Page 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2016
Page 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Thị Hiển
Hà Nội - 2016
Page 3
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Trần Thị Thanh Hương
Page 4
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 6
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn ............................................................ 7
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 7
NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
Chương 1 QUAN NIỆM CHUNG VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ NHỮNG
THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN) ........................................................ 8
1.1. Quan niệm về chung về xóa đói, giảm nghèo ................................................... 8
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo .................................................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo ................................................................. 12
1.2. Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở huyện
Phú Lương (Thái Nguyên) ...................................................................................... 21
1.2.1. Thuận lợi ......................................................................................................... 21
1.2.2. Khó khăn ......................................................................................................... 28
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 30
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN) THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM
NGHÈO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 ............................................................ 31
2.1. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1997-2005 ............................. 31
2.1.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 1997 – 2005 ............................................................................ 31
2.1.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 1997 – 2005 .................................................................................... 34
Page 5
iii
2.1.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2005 ............. 41
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ................................ 43
2.2.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về xóa đói
giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ........................................................................... 43
2.2.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 2006 – 2010 .................................................................................... 46
2.2.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 2006 đến năm 2010 ............. 58
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 59
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ...................................... 60
3.1. Nhận xét ............................................................................................................ 60
3.1.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 60
3.1.2. Hạn chế ........................................................................................................... 64
3.2. Một số kinh nghiệm .......................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76
Page 6
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Chuẩn mực đói nghèo năm 1996 ................................................................. 10
Bảng 2: Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn ............................................ 11
Bảng 3: Tình hình phân bố đất đai huyện Phú Lương năm 2005 ............................. 24
Bảng 4: Tổng hợp kết quả giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ................................ 59
Page 7
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT : Bảo hiểm y tế
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CP : Chính Phủ
DTTS : Dân tộc thiểu số
GQVL : Giải quyết việc làm
HĐND : Hội đồng nhân dân
NQ : Nghị quyết
UBND : Ủy ban nhân dân
QĐ : Quyết định
SXKD : Sản xuất kinh doanh
XĐGN : Xóa đói, giảm nghèo
Page 8
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở mọi
quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống trong cảnh đói
nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong
tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước
cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát
triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất nhiều. Trong xu thế hợp tác và
toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá, đói giảm nghèo (XĐGN) không còn là trách
nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế.
Việt Nam là một trong những nước có thu nhập khá thấp so với các nước trên thế
giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN là một chiến lược lâu dài cần
được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự
lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát
triển kinh tế của các nước tiên tiến. Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con
đường tăng trưởng và phát triển của quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ
dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội…
Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (CNH-HĐH) phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng trở
nên khó khăn hơn vì khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn ra. Muốn đạt được
hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh và bền vững tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức
sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN
riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đất đai, thổ nhưỡng của mình nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phú Lương là một huyện miền núi phía Bắc của tỉnh Thái Nguyên, cách
thành phố Thái Nguyên 22 km, gồm 14 xã và 2 thị trấn với diện tích tự nhiên là
368,82 km2, có dân số trên 105 ngàn người. Hiện nay Phú Lương vẫn là một huyện
nghèo, có diện tích rộng, dân cư phân bố không đều, kinh tế chính trị phát triển
chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ đói
nghèo của huyện còn cao.
Page 9
2
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược
phát triển kinh tế trên địa bàn, huyện Phú Lương đã tích cực thực hiện chương trình
XĐGN và thu được một số kết quả đáng kể: Theo số liệu tổng điều tra hộ nghèo
năm 2006 toàn huyện không còn hộ đói, hộ nghèo là 7.943 hộ chiếm tỷ lệ 31,51%
so với tổng số hộ toàn huyện. Tính bình quân cả giai đoạn 2000 – 2005 thì mỗi năm
giảm hơn 2% hộ nghèo. Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái
nghèo cao. Còn những hạn chế đó là do việc thực hiện chương trình XĐGN ở các
địa bàn không đều, nhận thức tầm quan trọng của chương trình XĐGN của các cấp
lãnh đạo và người dân chưa đầy đủ. Thực tế đó đặt ra cho huyện Phú Lương nhiệm
vụ tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện chương trình XĐGN trong
thời gian tới.
Việc thực hiện đề tài nhằm rút ra những kinh nghiệm, ưu điểm, hạn chế để áp
dụng cho công tác XĐGN ở các huyện, địa bàn khác trong toàn quốc có điều kiện
tương đồng với huyện Phú Lương. Góp phần nghiên cứu Lịch sử địa phương,
nghiên cứu Lịch sử Đảng của huyện Phú Lương lãnh đạo nhân dân trong huyện
thực hiện chủ trương của Đảng, trong công tác xã hội, xây dựng cuộc sống mới.
Đồng thời đề tài còn làm sáng tỏ truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của nông
dân Việt Nam nói chung và huyện Phú Lương nói riêng trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới. Qua đó giáo dục đức tính giúp đỡ lẫn nhau cho các thế hệ hiện tại,
đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay. Ngoài ra nghiên cứu đề tài còn cho thêm bài học về
bảo vệ phát triển nông nghiệp, sử dụng đất đai có hiệu quả và bài học về cách mạng
xanh trong nông nghiệp.
Vì những lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010” làm
đề luận văn nghiên cứu chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xóa đói, giảm nghèo là một vấn đề mang tính thời sự luôn được Đảng, Nhà
nước và các cấp bộ, ngành, các cơ quan đơn vị, các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học,
tác phẩm, bài viết về vấn đề đói nghèo được công bố ở trong và ngoài nước như:
Page 10
3
Thứ nhất, các nghiên cứu lý luận chung về xóa đói, giảm nghèo và thực
trạng công cuộc XĐGN ở Việt Nam từ các học giả và các tổ chức nước ngoài như:
Công ty Aduki (1996): Vấn đề nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Công trình của Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật ở Việt Nam (2001): Xóa đói giảm
nghèo ở vùng dân tộc thiểu số, phương pháp tiếp cận, nói lên những phương pháp
công tác, đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc ít
người miền núi. Ngân hàng thế giới cũng có công trình (2003): Đói nghèo và bất
bình đẳng ở Việt Nam. Tác phẩm đã phân tích thực trạng nghèo đói ở Việt Nam và
đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng nhiều mặt của người
nghèo; Đại học Harvard – Chương trình Châu Á (2007): “Lựa chọn thành công
bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam”, đã phân tích những
vấn đề tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu
hóa, của các chính sách phát triển thiếu hợp lý trong thời gian qua, đặt ra nguy cơ
tái nghèo đói…
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về đói nghèo của các nhà khoa học
trong nước: TS. Trần Thị Hằng (2001): Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội; Tác phẩm của Dương Phú
Hiệp, Vũ Văn Hòa (2004): Phân hóa giàu nghèo ở một số quốc gia Châu Á – Thái
Bình Dương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Báo cáo phát triển của Việt Nam
(2000): Tấn công nghèo đói. Báo cáo của nhóm công tác chuyên gia Chính phủ -
Nhà tài trợ - Tổ chức phi Chính phủ, Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt
Nam, 14 - 15/12/1999. Báo cáo đã tổng kết kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo của
các tổ chức phi Chính phủ - Nhà tài trợ ở Việt Nam; Nguyễn Văn Thường (2004):
Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, nêu lên sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam gắn liền với xóa đói, giảm nghèo. Cùng
một chủ đề như vậy cũng có tác phẩm của Ngô Quang Minh (1999): Tác động của
kinh tế Nhà nước góp phần xóa đói, giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu nguyên nhân đói nghèo ở nước ta và
đưa ra những giải pháp xóa đói, giảm nghèo: Nguyễn Đình Huấn (8/1999): Suy
Page 11
4
giảm năng lực nội sinh ở nông thôn nước ta, nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế; Nguyễn Thị Hằng, Trần Đình Hoan, Bùi Trọng Thanh (1997):
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Lao động – xã hội,
Hà Nội; Hà Quế Lâm (2002): Xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Thứ tư, xóa đói, giảm nghèo cũng là những đề tài học vị thạc sỹ, tiến sỹ:
Lương Thị Hồng (2015): Quá trình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam (1991 – 2010), luận án tiến sỹ Sử học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;
Trần Đình Đàn (2002): Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xóa đói,
giảm nghèo ở Hà Tĩnh, luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội; Trần Thị Hằng (2000): Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội; Hoàng Thị Hiền (2005): Xóa đói, giảm nghèo với đồng bào
dân tộc ít người tỉnh Hòa Bình – Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Hoàng Lý (2005): Xóa
đói, giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai – Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thái Văn Hoạt (2007): Giải pháp xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ
Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Mai Thị
Hà (2011): Đảng bộ huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa) lãnh đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo từ năm 2000 đến năm 2010, luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận Chính trị, Hà Nội;
Hoàng Thị Ngọc Hà (2012): Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh đạo công tác xóa đói,
giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội; Trần Thị Xoa (2014):
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm
1997 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
Thứ năm, có những công trình đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước
liên quan tới xóa đói, giảm nghèo: Nguyễn Thị Hằng (2001): Bàn về mục tiêu,
Page 12
5
nhiệm vụ và những biện pháp lớn của công tác di dân xây dựng kinh tế mới đến
năm 2000, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; Lê Huy Ngọ (2001): Phát triển nông nghiệp
nông thôn miền núi trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội; Ngôn Nghiệp (2004): Công tác tuyên truyền ở vùng dân tộc và
miền núi trong tình hình mới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Lê Hải Đường (2004):
Đổi mới phương thức chuyển giao Khoa học và Công nghệ vào vùng dân tộc và
miền núi, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Hoàng Xuân Thuận (2004): Quản lý Nhà
nước về khoa học ở vùng dân tộc miền núi, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Nguyễn
Anh Cường, Phạm Quốc Thành (10/2014): Xóa đói, giảm nghèo, giảm trừ bất bình
đẳng xã hôi – Kết quả và một số kinh nghiệm, Tạp chí Lịch sử Đảng, Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn
đề xóa đói, giảm nghèo. Thực trạng nghèo đói trên thế giới và Việt Nam cũng như
nguyên nhân của nghèo đói, sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo trên toàn quốc, ở cấp
tỉnh và một số huyện, kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo thành công cũng như chưa
thành công. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó có giá trị tham khảo tốt để
thực hiện đề tài luận văn. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện dưới góc độ của khoa học chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương đối với
công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện từ năm 1997 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo
công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Phú Lương
lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu về công tác xóa đói, giảm nghèo trên
địa bàn huyện Phú Lương (Thái Nguyên).
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm nghèo; những thành công và hạn chế
Page 13
6
trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của huyện Phú Lương từ năm 1997
đến năm 2010; những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tiến hành công tác xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn huyện.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Nghiên cứu làm rõ vai trò của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên)
trong công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010; Nêu ra những
thành tựu và hạn chế, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương để tiếp tục vận dụng thực hiện hiệu quả hơn chủ
trương, đường lối của Đảng về công tác xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện
nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Trình bày khái quát, hệ thống chủ trương của Đảng về xóa đói, giảm nghèo,
phân tích sự cần thiết khách quan phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên)
trong công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
- Đánh giá thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm từ quá
trình Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo trên địa
bàn huyện từ năm 1997 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận, thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của
Nhà nước về giải quyết các vấn đề xã hội, trực tiếp là xóa đói, giảm nghèo, nâng
cao đời sống cho nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,
khảo sát thực tiễn...
Page 14
7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn hệ thống hóa tư liệu về quá trình Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh
đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
Góp phần làm sáng tỏ những thành công, hạn chế và những bài học kinh
nghiệm trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Phú
Lương trong những năm 1997 – 2010.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu về quá trình Đảng
bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo nói riêng, tư liệu lịch
sử về huyện Phú Lương nói chung và làm cơ sở để đưa công tác xóa đói, giảm
nghèo trong giai đoạn tiếp theo thành công hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Quan niệm chung về xóa đói, giảm nghèo và những thuận lợi, khó
khăn trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở huyện Phú Lương (Thái Nguyên).
Chương 2: Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương
(Thái Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.
Page 15
8
NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM CHUNG VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ NHỮNG
THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
1.1. Quan niệm về chung về xóa đói, giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Cho đến nay, đói nghèo vẫn
là nỗi ám ảnh đối với các quốc gia trên thế giới. Loài người chúng ta đã chứng kiến
những thảm họa của các cuộc chiến tranh tàn sát, thiên tai, dịch bệnh và những hậu
quả do nạn đói gây ra vô cùng khủng khiếp. Vấn nạn đói nghèo không những cướp
đi nhiều sinh mạng, làm cho hàng triệu người không được hưởng thụ những thành
quả của nền văn minh tiến bộ mà còn gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã
hội đối với sự phát triển, tàn phá môi trường sinh thái.
Vấn đề đói nghèo nếu không được giải quyết thì không một mục tiêu nào của
thế giới cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, ổn
định hòa bình, công bằng, bình đẳng, bảo đảm các quyền con người được thực hiện.
Rõ ràng vấn đề xóa đói, giảm nghèo trở thành vấn đề toàn cầu phải được quan tâm,
chú ý và giải quyết.
Khái niệm đói nghèo có thể tách ra, phân tích và nhận dạng giữa đói và nghèo:
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Sự nghèo
khổ, sự bần cùng được biểu hiện là đói là tình trạng con người không có cái ăn, ăn
không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và
không đủ sức để lao động để tái sản xuất sức lao động. Về mặt năng lượng nếu
trong một ngày, con người chỉ được thỏa mãn mức 1500calo/ngày thì đó là thiếu
đói, dưới mức đó là đói gay gắt. Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ
một đến ba tháng, thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ
dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dột nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới
Page 16
9
13kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 VND) (1998 – 2000). Đói nghèo ở
nước ta, ngoài những đặc điểm xét về phương diện kinh tế còn có những đặc điểm
về phương diện xã hội.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn
những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức thu nhập thấp
hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện: ăn, mặc, ở, vệ sinh, giáo
dục, y tế và nhiều nhu cầu khác. Theo cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư
có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ
thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Nghèo chia thành nhiều mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối,
nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc
diện nghèo không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như: ăn,
mặc, ở, đi lại…Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo,
có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
Nghèo có nhu cầu tối thiểu là tình trạng một bộ phận dân cư có những đảm bảo tối
thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày
nhưng ở mức tối thiểu.
Trên đây là những khái niệm chung nhất, phương pháp đánh giá, nhận diện
nét chủ yếu, phổ biến về nghèo đói, trọng tâm của vấn đề là nhu cầu của con
người. Tuy vậy, trong khái niệm chưa thể hiện rõ chuẩn mực đánh giá về mặt định
lượng, chưa tính đến sự khác biệt, chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ, quốc gia,
các điều kiện cụ thể; sự phát triển của sản xuất, tăng cường kinh tế làm tăng thêm
nhu cầu của đời sống con người, tạo ra những biến đổi của xã hội. Do đó khái
niệm về “nghèo” và “đói nghèo” cũng biến động theo nó. Thực tế cho thấy các chỉ
số xác định đói nghèo thường được gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội, hiện
tượng đói nghèo có tính lịch sử và đang có sự biến động trong sự vận động chung
của đất nước.
Ở nước ta, việc xác định chuẩn nghèo luôn thay đổi theo từng thời kỳ. Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội là cơ quan được Chính phủ giao trách nhiệm nghiên
Page 17
10
cứu và xem xét chuẩn mực nghèo đói của cả nước qua từng thời kỳ. Chuẩn mực nghèo
đói là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận, điều kiện kinh tế và
thời gian, từ đó xác lập được chuẩn mực đói nghèo.
Năm 1996 chuẩn mực đói nghèo được đánh giá như sau:
Bảng 1: Chuẩn mực đói nghèo năm 1996
Loại hộ Địa bàn
Thu nhập bình quân đầu
người/tháng
Hiện vật
kg gạo/người Giá trị đồng
Nghèo
Nông thôn miền núi,
hải đảo Dưới 15kg < 60.000
Nông thôn đồng
bằng, trung du Dưới 20kg < 80.000
Thành Thị Dưới 25kg < 100.000
Đói Cả nước Dưới 13kg < 52.000
(Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội năm 1996)
Chuẩn mực đói nghèo năm 1997 được đánh giá tại quy định số 1751/LĐTBXH
ngày 20/5/1997 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội như sau:
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng quy
ra gạo dưới 13kg, tương đương với 45.000 đồng /người/tháng (tính cho mọi vùng)
Hộ nghèo: Là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo: vùng nông
thôn miền núi, hải đảo dưới 15kg/người/tháng (tương đương với 70.000 đồng);
vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20kg/người/tháng; vùng thành thị dưới
25kg/người/tháng (tương đương với 90.000 đồng). Chuẩn mực này áp dụng đến hết
năm 2000.
Từ ngày 1/1/2001 nước ta áp dụng chuẩn nghèo mới theo quyết định số
1143/2000 của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội:
Vùng nông thôn miền núi và hải đảo: Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình
quân dưới 80.000 đồng/người/tháng, tương đương với 960.000 đồng/người/năm.
Page 18
11
Vùng nông thôn đồng bằng: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập dưới
100.000 đồng/người/, tương đương với 1.200.000 đồng/người/năm.
Vùng thành thị: Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 150.000
đồng/người/tháng, tương tương với 1.800.000 đồng/người/năm.
Chuẩn mực nghèo đói năm 2003 được đánh giá như sau:
Hộ đói: Ở nông thôn là những hộ có thu nhập bình quân dưới 8kg
gạo/người/tháng; Ở thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 13kg
gạo/người/tháng.
Hộ nghèo: Ở nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 13kg
gạo/người/tháng; Ở thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 18kg
gạo/người/tháng.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì
chuẩn nghèo mới được áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 được áp dụng như sau:
Khu vực thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.
Khu vực nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000
đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo đói Việt Nam do Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đưa ra ở các giai đoạn khác nhau, đây là những chuẩn nghèo
quốc gia. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên nhiều yếu tố nhưng trong đó thu
nhập theo đầu người/tháng (được tính bằng VNĐ hoặc tương đương kg gạo) là chỉ
tiêu hàng đầu.
Bảng 2: Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn
Giai đoạn
Thu nhập theo đầu người/tháng
Nông thôn miền
núi, hải đảo
Nông thôn đồng
bằng, trung du Thành phố
1996 – 2000 <55.000 ~
< 15kg gạo
<70.000 ~
< 20kg gạo
< 90.000 ~
< 25kg gạo
2001 – 2005 < 80.000 <100.000 < 150.000
2006 – 2010 < 200.000 < 260.000
(Nguồn: Tạp chí khoa học, số 2, 2007)
Page 19
12
Như vậy, chuẩn nghèo đói luôn thay đổi biến động, phụ thuộc vào phương
pháp, cách tiếp cận, điều kiện kinh tế - xã hội và thời gian.
Đói nghèo là hậu quả của nhiều nguyên nhân, nhưng những nguyên nhân
chính gây ra đói nghèo có thể phân chia theo 3 nhóm:
Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế - xã hội: khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai, bão lụt, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, kinh tế
chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại.
Nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn,
đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội hay lười lao động.
Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: thiếu hoặc không đồng bộ về
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn; chính sách
khuyến khích sản xuất; vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông – lâm –
ngư nghiệp, chính sách trong giáo dục, đào tạo, y tế…
Đói nghèo là hiện tượng kinh tế xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của cả cộng đồng xã hội, phổ biến ở mọi quốc gia nhưng không hề giải quyết triệt để
vấn đề này trong một thời gian ngắn và trên quy mô toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề xóa
đói, giảm nghèo chỉ có thể giải quyết dần từng bước và là cả một quá trình lâu dài.
1.1.2. Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử như một lãnh tụ tối cao của Đảng
và của dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động lỗi lạc
của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
người bạn của các dân tộc bị áp bức và nhân loại của thế kỷ XX. Lịch sử dân tộc
và lịch sử nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ tên tuổi chói lọi Hồ Chí Minh – Anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Những di sản của Người sẽ sống
mãi với thời gian, với cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, cho quyền được sống và được hưởng tự do, hạnh phúc của các dân
tộc, của mỗi con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Do đó, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Page 20
13
đối với con người, đặc biệt là những người nghèo khổ xuất phát từ quan điểm Mác
xít về con người và giải phóng con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn niên thiếu
đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ,
Người đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Với tình yêu thương đồng
bào phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Trong hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, yêu nước và
thương dân là hai yếu tố quan trọng nhất. Người đã từng khẳng định rằng: Lòng yêu
nước của tôi với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi. Đó chính là sự đồng
cảm của những con người cùng cảnh ngộ, những người dân mất nước, nô lệ lầm than.
Chăm lo đời sống của nhân dân chính là chăm lo đến lợi ích của họ. Hồ Chí
Minh trong tư tưởng cũng như trong hành động, luôn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích
của người lao động. Khi cách mạng mới thành công, tại phiên họp ngày 3/9/1945
của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có
nhiệm vụ chống nạn đói. Điều này thể hiện bản chất của Chính quyền cách mạng và
tình yêu thương của Bác đối với những người nghèo khổ. Người đã kêu gọi đồng
bào cả nước “Sẻ cơm nhường áo”: “Hỡi đồng bào yêu quý! Từ tháng giêng đến
tháng bảy năm nay, ở Bắc Bộ nước ta đã có 2 triệu người chết đói. Kế đó lại bị nước
lũ, nạn đói càng tăng lên, nhân dân càng khốn khổ. Lúc chúng ta nâng bát cơm lên
mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng” [33, tr. 31]. Trong bài
phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (thành
lập ngày 31/12/1945), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “…Chúng ta giành được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không để làm gì. Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải
thực hiện ngay:
Làm cho dân đủ ăn
Làm cho dân đủ mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Làm cho dân được học hành
Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng với
tự do, độc lập và giúp sức cho tự do, độc lập” [33, tr. 152]. Bác còn ra lời kêu gọi mọi
Page 21
14
người giúp đỡ người nghèo: “Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực
hiện trước: Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa. Đem gạo đó
(mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [33, tr. 31]. Bằng tình yêu thương với những
người nghèo khổ, Người đã gương mẫu thực hành tiết kiệm để cứu đói. Nhờ vậy mà
phong trào “sẻ cơm nhường áo” đã thu hút đông đảo nhân dân cả nước tham gia.
Chính sách độc ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp như: ép thu thóc, bắt
nhổ lúa trồng đay đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào Bắc Bộ bị chết đói vào cuối năm
1944 đầu năm 1945, kế đó lại bị lụt, bị hạn, lại bị bọn thực dân Pháp gây chiến
tranh ở Nam Bộ làm cho việc đem gạo từ Nam ra Bắc gặp rất nhiều khó khăn. Nạn
đói cũng hết sức nguy hiểm. Muốn chống giặc đói cũng phải huy động và tổ chức
tất cả lực lượng của đồng bào cả nước: “Nạn đói đã đến rồi. Nếu chúng ta không lập
tức tìm hết mọi cách để chống nó thì trong vài tháng nữa, nạn đói sẽ đè lên đầu dân
ta” [33, tr. 93]. Người đã đề ra một số cách chống đói như: cấm nấu rượu, vùng này
san sẻ thức ăn cho vùng khác, ra sức tăng gia trồng trọt các loại cây ngắn ngày. Nói
tóm lại, bất cứ cách gì, hễ làm gì cho dân ta đỡ đói lúc này và ngăn ngừa nạn đói
mùa sau chúng ta đều phải làm cả. Theo Người: “Công việc chống đói cũng như
công việc to lớn khác, phải kiên quyết, phải phấn đấu, phải sẵn sàng hy sinh, phải
đoàn kết nhất trí. Ví dụ: cấm nấu rượu gạo, cấm bánh ngọt trong mấy tháng thì
những người có nghề đó chắc phải thiệt thòi. Nhưng các đồng bào đó cũng sẵn lòng
hy sinh lợi ích của mình để cứu cho đồng bào khỏi nạn đói. Chắc không ai thấy
đồng bào chết đói mà nỡ lòng no ấm một mình” [34, tr. 94].
