Top Banner
Câu 1 1. Khái niệm - Thuật ngữ “giao lưu và tiếp biến văn hoá” được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hoá học.v.v... ở phương Tây, khái niệm này được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh dùng Cultural Change (trao đổi văn hoá). Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen văn hoá, hỗn dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao lưu và tiếp biến văn hoá. - Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát triển văn hoá diễn ra theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn hoá trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc. - Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá. - Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá. Quá trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để lựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát triển văn hoá dân tộc. Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá
102

Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Dec 25, 2019

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Câu 11. Khái niệm

- Thuật ngữ “giao lưu và tiếp biến văn hoá” được sử dụng khá rộng rãi trong

nhiều ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hoá học.v.v... ở phương

Tây, khái niệm này được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh dùng Cultural

Change (trao đổi văn hoá). Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ được các nhà

nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen văn hoá, hỗn

dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao lưu

và tiếp biến văn hoá.

- Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát triển văn hoá diễn ra

theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn hoá

trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát

triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.

- Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học

hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung,

tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá.

- Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá. Quá

trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để lựa chọn tiếp nhận

cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát triển văn hoá dân tộc.

Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị xã hội và tâm thức dân tộc có

vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp nhận những yếu tố văn hoá của các

dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát triển mà vẫn giữ được sắc thái riêng của

mình.

- Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:

+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du

lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.

+ Còn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược

thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không thuần nhất. Có khi trong cái

Page 2: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị cưỡng

bức văn hoá, vẫn có những yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.

2. Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam

Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, văn hóa Việt Nam đã có những

cuộc tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa phương Đông và phương Tây bằng

những con đường và hình thức khác nhau. Cùng với sự hình thành các yếu tố văn hóa

bản địa, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã trở thành động lực to lớn cho

sự biến đổi, phát triển và làm nên những sắc thái riêng của nền văn hóa Việt Nam.

a. Giao lưu và tiếp biến với văn hoá Đông Nam Á

- Quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Đông Nam á của người Việt cổ,

theo GS Hà Văn Tấn(1), diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, trước nền văn

hoá Đông Sơn, và giai đoạn thứ hai là từ văn hoá Đông Sơn (thiên niên kỷ thứ I tr.CN)

trở đi đến thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ I tr.CN.

+ Giai đoạn thứ nhất, việc tiếp xúc và giao lưu văn hoá chủ yếu diễn ra giữa các

bộ lạc hay nhóm bộ lạc trong phạm vi đất nước ta. Lúc ấy văn hoá Việt Nam vẫn

mang các đặc trưng Đông Nam Á cả về vật chất cũng như tinh thần.

- Dựa vào cứ liệu của cỏc ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học ngày

hôm nay đó xác định được vùng Đông Nam Á có một cơ tầng văn hoá riêng biệt, phi

Hoa, phi Ấn. Vùng Đông Nam Á tiền sử đã sáng tạo nên một nền văn hoá có những

nét tương đồng:

+ Thứ nhất, đó là một phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi, văn

hóa đồng bằng, văn hóa biển, trong đó yếu tố đồng bằng ra đời sau, chiếm diện tích

không lớn nhưng đóng vai trò chủ đạo. Đông Nam Á trong lịch sử đã từng được mệnh

danh là cái nôi của cây lúa nước và một trong năm trung tâm cây trồng lớn nhất thế

giới. Vì vậy, Đông Nam Á mang những đặc trưng của vùng văn hóa, văn minh nông

nghiệp lúa nước. Cùng với sản xuất lúa nước, trâu bò được thuần hóa và dùng làm sức

kéo, đặc biệt là trâu. Công cụ dùng trong sản xuất, sinh hoạt, chiến đấu, dụng cụ nghi

lễ chủ yếu được chế tác bằng đồng và sắt .v.v..

Page 3: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Thứ hai: Hoạt động kinh tế chính của Đông Nam Á là sản xuất nông nghiệp.

Cư dân thành thạo nghề trông lúa nước và nghề đi biển.

+ Thứ ba: Trong cơ cấu gia đình truyền thống Đông Nam Á, người phụ nữ có

vai trò quyết định trong hoạt động gia đình. Đây cũng là một đặc điểm tạo nên dấu ấn

riêng của văn hóa Đông Nam Á so với các quốc gia trong khu vực văn hóa phương

Đông và phương Tây.

+ Thứ tư: Về mặt văn hóa tinh thần, ngay từ buổi đầu cư dân Đông Nam Á đã

hình thành cho mình một diện mạo văn hóa tinh thần khá phong phú và phát triển ở

trình độ cao. Điều đó thể hiện ở sự phát triển của tư duy nhận thức về xã hội và thế

giới, quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp của thế giới .v.v.. Tín ngưỡng

Đông Nam Á buổi đầu là bái vật giáo với việc thờ các thần: thần đất, thần mưa, thần

lúa, thờ mặt trời, thờ cây, thờ đá, thờ cá sấu, đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực và thờ

cúng tổ tiên.

- Giai đoạn thứ hai, vào thời kỳ Đông Sơn- thời kỳ kết tinh tinh thần dân tộc, kết

tinh văn hoá. Không chỉ giữa các nền văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn

hoá Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp xúc lẫn nhau, mà các nền văn hoá này đã có trao đổi

tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hoá Đông Nam Á. Chứng cứ là, người ta tìm thấy khá

nhiều trống đồng Đông Sơn ở Thái Lan, Ma Lai, Inđônêxia, và miền nam Trung Quốc

(thuộc khu vực văn hoá Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa văn, hình người,

hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (Nam Trung Quốc) mang phong cách Đông Sơn. Rất

nhiều rìu đồng đuôi én tìm thấy ở Inđônêxia được sản xuất theo phong cách Đông Sơn

(kiểu rìu làng Vạc- Nghệ An). Các đồ đồng này hoặc bằng con đường buôn bán mà có

mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế tạo tại chỗ theo phong cách Đông Sơn

mà họ chịu ảnh hưởng.

- Nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam ngay từ thời kỳ tiền sử

và sơ sử đã mang những sắc thái của văn hóa Đông Nam Á.Tuy nhiên, trong quá trình

phát triển của lịch sử, giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, những ảnh hưởng

mạnh mẽ của chúng đã khiến cho văn hóa cổ Đông Nam Á bị giải thể về mặt cấu trúc.

Những yếu tố, những mảnh vụn của chúng trở thành cơ tầng sâu văn hóa Đông Nam Á

Page 4: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

trong các nền văn hóa của mọi quốc gia trong khu vực và được bảo lưu như các yếu tố,

các giá trị chung tạo nên những nét tương đồng văn hóa.

- Vào thời kỳ sơ sử, người Việt Nam đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa bản

địa rực rỡ: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn hoá Đồng Nai. Trước khi tiếp

xúc và giao lưu với văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ, Việt Nam đã hình thành một nền

văn hoá bản địa vừa có những nét tương đồng với Đông Nam Á vừa có cá tính, bản

sắc riêng. Điều này được thể hiện ở một số điểm như sau:

+ Địa bàn cư trú của người Việt đã tương đối ổn định, theo mô hình làng.

+ Phương thức sản xuất chính là nông nghiệp, trồng trọt, có kết hợp với chăn

nuôi và đánh bắt thuỷ hải sản. Trong sản xuất nông nghiệp, nổi bật là nền văn minh

lúa nước, dùng sức kéo là trâu bò.

+ Trình độ luyện kim đồng, sắt, chế tác các dụng cụ lao động, vật dụng, các đồ

trang sức…bằng đồng, sắt đạt đến một trình độ điêu luyện và có cá tính văn hoá Việt.

+ Đã có tiếng nói tương đối ổn định, đó là hệ ngôn ngữ Việt- Mường.

+ Đã có một hệ thống huyền thoại trở thành "mẫu gốc", thành tâm thức cộng

đồng trong đời sống tinh thần người Việt. Hệ thống huyền thoại này phản ánh năm

lĩnh vực trụ cột lớn của đời sống cộng đồng dân tộc quan tâm như : nguồn gốc giống

nòi, làm ăn dựng xây đất nước, đánh giặc giữ nước, đời sống tâm linh và tình yêu lứa

đôi của con người. Tất cả, hoặc từng phần những nội dung đó được thể hiện trong

những huyền thoại rực rỡ như: Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh- Thuỷ Tinh,

Thánh Gióng, An Dương Vương, Chử Đồng Tử và Tiên Dung… Đó là một tài sản

tinh thần to lớn có ý nghĩa tập hợp sức mạnh đoàn kết, ý thức tự cường văn hoá của

dân tộc Việt Nam trong suốt hành trình lịch sử.

- Một nghìn năm dưới ách đô hộ của các đế chế phương Bắc, văn hóa Đông Sơn

bị giải thể về mặt cấu trúc nhưng văn hóa Việt Nam vẫn phát triển. Những yếu tố của

văn hóa Đông Sơn vẫn được lưu giữ trong các xóm làng. Đây chính là sức mạnh để

chủ nhân văn hóa Việt Nam đủ bản lĩnh trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung

Hoa mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.

Page 5: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

b. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa

Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao

lưu, tiếp biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là một trong những

trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ.

- Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp

trồng khô (trồng kê và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà. Do

nằm trên ngã ba đường của các luồng giao lưu kinh tế - văn hóa Đông - Tây, Nam -

Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung Hoa vừa

mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây Bắc, vừa

thâu hóa nhiều tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các cư dân

phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn liền với

lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và truyền bá văn

hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực sông Hoàng Hà theo hướng từ

Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với sự bành trướng về phương Nam của các

triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra quá trình Trung Hoa thâu hóa văn hóa

phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. Vị trí địa lý và những diễn biến

của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên giữa văn hóa Việt

Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa

Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đặt ra là trong cuộc tiếp xúc

không cân sức này, người Việt làm thế nào để văn hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát

triển, vẫn khẳng định được bản sắc văn hóa của mình?

- Quá trình giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa

diễn ra với hai hình thức: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.

+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến

thế kỷ X và từ 1.407 đến 1.427. Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, các đế

chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá về phương diện văn hoá

nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa. Từ 1.407 đến 1.427 là

giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương Bắc, giặc Minh

là kẻ thù tàn bạo nhất đối với văn hóa Đại Việt. Minh Thành tổ ban lệnh cho viên

tướng Trương Phụ chỉ huy binh lính vào xâm lược Việt Nam: "Binh lính vào Việt

Page 6: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy, ngoài ra hết thảy

mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ ... một mảnh,

một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do người Trung Quốc

dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá

hủy tất cả, một chữ chớ để còn".

