.
Đối với pháp luật Việt Nam, Tại Điều 389 Bộ Luật dân sự Việt Nam về
Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự nêu: “ Việc giao kết hợp đồng dân sự
phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”.
Hay trong Điều 11 Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng khẳng định:
“Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại
1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của
pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo
hộ các quyền đó.
2. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không
bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.”
Như vậy, có thể khẳng định Nguyên tắc tự do hợp đồng là nguyên tắc cơ
bản khi ký kết và thực hiện các hợp đồng thương mại. Theo đó, buôn bán với
ai, theo giá cả và những điều kiện thương mại nào, về nguyên tắc thuộc quyền
tự do lựa chọn và định đoạt của từng người kinh doanh, chỉ có điều nó không
được trái với các quy định của pháp luật. Sau khi các thỏa thuận đó có hiệu
13
lực sẽ buộc các bên phải tuân thủ, sau khi ký hợp đồng bên nào cho rằng mình
thua thiệt sẽ không có quyền chối bỏ các nghĩa vụ của hợp đồng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh quốc tế, việc áp dụng nguyên tắc
trên cũng có những ngoại lệ mà theo đó, quyền tự do hợp đồng không hoàn
hảo như các trường hợp phổ quát hoặc nó phải được tiếp cận dưới giác độ
khác nhằm làm sáng tỏ hơn quyền tự do hợp đồng đối với các trường hợp như
độc quyền kinh doanh của Nhà nước, hợp đồng trong việc cung cấp dịch vụ
công, đặc biệt là khi doanh nghiệp sử dụng điều kiện giao dịch chung. Bên
cạnh đó, các chủ thể của hợp đồng là công dân của các quốc gia nên sẽ chịu
sự chi phối của pháp luật các quốc gia này, đó cũng là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế tính tự do của hợp đồng.
Trong hoạt động kinh doanh trên thế giới hiện nay việc áp dụng điều kiện
giao dịch chung ngày càng trở nên phổ biến. Sử dụng điều kiện giao dịch
chung làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên dễ dàng và thuận lợi cho các
bên, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch qua đó thúc đẩy các quan hệ
thương mại phát triển. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, bản chất điều kiện
giao dịch chung là các nội dung đã được một bên soạn thảo sẵn đưa ra cho
bên kia, nếu muốn hợp đồng được giao kết thì phía được đề nghị phải chấp
nhận hoàn toàn những nội dung đó. Chính vì thế, xét ở một góc độ nào đó,
việc sử dụng điều kiện giao dịch chung đã làm hạn chế đi quyền tự do hợp
đồng. Đó là những trường hợp các hãng, các tập đoàn quá lớn, họ có sức
mạnh thị trường, họ sử dụng điều kiện giao dịch chung với những đối tác của
họ. Vì không có điều kiện lựa chọn đối tác để thực hiện giao dịch mà các
doanh nghiệp nhỏ, các khách hàng bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ những
điều khoản của điều kiện giao dịch chung, mà không thể thỏa thuận hay bảo
lưu mặc dù điều đó có thể gây bất lợi cho họ khi có tranh chấp xảy ra.
II. Ưu điểm và hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung
1. Ưu điểm của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh
14
Điều kiện giao dịch chung là những nội dung được ấn định từ trước nên
chúng thường chặt chẽ, chuẩn xác trong ngôn ngữ và có tính ổn định của
chúng - đây là ưu điểm rõ nhất của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung
trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
a) Ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ chặt chẽ, chuẩn xác và có tính ổn định
Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng là ngôn ngữ pháp lý - thương mại rất
chặt chẽ và chính xác. Các câu văn dài có thể gây sự khó hiểu và dễ mất đi
tính chính xác. Để loại trừ sự hiểu lầm, người ta thường dùng những câu văn
ngắn với trật tự logic.
Trong nội dung của điều kiện giao dịch chung nhiều thuật ngữ pháp lý cũng
như thuật ngữ thương mại được sử dụng. Điều này không chỉ có tác dụng xác
lập cách hiểu thống nhất, chính xác về từ ngữ được hiểu trong hợp đồng mà
còn nó còn chứa đựng những công thức để xử lý những vấn đề nghiệp vụ cụ
thể. Việc sử dụng điều kiện giao dịch chung làm tăng độ chuẩn xác, chặt chẽ
mà không làm hợp đồng trở nên rườm rà, phức tạp. Chẳng hạn, điều kiện giao
dịch chung trong trong hợp đồng mua bán quốc tế dẫn chiếu tới một trong các
điều khoản của Incoterms. Mỗi điều khoản của Incoterms đều quy định rất rõ
về quyền hạn và trách nhiệm của người bán và người mua. Như vậy, các
doanh nghiệp có thể biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với hàng
hóa đến đâu mà các bên không cần phải liệt kê chúng trong hợp đồng. Ví dụ,
điều khoản khiếu nại của hợp đồng dẫn chiếu đến văn bản của Phòng thương
mại quốc tế như sau: “ Điều khoản miễn trách về trường hợp bất khả kháng
của Phòng thương mại Quốc tế (xuất bản phẩm của ICC số 421) là phần
không tách rời khỏi hợp đồng này”. [The force majeure (Exemption) clause
of the International Chamber of Commerce (ICC Publication No.421) is
hereby incorporated in this contract].
Như vậy việc sử dụng điều kiên giao dịch chung với ngôn ngữ diễn đạt có
độ chính xác tối đa không chỉ tạo ra tính chặt chẽ, chuẩn xác cho hợp đồng
15
mà còn đưa đến một cách hiểu cho các bên đối tác. Từ đó tránh hiểu sai hoặc
nhầm lẫn như trong việc ký các hợp đồng thông thường.
b) Dự kiến các khả năng xảy ra, các căn cứ miễn trách, thuận tiện cho
việc giải quyết tranh chấp
Các nội dung có phổ biến nhất trong điều kiện giao dịch chung có thể
thấy, chẳng hạn: Về nguyên tắc giao hàng, về nguyên tắc thuê tàu, điều khoản
về trường hợp bất khả kháng, điều khoản phạt vi phạm, khiếu nại,... Đây là
những nội dung dựa trên sự tổng hợp kiến thức về hợp đồng và kinh nghiệm
thực tiễn trong lĩnh vực kinh doanh của bên soạn thảo, từ các quy định của
pháp luật có liên quan đến hợp đồng.... Do vậy, bên soạn thảo với kinh
nghiệm chuyên môn dễ dàng dự kiến các khả năng xảy ra để đưa vào nội
dung điều kiện giao dịch chung, giúp thuận tiện hơn cho các bên khi giao kết
hợp đồng. Có thể lấy ví dụ một phần điều khoản sử dụng mà các khách hàng
phải đọc kỹ và chấp nhận trước khi truy cập và website:sony.com.vn: “Sony
không miêu tả về sự tương thích của các thông tin chứa đựng trong các tài
liệu được công bố trên trang Sony vì bất kỳ mục đích nào. Tất cả các tài liệu
này được cung cấp “như là” không có sự bảo đảm, Sony từ chối bất kỳ sự bảo
đảm và các điều kiện nào liên quan đến tài liệu, bao gồm tất cả các bảo đảm
và điều kiện về khả năng có thể bán được, sự rõ ràng, có hàm ý hoặc có tuân
theo quy định của luật pháp hay không, sự phù hợp với một mục đích đặc biệt
nào đấy, tiêu đề có hoặc không vi phạm vào các điều khoản. Trong các trường
hợp này, Sony sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ thiệt hại đặc biệt, gián
tiếp hoặc có kết quả hoặc bất kỳ các thiệt hại nào gây ra bởi những hư hại
trong quá trình sử dụng, mất dữ liệu, mất các lợi ích, ở trong các điều khoản
của hợp đồng, sự cẩu thả hoặc các hành vi sai trái khác, gây ra do có hoặc
không liên quan đến việc sử dụng thông tin có trong tài liệu này”3. Có thể
thấy rõ phía Sony đề cập đến các khả năng có thể xảy đến với khách hàng khi
3 Xem thêm tại địa chỉ : http://www.sony.com.vn/section/termsofuse.
tiếp nhận các thông tin từ trang web của công ty này, các khách hàng tiếp tục
truy cập tức là đã đồng ý với các điều kiện đó.
