Trường đại học kinh tế quốc dân Viện thương mại và kinh tế quốc tế ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam GVHD: GV. Tô Xuân Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Nhóm 1: Nguyễn Thị Minh Hà Hoàng Thị Hạnh Nguyễn Thị Thu Huyền Trần Lan Hương Nguyễn Thị Lan Hương Trần Thị Hà May Nguyễn Lan Phương
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Trường đại học kinh tế quốc dân
Viện thương mại và kinh tế quốc tế
ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
GVHD: GV. Tô Xuân Cường
Lớp: Kinh tế quốc tế 51E
Nhóm 1: Nguyễn Thị Minh Hà
Hoàng Thị Hạnh
Nguyễn Thị Thu Huyền
Trần Lan Hương
Nguyễn Thị Lan Hương
Trần Thị Hà May
Nguyễn Lan Phương
1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI
1.1. Tỷ giá hối đoái
1.1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái
1.1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (tỷ giá) là giá cả của một đồng tiền được biểu thị qua một
đồng tiền khác, là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền khác nhau.
Công thức: 1 đơn vị đồng yết giá = X đơn vị đồng định giá
Dựa trên phương pháp yết tỷ giá, có thể đưa ra khái niệm cụ thể về tỷ giá:
- Phương pháp yết giá trực tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị ngoại tệ
tính bằng một số đơn vị nội tệ”. Hầu hết các nước trên thế giới đều dùng phương
pháp yết giá này.
- Phương pháp yết giá gián tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị nội tệ
tính bằng một số đơn vị ngoại tệ”. Hiện nay, trên thế giới chỉ có 5 đòng tiền dùng
phương pháp yết giá gián tiếp là: GBP, AUD, NZD, EUR và SDR. Riêng đối với
đồng USD, Mỹ áp dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp đối với các ngoại tệ SDR,
EUR, GBP, AUD, NZD, IEP và gián tiếp đối với các ngoại tệ còn lại.
1.1.1.2. Phân loại
a) Căn cứ vào chính sách tỷ giá
- Tỷ giá chính thức (Official rate): Là tỷ giá do các cơ quan có thẩm
quyền (Ngân hàng trung ương, quỹ tiền tệ quốc gia) công bố, nó phản ánh chính
thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được áp dụng để tính
thuế xuất khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. Ở Việt
Nam, đây là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, là tỷ
giá cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ
cho phép.
- Tỷ giá chợ đen (Black market rate): Là tỷ giá được hình thành bên
ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định.
- Tỷ giá cố định (Fixed rate): Là tỷ giá do ngân hàng trung ương công
bố cố định trong một biên độ dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường,
để duy trì tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương buộc phải thường xuyên can thiệp
làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi.
- Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely floating rate): Là tỷ giá được hình
thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, ngân hàng trung ương
không hề can thiệp.
- Tỷ giá thả nổi có điều tiết (Managed floating rate): Là tỷ giá được thả
nổi nhưng ngân hang trung ương tiến hàng can thiệp để tỷ giá biến động theo
hướng có lợi cho nền kinh tế.
b) Căn cứ mức ảnh hưởng lên cán cân thanh toán
- Tỷ giá danh nghĩa song phương (Nominal Bilateral Exchange Rate –
NER): Là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà
chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng.
- Tỷ giá thực song phương (Real Bilateral Exchange Rate – RER): bằng
tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước
ngoài, do đó, nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
- Tỷ giá danh nghĩa đa phương (Nominal Effective Exchange Rate –
NEER): Là chỉ số tỷ giá trung bình của một đồng tiền so với các đồng tiền còn lại.
- Tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate – REER): bằng
tỷ giá danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước
với tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với
tất cả các đồng tiền còn lại.
1.1.2. Các chế độ tỷ giá hối đoái chủ yếu
Khái niệm: Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của một
quốc gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.