+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của quan

hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng

diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên cứu lịch

sử văn minh Trung Hoa người ta thấy có nhiều yếu tố văn hóa phương Nam đã được

người Hán tiếp nhận từ thời cổ đại, những yếu tố này nhập sâu vào văn hóa Hán, được

hệ thống hóa, nâng cao "chữ nghĩa hóa" rồi truyền bá trở lại phương Nam dưới dáng

vẻ mới. Có thể nói, đó là sự giao lưu tiếp xúc hai chiều học hỏi lẫn nhau giữa các nền

văn hóa. Hiện nay đã phát hiện được trống đồng và nhiều đồ đồng Đông Sơn trên đất

Trung Hoa, đồng thời cũng phát hiện nhiều vật phẩm mang dấu ấn Trung Hoa trong

các di chỉ khảo cổ học ở Việt Nam. Trong nền văn hóa Đông Sơn, người ta đã nhận

thấy khá nhiều di vật của văn hóa phương Bắc nằm cạnh những hiện vật của văn hóa

Đông Sơn. Chẳng hạn những đồng tiền thời Tần Hán, tiền Ngũ thù đời Hán, các dụng

cụ sinh hoạt của quý tộc Hán như gương đồng, ấm đồng .v.v.. Có thể những sản phẩm

ấy là kết quả của sự trao đổi, thông thương giữa hai nước.

- Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô phỏng theo mô

hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, nhà Trần về tổ chức chính trị xã hội

lấy cơ chế Nho giáo làm gốc tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật giáo. Đến nhà

Lê đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc.

- Cũng cần nhận thức rõ rằng ngay cả trong giao lưu cưỡng bức, người Việt

luôn có ý thức chống lại sự đồng hóa về phương diện văn hóa, chuyển thế bị động

thành thế chủ động bằng cách bản địa hóa văn hóa Hán để tự làm giàu cho bản thân

mình mà không bị đồng hóa về phương diện văn hóa.

- Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện giữa

văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của văn hóa

Việt Nam trong diễn trình lịch sử. Người Việt luôn có ý thức vượt lên, thâu hóa những

Page 7: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

giá trị văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân tộc và đã đạt được những

thành tựu đáng kể trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa.

+ Về văn hóa vật thể: Người Việt tiếp nhận một số kỹ thuật trong sản xuất như:

kỹ thuật rèn đúc sắt gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thuật dùng phân

bón để tăng độ màu mỡ cho đất, kỹ thuật xây cất nơi ở bằng gạch ngói. Người Việt

còn học hỏi kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng biển, biết cải tiến kỹ thuật làm đồ

gốm (gốm tráng men)…

+ Về văn hóa phi vật thể: Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung Hoa

(cả từ vựng và chữ viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo gia) trên

tinh thần hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng bản địa và các hệ tư tưởng khác, mô

phỏng hệ thống giáo dục theo tinh thần Nho giáo, tiếp nhận một số phong tục lễ Tết, lễ

hội .v.v..

c.. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ

Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và thế

giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhiều bình diện có

ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.

Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các

thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn

hóa, tôn giáo.

- Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian

văn hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công

nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ

Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ba

vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ

khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến từ Ấn

Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả các mặt:

tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền bá các thành

tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..

Page 8: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương quốc

Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếp nhận mô

hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát triển các

thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ để tạo dựng nên

nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn Độ, Đông Nam Á

và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh vực, đặc biệt là chữ

viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.

- Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu thổ Bắc

bộ lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với văn hóa

Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới thời Bắc thuộc, người

Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các thương gia, các nhà sư từ Ấn Độ

sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công nguyên, người Việt tiếp

nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất và phải đối mặt với văn hóa

Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn ra trong tầng lớp dân chúng

nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu thổ Bắc Bộ trở thành địa bàn trung chuyển

văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở

Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận Phật giáo một cách dung dị bởi đạo Phật ở một số

nội dung giáo lý phù hợp với tín ngưỡng bản địa Việt Nam.

***Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ cần

chú ý những đặc điểm sau:

+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần

cơ bản là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với tín

ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các hiện

tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa bản địa,

người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng Phật giáo dân

gian thờ Tứ Pháp hết sức đặc sắc .v.v..

+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn

là một hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ ảnh

hưởng đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, nghệ

Page 9: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

thuật .v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá

trị: hệ thống chùa, tháp .v.v..

+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối trọng với

ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá của người

Việt.

d. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây

Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đặc biệt ở nửa sau của thế kỷ XIX đã

tạo bước chuyển có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

- Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất sớm trong lịch sử.

Nghiên cứu văn hóa khảo cổ, người ta thấy trong văn hóa Óc Eo có nhiều di vật của

các cư dân La Mã cổ đại, chứng tỏ đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi.

Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay thuộc

tỉnh Nam Định) và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa Nguyễn ở

Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, giao lưu

văn hóa toàn diện thực sự diễn ra khi Pháp xâm lược Việt Nam.

- Về phía người Pháp, sau khi đã lập được ách đô hộ ở Việt Nam, họ rất có ý

thức dùng văn hóa như một công cụ để cai trị. Víi tinh thần yêu nước và lòng tự trọng

dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam là chống trả quyết liệt cả về phương

diện chính trị và văn hóa. Có thể thấy thái độ ấy ở các nhà nho yêu nước ở Nam Bộ

cuối thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực...

Trong hoàn cảnh mất nước, người Việt có ý thức chống lại văn hóa mà đội quân xâm

lược định áp đặt cho họ: thái độ không học tiếng Tây, không mặc đồ Tây, không dùng

hàng Tây... Tuy nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những

giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng chúng trong công cuộc đấu

tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.

- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền văn

hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt Nam. Lần

đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây giai đoạn

1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay

Page 10: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên các

phương diện: Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một

tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các

phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam ...Thứ ba là sự xuất hiện của báo

chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ

mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa ...

Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường thử thách,

văn hóa dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội nhập lần

thứ nhất, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho văn hóa Việt

Nam, khiến cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển trong kỷ nguyên Đại

Việt. Hội nhập lần thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp phần hiện đại hóa

văn hóa dân tộc trên mọi phương diện.

e. Giao lưu và tiếp biến trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục tiêu

xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".

- Những thuận lợi

+ Chúng ta có một quốc gia độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, từ Mục

Nam Quan đến mũi Cà Mau. GLTBVH trong thời đại ngày nay là hoàn toàn tự

nguyện.

+ Cả dân tộc là một khối thống nhất với một nền văn hoá đa dạng phong phú

+ Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển đáng kể

trên tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, khoa học, giáo dục, công nghệ.

+ Trình độ học vấn, nhận thức về văn hoá và vai trò của văn hoá của tất cả các

cấp lãnh đạo cũng như người dân được nâng cao, ý thức về quốc gia, lòng tự hào dân

tộc được khơi dậy mạnh mẽ, người dân được thoả sức sáng tạo và hưởng thụ những

giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ở mọi khía cạnh.

+ Vị thế của đất nước được nâng cao, bình đẳng với tất cả các quốc gia trên thế

giới

Page 11: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII đã xác định rõ: Văn hoá vừa là nền tảng,

vừa là động lực phát triển xã hội.

+ Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh

vực văn hóa vừa tiếp thu, học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi hình thức,

vừa kiên quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát huy các giá trị

văn hoá truyền thống của dân tộc.

- Những khó khăn

+ Việc tiếp thu những giá trị văn hoá tiên tiến của thế giới với mục đích: Đưa

nước ta ngày càng phát triển, nhất là hạ tầng cơ sở vật chất và khoa học công nghệ,

song một vấn đề lớn đặt ra và ngày càng trở lên gay gắt là sự mâu thuẫn giữa bảo tồn

và phát triển.

+ Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối sống, tác

phong công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã của một nền văn

hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.

+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các giá

trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời sống văn hoá

của nhân dân ta.

+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống

hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu thương

mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị truyền thống.

+ Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của

văn hoá đối với đời sống xã hội

+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương diện:

+ Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH trở lên đa

dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức

+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống phá

chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng bước

chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta.

Page 12: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Câu 2: . Môi trường tự nhiên tác động đến văn hoá Việt Nam

Có 3 đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam đã tác động và ảnh

hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc:

- Nước ta nằm ở vị trí địa lý là trung tâm điểm của các trục đường giao lưu

quốc tế. Các nước từ phương Bắc muốn tiến xuống phương Nam, các nước từ phương

Tây sang phương Đông, và ngược lại, đều đi qua Việt Nam hoặc lấy Việt Nam làm

một vị trí trung chuyển đều rất thuận lợi. Trước đây, nhiều triều đại phong kiến Trung

Hoa đã tiến đánh xâm chiếm Việt Nam, và từ Việt Nam thực hiện ý đồ mở rộng về

phía Nam và Đông Nam á. Từ cuối thế kỷ XVI một số nhà buôn phương Tây đã đi

theo đường biển vào Việt Nam để buôn bán, và từ Việt Nam, mở rộng buôn bán với

các nước khác trong khu vực. Sau này thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã xâm lược

nước ta cũng thực hiện mưu đồ làm chủ Đông Nam Á... Việt Nam đã trở thành vị trí

có ý nghĩa chiến lược trên bản đồ thế giới. Điều này tạo thuận lợi cho nước ta có ưu

thế giao lưu văn hoá, thương mại, du lịch... Nhưng nó cũng cắt nghĩa một điều là tại

sao Việt Nam trong suốt hàng chục thế kỷ lại hứng chịu những cơn bão táp ngoại xâm

liên tục và khốc liệt đến vậy.

- Nước ta có một hệ sinh thái phồn tạp, nghiêng về phía thực vật, thực vật ưu

trội hơn động vật. Cũng chính vì thế, ngành kinh tế trồng trọt, nông nghiệp mạnh hơn

chăn nuôi. Điều này ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển của văn hoá Việt Nam

rất đậm với những biểu hiện cơ bản sau:

+ Việt Nam có một nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà đỉnh cao là trồng

cây lúa nước. Từ đây nó quy định mô hình bữa ăn điển hình của người Việt là cơm -

rau - cá. Hai trong ba thức ăn đó là thực vật. Cây lúa liên quan rất mật thiết đến văn

hoá ẩm thực (các sản phẩm vô cùng đa dạng làm ra từ hạt gạo, rượu nấu từ gạo...). Cây

lúa, hạt gạo trở thành biểu tượng tinh thần trong tâm thức Việt...

+ Chúng ta có cả một tín ngưỡng thờ cây. Có hai thứ cây quan trọng nhất được

người Việt biến thành cây thiêng liêng: Cây lúa và cây cau. Xôi, bánh chưng bánh dầy

để thờ cúng, cau cũng trở thành đồ thờ cúng, dẫn cưới... Người dân Bắc bộ có câu:

“Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Tết Nguyên Đán dân ta có tục hái lộc

Page 13: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

xuân... Đặc biệt, ngày Tết mùng Năm tháng Năm được coi là ngày kết tinh tín ngưỡng

thờ cây của người Việt. Vào ngày này, người dân ăn rượu nếp cái, ăn các thứ hoa quả

để “giết sâu bọ”, gọi cây bói quả, hái “lá mùng Năm”...