Người cho rằng: “Chống nạn đói cũng như chống một cuộc ngoại xâm, ta nhất
định thành công vì đồng bào ta ai cũng sẵn lòng hăng hái. Nhưng các bạn phụ trách
các địa phương phải biết cách tuyên truyền, biết cách giải thích cho ai nấy đều hiểu
rõ, đều thực hành. Các bạn phải có sáng kiến để tìm ra cách được việc mà không mất
lòng dân. Nhất là đối với chữ Cần, chữ Kiệm, chữ Hy sinh, chữ Công bằng thì các
bạn phải thực hành trước; phải làm gương cho dân chúng noi theo” [34, tr. 94].
Trong “Lời kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm”
(3/1952), Hồ Chủ Tịch đã nói: “Lâu nay, chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ
Page 22
15
đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản
xuất và tiết kiệm, cải thiện đời sống nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh. Có
như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân” [34,
tr. 441]. Như vậy, xuất phát từ bản chất của chế độ ta và nhạy cảm trước nhu cầu
cấp thiết của nhân dân, Người đã đưa ra nhiều chính sách và giúp đỡ nhân dân hơn
nữa trong sản xuất và tiết kiệm.
Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói (13/6/1955), Người đã nói:
“Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có
ăn là không có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là không có ăn
thì chẳng làm được việc gì cả. Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải
hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” [35, tr. 572]. Bác luôn là người
quan tâm, chăm lo cho dân từ “miếng cơm manh áo”. Người hiểu rõ những nhu cầu
thiết yếu của họ, từ đó đã thu phục được lòng dân và tập hợp được sức mạnh của
quần chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc. “Vì vậy cán
bộ Đảng và Chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân, phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và
tiết kiệm. Nếu dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa
ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được” [35, tr. 572]. Vì vậy: “Phải biết giáo dục, lãnh
đạo, giúp đỡ nhân dân tham gia sản xuất và tiết kiệm. Phải tiết kiệm là vì nếu được
bữa nào xào bữa ấy thì sẽ thiếu vốn. Nếu cán bộ khéo léo lãnh đạo và thiết thực
giúp đỡ đồng bào và đồng bào cố gắng tăng gia sản xuất và tiết kiệm thì dân sẽ no
ấm, mọi việc trôi chảy, thuế khóa dễ thu, tài chính dồi dào, dân no thì nước giàu”
[35, tr. 572]. Người đã chỉ ra cách làm cụ thể để tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm nhằm chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Vì nước ta là một nước nông
nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp…cho nên chính sách tăng gia sản xuất
và tiết kiệm là chính sách căn bản của chúng ta. Tăng gia sản xuất và tiết kiệm để
nâng cao đời sống của nhân dân, khôi phục kinh tế, mở mang văn hóa và đề phòng
đói, chống đói” [35, tr. 572-573].
Page 23
16
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh là
nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà tư tưởng vĩ đại, một tấm gương trong sáng về đạo đức,
lối sống, tấm gương tiêu biểu về tính nhất quán quyết tâm thực hiện xóa đói, giảm
nghèo, không những chỉ riêng trong nước mà mong muốn của Người là xóa đói
khổ cho tất cả mọi người trên thế gian. Trước lúc đi xa Người vẫn không thôi canh
cánh bên lòng mối quan tâm đến con người và căn dặn: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”. “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [36, tr. 500].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chống đói nghèo đã được Đảng ta phát triển
thành đường lối chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo
với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo:
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng ta
đã quyết tâm, kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, xây dựng một chế độ
xã hội mới vì con người, phấn đấu vì mục tiêu cao cả dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Không chỉ chú trọng đúng mức đến vấn đề xóa đói,
giảm nghèo trong xã hội, với nhãn quan chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao
cả trước nhân dân, Đảng đã đưa ra chương trình mục tiêu quốc gia “xóa đói, giảm
nghèo”. Trên cơ sở đó nhà nước đã có 14 chương trình cấp quốc gia và dự án đang
được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Xóa đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ lâu dài vừa là nhiệm vụ trọng tâm
trước mắt. Trước đổi mới, với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, mặc dù
thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư phần nào được cải thiện, nhưng vẫn có
hơn 70% dân số nghèo. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986), chúng ta đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ bao cấp sang phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta bắt đầu
Page 24
17
có bước phát triển, đem lại sự phát triển năng động trong sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nảy
sinh những mặt tiêu cực cần chú ý giải quyết như sự phân hóa giàu nghèo gây nên
bất bình đẳng trong xã hội, cho nên xóa đói, giảm nghèo là nội dung và nhiệm vụ
cần thực hiện để đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy có nhiều nguyên
nhân nảy sinh nghèo đói, do đó việc XĐGN được Đảng và nhà nước ta đặc biệt
quan tâm, coi đó là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên
được đề cập trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(9/1991). Nghị quyết chỉ rõ: Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải
tiến hành công tác XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giàu
nghèo quá giới hạn cho phép.
Cương lĩnh xây dựng đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội VII thông qua đã khẳng định: “Phương hướng lớn của chính sách xã
hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và
công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội” [26, tr. 139]. Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa VII đã chủ trương: Trợ
giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách cho vay vốn, hướng dẫn
cách làm ăn, hình thành quỹ xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương trên cơ sở dân
giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu tăng
hộ giàu đi đôi với XĐGN. Hội nghị đã đưa ra tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
kinh tế xã hội nông thôn, do đó phải khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi
đôi với XĐGN, phấn đấu để mọi gia đình đều khá giả, đủ ăn, thu hẹp diện nghèo,
vùng nghèo. Hưởng ứng phong trào XĐGN từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để
xóa đói, giảm nghèo, chuyển từ trợ giúp bằng bao cấp sang giáo dục, thuyết phục,
kèm cặp, hỗ trợ để người nghèo cùng cộng đồng tự chủ vươn lên làm ăn khá giỏi,
thực hiện một bước công bằng xã hội.
Page 25
18
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể
cho công tác xóa đói, giảm nghèo đến năm 2000 là giảm tỷ lệ hộ nghèo của cả
nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm
300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm tập trung xóa cơ bản nạn
đói kinh niên. Để triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Chính phủ đã đưa
ra chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo theo Nghị quyết số
133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình 133
chỉ rõ: Nhà nước và các cấp Bộ ngành sẽ tiến hành hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho
xã nghèo; giải quyết đất canh tác, định cư, di dân vào vùng kinh tế mới; hỗ trợ
đồng bào đặc biệt khó khăn; hỗ trợ sản xuất phát triển ngành nghề; hỗ trợ người
nghèo trong giáo dục và đào tạo; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo kết hợp
với khuyến nông, khuyến ngư; đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo;
tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Tiếp đó là quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi. Chương trình 135 nêu rõ: mục tiêu cuả giai đoạn 1998 – 2000 về cơ
bản không còn các hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 4 – 5% hộ nghèo; bước
đầu cung cấp cho đồng bào có nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi
đến trường; kiểm soát được một số bệnh hiểm nghèo, có đường giao thong dân sinh
đến các trung tâm cụm xã, phần lớn đồng bào được hưởng thụ văn hóa thông tin.
Chương trình 135 có đóng góp rất quan trọng vào việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi để các vùng này
từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển, góp phần đảm
bảo trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng. Để đạt được mục tiêu đó trước hết
cần phải thực hiện 5 nhiệm vụ chủ yếu là: Quy hoạch dân cư; phát triển sản xuất;
xây dựng trung tâm cụm xã; xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu; đào tạo cán bộ.
Tháng 11/1999 Chính phủ đã tổ chức Hội nghị quốc gia về xóa đói, giảm nghèo.
Sau Hội nghị Chính phủ đã chỉ đạo phân công cán bộ, đoàn thể và các tỉnh khác
giúp các tỉnh nghèo, khuyến khích các cơ quan, xí nghiệp, tổng công ty nhận giúp
xã, huyện xóa đói, giảm nghèo.
Page 26
19
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: Nhà
nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính
đáng và giúp đỡ người nghèo phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ đói,
thường xuyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo, đưa Nghị quyết Đại hội IX
vào cuộc sống. Chính phủ đã phê duyệt chiến lược toàn diện về tăng trưởng xóa đói,
giảm nghèo và nhiều quyết định, chương trình, dự án về xóa đói, giảm nghèo cho
từng vùng, nhất là vùng núi cao, vùng đặc biệt khó khăn nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện
cho người nghèo có điều kiện phát triển kinh tế và thoát nghèo, vươn lên làm giàu.
Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Khuyến khích làm giàu
hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo” [28, tr. 163]. Đại hội cũng đánh
giá về công tác xóa đói, giảm nghèo “công tác xóa đói, giảm nghèo trên phạm vi cả
nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao” [28, tr. 162]. Do đó,
việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo “quan tâm xây
dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các
tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với các trung tâm của những vùng
khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn để phát triển. Đi
đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết
để dân cư ở các vùng khó khăn đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng thu
nhập. Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo” [28, tr. 299].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) khẳng định:
“Tiếp tục đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương
thức thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp
sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức
để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức
sống một cách bền vững; kết hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp
và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ
nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái
nghèo” [29, tr. 217]. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân tham gia công tác xóa đói, giảm nghèo.
Page 27
20
Nghị quyết 30a/2008-NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, nhằm tạo sự chuyển biến nhanh
hơn về đời sống vật chất tinh thần của người dân các huyện nghèo. Quan điểm chỉ
đạo của Chính phủ là xóa đói, giảm nghèo là sự nghiệp của toàn dân, kết quả thành
công phụ thuộc trước hết vào nỗ lực vươn lên của người nghèo. Nhà nước giành
nguồn lực ưu tiên đầu tư tạo điều kiện để các huyện nghèo phát triển nhanh hơn, cải
thiện và nâng cao nhanh đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói, giảm nghèo. Sau 20
năm đổi mới nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ tương đối nhanh và đạt được
những thành tựu to lớn. Với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, nước ta hiện đang dẫn đầu thế giới về xóa đói, giảm nghèo, là một trong
những nước giảm nghèo thành công nhất là trong vòng 10 năm gần đây. Trong báo
cáo “Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”, công bố ngày
16/9/2005, Việt Nam đã giảm được trên 60% số người nghèo.
Ngày nay, trong quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn với
tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy, Đảng ta khẳng định: “Khuyến khích làm giàu
hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân
tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và
kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách làm cho mọi người, mọi nhà đều
tiến tới ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành và chữa bệnh từng bước thực hiện điều mà chủ tịch Hồ Chí Minh
hằng mong ước”.
Căn cứ vào chỉ đạo của Đảng, căn cứ quyết định số 05/1998/QĐ-TTg ngày
14/1/1998 cuả Thủ tướng Chính phủ về quản lý chương trình mục tiêu quốc gia,
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ
kế hoạch và đầu tư, Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt “Chương trình mục
tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000”, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực giúp Chính phủ thực hiện chương
trình. Trong đó về xóa đói, giảm nghèo bao gồm những vấn đề sau:
Page 28
21
Xóa đói, giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế
Phát huy nguồn lực tại chỗ (nội lực) để người nghèo, xã nghèo vươn lên tự
xóa đói, giảm nghèo
Thực hiện xã hội hóa công tác xóa đói, giảm nghèo
Như vậy, có thể thấy xóa đói, giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công
bằng xã hội và tăng trưởng bền vững.
Xóa đói, giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Xóa đói, giảm nghèo
không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ thực hiện chính sách xã hội, không chỉ việc riêng
của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội hay một ngành khác mà đây là nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tiến tới thực hiện
xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo. Do đó, việc thực hiện thành công chương
trình xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả cần có sự phối hợp của các ngành từ Trung
ương đến địa phương. Nắm vững lý luận Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vai trò và trách nhiệm đứng mũi
chịu sào trong công tác xóa đói, giảm nghèo làm cho dân giàu nước mạnh. Điều này
thể hiện trong các văn kiện Nghị quyết qua các thời kỳ Đại hội và Hội nghị Trung
ương của Đảng từ trước đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự quyết tâm của
toàn xã hội, phương hướng nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo ở nước ta thời gian qua,
hiện nay vững chắc và nhất quán. Trên quan điểm thực hiện phát triển hướng theo
mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn, tất cả cho con người, vì con
người, với thực hiện giải pháp một cách đồng bộ và có tham gia của cả cộng đồng,
chúng ta sẽ thành công trong cuộc chiến chống đói nghèo.
1.2. Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở
huyện Phú Lương (Thái Nguyên)
1.2.1. Thuận lợi
Vị trí địa lí: Phú Lương là huyện miền núi nằm ở vùng phía Bắc tỉnh Thái
Nguyên, nằm trong tọa độ địa lý từ 21°36ʹ đến 21°55ʹ vĩ độ Bắc; 105°37ʹ đến
105°46ʹ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Chợ Mới (tỉnh Bắc Cạn), phía Nam và
Đông Nam giáp thành phố Thái Nguyên, phía Tây giáp huyện Định Hóa, phía Tây
Nam giáp huyện Đại Từ, phía Đông giáp huyện Đồng Hỷ. Phú Lương có tổng diện
Page 29
22
tích tự nhiên là 368,94 km2, với tổng dân số trên 105 nghìn người (2009). Hiện nay
Phú Lương có 14 xã (Ôn Lương, Phú Đô, Yên Lạc, Tức Tranh, Sơn Cẩm, Động
Đạt, Phủ Lý, Vô Tranh, Phấn Mễ, Yên Ninh, Hợp Thành, Cổ Lũng, Yên Đổ, Yên
Trạch) và 2 thị trấn (Đu và Giang Tiên). Huyện lỵ đặt tại thị trấn Đu, cách trung tâm
thành phố Thái Nguyên 22km về phía Bắc.
Địa hình: Phú Lương nằm trong hệ kiến tạo hình thành địa hình của tỉnh
Thái Nguyên, huyện Phú Lương thuộc phần cuối của cánh cung Ngân Sơn. Cho
nên, đồi núi của Phú Lương có độ cao vừa phải, ngoài một số núi đá vôi thì phần
nhiều là các đồi núi thấp được cấu tạo bằng các loại sa phiến thạch, sườn thoải,
dạng đồi bát úp, hoặc là được khai phá thành các ruộng bậc thang như hiện nay.
Có thể nói địa hình Phú Lương bao gồm có ba vùng rõ rệt đó là:
Vùng núi cao bao gồm các dãy núi cao nằm ở phía Bắc của huyện. Đây là
vùng có địa hình cao, chia cắt phức tạp do quá trình Castơ phát triển mạnh, có độ
cao từ 500m – 1000m, độ dốc khoảng 25° - 30°. Phân bố chủ yếu ở một số xã như:
Yên Ninh, Yên Trạch, Yên Lạc, Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương.
Vùng đồi cao và núi thấp là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi cao ở phía Bắc và
vùng gò đồi ở phía Nam. Vùng này bao gồm các dãy núi thấp đan chéo với các dãy
đồi cao tạo thành các bậc thềm lớn và thung lũng. Được phân bố chủ yếu ở thị trấn
Đu, xã Phấn Mễ, xã Động Đạt, xã Vô Tranh... Vùng này thường có độ cao trung bình
từ 100m – 300m, độ dốc khoảng 15° - 25°.
Vùng gò đồi thường tập trung ở phía Nam của huyện, là vùng thấp và đồng
bằng. Địa hình tương đối bằng phẳng, xen giữa các đồi bát úp dốc thoải là các khu
đất bằng. Vùng gò đồi được phân bố chủ yếu ở Giang Tiên, Cổ Lũng, Sơn Cẩm. Độ
cao trung bình từ 30m – 50m, độ dốc dưới 10°.
Với địa hình, địa mạo như trên đã tạo cho Phú Lương thế mạnh về quân sự.
Trong điều kiện xảy ra chiến tranh thì Phú Lương có thể dễ dàng cùng với các địa
phương khác trong tỉnh đoàn kết, phát huy tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, kết hợp giữa
tấn công và phòng ngự. Bởi vậy mà trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược Phú Lương đã trở thành cửa ngõ bảo vệ cho an toàn khu (ATK), cơ quan
đầu não của cách mạng. Hơn nữa với việc phân bố địa hình khá rõ nét thành các khu
Page 30
23
riêng biệt đã tạo điều kiện thuận tiện cho việc phân vùng kinh tế trong huyện với 4
vùng đó là:
Vùng phía Bắc: Gồm 3 xã phía Bắc: Yên Ninh, Yên Trạch, Yên Đổ. Vùng
này thích hợp cho phát triển mạnh kinh tế lâm nghiệp, trồng rừng phòng hộ; khai
thác vật liệu xây dựng; sản xuất lương thực, cây ăn quả; chăn nuôi gia súc, gia cầm,
thuỷ sản.
Tiểu vùng phía Tây: Gồm các xã Ôn Lương, Hợp Thành, Phủ Lý. Vùng này
thích hợp cho phát triển kinh tế lâm nghiệp; sản xuất lương thực hình thành vùng
lúa đặc sản; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản; đầu tư phát triển thương
mại, dịch vụ gắn với phát triển du lịch sinh thái, du lịch lịch sử; khai thác và chế
biến khoáng sản.
Tiểu vùng phía Đông: Gồm 4 xã Yên Lạc, Phú Đô, Tức Tranh, Vô Tranh.
Vùng này có rất nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nông, lâm, thủy sản,
hình thành vùng sản xuất chè trọng điểm, chè an toàn, chè đặc sản; sản xuất lương
thực, cây ăn quả; chăn nuôi gia súc, thuỷ sản; phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ; khai thác vật liệu xây dựng.
Tiểu vùng phía Nam: Gồm thị trấn Đu, Giang Tiên, các xã Động Đạt, Phấn
Mễ, Cổ Lũng, Sơn Cẩm. Đây là vùng kinh tế phát triển chính của huyện. Tập trung
quy hoạch thu hút đầu tư phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại
- dịch vụ; quy hoạch hình thành khu trung tâm thương mại ở một số vị trí trọng
điểm; tôn tạo, mở rộng quần thể khu di tích lịch sử Đền Đuổm; khai thác, chế biến
khoáng sản; sản xuất lương thực, giống lúa; phát triển các khu chăn nuôi tập trung
theo hướng công nghiệp.
Về đất đai: Tài nguyên đất đai của Phú Lương khá đa dạng về nhiều loại đất
nhưng trong đó chủ yếu là đất ferarit, đất đá vôi, đất ruộng. Đặc điểm đất đai của
Phú Lương phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của đá mẹ và lớp phủ thực vật. Đá mẹ
được cấu tạo chủ yếu bằng các loại khoáng có tính bazơ hoặc trung tính. Trên thực
tế đất nào có lớp phủ thực vật thì đất đai phì nhiêu hơn do đất quanh năm được giữ
ẩm. Ngoài ra, ở Phú Lương đất đai còn có các loại đất ruộng khác như: đất cát pha,
đất thịt, đất bùn,...khu vực đất đồi rất thích hợp cho việc trồng các loại cây công
Page 31
24
nghiệp như chè, cà phê,...và các loại cây dược liệu như quế, hồi,...Trong đó thì cây
chè là loại cây rất thích hợp với thổ nhưỡng của Phú Lương. Ngoài ra đây còn là nơi
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây lấy gỗ khác như: keo, bạch
đàn, mỡ,...Vùng đồi còn là nơi rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đại gia súc như: trâu,
bò, dê. Vùng đất ruộng và những bãi bồi ven sông là nơi thuận lợi cho việc trồng
các loại cây lương thực trong đó quan trọng nhất là cây lúa nước, ngoài ra còn có
ngô, khoai, sắn, lạc, đậu tương...
Bảng 3: Tình hình phân bố đất đai huyện Phú Lương năm 2005
Loại đất Tổng số Nông
nghiệp Lâm nghiệp
Chưa sử
dụng và
sông suối,
núi đá
Đất ở (nông
thôn và
thành thị)
Diện tích
(ha) 36.881,55 11.978,74 16.498,32 3.136,65 5.267,84
Tỉ lệ % 100 32,5 44,7 8,5 14,3
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Phú Lương 2006)
Động thực vật: Phú Lương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên mang đặc
trưng của miền nhiệt đới, bởi vậy mà nguồn động thực vật của Phú Lương rất phong
phú và đa dạng. Theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn
thì Phú Lương gồm có các loại thực vật như: cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, tre, nứa,
gỗ lim, gỗ sến, gỗ táu, gỗ xoan,... các loại động vật thì có: hươu, ong, chim
công,...tuy nhiên nguồn tài nguyên này hiện nay không còn nhiều do quá trình khai
thác của cư dân trong lịch sử.
Về giao thông: Mạng lưới giao thông vận tải từ trước tới nay của huyện Phú
Lương phát triển ở cả hai loại hình: đường thủy và đường bộ, song chủ yếu là
đường bộ. Huyện có nhiều đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua: Quốc lộ số 3 (Hà Nội –
Cao Bằng) chạy suốt từ phía Nam lên phía Bắc huyện Phú Lương, đi qua 8 xã, thị
trấn; Đường số 254 từ km 31 lên Định Hóa; Quốc lộ số 37 từ ngã ba Bờ Đậu (Cổ
Lũng) qua huyện Đại Từ sang tỉnh Tuyên Quang… Ngoài ra Phú Lương còn có
Page 32
25
mạng lưới đường liên xóm, liên xã, liên huyện đã và đang được củng cố, mở rộng
mang lại cho Phú Lương nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về sông ngòi: Phú Lương có mật độ sông suối lớn (bình quân 0,2km/km2),
trữ lượng thủy văn cao, đủ cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư
trong Huyện.
Con sông lớn nhất là sông Đu, dài khoảng 45km. Sông Đu được tạo thành
bởi hai nhánh chính, một nhánh bắt nguồn từ Đông Bắc xã Hợp Thành, một nhánh
bắt nguồn từ phía Bắc xã Động Đạt. Hai nhánh này hợp lưu ở phía trên thị trấn Đu,
chảy dọc theo địa bàn huyện, qua thị trấn Giang Tiên và đổ vào sông Cầu tại xã Sơn
Cẩm. Sông Đu có vai trò quan trọng đối với đời sống sinh hoạt và sản xuất của cư
dân Phú Lương. Hàng năm, con sông này cung cấp cho đồng bào Phú Lương nhiều
cá, tôm; từ xa xưa nhân dân đã lưu truyền câu thành ngữ “Cơm làng Giá, cá làng
Đu”. Hơn nữa nguồn nước của sông Đu còn có vai trò tưới tiêu cho những cánh
đồng của nhiều xã trong huyện.
Sông Cầu, xưa còn gọi là sông Phú Lương, với tổng chiều dài 17km chảy qua
các xã Phú Đô, Tức Tranh, Vô Tranh, Sơn Cẩm là nguồn cung cấp nước chủ yếu
đảm bảo sinh hoạt và sản xuất của các xã phía Nam huyện. Ngoài ra còn nhiều con
suối nhỏ len lỏi trong các làng bản, bảo đảm nước sinh hoạt và phục vụ cho sản xuất
của đồng bào.