1.1.2.1. Chế độ tỷ giá cố định
a) Khái niệm
Là chế độ tỷ giá mà trong đó, ngân hàng trung ương công bố và cam kết can
thiệp để duy trì tỷ giá cố định (tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được
định trước.
Trong chế độ tỷ giá này, giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của
một đồng tiền khác hay với một rổ đồng tiền khác, hoặc với một thước đo giá trị
khác (Vàng…).
b) Đặc điểm
Tỷ giá được ngân hàng trung ương cam kết cố định trong một biên độ hẹp
(thường từ 2-5%), không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.
Do mỗi đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá với các đồng tiền khác nên tỷ giá của một
đồng tiền có thể được thả nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với đồng
tiền khác.
c) Vai trò của ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là người có trách nhiệm điều hành tỷ giá, phải thực
hiện mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá
trung tâm trong biên độ hẹp đã định trước. Để tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối đòi hỏi ngân hàng trung ương phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất
định.
d) Tác động
Trong thực tế, chế độ tỷ giá cố định đã giúp tạo ra sự ổn định cho các nền
kinh tế và được nhiều chính phủ ưa thích. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ
thống Bretton Woods đã tồn tại đến tận năm 1970 với sự neo giá cố định của các
đồng tiền Tây Âu vào đồng USD. Đồng EUR hiện nay cũng có thể được xem là
một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia thành viên.
Nhiều quan điểm khác cho rằng, tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên
che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Nguyên
nhân chính là do đồng tiền không còn thể hiện giá trị thực của chúng. Sự che đậy
thông tin tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các nhà đầu cơ tấn công các đồng
tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối trong khi cố gắng bảo
vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy.
1.1.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
a) Khái niệm
Là chế độ tỷ giá mà trong đó, tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy
luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của
ngân hàng trung ương.
b) Đặc điểm
Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá là không có
giới hạn và luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối.
c) Vai trò của ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một
thành viên bình thường, nghĩa là ngân hàng trưng ương có thể mua hay bán một
đồng tiền nhất định phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm
mục đích can thiệp lên tỷ giá.
Chế độ tỷ giá này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Trên thực tế, nói là áp dụng
chế độ tỷ giá thả nổi độc lập, nhưng ngân hàng trung ương không thờ ơ với sự biến
động thất thường của tỷ giá, nên ít nhiều can thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá.
Tuy nhiên, can thiệp của chính phủ là tùy ý và không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt
buộc cụ thể nào phải đạt được.
d) Tác động
Các nhà kinh tế cho rằng, trong nhiều trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt
hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy cảm với thị trường ngoại hối.
Điều này cho phép làm dịu đi nhưng tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh
nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.
1.1.2.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
a) Khái niệm
Là chế độ trong đó ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp tích cực trên
thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
b) Đặc điểm
Ngân hàng trung ương không cam kết duy trì cố định tỷ giá hay một biên độ
dao động hẹp cung quanh tỷ giá cố định nào, nhưng lại cam kết can thiệp để tỷ giá
ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ % nhất định so với ngày hôm
trước.
Là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định, kết
hợp những ưu điểm và loại bỏ được những nhược điểm của hai chế độ này.
c) Vai trò của ngân hàng trung ương
Tích cực và chủ động can thiệp lên tỷ giá thông qua các nghiệp vụ thị trường
mở để giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, hoặc để tỷ giá biến động trong một
biên độ nhất định.
d) Tác động
Chính phủ vẫn có thể kiểm soát được sự biến động của tỷ giá và các ảnh
hưởng của tỷ giá lên nền kinh tế, trong khi đó vẫn không làm kìm hãm sự phát
triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành liên quan đến kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, chế độ tỷ giá này vẫn tạo điều kiện cho các chính sách tiền tệ của
chính phủ phát huy tác động mà không hoàn toàn bị đóng băng như chế độ tỷ giá
cố định.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái
1.1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá dài hạn
- Mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước: Trong điều kiện cạnh tranh
lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương nhau, cơ chế quản lý
ngoại hối tự do, khi đó nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của
nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại, nghĩa là tỷ giá tăng lên.