+ Cảm quan của con người đối với thiên nhiên đặc biệt gắn bó với cây cối, hoa

cỏ. Người Việt hay ví con người với hoa cỏ, lấy hoa cỏ làm thước đo để đo vẻ đẹp con

người. Ca dao hay ví người phụ nữ với chẽn lúa đòng đòng, củ ấu gai, cây quế giữa

rừng, hoa ngâu, hoa sen...

- Nước ta có một hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt khắp Bắc, Trung,

Nam. Riêng Nam Bộ chẳng hạn, theo GS. Lê Bá Thảo đã có 5.700 km đường kênh

rạch. Thêm nữa, lại có trên 3.000 km chiều dài bờ biển. Đặc điểm sông nước đã để lại

dấu ấn rất đậm lên diện mạo văn hoá Việt Nam. Dưới đây là một vài biểu hiện:

+ Thành phần thứ ba trong cơ cấu bữa ăn điển hình của người Việt là cá, các

loài thuỷ hải sản khác, và các chế phẩm của chúng, tiêu biểu là nước mắm.

+ Hình thức cộng cư của người Việt hoặc chọn vị trí gần sông theo kiểu “Nhất

cận thị, nhì cận giang”, hoặc quần tụ trên sông thành các “vạn chài”. Người Nam Bộ

còn có nghề “Thương hồ”- người buôn bán trên sông nước; hình thức chợ nổi trên

sông...

+ Cư dân Bắc và Trung bộ phải thường xuyên đối mặt với nạn lũ lụt. Ngay từ

thời xa xưa, công cuộc chinh phục lũ lụt đã đi vào huyền thoại “Sơn Tinh Thuỷ Tinh”.

Chưa bao giờ các triều đại và người dân Việt Nam dám coi nhẹ việc đắp đê chống lụt.

Công cuộc đắp đê trị thuỷ là một kỳ tích vĩ đại của người Việt.

+ Tín ngưỡng thờ sông nước: Thần sông thần suối, “Đất có thổ công, sông có

Hà Bá”. Nhân dân miền duyên hải còn thờ “cá Ông” như một con vật thiêng phù trợ

cho cuộc sống của những người làm nghề đánh cá...

+ Từ đặc điểm sông nước này mà nhà học giả Cao Xuân Huy nói tới “tính thuỷ”

trong tính cách người Việt, rộng ra là trong văn hoá Việt.

Ngoài 3 đặc điểm chính trên, có nhà nghiên cứu còn nhắc đến đặc điểm địa

hình của nước ta rất đa dạng bao gồm cả miền núi, đồng bằng và biển cả, giữa chúng

có vùng trung chuyển. Đặc điểm này khiến cảm thụ về thiên nhiên của người Việt khá

Page 14: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

phong phú. Trong các địa hình đó không thể không nhắc đến hang động vùng rừng núi

và cảng vịnh dưới biển. Hệ thống hang động Việt Nam kỳ vĩ, phong phú trải dài từ

Bắc vào Nam, trong đó Phong Nha (Quảng Bình) đã trở thành Di sản thiên nhiên thế

giới. Người Việt đến với hang động không chỉ để thưởng thức mà con thiêng liêng hoá

chúng, biến thành nơi cầu nguyện, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Các cảng vịnh cũng dồi

dào, đa dạng, trải dài từ Móng Cái đến Hà Tiên. Vịnh Hạ Long và Nha Trang đã mang

đẳng cấp quốc tế. Hang động và cảng vịnh thực sự là những món quà vô giá của tạo

hoá ban tặng cho nước Việt chúng ta. Cũng cần lưu ý, nhìn trên tổng thể thì như vậy,

nhưng đi vào mỗi vùng miền Tổ quốc lại thấy có những điều kiện tự nhiên cụ thể khác

nhau, do đó diện mạo văn hoá ở mỗi vùng cũng có những nét độc đáo khác biệt. Đến

lượt người nghiên cứu văn hoá, trên mẫu số chung đó, phải chỉ ra được những nét độc

đáo khác nhau của mỗi vùng văn hoá.

Câu 5

. Nho giáo Trung Quốc ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam, tạo cho gia đình Việt

Nam mang tính chất phụ quyền, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhưng nhiều khi ảnh

hưởng của Nho giáo đến gia đình truyền thống của người Việt chỉ mang tính hình thức

mà nhiều người đã dùng hình ảnh “vỏ Tàu lõi Việt” để so sánh.

Điều đó được thể hiện rõ nét qua vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình

người Việt (khác với vị trí, vai trò người phụ nữ trong gia đình Trung Quốc: người vợ,

người mẹ thường không có quyền và không hưởng một chút quyền lợi nào cả).

Ví dụ: Luật Hồng Đức và Luật Gia Long là hai bộ luật chịu ảnh hưởng đáng kể

của luật Trung Hoa, ra đời vào thời kỳ Nho giáo được xem là Quốc giáo. Nhưng

những nội dung của 2 luật này cũng có những sáng tạo thuộc Việt Nam. Luật của

Trung Quốc đề cao quan hệ cha – con; Luật Việt Nam đề cao quan hệ vợ chồng, trọng

phụ nữ.

~ Luật Hồng Đức:

Về kinh tế: Bảo đảm con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản bình đẳng như

con trai.

Về tâm linh: Con gái, cháu gái có quyền hương khói cho cha mẹ trong trường

hợp nhà không có con trai. Nếu con trai trưởng còn nhỏ, bà quả phụ có quyền thay con

tế tự tổ tiên.

Page 15: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Trong hôn nhân: Người phụ nữ có quyền từ hôn nếu vị hôn phu chẳng may bị ác

tật, phạm tội hoặc phá sản; có quyền bỏ chồng nếu trong 5 tháng chồng bỏ rơi vợ,

không đi lại.

~ Luật Gia Long: Cho phép đàn ông có 7 cớ để bỏ vợ (thất xuất theo luân lý

Trung Quốc): Không con; Dâm dật; Không thờ cha mẹ chồng; Lắm điều; Trộm cắp;

Ghen tuông; Có ác tật.

Nhưng lại đặt ra 3 điều không được đuổi vợ (tam bất khả xuất): Đàn bà từng để

tang ở nhà chồng 3 năm; Khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; Nếu sau khi bị đuổi

không còn nơi nương tựa.

Người phụ nữ là nơi hội tụ của tất cả những phẩm chất tốt đẹp, là linh hồn của

cả gia đình.

- Vai trò, vị trí người phụ nữ trong gia đình người Việt được thể hiện:

* Về quan hệ với các thành viên trong gia đình

- Với chồng:

+ Là vợ, là bạn, là tri âm tri kỷ, là người nâng khăn sửa túi.

+ Có mặt trong mọi lúc buồn vui của chồng, trong mọi lúc thành công hay thất

bại. “Đằng sau mọi thành công của đàn ông bao giờ cũng có bóng dáng của người

phụ nữ”…

+ Hi sinh hết lòng vì chồng, ngay cả từ những điều nhỏ nhất. Không chỉ gắn

bó với chồng bằng tình mà còn gắn bó với nhau bằng nghĩa.

Ví dụ: Bữa ăn trong gia đình, người phụ nữ bao giờ cũng ngồi ở đầu nồi, hạnh

phúc của họ là được chăm chút cho chồng con, được nhìn thấy chồng con khỏe mạnh,

hạnh phúc. Vì chàng thiếp phải ăn mâm – Như thiếp ăn đứng ăn nằm cũng nên…

Văn hóa Việt Nam và tư duy người Việt đặc biệt đề cao sự đồng thuận của tình

nghĩa vợ chồng trong quan hệ hai giới nam – nữ: Thuận vợ thuận chồng tát bể đông

cũng cạn; Râu tôm nấu với ruột bầu – Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon…

- Với con:

+ Yêu thương, lo lắng và chăm sóc cho con từ khi con còn trong bụng mẹ đến

khi con sinh ra, khôn lớn, trưởng thành.

Page 16: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Là chỗ dựa bình yên và vững chắc nhất của con người: “trên thế giới có

nhiều kỳ quan nhưng kỳ quan đẹp nhất là tấm lòng người mẹ”…

+ Vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành tính cách và nhân cách

cho con, trao cho con những giá trị văn hóa từ đời này sang đời khác. => người Việt

đúc kết: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang; Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà…

Liên hệ mở rộng: Ngày nay, vi trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình vẫn

được đề cao, coi trọng. Người phụ nữ vẫn được xem là người giữ lửa trong gia đình, vẫn

là người giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình. Tuy

nhiên, cũng có một số luồng ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này: nhiều người phụ

nữ đòi hỏi được giải phóng mình, không muốn bị rằng buộc bởi những lời ngợi ca, bởi sự

tôn vinh trách nhiệm. Họ muốn được sống thoải mái là chính mình, muốn thoát khỏi

những công việc nội trợ hàng ngày, giảm bớt thời gian chăm sóc chồng con để phấn đấu

có vị trí trong xã hội …

* Về kinh tế, lao động sản xuất:

- Trong lao động sản xuất, người phụ nữ là bạn của đàn ông, cùng bình đẳng

như đàn ông: Trên đồng cạn dưới đồng sâu – Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa…

- Những công việc mà người phụ nữ đảm nhiệm cũng vất vả, nặng nhọc và quan

trọng không kém đàn ông: đàn ông cày bừa, phụ nữ gieo mạ, cấy lúa; đàn ông săn bắt,

hái lượm, đàn bà gieo trồng, dệt vải, quay tơ…

- Trong gia đình, người phụ nữ giữ vai trò là người quản lý kinh tế, là người giữ

tay hòm chìa khóa: tính toán từng khoản chi tiêu cho hợp lý với thu nhập kinh tế của

gia đình; dành dụm, chắt bóp đề phòng những lúc khó khăn và còn tích lũy để lo và để

dành cho con cháu: đàn ông như cái giỏ, đàn bà như cái hom; Một trăm chìa khóa em

đeo – Việc giang san em gánh, sự đói nghèo mặc em…

* Về tín ngưỡng, tâm linh:

- Mặc dù không trực tiếp thực hiện các công việc giao tế với thần linh, với trời

đất, tổ tiên… Nhưng mọi cỗ bàn, hương hoa, cỗ mặn, cỗ chay dâng lên bàn thờ tổ tiên

đều có bàn tay chuẩn bị chu đáo của người phụ nữ.

Page 17: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Luật Hồng Đức còn quy định: con gái, cháu gái có quyền hương khói cha mẹ

trong trường hợp nhà không có con trai. Nếu con trai trưởng còn nhỏ, bà quả phụ có

quyền thay con tế tự tổ tiên.

Câu 6.

Làng được định nghĩa trên 3 khía cạnh chủ yếu, đó là:

+ Dân cư: Làng đơn vị sinh sống, làm việc, sinh hoạt văn hóa của chủ yếu những người

làm nghề nông nghiệp.

+ Vùng lãnh thổ: Làng có một vùng đất chung, có ranh giới rõ ràng.

+ Tổ chức xã hội: Làng có chung một tổ chức xã hội nhất định.