Tranh chấp là vấn đề thường xảy ra trong hoạt động thương mại nói
chung. Đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khi tranh chấp xảy ra
sẽ gây ra rất nhiều phiền phức cho cả hai bên. Do đó, việc lường trước và
phòng ngừa những tranh chấp có thể xảy ra là điều vô cùng quan trọng cho cả
hai bên khi đàm phán ký kết hợp đồng. Bản điều kiện giao dịch chung được
soạn thảo ra với mục đích ban đầu là đảm bảo quyền lợi cho bên soạn thảo, vì
vậy ngoài việc dự kiến các khả năng xảy ra trong đó còn đưa ra các căn cứ
miễn trách. Chính vì thế, khi sử dụng điều kiện giao dịch chung, doanh nghiệp
có lợi thế lựa chọn và nắm vững nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nên khi tranh
chấp xảy ra bên soạn thảo thường có lợi thế hơn. Điều này là vô cùng cần thiết
khi giải quyết các tranh chấp, khiếu nại sau khi giao kết hợp đồng.
c) Rút ngắn thời gian đàm phán hợp đồng
Như đã phân tích ở trên, với những ưu điểm là ngôn ngữ chính xác, chặt
chẽ, dự kiến trước các khả năng xảy ra cũng như các căn cứ miễn trách, phần
lớn các điều khoản trong hợp đồng đã được đưa ra. Như vậy sẽ tiết kiệm được
rất nhiều thời gian đàm phán các điều khoản có tính chất nguyên tắc trong tất
cả các thương vụ. Bên soạn thảo sẽ đưa sẵn những nội dung đó vào hợp đồng,
việc còn lại của các bên là thỏa thuận các điều khoản mang tính chất cá biệt cho
từng giao dịch cụ thể. Nhờ có điều kiện giao dịch chung không đẩy nhanh tốc độ
đàm phán mà còn tiết kiệm được tiền bạc, công sức cho cả hai phía đối tác.
Tác dụng lớn nhất của điều kiện giao dịch chung là đơn giản hóa việc giao
kết hợp đồng. Các doanh nghiệp khi đưa ra điều kiện giao dịch chung thường
có một lợi thế nhất định trên thị trường và có khả năng gây sức ép cho bên đối
tác phải chấp nhận vô điều kiện các điều khoản mà bên mình đưa ra. Đây là
một cách để các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp lớn) đẩy nhanh
17
tốc độ cho các giao dịch của mình đồng thời sử dụng lợi thế trong kinh doanh
trên thị trường
Về phía bên được đề xuất điều kiện giao dịch chung, họ có điều kiện
nghiên cứu những nội dung mang tính toàn diện và chuẩn xác. Điều này đặc
biệt có ý nghĩa trong các giao dịch khi một phía đối tác có chuyên môn hơn
soạn thảo các nội dung của điều kiện giao dịch chung. Phía khách hàng chỉ
phải xem xét kỹ lưỡng các nội dung đã bao gồm cả các tình huống có thể xảy
ra cũng như các căn cứ miễn trách từ đó đi đến quyết định đồng ý giao dịch
hay không. Việc làm này rõ ràng nhanh chóng hơn so với việc ký kết các hợp
đồng thông thường.
d) Giành lợi thế cho bên đưa ra điều kiện giao dịch chung
Lợi nhuận là mục tiêu lớn nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào hiện diện trên
thị trường. Để có được lợi nhuận các doanh nghiệp phải giành giật lợi thế
trước tất cả các đối tác. Bên cạnh đó, rủi ro luôn đi song hành cùng lợi nhuận
mà có thể xảy đến với doanh nghiệp bất cứ lúc nào, như: rủi ro thiên tai, rủi ro
mất mát, rủi ro giao hàng chậm hay chất lượng hàng hóa bị ảnh hưởng trong
quá trình vận chuyển, rủi ro thanh toán,... Người ta không thể triệt tiêu rủi ro
mà chỉ có thể hạn chế sự ảnh hưởng của nó. Một cách hữu hiệu được nằm ở
các điều khoản của hợp đồng. Bên nào giành được lợi thế ngay từ khi đàm
phán ký kết hợp đồng cũng sẽ giảm thiểu được tối đa rủi ro cho mình. Việc
soạn thảo điều kiện giao dịch chung tất yếu sẽ đưa ra những điều khoản có lợi
cho doanh nghiệp mình trong suốt quá trình tiến hành thương vụ và thậm chí
khi có tranh chấp xảy ra.
18
2. Hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh
doanh
Người sử dụng điều kiện giao dịch chung không chỉ có mục đích làm cho
việc giao kết trở nên thuận lợi mà còn thông qua đó tạo lợi thế cho mình và áp
đặt những bất lợi cho khách hàng. Có thể thấy những điểm hạn chế của điều
kiện giao dịch chung cụ thể như sau:
a) Tạo sự bất bình đẳng về quyền lợi giữa các bên
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng điều kiện giao dịch chung có ưu
điểm là giành lợi thế cho bên soạn thảo ra nó. Tuy nhiên, trong kinh doanh
một bên cố giành giật lợi thế cho mình tất yếu sẽ gây bất lợi cho bên còn lại.
Bên sử dụng điều kiện giao dịch chung dễ lạm dụng việc đưa điều khoản có
tính chất tiêu chuẩn, có lợi cho mình để áp đặt điều kiện khó khăn cho khách
hàng, đồng thời củng cố vị trí, ưu thế của mình trong giao dịch. Bên sử dụng
điều kiện giao dịch chung cũng dễ lạm dụng tình trạng thông tin bất cân xứng
che đậy thông tin về thị trường, tính năng, công dụng của hàng hóa,... Chẳng
hạn, người mua không có thông tín xác thực, đầy đủ và kịp thời về hàng hóa,
điều kiện thương mại,...nên không thể đưa ra những biện pháp bảo vệ quyền
lợi cho mình (như không biết rõ về điều kiện bảo hành phụ thuộc vào điều
khoản bảo trì, bảo dưỡng hoặc điều kiện khiếu nại về phẩm chất hàng hóa).
Tâm lý chủ quan, ỉ lại của khách hàng vào bên doanh nghiệp soạn thảo điều
kiện giao dịch chung cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thông tin bất cân
xứng, vô hình trung cản trở cho việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Bên đưa ra điều kiện giao dịch chung bao giờ cũng là bên đã có sự tìm
hiểu kỹ lưỡng đối với lĩnh vực mà mình kinh doanh bao gồm cả những quy
định của luật pháp có liên quan. Việc lựa chọn điều khoản nào để đưa vào nội
dung của điều kiện giao dịch chung đã được doanh nghiệp tính toán kỹ lưỡng,
kể cả việc lường trước những tình huống có thể xảy ra gây bất lợi cho phía
mình. Bên được đề nghị chấp nhận điều kiện giao dịch chung ở vị thế bị động
19
do ít thông tin hơn rất dễ gặp rủi ro sau khi hợp đồng đã giao kết. Khi rủi ro
xảy đến, khách hàng không thể khiếu nại được vì bên soạn thảo nội dung
điều kiện giao dịch chung những cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Ví dụ về hai loại hợp đồng mẫu nhập khẩu (Purchase Contract) và xuất
khẩu ( Sales contract)4 do tập đoàn Sumitomo soạn thảo cùng quy định về
việc khiếu nại:
Hợp đồng xuất khẩu: điều khoản khiếu nại quy định “ mọi khiếu nại của
người mua liên quan đến hợp đồng phải được viết và gửi bằng thư máy bay
trong vòng 30 ngày kể từ ngày hàng đến cảng đích và trong vòng 60 ngày đối
với các khuyết tật ẩn của hàng hóa và mọi khiếu nại phải có bằng chứng do
một cơ quan giám định có thẩm quyền cấp”.
Hợp đồng nhập khẩu: điều khoản khiếu nại ghi rõ “người mua có quyền
khiếu nại (ngoại trừ khuyết tật ẩn) liên quan đến hàng hóa dưới hình thức văn
bản trong thời gian hợp lý kể từ ngày hàng đến cảng đích thông qua bằng
chứng giám định không kể là của người mua hoặc khách hàng của người mua.
Ngoài ra, hợp đồng mẫu này còn quy định: Người bán phải chịu trách nhiệm
về khuyết tật của hàng hóa tại bất kỳ thời điểm nào sau khi giao hàng, bất kể
việc giám định và chấp nhận hàng hóa của người mua hoặc khách hàng của
người mua, với điều kiện là băn bản khiếu nại được làm trong khoảng thời
gian hợp lý sau khi phát hiện hàng có khuyết tật”.
Cùng là điều khoản khiếu nại do tập đoàn Sumitomo soạn thảo nhưng có
thể thấy rõ mâu thuẫn lợi ích của bên mua trong hợp đồng xuất khẩu và hợp
đồng nhập khẩu. Nếu như ở hợp đồng xuất khẩu bên mua chỉ được dành
khiếu nại trong khoảng thời gian tối đa là 60 ngày và phải có bằng chứng do
một cơ quan giám định có thẩm quyền cấp thì trong hợp đồng nhập khẩu,
Sumitomo ở vị trí bên mua có quyền khiếu nại trong một khoảng thời gian
hợp lý – tức là không quy định cụ thể, cũng không yêu cầu văn bản khiếu nại 4 Xem phụ lục 1 và phụ lục 2: Hợp đồng mẫu nhập khẩu (Purchase contract) và xuất khẩu (Sales contract).