Nguồn nước tại các ao, hồ: Phú Lương có các hồ thủy lợi và nuôi trồng thủy
sản rất có giá trị như hồ Ô Rô (Phủ Lý), hồ Đầm Ấu, Tuông Lạc (Ôn Lương), hồ
19/5 (Sơn Cẩm), hồ Khuân Lân, Phủ Khuôn (Hợp Thành), hồ Núi Mủn (Cổ Lũng),
hồ Suối Mạ (Yên Trạch).
Tài nguyên rừng: Phú Lương là huyện miền núi thấp có diện tích đất lâm
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn. Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện hiện nay là 17.246
ha, chiếm 46,7% tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện bao gồm: Rừng tự nhiên,
đất rừng trồng. Rừng Phú Lương có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái khu vực, giữ nguồn nước, tạo cảnh
quan, giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa các dân tộc.
Tài nguyên khoáng sản và vật liệu xây dựng: Phú Lương có mỏ than Phấn
Mễ, Sơn Cẩm, mỏ than Khánh Hòa; mỏ quặng ILMenit trữ lượng khoảng 4 triệu
Page 33
26
tấn; đã xây dựng nhà máy chế biến quặng Titan tại xã Phủ Lý, Động Đạt; mỏ quặng
chì kẽm Yên Lạc. Đồng thời Phú Lương còn có nguyên liệu đất cao lanh ở Phấn
Mễ, Cổ Lũng (trữ lượng khoảng 2 triệu tấn, điều kiện khai thác tương đối thuận
tiện). Đá cuội sỏi, cát, đá hộc như mỏ đá Suối Bén (Yên Ninh) và Núi Chuông
(Động Đạt).
Tài nguyên nhân văn: Toàn huyện có 16 xã thị trấn với tổng dân số là dân
số trên 105 nghìn người(2009), có 08 dân tộc chủ yếu, trong đó dân tộc thiểu số
chiếm 40,3%. Lao động trên địa bàn huyện, hầu hết đã được phổ cập trung học cơ
sở, chủ yếu là lao động ở nông thôn có đức tính lao động cần cù chịu khó, đây là
nguồn nhân lực dồi dào để tăng cường phát triển kinh tế - xã hội huyện, cung cấp
lao động cho các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, tuy vậy lao động nông thôn
rất cần được đào tạo kỹ năng lao động để tiếp cận được với tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập được với thế giới và khu vực.
Như vậy, với những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội sẵn có,
Phú Lương có những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện
và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tạo những thuận lợi nhất định trong công
tác XĐGN của huyện.
Sự quan tâm, lãnh đạo của Trung ương, tỉnh đối với huyện: XĐGN ở nước
ta vẫn đang là vấn đề bức xúc được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Từ năm
1986 đến nay, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đất nước đã thoát ra khỏi
khủng hoảng, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, vấn đề phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư đặc biệt là
khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, đời sống còn hết sức khó khăn.
Giải quyết vấn đề đói nghèo cũng là thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng,
Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ. Chính phủ việt Nam đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực thực hiện tốt
mục tiêu XĐGN. Mỗi giai đoạn tuy có những nội dung và giải pháp thực hiện khác
nhau nhưng đề hướng tới mục tiêu chung là nâng cao mức sống của người dân,
giảm nhanh tỷ lệ hộ sống dưới ngưỡng nghèo. Cùng với đó Đảng và Nhà nước Việt
Page 34
27
Nam đã đề ra các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi
(chương trình 135), chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo (Nghị quyết số 30a) và các chương trình kinh tế - xã hội khác hướng
vào mục tiêu giảm nghèo. Giúp cho người nghèo tiếp cận được với các nguồn lực
kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường...) và các dịch vụ xã hội cơ bản như:
giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý...kết cấu hạ tầng của các huyện, xã nghèo
được tăng cường. Đời sống của người nghèo được cải thiện tốt.
Dưới sự quan tâm, lãnh đạo của Trung ương, tỉnh Thái Nguyên đối với
huyện miền núi Phú Lương trong công tác XĐGN, Đảng bộ huyện đã quyết định
thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chương trình giảm nghèo huyện Phú Lương cho
từng giai đoạn, do đồng chí phó chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, thành viên
là lãnh đạo các phòng ban, ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể của huyện.
Phòng Lao động – Thương binh và xã hội làm thường trực Ban chỉ đạo giảm nghèo
của huyện, chủ động xây dựng chương trình giảm nghèo cho từng giai đoạn. Hàng
năm UBND huyện đều có văn bản giao chỉ tiêu phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cho
các xã, thị trấn, đồng thời phân công thành viên Ban chỉ đạo huyện phụ trách, đôn
đốc, giám sát chỉ đạo các xã, thị trấn thực hiện, đặc biệt là cuộc rà soát tăng, giảm
hộ nghèo hàng năm đảm bảo minh bạch, công khai, dân chủ, có sự tham gia của
người dân. Bên cạnh đó việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN của huyện
và cấp cơ sở cũng được đặc biệt quan tâm. Số lượng cán bộ đã được tham gia tập
huấn, học tập những kinh nghiệm hay và bổ ích về XĐGN ngày càng tăng, góp
phần đẩy mạnh hiệu quả trong công tác XĐGN.
XĐGN được đặt thành một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của huyện Phú Lương trong các kế hoạch ngắn hạn cũng như dài hạn. Do vậy huyện
luôn quan tâm và chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực xã hội vào mục tiêu và
hoạt động XĐGN. Đảng bộ huyện đã triển khai thực hiện các biện pháp thiết yếu
như : Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo, hỗ trợ sản xuất và phát triển
ngành nghề, hỗ trợ cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư và vay vốn để sản xuất...
Page 35
28
1.2.2. Khó khăn
Về điều kiện tự nhiên:
Khí hậu Phú Lương mang tính chất nhiệt đới gió mùa với hai mùa nóng, lạnh
rõ rệt. Mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau) nhiệt độ xuống thấp, thường
xuyên có các đợt gió mùa đông bắc hanh, khô. Mùa nóng (từ tháng 4 đến tháng 10
hàng năm) nhiệt độ cao, nhiều khi có mưa lớn và tập trung. Nhiệt độ trung bình
trong năm khoảng 22°C, tổng tích nhiệt khoảng 8000°C. Lượng mưa trung bình từ
1800mm đến 2000 mm/năm, độ ẩm trung bình 80%. Đặc biệt gió mùa đông bắc
trung bình mỗi năm có khoảng từ 21 – 22 đợt tràn qua làm cho nhiệt độ giảm xuống
đột ngột, có giông đi kèm nhất là vào đầu tháng 9, tháng 10, cuối tháng 4, tháng 5.
Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, cây trồng và vật nuôi.
Địa hình Phú Lương chủ yếu là đồi núi, chia cắt phức tạp, không có các cánh
đồng rộng và bằng phẳng như các huyện khác trong tỉnh. Yếu tố này gây khó khăn
trong công tác quy hoạch đất đai và việc sử dụng hiệu quả đất đai trong sản xuất
nông nghiệp, phát triển kinh tế của huyện.
Tài nguyên rừng: Phú Lương có tới 46,7% diện tích đất lâm nghiệp trong tổng
số diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Tuy nhiên trữ lượng rừng hiện nay không còn
nhiều do quá trình khai thác rừng bừa bãi của người dân trong thời kỳ trước, điều đó
đòi hỏi công tác trồng và bảo vệ rừng cần phải được đẩy mạnh hơn bao giờ hết.
Về kinh tế - xã hội:
Nông nghiệp vẫn là ngành chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của huyện Phú Lương. Nguồn thu nhập chính của những hộ nghèo chủ yếu là từ
sản xuất nông nghiệp và còn phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu. Nông sản của người
nông dân làm ra thiếu thị trường tiêu thụ, giá cả không ổn định, thường bị tư thương
ép giá dẫn đến nhiều việc hộ nông dân sản xuất bị thua lỗ, không thu hồi được vốn,
hoặc có lãi suất rất thấp nên nhiều hộ mới thoát nghèo lại dễ dàng tái nghèo.
Thành phần dân cư: theo số liệu thống kê của huyện Phú Lương đến năm
2009 dân số toàn huyện là 105.233 người, mật độ 286 người/km2. Sinh sống trên địa
bàn huyện là 8 thành phần dân tộc chính, trong đó dân tộc Kinh chiếm hơn một nửa,
tiếp đến là các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao, H Mông và người Hoa.
Page 36
29
Mà phần lớn hộ nghèo trên địa bàn lại rơi vào những hộ là người dân tộc thiểu số,
đa phần có trình độ dân trí thấp, còn duy trì nhiều hủ tục lạc hậu; người dân còn
chậm thay đổi cách nghĩ và cách làm nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc ứng
dụng các tiến bộ vào việc phát triển sản xuất dẫn tới hiệu quả tác động của các
chương trình, dự án đầu tư đạt thấp. Thêm vào đó một bộ phận khá lớn của các hộ
nghèo thiếu quyết tâm và tự chủ vươn lên, có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp
đỡ của Nhà nước, cộng đồng. Nhiều hộ nghèo thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm
ăn, khi được hỗ trợ vay vốn thì không biết phát huy hiệu quả của đồng vốn; dẫn đến
không hoàn được nợ. Một bộ phận hộ nghèo khác không dám vay vốn vì không biết
sử dụng đồng vốn vào mục tiêu sản xuất kinh doanh để XĐGN.
Cơ sở hạ tầng: các xã nghèo thuộc huyện Phú Lương chủ yếu là các xã miền
núi, tập trung ở khu vực phía Bắc huyện, có địa hình đồi núi, đi lại khó khăn, cơ sở
hạ tầng về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và các dịch vụ xã hội cơ bản khác còn
nhiều hạn chế; do vậy để tiếp cận và hỗ trợ, hướng dẫn hộ nghèo trong phát triển
sản xuất kinh tế là một việc làm không dễ thực hiện đối với các cán bộ làm công tác
XĐGN. Thực tế cũng cho thấy sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và các đoàn thể
chưa đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Chưa cụ thể hóa chương trình XĐGN sát với
thực tiễn ở cơ sở, phù hợp từng nơi, từng vùng, từng đối tượng hộ nghèo, để có cách
khắc phục, nhằm xóa nhanh hộ nghèo, ngăn chặn tái nghèo.
Đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ.
Đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN chưa đủ mạnh, phần lớn là kiêm nhiệm, do đó
còn hạn chế trong việc tổ chức thực hiện. Việc theo dõi diễn biến tình hình đói nghèo
của cán bộ chuyên môn để phản ánh cho Đảng, chính quyền còn nhiều hạn chế, việc
tổng hợp báo cáo chưa đầy đủ và kịp thời, hạn chế trong việc tham mưu sơ, tổng kết
rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình kinh tế hộ làm điểm thực hiện chưa nhiều và
hiệu quả chưa cao. Cá biệt một vài nơi còn có biểu hiện hình thức chạy theo thành
tich, sợ ảnh hưởng tới danh hiệu gia đình văn hóa, danh hiệu làng văn hóa, xã văn
hóa, thị trấn văn hóa đã khống chế tỷ lệ nghèo thấp hơn so với thực tế.
Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động tuy được lãnh
đạo huyện quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Chất lượng việc đào tạo còn
Page 37
30
thấp, dẫn tới thu nhập cho người lao động chưa cao do vậy đời sống của hộ nghèo
chưa được cải thiện nhiều. Từ đó ảnh hưởng tới niềm tin của người nghèo trong quá
trình vươn lên thoát nghèo.
Tiểu kết chương 1
Công tác XĐGN là một trong những vấn đề hàng đầu được Đảng ta quan
tâm. Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, Đảng bộ huyện Phú Lương đã lãnh đạo công tác XĐGN trên địa bàn huyện
một cách toàn diện và đồng bộ trên nhiều lĩnh vực, có sự phối kết hợp của các ban,
ngành đoàn thể và lực lượng xã hội tham gia. Phú Lương là huyện miền núi phía
Bắc của tỉnh Thái Nguyên, là vùng đất có lịch sử phát triển lâu dài, với vị trí chiến
lược quan trọng và giao thông thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, giao lưu văn
hóa với các địa phương trong tỉnh và cả nước. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội là
những yếu tố vô cùng quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình sản xuất và đời
sống của nhân dân trong huyện, đặc biệt là những địa phương mà sản xuất nông
nghiệp vẫn là chủ yếu như Phú Lương. Bên cạnh những thuận lợi về điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội sẵn có, huyện Phú Lương vẫn còn nhiều khó khăn như
trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều, hủ tục lạc hậu, bảo thủ còn tồn tại trong
nhân dân, là những lực cản trong quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo.
Page 38
31
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN) THỰC HIỆN XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
2.1. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương
(Thái Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1997-2005
2.1.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về
xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1997 – 2005
2.1.1.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên
Bước vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, với đặc điểm là sự phát
triển nhanh và mạnh của khoa học kỹ thuật. Để có thể tận dụng mọi thành tựu khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sự phát triển nhanh của sản xuất hàng hóa và nền kinh
tế nước nhà theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát
triển chung của cả nước trong giai đoạn hiện nay đó là: “Phát triển một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. “Tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nền kinh tế phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 06/11/1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10, quyết định chia tỉnh Bắc
Thái thành hai tỉnh: Bắc Cạn và Thái Nguyên; 9 xã và thị trấn Chợ Mới thuộc
huyện Phú Lương lại được trả về huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn. Huyện Phú
Lương có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông để phát triển nền kinh
tế một cách toàn diện.
Trong quá trình đi lên, Thái Nguyên gặp không ít khó khăn và thách thức
lớn: trình độ trí tuệ, năng lực tổ chức điều hành, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng
viên chưa đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra. Những yếu kém nội tại của nền kinh tế
và những bức xúc về mặt xã hội đang đặt ra những thách thức mới khi bước sang
thế kỷ mới. Tệ nạn tham nhũng, quan liêu, thiếu dân chủ với nhân dân ở một số nơi
còn diễn ra nên lòng dân chưa yên tâm. Đó là những khó khăn, thách thức lớn mà
tỉnh phải thấy rõ để vượt qua trong chặng đường trước mắt.
Page 39
32
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XV (11/1997) đã đề
ra chủ trương: “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển… Thực hiện có hiệu quả
chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng dân
tộc “[23, tr.9 – 10].
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI (1/2001) tiếp tục chủ
trương phát triển nông nghiệp trong những năm đầu thế kỷ XXI là: “Xây dựng,
phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, bền vững, đa dạng theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn tăng trưởng với xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu
nhập và đời sống nhân dân. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và
phong trào hỗ trợ các hộ nghèo, xã nghèo. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình
mục tiêu cho người nghèo, hợp nhất chương trình 135 với các chương trình khác
vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở 18 xã đặc biệt khó khăn...Tập trung
đầu tư phát triển vùng lúa thâm canh có năng suất, chất lượng cao. Sử dụng các
giống mới, giống lúa đặc sản địa phương tạo ra hàng hóa có giá trị và đảm bảo
an ninh lương thực” [24, tr.39].
Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, những văn kiện pháp
luật cụ thể của nhà nước, Chính phủ, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã nhanh chóng
vạch ra những chủ trương về xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế của tỉnh, vừa
đúng với tinh thần lãnh đạo của Trung ương Đảng, vừa phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của tỉnh.
2.1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Lương
Tháng 03 năm 1996 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện đề ra mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1996 - 2000. Sau khi tái lập tỉnh Thái
Nguyên và tỉnh Bắc Kạn (tháng 01 năm 1997); tháng 10 năm 1997 Đảng bộ huyện
tiến hành Đại hội, xác định rõ hơn một số mục tiêu giải pháp phát triển trên các lĩnh
vực cho giai đoạn 1997 - 2000. Cơ cấu kinh tế của huyện là: Nông - Lâm nghiệp -
Tiểu thủ công nghiệp- Dịch vụ và được chia làm 3 vùng kinh tế, vùng phía Tây -
Bắc, vùng phía Nam, vùng phía Đông.
Page 40
33
Tại Đại hội Đảng bộ huyện Phú Lương lần thứ XX (11/2000) nhiệm kỳ 2001
– 2005 đã xác định: “Phát huy cao độ, có hiệu quả sức mạnh của Đảng bộ và nhân
dân trong huyện, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Phát triển kinh tế -xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng
hệ thống chính trị đạt hiệu quả cao, vững chắc. Nâng cao mức sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân trong huyện. Xóa hết hộ đói, giảm hộ nghèo đến mức thấp nhất,
tăng hộ giàu có chính đáng” [44, tr.11]. Tạo thế và lực mới để phát triển bền vững
trong những năm tiếp theo. Nhằm đạt được phương hướng trên, Đảng bộ huyện Phú
Lương cũng đưa ra một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, đặc biệt
là ngành nông nghiệp. Từng bước thực hiện có hiệu quả nội dung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh, bền vững, chăm lo, củng cố, phát huy tác dụng của quan hệ sản xuất mới.
Hai là, đầu tư trí tuệ, vốn, lao động cho yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất. Xây dựng và hoàn thiện các kết cấu hạ tầng nông thôn. Đổi mới quy trình
công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả
kinh tế.
Ba là, thực hiện tốt hơn các vấn đề xã hội theo các mục tiêu: Dân chủ, phát
triển lành mạnh.
Để triển khai các chương trình đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội trên địa
bàn huyện được đồng bộ, hiệu quả, Đảng bộ huyện Phú Lương đã thành lập Ban chỉ
đạo xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1996 – 2000 và Ban chỉ đạo thực hiện chương
trình giảm nghèo giai đoạn 2000 – 2005 cấp huyện và cấp xã đưa ra nhiều quyết
định mang tính chất định hướng và chỉ đạo thực tiễn nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo
ở địa phương.
Căn cứ vào Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện, chỉ tiêu giảm hộ
nghèo cho các giai đoạn từ 2,5% đến 3% trở lên hàng năm theo tình hình cụ thể
từng nhiệm kỳ, hàng năm UBND huyện đã có văn bản đã có văn bản giao chỉ tiêu
phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cho các xã, thị trấn, đồng thời phân công thành viên
Ban chỉ đạo huyện phụ trách, đôn đốc, giám sát chỉ đạo các xã, thị trấn thực hiện,
Page 41
34
đặc biệt là cuộc rà soát tăng, giảm hộ nghèo hàng năm đảm bảo minh bạch, công
khai, dân chủ, có sự tham gia của người dân.
Qua nghiên cứu, giai đoạn (1997 – 2005) chủ trương xóa đói giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Phú Lương tập trung vào mấy vấn đề sau:
Một là, xóa đói, giảm nghèo trong huyện là nhiệm vụ của Đảng bộ, chính quyền,
các cấp, ban, ngành từ huyện đến xã, xóm và của toàn thể nhân dân.
Hai là, xây dựng nhiều mô hình xóa đói, giảm nghèo, khôi phục làng nghề
truyền thống.
Ba là, hỗ trợ nguồn vốn cho người nông dân thông qua nhiều kênh thực hiện.
Bốn là, mở nhiều lớp để đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động.
Năm là, phát huy nguồn lực tại chỗ, tính sáng tạo, đoàn kết của nhân dân.
2.1.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 1997 – 2005
Dưới ánh sáng đường lối của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996)
và IX (2001) của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh và sự hỗ trợ tích cực có hiệu quả của các sở, ban, ngành tỉnh Thái
Nguyên, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân huyện, sự phối kết hợp chặt chẽ đồng bộ của các cơ quan ban, ngành, các
tổ chức đoàn thể xã hội, Đảng bộ và nhân dân trong giai đoạn này đã thực hiện
Chương trình xóa đói, giảm nghèo một cách tích cực, đồng bộ trên nhiều lĩnh vực
khác nhau.
2.1.2.1. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (1997) và XVI
(2001), Đảng bộ huyện Phú Lương luôn xác định xây dựng cơ sở hạ tầng phải đi
trước một bước, vì đây là một trong số các dự án được quan tâm và chỉ đạo đồng bộ
các nguồn vốn do Trung ương, tỉnh Thái Nguyên trợ giúp. Các nguồn vốn xây dựng
cơ bản được lấy từ các chương trình dự án của Chính phủ và do đóng góp của nhân
dân. Trong giai đoạn 1997 – 2005, huyện Phú Lương đã đầu tư hàng trăm triệu cho
xây dựng cơ bản và xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế -
xã hội, đặc biệt là người nghèo có cơ hội giao lưu buôn bán, mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hóa của mình.
Page 42
35
Về giao thông: Đây là một trong những dự án đầu tư mà huyện Phú lương rất
quan tâm và tập trung cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc xóa
đói, giảm nghèo trong giai đoạn này. Trong những năm này, huyện đã tích cực nâng
cấp đường giao thông nông thôn, xây dựng nhiều cầu dân sinh, sửa chữa được nhiều
tuyến đường hư hỏng, đặc biệt tính tới năm 2000 toàn huyện có 650 km đường liên
xóm, 90 km đường liên xã. Một số tuyến đầu tư cải tạo có chất lượng tốt, chỉ còn 15
xóm xe vận tải cơ giới chưa vào được. Đến năm 2005 toàn huyện đã có 54 km
đường liên xã được trải nhựa, đổ bê tông. Ngoài ra cùng với đầu tư cho làm đường,
các phương tiện vận chuyển cũng tăng nhanh nhất là xe công nông, ô tô các loại
đảm bảo mỗi năm vận chuyển hàng trăm tấn hàng hóa, hàng chục ngàn lượt khách.
Như vậy, trong giai đoạn 1997 – 2005, hệ thống giao thông từ huyện đến
các xã, liên xã, liên xóm không ngừng được mở rộng, bộ mặt của nông thôn thay
đổi từ đó góp phần tích cực vào chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
huyện Phú Lương.
Về thủy lợi: Đảng bộ huyện Phú Lương đã chỉ đạo tập trung đầu tư mới, cải
tạo, nâng cấp và hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu chủ động. Toàn
huyện đã xây dựng mới 4 công trình, khôi phục 2 công trình thủy lợi, đưa diện tích
tưới nước chủ động lên 224,3 ha, tăng 204,3 ha so với năm 1996. Tổng chiều dài
kênh là 75 km, trong đó xây dựng kiên cố 11 km.
Về xây dựng trường học: Từ năm 1996 đến năm 2000, huyện Phú Lương xây
dựng thêm 160 phòng học, trong đó có 60 phòng học từ cấp 4 trở lên. Giá trị xây
dựng đạt 3.852 triệu đồng, trong đó vốn Ngân hàng phát triển Châu Á ADB là 1.395
triệu đồng. Toàn huyện có 433 phòng học các loại, trong đó phòng học từ cấp 4 trở
lên là 322 phòng, còn lại 111 phòng học bằng tranh tre.
Để thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục, cấp ủy, chính quyền các cấp đã giành
sự quan tâm cho chương trình xóa phòng học tạm, xây dựng trường lớp kiên cố.