Làng là một đơn vị cộng cư của chủ yếu những người làm nghề nông nghiệp,

có một vùng đất chung xác định và có chung một tổ chức xã hội nông nghiệp.

Giải thích:

+ Làng là đơn vị cộng cư: Đơn vị cùng chung sống, cùng làm việc, cùng sinh

hoạt văn hóa của một cộng đồng dân cư. Vì thực tế ở làng ngoài bộ phận chính những

người làm nghề nông nghiệp, còn có một bộ phận dân cư sinh sống bằng các nghề

khác nữa như: làm gốm, làm mộc, làm nề, làm dệt, làm lụa, làm chiếu…

+ Vùng đất chung xác định, bao gồm: đất cư trú để người dân sinh sống; đất

trồng trọt, thâm canh, người ta có chung sở hữu về tài nguyên thiên nhiên như: nguồn

nước, ruộng đồng, sông ngòi, đê điều, bãi cỏ…

+ Làng có chung một tổ chức xã hội nông nghiệp vì cư dân sống chủ yếu ở làng

là cư dân nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu ở làng là nền kinh tế nông nghiệp. Và tổ

chức xã hội nông nghiệp ấy phải thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình, với

dòng họ.

Khái niệm này chủ yếu gắn với làng quê truyền thống ở Bắc Bộ và Bắc Trung

Bộ, với khoảng thời gian hình thành hàng nghìn năm; còn ở Nam Bộ chưa hẳn đã vậy.

+ Làng được hình thành, tổ chức dựa vào hai nguyên lý cơ bản:

- Nguyên lý cùng huyết thống:

- Nguyên lý cùng nơi chốn

Người trong làng đều có họ, đều có quan hệ máu mủ, huyết thống với nhau.

Nguyên lý cùng huyết thống này xuất hiện chủ yếu ở thời công xã thị tộc. Lúc đầu

làng là nơi ở của 1 họ, về sau có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó thường có 2-3

Page 18: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

dòng họ lớn. Có nhiều làng là nơi ở của một họ mà cho đến nay người ta vẫn còn tìm

thấy dấu vết qua hệ thống các tên gọi của làng như: Làng Đặng Xá, Ngô Xá, Nguyễn

Xá, Lê Xá… Vì thế dân gian có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã.

Khi công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện, các thành viên trong

làng còn gắn bó với nhau bằng quan hệ sản xuất để đối phó với môi trường tự nhiên,

môi trường xã hội. Vì thế, bên cạnh câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã còn có câu

Bán anh em xa mua láng giềng gần. Hai câu tục ngữ, hai cách ứng xử tưởng như mâu

thuẫn nhưng thực chất lại là một cách kết hợp độc đáo cùa làng Việt Nam.

Cơ cấu dân cư và tổ chức hành chính

- Kỳ mục (Hội đồng kỳ mục. Miền Nam gọi là Hội tề): Gồm Tiên chỉ, Thứ

chỉ… có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của làng xã. (cơ

quan lập pháp).

- Kỳ dịch (Lý dịch): Gồm Lý trưởng, xã trưởng, Hương trưởng, Trương tuần,

Cai lệ... Do Hội đồng kỳ mục cử ra, trực tiếp thi hành các quyết định của Kỳ mục, trực

tiếp tổ chức, quản lý đời sống của dân làng. (cơ quan hành pháp).

- Cộng đồng dân cư: Chiếm số lượng đông đảo nhất, góp phần tạo nên diện

mạo văn hoá của mỗi làng. Gồm có: Dân chính cư (dân gốc ở làng); Dân ngụ cư (dân

từ nơi khác đến trú ngụ).

Mối quan hệ giữa dân chính cư và dân ngụ cư: Dân ngụ cư luôn bị cái nhìn định

kiến của dân chính cư, bị xem thường, nghi ngờ về nhân cách. Họ bị đối xử bất công:

Phải sống ở rìa làng, phải làm tất cả các nghĩa vụ với làng nhưng không được hưởng

quyền lợi gì; muốn trở thành dân chính cư họ phải thoả mãn các điều kiện: phải cư trú

ở làng từ ba đời trở lên, phải có một ít điền sản, phải nộp lệ phí và khao làng.

Việc phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư cũng tạo nên đặc điểm của Làng

Việt và tính cách người Việt truyền thống: thích suốt đời gắn bó với quê cha đất tổ, sợ

rơi vào thân phận dân ngụ cư tạo nên tính chất khép kín, hạn chế sự phát triển của làng

xã; tạo nên tư tưởng bản vị, địa phương chủ nghĩa, tẩy chay người khác đến, tư tưởng

“ma cũ bắt nạt ma mới”…

Page 19: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Ngoài các tổ chức hành chính do Kỳ mục, Kỳ dịch điều hành, làng xã Việt

Nam xưa còn có các tổ chức ẩn tàng, do dân lập ra như: Giáp, Phường, Hội. Giáp: Tổ

chức nông thôn theo truyền thống nam giới, chỉ có đàn ông tham gia. Phường: Tổ

chức nông thôn theo nghề nghiệp. Hội: Liên kết những người cùng thú vui, đẳng cấp,

sở thích. Những tổ chức này, nếu hoạt động đúng sẽ có lợi cho người dân. Nhưng

cũng có nhiều trường hợp gây phiền hà cho dân cư, tạo nên nạn cường hào ác bá ở

thôn quê.

Chức năng của làng

Làng gồm nhiều chức năng. Ở đây, tập trung làm rõ hai chức năng

+ Sản xuất nông nghiệp

- Lãng xã Việt Nam chủ yếu sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước mang tính

chất tự cấp, tự túc, trình độ sản xuất thấp, nâng suất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào

thiên nhiên, thời tiết.

- Chính vì sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, trong đó cây lúa là chủ đạo, cho nên

vấn đề ruộng đất là vấn đề quan trọng nhất, là đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp

làng xã. Mâu thuẫn cơ bản ở làng xã là mâu thuẫn về ruộng đất. Vì thế, chức năng

kinh tế của làng được thể hiện rõ nét qua việc phân chia ruộng đất theo định kỳ và theo

lệ làng. Làng đứng ra phân chia ruộng đất theo định kỳ và theo lệ làng.

+ Quản lý đất đai

Cách quản lý và phân chia đất của làng xã rất đa dạng, làng nào quản lý đất của

làng đó. Trước khi phân chia ruộng đất, làng thường dành một phần đất công để dùng

vào việc công cộng. Số đất còn lại được phân chia theo nhiều loại người khác nhau

(gồm 3 hạng: nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng) để người dân cày cấy, hưởng hoa lợi và

nộp thuế. Đất ở làng cũng gồm nhiều loại khác nhau (như: Thượng đẳng điền, Trung

đẳng điền, Hạ đẳng điền). Việc phân chia đất phải diễn ra đồng đều, tốt – xấu cùng san

sẻ.

Ví dụ: Bộ luật Hồng Đức quy định 3 hoặc 5 năm chia đất 1 lần theo suất đinh, và

chỉ có con trai mới được chia đất.

Page 20: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Làng có vai trò bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ, quản lý tài nguyên của địa

phương. Điều này được thể hiện rõ qua hệ thống các hương ước của làng với những

quy định về thưởng - phạt rõ ràng.

+ Nghề thủ công nghiệp

- Ngoài ra, còn có một số làng nghề thủ công (người dân tranh thủ lúc nông

nhàn để làm nghề). Hệ thống các làng nghề nước ta khá phong phú, đa dạng. VD:

Làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Làng Đồ gỗ Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh),

Làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh), Làng Chiếu (Nga Sơn, Thanh Hoá).

Làng Lụa (Vạn Phúc, Hà Đông)… Một số làng nghề nổi tiếng, một số làng nghề mai

một theo thời gian, một số làng nghề có khuynh hướng tiến ra đô thị để lập nghiệp, sản

xuất, buôn bán các mặt hàng thủ công.

- Nói về chức năng kinh tế của làng, chúng ta cần chú ý một hiện tượng đáng

đặc biệt, đó là: Các phiên chợ quê.

+ Chợ quê chủ yếu buôn bán các mặt hàng nông sản, hoạt động buôn bán diễn

ra khiêm tốn, chưa đủ mạnh để biến thành hoạt động thương mại.

+ Chợ quê thể hiện rõ chức năng văn hoá của làng, đặc biệt là qua các phiên chợ

tết. Chợ không chỉ diễn ra hoạt động mua bán mà còn chứa đựng tình làng nghĩa xóm.

Nếu như không gian hàng ngày ở các làng quê là không gian khép kín, thì chợ chính là

không gian mở, là nơi tiếp thu, kiểm chứng và phát tán các giá trị văn hóa. Đặc biệt rõ

nét qua các phiên chợ tết, bày bán các mặt hàng đặc trưng của mỗi vùng và bày bán

các vật phẩm văn hoá: cho chữ, bán chữ, bán câu đối, tranh dân gian. Đến chợ người

dân còn có thể được tham gia vào các trò chơi như đánh đu, chọi gà, đấu vật, cuối mỗi

buổi chợ có khi còn có các cuộc hát giao duyên…

- Chức năng tâm linh của làng:

+ Xem xét chức năng tâm linh của làng tức là muốn nói đến các hoạt động tâm

linh của cộng đồng làng mà bất cứ người dân nào cũng hướng tới và tự nguyện tham

gia nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của họ.

+ Biểu hiện tiêu biểu nhất của chức năng tâm linh này là tín ngưỡng thờ thần

thành hoàng làng. Tục này do tiếp nhận từ văn hoá Trung Hoa. Những nhân vật được

Page 21: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

cộng đồng làng suy tôn bao gồm: Những bậc anh hùng, dũng tướng trong huyền thoại,

truyền thuyết và trong lịch sử; những người có công lập làng hoặc các vị tổ nghề;

những người làm nghề hèn mọn như ăn xin ăn mày, hoặc ăn trộm ăn cướp bị chết vào

giờ linh cũng được dân làng suy tôn là thần. Hoạt động thờ thần diễn ra ở đình làng.

Trước kia đình làng mang tinh thần dân chủ làng xã khá đậm đà, sau này chịu ảnh

hưởng của Nho giáo (nhất là từ thế kỷ XV khi Nho giáo trở thành quốc giáo) thì việc

thờ thành hoàng đã bị thể thức hoá theo tinh thần Nho giáo rất đậm. Vào đời Lê Trung

hưng, 1.572, nhà vua đã giao cho viên đại thần Nguyễn Bính tiến hành san định, kê

cứu, phân loại và ban sắc phong cho các đình làng trên cả nước. Tương ứng với 3 loại

thần kể trên, trong các sắc phong được gọi là Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và

Hạ đẳng thần, cùng với các quy định về tế lễ rất nghiêm ngặt. Điều đó cho thấy tinh

thần Nho giáo đã can thiệp rất sâu vào đình làng. Đình làng từ bấy trở đi là nơi hiện

thân cho thần quyền và cường quyền của chốn thôn quê. Bao nhiêu tội ác, bao nhiêu

cảnh đời thê thảm diễn ra ở nơi đình làng (Xem thêm những tác phẩm như Tắt đèn,

Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố)

- Không gian văn hoá làng Việt

*** Không gian vật chất :

+ Ngoài làng có đồng ruộng (môi trường lao động sản xuất)

+ Cổng làng

+ Đường làng, ngõ xóm, cây đa giếng nước (bến nước), sân đình.