- Chính sách ngoại thương: Thuế quan và hạn ngạch. Khi một nước áp
dụng thuế và hạn ngạch với hàng nhập khẩu sẽ làm tăng nhu cầu về hàng nội địa,
nội tệ có xu hướng tăng giá, làm cho tỷ giá giảm xuống.
- Ứng xử của công chúng: Sự ưa thích hàng nội hay hàng ngoại. Sự ưa
thích hàng nhập ngoại tăng làm cho ngoại tệ tăng giá. Ngược lại, sự tăng lên về lâu
dài của hàng xuất khẩu sẽ làm cho đồng nội tệ tăng giá.
- Năng suất lao động và mức thu nhập giữa các quốc gia: Nếu năng
suất lao động của một nước cao hơn nước khác thì giá hàng nội tệ của nước đó có
thể hạ tương đối so với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi, dẫn đến cầu về hàng nội
tăng, làm tăng giá đồng nội tệ.
1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá ngắn hạn
- Lãi suất: Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều
chỉ tiêu khác nhau, trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với
nhau. Khi lãi suất đồng nội tệ tăng tương đối so với lãi suất thế giới thì luồng vốn
quốc tế đổ vào nước này tăng lên, làm cầu nội tệ tăng.
- Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung –
cầu về ngoại tệ trên thị trường, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.
Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và ngược lại, bội chi cán cân sẽ
làm cho tỷ giá tăng.
- Đầu tư nước ngoài: Một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn
ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm và
ngược lại, khi đầu tư ra nước ngoài thì luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn
dòng vốn chảy ra nước ngoài dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng.
1.1.4. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các hoạt động kinh tế quốc tế
Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân
thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Nó ra đời từ hoạt
động thương mại quốc tế và quay trở lại tác động thúc đẩy hoạt động ngoại thương
phát triển.
Tỷ giá hối đoái tác động lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa và vốn, giá cả
hàng hóa trong nước, do đó nó có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Khi tỷ giá
tăng, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thế giới sẽ tăng lên và
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của quốc gia. Đồng thời với đó là sự tăng giá của
hàng nhập khẩu, làm giảm kim ngạch nhập khẩu quốc gia.
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển vốn từ quốc gia
này tới quốc gia khác. Việc di chuyển vốn nhằm mục đích kiếm lợi nhuận và tránh
rủi ro. Do đó, tỷ giá tăng lên sẽ khiến cho tư bản nhập khẩu gia tăng và tư bản xuất
khẩu giảm.
Ngoài ra, giá cả hàng hóa trong nước cũng chịu tác động của tỷ giá hối đoái.
Khi tỷ giá tăng, giá tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo
theo giá cả các mặt hàng trong nước có liên quan cũng tăng theo. Đồng thời, do tác
động giảm nhập khẩu nên cầu về các hàng hóa nhập khẩu cũng sẽ gia tăng, làm
cho giá cả chung trong nền kinh tế bị đẩy lên cao.
1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái
1.2.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện
thường là ngân hàng trung ương) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ
chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ
giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với
mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.
1.2.2. Các công cụ chủ yếu của chính sách tỷ giá hối đoái
1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp
- Phá giá tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá cố định, phá giá tiền tệ là việc
chính phủ đánh tụt giá đồng nội tệ so với các ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ
là tỷ giá được điều chỉnh tăng so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì. Tỷ giá
tăng làm nội tệ giảm giá nên được gọi là phá giá.
Có hai nguyên nhân khiến cho chính phủ phải phá giá nội tệ:
+ Phá giá chủ động: Do giá cả hàng hóa và tiền lương là ít co giãn trong
ngắn hạn, nên khi điều chỉnh tỷ giá tăng đột ngột, tức là phá giá tiền tệ sẽ làm cho
giá hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, kích thích tăng xuất khẩu; ngược lại,
giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, làm giảm nhập khẩu; kết quả là cán cân
thương mại được cải thiện, tạo công ăn việc làm, kích thích sản xuất trong nước,
tăng dự trữ quốc gia.