20
phải được gửi bằng thư máy bay và kèm theo chứng từ giám định của cơ quan
có thẩm quyền. Cũng có sự mâu thuẫn tương tự đối với lợi ích của bên bán
hàng - tập đoàn Sumitomo trong hợp đồng xuất khẩu và bên bán hàng trong
hợp đồng nhập khẩu. Ở đây có hiện rõ một sự thống nhất ở cả hợp đồng nhập
khẩu và hợp đồng xuất khẩu đó là tối đa hóa lợi ích của bên soạn thảo điều
kiện giao dịch chung cho dù ở vị trí nhà nhập khẩu hay nhà xuất khẩu. Và rõ
ràng khách hàng của họ là người mua hay người bán đều bị đặt trước những
điều kiện bất lợi. Có thể nói việc tận dụng vị thế của người soạn thảo điều
kiện giao dịch chung là nguyên nhân chính dẫn đến sự bất bình đẳng của các
bên tham gia giao dịch.
b) Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng bị hạn chế
Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng của các bên là một trong những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng. Điều kiện giao dịch chung được xây
dựng nhằm mục đích đơn giản hóa quy trình đàm phán ký kết hợp đồng. Tuy
nhiên, trong thực tế, các thương nhân khi xây dựng các điều khoản giao dịch
chung thường có xu hướng lạm dụng sức mạnh thị trường của mình áp đặt
những điều kiện gây bất lợi cho khách hàng, dẫn đến tình trạng quyền tự do
của khách hàng bị xâm phạm. Thậm chí, nhiều trường hợp, các thương nhân
còn hạn chế tính tùy nghi của các quy tắc, chèn ép khách hàng, dồn họ vào
tình thế khó lựa chọn, nếu muốn ký kết hợp đồng thì tức là chấp nhận hoàn
toàn điều kiện giao dịch chung đã được soạn thảo sẵn, nếu không chấp nhận
hoàn toàn nội dung của điều kiện giao dịch chung thì tức là từ chối tham gia
giao dịch. Hoặc không ít các trường hợp, thương nhân cố tình dùng các thủ
thuật pháp lý để phân chia rủi ro pháp lý và lợi ích một cách không công
bằng, gây bất lợi cho khách hàng, người tiêu dùng.
Một đặc điểm quan trọng của điều kiện giao dịch chung là được soạn
thảo trước và sử dụng nhiều lần cho nhiều khách hàng mà không qua thương
lượng. Các điều khoản trong hợp đồng thường được tiêu chuẩn hóa về mặt
21
hình thức và thường không công bằng nếu xét ở khía cạnh nội dung. Nó
thường được soạn theo hướng có lợi cho người soạn thảo hoặc người sử dụng.
Sở dĩ có hiện tượng này là do: một bên trong hợp đồng không được thỏa
thuận một cách thực sự về những điều khoản mà mình sẽ chấp nhận ký kết.
Bên soạn thảo nội dung của điều kiện giao dịch chung thường là các tập
đoàn, công ty lớn có sức mạnh và vị thế trên thị trường. Trước những đối tác
như vậy, khách hàng buộc phải chấp nhận điều kiện giao dịch chung đã được
soạn thảo sẵn. Thậm chí, một số hãng có sức mạnh thị trường liên kết lại với
nhau để thống nhất những điều kiện giao dịch chung cho một số thị trường,
làm cho khách hàng không có lựa chọn nào khác dù biết nhận phần bất lợi
nhưng vẫn phải chấp nhận những nội dung đó để tham gia giao dịch.
Xét dưới góc độ quyền tự do hợp đồng của các chủ thể trong kinh doanh,
những hành vi nêu trên đều ít nhiều xâm phạm tới nguyên tắc tự do hợp đồng
– tự do thỏa thuận về những điều gì mình mong muốn mà pháp luật không
cấm. Trên thực tế, khi ký kết hợp đồng, bản thân người tiêu dùng, khách hàng
cũng ít ý thức về điều kiện giao dịch chung, thường mặc nhiên chấp nhận
những quy định, quy tắc bán hàng của thương nhân dưới dạng ký kết vào hợp
đồng có sử dụng điều kiện giao dịch chung mà không biết đến việc thỏa thuận
lại (bảo lưu) điều khoản chưa rõ hoặc bất lợi cho bản thân. Có thể kể ra một
số nguy cơ vi phạm quyền tự do của khách hàng liên quan đến điều kiện giao
dịch chung như sau5:
Thứ nhất, điều kiện giao dịch chung có những quy định nhằm hạn chế,
loại bỏ quyền của khách hàng. Ví dụ, có những cơ sở kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đã đưa ra các điều kiện giao dịch chung dưới dạng dẫn chiếu tới bảng
niêm yết như: “Hàng mua đã mua rồi miễn trả lại”, bất kể hàng hóa có khuyết
tật, hư hỏng gì. Rõ ràng đây là những điều khoản hết sức bất lợi cho khách
5 Ths. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, “ Bàn về điều kiện thương mại chung” trên trang http://www.hslaw.vn/diendan/default.aspx?g=posts&m=32.
vực khác về hàng hóa cũng được sử dụng với điều kiện giao dịch chung do
các doanh nghiệp độc quyền nhà nước cung cấp. Những nội dung của điều
kiện giao dịch chung được ấn định trong các hợp đồng mẫu (bắt buộc) do cơ
quan chủ quản ban hành hoặc phê duyệt, khách hàng chỉ cần điền các thông
tin theo yêu cầu của bên cung ứng sản phẩm hoặc dịch vụ. Doanh nghiệp
cung ứng sản phẩm hoặc dịch vụ là người quyết định nội dung của Hợp đồng
trong đó đã bao gồm điều kiện giao dịch chung.
Trong kinh doanh quốc tế, việc sử dụng điều kiện giao dịch chung của
các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Nguyên nhân chính của tình
trạng này là hiện nay các chủ thể kinh doanh của Việt Nam chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có sức mạnh thị trường. Các tập đoàn, tổng
công ty lớn chủ yếu là của Nhà nước với cách thức làm việc lạc hậu và hạn
chế về nghiệp vụ kinh doanh. Vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể
xây dựng cho mình những bản điều kiện giao dịch chung có nội dung ổn định,
chặt chẽ và có sức thuyết phục khách hàng. Hơn thế, uy tín trên thị trường
quốc tế nhỏ khiến cho doanh nghiệp Việt nam không có khả năng ép buộc
khách hàng sử dụng những điều kiện giao dịch chung do phía công ty mình
đưa ra. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn sử dụng các điều kiện
giao dịch chung của các doanh nghiệp nước ngoài soạn sẵn để đưa vào nội
dung hợp đồng. Các điều kiện giao dịch chung của các công ty nước ngoài tuy
chặt chẽ và có tính tiêu chuẩn hóa cao nhưng thường rất dài và có nhiều điều
33
khoản không đảm bảo tính cân bằng về lợi ích của các doanh nghiệp Việt
Nam. Nếu các doanh nghiệp không cân nhắc kỹ lưỡng trước khi áp dụng các
Điều khoản giao dịch chung có sẵn đó thì đôi khi sẽ chịu những thua thiệt
không đáng có.
Có thể thấy một thực tế hiện hữu là hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam
thường ở thế bị động, phải chấp nhận những điều kiện giao dịch chung do
phía đối tác nước ngoài đưa ra. Đó là các công ty lớn, có sức ảnh hưởng trên
thị trường thế giới, họ soạn sẵn điều kiện giao dịch chung buộc các đối tác
phải chấp nhận hoàn toàn mà ít khi chịu thỏa thuận các hợp đồng riêng
(Individual contract). Như đã phân tích ở trên các bên soạn thảo điều kiện
giao dịch chung bao giờ cũng đưa vào đó những điều khoản có lợi cho mình
để có được phần ưu thế khi thực hiện hợp đồng cũng như khi có trách chấp
xảy ra. Trong quan hệ thương mại, một bên giành được lợi thế hơn tất yếu bên
còn lại sẽ tiếp nhận nhiều rủi ro hơn. Khi tham gia trong một thương vụ với
phía nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam thường là khách hàng và đương
nhiên phải chịu phần lép vế, đặc biệt khi các doanh nghiệp vẫn còn non kém
kinh nghiệm và chủ quan khi giao kết các hợp đồng có nội dung soạn sẵn mà
phía nước ngoài đưa ra.
Nhà nước ta vẫn giữ độc quyền kinh doanh hoặc hạn chế gia nhập thị
trường một số ngành hàng như: cung cấp điện, nước,viễn thông,... Việc kinh
doanh các mặt hàng này được giao cho các đơn vị nhà nước, các doanh
nghiệp này đưa ra các điều kiện giao dịch chung cho các khách hàng sử dụng
sản phẩm của họ buộc phải chấp nhận. Như vậy, điều kiện giao dịch chung
được các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng rất phổ biến đối với những mặt
hàng do các doanh nghiệp độc quyền nhà nước cung cấp.