Những không gian vật chất của làng đã trở thành biểu tượng đậm nét văn hoá,

không gian vật chất này đã là điểm tựa vật chất cho văn hoá phi vật thể của làng phát

triển, nhiều loại hình nghệ thuật dân gian có giá trị đã xuất hiện trong không gian này

*** Không gian văn hoá tinh thần:

Ngoài không gian đình làng, trong mỗi làng còn có những nơi thờ cúng khác ở

các miếu, am, điếm (chưa kể đền thờ thánh hoặc chùa thờ Phật có làng có, có làng

không). Những nơi thờ tế đó chủ yếu nhằm vào các thần thánh dân gian, do quan niệm

đa thần giáo mà thành. Ví dụ thờ thần sông, thần núi, thần cây đa, thần trăn tinh, thần

hổ, thờ người chết trôi...

Page 22: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Biểu hiện rõ nhất là làng đã tạo ra cảm quan tinh thần phong phú, giầu tình

cảm, mang đậm tính nhân văn.

+ Làng là nơi tiếp nhận kiểm chứng sự tồn tại của các ý thức hệ, các quan điểm ,

quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan, tôn giáo, tín ngưỡng.

- Hai đặc trưng tổng quát của làng Việt truyền thống: tính cộng đồng và tính tự

trị tự quản.

+ Trước hết nói về tính cộng đồng, nó được thể hiện qua tính cộng cư, cộng

cảm, cộng mệnh, cộng sản (cùng chung một số tài sản như công điền công thổ, công

quỹ...). Nó có những mặt tích cực như tinh thần tương thân tương ái, tinh thần đoàn

kết gắn bó, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng. Nhất là trong những lúc lâm

nguy, tinh thần cộng đồng phát huy cao độ sức mạnh của nó. Tuy nhiên, cũng phải

thấy những biểu hiện cực đoan của nó như: Tư tưởng bình quân chủ nghĩa, cào bằng,

“Hoà cả làng”; tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại, thiếu trách nhiệm cá nhân, “Cha chung không

ai khóc”; tư tưởng bầy đàn, a dua, ăn theo nói leo, không dám sống đúng là mình,...

+ Tính tự trị tự quản trước hết được biểu hiện bằng hình thức hương ước của

làng do những chức sắc và những người đàn ông trong làng bàn soạn. Nội dung hương

ước tuy mỗi làng có những điểm khác biệt, nhưng tựu trung lại bao gồm mấy nội dung

sau:

1. Những điều khoản quy định về sản xuất, kinh tế liên quan đến ruộng đất, sức

kéo trâu bò, đường xá...;

2. Những điều khoản về phong hoá, đạo lý;

3. Những điều khoản về an ninh;

4. Những điều khoản về tế tự;

5. Cuối cùng là những điều khoản về học hành khoa cử.

Tất cả những điều đó đều có thưởng phạt cụ thể. Hương ước là luật tục của mỗi

làng, có ý nghĩa điều hành cuộc sống của dân làng. Nó thể hiện những nét văn hoá

riêng của mỗi làng.

Page 23: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Tính tự trị tự quản mang ý nghĩa tích cực khi nó góp phần củng cố tình cảm,

sức mạnh cộng đồng làng, tạo nên những nét văn hoá đặc sắc của mỗi làng. Song

những biểu hiện cực đoan của nó là khó tránh khỏi như: Sống theo lệ mà không sống

theo luật, “Phép vua thua lệ làng”; tư tưởng cục bộ bản vị, địa phương chủ nghĩa, lòng

tự tôn thái quá trở thành tự thị... Ngày hôm nay, cái tâm lý sống theo lệ thâm căn cố đế

này đã tác động và cản trở rất nhiều tới cuộc sống hiện đại.

Câu 7.

- Thành Hoàng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt họa phúc cho một cộng đồng

người sống trong một đơn vị hành chính. Thành Hoàng là một từ Hán Việt, vốn là một

từ chỉ vị thần bảo hộ thành trì của Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ thời

Đường và tiếp tục phát triển trong các triều đại VN.

- Biểu hiện rõ nhất, tiêu biểu nhất là tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Thành

hoàng làng chỉ chung một vị thần được thờ trong một làng xã Việt Nam, mà theo quan

niệm của người dân, thần có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng

và quyết định hoạ phúc của một làng.

- Những nhân vật được cộng đồng làng suy tôn là Thành hoàng làng bao gồm:

anh hùng dân tộc (trong thần thoại, truyền thuyết, lịch sử), ví dụ: Đổng Thiên Vương,

Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh công chúa, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…; những

người khai hoang lập ấp, những người có công với làng, với đất nước, với triều

đìnhphong kiến, những người được tôn vinh là tổ nghề; hoặc có khi là những người

làm nghề hèn mọn, vô danh những chết vào giờ linh, giờ thiêng thì cũng được suy tôn

là Thành hoàng làng. Thành hoàng làng thậm chí còn bao gồm cả những thần có

nguồn gốc phức tạp như: tà thần, yêu thần, dân thần….

- Thành hoàng làng thường được thờ cúng ở đình làng - trung tâm hành chính,

trung tâm văn hoá, trung tâm tín ngưỡng của cả làng, hoặc thờ ở đình miếu. Hàng

năm, ngày giỗ Thành hoàng làng là ngày hội đông vui nhất của làng, của xã. Trong

những ngày hội làng, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn diễn ra các nghi thức khác như:

tế lễ, rước kiệu hay các trò vui dân gian… Bàn thờ Thành hoàng làng bao giờ cũng

Page 24: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

được đặt trang trọng, linh thiêng, trên bệ thờ thường có lư hương, đèn, lọ hoa và trên

vách có một chữ Thần bằng chữ Hán. Có nơi thờ áo mũ của thành hoàng. Hai bên có

Tả Ban, Hữu Ban...

Thành Hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục đạo đức, pháp luật cũng hy

vọng của cả làng. Thờ Thành hoàng làng, cũng chính là sự thờ phụng luật lệ làng xã,

lề thói gia phong của làng, thờ Thành hoàng làng để bảo vệ và phát triển cộng đồng

làng, để xóm làng phát triển thành một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ. Dân làng đối

với thành hoàng cũng kính cẩn như con cháu đối với tổ tiên vậy.

Câu 8.

1. Tính cộng đồng:

- Là đặc trưng số một của làng truyền thống Việt Nam. Cuộc sống nông nghiệp

phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy người dân phải liên kết với nhau, dưa vào nhau mà

sống. Chính điều đó đã tạo nên tính cộng đồng.

- Biểu hiện của tính cộng đồng

Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, tạo nên những tính cách tốt đẹp

của người Việt Nam.

+ Luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ nhau, coi mọi người như anh em trong

nhà: Lá lành đùm lá rách; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người như thể

thương thân…

VD: Một người đi xa lâu ngày trở về làng, cả làng đến hỏi thăm; có ấm nước

chè tươi, ngon, cả làng đến uống; một người lên đường nhập ngũ, cả làng đến hỏi

thăm, chia tay, động viên…

+ Tạo nên tính tập thể cao, mang đến sức mạnh to lớn cho dân tộc, đặc

biệt là trong những trường hợp cần thiết như chống thiên tai, lũ lụt, chống giặc ngoại

xâm...

+ Ý thức cá nhân bị thủ tiêu, hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải

quyết xung đột theo lối “hoà cả làng” (khác phương Tây: Con người được rèn luyện ý

thức cá nhân ngay từ nhỏ).

Page 25: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, tư tưởng an phận thủ thường, cả

nể, làm việc gì cũng sợ rút dây động rừng: Nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì bèo nổi;

Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa… Những hệ luỵ này vẫn

còn ảnh hưởng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hôm nay.

Ví dụ: Việc sử dụng các thiết bị cơ sở vật chất chung như: điện, điện thoại, máy

tính… ở một số người còn bừa bãi, thiếu ý thức tiết kiệm.

+ Thói cào bằng, đố kị (không muốn cho ai hơn mình, muốn để cho tất cả

đều đồng nhất giống nhau): Xấu đều hơn tốt lỏi; Chết một đống hơn sống một người…

2. Tính tự trị, tự quản

- Tính cộng đồng nhấn mạnh vào cái chung thì tính tự trị nhấn mạnh vào nét

khác biệt của cộng đồng làng này so với cộng đồng làng kia. Mỗi làng có thể coi như

một “vương quốc” nhỏ khép kín với những tập quán riêng biệt.

- Biểu hiện :

- Tính tự trị được biểu hiện qua các hương ước của làng. Hương ước do những

người có chức sắc và những người đàn ông trong làng bàn soạn để rang buộc từng cá

nhân vào cộng đồng làng xã. Hương ước quy định một số nhiệm vụ và điều cấm đoán

mà mọi người dân phải tuân thủ, như: quy định về sản xuất, về kinh tế, về phong hóa,

địa lý, về an ninh, tế tự, về học hành khoa cử… Tất cả những điều này đều có thưởng

phạt cụ thể. Hương ước có tác dụng điều hành cuộc sống của dân làng. Nhưng cũng

không ít trường hợp những điều lệ của hương ước lại chỉ phục vụ cho quyền lợi của

giai cấp thống trị.

- Ý nghĩa:

+ Tạo nên nét riêng, mang bản sắc văn hoá của mỗi làng. Có khi hai làng

ở gần nhau nhưng lại không hề giống nhau.

+ Tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng, nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng,

mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc; mỗi làng, mỗi nhà có thể tự đáp ứng lấy nhu

Page 26: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

cầu cuộc sống của mình. Vì thế người Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu thương

chịu khó, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời…

- Mặt trái của tính tự trị, tự quản:

+ Tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, làng nào biết làng ấy, chỉ biết lo

vun vén cho địa phương mình: Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy

thờ… Đặc điểm này còn lan truyền đến cả tính cách của mỗi cá nhân: ích kỷ, khôn lỏi,

chỉ biết nghĩ đến mình, cho được việc mình: Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy

liệu; Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu..

+Lòng tự tôn thái quá nhiều khi trở thành tự thị, gia trưởng, áp đặt ý muốn

của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: Sống lâu lên lão làng; Áo

mặc không qua khỏi đầu…

- Hai đặc trưng đối lập, trái ngược này dẫn đến sự hình thành tính cách nước đôi

của người Việt:

+ Vừa có tinh thần đoàn kết, vừa có tư tưởng tư hữu, ích kỷ

+ Vừa có tinh thần tập thể, vừa có óc bè phái, địa phương

+ Vừa có nếp sống dân chủ, bình đẳng, vừa có óc gia trưởng

+ Vừa có đức tính cần cù, vừa có thói dựa dẫm, ỉ lại…

Câu 9.