+ Phá giá bị động: Trong trường hợp đồng nội tệ được định giá quá cao, làm
mất cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối (cung ít, cầu nhiều), ngân hàng
trung ương tiến hành can thiệp làm cho dự trữ ngoại hội cạn kiệt. Để cung cầu cân
bằng và dự trữ ngoại hối không giảm nữa, chính phủ buộc phải phá giá đồng nội tệ.
Phá giá bị động thường xảy ra khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân
thương mại.
- Nâng giá tiền tệ: Ngược lại với phá giá tiền tệ, nâng giá là việc chính
phủ tăng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ.
Lý do mà một quốc gia phải nâng giá đồng nội tệ bao gồm:
+ Áp lực từ các nước đối tác thương mại có cán cân thương mại thâm hụt.
+ Nhằm tránh phải tiếp nhận những đồng ngoại tệ bị mất giá chạy vào nước
mình.
+ Nhằm hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng (nâng giá tiền tệ làm giảm xuất khẩu,
giảm đầu tư vào trong nước).
+ Để xây dựng sự ảnh hưởng của nước mình ở bên ngoài (tăng cường đầu tư
và xuất khẩu vốn ra nước ngoài).
- Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động mua bán giấy tờ có giá giữa
ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Thông thường, hoạt động của ngân
hàng trung ương trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán nội tệ nhằm duy
trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá
thay đổi đạt tới một mức nhất định trong mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả
nổi) thường làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Nó có thể gây ra
hiện tượng lạm phát hay giảm phát không mong muốn cho nền kinh tế. Chính vì
vậy thông thường các ngân hàng trung ương phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị
trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu
thông.
Thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương tác
động trực tiếp lên nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết
lượng cung ứng tiền tệ.
+ Khi ngân hàng trung ương mua vào các giấy tờ có giá sẽ bù đắp lượng tiền
thiếu hụt trong lưu thông. Do đó, giảm áp lực giảm phát.
+ Khi ngân hàng trung ương bán ra các giấy tờ có giá, sẽ hút bớt lượng nội
tệ đang dư thừa trong lưu thông, làm giảm áp lực lạm phát.
Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết của công cụ này là chính phủ phải có một
lượng dự trữ ngoại hối nhất định có thể can thiệp kịp thời vào các biến động của thị
trường mà vẫn đảm bảo mức dự trữ an toàn quốc gia.
- Kết hối ngoại tệ: Là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và
pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn
nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được
áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại
hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực khi
phải phá giá nội tệ.
- Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng
ngoại tệ, số lượng mua ngoại tệ, thời điểm mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này
đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ gias
ổn định.
1.2.2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
a) Các công cụ phổ biến
- Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi ngân hàng
trung ương tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ làm tăng mặt bằng lãi suất thị
trường, hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ tăng giá.
- Thuế quan: Thuế quan cao có tác động hạn chế nhập khẩu, làm cho
cầu ngoại tệ giảm, kết quả là làm cho nội tệ tăng giá.
- Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu nên nó cũng có tác
động như thuế quan.
- Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho
những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ
giá xuất khẩu có thể làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ,
khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù đắp giá cho một số hàng nhập
khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu và kết quả là làm giảm giá đồng nội tệ.
b) Các công cụ đặc biệt
Ngoài các công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kỳ, chính
phủ (chủ yếu là các nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số chính sách cá
biệt như sau:
- Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: Khi ngoại tệ khan
hiếm trên thị trường ngoại hối, ngân hàng trung ương có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, làm cho
chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng. Để kinh doanh có lãi, các ngân hàng thương mại
bắt buộc phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở
nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại
tệ phải bán đi để mua về nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
làm cho đồng nội tệ lên giá.