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới, việc
các doanh nghiệp Việt Nam đi theo xu hướng thương mại trên thế giới cũng là
điều rất dễ hiểu. Đặc biệt, có hàng loạt doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh
34
trên thị trường Việt Nam, việc sử dụng điều kiện giao dịch chung ở Việt Nam
ngày càng phổ biến ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong các lĩnh vực cung cấp
dịch vụ như xây dựng, bảo hiểm, ngân hàng,... Nói chung, bên cạnh những lợi
ích nó mang lại, điều kiện giao chung đã tạo ra sự bất tương xứng về quyền
lợi giữa các bên, cùng với đó các nhà cung cấp hình thành “luật chơi riêng”
cho mình. Khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ hay sản phẩm của doanh
nghiệp buộc phải chấp nhận những điều khoản mà doanh nghiệp đưa ra. Ví dụ
trong Bản điều khoản chung của hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ
Bluemeeting trong hợp đồng của nhà cung cấp là công ty cổ phần dịch vụ
viễn thông CMC (TP Hà Nội)7 có quy định về việc thanh toán: “ Bên sử dụng
sẽ thanh toán ngay một lần cước phí sử dụng dịch vụ BlueMeeting hàng tháng
cho Bên cung cấp vào trước ngày thứ 8 kể từ ngày phát hành thông báo thanh
toán cước (kể cả thời gian chờ giải quyết khiếu nại). Bên sử dụng sẽ có trách
nhiệm thanh toán lãi phát sinh trên số tiền chậm trả với mức lãi suất bằng
150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời
điểm đáo hạn theo quy định trên đây”. Thời hạn 8 ngày kể cả thời gian chời
giải quyết khiếu nại do bên cung cấp đặt ra là hơi ngắn, hơn nữa, nếu khách
hàng thanh toán chậm thì sẽ phải chịu một khoản phạt rất lớn, lên tớ 150% lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định, điều này rõ ràng là
gây bất lợi cho khách hàng. Như vậy, nếu người tiêu dùng hay sử dụng dịch
vụ cũng sẽ là những đối tượng chịu nhiều thua thiệt khi giao kết hợp đồng với
các điều khoản soạn sẵn.
7 Xem thêm phụ lục 3: Hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ BlueMeeting.
35
3. Một số hoạt động kinh doanh áp dụng phổ biến điều kiện giao dịch
chung
a) Hoạt động kinh doanh vận tải hàng hóa
Vận tải hàng hóa là công cụ quan trọng trong ngoại thương của mỗi quốc
gia. Vận tải quốc tế có tác dụng to lớn đối với buôn bán quốc tế, giúp cho kim
ngạch thương mại giữa các quốc gia trên thế giới ngày một tăng nhanh.
Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng nhất trong việc vận chuyển
hàng hóa xuất nhập khẩu, chiếm tới 80% khối lượng hàng hóa trong buôn bán
quốc tế. Xuất phát từ thực tiễn kinh doanh vận tải đường biển, người chuyên
chở phải xây hợp đồng kinh doanh của mình có tính tiêu chuẩn hóa cao nhằm
đáp ứng nhu cầu rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí trong các giao dịch khi
phục vụ một khối lượng lớn khách hàng, và do đó, vận đơn ra đời.
Vận đơn đường biển (Bill of Lading/ Ocean Bill of Lading/ Master Bill of
Lading) là một chứng từ chứng minh cho một hợp đồng vận tải đường biển,
cho việc nhận hàng hoặc xếp hàng của người chuyên chở và bằng vận đơn
này người chuyên chở cam kết sẽ giao hàng khi xuất trình nó. Người cấp vận
đơn là người chuyên chở, chủ tàu hoặc người được họ ủy quyền, khi hàng đã
được xếp lên tàu hoặc khi nhận hàng để xếp. Khi cấp vận đơn, người chuyên
chở, chủ tàu hoặc đại diện của họ phải ký vào vận đơn và ghi rõ tư cách pháp
lý. Cho đến nay chưa có mẫu vận đơn thống nhất trong chuyên chở quốc tế.
Mỗi chủ tàu, mỗi người kinh doanh chuyên chở đều soạn thảo và cấp phát
một loại vận đơn riêng. Vận đơn được in thành mẫu, thường gồm 2 mặt: mặt
trước in các nội dung có tính chất thay đổi qua từng hợp đồng chuyên chở
hàng hóa như Người gửi hàng (shipper), Người nhận hàng (consignee), tên
tày (vessel hay name of ship), cảng xếp hàng (port of lading), tên hàng (name
of goods),... mặt sau của vận đơn gồm những quy định có liên quan đến vận
chuyển do hãng tàu in sẵn, người thuê tàu không có quyền bổ sung hay sửa
đổi mà mặc nhiên phải chấp nhận nó. Mặt sau thường gồm các nội dung như
36
định nghĩa, điều khoản chung (điều kiện giao dịch chung), điều khoản trách
nhiệm của người chuyên chở, điều khoản xếp dỡ và giao nhận, điều khoản
cước phí và phụ phí, điều khoản giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở,
điều khoản miễn trách của người chuyên chở... Mặt sau của vận đơn mặc dù
là các điều khoản do các hãng tàu ngụ ý quy định, nhưng thường nội dung của
nó phù hợp với quy định của các công ước, tập quán quốc tế vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển như công ước Brussel 1924 (hay còn gọi là quy tắc
Hague), quy tắc Visby 1968 (còn gọi là quy tắc Hague – Visby), Nghị định
thư SDR 1979. Trong số đó, đáng bàn hơn đó là những vận đơn mà tại đó
điều kiện giao dịch chung có những điều khoản dẫn chiếu tới Công ước
Brussel 1924, hay công ước Visby 1968 – quy định với người chuyên chở
trách nhiệm tối thiểu (3 trách nhiệm) và miễn trách là tối đa (17 miễn trách)
thậm chí là những miễn trách rất vô lý. Chính vì thế mà hầu hết các hãng tàu
– chủ thể soạn thảo ra vận đơn – đều dẫn chiếu đến Quy tắc Hague 1924 và
Hague – Visby 1968 trong nội dung điều khoản miễn trách của mình để bảo
vệ quyền lợi của họ nhiều nhất.
Ví dụ trong điều kiện giao dịch chung của hãng Bermuda Container Lines
(Bill of Lading Terms and Conditions)8 tại Điều 2 quy định về điều khoản tối
cao (Clause Paramount) “Vận đơn này sẽ được dẫn chiếu đến (1) Đạo luật của
Hoa Kỳ về việc chuyên chở hàng hóa bằng đường biển năm 1936 và quy định
46 U.S.C từ Điều 181 đến Điều 188 nếu hàng hóa được vận chuyển tới hoặc
từ một cảng biển của Hoa Kỳ, (2) Luật về hàng hải của Canada, SC 2001,
Chương 6 hoặc (3) Công ước quốc tế về thống nhất một số qui tắc về vận đơn
đường biển ký tại Brussel ngày 25 tháng 8 năm 1924, được sửa đổi bổ sung
trong Nghị định thư Visby 1968. (This Bill of Lading shall have effect subject
to (1) the U.S. Carriage of Goods by Sea Act, 1936 and 46 U.S.C. 181-88
(inclusive) if the Goods are to be carried to or from a U.S. port, in U.S.
foreign trade, (2) otherwise the Marine Liability Act of Canada, S.C. 2001,
8 Xem thêm phụ lục 4: Bill of Lading Terms and Conditions của hãng Bermuda Container Lines.
37
c.6, or (3) otherwise the International Convention for the Unification of
Certain Rules relating to Bills of Lading signed at Brussels on August 25,
1924, as amended to the extent required by law by the Protocol thereto signed
at Brussels on February 23, 1968) .
Cùng với vận tải đường biển, vận tải đường hàng không ngày càng có vị
trí quan trọng trong buôn bán quốc tế. Vận tải hàng không chiếm 20-30%
tổng kim ngạch của buôn bán quốc tế, nhưng chỉ chiếm khoảng 1% tổng khối
lượng hàng hóa trong chuyên chở quốc tế9. Do vận tải hàng không có tốc độ
cao nên các quy định về thủ tục giấy tờ, ngôn ngữ có liên quan đến hoạt động
hàng không ở những nước khác nhau thường tương như nhau và thống nhất
trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế, hầu hết các nước có ngành hàng
không dân dụng đều thừa nhận hay áp dụng các Quy tắc, Công ước quốc tế và
những quy định của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (International Air
Transport Association –IATA). Cũng giống như trong vận tải bằng đường biển,
các hãng hàng không sử dụng vận đơn hàng không (Airway Bill) làm chứng từ
vận chuyển hàng hóa và là bằng chứng của việc ký kết hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng máy bay). AWB được in và phát hành theo mẫu tiêu chuẩn của
IATA. Các bản gốc của AWB gồm 2 mặt, mặt sau gồm 2 nội dung chính:
- Thông báo có liên quan tới giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
- Những điều khoản của hợp đồng vận chuyển (Conditions of Contract).
Phần này gồm 15 điều khoản quy định về chuyên chở hàng hóa được ghi ở
mặt trước của vận đơn như: cước phí, trọng lượng tính cước, giá trị kê
khai, thời hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm của
người chuyên chở, luật áp dụng, thời hạn khiếu nại, thông báo giao hàng,...
Những nội dung này đã được quy định trong Công ước Vacsava 1929 và
Nghị định thư Hague 1955. Theo đó, trách nhiệm cũng như miễn trách của
người chuyên chở được quy định rất rõ ràng. Điều kiện giao dịch chung đã 9 PGS.TS Nguyễn Như Tiến, Giáo trình Vận tải và giao nhận trong Ngoại thương, Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr151.