Năm 2002, huyện xây dựng mới 66 phòng học trong đó 56 phòng học cao tầng, 10
phòng học cấp 4 bằng nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển và vốn huy động trong
nhân dân. Năm 2004, toàn huyện Phú Lương đã đưa vào sử dụng 84 phòng học
trong đó 78 phòng học cao tầng, 6 phòng học cấp 4, nâng tổng số phòng học trong
Page 43
36
toàn huyện lên 566 phòng (trong đó phòng học cấp 4 là 336 phòng chiếm 54,4%,
phòng học cao tầng là 204 phòng chiếm 36,1%), số phòng học tạm còn 26 phòng
chiếm 9,5%.
Trong năm 2005, ngành giáo dục đã xây dựng mới thêm 82 phòng học kiên
cố, các phòng học chức năng và nhà hiệu bộ bằng nguồn vốn kiên cố hóa trường
học và vốn của ngành, xây dựng trên 400m tường rào, gần 4000m2 sân bê tông từ
nguồn vốn nhân dân đóng góp và sự giúp đỡ của các cơ quan đơn vị trên địa bàn.
Trường trung học phổ thông Phú Lương tiếp tục đầu tư hoàn thiện các phòng học,
đã kiên cố được 32/35 phòng học. Trường trung học phổ thông Yên Ninh xây dựng
được nhà cao tầng có 12 phòng học. Các trường đã chú trọng đầu tư mua sắm các
trang thiết bị phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của huyện.
Về y tế: Trong giai đoạn này, Đảng bộ huyện đã tranh thủ các nguồn vốn để
bổ sung trang thiết bị khám chữa bệnh, điều trị. Xây dựng tương đối hoàn chỉnh cơ
sở vật chất của bệnh viện huyện theo quy hoạch được phê duyệt, mua nhiều trang
tiết bị cho bệnh viện và các trạm y tế xã. Tiếp tục thực hiện chương trình y tế cộng
đồng nhằm đưa các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe vào phục vụ đời sống nhân
dân trong huyện.
Về thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông: Được sự quan tâm của các cấp,
các ngành và sự đóng góp mang tính chất xã hội hóa, vì thế hệ thống thông tin liên
lạc, bưu chính viễn thông tiếp tục được củng cố và phát triển rộng xuống tận các xã,
mỗi xã đều có 1 điểm bưu điện văn hóa xã, mạng lưới viễn thông phát triển liên tục,
hàng năm số máy điện thoại không ngừng tăng lên. Tất cả các xã trong huyện đều
đã được phủ sóng phát thanh và truyền hình góp phần nâng cao nhận thức và làm
phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của cư dân huyện Phú Lương. Ngoài ra,
bưu điện còn đảm bảo thông tin phục vụ lãnh đạo quản lý và phát triển kinh tế xã
hội. Tạo điều kiện có đủ nguồn đáp ứng yêu cầu lắp đặt điện thoại cho các ngành và
nhân dân.
Về nước sinh hoạt: Mặc dù nguồn ngân sách của huyện còn nhiều hạn hẹp,
song để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho nhân dân, từ năm 2000 với sự kết hợp
của Công ty Cấp thoát nước Thái Nguyên, huyện đã thực hiện cung cấp nước sạch
Page 44
37
cho nhân dân. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ dân dùng nước máy trong sinh hoạt còn rất thấp
do giá thành còn cao nên hầu hết các hộ ở nông thôn và các cơ sở kinh doanh dùng
nước giếng khơi, giếng khoan là chính.
Nhìn chung trong giai đoạn 1997 – 2005, công tác xây dựng cơ sở hạ tầng
của huyện Phú Lương đã có nhiều cố gắng, tranh thủ huy động được nguồn vốn tập
trung đầu tư cho phát triển và xây dựng mới các công trình phúc lợi, góp phần quan
trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo trên khắp các xã trong huyện.
2.1.2.2. Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề cho người nghèo
Đảng bộ huyện Phú Lương đã chỉ đạo triển khai nhiều chương trình về hỗ trợ
sản xuất và phát triển ngành nghề trong huyện. Huyện đã chủ trương chủ động tiếp
nhận có hiệu quả ngân sách triển khai các đề án, dự án của tỉnh và Trung ương về
tập trung xây dựng các mô hình sản xuất, phát triển ngành nghề. Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội chuẩn bị vốn đầu tư
vào sản xuất, trong đó đặc biệt là dự án đầu tư về tiểu thủ công nghiệp ở cụm Vô
Tranh, Tức Tranh, Yên Lạc, Phú Đô.
Huyện có chính sách tập trung vào xây dựng mô hình điển hình và các dự án
phát triển sản xuất nông nghiệp như phát triển giống cây con, mương máng tưới
tiêu, hỗ trợ giá cây giống…
Các dự án do Trung ương và tỉnh hỗ trợ thông qua Hội phụ nữ, Hội nông dân
huyện cho các hội viên như: Ngày tiết kiệm vì người nghèo, Vận động và xóa mù
chữ, Quỹ hỗ trợ nông dân…
Một số địa phương đang tiếp tục khơi dậy làng nghề truyền thống như: mây
tre đan, mành, chế biến chè, bánh chưng…
Với các chính sách hỗ trợ sản xuất và phát triển nghề nêu trên đã góp phần
quan trọng tạo ra sự chuyển biến mọi mặt trong đời sống người dân của huyện: tạo
công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, giảm tệ nạn xã hội, qua đó góp phần tích
cực vào quá trình xóa đói, giảm nghèo của huyện Phú Lương.
2.1.2.3. Tín dụng cho người nghèo vay vốn
Phú Lương là một huyện nghèo, trong giai đoạn 1997 – 2005, công tác tín
dụng đối với người nghèo gặp nhiều khó khăn, song với sự cố gắng của các cấp, các
Page 45
38
ngành trong huyện cộng với sự giúp đỡ của Trung ương và của tỉnh Thái Nguyên,
các nguồn vốn tín dụng hỗ trợ cho người nghèo đã được khai thác đa dạng cải thiện
một bước trong lĩnh vực trợ giúp vốn đầu tư trực tiếp cho người nghèo; hoạt động
tài chính, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Năm 2000, Ngân hàng Nông nghiệp cho vay 6.473 hộ với số tiền là 22.127
triệu đồng. Ngân hàng Phục vụ người nghèo cho vay 3.267 hộ bằng 8.379 triệu đồng;
trong đó nợ quá hạn là 381 triệu đồng (chiếm 1,1%) [66, tr.3].
Năm 2002, tổng số hộ vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng
Phục vụ người nghèo là 14.797 hộ (chiếm 64,6% số hộ toàn huyện). Tổng số dư nợ
của cả hai ngân hàng là 56 tỷ 555 triệu đồng, trong đó nợ quá hạn là 320 triệu đồng,
chiếm 0,56% [68, tr.4].
Kho bạc nhà nước đã phối hợp chặt chẽ với các ngành thực hiện đầy đủ các
chức năng nhiệm vụ được giao, đáp ứng lượng tiền mặt ngày càng tăng, tổ chức tốt
công tác huy động và phát công trái xây dựng Tổ quốc, công trái giáo dục. Năm
2003, công trái giáo dục đạt 342% kế hoạch, trái phiếu Chính phủ đạt 207% kế
hoạch. Năm 2005, phát hành trái phiếu Chính phủ được 1.423 triệu đồng, đạt
88,95% kế hoạch; phát hành công trái giáo dục được 552,5 triệu đồng đạt 138% kế
hoạch [71, tr.5].
Nhìn chung, hoạt động tài chính, tín dụng có nhiều chuyển biến tích cực, đáp
ứng được nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế, đảm bảo vốn vay an toàn,
không có nợ xấu, góp phần thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển tạo tiền đề cho
công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả cao.
2.1.2.4. Hỗ trợ người nghèo về giáo dục
Quán triệt quan điểm của Đảng coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng
đầu” với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đảng bộ
huyện Phú Lương đã có nhiều chính sách để nâng cao sự nghiệp trồng người, tập
trung phát triển cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, xây dựng cơ sở
vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Năm 2000 Phú Lương đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học , 16/16 xã,
thị trấn đã được công nhận xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học tiêu chuẩn
Page 46
39
quốc gia. Từ năm 2000 đến năm 2005 huyện vẫn duy trì tốt kết quả phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi. Năm 2005 huyện cũng đã hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học cơ sở.
Chất lượng giáo dục được giữ vững và có mặt tiến bộ. Chỉ tính riêng trong
năm học 2004 – 2005, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc tiểu học đạt 100%, trong đó tỷ lệ
tốt nghiệp loại giỏi tăng 5,1%. Tỷ lệ tốt nghiệp bậc trung học cơ sở đạt 96%, tỷ lệ
tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 95%, bổ túc văn hóa đạt 100%” [72, tr.7].
Tỷ lệ học sinh giỏi cấp tỉnh liên tục tăng, năm 2004 bậc tiểu học có 136 giải,
bậc trung học cơ sở có 115 giải, trung học phổ thông có 63 giải [71, tr7]. Sang năm
2005, học sinh tiểu học tăng 63 giải so với năm học trước, số học sinh giỏi ở bậc
trung học cơ sở là 427 em. Trường trung học phổ thông Phú Lương, riêng khối 12
có 31 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh.
Việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên được quan tâm và tạo điều kiện, đến năm
2002, tỷ lệ đạt chuẩn mầm non là 96,61%, tiểu học 93,59%, trung học cơ sở là
98,19%... hàng trăm giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.
Ngoài ra, huyện cũng đã củng cố và thực hiện có hiệu quả việc dạy và học
theo chương trình và sách giáo khoa mới. Kiểm tra và quản lý chặt chẽ việc dạy
thêm, học thêm, nâng cao chất lượng dạy học trong các giờ chính khóa và chương
trình giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đồng thời các hoạt động trợ cấp, đóng góp đồ dùng
sách vở cho những học sinh nghèo đã thu hút được các đoàn thể, các tổ chức xã hội,
các nhà hảo tâm, các đơn vị sản xuất kinh doanh và nhân dân cho phong trào xã hội
hóa của huyện.
Với chính sách hỗ trợ đầu tư người nghèo về giáo dục, huyện đã hỗ trợ
người nghèo trong các loại hình giáo dục và đào tạo, hạn chế được tình trạng bỏ
học của con em các hộ nghèo ở các cấp học. Chính sách giáo dục đi trước một
bước là cơ sở để nâng cao dân trí góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững.
2.1.2.5. Hỗ trợ người nghèo về y tế
Để đảm bảo sức khỏe cho người dân, Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo
ngành y tế tạo điều kiện để 100% số hộ nghèo khi ốm đau được hưởng trợ giúp từ
các dịch vụ y tế, đảm bảo mua cấp bảo hiểm y tế cho người nghèo. Huyện đã tranh
Page 47
40
thủ các nguồn vốn để bổ sung trang thiết bị khám chữa bệnh, điều trị. Tăng cường
kiểm tra công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Thường xuyên
giám sát dịch bệnh, tuyên truyền giáo dục sức khỏe, vệ sinh phòng bệnh, ngăn chặn
không để bệnh lây lan thành dịch, đảm bảo các chỉ tiêu chương trình y tế quốc gia,
chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, nâng cao 12 điều y đức.
Chỉ tính riêng năm 2004, huyện đã thực hiện tốt công tác phòng dịch bệnh
mùa đông, mùa hè; tuyên truyền thực hiện “Tuần lễ nước sạch vệ sinh môi trường”,
tháng hành động “Vệ sinh an toàn thực phẩm”. Vì vậy, trên địa bàn huyện đã không
xảy ra dịch bệnh lớn, kịp thời cấp cứu các trường hợp ốm đau, bệnh tật, tai nạn giao
thông, không để xảy ra tử vong.
Ngoài ra huyện còn tổ chức thực hiện nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt là ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Năm 2004, tỷ suất sinh thô giảm 1,1%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
giảm 0,33%.
Huyện cũng tăng cường đội ngũ bác sỹ ở cấp xã, thị trấn. 100% xã đã có y,
bác sỹ, có y tế thôn bản. Thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia về dự phòng,
quản lý bệnh xã hội ngày càng chặt chẽ, có hiệu quả. Hoạt động y tế ngày càng
phong phú, đa dạng. Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt kết quả cao. Sử dụng
giường bệnh, số lần khám chữa bệnh, chỉ tiêu phục vụ cho khám chữa bệnh đều đạt
trên 100% kế hoạch. Góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân
trong huyện.
2.1.2.6. Hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo
Để đảm bảo nguồn vốn cho vay có hiệu quả, người dân nhanh chóng thoát
khỏi đói nghèo, Đảng bộ huyện Phú Lương và các ban, ngành đã thực hiện chỉ đạo
hỗ trợ người nghèo tiếp cận với những kiến thức, mô hình mới với hiệu quả ứng
dụng vào sản xuất kinh doanh.
Trong những năm 1997-2000, huyện đã tổ chức lực lượng cán bộ liên ngành
xuống cơ sở hướng dẫn người nghèo, hàng năm mở nhiều lớp tập huấn hướng dẫn
sản xuất kinh doanh, dịch vụ phổ biến hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, tiếp nhận giống mới vào sản xuất. Quá trình chuyển giao kinh nghiệm như
Page 48
41
vậy đã làm cho người dân vận dụng sáng tạo trong lĩnh vực chuyên môn của mình
nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
2.1.2.7. Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo
Tiếp thu những kinh nghiệm ở nhiều địa phương khác trong tỉnh Thái
Nguyên, trong những năm 1997-2005, Đảng bộ huyện Phú Lương đã lãnh đạo các
cấp, các ngành tìm ra những giải pháp tiếp cận, cách làm hay, xây dựng những mô
hình xóa đói, giảm nghèo phù hợp, có hiệu quả, thu hút các tổ chức, đoàn thể và đại
đa số người nghèo tham gia, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm
nghèo điển hình trong huyện đã và đang thực hiện:
Một là, mô hình giảm nghèo toàn diện trên cơ sở gắn mục tiêu giảm nghèo
lồng ghép với các hoạt động dự án phát triển kinh tế - xã hội: điển hình là nghề làm
chè ở các xã Vô Tranh, Tức Tranh, Yên Lạc, Phú Đô; nghề đan lát ở Phủ Lý, Hợp
Thành; nghề làm bánh chưng ở Bờ Đậu.
Hai là, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi thủy sản
vào các xã Cổ Lũng, Sơn Cẩm.
Ba là, mô hình ủy thác vốn vay đói nghèo thông qua các tổ chức đoàn thể
như Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên…
2.1.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2005
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX giai đoạn 1997 –
2000 về thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo, Phú Lương đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ: tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhiều trong 5 năm: năm 1996
là 19,1%, năm 1997 là 18,1%, năm 1998 là 16,4%, năm 1999 là 11,47%, năm 2000
còn 9,1%.Tích cực giải quyết việc làm, đẩy mạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân
đạo, từ thiện, bài trừ tê nạn xã hội. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn
giáo. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, số
hộ, số làng đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, làng văn hóa ngày càng tăng.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XX của huyện về mục tiêu,
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 2001 - 2005. Dưới sự
chỉ đạo của huyện ủy, HĐND, UBND huyện cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
thể cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện, Chương trình xóa đói, giảm nghèo
huyện Phú Lương giai đoạn 2001 - 2005 đã đạt được những kết quả cụ thể sau:
Page 49
42
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ổn định, huyện đã tạo được sự chuyển
biến đáng kể trong phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc đọ tăng trưởng kinh
tế bình quân đạt 8,62%, công nghiệp - xây dựng tăng 123,93%, nông - lâm nghiệp
chiếm 37,32%, dịch vụ chiếm 44,92%, công nghiệp - xây dựng chiếm 17,77%.
Tính đến 31/12/2005 toàn huyện còn 980 hộ nghèo chiếm 4,03%; Bình quân
mỗi năm thoát nghèo được 432 hộ, tương ứng tỷ lệ thoát nghèo hàng năm là 1,78%.
Tập trung ưu tiên xóa hộ nghèo thuộc diện chính sách, người có công, đầu năm
2001 toàn huyện có 85 hộ nghèo thuộc diện chính sách người có công, đến năm
2003 đã hỗ trợ 82/85 hộ tu sửa nhà ở, mua phương tiện sản xuất, nước sinh
hoạt...với tổng số vốn hỗ trợ là 370 triệu đồng. Đến hết năm 2005 toàn huyện có
100% hộ nghèo diện chính sách người có công đã thoats nghèo (theo chuẩn cũ).
Huyện đã thành lập Ban chỉ đạo xóa nhà dột nát với sự tham gia phối hợp
giữa các ban ngành, đoàn thể của huyện cùng Ban chỉ đạo các xã, thị trấn tiến hành
vận động các tổ chức, cá nhân và nhân dân giúp đỡ làm mới được 237 nhà, xây
dựng được gần 100 nhà đại đoàn kết cho các hộ nghèo.
Triển khai thực hiện tốt chính sách của Chính phủ về hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất
sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có hoàn cảnh
sống và sinh hoạt khó khăn.
Theo quyết định 134/2005/QĐ - TTg của Thủn tướng Chính phủ: Toàn
huyện có 888 hộ được hỗ trợ trong đó có 840 nhà ở và 644 công trình nước sạch (kế
hoạch tiến hành hoàn chỉnh trong năm 2007).
Công tác cho vay vốn ưu đãi đối với hộ nghèo đã được Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện triển khai
thực hiện rộng khắp. Tổng nguồn vốn cho vay ưu đãi đến cuối năm 2005 là 33,781
tỷ đồng trong đó:
+ Nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện:
7,5 tỷ đồng.
+ Nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện: 26,281 tỷ đồng,
trong đó: - Vốn XĐGN: 22,485 tỷ đồng.
- Vốn theo NQ 120: 3,796 tỷ đồng.
Page 50
43
Công tác dạy nghề: Trung tâm dạy nghề của huyện đã tổ chức được 137 lớp
ngắn hạn chon 3457 học viên, trong đó có 25 lớp dành cho lao động nông thôn với
699 lao động; tổ chức 8 lớp cho các đối tượng chính sách xã hội với 240 lao động; 2
lớp dạy nghề cho người khuyết tật với 30 lao động. Tổ chức tại các cơ sở 102 lớp
tập huấn với nội dung chủ yếu là quản lý kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, chăn
nuôi thú y, kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt...cho 2488 học viên. Tư vấn giới thiệu việc
làm cho 255 lao động đi làm việc tại các công ty, nhà máy trong nước.
Trong 5 năm bằng nguồn vốn theo Nghị quyết 120, Ngân hàng Chính sách
Xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã giải quyết việc
làm và tạo thêm việc làm mới cho 45.507 lượt lao động. Nâng cao tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động nông thôn từ 68,2% lê 72,8%; tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 6,5%.
Công tác xuất khẩu lao động được quan tâm chú trọng phát triển, từ năm
2003 đến năm 2005 toàn huyện đã có 770 lao động đi xuất khẩu lao động trong đó
có trên 100 lao động thuộc diện hộ nghèo.
Hệ thống đường liên thôn, xã đã hoàn chỉnh, thị trường lưu thông hàng hóa
trên địa bàn khá phong phú đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và tiêu dùng của
nhân dân, 100% các xã, thị trấn đã sử dụng điện và dịch vụ điện thoại; Công tác xã
hội hóa giáo dục được quan tâm, các xã, thị trấn và các cơ quan đều đã lập hội
khuyến học.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, chính sách ưu đãi giáo dục đào
tạo và các chính sách ưu đãi khác được thực hiện tốt, ngày càng nâng cao hiệu quả.
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương
(Thái Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010
2.2.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về
xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010
2.2.1.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên
Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo lần đầu tiên được Chính
phủ phê duyệt vào năm 1998, tiếp theo là ngày 27-9-2001 Chính phủ phê duyệt mục
tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 – 2005.
Page 51
44
Triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo tại địa phương tỉnh
Thái Nguyên cũng đã nhanh chóng vận dụng nội dung Chương trình để lên kế
hoạch thực hiện. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (12/2005) nhiệm
kỳ 2006 – 2010 khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác giảm nghèo và
xóa nhà dột nát cho người nghèo. Lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án về
giảm hộ nghèo, ưu tiên vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện
chính sách về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, công trình nước sạch cho các hộ nghèo
thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển hệ thống khuyến
nông, hệ thống tín dụng cho người nghèo. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân
mỗi năm 2,5%” [25, tr.16]. Coi giảm nghèo là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị kinh tế và trước hết
là bản thân người nghèo phải tự vươn lên.
Coi trọng ngoại lực, phát huy nội lực là chủ yếu, có cơ chế, chính sách để
huy động mọi nguồn lực cả bên trong và bên ngoài. Chú trọng nguồn lực của địa
phương và nhân dân cho giảm nghèo.
Xác định khu vực và đối tượng trọng điểm để thực hiện giảm nghèo: ở tỉnh
Thái Nguyên vùng trọng điểm để giảm nghèo là miền núi, các xã thuộc phía Bắc
của huyện, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các xã nghèo vùng nông thôn; đối
tượng trọng điểm là hộ chính sách, hộ thuộc dân tộc ít người, hộ có chủ là nữ.
Khai thác thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để phát triển kinh tế - xã
hội góp phần thiết thực vào giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích
cực, chú ý phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp nông thôn
(cả nghề truyền thống và du nhập nghề mới) để tạo việc làm tại chỗ - thực hiện
phương châm “ly nông bất ly hương” nâng cao thu nhập cho người nghèo.
Cùng với việc tỉnh Thái Nguyên đưa ra những chủ trương, quan điểm giảm
nghèo như trên thì tỉnh cũng đã đề ra mục tiêu tổng quát cho việc xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 2006 – 2010 là: tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho
nhóm hộ nghèo nhằm hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập,
mức sống giữa thành thị và nông thôn, nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo; rút ngắn
Page 52
45
khoảng cách chênh lệch tỷ lệ hộ nghèo của Thái Nguyên so với bình quân chung
của cả nước. Cụ thể là:
Bình quân mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3% trở lên, phấn đấu đến năm 2010,
tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 20% (cả nước còn 11% - 12%); không còn hộ nghèo thuộc
diện chính sách người có công; cơ bản các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng chủ yếu.
100% hộ nghèo có điều kiện phát triển sản xuất được vay vốn với lãi suất ưu
đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội và được tập huấn hướng dẫn quản lý, sử dụng
nguồn vốn vay.
100% người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí thông qua thẻ Bảo hiểm y
tế. 100% học sinh là con hộ nghèo đang học văn hóa, chuyên nghiệp và dạy nghề được
miễn giảm học phí và các khoản đóng góp theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Thực hiện các chính sách về hỗ trợ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số về
nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt. Đảm bảo việc hướng dẫn cho người
nghèo cách làm ăn, khuyến công – nông – lâm – ngư, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, tiến tới hoàn thành việc xóa nhà tạm bợ, dột nát cho hộ nghèo.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cùng với sự chỉ đạo sát sao của
Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên là cơ sở vững
chắc đảm bảo cho việc xây dựng và thực hiện thành công chương trình xóa đói,
giảm nghèo của huyện Phú Lương giai đoạn này.
2.2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Lương về xóa đói giảm nghèo
giai đoạn 2006 – 2010
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong công tác xóa đói giảm nghèo
của Đảng bộ huyện Phú Lương trong giai đoạn 1997 – 2005, dưới sự chỉ đạo sát sao
của tỉnh Thái Nguyên, Đảng bộ huyện Phú Lương tiếp tục đề ra nhiều chủ trương,
biện pháp thực hiện thật tốt công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010.