- Quy định lãi suất trần thấp đối với tiền gửi bằng ngoại tệ: Quy định
mức lãi suất cao nhất mà người gửi ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại được
hưởng. Khi ngân hàng trung ương quy định trần thấp thì việc gửi tiền bằng ngoại tệ
trở nên kém hấp dẫn, người gửi tiền sẽ bán ngoại tệ lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại
tệ và tăng cầu nội tệ dẫn đến việc tăng giá của đồng nội tệ.
- Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại ngoài
mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại
tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
1.3. Vai trò của Chính phủ trong việc điều hành tỷ giá hối đoái
Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một
mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với
một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá
chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải
có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động
can thiệp đó chính phủ tuân theo nguyên tắc tương hợp nhằm ít gây méo mó thị
trường. Việc quản lý, điều hành tỷ giá hối đoái đó của chính phủ được thực hiện
chủ yếu qua sự tham gia của ngân hàng trung ương trên thị trường, vai trò của ngân
hàng trung ương cũng chính là vai trò của Chính phủ trong quá trình quản lý này.
Vai trò đó được thể hiện thông qua một số lưu ý của ngân hàng trung ương trong
điều hành tỷ giá hối đoái:
- Ngân hàng trung ương một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao
dịch trên thị trường liên ngân hàng.
- Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường
ngoại hối nói riêng, ngân hàng trung ương cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai
chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị
trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các
chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịch
tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm
điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.
- Ngân hàng trung ương phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng
cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng
thành viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân
hàng thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có
thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện với các ngân hàng thương
mại và ngân hàng trung ương.
- Ngân hàng trung ương và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các
giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra
khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được
thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch
trên khu vực tự do của thị trường.
- Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường
ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua
bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi...bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà
nước, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng,
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp
bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào
đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về
bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
- Việc can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm vào điều phối các quan hệ
cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ
mang tính kỹ thuật của thị trường.
- Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không
ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và
quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật
để hạn chế về thanh toán qua nhiều trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán
nội bộ của chính các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
- Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng
vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng
năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực tế bình quân của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ
quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đối lớn, vĩ mô của nền kinh tế.
- Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau,
điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc
gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau.
Nhìn chung, Chính phủ, thông qua ngân hàng trung ương, là người có vai trò
điều hành, quản lý tỷ giá hối đoái, sử dụng các công cụ của mình để điều chính tỷ
giá về mức cần thiết theo mục tiêu cho trước và đảm bảo sự thống nhất của chính
sách tỷ giá với các chính sách vĩ mô khác để phát triển nền kinh tế.
2. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC
2.1. Giai đoạn trước năm 1979
Cũng như những nước xã hội chủ nghĩa khác, trong giai đoạn trước khi
chuyển đổi nền kinh tế, Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỷ giá cố định
và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng với những nguyên tắc của chế
độ tỷ giá cố định. Những tỷ giá được ấn định khác nhau tùy thuộc vào từng quan
hệ kinh tế đối ngoại và thỏa thuận trong quan hệ của hai bên hay nhiều bên có tính
chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của đồng Ruble (RUR) đã được ấn định
ngang bằng với giá trị đồng USD.
Trên thực tế, giao dịch ngoại thương của các nước xã hội chủ nghĩa trong
thời gian này chủ yếu là trao đổi hàng hóa trực tiếp và tỷ giá hối đoái chỉ được sử
dụng vào thanh toán số dư cuối kỳ nên không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
của nền kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp hoàn toàn không có nhu
cầu sử dụng ngoại tệ một cách chủ động vì lợi ích của mình mà phải hoạt động
theo sự sắp đặt của nhà nước nên tỷ giá hối đoái đã không thể hiện được vai trò là
đòn bẩy kinh tế của nó. Tỷ giá và các nhân tố tác động đến tỷ giá của thời kỳ này
không tồn tại hoặc chỉ tồn tại mang tính hình thức mà hoàn toàn không đem lại bất
kỳ hiệu quả gì cho cả nền kinh tế.