38
được tiêu chuẩn hóa nhằm đơn giản hóa về thủ tục, giấy tờ cũng như tính chất
quốc tế cao của lĩnh vực kinh doanh hàng không.
b) Hoạt động thương mại điện tử
Thương mại điện tử được hiểu là việc mua và bán các sản phẩm và dịch
vụ thông qua hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính khác. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của Internet, thương mại điện tử là một loại hình
thương mại đã rất phổ biến. Người dùng Internet tại các nước phát triển có thể
mua, bán, trao đổi nhiều loại hàng hóa dịch vụ qua mạng. Việc thanh toán
cũng qua mạng và thực hiện rất dễ dàng bằng cách chuyển khoản hoặc sử
dụng thẻ tín dụng. Chính nhờ sự tiện lợi như vậy mà ngày càng nhiều doanh
nghiệp sử dụng thương mại điện tử để làm kênh bán hàng thứ hai, bên cạnh
hình thức thương mại truyền thống. Yêu cầu của hình thức giao dịch điện tử
là phải dựa trên nền tảng và tiêu chuẩn thống nhất trong các giao dịch cùng
loại của doanh nghiệp và các đối với các khách hàng khác nhau nhằm đáp ứng
được yêu cầu bảo mật, tiết kiệm về thời gian, hoàn thiện về nội dung của hợp
đồng điện tử. Đó là tiền đề cho việc sử dụng điều kiện giao dịch chung trong
thương mại điện tử. Theo đó, để có thể tham gian giao dịch này, đầu tiên
khách hàng phải đăng nhập, khai báo thông tin cá nhân của mình, hay của
doanh nghiệp mình. Tại bước này, tất cả khách hàng phải đọc một bản điều
khoản, đây chính là điều kiện giao dịch chung. Nếu muốn hoàn tất quá trình
đăng ký thì khách hàng phải chọn chấp nhận những điều khoản đó, nếu từ
chối thì giao dịch bị hủy bỏ. Có thể lấy ví dụ từ “Các điều khoản và điều kiện
bán hàng chung”10 của trang web www.apple.com : “CÁC THỎA THUẬN
PHÁP LÝ DƯỚI ĐÂY ĐIỀU CHỈNH VIỆC QUÝ KHÁCH SỬ DỤNG
MAC APP STORE, APP STORE VÀ IBOOKSTORE. ĐỂ CHẤP THUẬN
CÁC ĐIỀU KHOẢN NÀY, NHẤP CHUỘT VÀO NÚT "ĐỒNG Ý." NẾU
QUÝ KHÁCH KHÔNG ĐỒNG Ý VỚI CÁC ĐIỀU KHOẢN NÀY, KHÔNG
10 Xem thêm tại địa chỉ: http://www.apple.com/legal/itunes/appstore/vn/terms.html.
ĐIỀU KHOẢN CHUNG HỢP ĐỒNG CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ BLUEMEETING
Điều 1: Đối tượng của hợp đồng.
Bên Cung cấp sẽ cung cấp cho Bên Sử dụng dịch vụ đàm thoại đa phương BlueMeeting theo các điều kiện và điều khoản của hợp đồng.
Điều 2: Giá cước, phí và phương thức thanh toán.
1. Giá cước.
Loại dịch vụ/cướcGói cước
Standard Extra ProfesionalPhí hòa mạng 500.000 đồng
Phí thuê bao/ tháng 1000000 đồng 2000000 đồng 5000000 đồngSố thành viên tối đa cho một cuộc họp 5 thành viên 10 thành viên 30 thành viênSố lượng tài khoản ( web và điện thoại) 1 2 5Số phút (miễn phí) gọi ra từ hệ thống
đến các thuê bao trong nước300 phút 1000 phút 3000 phút
Tính năng và dịch vụ bổ sungBổ sung 1 tài khoản/ cuộc họp cùng lúc
(chỉ áp dụng cho gói Extra và Profesional)
500000 đồng/ tháng
Bổ sung thành viên cho 1 cuộc họp 5000 đồng/ thành viên/ cuộc họpĐơn giá vượt trội gọi ra từ hệ thống đến
các thuê bao trong nước1500 đồng/ phút
Mức cước trên chưa bao gồm 10% VATGhi chú: tất cả các mức cước trên chưa bao gồm các cước viễn thông khác
2. Phương thức và thời hạn thanh toán
a. Hình thức thanh toán do Bên Sử Dụng lựa chọn và có thể được thay đổi theo yêu cầu của Bên Sử Dụng trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực.
95
b. Căn cứ vào phiếu đăng ký dịch vụ của Bên Sử Dụng và cước phí phát sinh hàng tháng, Bên Cung cấp gửi thông báo thanh toán cước, hóa đơn cước phí sử dụng hàng tháng cho Bên Sử Dụng theo quy định hiện hành.
c. Bên Sử Dụng sẽ thanh toán ngay một lần cước phí sử dụng BlueMeeting hàng tháng cho Bên Cung Cấp vào trước ngày thứ 8 kể từ ngày phát hành thông báo thanh toán cước (kể cả trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại). Bên Sử Dụng sẽ có trách nhiệm thanh toán lãi phát sinh trên số tiền trả chậm với mức lãi suất bằng 150% lãi suất cơ bản di Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm đáo hạn quy định trên đây.
d. Trường hợp cần quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam, thực hiện theo quy định của Nhà nước.
3. Cước phí tạm ngưng.
a. Cước phí tạm ngưng do Bên Sử Dụng yêu cầu bằng 0% cước phí thuê bao hàng tháng theo gói hiện hành.
b. Cước phí tạm ngưng do Bên Sử Dụng nợ cước theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 2 bằng 100% cước phí thuê bao hàng tháng theo gói hiện hành
4. Các khoản phí khác.
Trong trường hợp có thay đổi các thông tin và Bên Sử Dụng có nghĩa vụ phải thông báo cho Bên Cung Cấp theo hợp đồng này, Bên Cung Cấp có quyền được yêu cầu Bên Sử Dụng thanh toán các chi phí liên quan theo quy định của Bên Cung Cấp có hiệu lực vào thời điểm thực hiện thông báo thay đổi đó.
Điều 3. Thời hạn hợp đồng, Chấm dứt.
1. Thời hạn của hợp đồng là không xác định.
2. Bên Sử Dụng có quyền chấm dứt hợp đồng khi không có nhu cầu tiếp tục sử dụng dịch vụ. Trong trường hợp này Bên Sử Dụng phải liên lạc với Bên Cung Cấp để thực hiện các thủ tục chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng chính thức chấm dứt hiệu lực kể từ khi Bên Sử Dụng và Bên Cung Cấp thỏa thuận trong nội dung biên bản chấm dứt hợp đồng.
3. Bên Cung Cấp được đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp:
a. Dịch vụ bị ngừng cung cấp vì lý do kinh tế- kỹ thuật. Bên Cung Cấp phải có trách nhiệm thông báo cho Bên Sử Dụng trước khi chấm dứt 90 ngày;
b. Sau 60 ngày kể từ ngày Bên Sử Dụng bị tạm ngừng cung cấp dịch vụ tại điểm c khoản 2 điều 1 mà vẫn không thực hiện các nghĩa vụ thanh toán và các nghĩa vụ liên quan theo hợp đồng; hoặc
c. Theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Điều 4. Thông tin bảo mật.
1. Bên Sử Dụng bảo đảm cung cấp chính xác các thông tin cho Bên Cung Cấp theo yêu cầu của hợp đồng này và trong quá trình sử dụng dịch vụ, Bên Sử Dụng sẽ thông báo bằng văn
96
bản cho Bên Cung Cấp, khi thay đổi địa chỉ, tên cơ quan, tổ chức, dịch vụ, hình thức thanh toán, địa chỉ thanh toán và gửi thông báo cước, tạm ngừng sử dụng dịch vụ, chám dứt/ chuyển quyền sử dụng hoặc chấm dứt hợp đồng.
2. Mật khẩu (password) được Bên Cung Cấp bàn giao cho Bên Sử Dụng khi ký kết hợp đồng là thông tin chỉ riêng Bên Sử Dụng nắm giữ. Bên Sử Dụng tự bảo vệ mật khẩu (password) của mình và phải chịu trách nhiệm trong mọi trường hợp để người khác sử dụng dịch vụ bằng mật khẩu đó.
3. Bên Cung Cấp có nghĩa vụ đảm bảo bí mật thông tin của Bên Sử Dụng theo quy định của pháp luật.
Điều 5. Tạm ngưng dịch vụ
1. Bên Sử Dụng có thể yêu cầu tạm ngưng dịch vụ tại bất kỳ thời điểm nào, với điều kiện thanh toán hết mọi khoản cước đã phát sinh và/ hoặc còn tồn đọng.
2. Bên Cung Cấp có quyền tạm ngưng dịch vụ khi
a. Bên Sử Dụng vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng này; hoặc
b. Có yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
3. Trong trường hợp tạm ngưng dịch vụ theo khoản 2.a trên đây, Bên Cung Cấp sẽ khôi phục dịch vụ trong thời hạn ngắn nhất có thể, sau khi Bên Sử Dụng đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ bị vi phạm và khắc phục mọi hậu quả, nếu có.