Tín ngưỡng người Việt:

Đặc điểm tín ngưỡng của người Việt

* Tín ngưỡng của Việt Nam có những đặc điểm chính như sau:

- Tín ngưỡng của người Việt là tín ngưỡng đa thần giáo

- Nhận thức và nhân sinh quan của người Việt là vạn vật hữu linh Nhìn

mọi sự vật hiện tượng đều có linh hồn của nó.

Người Việt nhìn đâu cũng ra không gian riêng thời gian riêng, con người

thiêng.

- Các tín ngưỡng đều có sự giao thoa và tiếp biến trong nhau

Page 27: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Các tín ngưỡng còn có sự tiếp biến với tôn giáo ngoại lai. Thờ Mẫu tiếp biến với Phật

giáo, đạo giáo

* Tín ngưỡng Việt Nam giống như các thành tố khác của văn hóa Việt Nam

đều mang những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp:

+ Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên: tín ngưỡng sùng bái tự nhiên

+ Hài hòa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời-Đất, Tiên-Rồng,

ông đồng-bà đồng,...

+ Đề cao phụ nữ: thể hiện ở rất nhiều nữ thần

+ Tính tổng hợp, linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần như

trong nhiều tôn giáo khác. Các tín ngưỡng còn có sự tiếp biến với tôn giáo ngoại lai.

Thờ Mẫu tiếp biến với Phật giáo, đạo giáo

Đối với người Việt, có một số tín ngưỡng tiêu biểu như tục thờ một số hiện

tượng tự nhiên, một số loài thực vật, động vật; tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ

và suy tôn con người như: Tổ tiên nhà, tổ tiên làng (Thành hoàng làng), tổ tiên nước

(các vua Hùng), các hình tượng Mẫu... Vì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình,

dòng tộc, cộng đồng (làng, nước) đã được trình bày ở phần Các đơn vị trong cơ cấu xã

hội người Việt, nên trong phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số tín ngưỡng sau:

- Tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên, một số loài thực vật, động vật:

+ Từ xa xưa người Việt cổ đã thờ thần Mặt trời- vị thần làm ra ánh sáng, hơi

ấm, làm ra mưa thuận gió hoà- phù trợ cho cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng

lúa nước. Biểu hiện sống động nhất là hình mặt trời trên mặt trống đồng Đông Sơn.

+Tín ngưỡng thờ đá : Có từ rất sớm, thời nguyên thủy với con người đá là vật

liệu cứng nhất có thể làm công cụ sản xuất và vũ khí đá được tôn sung và thờ

phụng.

Đá còn cho lửa để nấu chín thức ăn, cải tạo đời sống.

Có thể nói rằng, đá là chất liệu đầu tiên, gắn với bước chân chập chững của con

người từ xã hội nguyên thủy sang xã hội văn minh. Thời đại đồ đá trải dài nhất trong

lịch sử loại người (khoảng vài triệu đến tám vạn năm trước công nguyên). Với một

khoảng thời gian lớn như thế, thì ấn tượng về đá trong con người chắc hẳn phải rất sâu

sắc. Trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại, con người từ khi sinh ra đến khi chết

Page 28: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

đi đều gắn với hang (đá), đá tạo nên công cụ sản xuất, đá tạo ra lửa… Nói chung, đá

tham gia vào mọi hoạt động sinh hoạt, lao động của con người. Sự gắn bó của con

người với đá trong xã hội nguyên thủy, khi thuyết vật linh tồn tại phổ biến thì người ta

thấy rằng: giữa đá và linh hồn con người có mối liên quan chặt chẽ. Đá cũng là sự

sống, cũng có phần hồn, phần xác như con người và đá có thể là nơi trú ngụ cho linh

hồn con người, cũng như trong thực tế, thân xác con người sống trong đá (hang), và

chết có khi cũng nằm trong đá (chum đá của các dân tộc ở Lào, quan tài chèn đá của

người Mường…). Quan niệm đó được huyền thoại hoá thành các câu chuyện ở nhiều

dân tộc. “Trong truyền thuyết, đá chiếm một vị trí trang trọng. Giữa linh hồn con

người và đá có mối liên quan chặt chẽ. Theo huyền thoại về Prômêtê, ông tổ loài

người, có các loại đá vẫn giữ được hơi người”

Đặc điểm cơ bản của đá là cứng rắn và con người có thể lợi dụng, tạo ra hiệu

quả trong lao động. Từ đó, con người thấy rằng mình có thể dựa vào tính cứng rắn 

của đá. Tính cứng rắn được hiểu là có một vị thần ở trong đá tạo ra. Vị thần Đá phản

ánh nhận thức của con người về sự vật luôn có tính hai mặt là vật chất và linh hồn.

Trong đó linh hồn mới là cái bất diệt, và chính nó tạo ra sự cứng rắn của đá. Cho nên,

đối với người xưa, các công cụ bằng đá không chỉ đơn thuần là công cụ lao động, mà

chúng còn có ý nghĩa ma thuật. Những công cụ bằng đá mà họ luôn mang bên mình là

vật để trừ tà, để tránh ma quỷ không làm hại.

Mặt khác, đá lại là đặc trưng cơ bản của núi (núi đá), mà núi là chốn linh thiêng,

là nơi thông linh giữa trời và đất. Cho nên, đá có thể là phương tiện để truyền đạt

mong muốn của con người với các thế lực siêu nhiên khác. Con người đã biết dùng đá

vào các hành động mang tính chất ma thuật của họ để đạt được mục đích cầu mùa,

mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi và gia đình sung túc…

+ Ngoài ra còn những hình tượng thần được đồng nhất với các hiện tượng tự

nhiên như mây, mưa, sấm chớp, gió, sông, biển, núi non...Bốn vị thần nông nghiệp tối

cổ của cư dân đồng bằng Bắc Bộ là thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp sau này

được hỗn dung với Phật giáo được gọi là tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp

Điện (dân gian gọi là Bà Dâu, Bà Tướng, Bà Đậu, Bà Giàn).

+ Thờ Thần nước :Là một trong những tín ngưỡng cổ xưa của người Việt. Nhìn

từ quá khứ chúng ta sẽ thấy sự di chuyển của người Việt từ miền núi qua vùng châu

Page 29: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

thổ tới biển là một quy luật tất yếu. Chính tại quá trình di chuyển này, người Việt đã

lựa chọn cây lúa nước làm nguồn cung cấp lương thực chủ đạo, thay thế cho cây lúa

nương có năng suất rất thấp. Yếu tố nước vốn đã rất cần thiết trong đời sống con

người càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng sau sự lựa chọn đó.

Nhưng ở vùng châu thổ thấp, người Việt phải đối mặt với nạn lụt lội. Vì thế,

một hệ quả tất yếu được đặt ra đối với người Việt khi khai thác châu thổ thấp là phải

nghĩ tới việc trị thuỷ và thuỷ lợi. Yếu tố nước, với tính chất hai mặt và khó có thể

khống chế đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong tâm thức người Việt. Các lễ hội

phản ánh tục thờ nước của người Việt ven sông Hồng vùng Hà Nội vì vậy mà chủ

yếu xoay quanh hai nhóm chính: nhóm lễ hội mang ý nghĩa cầu nước và nhóm lễ hội

thể hiện khát vọng trị thuỷ

Ngày nay vẫn còn thấy rõ nét ở các ngôi làng cổ Bắc Ninh. Theo các nhà nghiên

cứu thì Bắc Ninh là vùng nông nghiệp phát triển sớm vì điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Nông nghiệp lúa nước phát triển thì nước rất cần để tưới tiêu đồng ruộng nhưng có

những năm hạn hán lại liên tiếp xảy ra, mùa màng thất bát, có những năm lại mưa lũ,

đồng ruộng lại ngập úng tất cả đều do nước. Vì thế mà người dân nơi đây sớm có tục

thờ Thần nước để cầu khấn Thần cho nước dưới sông hiền hòa không gây lũ lụt,

nước trên trời rơi xuống đúng lúc để người dân có thể canh tác trên đồng được thuận

lợi.

+ Ngoài ra còn có tín ngưỡng thờ cây, thờ thần Lúa

Đó là tục thờ thần đã giúp dân làng thu được nhiều thóc gạo. Hàng năm sau khi

thu hoạch người dân thường tổ chức lễ tạ thần lúa. Trong các gia đình người Dao còn

có tục cúng thóc giống. Khi cúng không cho ai vào nhà, vì sợ hồn lúa sẽ theo người đó

đến gia đình khác. Tôn vinh cây lúa là tín ngưỡng của nền văn minh lúa nước Việt

Nam.

+ Ngoài việc thờ cây người Việt cũng thờ một số loài động vật. Tiêu biểu nhất

là tín ngưỡng thờ con Rồng. Hình ảnh con Rồng là một hình ảnh biểu trưng, ước lệ

được cấu thành từ 3 con vật có thật trong đời sống tự nhiên: Rắn nước, cá sấu và loài

chim sống ở vùng sông nước. Cho nên Rồng vừa mang đặc tính của loài sống dưới

nước biết bơi, lặn, vừa vừa mang đặc tính của loài chim, biết bay lượn trên trời.

Page 30: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Điều đáng lưu ý là trong văn hoá Việt Nam truyền thống có hai hình ảnh con

Rồng: Một, con Rồng của tâm thức dân gian- nằm trong cặp đôi hình ảnh Rồng-Tiên

(Lạc Long Quân và Âu Cơ) cắt nghĩa về nguồn gốc dân tộc. Hai, con Rồng của văn

hoá Nho giáo Trung Hoa, biểu trưng cho quyền uy của các bậc Đế vương. Có người

cho rằng văn hoá Trung Hoa đã tiếp nhận hình ảnh con Rồng phương Nam này rồi

Nho giáo hoá nó, đến lượt, nó lại đi vào văn hoá phong kiến Việt Nam. Các nhà vua

Việt Nam từ triều Lý trở đi cũng đã coi con Rồng chính là hiện thân cho uy quyền tối

thượng của mình. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu về mỹ thuật, thì hình ảnh con

Rồng nhà Lý đi qua các triều đại Trần, Lê, Nguyễn có biến đổi về hình dáng và thần

sắc, phản ánh trạng thái xã hội và vai trò của Nho giáo trong xã hội. Từ chỗ ban đầu là

thân dài, mềm mại, hiền lành, sang trọng (có lông vũ, chỏm tóc, miệng ngậm viên

ngọc sang quý), bay bổng của nhà Lý, Trần, đến chỗ thân to khoẻ, mạnh mẽ, quyền uy

(có móng quặp, sừng) của nhà Lê, cuối cùng là thân ngắn, mập mạp, thần khí dữ tợn,

đe nẹt của nhà Nguyễn.