Khi bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế vào năm 1997, chính
sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những
yêu cầu mới của nền kinh tế.
2.2. Giai đoạn 1979-1994
Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với
những diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu
tố thị trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối với hầu hết các nước tiến hành
chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết và định hướng của nhà nước.
Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái
danh nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua
của nó trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì
đồng nhân dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng 2.2).
Bảng 2.2: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời
kỳ 1978 – 1990.
Chỉ tiêu 1978 1980 1982 1984 1986 1988 1990
Tỷ giá cuối năm
USD/NDT
1.577 1.530 1.922 2.975 3.722 3.722 5.222
Tỷ giá trung bình 1.683 1.498 1.892 2.320 3.453 3.722 4.783
năm(USD/NDT)
Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín hiệu
của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những năm đầu của
thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy
trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem bảng xx), là mức dao
động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của lạm phát của Trung
Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 - 1993) trên 11,06% là
mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm phát (0,14%) (bảng 2.3).
Bảng 2.3: Biến động tỉ giá danh nghĩa USD/NDT đầu những năm 1990.
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993
Tỷ giá cuối năm (USD/NDT) 5.222 5.434 5.752 5.800
Tỷ giá trung bình năm (USD/NDT) 4.783 5.323 5.515 5.762
Lạm phát Trung Quốc (%/năm) 3.06 3.52 6.34 14.58
2.3. Giai đoạn 1994-1997
Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỉ lệ
lạm phát sẽ còn tiếp tục dâng cao nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa,
nhận thấy trong tình hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đoái theo hướng
cố định tương đối thì sẽ có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và
thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình
trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã ra một
quyết định có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung Quốc.
Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ
5.8 NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8).
Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993
thì tỷ lệ phá giá thực tế là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của chính
phủ Trung Quốc không đơn thuần là nhằm điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản
ánh đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính sách tỷ giá hối
đoái của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy cao độ xuất
khẩu hàng hoá ra nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ
giá ấn định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỉ giá được dao động quanh
mức tỉ giá vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ
giá này lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ
trợ như: thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại
hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến
cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán
ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối...kết hợp
với việc kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại
hối của các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào được phép
chuyển đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt
động trong thị trường ngoại hối. Đối với các công ty nước ngoài,Trung Quốc yêu
cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh
phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh
nghiệp nhà nước thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50%
như trước đây. Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ
lệ giữ ngoại tệ mạnh, các công ty nước ngoài được từng bước giao dịch, mua bán
các loại ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn
vào thị trường tiền tệ thế giới.
Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỉ giá hối đoái của
Trung Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân
dân tệ Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là
đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến
các khoản thanh toán về mậu dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi
nhuận các công ty nước ngoài chuyển về nước).
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Lạm phát (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8,6187 8,3514 8,3142 8,2898
Tốc độ tăng trưởng (% năm) 12,70 10,50 9,50 8,80
Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ
phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực
nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế
Trung Quốc
2.4. Giai đoạn 1997 - 2005
Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỉ giá
đồng Nhân dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm
trọng hơn. Trên thực tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời
gian diễn ra cuộc khủng hoảng năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội
tệ trong giai đoạn 1993 – 1996 như đã nghiên cứu ở trên.
Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn công của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm
soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá
giá đồng Nhân dân tệ. Đồng thời, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng
trưởng của nền kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền
tệ nới lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất
tiền cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm cả lãi suất tiền gửi ngoại
tệ. Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ vốn doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư.