Điều 6. Giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại.
1. Các khiếu nại Bên Sử Dụng về những nội dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước vê Viễn thông sẽ được giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định và hệ thống pháp luật hiện hành về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Các yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc tranh chấp thuộc phạm vi thỏa thuận của 2 bên có ghi trong hợp đồng sẽ được xem xét giải quyết, hòa giải. Nếu không thống nhất được các bên có quyền đưa ra giải quyết theo thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Điều 7. Điều khoản cuối cùng.
1. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, các bên có thể có những thỏa thuận khác, nhưng không được trái với Điều khoản chung này.
2. Việc vô hiệu hoặc bất khả thi của bất kỳ một điều khoản nào của hợp đồng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của các điều khoản khác cũng như toàn bộ hợp đồng. Điều khoản vô hiệu sẽ thây thế bằng quy định chung của pháp luật
3. Trong trường hợp có thể thay đổi về pháp luật bắt buộc phải áp dụng thì các bên có nghĩa vụ tôn trọng, chấp hành sự thay đổi đó.
4. Ngoài việc các cơ quan có thẩm quyền công bố sự thay đổi trên các phương tiện thông tin theo quy định của pháp luật, Bên Cung Cấp sẽ thông báo thêm trên trang web, tại các điểm giao dịch của Bên Cung Cấp và giấy báo cược của tháng gần nhất./.
97
CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ VIỄN THÔNG CMC
PHỤ LỤC 4
Bill of Lading Terms and Conditions
1. Definitions.
"Carrier" means Bermuda Container Line, Ltd. "Contract of Carriage" shall mean all applicable terms contained in the Carrier's tariffs (copies of which are available from the Carrier or its agent) or any service contract or other contract of affreightment, other than this Bill of Lading, between the Carrier and the Merchant. "Goods" means the cargo shipped hereunder and any container in which the cargo is packed if the container is not furnished by the Carrier. "Inland Transporter" means any road, rail or barge transporter utilized by the Carrier to perform any services incident to through transportation. "Merchant" means the consignor, shipper, consignee, receiver, holder of this Bill of Lading, the owner of the Goods, and anyone entitled to possession of the Goods, all of whom shall be jointly and severally liable hereunder. "On Board" means that the Goods have been received by the Carrier and placed on board a truck, rail car, barge, vessel or other means to be used to transport the Goods hereunder. "On Board Vessel" means on board a vessel. "Vessel" means the vessel named herein and any other ship used in the performance of the transportation herein contracted for.
2. Clause Paramount.
(a) This Bill of Lading shall have effect subject to (1) the U.S. Carriage of Goods by Sea Act, 1936 and 46 U.S.C. 181-88 (inclusive) if the Goods are to be carried to or from a U.S. port, in U.S. foreign trade, (2) otherwise the Marine Liability Act of Canada, S.C. 2001, c.6, or (3) otherwise the International Convention for the Unification of Certain Rules relating to Bills of Lading signed at Brussels on August 25, 1924, as amended to the extent required by law by the Protocol thereto signed at Brussels on February 23, 1968.
(b) Carriage under this Bill of Lading shall also be governed by the Contract of Carriage, which shall prevail over the provisions of this Bill of Lading in the event of a conflict, and any applicable tariff of any terminal operator or Inland Transporter.
98
(c) This Clause shall apply at all times from place or port of receipt to place or port of delivery, except as otherwise required by law, and shall apply to Goods whether carried on or below the Vessel's deck.
3. Merchant's Responsibilities.
(a) The Merchant warrants to the Carrier that the particulars relating to the Goods set forth on the opposite side of this Bill of Lading or otherwise furnished by the Merchant (including weight, quantity, measurement, contents, marks, numbers, seal number or value) have been checked by the Merchant and are accurate and complete, and that the Goods are in all respects fit for the transport and can be safely carried without injury to people, itself or other property. The Merchant also warrants that the Goods are lawful goods, contain no contraband, and are not defective.
(b) If Goods are containerized and the container is described as "said to contain" described packages and goods, the Merchant acknowledges that the Carrier makes no representation as to the accuracy of the description, that the Carrier may not have scales or other means to verify the weight or contents of the container and that it may otherwise be impracticable for the Carrier to determine the accuracy of the Merchant's description.
(c) The Merchant warrants that it has the authority of the owner of the Goods (if the Merchant is not the owner) and all others entitled to possession of the Goods to agree to the terms of this Bill of Lading.
(d) The Merchant warrants that the Goods can be safely transported in a non-refrigerated container or in a cargo compartment without special protective or climatic control services, unless the Merchant has given the Carrier prior notice otherwise and has set forth on the opposite side of this Bill of Lading specific instructions as to temperature, ventilation, stowage and the like.
(e) The Merchant hereby warrants that (i) the Goods are not and are not liable to become dangerous, flammable, corrosive, noxious, explosive, radioactive, damaging to property or persons, susceptible of causing delay, or otherwise defective or hazardous or (ii) if the Goods are of such a nature, the Merchant has fully disclosed the nature of the Goods, has received the prior written consent of the Carrier to the Merchant's delivering the Goods to the Carrier, and the Goods, the container, any other covering, and the markings thereon shall comply fully with all applicable law.
(f) With respect to each container not packed by the Carrier, the Merchant shall ensure, prior to delivery to the Carrier, that (1) the container is in satisfactory condition and is suitable for carriage of the Goods, provided that, if the container was supplied by the Carrier, the lack of suitability or unsatisfactory condition could have been apparent upon inspection by the Merchant at or prior to packing the container, (2) the Goods are suitable for carriage in the container, (3) the Goods are properly and safely packed into the container (including proper and safe packaging, stowing and securing of the Goods) in a manner suitable for transportation hereunder, (4) if the Goods are refrigerated, upon their being packed into the container the Goods are at the temperature specified on the opposite side hereof and the controls on the container's refrigeration unit are set at such temperature, and (5) the container is sealed with the Merchant's seal after packing.
(g) The Merchant shall comply with all regulations or requirements of customs, port and other authorities in connection with the shipment of the Goods, and shall bear and pay all duties, taxes, fines, imposts, expenses or losses (including freight for any additional carriage undertaken) incurred or suffered by reason of any failure to so comply, or by reason of any illegal, incorrect or insufficient marking, numbering or addressing of the Goods.
99
(h) If a container is furnished by the Carrier to the Merchant for packing, unpacking or any other purpose, the Merchant shall return the container to the place designated by the Carrier within the time prescribed in the Contract of Carriage or otherwise and shall be responsible for any loss of or damage to the container. After the container is unpacked, the Merchant shall return the container empty, with interior cleaned. The Merchant shall at all times maintain insurance, in an amount commensurate with the risk, covering any claim or liability arising out of the storage, transportation or any other use of any container furnished by the Carrier while such container is in the custody or control of the Merchant, and the Carrier and its Directors, officers and employees shall be named as additional insureds on any such policy.
(i) If a container packed and sealed by the shipper is delivered by the Carrier with its seal intact, the Carrier shall have no liability for any claimed loss of Goods from such container.
(j) The Merchant shall indemnify the Carrier and its Directors, officers and employees against any loss, damage, liability, or expense (including damages for personal injury, loss of life, loss of or damage to any property tangible or intangible, delay, dues, duty, tax, government seizure or other action, reasonable attorneys fees, or any other liability or expense) caused by or arising out of any inaccuracy of a warranty of the Merchant or any failure of the Merchant to comply with any of its obligations under this Clause or any other provision of this Bill of Lading, or the storage, transportation or any other use of any container furnished by the Carrier while such container is in the custody or control of the Merchant, or relating to any investigation or litigation relating to the foregoing, and the Carrier shall be free from liability caused by or arising out of any such inaccuracy or failure.
Limitation of Liability.
(a) The Carrier's liability for loss of or damage to Goods shall be limited to the lesser of (1) the sound value at destination of such Goods or (2) except as provided in Clause 4(b), $500 per package or, if not shipped in packages, per customary freight unit.
(b) The Merchant may declare the value of the Goods in writing in the space set aside therefor on the opposite side of this Bill of Lading. Upon the Merchant's making such declaration and actually paying the required additional freight prior to delivering the Goods to the Carrier, the limit of liability set forth in Clause 4(a)(2) shall be changed to the value declared, pro-rated in the case of partial loss or damage. The Merchant acknowledges that, in the absence of such a declaration, the Carrier would have no knowledge of the value of the Cargo and agrees that, in the absence of such declaration and additional freight payment, it has bargained for and accepted the limit specified in Clause 4(a)(ii) in exchange for avoiding payment of the additional freight.
(c) The Carrier does not undertake that the Goods shall arrive at the port or place of destination at any particular time or shall be suitable for any particular market or use, and the Carrier shall under no circumstances be liable for damages resulting from any delay or unsuitability.
(d) The Carrier shall under no circumstances be liable for any incidental, consequential or punitive damages in connection with this Bill of Lading or any of the transactions contemplated hereby.