+ Ngoài ra, nhân dân miền duyên hải thờ cá Ông (cá voi cứu người bị nạn trên

biển), đồng bào Nam Bộ thờ Ông cả Cọp (con hổ)...

- Tín ngưỡng phồn thực (Phồn: nhiều, thực: sinh sôi):

Đây là một tín ngưỡng phổ biến vùng Đông Nam Á, tuy nhiên mỗi dân tộc có

những biểu hiện khác nhau. ở Việt Nam, nó được biểu hiện bằng hai hình thức: Thờ

các hình ảnh sinh thực khí và tôn vinh hành vi tính giao. Nó hóa thân vào trong các trò

chơi, trong tập tục, điêu khắc, văn chương...Khi đi vào văn hoá Chăm Pa, nó hỗn dung

với tôn giáo, thể hiện bằng hai hình tượng điêu khắc Linga và Yoni- biểu trưng cho

đấng sáng tạo, sinh sôi sự sống. ý nghĩa văn hoá của tín ngưỡng này là ở chỗ: Thể hiện

ước nguyện chính đáng và xác thực của những cư dân nông nghiệp cổ cầu cho mùa

màng bội thu, con người và vật nuôi sinh sôi nảy nở, khoẻ mạnh; tự nó mang tinh thần

nhân văn sâu sắc, thể hiện sức sống, niềm lạc quan của con người.

- Tín ngưỡng thờ Mẫu

Thực ra, trong văn hoá Việt Nam truyền thống, tín ngưỡng thờ Mẫu không đồng

nhất với tín ngưỡng thờ thần nữ. Tục thờ thần nữ đã có mặt ở Việt Nam từ rất xa xưa

với rất nhiều hình ảnh thuộc Nhiên thần và Nhân thần. Thí dụ như thờ Mẹ Âu Cơ- một

Page 31: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

hình tượng người Mẹ sinh ra con Rồng cháu Tiên trong huyền thoại Lạc Long Quân

và Âu Cơ nhằm giải thích nguồn gốc dân tộc. Hay như việc thờ Bà Dâu, Bà Tướng, Bà

Đậu, Bà Giàn (tên chữ là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) - vốn là những

Nhiên thần ( thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp) phù trợ cho cuộc sống của

những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hai tác giả Đỗ Thị

Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc trong cuốn Các Nữ thần Việt Nam bước đầu miêu tả 75

nữ thần. Còn trong tài liệu Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam của Viện Hán Nôm cho

biết trong số 1.000 di tích có tới 250 di tích thờ cúng các Nữ thần. Nói tới Nữ thần là

bao gồm cả Nhiên thần và Nhân thần. Nhiên thần bao gồm những vị thần hiện thân

cho các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, nước, núi, sông, mặt trăng, mặt

trời... Hầu hết các vị thần này được dân gian gọi là Bà. Còn Nhân thần bao gồm những

vị nữ thần trong huyền thoại và trong lịch sử như Mẹ Âu Cơ, mẹ Gióng, Hai Bà Trưng

và các nữ tướng của Bà, Bà Triệu, Nguyên Phi ỷ Lan, các Hoàng hậu và công chúa

của các đời vua, các bà tổ nghề...Tất cả được nhân dân tôn vinh là Thần, Tiên, Thánh

hết. Nhưng trong đó chỉ có một số nhất định mới được tôn vinh là Mẫu mà thôi. Tín

ngưỡng (hay còn gọi là Đạo) thờ Mẫu ra đời từ đó.

Như vậy có thể nói ngay rằng tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ một thứ tín

ngưỡng phổ quát rộng hơn là thờ thần nữ, thờ tính Nữ mà mức độ cao nhất của nó là

tính Mẫu- tính Mẹ. Các nhà nghiên cứu văn hoá cho rằng có một nguyên lý bao trùm

chi phối toàn bộ cấu trúc văn hoá Việt Nam đó là nguyên lý Mẹ- nguyên lý Mẫu tính.

Rất nhiều những biểu hiện sinh động chứng minh cho nguyên lý này. Thí dụ như việc

đặt tên đất, tên làng, tên núi, tên sông hễ cứ có tên người Nam là phải có tên người Nữ

(Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm...). Nhà nghiên cứu văn hoá Trần Ngọc

Thêm còn cho rằng việc tôn vinh tính Nữ trong văn hoá Việt Nam còn thể hiện ngay

trong lĩnh vực từ vựng: Ví dụ như từ Cái (trong cặp đối lập Đực- Cái) là một từ cổ,

nhằm để chỉ Mẹ, biểu hiện trong câu: Con dại cái mang. Về sau nó mang tính khái

quát nhằm để chỉ tất cả những hiện tượng to lớn, có khả năng dung chứa, sinh sôi, che

chở như: Sông Cái, đũa cái, đường cái, nhà cái, ngón cái, trống cái...

Hay như việc thờ Phật. Phật Quan Âm ở quê hương ấn Độ là Phật Ông. Sang

đến Việt Nam được Mẫu tính hoá trở thành Quan Âm Thánh Mẫu. Trên điện thờ Phật

Page 32: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

ở Việt Nam, dân gian lại sáng tạo thêm khá nhiều các hình tượng Phật Bà: Bốn Bà Tứ

Pháp kể trên (vốn là Nhiên thần sau hỗn dung với Phật giáo mà thành tên gọi như

vậy), Man Nương, Phật Bà Nam Hải, Phật Bà nghìn tay nghìn mắt, thậm chí cả Thị

Kính nữa... Tính Mẹ hay tính Mẫu (Mẫu tính) thể hiện ở sự sinh sôi, chở che, nuôi

dưỡng và lưu giữ. Nó chính là lòng bao dung (đức tính khoan dung), nhân từ, hiền

hoà. Với tư cách là một dân tộc, nó là khát vọng hoà bình, là lòng độ lượng, vị tha,

chăm lo cho tất thảy mọi người, thậm chí ngay cả với kẻ thù khi chúng thua trận. Tín

ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ đó. Nó là kết tinh cao nhất của tâm thức đề cao người

nữ, tính nữ trong văn hoá Việt Nam. Nó không thể có được trong một nền văn hoá đề

cao chế độ phụ quyền gia trưởng theo tư tưỏng Nho giáo như ở Trung Hoa chẳng hạn.

Việc tôn xưng là Mẫu như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu thường tập

trung trong mấy trường hợp như sau: Thứ nhất là các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ

Mẫu Tứ phủ như Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa,

Mẫu Thoải; ở miền Trung Nam Bộ có Thánh Mẫu Thiên Ya Na, ở Tây Ninh tại núi Bà

Đen có Linh Sơn Thánh Mẫu, ở Nam Bộ có Bà Chúa Xứ tuy không được gọi là Mẫu

nhưng thực ra trong tâm thức của những người dân Nam Bộ, Bà cũng trong tư cách là

Bà Mẹ Xứ Sở... Thứ hai, các thái hậu, hoàng hậu, công chúa có công với dân với

nước, khi mất hiển linh, được suy tôn là Quốc Mẫu, Thánh Mẫu. Ví dụ như Quốc Mẫu

ỷ Lan ở đền Bà Tấm thuộc Gia Lâm- Hà Nội, Thánh Mẫu ở đền Cao Mại thuộc

Phong Châu- Phú Thọ vốn là con gái vua Hùng... Ngoài ra, còn một vài trường hợp

khác nữa như mẹ Gióng trong truyền thuyết cũng được gọi là Vương Mẫu, đựợc lập

đền thờ cạnh Đền Gióng; hoặc mẹ của thần Tản Viên cũng được tôn là Quốc Mẫu, vốn

là Nữ thần Tam Đảo, được lập đền thờ ở Tam Dương- Vĩnh Phúc...

- Trong số các hình tượng Mẫu, tiêu biểu nhất là Tam toà Thánh Mẫu (có

khi còn gọi là Mẫu Tứ Phủ), mà đứng đầu là Mẫu Liễu Hạnh có bề dày thời gian dài

nhất và độ phủ không gian lớn nhất, phân bố khắp miền Bắc, vào đến tận Huế và cả ở

phía nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng bản địa. Bắt nguồn từ Miền Bắc vào đến

miền Nam hoà nhập Mẫu với các nữ thần trong tín ngưỡng địa phương. Tuy nhiên khi

nó kết hợp với những tín ngưỡng khác trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo đặc biệt là

tín ngưỡng thờ Thánh, Thần, Phật, tín ngưỡng thờ nước, thờ cây của nông nghiệp đã

Page 33: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

tạo nên một tín ngưỡng thờ Mẫu phong phú và mang ý nghĩa cội nguồn sâu sắc. Từ

ngàn xưa tới nay, dân tộc Việt Nam luôn dành cho phụ nữ một tình cảm đặc biệt. Ở đó

có cả lòng biết ơn kính trọng và niềm tự hào sâu sắc. Trong thời chiến thì “ giặc đến

nhà đàn bà cũng đánh”. Trong thời bình thì “ giỏi việc nước đảm việc nhà”. Phụ nữ là

hiện thân của lòng bao dung, sự dịu dàng, lo toan vun vén cho cuộc sống. Đạo Mẫu là

một trong những vẻ đẹp cao nhất của văn hoá Việt Nam.

+ Miền Bắc

* Thờ Mẫu Liễu Hạnh: Theo quan niệm của người dân xứ Bắc hình tượng

Mẫu Liễu Hạnh được kết hợp từ Tiên - Phật - Mẫu - Thần.

* Thờ tứ bà hay còn gọi là tứ pháp

Bà mây, bà mưa, bà sấm , bà chớp. Được gọi là Pháp vân Pháp Vũ, Pháp lôi,

Pháp Điện.

+ Miền Trung

* Thờ Poinưnaga

* Thờ Thiên Yana

Po = thần ;I nư = mẹ; Naga = xứ sở quê hương. Trong quan niệm của người

Chăm, bà là người sáng lập nên vương quốc Chăm- pa và còn là hiện thân cuả tín

ngưỡng phồn thực. Bà còn là người dạy dân Chăm - pa cấy cày, dệt vải, là nguồn vui

của cư dân Chăm-pa

Thiên Thiên Yana thánh mẫu đựơc coi là Mẹ chung của các dân tộc cùng cộng

cư trên vùng đất Trung Bộ. Ở Nha Trang gọi là chúa Ngọc, ở Huế gọi là Chúa Tiên. Ở

Nha Trang người ta xây tháp cao tôn thờ bà. ở Huế có điện Hòn Chén ở phia Tây kinh

thành. Điện Hòn Chén không những là một di tích thắng cảnh nổi tiếng, mà còn là một

địa danh văn hoá, nơi người dân lưu giữ và thể hiện chiều sâu tâm linh qua các hình

thức sinh hoạt và lễ hội tín ngưỡng của mình.

+ Miền Nam

* Thờ bà chúa Xứ ở núi Sam - ngọn núi ở Châu Đốc - An Giang. Núi có hình

con Sam.