Bảng 2.4: Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998
Chỉ tiêu 20.03.1998 01.07.1998 06.12.1998
Lãi suất tiền cho vay NDT giảm(%) 1.6 0.49 0.27
Lãi suất tiền gửi NDT giảm (%) 0.6 1.12 0.55
Lãi suất tiền gửi USD giảm (%) 4.875 4.250 3.755
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau
khi gia nhập WTO, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần
được thực thi sao cho đảm bảo hài hoà được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của
quốc gia khổng lồ này trong giai đoạn này.Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của
Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày càng cao ở mức khó kiểm
soát, trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng
trung ương Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng
đồng nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ
5,31% lên 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn
cầu trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang
bắt đầu thực hiện cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng
7 năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì
những kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng
thời góp phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh
tế.
Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên
đồng Nhân dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, ngân hàng trung ương phải
mua vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là
dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn 40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD
tính đến cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này, Trung Quốc trở thành nước có
lượng dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản (820 tỷ USD).
Trên cơ sở xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cũng
từng bước nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ
mức 3% hiện nay tiến tới 4-5%.
Những biện pháp trên của Chính phủ Trung Quốc không những đã giúp hạn
chế sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức
giá thấp trong thời gian dài, khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ
vững mức tỷ giá 8,26 - 8,28 NDT/USD cũng không phải là điều dễ thực hiện. Theo
đánh giá, có những thời điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ Nhân dân
tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp can thiệp này không thể duy
trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để làm dịu
sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là :
- Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỉnh, khu vực được đầu tư ra nước
ngoài nhiều hơn, mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD.
- Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích
xuất khẩu, xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản
vay tiền và hạn chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường
trái phiếu cũng như các thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm 7 nước công nghiệp
hàng đầu thế giới (G7) tại Washington, Trung Quốc đã xác nhận sẽ tiến tới linh
hoạt tỷ giá đồng Nhân dân tệ. Mặc dù không đưa ra một lịch trình cụ thể nào cho
cam kết về linh hoạt tỷ giá, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện
pháp nhằm cải cách chính sách tiền tệ.
Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng
vững trong thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm
2005, tỉ giá ngoại tệ của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT
đổi lấy 1 USD, với biên độ dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày.
2.5. Giai đoạn từ 2005 đến nay
Năm 2005, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ
tỷ giá. Trong thời gian này Trung quốc duy trì chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ có
biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kỳ (BBC):
Chế độ tỷ giá BBC được coi là chế độ tỷ giá trung gian nằm giữa chế độ neo
tỷ giá và chế độ tỷ giá thả nổi. Đây là chế đọ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà
nước với những đặc điểm riêng có. Chúng ta có thể dễ dàng nhận dạng ra 3 đặc
điểm thông qua tên gọi của cơ chế: tỷ giá của nội tệ được xác định dựa trên 1 rổ
tiền tệ (Basket), có biên độ dao động (Band) và được điều chỉnh định kỳ (Crawl),
với yếu tố Crawl tỷ giá có thể trượt dần dần theo 1 hướng đi lên hoặc đi xuống.
Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các
thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này.
Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%.
Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của Ngân hàng Trung
ương tại Thượng Hải, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc ZhouXia
Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ,
Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và
Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.
Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY,
Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B
- Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl).
So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là
2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương
danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì
được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó,
đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại
của Trung Quốc.
2.6. Đánh giá chung về chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
2.6.1. Ưu điểm
Việc phá giá đồng NDT (từ năm 1979 đến năm 1994) xét trong ngắn hạn sẽ làm
nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng.
Nguyên nhân ở đây là do lượng hàng xuất khẩu sẽ rẻ đi một cách tương đối trên thị
trường quốc tế, còn lượng hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa.
Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này không chỉ giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất
khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên quốc tế mà còn tạo cơ sở giảm
thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư mạnh từ các
nguồn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc để vươn lên đứng đầu các nước đang
phát triển về mức độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp. Đây cũng
là cơ sở tạo ra khả năng góp phần giảm sốc cho nền kinh tế Trung Quốc trước tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á.
Bảng 2.4: Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 - 1990.