5. Routing.
(a) The Carrier may, at any time and without notice to the Merchant, (1) use any means of carriage whatsoever, (2) transfer the Goods from one conveyance to another, including but not limited to transhipping or carrying them on another vessel than that named on the face hereof, (3) unpack and remove the Goods which have been packed into a container and forward them in a container or otherwise, (4) proceed by any route in his discretion (whether or not the nearest or
100
most direct or customary or advertised route), at any speed, and proceed to or stay at any place or port whatsoever, once or more often and in any order, (5) load or unload the Goods at any place or port (whether or not such port is named overleaf as the port of loading or port of discharge) and store the Goods at any such place or port, (6) comply with any orders or recommendations given by any government or authority, or any person acting or purporting to act as or on behalf of such government or authority, or having under the terms of any insurance of any conveyance employed by the Carrier the right to give orders or directions, or (7) permit the Vessel to proceed with or without pilots, to tow or be towed, or to be dry-docked.
(b) The liberties set out in Clause 5(a) may be invoked by the Carrier for any purpose whatsoever, whether or not connected with the carriage of the Goods, including loading or unloading other goods, bunkering, undergoing repairs, adjusting instruments, picking up or landing any persons, including but not limited to persons involved with the operation or maintenance of the vessel and assisting vessels in all situations. Anything done in accordance with Clause 5(a) or any delay arising therefrom shall be deemed to be within the contractual carriage and shall not be a deviation.
(c) By tendering the Goods for carriage without any written request for carriage in a specialized container, or for carriage otherwise than in a container, the Merchant accepts that the Carriage may properly be undertaken in a general purpose container.
6. Performance. If at any time the carriage hereunder is or is likely to be affected by any hindrance, risk, delay, difficulty or disadvantage of any kind (other than the inability of the Goods safely or properly to be carried or carried further) and howsoever arising (even though the circumstances giving rise to such hindrance, risk, delay, difficulty or disadvantage existed at the time this Bill of Lading was entered into or the Goods were received for carriage), the Carrier (whether or not the carriage is commenced) may, without prior notice to the Merchant and at the sole
discretion of the Carrier,(1)
Carry the Goods to the contracted port of discharge or place of delivery, whichever is applicable, by an alternative route to that indicated in this Bill of Lading or that which is usual for Goods consigned to that port of discharge or place of delivery. If the Carrier elects to invoke the terms of this Clause 6(1) then the Carrier shall be entitled to charge such additional Freight as the Carrier may determine,
(2) Suspend the carriage of the Goods and store them ashore or afloat upon the terms of this Bill of Lading and endeavour to forward them as soon as possible, but the Carrier makes no representation as to the maximum period of suspension. If the Carrier elects to invoke the terms of this Clause 6(2) then the Carrier shall be entitled to charge such additional freight as the Carrier may determine, or
(3)
Abandon the carriage of the Goods and place them at the Merchant's disposal at any place or port which the Carrier may deem safe and convenient, whereupon the responsibility of the Carrier in respect of such Goods shall cease. The Carrier shall nevertheless be entitled to full freight on the Goods received for carriage, and the Merchant shall pay any additional costs of the carriage to, and delivery and storage at, such place or port. If the Carrier elects to use an alternative route or suspend carriage under this Clause, this shall not prejudice the Carrier's right subsequently to abandon the Carriage.
101
7. Notification and Delivery.
(a) Any mention herein of parties to be notified of the arrival of the Goods is solely for information of the Carrier, and failure to give such notification shall not involve the Carrier in any liability nor relieve the Merchant of any obligation hereunder.
(b) The Merchant shall take delivery of the Goods within the time provided for in the Contract of Carriage. If the Merchant fails to do so, the Carrier shall be entitled, without notice, to unpack the Goods if packed in a containers or to store the Goods ashore, afloat, in the open or under cover, at the sole risk of the Merchant. Such storage shall constitute due delivery hereunder, and thereupon the liability of the Carrier in respect of the Goods stored as aforesaid shall wholly cease, and the costs of such storage (if paid or payable by the Carrier) shall forthwith upon demand be paid by the Merchant to the Carrier.
(c) If the Merchant fails to take delivery of the Goods within thirty days of delivery becoming due hereunder, or if in the opinion of Carrier they are likely to deteriorate, decay, become worthless or incur charges whether for storage or otherwise in excess of their value, the Carrier may, without prejudice to any other rights which the Carrier may have against the Merchant, without notice and without any responsibility whatsoever attaching to the Carrier, sell, destroy or dispose of Goods and apply any proceeds of sale in reduction of the sums due to the Carrier from the Merchant in respect of this Bill of Lading.
(d) Refusal by the Merchant to take delivery of the Goods in accordance with the terms of this Clause or to mitigate any loss or damage thereto shall constitute a waiver by the Merchant to the Carrier of any claim whatsoever relating to the Goods or the carriage thereof.
(e) In the event of the Carrier agreeing to a request of the Merchant to amend the place of delivery stated herein, the terms and conditions of this Bill of Lading shall continue to apply, only to the extent provided by the Contract of Carriage, until the Goods are delivered by the Carrier to the Merchant at the amended place of delivery. To the extent that this Bill of Lading shall no longer apply to the Goods under the Contract of Carriage, the Carrier shall act as agent only of the Merchant in arranging for delivery of the Goods to the amended place of delivery but shall thereafter be under no liability whatsoever for loss, damage or delay to the Goods, however arising.
8. Freight.
(a) All freight, additional freight and charges due hereunder or under the Contract of Carriage are earned and payable in full without discount, offset or deduction upon delivery of the Goods to the Carrier, whether or not the Vessel or Goods are lost or not lost, damaged or delayed, or the transport is suspended or abandoned.
(b) The Carrier shall have a lien on the Goods and all subfreights for all freight, deadfreight, demurrage, additional freight, charges and all other amounts due hereunder, and the Carrier may enforce this lien by public or private sale upon reasonable notice to any party identified in the Bill of Lading. This lien shall survive delivery of the Goods and payment for the sums constituting the lien may be enforced jointly and severally against the Goods, the Merchant and any other property of the Merchant in the possession of the Carrier.
(c) Any freight forwarder employed by the Merchant shall be deemed an agent of the Merchant and not the Carrier and no payment to a freight forwarder shall extinguish the Merchant's obligation except to the extent that funds are actually received by the Carrier.
102
(d) The Merchant shall supply the necessary information on which to calculate the freight and other charges, but the Carrier may, at its option and at any time, open the container and examine, weigh, measure or value all or any part of the Goods. If the Carrier determines that the Merchant's description of the Goods is erroneous in any respect, the Carrier may recalculate the total freight and charges.
9. Subcontractors and Affiliates. The Carrier may engage one or more stevedores, longshoremen, terminal operators, Inland Transporters or other agents or independent contractors (including any of its affiliates) to perform any of the Carrier's duties. Every such agent or contractor, the Vessel, each of its owners, operators and officers, each affiliate of the Carrier, and each director and officer thereof shall be entitled to all exemptions, limitations, conditions, defenses, limitations of liability and liberties to which the Carrier is entitled under this Bill of Lading or under law. Under no circumstances shall the Merchant have the benefit of the rights and obligations arising under a contract between the Carrier and any of its agents or independent contractors, and neither the Carrier nor any other person referred to in this Clause shall be liable to the Merchant for a breach of any such contract. The aggregate amount recoverable from the Carrier or any other such person shall in no case exceed the limits provided in this Bill of Lading.
10. General Average. General average will be adjusted and payable in New York or elsewhere at the option of the Carrier according to the York-Antwerp Rules 1994 and, as to matters not therein provided, according to the laws and usages at the place of adjustment. In the event of accident, danger, damage or disaster before or after commencement of the voyage resulting from any cause whatsoever, whether due to negligence or not, for which or for the consequence of which the Carrier is not responsible by statute, contract or otherwise, the Merchant shall contribute with the Carrier in general average to the payment of any sacrifice, losses or expenses of a general average nature that may be made if incurred, and shall pay salvage and special charges incurred in respect of the Goods. If a salving vessel is owned or operated by the Carrier, salvage shall be paid for as fully as if the salving vessel or vessels belonged to strangers. Such deposit as the Carrier may deem sufficient to cover the estimated contribution of the Goods, and any salvage and special charges thereon, shall, if required, be paid to the Carrier prior to delivery into a special account in accordance with the provisions of the said Rules.
11. Force Majeure. The Carrier shall not be responsible for any loss, damage or delay directly or indirectly resulting from any event beyond the reasonable control of the Carrier, including any strike, lockout, labor disturbance, trade dispute, or anything done in contemplation or furtherance thereof, whether the Carrier be party thereto or not or any fire, unless such fire shall have been caused by the actual fault or privity of the Carrier.
12. Both to Blame Collision Clause. If the Vessel comes into collision with another ship as a result of the negligence of the other ship and any act, neglect or fault of the master, mariner, pilot or servant of the Carrier in the navigation or in the management of the Vessel, the Merchant will indemnify the Carrier against all loss of liability to the other or non-carrying ship or her owners insofar as such loss or liability represent loss of, or damage to, or any claim whatsoever of the Merchant paid or payable by the other or non-carrying ship of her owners as part of their claim against the Vessel or the Carrier. The foregoing provisions shall also apply where the owners, operators or those in charge of any ship or ships or objects other than, or in addition to, the colliding ships or objects are at fault in respect of a collision or contract.