Tại Đại hội Đảng bộ huyện Phú Lương lần thứ XXI (10/2005) nhiệm kỳ
2006 – 2010 đã xác định: “Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế -
xã hội, mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh, thu hút lao động, tạo việc làm ổn định,
giải quyết việc làm cho 3600 lao động/năm (trong và ngoài huyện). Tiếp tục cuộc
vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xã hội từ thiện, chăm sóc các đối tượng chính
Page 53
46
sách, xây cất nhà tình nghĩa, đảm bảo có cuộc sống ổn định. CHủ động lồng ghép
triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội, giải quyết đất ở, nhà ở, hỗ trợ vốn
sản xuất, chuyển đổi ngành nghề, đào tạo nghề, tạo việc làm ổn định. Thực hiện tốt
chương trình quốc gia về giảm nghèo, xây dựng phát triển nhân rộng các mô hình
giảm nghèo bền vững, cố gắng giảm nghèo mỗi năm ít nhất 3%, kết hợp thực hiện
tốt chính sách bảo hiểm toàn dân…” [45, tr.16]
Huyện Phú Lương cũng đã đề ra các mục tiêu cụ thể trong công tác XĐGN
như sau:
Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm 3% trở lên, tương đương với số hộ
thoát nghèo là 756 hộ. Phấn đấu đến cuối năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện
giảm xuống còn dưới 20%.
Các xóm bản đặc biệt khó khăn, xã nghèo và xã 135 cơ bản có đủ kết cấu hạ
tầng thiết yếu phục vụ cho phát triển sản xuất, đời sống dân sinh.
Phấn đấu 90% số hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi;
100% thôn, xóm được tập huấn về khuyến nông, khuyến lâm, kỹ thuật sản
xuất…
Phấn đấu mỗi năm giải quyết và tạo việc làm mới cho 1000 lao động trở lên,
trong đó có khoảng 60% lao động thuộc diện hộ nghèo.
Xóa hết hộ nghèo thuộc diện chính sách người có công.
Xóa cơ bản nhà tạm, nhà dột nát của hộ nghèo trong năm 2007: Thực hiện
xong chương trình hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo theo quyết định
741/QĐ - UBND ngày 05 tháng 03 năm 2007 với tổng kinh phí hỗ trợ của Nhà
nước là 1.793.280.000 đồng; Hoàn chỉnh xong việc làm nhà cho các hộp nghèo có
nhà ở dột nát thuộc diện chính sách của các xã, thị trấn đã được tỉnh phê duyệt trong
năm 2006.
Xây dựng kế hoạch hỗ trợ tu sửa nhà cho 1151 hộ nghèo đang ở nhà tạm
(theo số liệu điều tra năm 2005).
2.2.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010
2.2.2.1 Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Page 54
47
Về giao thông: Thực hiện chương trình về phát triển giao thông nông thôn
của huyện, trong giai đoạn này dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, chính
quyền và sự tham gia đóng góp có hiệu quả của nhân dân địa phương, huyện Phú
Lương đã nâng cấp và mở rộng quy hoạch thị trấn, phù hợp với quy mô của thời kỳ
phát triển. Phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác mọi nguồn đầu tư xây dựng và
hoàn thiện các hệ thống giao thông đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa, hành khách
mở rộng giao lưu kinh tế, phục vụ đắc lực phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
củng cố an ninh quốc phòng.
Huyện đã phát triển mạnh giao thông nông thôn, nối các thị tứ, các khu dân
cư. Hoàn thiện mạng lưới giao thông nội đồng, nhất là trên vùng phía Bắc của
huyện. Trong giai đoạn 2006 – 2010 huyện đã thực hiện nâng cấp và hoàn thiện
nhiều tuyến đường; đặc biệt là nâng cấp, xây dựng các tuyến đường tỉnh lộ cấp IV,
khu qua thị trấn, khu công nghiệp đạt cấp III trở lên; thực hiện trải nhựa, bê tông
hóa nhiều km đường liên xã, liên xóm nhằm đảm bảo nhu cầu vận chuyển của nền
kinh tế hàng hóa và là điều kiện quan trọng để đẩy nhanh công cuộc xóa đói, giảm
nghèo, đảm bảo cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp trên địa
bàn huyện.
Về thủy lợi: Phú Lương là một huyện nghèo, nhân dân sống chủ yếu dựa vào
nông nghiệp là chính, từng bước đầu tư xây dựng về thủy lợi là việc hết sức quan
trọng để đảm bảo và nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi. Đây là việc phải làm
thường xuyên, liên tục. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, huyện đã chủ động tưới
tiêu khoa học theo yêu cầu của cây trồng trên toàn bộ diện tích canh tác với tần suất
thiết kế tưới và tiêu hợp lý. Tiến tới việc đảm bảo chủ động tưới tiêu cho khoảng
85% diện tích canh tác, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện mạng lưới trạm
bơm, hệ thống mương máng tưới tiêu. Thực hiện nâng cấp các trạm bơm, cống tưới
tiêu, bê tông hóa hệ thống mương máng, xây dựng và nâng cấp một số hồ, đập phục
vụ tưới tiêu.
Về trường học: Đi đôi với đầu tư phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện Phú
Lương thường xuyên chăm lo đến sự nghiệp giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân về học tập. Giáo dục là con đường ngắn nhất, đồng thời là
Page 55
48
yếu tố xóa đói, giảm nghèo vững chắc nhất. Trong giai đoạn này huyện đã xây dựng
thêm 38 phòng học kiên cố tại các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn huyện.
Quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho giáo dục đã thu hút và tạo điều
kiện cho con em những xã nghèo, những gia đình khó khăn có điều kiện được đến
lớp, tiếp cận kiến thức, điều này góp phần hạn chế việc các em bỏ học giữa chừng,
dễ mắc vào tệ nạn xã hội hoặc xây dựng gia đình sớm do thiếu hiểu biết làm cho đời
sống vốn đã nghèo lại càng nghèo hơn.
Về y tế: Công tác y tế luôn được Đảng bộ huyện Phú Lương cùng các cấp,
ban, ngành đặc biệt quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn đào tạo và
khám chữa bệnh. Trong giai đoạn 2006 – 2010, không chỉ có bệnh viện huyện mà
tất cả các trạm y tế xã, thị trấn đều được đầu tư xây dựng khang trang, có đủ phòng
khám, điều trị, quầy bán thuốc và được đầu tư trang thiết bị ngày càng hiện đại.
Bệnh viện huyện Phú Lương đã hoàn thành việc nâng cấp khu nhà khám bệnh, hoàn
thành hệ thống xử lý nước thải, xây dựng mới các công trình vệ sinh tại các khoa,
phòng… Bên cạnh đó huyện còn triển khai dự án xây dựng thêm Trung tâm y tế dự
phòng là nơi để dự báo, trợ giúp cho Phòng y tế huyện kịp thời chữa trị và dập tắt
dịch bệnh.
Về thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông: Trong giai đoạn này trên địa bàn
huyện đã có 3 đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông với trên 10.038 máy điện thoại cố
định (chưa kể mạng điện thoại di động), tỷ lệ điện thoại cố định đạt 10 máy/100
dân, phát triển 338 thuê bao internet.
2.2.2.2. Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề
Trong giai đoạn 2006 – 2010, Đảng bộ huyện Phú lương đã chỉ đạo triển khai
nhiều chương trình về hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho
người lao động trong huyện. Huyện vạch ra định hướng phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và làng nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nguồn nhân
lực dồi dào của huyện.
Đảng bộ huyện Phú Lương luôn quán triệt tư tưởng hỗ trợ sản xuất và phát
triển ngành nghề cho người dân nhằm mục đích xóa đói, giảm nghèo; đồng thời còn
Page 56
49
xác định đây là một vấn đề khó khăn và phức tạp đòi hỏi có sự chung sức của các
ban, ngành.
Trong sản xuất nông nghiệp, huyện chú trọng vào đổi mới về cơ cấu giống,
cơ cấu thời vụ; huyện đã đưa giống lúa ngắn ngày, giống chất lượng vào thâm canh
trên diện rộng. Thực hiện mô hình trồng ngô ngọt xuất khẩu vụ đông xuân 2008 -
2009 với quy mô 15 ha ở 3 xã Yên Ninh, Yên Trạch, Hợp Thành với tổng kinh phí
cho thực hiện ô mẫu là 200 triệu đồng.
Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã phối hợp với Trung tâm dạy
nghề, Trạm Khuyến nông huyện tổ chức 157 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ
thuật, khuyến nông, lâm, ngư, hướng dẫn về cơ chế chính sách phát triển kinh tế xã
hội vùng dân tộc thiểu số, cơ chế quản lý các hạng mục thuộc chương trình 135, trợ
giúp pháp lý cho các đối tượng là: Cán bộ công chức xã, cán bộ chuyên trách xã,
Trưởng xóm, Bí thư chi bộ, Chi hội trưởng các đoàn thể và người nghèo, hộ nghèo
và nhân dân 3 xã thuộc Chương trình 135 là Yên Ninh, Yên Trạch, Hợp Thành và 9
xóm khó khăn trong toàn huyện cho khoảng 7080 người tham gia với tổng kinh phí
thực hiện trong 2 năm (2008 – 2009): 889.895 triệu đồng. Tổ chức 21 buổi tập huấn
khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm tại các xã, thị trấn với 1238 lượt người
tham gia chủ yếu là hộ nghèo với tổng kinh phí thực hiện: 28.134.000 đồng được
lấy từ nguồn ngân sách của huyện.
Công tác dạy nghề đã mở 41 lớp cho 1.505 học viên (trong đó 26 lớp với 574
học viên, thời gian học 2 – 3 tháng). Trung tâm dạy nghề của huyện đã tổ chức 137
lớp ngắn hạn cho 3.457 học viên, tư vấn giới thiệu việc làm cho 255 lao động đi làm
việc cho các công ty, nhà máy trong nước. Công tác dạy nghề đã từng bước đáp ứng
được nhu cầu học tập, nhu cầu tìm việc làm, tạo việc mới cho người lao động trên
địa bàn. Tăng thu nhập cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành
nghề lao động ở nông thôn. Đã mở 19 lớp trong 3 tháng cho 516 học viên tham gia
học tập nghề may công nghiệp, hàn điện, chăn nuôi thú y, trồng trọt…
Chương trình hỗ trợ giống, vật nuôi, cây trồng, máy móc phục vụ sản
xuất, xây dựng ô mẫu ngô lai, thủy sản, hỗ trợ phân bón cho hộ nghèo và các hộ
Page 57
50
dân thuộc các xã, xóm 135 với tổng số tiền là 790.105.000 đồng được lấy từ
ngân sách huyện.
Trong 5 năm, huyện đã giải quyết việc làm cho 1.985 lao động, trong đó đi
xuất khẩu 168 lao động đi làm việc tại Đài Loan, Malaixia, Đu Bai, Li Bi, Quatar,
Arậpxeut; điều tra lao động thất nghiệp và tập huấn nâng cao năng lực cán bộ làm
công tác giảm nghèo trên địa bàn.
Công tác xóa đói, giảm nghèo, theo số liệu tổng điều tra hộ nghèo năm 2006
toàn huyện không còn hộ đói, hộ nghèo là 7.943 hộ chiếm tỷ lệ 31,51% so với tổng
số hộ toàn huyện. Đến 31/12/2009 toàn huyện còn 5.278 hộ nghèo chiếm tỷ lệ
19,61%. Như vậy, qua 4 năm thực hiện tỷ lệ hộ nghèo giảm được 11,9%, bình quân
mỗi năm giảm 2,98%. Đạt mục tiêu đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 20% so với tổng
số toàn huyện vào năm 2010. Có thể nói rằng, những kết quả của việc giải quyết và
giới thiệu việc làm trên là thành tựu to lớn, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, từ đó họ có vốn để tiếp tục đầu tư cho tái sản xuất sức lao động và cho con cái
học hành.
Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề cho người lao động trong huyện
Phú Lương luôn có sự đóng góp to lớn từ các nguồn vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng Chính sách xã hội, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân vay đầu tư vào sản xuất, đóng vai trò “bà đỡ” cho sự phát triển và
đi lên của kinh tế hộ gia đình.
2.2.2.3. Hỗ trợ người nghèo thông qua hoạt động của các đoàn thể xã hội
Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo phát huy vai trò của các tổ chức đoàn
thể xã hội như Mặt trận Tổ Quốc, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,
Hội Chữ thập đỏ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhiều tổ chức xã hội
khác trong xóa đói, giảm nghèo. Thông qua các cuộc vận động như “Ngày vì người
nghèo”, “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” và các hoạt động khác, Đảng bộ huyện
lãnh đạo huy động nguồn lực tại chỗ của các tổ chức xã hội, nhân dân cho công
cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Việc phối kết hợp các tổ chức đoàn thể, xã hội tham gia vào công tác xóa đói,
giảm nghèo đã tạo ra sức mạnh tổng hợp làm cho đời sống của nhân dân, nhất là
Page 58
51
người đói, nghèo vươn lên từ đó nhân rộng được các mô hình hay, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
2.2.2.4. Hỗ trợ người nghèo về giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Phú Lương về
công tác giáo dục và đào tạo, căn cứ vào những thành tựu của công tác giáo dục
huyện Phú Lương giai đoạn 2000 -2005, trong giai đoạn 2006 – 2010 Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân huyện Phú Lương luôn luôn quan tâm chăm lo đến sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Coi việc hỗ trợ người nghèo về giáo
dục là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược xóa đói, giảm nghèo của huyện.
Phát triển sự nghiệp giáo dục luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền và
nhân dân quan tâm coi trọng cả về quy mô xây dựng cơ sở vật chất và phát triển sự
nghiệp. Quy mô các khối trường từ mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên – bổ túc trung học dạy nghề đều được
mở rộng.
Tất cả các xã đều có trường tiểu học, trung học cơ sở, đáp ứng yêu cầu phổ
cập tiểu học vững chắc và phổ cập trung học cơ sở.
Về cơ sở vật chất trường lớp tiếp tục được đầu tư, tu sửa và làm mới, số
phòng học cao tầng được sử dụng cho việc học tập của học sinh tăng so với các năm
học trước, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 15 trường. Đội ngũ giáo viên đạt
chuẩn ngành học mầm non là 100%, bậc tiểu học đạt 97,46% (trong đó trên chuẩn
là 32,4%), bậc trung học cơ sở đạt chuẩn 95,7% (trong đó trên chuẩn 23,3%).
Năm học 2007 – 2008 ngành giáo dục tiếp tục giữ vững quy mô mạng lưới
trường tổng số 63 đơn vị trường học: 17 trường mầm non, 27 trường tiểu học, 16
trường trung học cơ sở và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên, 2 trường phổ thông
trung học. Giáo dục mầm non có số trẻ ra lớp tăng 1,9% so với năm học trước, giáo
dục tiểu học có tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 giảm 0,2% so với năm học trước;
giáo dục trung học cơ sở số lớp giảm 18 lớp, số học sinh giảm 693 em so với năm
học trước; tỷ lệ bỏ học ở các bậc học là 1,7% so với số học sinh đầu năm học.
Những năm gần đây giáo dục đào tạo của huyện Phú Lương tiếp tục phát
triển cả về số lượng, chất lượng dạy và học ở các cấp học, bậc học, tỷ lệ huy động
Page 59
52
các cháu trong độ tuổi đến trường tăng; cơ sở vật chất từng bước được đầu tư nâng
cấp đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
Huyện cũng đã chỉ đạo thực hiện miễn giảm học phí cho con em thuộc diện
hộ nghèo từ bậc tiểu học đến hết phổ thông trung học. Trong 4 năm từ 2006 đến
tháng 6/ 2009 toàn huyện đã thực hiện miễn giảm học phí cho 11.783 lượt học sinh
là con hộ nghèo đang theo học tại các trường trong huyện với tổng số tiền hơn 696
triệu đồng.
Cấp miễn phí và cho mượn sách giáo khoa đối với học sinh hộ nghèo, học
sinh các xã 135 và vùng khó khăn với tổng số 4.077 lượt tương đương với 4.077 bộ
sách với tổng kinh phí thực hiện là 226.195.000 đồng.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo thực hiện của Đảng bộ huyện Phú
Lương, công tác hỗ trợ người nghèo trong huyện còn nhiều bất cập, chưa đạt được
kết quả như mong muốn: một số em học sinh thuộc đối tượng khó khăn nhưng chưa
được hưởng quyền lợi như miễn giảm học phí; học sinh con hộ nghèo vẫn phải
đóng góp một số khoản tiền vượt quá khả năng của các hộ nghèo, tiền quần áo đồng
phục, tiền đóng góp xây dựng cơ sở vật chất nhà trường, Quỹ hội phụ huynh, bảo
hiểm y tế và thân thể. Đây cũng chính là một trong những lý do quan trọng khiến
nhiều học sinh thuộc diện hộ nghèo bỏ học đi lao động sớm dẫn đến hiệu quả công
cuộc xóa đói, giảm nghèo chưa được như mong muốn.
Trong thời gian tới Đảng bộ huyện Phú Lương tiếp tục mở rộng diện lao
động được đào tạo, quy mô đào tạo và hình thức đào tạo nhằm phổ cập nghề cho
người lao động đồng thời tăng nhanh trình độ chuyên môn cho bộ phận đang làm
việc trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của huyện và lực lượng học sinh đã tốt
nghiệp phổ thông trung học. Hạn chế dần số lao động phổ thông không có tay nghề
dẫn tới tình trạng thiếu việc làm hoặc thu nhập thấp không đảm bảo được đời sống.
2.2.2.5. Hỗ trợ người nghèo về y tế
Công tác y tế luôn được Đảng bộ và các cấp, các ngành quan tâm đầu tư cả
về trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần
trách nhiệm và y đức cuả đội ngũ cán bộ y tế, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh,
bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Thực hiện tốt các Chương trình quốc gia về y tế và
Page 60
53
công tác y tế dự phòng, ngăn chặn kịp thời các dịch bệnh ở người. Tử vong do các
loại bệnh và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ngày càng giảm. Thường xuyên kiểm tra
vệ sinh an toàn thực phẩm, các hoạt động ngành nghề y dược tư nhân. Công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách
được quan tâm.
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội – cơ quan thường trực của Ban chỉ
đạo giảm nghèo huyện đã phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh,
cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái nguyên cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho
các đối tượng là người nghèo và nhân dân xã 135 đảm bảo 100% số người nghèo và
nhân dân các xã 135 đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế hàng năm. Từ năm 2006 đến
năm 2009 đã có 103.402 lượt người nghèo và 11.690 lượt nhân dân các xã 135 được
cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí.
Qua 4 năm từ 2006 đến năm 2009 đã có 65.207 lượt người nghèo được khám
chữa bệnh và cấp phát thuốc theo chế độ BHYT ưu đãi của Nhà nước với tổng kinh
phí thực hiện là: 1.629.662.000 đồng.
Hiện tại 16/16 xã, thị trấn có nhà trạm xây bán kiên cố, đến cuối năm 2007 đã
có 7 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác khám, chữa bệnh, duy trì việc thực hiện
các quy chế chuyên môn, đặc biệt là chế độ thường trực đảm bảo phục vụ bệnh nhân
24/24h. Tiếp tục duy trì trực chuyên môn theo hai hệ Nội – Nhi và Ngoại – Sản,
thường trực cận lâm sàng… tổ chức sinh hoạt chuyên môn, bình bệnh án, phiếu
chăm sóc, kiểm tra, giám sát, nhắc nhở việc thực hiện các quy chế chuyên môn, nâng
cao chất lượng khám và điều trị, không để xảy ra sai sót trong chuyên môn. Do vậy
hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch đều hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu giao.
Tăng cường y học dự phòng đủ điều kiện giám sát phát hiện và ngăn chặn
kịp thời các loại dịch bệnh và các bệnh xã hội như: lao, HIV/AIDS, tâm thần… chú
trọng công tác vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm.
Nâng cấp các trạm y tế xã, đảm bảo đủ phương tiện, trang thiết bị cần
thiết, đủ bác sỹ và cán bộ chuyên môn đáp ứng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
tại cộng đồng.
Page 61
54
Thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng và vệ sinh phòng dịch với:
100% số cháu sinh ra được tiêm 6 loại vác xin; 100% số bà mẹ mang thai được tiêm
phòng uốn ván; 100% số gia đình có hố xí hợp vệ sinh; 100% bà mẹ mang thai
được quản lý thai sản tại các tuyến y tế; thanh toán bệnh bại liệt, uốn ván đối với trẻ
sơ sinh; bệnh phong và rối loạn thiếu I-ốt; giảm tới mức thấp nhất người bị bệnh
lao, ngăn ngừa HIV/AIDS.
Tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ y tế: Thường xuyên bổ dụng, bồi dưỡng, đào
tạo lại đội ngũ y tá, bác sỹ có trình độ chuyên môn giỏi. Phấn đấu trong thời gian
ngắn nhất 100% trung tâm y tế xã có bác sỹ. Triển khai đầy đủ các chương trình y
tế quốc gia thực hiện tốt chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa
gia đình.
2.2.2.6. Tín dụng cho người nghèo vay vốn
Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Phú Lương được thành lập và đi vào
hoạt động tháng 7/2003 trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo với
chức năng, nhiệm vụ được giao cho vay hỗ trợ vốn tín dụng chính sách cho người
nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn.
Nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng Chính sách Xã hội được tiếp nhận từ hai
nguồn vốn tín dụng chính sách Quỹ quốc gia giải quyết việc làm từ Kho bạc Nhà
nước chuyển sang và nguồn vốn cho vay hộ nghèo được chuyển sang từ Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tiếp nhận 7 chương trình tín dụng mới do
Ngân hàng cấp trên chuyển về, đến nay Ngân hàng Chính sách huyện đang thực
hiện 9 chương trình tín dụng bao gồm:
Vốn vay cho hộ nghèo
Học sinh, sinh viên (QĐ 157)
Quỹ quốc gia GQVL 120
Xuất khẩu Lao động
Nước sạch, vệ sinh môi trường (QĐ 62)
Cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở (QĐ 167)
Cho vay hộ SXKD vùng khó khăn (QĐ 31)
Vốn vay cho hộ đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn (QĐ 32)
Page 62
55
Cho vay thương nhân tại vùng khó khăn (QĐ 92)
Qua nhiều năm hoạt động đã thu được rất nhiều kết quả khả quan, góp phần
không nhỏ vào những thành công của công tác giảm nghèo của huyện, đặc biệt
trong 2 năm 2008 và 2009: năm 2008 đã có 3868 lượt hộ nghèo được vay vốn với
tổng số tiền là 28.899 triệu đồng. Năm 2009 (tính đến tháng 11) đã có 2421 lượt hộ
nghèo được vay vốn với tổng số tiền là: 30.175 triệu đồng. Nguồn vốn cho vay ưu
đãi hộ nghèo dân tộc tiểu số vùng đặc biệt khó khăn với lãi suất 0% năm 2008 là 74
lượt hộ bằng 324 triệu đồng; năm 2009 đã có 113 lượt hộ nghèo được vay với số
tiền là 565 triệu đồng.
Nhìn chung các hộ vay vốn đều sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, đạt hiệu
quả, nâng cao thu nhập từng bước ổn định cuộc sống và thoát nghèo bền vững.
2.2.2.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo
Ủy ban nhân dân huyện đã phối hợp với Sở Lao động – Thương binh và Xã
hội tỉnh, Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh mở 2 lớp tập huấn nâng cao năng lực cán bộ làm
công tác giảm nghèo là các thành viên Ban chỉ đạo huyện, Ban chỉ đạo các xã, thị
trấn và tất cả các Trưởng xóm, phố, tiểu khu thuộc 16 xã, thị trấn trong các năm
2007 và 2009 với tổng số hơn 800 đại biểu tham dự với tổng kinh phí hỗ trợ để thực
hiện là 57 triệu đồng.
Năm 2008 huyện đã phối hợp với Ban chỉ đạo giảm nghèo các xã, thị trấn tổ
chức 16 hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước đối với người nghèo và các chương trình, dự án thuộc Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 trên địa bàn huyện. Kinh phí tỉnh hỗ trợ
thực hiện là 8 triệu đồng.
Các khóa đào tạo được chuẩn bị chu đáo, nội dung đào tạo theo đúng tài liệu
của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành có soạn thảo bổ sung một số
tài liệu cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo trong tỉnh
và huyện. Nội dung nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách và nâng cao về kỹ thuật
nhằm giúp cho cán bộ xóa đói, giảm nghèo ở cấp cơ sở biết cách xây dựng triển
khai dự án, thực hiện các chính sách, huy động nguồn lực và biết tham gia một cách
có hiệu quả vào quá trình ra quyết định, giám sát và đánh giá.
Page 63
56
Trong quá trình diễn ra lớp tập huấn, bên cạnh những giờ thảo luận nhóm,
kiểm tra tạo điều kiện cho học viên nêu lên những khó khăn mà địa phương và cá
nhân mình gặp phải, học viên còn được đến tham quan thực tiễn các hộ vượt nghèo
hoặc các hộ có mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi. Thông qua đó để truyền đạt mô
hình đến người nghèo trong địa phương mình.
Thực hiện Quyết định số 2518/QĐ-UBND ngày 9/11/2007 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Thái Nguyên về việc phê duyệt hỗ trợ kinh phí cho hoạt động giám sát
đánh giá Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 –
2010 tỉnh Thái Nguyên và công văn số 1938/LĐTBXH-BTXH ngày 22/11/2007
của Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Thái Nguyên về việc hướng dẫn thực
hiện hoạt động giám sát, đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai
đoạn 2006 – 2010 trên địa bàn tỉnh. UBND huyện Phú Lương đã chỉ đạo các xã, thị
trấn nghiêm túc thực hiện và chỉ đạo 10 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25% tiến hành lựa
chọn và hợp đồng thêm 1 cán bộ chuyên trách làm công tác giám sát, phân tích đánh
giá các chỉ tiêu của cấp xã thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai
đoạn 2006 – 2010 với mức hỗ trợ 450.000/người/tháng.
Tuy nhiên, do kinh phí đào tạo có hạn, thời gian tập huấn chưa được nhiều
nên kết quả chưa đạt được như mong muốn. Mặt khác, đội ngũ làm công tác xóa
đói, giảm nghèo ở cấp xã, xóm luôn có sự thay đổi, chuyển công tác cho nên trong
những năm tới công tác tập huấn xóa đói, giảm nghèo cần đặt ra là: tiếp tục mở
nhiều lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo; nội dung tập huấn
cần bổ sung thêm phù hợp với từng địa phương; đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác xóa đói, giảm nghèo cần thông qua thực tế nhiều hơn; kinh phí cho quá trình đào
tạo được quan tâm đầu tư hơn nữa sẽ cho kết quả cao hơn.
2.2.2.8. Xây dựng mô hình xóa đói, giảm nghèo
Nhiều mô hình xóa đói, giảm nghèo của huyện Phú Lương trong giai đoạn
trước đã phát huy tác dụng tích cực đối với cuộc sống của người dân. Trên cơ sở kế
thừa những mặt tích cực của những mô hình xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn
trước và tiếp thu những mô hình mới trong và ngoài huyện, Đảng bộ huyện Phú
Lương tiếp tục đề ra và thực hiện tốt một số mô hình xóa đói, giảm nghèo và đạt kết
Page 64
57
quả tốt, góp phần vào chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Một số mô hình xóa đói,
giảm nghèo được Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2010
như sau:
Một là, mô hình giảm nghèo toàn diện trên cơ sở gắn mục tiêu giảm nghèo
lồng ghép với các hoạt động dự án phát triển kinh tế, xã hội.
Mô hình này ngày càng được nhân rộng trong giai đoạn 2006 – 2010. Đảng bộ
huyện Phú Lương luôn quán triệt quan điểm phát triển ngành, nghề mới phải đi đôi với
việc bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống của mình trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Trong giai đoạn này, Đảng bộ
huyện Phú Lương tiếp tục xây dựng các dự án phát triển kinh tế trong chăn nuôi: mô
hình hỗ trợ hộ gia đình nghèo nuôi gà thả vườn, trong sản xuất nông nghiệp có mô hình
ứng dụng lúa lai vào sản xuất, mô hình trồng ngô ngọt xuất khẩu trong vụ đông đã đem
lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân; mô hình phát triển thủy sản kết hợp với
thủy lợi…trong ngư nghiệp. Các làng nghề truyền thống tiếp tục được khơi dậy và phát
huy giá trị kinh tế cao hơn: Cụm làng nghề sản xuất và chế biến chè bao gồm các xã:
Vô Tranh, Tức Tranh, Yên Lạc, Phú Đô; làng mây tre đan ở các xã Yên Trạch, Ôn
Lương, Hợp Thành; làng nghề bánh chưng Bờ Đậu…
Hai là, mô hình dạy nghề và đào tạo việc làm phù hợp cho thanh, thiếu niên
có hoàn cảnh đặc biệt khóa khăn.
Đây là mô hình phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội với
các Trung tâm Dịch vụ việc làm với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo cơ
chế ngân sách của tỉnh và huyện ủng hộ một phần kinh phí đào tạo và tiền ăn cho
học viên.
Mô hình trên mang lại hiệu quả rất tích cực trong giai đoạn này, đặc biệt là
những xã nghèo như: Yên Ninh, Yên Trạch, Hợp Thành… bởi thanh niên nơi đây
không có công ăn việc làm, nhiều đối tượng sa vào các tệ nạn xã hội. Mô hình này
ra đời đã tạo việc làm cho nhiều thanh niên, từ đó họ có thể vay vốn để mở xưởng
hoặc mô hình nhỏ của gia đình tạo ra thu nhập, xa rời được các tệ nạn xã hội.
Ba là, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi vào các xã
nghèo vùng sâu, vùng xa.
Page 65
58
Đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho người dân nên ngày
càng được mở rộng và phát triển. Điển hình là việc thực hiện phát triển kinh tế hộ
gia đình theo mô hình kết hợp Vườn – Ao – Chuồng. Tích cực thâm canh tăng vụ,
trồng ngô ngọt xuất khẩu, mô hình nuôi cá giống, cây con giống …
Ngoài những mô hình trên, Đảng bộ huyện Phú Lương còn chỉ đạo việc
nghiên cứu, triển khai, nhân rộng các mô hình kinh tế mới phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội từng địa bàn xã, xóm. Cụ thể là cánh đồng lúa giống ở các
xã Động Đạt, Yên Đổ… Một số giống lúa lai, ngắn ngày và năng suất cao được đưa
vào gieo trồng trên nhiều cánh đồng của huyện mang lại lợi ích cho người nông dân.
Có thể khẳng định các mô hình xóa đói, giảm nghèo mà Đảng bộ huyện Phú
Lương triển khai, thực hiện đã đem lại kết quả cao, tạo thêm được nhiều việc làm cho
người nghèo, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình và xã hội. Tuy nhiên
trong quá trình thực hiện các mô hình vẫn còn nhiều hạn chế đang được Đảng bộ dần
khắc phục như: một bộ phận thuộc các hộ nghèo vẫn chưa tham gia vào các mô hình
do không có vốn, không có kinh nghiệm sản xuất, chưa tin vào mô hình mà Đảng bộ
phổ biến.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, để các mô hình đạt được hiệu quả hơn,
Đảng bộ huyện Phú Lương cùng các cấp, chính quyền cần tổng kết rút kinh nghiệm,
từ đó có biện pháp tích cực hơn nữa trong quá trình lãnh đạo xây dựng mô hình xóa
đói, giảm nghèo của huyện.
2.2.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 2006 đến năm 2010
Kết quả tổng điều tra hộ nghèo theo chuẩn giai đoạn 2006 - 2010 tính đến
ngày 01/01/2006 trên địa bàn huyện không còn hộ đói, hộ nghèo là 7943 hộ chiếm
tỷ lệ 31,51% so với tổng số hộ toàn huyện. Để từng bước chuyển đổi cơ cấu sản
xuất, nâng cao thu nhập, nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo một cách bền vững, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Với mục tiêu đó Ủy ban
nhân dân huyện Phú Lương guiai đoạn 2006 - 2010 theo Quyết định số 1779/QĐ -
UBND, ngày 22/10/2007 với mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm 3%
trở lên, tương đương 756 hộ/năm, phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo toàn
huyện giảm xuống còn dưới 20%. Kết quả các năm cụ thể như sau:
Page 66
59
Bảng 4: Tổng hợp kết quả giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010
Chỉ tiêu
Năm
Số hộ
Thoát
nghèo
Số hộ phát
sinh nghèo
Thực
giảm
(Hộ)
Tỷ lệ
giảm
(%)
Ghi chú
2006 990 238 752 2.80
2007 953 355 598 2.37
2008 903 611 292 2.79
2009 1598 556 1042 3.94
2010 1424 0 1424 5.29
Tổng Tỷ lệ hộ nghèo đầu kỳ là 31,51% đến 31/12/2010 còn 19,51%
(Nguồn: Phòng Lao động – Thương binh – Xã hội huyện Phú Lương, 2010)
Như vậy, mục tiêu của Chương trình giảm nghèo huyện Phú Lương giai đoạn
2006 - 2010 đưa ra là giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 3%/năm và đưa tỷ lệ hộ nghèo
đến năm 2010 xuống dưới 20% so với tổng số hộ toàn huyện cơ bản đã hoàn thành.
Đây là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn cảu Đảng, chính quyền, sự phối
kết hợp của các ban, ngành, đoàn thể ở các cấp và sự nỗ lực vươn lên của chính các
hộ nghèo. Cùng với đó là việc triển khai, thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự
án nhằm hỗ trợ xã nghèo, hộ nghèo nâng cao đời sống, từng bước vươn lên tự thoát
nghèo một cách bền vững.
Tiểu kết chương 2
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện cùng với sự cố gắng, nỗ lực của nhân
dân Phú Lương, trong 13 năm (1997 – 2010), nền kinh tế - xã hội của huyện đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Công tác xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những
kết quả rất tích cực (trong giai đoạn 1 tỷ lệ hộ nghèo từ 18,1% năm 1997 giảm
xuống còn 9,1 % năm 2000, đạt mục tiêu đề ra; giai đoạn 2 từ 12,92% năm 2001 –
theo chuẩn nghèo mới – xuống còn 4,03% năm 2005; giai đoạn 3(theo chuẩn nghèo
mới) từ 31,51% năm 2006 xuống còn 19,51% năm 2010). Bộ mặt nông thôn, đặc
biệt là các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có nhiều khởi sắc và có sự thay đổi đáng
kể, chất lượng cuộc sống của nhân dân ở các xã nghèo được nâng lên. Qua thực
hiện XĐGN, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, điều hành của chính quyền và vai trò
của các tổ chức đoàn thể có sự đổi mới, gắn bó với cơ sở, với nhân dân. Đời sống
được cải thiện, nhân dân ngày càng tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng.
Page 67
60
Chương 3
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện Phú
Lương, trước những yêu cầu đặt ra đối với công tác XĐGN, Đảng bộ huyện Phú
Lương đã vận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khá linh
hoạt, phù hợp với thực tiễn địa phương để thực hiện các chương trình mục tiêu giải
quyết các vấn đề đói nghèo trên địa bàn huyện. Trong giai đoạn 1997 – 2010 toàn
huyện Phú Lương đã có hơn 10% hộ dân thoát được đói nghèo. Đây thực sự là
thành công lớn của Đảng bộ huyện trong việc lãnh đạo công tác XĐGN. Tuy nhiên
bên cạnh những mặt đạt được, Đảng bộ huyện cũng không tránh khỏi những hạn
chế trong quá trình thực hiện.
3.1.1. Ưu điểm
Một là, Đảng bộ huyện Phú Lương đã triển khai và tổ chức thực hiện một
cách khá linh hoạt, có hiệu quả các văn kiện, nghị quyết của Trung ương về phát
triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo ở một huyện miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội
còn nhiều khó khăn.
Trên cơ sở các văn kiện, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII, IX, X từ năm 1986 đến nay; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh
miền núi phía Bắc; Chương trình xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ (Chương trình
134, 135,…); các quyết định của các Bộ, Ban, Ngành liên quan đến mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo trong thời kỳ thực hiện CNH-
HĐH đất nước. Đảng bộ huyện Phú Lương đã kịp thời quán triệt và trực tiếp triển
khai sáng tạo và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của huyện. Thực hiện xóa đói,
giảm nghèo đi đôi với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp với các chương
trình, dự án khác của huyện liên quan tới XĐGN.
Sau ngày tái lập tỉnh ngày 01/01/1997, trong điều kiện xuất phát điểm thấp
với nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, tỷ lệ đói
nghèo cao, Đảng bộ huyện Phú lương đã lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, quy
Page 68
61
hoạch tổng thể nền kinh tế - xã hội giai đoạn 1997 – 2000 làm cơ sở xác định mục
tiêu, phương hướng phát triển KT- XH của huyện theo từng giai đoạn. Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 1997 – 2000 tiếp tục được
bổ sung, điều chỉnh trong giai đoạn 2000 – 2010, 2010 – 2020, tầm nhìn 2030, và
được cụ thể hóa qua các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ
1997 – 2000, lần thứ XVI nhiệm kỳ 2000 – 2005, lần thứ XVII nhiệm kỳ 2005 –
2010. Qua đó đã có tác dụng đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh
tế - xã hội của huyện Phú Lương.
Hai là, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chương trình xóa đói, giảm nghèo
có sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, UBND, sự nỗ lực của các cấp, ban, ngành, đoàn
thể trong huyện, xã, thị trấn và sự tham gia tích cực của người dân và quyết tâm
vươn lên của chính những người nghèo.
Đảng bộ và UBND huyện Phú Lương luôn quan tâm và chỉ đạo thường xuyên
đến công tác XĐGN thể hiện trong báo cáo thường kỳ, hàng năm. Các chỉ số đói
nghèo luôn được quan tâm, luôn được đưa ra bàn luận để tìm cách khắc phục những
hạn chế và tìm ra nguyên nhân của hạn chế, để từ đó có biện pháp và bước đi đúng
cho chương trình XĐGN trên địa bàn huyện.
Chương trình XĐGN được quan tâm và phối hợp thực hiện khá đồng bộ giữa
các cấp, ngành trong huyện, xã. Mỗi xã đều có Ban chỉ đạo, kịp thời kiểm tra, đôn
đóc các biện pháp mang tính “tạo lực” cho người dân.
Người nghèo chính là đối tượng quan trọng của Chương trình XĐGN, là chủ
thể quyết định đến thành công của chương trình. Người dân đều biết khắc phục
những hạn chế về năng lực của bản thân, biết cầu thị trong vấn đề tiếp thu tri thức
và kinh nghiệm quý báu từ những mô hình tiên tiến trong xã, huyện, tỉnh và trong
nước. Từ đó, họ tự đúc kết thành những cách thức làm kinh tế phù hợp với năng lực
và điều kiện của mình. Và chính họ đã tạo nên những bước đột phá, nhân rộng
những điển hình, tích cực tạo đà cho thế và lực mới của chương trình XĐGN.
Ba là, Đảng bộ huyện Phú Lương luôn quan tâm đặc biệt, chỉ đạo sát sao
từng giai đoạn, quan tâm chỉ đạo xây dựng cơ sở hạ tầng và tìm mọi phương án tối
ưu nhất để hỗ trợ cho các xã gặp nhiều khó khăn.
Page 69
62
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn về mọi mặt, còn có nhiều vấn đề cần phải
giải quyết cấp bách. Nhiều đồng chí cán bộ của Đảng ủy, UBND huyện Phú Lương
luôn sát dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân, từ đó chỉ đạo các phòng ban
như phòng Nông nghiệp, phòng Lao động – Thương binh và Xã hội phối kết hợp
đồng bộ với nhau để giúp đỡ người dân một cách tốt nhất trên tất cả các lĩnh vực,
ngành nghề, thực hiện XĐGN.
Sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là ngành chính trong phát triển kinh tế của
huyện. Để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp Đảng bộ huyện đã quan
tâm chỉ đạo xây dựng và cho tu sửa hệ thống thủy lợi, nhằm phát huy hết công suất
phục vụ thiết thực cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó Đảng bộ huyện cũng đề
ra mục tiêu, nhiệm vụ và cả những giải pháp phát triển cụ thể với từng ngành nông
nghiệp: đối với sản xuất lúa gạo, sản xuất chè thì cần tăng cường việc ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào canh tác (về giống, quy trình sản xuất,…);
trong chăn nuôi cần hình thành vùng chăn nuôi tập trung phù hợp với điều kiện của
từng địa phương, chẳng hạn như chăn nuôi gia súc lớn ở các xã miền núi, chăn nuôi
lợn và gia cầm ở các vùng nông thôn; tổ chức tốt việc tiêm phòng cho đàn gia súc,
gia cầm; tận dụng diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản tiến tới hình
thành vùng thâm canh thủy sản ở các xã phía Nam huyện.
Ngoài ra Đảng bộ huyện còn chỉ đạo phát triển đa dạng các ngành nghề thủ
công nghiệp trên địa bàn huyện, dựa trên những thuận lợi sẵn có của từng địa
phương: chế biến chè ở các xã Vô Tranh, Tức Tranh, Phú Đô, Yên lạc; đan lát ở các
xã Phủ Lý, Hợp Thành, Yên Trạch; làng nghề bánh chưng ở Bờ Đậu; Gạch Làng
Phan;… đồng thời Đảng bộ huyện còn chỉ đạo việc đào tạo nghề tại chỗ cho người
dân, góp phần giải quyết việc làm cho người dân lúc nông nhàn, mang lại hiệu quả
thiết thực cho họ thúc đẩy công tác XĐGN đi tới những thành công nhất định.
Bốn là, Đảng bộ huyện Phú Lương đã chỉ đạo xây dựng được nhiều mô hình
XĐGN mới, có hiệu quả và nhanh chóng được triển khai trên diện rộng.
Huyện Phú Lương có nhiều chính sách hỗ trợ, động viên người dân làm giàu
chính đáng, đặc biệt là người dân ở những xã còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, còn
động viên kịp thời sự phối hợp giữa các hộ với nhau tùy theo lĩnh vực cụ thể của
Page 70
63
sản xuất giúp cho người dân trả lời được câu hỏi trong nền kinh tế thị trường: Sản
xuất cho ai? Sản xuất cái gì? Sản xuất để làm gì? Sản xuất như thế nào?
Đảng bộ thường xuyên xây dựng các mô hình mới, các nhân tố mới, tổ chức
triển khai nhân rộng chẳng hạn như mô hình nuôi gà thả vườn, gà sạch tại xã Yên
Đổ, Phấn Mễ; mô hình thâm canh lúa lai VL20 và HYT 83 năng suất, chất lượng
cao ở xã Cổ Lũng, Sơn Cẩm với diện tích thử nghiệm là 7ha; mô hình trồng ngô
giống, nuôi cá giống cũng được triển khai ở một số xã. Trong quá trình triển khai
việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt
huyện Phú Lương đều đã phân công cán bộ kỹ thuật nông nghiệp xuống tận nơi
hướng dẫn cho bà con, đồng thời cùng với bà con thường xuyên kiểm tra tình trạng
phát triển, sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để có thể xử lý kịp thời với những
vấn đề về bệnh dịch. Trên cơ sở đó, tổ chức tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực
tiễn sản xuất. Huyện Phú Lương đã vận dụng có kết quả các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước phát huy cơ chế mới, giải phóng sức sản xuất. Tạo thế chủ
động cho người sản xuất và các doanh nghiệp do vậy bước đầu đã huy động được
các nguồn lực phát triển.
Năm là, Đảng bộ huyện Phú Lương đã làm tốt công tác tuyên truyền vận
động, qua đó phát huy được tinh thần tự giác của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội cùng chung tay thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Tuyên truyền vận động có vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện
XĐGN. Thông qua công tác tuyên truyền vận động sẽ làm cho mỗi cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân nhận thức rõ được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
công tác XĐGN; đói nghèo được coi như là một thứ giặc nội xâm, cần thiết phải
tiêu diệt và cuộc chiến chống lại đói nghèo là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ
cần có sự vào cuộc của toàn xã hội.
Để công tác XĐGN mang lại hiệu quả cao huyện đã chú trọng nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN, đồng thời thực hiện tốt công tác tuyên
truyền những chủ trương, chính sách của Đảng về XĐGN tới toàn thể người dân.
Huyện đã chỉ đạo thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn,dân làm,
dân kiểm tra” ở những công trình dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển
Page 71
64
văn hóa – xã hội, các dự án về an sinh xã hội. Người dân là chủ thể trong quá trình
thực hiện công cuộc XĐGN nên được quan tâm và tạo điều kiện về mọi mặt.
3.1.2. Hạn chế
Trong suốt thời kỳ 1997 – 2010 thực hiện Chương trình XĐGN của huyện
Phú Lương đã đạt được kết quả to lớn có ý nghĩa quan trọng trên nhiều măt, niềm
tin của quần chúng nhân dân với Đảng, chính quyền trong huyện ngày càng được
củng cố và nâng cao hơn. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo thực hiện còn một số
hạn chế sau:
Một là, về cơ chế chính sách: Trên cơ sở chủ trương, đường lối chính sách
của Trung ương, tỉnh ủy, huyện Phú Lương đã từng bước đề ra cơ chế chính sách
trong công tác XĐGN. Tuy nhiên do vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cùng với những
tác động từ bên ngoài, cho nên trong việc xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện
công tác xóa đói, giảm nghèo đôi khi còn thiếu đồng bộ. Đặc biệt là vấn đề liên
quan đến cơ chế chính sách ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hay ở một số địa phương
nào đó không thể tự quyết định được như: vấn đề cơ sở hạ tầng, sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, chính sách đối với cán bộ thực hiện công tác XĐGN, chuyển giao khoa
học công nghệ…
Hai là, về nhận thức: Trong quá trình thực hiện chương trình XĐGN, việc chỉ
đạo và tổ chức thực hiện không đồng đều ở các địa phương, nhiều xã, thị trấn có tốc
độ giảm nghèo nhanh, bền vững nhưng còn một số xã có điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội tương tự vẫn còn tình trạng tái nghèo cao. Đây chính là biểu hiện ở việc
nhận thức chưa đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ và tầm quan trọng của công tác
XĐGN. Điều đó thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Chưa coi công cuộc XĐGN là yêu cầu cấp thiết hiện nay, là yêu cầu của
khách quan đặt ra đối với huyện Phú Lương đang trên con đường tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhận thức của một số cán bộ, Đảng viên cho rằng XĐGN là một vấn đề
thuộc an sinh xã hội.
Page 72
65
XĐGN là vấn đề mang tính đạo lý, trách nhiệm, là việc riêng của Đảng, chính
quyền nên quá trình thực hiện còn thiếu đồng bộ, sự phối kết hợp giữa các cơ quan,
ban, ngành chưa chặt chẽ.