13. Claims.
Any action against the Carrier for loss or damage to Goods shall be brought within one year after delivery of the Goods or the date when the Goods should have been delivered. Any claim or action
103
against the Carrier for loss or damage to Goods occurring while they are in the custody of the Inland Transporter shall be brought within the time specified in the Contract of Carriage or any applicable law or tariff of the Inland Transporter. The United States District Court for the Southern District of New York shall be the exclusive forum for adjudication of any claim against the Carrier arising out of or relating to this Bill of Lading. Any claim against the Merchant arising out of or relating to this Bill of Lading may be brought in a Federal or state court in New York City or, where appropriate, at the Federal Maritime Commission. The Carrier and Merchant hereby consent to the jurisdiction, venue and forum conveniens of each court in which a claim against it may be brought under this Clause.
14. Miscellaneous.
If any provision of this Bill of Lading, or any interpretation of any such provision, shall be found invalid, illegal or unenforceable under any applicable law, the validity, legality and enforceability of every other provision or interpretation shall not in any way be affected or impaired and this Bill of Lading shall continue in full force and effect except to the extent of such invalidity, illegality or unenforceability. None of the provisions of this Bill of Lading expressly limiting the liability of the Carrier or any of its affiliates, servants or agents shall be deemed to reduce the scope of any other limitation of liability afforded by law or contract. The headings herein are for convenience only and shall not affect the interpretation of any provision hereof.
Bill of lading
From Wikipedia, the free encyclopedia
A bill of lading (also referred to as a BOL or B/L) is a document issued by a carrier, e.g. a ship's master or by a company's shipping department, acknowledging that specified goods have been received on board as cargo for conveyance to a named place for delivery to the consignee who is usually identified. A through bill of lading involves the use of at least two different modes of transport from road, rail, air, and sea. The term derives from the noun "bill", a schedule of costs for services supplied or to be supplied, and from the verb "to lade" which means to load a cargo onto a ship or other form of transport.
Short statement of principle
The standard short form bill of lading is evidence of the contract of carriage of goods and it serves a number of purposes:
it is evidence that a valid contract of carriage, or a chartering contract, exist, and it may incorporate the full terms of the contract between the consignor and the carrier by reference (i.e. the short form simply refers to the main contract as an existing document, whereas the long form of a bill of lading issued by the carrier sets out all the terms of the contract of carriage);it is a receipt signed by the carrier confirming whether goods matching the contract description have been received in good condition (a bill will be described as clean if the goods have been received on board in apparent good condition and stowed ready for transport); and it is also a document of transfer, and a negotiable instrument, i.e. it governs all the legal aspects of physical carriage, and, like a cheque or other negotiable instrument, it may be endorsed affecting ownership of the goods actually being carried. This matches everyday experience in that the contract a person might make with a commercial carrier like FedEx for mostly airway parcels, is separate from any
104
contract for the sale of the goods to be carried, however it binds the carrier to its terms, irrespectively of who the actual holder of the B/L, and owner of the goods, may be at a specific moment.
PHỤ LỤC 5
Đơn bảo hiểm Hàng hoá
Trên cơ sở yêu cầu của Người được bảo hiểm, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (VNPT Insurance) nhận bảo hiểm cho các hàng hoá kê khai dưới đây theo
Đơn bảo hiểm Hàng hoá Bản Chính (Số bản chính: 02)
VẬN CHUYỂN NỘI ĐỊA
Số: ..…
Trên cơ sở yêu cầu của Người được bảo hiểm, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (VNPT Insurance) nhận bảo hiểm cho các hàng hoá kê khai dưới đây theo
106
Trường hợp bị tổn thất, đề nghị xem và thực hiện theo "NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý" in ở mặt sau
điều kiện và hoặc điều khoản đươc ghi rõ trên Đơn bảo hiểm này và sửa đổi bổ sung, phụ lục đính kèm (nếu có)
Tên và địa chỉ Người được bảo hiểm:
Hàng hoá được bảo hiểm:
Đóng gói:
Số L/C: Số Hợp đồng mua bán:
Phương thức vận chuyển: Tên phương tiện vận chuyển:
Ngày khởi hành: Số Vận tải đơn (Hợp đồng VC):
Từ: Chuyển tải: Đến:
Tổng số tiền bảo hiểm: Tỷ lệ phí:
Phí bảo hiểm: VAT: Tổng số tiền thanh toán:
Điều kiện thanh toán phí:
Điều kiện bảo hiểm:
Nơi và cơ quan giám định tổn thất:
Thanh toán bồi thường tại: Cấp tại: giờ ngày
Bởi: (ký tên/đóng dấu)
107
Trường hợp bị tổn thất, đề nghị xem và thực hiện theo "NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý" in ở mặt sau
Những điều cần lưu ý
Trong trường hợp xảy ra tổn thất cho hàng hoá thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người được bảo hiểm hay người làm công cho họ hoặc người đại diện của họ cần làm theo các yêu cầu sau đây:
1. Khiếu nại ngay lập tức người chuyên chở, chính quyền cảng hay những người nhận uỷ thác hàng hoá khác đối với bất cứ kiện hàng nào bị tổn thất hoặc mất mát. Khai báo ngay cho cơ quan chức trách địa phương (trường hợp hàng hoá vận chuyển đường bộ),
2. Trừ khi đã có thư kháng nghị, không được cấp giấy biên nhận hoàn chỉnh cho những hàng hoá có hiện tượng nghi vấn.
3. Khi giao Container phải đảm bảo rằng Container và niêm phong của nó phải còn nguyên vẹn và phải được nhân viên có chức năng kiểm tra ngay. Nếu nhận container bị tổn thất, niêm phong bị gãy vỡ, mất mát hoặc khác với sự miêu tả trong chứng từ vận tải thì phải lập giấy giao nhận đúng tình trạng như vậy và giữ lại tất cả các niêm phong không bình thường và gãy vỡ đó để điều tra sau này.
4. Yêu cầu đại diện người chuyên chở hay người nhận uỷ thác hàng tham gia việc chứng kiến giám định ngay khi phát hiện hàng hoá có hiện tượng mất mát hoặc hư hỏng và qua giám định nếu thấy thực tế có tổn thất thì phải lập hồ sơ khiếu nại họ.
5. Gửi giấy báo cho đại diện người chuyên chở hay người nhận uỷ thác hàng hoá trong vòng 3 ngày sau khi nhận hàng nếu tổn thất thuộc loại khó phát hiện vào thời gian nhận hàng.
6. Áp dụng mọi biện pháp cần thiết để cứu chữa và bảo quản hàng hoá nhằm hạn chế tổn thất
Ghi chú:
- Nếu người được bảo hiểm không thi hành đầy đủ những nghĩa vụ trên, người bảo hiểm có quyền từ chối giải quyết bồi thường một phần hoặc toàn bộ tổn thất.
- Người khiếu nại chỉ được bảo hiểm khi có quyền lợi bảo hiểm đối với hàng hóa được bảo hiểm tại thời điểm xảy ra tổn thất và thực sự gánh chịu tổn thất.
HƯỚNG DẪN THU XẾP GIÁM ĐỊNH
108
Trường hợp xảy ra mất mát hay hư hỏng thuộc phạm vi trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho người bảo hiểm hay đại lý được họ chỉ định đến giám định. Trừ khi trước đó đã có một thoả thuận khác, người bảo hiểm có quyền từ chối giải quyết một vụ khiếu nại không được chứng minh trong biên bản giám định.
NHỮNG CHỨNG TỪ CẦN THIẾT
CHO MỘT HỒ SƠ KHIẾU NẠI
Khi yêu cầu PTI bồi thường về những mất mát hư hỏng thuộc trách nhiệm bảo hiểm, người được bảo hiểm cần phải nộp đầy đủ các chứng từ sau đây:
1. Bản chính của Đơn bảo hiểm.
2. Bản chính hoặc bản sao hoá đơn gửi hàng, kèm tờ khai chi tiết hàng hoá và/hoặc phiếu ghi trọng lượng
3. Bản chính của vận tải đơn và/hoặc hợp đồng chuyên chở.
4. Biên bản giám định và chứng từ tài liệu khác ghi rõ mức độ tổn thất
5. Giấy biên nhận hoặc giấy chứng nhận tàu giao hàng và phiếu ghi trọng lượng tại nơi nhận cuối cùng.
6. Kháng nghị hàng hải và trích nhật ký tàu
7. Công văn thư từ trao đổi với người chuyên chở và các bên khác về trách nhiệm của họ đối với tổn thất.
8. Thư đòi bồi thường
9. Những tài liệu khác để xem xét giải quyết bồi thường.
GHI CHÚ QUAN TRỌNG
Ngay khi nhận được Đơn bảo hiểm và các Phụ lục hoặc Sửa đổi bổ sung đính kèm, nếu thấy còn có điểm chưa phù hợp so với yêu cầu, Người được bảo hiểm cần phải thông báo bằng văn bản cho PTI biết.