Công tác tuyên truyền về XĐGN nhiều lúc còn xem nhẹ và hình thức, chưa
mang tính chất chiều sâu và liên tục, nên còn quan niệm cho XĐGN là một chính
sách xã hội mà chưa phải là nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội cần phải quan tâm
hàng đầu.
Ba là, về công tác tổ chức chỉ đạo: Để làm tốt công tác XĐGN, Đảng bộ
huyện Phú Lương và các cấp chính quyền đã quan tâm chỉ đạo song chưa tương
xứng với yêu cầu của chương trình XĐGN, chưa thường xuyên có nghị quyết,
chương trình hành động, kiểm tra, tổng kết công tác XĐGN theo định kỳ. Đôi lúc
chỉ là những báo cáo mang tính câu nệ, ở nhiều địa phương còn mang tính chất đối
phó với cấp trên trong vấn đề này. Hàng năm, công tác sơ kết, đánh giá báo cáo chủ
yếu dựa trên những báo cáo của các xã gửi về. Báo cáo thường mang tính chất liệt
kê số liệu, chưa phân tích đánh giá đầy đủ. Chính sách giảm nghèo tương đối toàn
diện, bao trùm mọi mặt đời sống của người nghèo, dân tộc thiểu số nhưng còn dàn
trải, phân tán, mang nặng hỗ trợ trực tiếp, khó thực hiện, hiệu quả chưa cao.
Sự phối hợp thực hiện công tác XĐGN giữa chính quyền và các đoàn thể
chính trị - xã hội đôi khi chưa có sự thống nhất, hiệu quả chưa cao. Mặc dù huyện
và các cấp đã thành lập được Ban chỉ đạo XĐGN song do kinh phí cho người làm
công tác này còn eo hẹp, chưa thu hút được đội ngũ cán bộ có năng lực thật sự. Ban
chỉ đạo ở cơ sở chưa đủ mạnh, vừa thiếu về nhân lực vừa yếu về quản lý. Công tác
đào tạo, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ phụ trách còn nhiều hạn chế, chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đề ra. Ban chỉ đạo XĐGN chưa kịp thời
tổng kết, tham mưu đắc lực cho Đảng bộ và chính quyền địa phương. Công tác
kiểm tra, giám sát các chương trình XĐGN còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Bốn là, về quá trình chỉ đạo thực tiễn của chương trình XĐGN. Công tác điều
tra và lập danh sách hộ đói, hộ nghèo ở một số địa phương ít được quan tâm, đôi lúc
danh sách được lập ra trên cơ sở chủ quan của một số cán bộ làm công tác XĐGN ở
xóm, xã.
Page 73
66
Kết quả huy động quỹ, đặc biệt là nguồn vốn từ sự ủng hộ, đóng góp của
người dân, các tổ chức và doanh nghiệp đạt ở mức thấp, nhiều địa phương có tư
tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Vì thế kinh phí cho chương trình XĐGN hầu
như dựa vào nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Trong quá trình sử dụng vốn, một số
xã, xóm mới chỉ tập trung chú trọng vào vốn mà coi nhẹ tìm cách thức, giải pháp
XĐGN dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quá trình giải ngân vốn XĐGN
còn chậm, đôi khi còn có biểu hiện quan liêu, dẫn đến chênh lệch giàu nghèo ở một
số xã, xóm còn cao.
Việc thực hiện chính sách hỗ trợ cho người nghèo ở cơ sở còn nhiều sai sót.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước thường xuyên ban hành một số chính
sách hỗ trợ tạo thuận lợi cho người nghèo có cuộc sống ổn định, phát triển sản xuất
và hòa nhập cộng đồng như: chính sách về y tế, giáo dục, đào tạo và tạo công ăn
việc làm cho người dân. Bên cạnh một số địa phương trong huyện thực hiện tốt, tạo
được niềm tin trong quần chúng nhân dân thì vẫn còn một số địa phương do năng
lực đội ngũ cán bộ chuyên trách thiếu trách nhiệm đã thực hiện sai, hoặc có tư
tưởng ỷ lại. Điều đó làm cho hiệu quả của các chính sách thực hiện còn thấp, hộ dân
tái nghèo ngày càng cao, nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực, tích cực bị lạm dụng
dẫn đến hưởng sai đối tượng chính sách gây mất niềm tin trong nhân dân.
Đào tạo nghề và việc làm cho người lao động chưa được quan tâm kịp thời,
còn diễn ra tình trạng mang tính chất cục bộ địa phương. Nguyên nhân là do đặc
điểm lao động của địa phương còn có nhiều hạn chế như không được đào tạo tay
nghề, kỹ năng làm việc tập thể còn yếu, còn mang nặng phong cách làm việc của
nền nông nghiệp, chậm chạp, ít thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Sự lồng ghép Chương trình XĐGN với các chương trình về kinh tế - xã hội ở
trong huyện, xã còn chưa đạt đến sự thống nhất cao, dẫn đến sự chồng chéo giữa
các cấp, ban, ngành.
Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo chủ yếu tập trung vào sự hỗ trợ phát
triển chăn nuôi, trồng trọt nên chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết, thời vụ. Đồng
thời, nhiều hộ dân tuy đã được tập huấn nhưng chưa áp dụng tốt kỹ thuật vào chăn
nuôi dẫn đến hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao. Các hộ dân tham gia dự án vẫn có
Page 74
67
tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, hạn chế chủ động đầu tư thêm
vốn vào quá trình sản xuất. Mặt khác, sản phẩm đầu ra của dự án chủ yếu là các hộ
gia đình tự tìm hiểu, bán cho tư thương trên địa bàn nên khi nhân rộng mô hình
thường rơi vào tình trạng cung vượt quá cầu cho nên thường bị thương lái ép giá,
khó tiêu thụ.
Ngoài ra công tác quy hoạch, các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn lập dự án phát
triển kinh tế - xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có quy hoạch kinh tế- xã
hội được duyệt, các quy hoạch ngành, quy hoạch chi tiết chưa được triển khai thực
hiện nhiều. Còn quá ít các dự án khả thi trên địa bàn huyện.
3.2. Một số kinh nghiệm
XĐGN là một cuộc chiến lâu dài, cam go đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng,
toàn dân. Từ thực tiễn đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực
hiện chương trình XĐGN từ năm 1997 đến năm 2010, công cuộc XĐGN đã đạt
được những thành tựu to lớn và rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Một là, Cần có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng trong quá trình thực
hiện XĐGN ở từng giai đoạn, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng CSHT và
phương án tối ưu hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn.
Đảng có vai trò hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn để định hướng
phong trào hoạt động của quần chúng cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuy nhiên sự nghiệp đó chỉ đi đến
thành công khi có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo quần chúng thông qua đội
ngũ đảng viên của Đảng, các đảng viên của Đảng không chỉ là người nhận thức
quan điểm của Đảng một cách sâu sắc mà còn là những chiến sỹ tiên phong trong
hoạt động thực tiễn, lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội và mục tiêu XĐGN thì vấn đề xây dựng CSHT luôn phải đi trước một bước,
bởi CSHT là nền tảng cho các ngành kinh tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống
của nhân dân, đẩy nhanh công tác XĐGN đi đến thành công. Tuy nhiên với từng địa
phương Đảng cần có những chính sách, dự án hỗ trợ cho người nghèo và xây dựng
CSHT cho phù hợp. Đặc biệt với những xã đặc biệt khó khăn thường tập trung
Page 75
68
nhiều hộ nghèo cộng thêm với những khó khăn về giao thông đi lại, cơ sở vật chất
còn thiếu và xuống cấp Đảng cũng cần phải có những chính sách hỗ trợ riêng nhằm
tạo lực cho xã có thể vươn lên thoát nghèo.
Thực tiễn quá trình thực hiện công tác XĐGN từ năm 1997 đến năm 2010 ở
huyện Phú Lương cho thấy: Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội huyện đã
xác định cần tập trung vào ba trọng tâm lớn là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; CNH-
HĐH nông nghiệp nông thôn; Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và đầu tư kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quan tâm ưu tiên phát triển giao thong, thủy lợi và xây dựng
các cơ sở thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn. Thông qua đó đã tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho công cuộc XĐGN trên địa bàn huyện nói chung và các xã
nói riêng không ngừng phát triển, từng bước xóa hết hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo
và ngăn chặn triệt để tình trạng tái nghèo.
Hai là: Đặt công tác XĐGN trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh của huyện; đồng thời coi đây là mục tiêu hàng đầu trong
việc phát triển ổn định, là cơ sở để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị khác.
Xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm giải
quyết tình trạng nghèo nàn, lạc hậu cũng như sự chênh lệch mức sống giữa các vùng
miền, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Đối với Phú Lương, do điều kiện đặc
thù của huyện, vấn đề xóa đói giảm nghèo càng quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện cùng chung sức thực hiện. Kinh tế
có sự phát triển bền vững thì tất yếu người dân sẽ có cuộc sống đầy đủ, ấm no hơn
và nghèo đói cũng vì thế mà biến mất. Tính bền vững đồng nghĩa với việc không tái
nghèo, nó đảm bảo cho sự ổn định lâu dài trong tương lai.
Từ thực tiễn thực hiện công tác XĐGN của huyện Phú Lương cho thấy, muốn
công tác này đạt kết quả tốt nhất cần đảm bảo thực hiện được hai mục tiêu: mục tiêu
trước mắt và lâu dài. Mục tiêu trước mắt, cụ thể, trực tiếp là giảm tỷ lệ hộ đói,
nghèo; mục tiêu lâu dài mang tính chiến lược là phải từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho toàn thể nhân dân. Do đó, khi tiến hành thực hiện cần có
các chương trình, dự án XĐGN vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính kết nối khái
quát đặt trong tổng thể sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, đặc biệt trong điều
Page 76
69
kiện một huyện nghèo như Phú Lương rất khó để huy động nguồn lực dành riêng
cho XĐGN.
Thực tế công tác XĐGN ở Phú Lương đã chỉ ra rằng không chỉ các dự án
XĐGN mới có tác dụng tích cực trong chiến lược XĐGN mà có rất nhiều công
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nói chung của huyện (giao thông, thông tin
liên lạc, y tế, giáo dục, phát triển kinh tế nông nghiệp…) đã đóng góp to lớn vào
việc XĐGN và mang tính bền vững hơn một số dự án XĐGN đơn thuần. Ví dụ như
một dự án khai thác khu du lịch được mở sẽ tạo thêm công ăn việc làm, tạo thêm cơ
hội tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công; một khu công nghiệp may mặc được mở ra sẽ
tạo thêm việc làm, dịch vụ phát triển; một tuyến đường giao thông được xây dựng
mới hay nâng cấp sẽ tạo cơ hội cho nông dân dễ dàng vận chuyển hàng hóa tiêu thụ
sản phẩm, đón nhận kỹ thuật tiến bộ, giống mới, sự giao lưu trao đổi kinh tế - văn
hóa giữa các vùng dễ dàng hơn…
Ba là, Phát huy sức mạnh tổng hợp, chủ động lồng ghép các chương trình, dự
án kết hợp với các chính sách xóa đói giảm nghèo cùng với nguồn lực có sẵn của
địa phương và sự nỗ lực của người dân để công tác xóa đói giảm nghèo phát triền
bền vững.
Hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân
cư. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị cũng đều hướng vào nhân dân, lấy nhân
dân làm chủ thể, mọi chính sách đề ra đều dựa trên lợi ích của nhân dân và toàn thể
xã hội. Do vậy khi hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy được sức mạnh tổng hợp
của mình lại nhận được sự đồng tình ủng hộ của toàn thể nhân dân thì bất kỳ một
nhiệm vụ nào cũng sẽ được hoàn thành.
Thực tiễn trong quá trình lãnh đạo thực hiện công tác XĐGN, huyện ủy,
HĐND, UBND và toàn thể nhân dân trong huyện đã nhận thức được đây là một
nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là mục tiêu của cả hệ thống chính trị và quần chúng
nhân dân. Do vậy, sự tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý,
Page 77
70
điều hành cua các cấp chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận tổ quốc, của
các đoàn thể và quyết tâm của chính những người dân mà trước hết là những người
nghèo chính là nhân tố quyết định sự thành công của chương trình XĐGN của
huyện Phú Lương.
Để huy động được sự tham gia tự giác, tích cực của cả hệ thống chính trị, của
toàn xã hội vào công tác XĐGN, Đảng bộ huyện Phú Lương đặc biệt coi trọng công
tác giáo dục, tuyên truyền, tạo ra sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của cán bộ,
đảng viên và toàn thể nhân dân trong huyện, qua đó giúp họ hiểu được chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về XĐGN, từ đó có sự đoàn kết, thống nhất trong
tư tưởng và hành động, tạo cơ sở vững chắc cho thành công của công tác XĐGN.
Trong quá trình tiến hành, các Đảng bộ cơ sở được giao nhiệm vụ theo dõi,
giúp đỡ các xã nghèo, thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc. Với từng
đảng viên cũng đều có trách nhiệm giúp đỡ hộ nghèo, người nghèo vươn lên thoát
nghèo. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng bộ, HĐND tiến hành họp và ra Nghị
quyết chuyên đề về công tác XĐGN; với UBND chuyển thành các chương trình
hành động, dự án cụ thể về XĐGN. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc đã từng bước phát huy vai trò của mình trong công tác XĐGN như:
tuyên truyền, xây dựng quỹ vì người nghèo, phát động phong trào tương thân tương
ái, lồng ghép công tác XĐGN trong cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư. Các đoàn thể khác (Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến
binh…) đều có các dự án riêng của mình thực hiện XĐGN cho hội viên. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương các thành tố trong hệ thống chính trị của
huyện đã phối hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp cùng thực hiện XĐGN.
Bốn là, chỉ đạo xây dựng nhiều mô hình XĐGN mới, có hiệu quả và cần
nhanh chóng triển khai trên diện rộng.
Việc xây dựng các mô hình mẫu và nhân rộng mô hình giảm nghèo nhằm tạo
điều kiện nâng cao năng lực sản xuất cho người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo; tạo
cho người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo tiếp cận, học hỏi và áp dụng phương pháp
phát triển kinh tế hiệu quả, tiến tới phát triển kinh tế hộ gia đình, tăng thu nhập, góp
phần giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn, từ đó nhân rộng mô hình ra các
Page 78
71
địa phương khác. Đi đôi với việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
kinh doanh, phát triển ngành nghề; nhân rộng các mô hình khuyến nông - lâm - ngư
ở các vùng đặc thù, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho lao động nghèo; hỗ
trợ nhân rộng các mô hình sản xuất chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hóa; Hỗ
trợ hộ nghèo và cộng đồng tham gia liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm;
nhân rộng mô hình giảm nghèo liên kết giữa hộ nghèo với doanh nghiệp; hỗ trợ kết
nối hộ nghèo với thị trường thông qua phát triển các đơn vị cung cấp dịch vụ sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm;
Đối với một huyện làm nông nghiệp là chủ yếu như Phú Lương thì việc chú
trọng tới việc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp là một việc làm thiết thực mang lại
hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Chỉ tính trong trong 2008, việc chuyển giao
các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt được thực hiện qua các mô
hình, các ô mẫu như: Mô hình lúa Q.Ưu số 1, LS1 với diện tích 3ha ở xóm Tràng
Học, xã Phấn Mễ; mô hình ngô giống NK981 với diện tích 3 sào tại xã Yên Ninh; ô
mẫu chăn nuôi cá tổng hợp tại xã Yên Lạc với diện tích mặt nước 1,5ha; mô hình
nuôi gà thả vườn, gà sạch tại xã Yên Đổ, Phấn Mễ… mô hình trồng ngô ngọt xuất
khẩu tại xã Yên Ninh, mô hình thâm canh lúa lai VL20 và HYT 83 năng suất, chất
lượng cao tại xã Sơn Cẩm và cổ Lũng với diện tích 7ha. Tổ chức cho 50 nông dân
tham quan học tập kỹ thuật trồng nấm ăn. Tổ chức được 3 lớp tập huấn kỹ thuật
đồng thời thực hiện 3 ô mẫu nấm tại công trường 06 huyện Phú Lương…Bên cạnh
đó huyện đã xác định chè là cây trồng mũi nhọn, góp phần XĐGN. Vì thế, huyện đã
xây dựng đề án phát triển sản xuất, chế biến chè trong giai đoạn 2000 – 2005 và
2006 – 2010. Cùng với đó quy trình sản xuất chè an toàn cũng được chuyển giao tới
người dân. Việc khai thác thế mạnh của từng vùng, thâm canh tăng năng suất được
đẩy mạnh, tạo ra sự chuyển biến tích cực về cơ cấu giống cây trồng, góp phần đưa
nền kinh tế của huyện phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa. Đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, góp phần đưa Phú Lương trở thành
một điểm sáng trong thực hiện các mô hình XĐGN hiệu quả.
Page 79
72
Năm là, cần làm tốt công tác tuyên truyền vận động, qua đó phát huy được
tinh thần tự giác của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng chung tay thực hiện
xóa đói, giảm nghèo.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, công tác dân vận luôn có ý nghĩa chiến lược,
quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Đánh giá cao về vai trò của nhân dân và
tầm quan trọng của công tác dân vận, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm
của Đảng và Bác Hồ, phát huy truyền thống và những kinh nghiệm tích lũy qua các
giai đoạn cách mạng, bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện CNH-HĐH đất nước,
công tác dân vận càng giữ vai trò, vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện công tác XĐGN (1997 – 2010) Đảng bộ huyện,
UBND, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Đoàn thanh niên, Hội
cựu chiến binh, Hội phụ nữ…) đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện
công tác tuyên truyền, vận động, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vượt qua
khó khăn, thử thách… đạt được nhiều thành tựu to lớn. Công tác tuyên truyền giúp
cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức rõ được vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của công tác XĐGN. Từ đó người dân ý thức được hành động và
việc làm của mình, họ hăng hái tham gia lao động sản xuất, sáng tạo trong cách
nghĩ, cách làm với mong muốn thoát khỏi đói nghèo. Đội ngũ cán bộ với vai trò tổ
chức thực hiện phải luôn sát dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, từ đó giúp
dân tìm cách giải quyết khó khăn liên quan tới lợi ích chính đáng của dân. Có như
vậy công tác XĐGN mới có thể đi tới thành công.
Thực tiễn trong 13 năm (1997 – 2010), Đảng bộ huyện Phú lương lãnh đạo
thực hiện công cuộc XĐGN địa bàn huyện trên đây là những bài học kinh nghiệm
hết sức quan trọng trong cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo và lạc hậu.
Page 80
73
KẾT LUẬN
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, được Chính phủ, các
nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm các giải pháp tiến tới xóa bỏ.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề XĐGN là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công
bằng xã hội và tăng trưởng bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững
mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát
nghèo. Do đó, XĐGN được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
Thực hiện Chương trình XĐGN tức là thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí
Minh, thực hiện đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó vừa là trách nhiệm,
vừa là tình cảm chân thành của Đảng ta đối với nhân dân, dân tộc. Tình cảm đó phải
được in đậm, khắc sâu trong đáy lòng của từng cán bộ, đảng viên để từ đó có hành
động thiết thực hỗ trợ đồng bào nghèo nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, cùng hòa
chung với đồng bào cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc thực hiện chính sách
XĐGN của nước ta trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận và XĐGN đã trở thành một phong trào sâu rộng, phát triển ở tất cả các tỉnh,
thành phố trong cả nước.
Chủ trương XĐGN của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong những năm qua hợp
với lòng dân, được nhân dân ủng hộ và nhanh chóng trở thành phong trào diễn ra
sôi nổi trong cả nước. Nhiều mô hình, cá nhân, tập thể điển hình về XĐGN được
phát hiện và nhân rộng trong cả nước. Kết quả thu được trong những năm qua là rất
to lớn: tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 7%, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mau
lẹ, đời sống nhân dân được nâng cao về mọi mặt, niềm tin của quần chúng nhân dân
vào Đảng và Nhà nước ngày càng được năng cao. Chủ trương XĐGN được coi là
một sáng tạo lớn, bước đột phá tư duy của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, đã thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đồng thời tô thêm giá trị nhân
văn, giàu lòng nhân ái của dân tộc ta.
Page 81
74
Đảng bộ huyện Phú Lương đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo chủ
trương XĐGN của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ tỉnh Thái nguyên vào thực tiện
địa phương, lãnh đạo công tác XĐGN từ năm 1997 đến năm 2010 đã thu được
nhiều thành tựu: hàng ngàn hộ dân vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo, diện mạo
nông thôn thay đổi nhanh chóng, khơi dậy truyền thống tốt đẹp ngàn đời của ông
cha ta. Sự chênh lệch giàu nghèo trong huyện cũng dần được thu hẹp, dân trí của
người dân được nâng cao. Những thành tựu trên đã minh chứng cho chủ trương
đúng đắn và quá trình thực hiện sáng tạo của Đảng bộ và các cấp Chính quyền
huyện Phú Lương. Chủ trương đúng đã đi vào lòng dân làm cho dân tin, dân phát
huy được sức mạnh về năng lực, trí tuệ của mình trong cuộc chiến đấu chống đói
nghèo, lạc hậu. Thực tiễn chỉ đạo sát sao, kịp thời đã làm cho mối quan hệ giữa
Đảng và dân thêm bền chặt. Qua đó, Phú Lương trở thành một điểm sáng trong quá
trình lãnh đạo thực hiện công tác XĐGN.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện
XĐGN cho thấy: Nhận thức được XĐGN trong huyện phải xuất phát từ mục tiêu
kinh tế, vì sự phát triển kinh tế là động lực, là chìa khóa giải quyết đói nghèo. Đảng
bộ huyện Phú Lương lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất, đầu tư khoa học – công nghệ,
phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, trong đó lấy con người là trọng tâm, chủ thể
của sự nghiệp; đã đưa ra nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, phong trào
XĐGN đã huy động được nhiều nguồn vốn và nguồn lực khác nhau để hỗ trợ cho
người nghèo. Nguồn vốn được trích ra từ ngân sách, từ Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, từ Kho bạc Nhà nước. Những nguồn vốn mà Đảng bộ huyện
Phú Lương lãnh đạo thực hiện huy động được đã giải quyết được nhu cầu vay vốn
cho sản xuất, kinh doanh, khắc phục phần nào tình trạng cho vay nặng lãi trong
nhân dân.
Trong điều kiện kinh tế của huyện còn nhiều khó khăn thì những thành tựu
của quá trình thực hiện chính sách XĐGN (1997 – 2010) đã khẳng định vai trò và
sự trưởng thành đi lên của Đảng bộ huyện Phú Lương. Nó củng cố thêm niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo động lực mới, phát huy mạnh mẽ nội
lực của huyện vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên trong quá trình
Page 82
75
lãnh đạo thực hiện chính sách XĐGN thời gian vừa qua vẫn còn tồn tại một số hạn
chế, khuyết điểm và trong thời gian tới còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Điều đó
đòi hỏi Đảng bộ huyện cùng với các cấp, các ngành, các đơn vị kinh tế, các tổ chức
chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân Phú Lương cần khắc phục những hạn chế,
phát huy những thành quả đạt được, tận dụng mọi cơ hội, thời cơ mới để thực hiện
thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu XĐGN của
huyện Phú Lương nói riêng.
Trong quá trình lãnh đạo công tác XĐGN, Đảng bộ huyện Phú Lương đã tổng
kết và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá. Những bài học đó là cơ sở quan
trọng cho những bước đi vững chắc của huyện Phú Lương, là nền tảng để Đảng bộ
huyện Phú Lương đề ra những chủ trương và quan điểm lãnh đạo cụ thể, trực tiếp
để thực hiện thắng lợi các mục tiêu về XĐGN trong giai đoạn tiếp theo.
Page 83
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Lương (2005), Lịch Sử Đảng bộ huyện
Phú Lương, tập 2 (1965 – 2000), Thái Nguyên.
2. Ban Chấp hành Trung ương (1997), chỉ thị số 23 - CT/TW về lãnh đạo thực
hiện công tác xóa đói, giảm nghèo.
3. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (5-1997), Thông báo số 1751/LĐTBXH
về xác định chuẩn đói nghèo năm 1997-1998.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Những giải pháp tăng
cường nguồn lực thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo”, hội thảo khoa
học, Hà Nội.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Hệ thống văn bản pháp luật
hiện hành về xóa đói, giảm nghèo, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Chương trình mục tiêu
Quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm 2001, Tài liệu tập huấn dành
cho cán bộ công tác xóa đói, giảm nghèo cấp tỉnh và huyện, Nxb Lao động
- Xã hội, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003): Xóa đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Dự án đào tạo cán bộ làm công
tác xóa đói giảm nghèo 2004, Tài liệu tập huấn cán bộ xóa đói giảm nghèo
cấp xã, Nxb Lao động, Hà Nội.
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Quy định chuẩn nghèo mới giai
đoạn 2006-2010, Số 2128/LĐTB-XH-KHTC.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Xóa đói, giảm nghèo với tăng
trưởng kinh tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2007): Tài liệu tập huấn giảng viên
nguồn - Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (2006-2010), Hà Nội.
Page 84
77
13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008): Tài liệu tập huấn cán bộ giảm
nghèo cấp xã, thôn, bản, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
14. Cục Thống kê Thái Nguyên (2000), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên
1996 – 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội.
15. Cục Thống kê Thái Nguyên (2005), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên
2004, Nxb Thống kê, Hà Nội.
16. Cục Thống kê Thái Nguyên (2009), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên
2008, Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. Cục Thống kê Thái Nguyên (2011), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên
2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
18. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Hà Nội.
19. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Quyết định số
134 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn, Hà Nội.
20. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Chương trình
mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
21. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010, Hà Nội.
22. Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Thái VII, Bắc Thái.
23. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên XV, Thái Nguyên.
24. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên XVI, Thái Nguyên.
25. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên XVII, Thái Nguyên.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Page 85
78
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2011), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hà Quế Lâm (2002), Xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hoàng Thị Hiền (2005), Xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người
tỉnh Hòa Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Huyện ủy Phú Lương (1997), Báo cáo công tác 6 tháng đầu năm 1997, lưu trữ
tại huyện ủy Phú Lương.
39. Huyện ủy Phú Lương (1998), Báo cáo công tác 6 tháng đầu năm 1998, lưu trữ
tại huyện ủy Phú Lương.
40. Huyện ủy Phú Lương (2000), Báo cáo đánh giá công tác năm 1999, lưu trữ tại
huyện ủy Phú Lương.
41. Huyện ủy Phú Lương (2000), Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện lần thứ 20, lưu trữ tại huyện ủy Phú Lương.
42. Huyện ủy Phú Lương (2002), Báo cáo công tác năm 2001 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2002, lưu trữ tại huyện ủy Phú Lương.
Page 86
79
43. Huyện ủy Phú Lương (2006), Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện lần thứ 21 nhiệm kỳ 2005 - 2010, lưu trữ tại huyện ủy Phú Lương.
44. Huyện ủy Phú Lương (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Phú
Lương lần thứ XX (tháng 11/ 2000), lưu trữ tại huyện ủy Phú Lương.
45. Huyện ủy Phú Lương (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Phú
Lương lần thứ XXI (tháng 10/ 2005), lưu trữ tại huyện ủy Phú Lương.
46. Lê Huy Ngọ (2001), Phát triển nông nghiệp, nông thôn miền núi trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cục định canh - định cư và vùng kinh tế
mới, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
47. Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ, Về tín dụng
đối với người nghèo và đối tượng chính sách khác.
48. Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xóa đói
giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Cừ (2004), Ổn định chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Hải (1999), Những giải pháp chủ yếu về quản lý nhằm xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Hằng (1997): Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2003), Phương pháp luận sử học, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
54. Phòng thống kê huyện Phú Lương (2000), Niên giám thống kê huyện Phú
Lương 1994 – 1999, Thái Nguyên.
55. Phòng thống kê huyện Phú Lương (2003), Niên giám thống kê huyện Phú
Lương 2000 – 2002, Thái Nguyên.
Page 87
80
56. Phòng thống kê huyện Phú Lương (2005), Niên giám thống kê huyện Phú
Lương 2001 – 2005, Thái Nguyên.
57. Phòng thống kê huyện Phú Lương (2010), Niên giám thống kê huyện Phú
Lương 2006 – 2010, Thái Nguyên.
58. Quyết định 1751/QĐ-LĐ-TB&XH ngày 20/5/1997 của Bộ trưởng Bộ LĐ-
TB&XH về việc phê duyệt chuẩn mực đói nghèo.
59. Quyết định 1143/QĐ-LĐ-TB&XH ngày 01/11/2000 của Bộ trưởng bộ LĐ-
TB&XH về việc phê duyệt chuẩn mực đói nghèo mới.
60. Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/07/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010.
61. Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Thái nguyên (2003), Giáo dục – Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên thành tựu và chiến lược phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội.
62. Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Thái nguyên (2003), Quy hoạch phát triển Giáo
dục – Đào tạo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2010, lưu trữ tại Sở Giáo dục và đào
tạo Thái Nguyên.
63. Sở Văn hóa thông tin (2003), Đất và người Thái Nguyên, lưu trữ tại Sở Văn
hóa thông tin Thái Nguyên.
64. Trần Thị Hằng (2000), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
65. Trịnh Trúc Lâm (chủ biên) (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, lưu trữ tại Sở
Giáo dục và đào tạo tỉnh Thái Nguyên.
66. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2001), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội năm 2000, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
67. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2002), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội năm 2001, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
68. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2003), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội năm 2002, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
69. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2004), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội năm 2003, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
Page 88
81
70. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2005), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội năm 2004, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
71. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2006), Báo cáo thành tích thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội năm 2005, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
72. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2004, nhiệm vụ công tác năm
2005, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
73. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2006, nhiệm vụ công tác năm
2007, lưu trữ tại ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
74. Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương (2001), Tóm tắt quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội huyện Phú Lương thời kỳ 2001 – 2010, lưu trữ tại ủy ban
nhân dân huyện Phú Lương.
75. Viện Khoa học xã hội, Viện Dân tộc hoc, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên,
Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thái Nguyên (2004), Dân cư, dân tộc tỉnh Thái
Nguyên, Hà Nội.
Page 89
82
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN PHÚ LƯƠNG
(Nguồn: Trung tâm thông tin Tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên
biên tập năm 2008)
Page 90
83
Phụ lục 2: Cơ cấu các loại đất theo mục đích sử dụng năm 2010
STT Mục đích sử dụng Mã Diện tích
(ha)
Cơ cấu (%)
Tổng diện tích tự nhiên 36894,6 100
1 Đất nông nghiệp NNP 30563,4 82,8
1.1 Đất sản suất nông nghiệp SXN 12483,4 33,8
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 5810,06 15,7
1.1.1 Đất trồng lúa LUA 4092,82 11,0
1.1.1 Đất trồng cỏ dùng vào
chăn nuôi
COC 49,52 0,13
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm
khác
HNK 1667,72 4,52
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 6673,38 18,0
1.2 Đất lâm nghiệp LNP 17246,3 46,7
1.2.1 Đất rừng sản suất RSX 14684,8 39,8
1.2.2 Đất rừng phòng hộ RPH 2561,47 6,94
1.2.3 Đất rừng đặc dụng RDD 0,00
1.3 Đất nuôi trồng thủy sản NTS 833,72 2,26
1.4 Đất làm muối LM 0,00
1.5 Đất nông nghiệp khác NKH 0,00
2 Đất phi nông ngiệp PNN 5715,12 15,4
2.1 Đất ở OTC 1697,93 4,60
2.1.1 Đất ở tại nông thôn ONT 1634,36 4,43
2.1.2 Đất ở tại đô thị OĐT 63,57 0,17
2.2 Đất chuyên dùng CDG 3085,42 8,36
2.2.1 Đất trụ sở sơ quan công
trình sự nghiệp
CTS 13,74 6,04
2.2.2 Đất quốc phòng CQP 590,61 1,60
2.2.3 Đất an ninh CAN 438,69 1,19
2.2.4 Đất sản suất kinh doanh
phi nông nghiệp
CSK 539,28 1,46
2.2.5 Đất có mục đích công CCC 1503,1 4,07
Page 91
84
cộng
2.3 Đất tôn giáo , tín ngưỡng TTN 8,15 0,02
2.4 Đất nghĩa trang , nghĩa địa NTĐ 75,1 0,20
2.5 Đất sông suối và mặt nước
chuyên dùng
SMN 824,16 2,23
2.6 Đất phi nông nghiệp khác PNK 24,36 0,07
3 Đất chưa sử dụng CSD 616,04 1,67
3.1 Đất bằng chưa sử dụng BCS 144,49 0,39
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng DCS 182,22 0,49
3.3 Núi đá không có rừng cây NCS 289,33 0,78
( Nguồn : Số liệu thống kê của Phòng tài nguyên và môi trường
huyện Phú Lương năm 2010 )
Page 92
85
Phô lôc 3
Uû ban nh©n d©n
huyÖn phó l¦¬ng BiÓu tæng hîp hé nghÌo giai ®o¹n 2001 - 2005
Sè hé nghÌo
Stt §¬n vÞ Sè hé Sè khÈu 2001 2002 2003 2004 2005
Sè hé TØ lÖ Sè hé TØ lÖ Sè hé TØ lÖ Sè hé TØ lÖ Sè hé TØ lÖ
1 Yªn Ninh 1488 6781 251 16.87 242 16.26 152 10.22 152 10.22 110 7.39
2 Yªn Tr¹ch 1247 6000 295 23.66 301 24.14 299 23.98 293 23.50 200 16.04
3 Yªn §æ 1424 6141 209 14.68 210 14.75 143 10.04 79 5.55 36 2.53
4 Yªn L¹c 1509 6864 349 23.13 346 22.93 245 16.24 200 13.25 125 8.28
5 ¤n L¬ng 761 3383 109 14.32 109 14.32 78 10.25 63 8.28 43 5.65
6 Hîp Thµnh 581 2480 108 18.59 102 17.56 40 6.88 26 4.48 14 2.41
7 Phñ Lý 640 2815 110 17.19 52 8.13 57 8.91 41 6.41 20 3.13
8 §éng §¹t 2251 9910 371 16.48 369 16.39 239 10.62 91 4.04 33 1.47
9 TT §u 1058 4161 89 8.41 77 7.28 77 7.28 41 3.88 26 2.46
10 PhÊn MÔ 2584 10418 228 8.82 209 8.09 156 6.04 142 5.50 65 2.52
11 Tøc Tranh 1932 9000 202 10.46 173 8.95 127 6.57 61 3.16 30 1.55
12 Phó §« 1008 5235 164 16.27 149 14.78 161 15.97 90 8.93 45 4.46
Page 93
86
13 V« Tranh 1850 7986 228 12.32 226 12.22 178 9.62 147 7.95 92 4.97
14 Giang Tiªn 886 3475 92 10.38 98 11.06 66 7.45 53 5.98 27 3.05
15 Cæ Lòng 2196 8745 139 6.33 130 5.92 121 5.51 118 5.37 52 2.37
16 S¬n CÈm 2891 11822 197 6.81 197 6.81 124 4.29 115 3.98 62 2.14
Tæng céng 24306 105216 3141 12.92 2990 12.30 2263 9.31 1712 7.04 980 4.03
(Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2006)
Page 94
87
Phô lôc 4
uû ban nh©n d©n
huyÖn phó l¦¬ng KÕ ho¹ch gi¶m hé nghÌo giai ®o¹n 2006 - 2010
Stt §¬n vÞ
Tæng Sè hé Tû lÖ Sè hé nghÌo
sè hé nghÌo G§ ( % ) N¨m 2006 N¨m 2007 N¨m 2008 N¨m 2009 N¨m 2010
2006-2010 Sè hé Tû lÖ % Sè hé Tû lÖ % Sè hé Tû lÖ % Sè hé Tû lÖ % Sè hé Tû lÖ %
1 Yªn Ninh 1485 834 56.16 834 56.16 789 53.16 745 50.16 700 47.16 656 44.16
2 Yªn Tr¹ch 1326 1093 82.43 1093 82.43 1053 79.43 1013 76.43 974 73.43 934 70.43
3 Yªn §æ 1452 461 31.75 461 31.75 417 28.75 374 25.75 330 22.75 287 19.75
4 Yªn L¹c 1562 815 52.18 815 52.18 768 49.18 721 46.18 674 43.18 628 40.18
5 ¤n L¬ng 785 406 51.72 406 51.72 382 48.72 359 45.72 335 42.72 312 39.72
6 Hîp Thµnh 605 347 57.36 347 57.36 329 54.36 311 51.36 293 48.36 274 45.36
7 Phñ Lý 690 282 40.87 282 40.87 261 37.87 241 34.87 220 31.87 199 28.87
8 §éng §¹t 2413 648 26.85 648 26.85 576 23.85 503 20.85 431 17.85 358 14.85
9 TT §u 1057 75 7.10 75 7.10 43 4.10 12 1.14
10 PhÊn MÔ 2586 552 21.35 552 21.35 474 18.35 397 15.35 319 12.35 242 9.35
11 Tøc Tranh 1995 622 31.18 622 31.18 562 28.18 502 25.18 442 22.18 383 19.18
Page 95
88
12 Phó §« 1184 455 38.43 455 38.43 419 35.43 384 32.43 348 29.43 313 26.43
13 V« Tranh 1948 539 27.67 539 27.67 481 24.67 422 21.67 364 18.67 305 15.67
14 Giang Tiªn 916 124 13.54 124 13.54 97 10.54 69 7.54 42 4.54 14 1.54
15 S¬n CÈm 2973 260 8.75 260 8.75 171 5.75 82 2.75
16 Cæ Lòng 2233 430 19.26 430 19.26 363 16.26 296 13.26 229 10.26 162 7.26
Céng: 25210 7943 31.51 7943 31.51 7187 28.51 6430 25.51 5674 22.51 4918 19.51
(Nguån: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2006)
Page 96
89
Phô lôc 5
ñy ban nh©n d©n
huyÖn phó l¬ng biÓu tæng hîp t¨ng gi¶m hé nghÌo n¨m 2008
Stt X·, thÞ trÊn
Tæng sè
hé
toµn
§P
Hé nghÌo t¹i thêi
®iÓm rµ so¸t
Hé nghÌo
ph¸t sinh
Hé nghÌo
tho¸t nghÌo Hé nghÌo n¨m 2008
Ghi chú
Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Tû lÖ %
A B 1 2 3 4 5 6 7 8=2+4-6 9=3+5-7 10=8/1
1 yªn ninh 1588 778 3388 117 414 43 190 852 3612 53.65
2 yªn tr¹ch 1440 982 4442 14 54 57 252 939 4244 65.21
3 yªn ®æ 1520 334 1264 18 53 52 198 300 1119 19.74
4 yªn l¹c 1676 780 3167 69 254 59 310 790 3111 47.14
5 «n l¦¬ng 815 362 1420 39 127 86 368 315 1179 38.65
6 hîp thµnh 638 310 1190 40 129 51 165 299 1154 46.87
7 phñ lý 728 188 672 34 127 39 168 183 631 25.14
8 ®éng ®¹t 2363 499 1879 47 162 91 333 455 1708 19.26
9 tt ®u 1157 57 217 1 4 10 43 48 178 4.15
10 phÊn mÔ 2869 346 1199 43 131 55 173 334 1157 11.64
11 phó ®« 1263 348 1255 60 193 77 319 331 1129 26.21
12 v« tranh 2120 487 1802 32 96 62 263 457 1635 21.56
13 tøc tranh 2093 444 1510 34 111 116 420 405 1201 19.35
Page 97
90
14 tt giang tiªn 931 108 353 29 86 12 38 125 401 13.43
15 cæ lòng 2340 306 1009 29 89 47 155 288 943 12.31
16 s¬n cÈm 3047 225 787 5 10 46 179 184 618 6.04
Tæng céng: 26588 6640 25554 611 2040 903 3574 6262 24020 23.55
(Nguån: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2008)
Page 98
91
Phô lôc 6
ñy ban nh©n d©n
huyÖn phó l¦¬ng biÓu tæng hîp t¨ng gi¶m hé nghÌo n¨m 2009
Stt X·, thÞ trÊn
Tæng
sè hé
toµn
§P
Hé nghÌo t¹i
thêi
®iÓm rµ so¸t
Hé nghÌo ph¸t sinh Hé nghÌo tho¸t nghÌo Hé nghÌo n¨m 2010 Tỷ lệ
năm
2008
Tỷ lệ
giảm
năm
2009 Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Tû lÖ %
A B 1 2 3 4 5 6 7 8=2+4-6 9=3+5-7 10=8/1 11 12=11-10
1 yªn ninh 1602 852 3612 36 160 367 1599 521 2173 32.52 53.65 21.13
2 yªn tr¹ch 1488 939 4244 66 197 82 361 923 4080 62.03 65.21 3.18
3 yªn ®æ 1651 300 1119 38 136 52 175 286 1080 17.32 19.74 2.42
4 yªn l¹c 1669 790 3111 72 256 108 455 754 2912 45.18 47.14 1.96
5 «n l¦¬ng 849 315 1179 25 70 64 238 276 1011 32.51 38.65 6.14
6 hîp thµnh 630 299 1154 29 97 48 196 280 1055 44.44 52.85 8.41
7 phñ lý 720 183 631 32 118 46 164 169 585 23.47 25.14 1.67
8 ®éng ®¹t 2537 455 1708 30 115 87 320 398 1503 15.69 19.26 3.57
9 tt ®u 1064 48 178 10 42 16 66 42 154 3.95 4.15 0.20
10 phÊn mÔ 2717 334 1129 45 158 88 349 291 938 10.71 11.64 0.93
11 phó ®« 1303 331 1129 54 182 166 651 219 660 16.81 26.21 9.40
12 v« tranh 2157 457 1635 68 194 109 421 416 1408 19.29 21.56 2.27
Page 99
92
13 tøc tranh 2102 363 1201 27 72 175 558 215 715 10.23 19.35 9.12
14 tt giang tiªn 953 125 401 7 21 52 166 80 256 8.39 13.43 5.04
15 cæ lòng 2319 288 906 21 60 70 230 239 736 10.31 12.31 2.00
16 s¬n cÈm 3134 184 622 4 15 71 240 117 397 3.73 6.04 2.31
Tæng céng: 26895 6263 23959 564 1893 1601 6189 5226 19663 19.43 23.55 4.12
(Nguån: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2009)
Page 100
93
Phô lôc 7
ñy ban nh©n d©n
huyÖn phó l¬ng biÓu tæng hîp t¨ng gi¶m hé nghÌo n¨m 2010
Stt X·, thÞ trÊn
Tæng
sè hé
toµn
§P
Hé nghÌo t¹i
thêi
®iÓm rµ so¸t
Hé nghÌo ph¸t sinh Hé nghÌo tho¸t nghÌo Hé nghÌo n¨m 2010 Tỷ lệ
năm
2008
Tỷ lệ
giảm
năm
2009 Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu Tû lÖ %
A B 1 2 3 4 5 6 7 8=2+4-6 9=3+5-7 10=8/1 11 12=11-10
1 yªn ninh 1624 528 2298 0 0 151 495 377 1803 23.21 32.51 9.30
2 yªn tr¹ch 1488 927 4080 0 0 70 262 857 3818 57.59 62.30 4.70
3 yªn ®æ 1651 286 1043 0 0 50 196 236 847 14.29 17.32 3.03
4 yªn l¹c 1669 754 2963 0 0 310 1158 444 1805 26.60 45.18 18.57
5 «n l¦¬ng 849 276 944 0 0 96 389 180 555 21.20 32.51 11.31
6 hîp thµnh 630 314 1164 0 0 136 485 178 679 28.25 49.84 21.59
7 phñ lý 720 167 588 0 0 37 188 130 400 18.06 23.19 5.14
8 ®éng ®¹t 2537 395 1462 0 0 27 175 368 1287 14.51 15.57 1.06
9 tt ®u 1064 42 143 0 0 2 7 40 136 3.76 3.95 0.19
10 phÊn mÔ 2717 294 952 0 0 124 452 170 500 6.26 10.82 4.56
11 phó ®« 1303 216 765 0 0 39 172 177 593 13.58 16.58 2.99
12 v« tranh 2157 402 1365 0 0 157 538 245 827 11.36 18.64 7.28
Page 101
94
13 tøc tranh 2102 249 949 0 0 104 336 145 613 6.90 11.85 4.95
14 tt giang tiªn 953 77 227 0 0 21 96 56 131 5.88 8.08 2.20
15 cæ lòng 2319 234 736 0 0 60 204 174 532 7.50 10.09 2.59
16 s¬n cÈm 3134 117 397 0 0 40 152 77 245 2.46 3.73 1.28
Tæng céng: 26917 5278 20076 0 0 1424 5305 3854 14771 14.32 19.61 5.29
(Nguån: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2010)
Page 102
95
Phô lôc 8
UỶ BAN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚ LƯƠNG KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÁC ĐỊNH HỘ NGHÈO,
CẬN NGHÈO GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
Stt Đơn vị Tổng
số hộ
Hộ nghèo Hộ cận nghèo
Ghi chú Tổng số
hộ nghèo
Tỷ lệ
hộ nghèo
(%)
Tổng số
hộ cận
nghèo
Tỷ lệ
hộ cận nghèo
(%)
A B 1 2 3 = 2/1 4 5 = 4/1 6
1 YÊN NINH 1716 899 52.39 350 20,44
2 YÊN TRẠCH 1549 777 50.16 369 23,8
3 YÊN ĐỔ 1624 366 22.54 252 15,51
4 YÊN LẠC 1777 1040 58.53 427 24,00
5 «n l¦¬ng 863 295 34.18 173 20,00
6 HỢP THÀNH 700 417 59.57 180 25,71
7 PHỦ LÝ 735 203 27.62 180 24,49
8 ĐỘNG ĐẠT 2611 406 15.55 284 10,87
Page 103
96
9 TT ĐU 1144 49 4.28 49 4,30
10 PHẤN MỄ 2880 358 12.43 149 5,17
11 PHÚ ĐÔ 1358 375 27.61 225 16,57
12 VÔ TRANH 2219 318 14.33 196 8.83
13 TỨC TRANH 2152 330 15.33 80 3,71
14 TT GIANG TIÊN 973 75 7.71 19 1,95
15 CỔ LŨNG 2426 186 7.67 70 2,90
16 SƠN CẨM 3370 100 2.97 61 1,81
Tổng cộng 28173 6194 21.99 3064 10.88
Phú Lương, ngày tháng 11 năm 2010
(Nguån: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Lương, năm 2010)