Trong tâm thức của người dân Nam Bộ bà chúa Xứ tuy không gọi là thánh

Mẫu nhưng bà là Mẹ của xứ sở quê hương, thể hiện lòng yêu thương chở che và bao

dung.

Page 34: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Tín ngưỡng này quan niệm vũ trụ chia làm ba phủ : Thiên phủ (miền trời), Địa

phủ (miền đất), Thoải phủ (thuỷ phủ, miền sông nước), sau này còn thêm một phủ nữa

là Nhạc phủ (miền rừng, thượng ngàn). Và tương ứng mỗi phủ là có một Thánh Mẫu

đứng đầu cai quản: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu), Mẫu Thoải,

Mẫu Thượng Ngàn. Dưới hàng Mẫu là các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô,

Cậu...có nhiệm vụ giúp đỡ Mẫu trong việc cai quản các phủ. Trong số các Mẫu này thì

Mẫu Liễu Hạnh được hợp nhất vào Mẫu Thượng Thiên trở thành vị Thần chủ, quyền

uy tối cao, toạ ở giữa điện, mặc áo đỏ.

Lại nói về Mẫu Liễu Hạnh. Có rất nhiều truyền thuyết về lai lịch và hành trạng

của Mẫu Liễu, nhưng tạm bằng lòng với vài nét phác thảo chung nhất: Nàng vốn là

người trên Thiên cung, Thượng Đế chiều lòng cho phép giáng trần. Nàng có tài văn

thơ đàn nhạc, đi mây về gió. Nàng gieo phúc cho người lành và giáng hoạ đối với

người ác độc. Dân gian một lòng tôn kính, nâng lên hàng “Mẫu nghi thiên hạ”, thắp

hương cầu nguyện Thánh Mẫu phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ. Đền thờ

chính ở Phủ Giày thuộc Vân Hương, Vân Cát (Vụ Bản- Nam Định), nơi tương truyền

Liễu Hạnh giáng trần, sinh sống, lấy chồng, đẻ con, đi đi về về lúc thì ở trần gian, lúc

lại về Thượng giới. Ngoài ra còn một số nơi khác cũng lập đền thờ Mẫu Liễu ( Phủ

Tây Hồ- Hà Nội, Đền Sòng- Thanh Hoá) hoặc những hoá thân của Mẫu Liễu như Mẫu

Thượng Ngàn (Đền Suối Mỡ- Lục Nam-Bắc Giang, Đền Bắc

Dân gian vẫn truyền tụng câu: “Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ”. Cha

chính là Đức Thánh Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, còn Mẹ chính là Mẫu

Liễu. Đây là một nhánh kết hợp và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu. Cứ vào ngày

rằm tháng ba, dân gian tổ chức hội Phủ Giầy, giỗ Mẫu Liễu Hạnh. Lại vào 20 tháng

tám, dân gian lại tổ chức giỗ Đức Thánh Trần rất lớn tại đền Kiếp Bạc. Bên Thánh

Mẫu thì có hầu bóng (hầu đồng)- một nghi thức của các cô Đồng được Mẫu nhập vào

nhằm phán truyền, chữa bệnh và ban phúc lộc cho những tín đồ thờ Mẫu. Bên Thánh

Trần thì có thanh đồng dành cho phụ nữ cầu sinh đẻ và nuôi con may mắn. Câu tục

truyền dân gian trên biểu thị một quan niệm Âm- Dương hài hoà có từ rất xa xưa của

người phương Đông. Thực chất đó là sự phóng đại của việc thờ cúng tổ tiên Ông- Bà,

Cha- Mẹ trong mỗi gia đình người Việt, lại được tiếp nối và phát triển qua cặp hình

Page 35: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

tượng Lạc Long Quân (Rồng)- Âu Cơ (Tiên). Như vậy cảm thức về Nhà- tổ ấm gia

đình đã chi phối hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hoá dân gian truyền thống.

Hạt nhân tinh thần này thể hiện phẩm chất nhân văn độc đáo của Đạo Mẫu Việt Nam.

- Hình tượng Mẫu Liễu Hạnh còn nằm trong một cấu trúc khác nữa: Tứ bất tử-

bốn vị Thánh cao nhất trong tâm linh người Việt dưới sự ảnh hưởng của Đạo giáo

Trung Hoa, bao gồm Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh

Mẫu Liễu. Bốn vị Thánh này chính là những biểu trưng của bốn lĩnh vực trụ cột trong

đời sống dân tộc: Làm ăn, đánh giặc, tình yêu và tâm linh. Hiện thân của Tứ bất tử

chẳng phải là một triết lý sống hài hoà và sâu sắc tuyệt đẹp của người Việt đó sao.

Nghi thức của tín ngưỡng thờ Mẫu

Quan trọng nhất là nghi thức lên đồng, ngồi đồng, đồng bóng. “Đồng” là

“cùng”. “Bóng” là bóng dáng của các bậc siêu nhiên, các cô, các cậu, các bà về nhập

vào trong người ngồi đồng. Xung quanh có nhiều yếu tố phụ hoạ trang phục, âm

nhạc, hát múa, người đi phục vụ cho người lên đồng gọi là hầu đồng. Mỗi năm thực

hiện ít nhất 4 lần lên đồng.

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một hiện tượng sinh hoạt văn hóa tinh thần - nghệ

thuật mang tính chất tâm linh đang diễn ra một cách sống động trong đời sống ngày

thường của nhân dân. Tín ngưỡng này vừa thể hiện đời sống tâm linh nhưng cũng

vừa thể hiện nét văn hóa nghệ thuật đặc sắc. mẫu là một biểu tượng được dân gian

gắn cho những khả năng siêu phàm có thể giúp dân chúng đạt được nhiều ước

nguyện. Câu chuyện đồng bóng là một câu chuyện khó giải thích và là niềm tin vào

yếu tố thần bí của dân gian. Đồng thời thể hiện khát vọng về một cuộc sống an lành.

Tuy nhiên, ngày nay nhiều người không hiểu biết đã dẫn tới hành vi mê tín dị đoan,

buôn thần bán thánh..

- Ngày hôm nay tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) vẫn được duy trì và phát triển.

Ngay cả việc hầu bóng cũng rất cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và quản lý có tính

chuyên môn cao, tránh đánh đồng dễ dãi với mê tín dị đoan, song cũng tránh để xảy ra

tình trạng buôn thần bán thánh.

Không đâu như ở Việt Nam, việc thờ thần Nữ mà tập trung nhất là Đạo Mẫu lại

phổ biến và sống động đến như vậy. Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng bản địa. Bắt

Page 36: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

nguồn từ Miền Bắc vào đến miền Nam hoà nhập Mẫu với các nữ thần trong tín

ngưỡng địa phương. Tuy nhiên khi nó kết hợp với những tín ngưỡng khác trong đời

sống tín ngưỡng tôn giáo đặc biệt là tín ngưỡng thờ Thánh, Thần, Phật, tín ngưỡng thờ

nước, thờ cây của nông nghiệp đã tạo nên một tín ngưỡng thờ Mẫu phong phú và

mang ý nghĩa cội nguồn sâu sắc. Từ ngàn xưa tới nay, dân tộc Việt Nam luôn dành

cho phụ nữ một tình cảm đặc biệt. Ở đó có cả lòng biết ơn kính trọng và niềm tự hào

sâu sắc. Trong thời chiến thì “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Trong thời bình thì “

giỏi việc nước đảm việc nhà”. ở đâu có phụ nữ là ở đó có lòng khoan dung dịu dàng,

sự chăm lo săn sóc, sự thăng hoa trong sáng tạo. Phụ nữ là hiện thân của lòng bao

dung, sự dịu dàng, lo toan vun vén cho cuộc sống. Đạo Mẫu là một trong những vẻ

đẹp cao nhất của văn hoá Việt Nam.

Câu 10.

+ Tết là do đọc chệch từ chữ tiết mà thành. Theo lịch truyền thống, một năm có

12 tháng, mỗi tháng có 2 tiết khí hậu, tổng cộng 24 tiết trong năm, gọi là nhị thập tứ

tiết khí. Trong số đó có những tiết quan trọng. đi kèm với nó là việc tổ chức các tết:

1. Tết Nguyên Đán

2 .Tết Thanh Minh

3. Tết Đoan Ngọ

4. Tết Trung Nguyên

5. Tết Trung Thu

6. Tết Thượng Nguyên

7. Tết Hàn Thực

8. Tết Hạ nguyên

9. Tết Trùng Cửu

10. Tết Trùng Thập

+ Nghề lúa nước mang tính thời vụ cao, lúc có việc thì tối tăm mặt mũi, lúc

nhàn rỗi thì ăn chơi bù khú nên lễ tết của Việt Nam rất nhiều. Lễ tết được coi là một

bộ phận của văn hóa truyền thống Việt Nam. Lễ tết của Việt Nam được tổ chức theo

Page 37: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

những nét truyền thống lâu đời và có khuôn mẫu nhất định đối với từng loại hình lễ

hội riêng vào những thời điểm tự nhiên theo chu kỳ của bốn mùa.

- Lễ tết có hai phần: Phần lễ và phần tết.

+ Phần Lễ nghiêng về thờ cúng tổ tiên, thổ công, cầu nguyện mọi sự tốt lành

may mắn trong năm mới. Phần Tết nghiêng về chuyện ăn uống, bồi dưỡng sức khỏe,

mời mọc khách khứa, ngưòi thân.

- Mỗi một dân tộc đều có ngày tết khác nhau. Tuy có sự tiếp nhận từ

phong tục các nước khác. Một số ngày tết ở Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc.

Nhưng khi vào Việt Nam lại có những đặc điểm riêng phù hợp với phong tục tập

quán sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Xét ở góc độ mối quan hệ

giữa con người và thiên nhiên. Tết - do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ

trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông - có một ý

nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm

chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm "Ơn trời mưa nắng phải thì

", người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan

đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần

Mặt trời... người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ,

nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

- Tết Việt Nam gắn bó mật thiết với không gian gia đình, với tâm linh hướng

vọng tổ tiên. Cho nên tết bao giờ cũng trở thành kỷ niệm thân thương và bền bỉ của

mỗi đời người.

- Vào dịp tết, những người phụ nữ Việt Nam trong mỗi gia đình lại được dịp trổ

tài nấu nướng các món ăn, bánh trái. Có thể nói rằng về cơ bản nền ẩm thực Việt Nam

được thể hiện tập trung nhất trong dịp tết và được hình thành từ những ngày tết. Công

lao này trước hết thuộc về những người vợ, người mẹ, người em. Miếng ăn vừa là tài

khéo, vừa là tấm lòng thảo thơm tình nghĩa.

- Tết là một mỹ tục của văn hoá, chứa đựng rất nhiều những nét riêng đặc sắc

của dân tộc Việt Nam, rất cần được kế thừa và phát huy theo hướng vừa lành mạnh,

tiết kiệm, vừa thiêng liêng trang trọng, đậm đà bản sắc dân tộc và chất nhân văn cao

quý.

Page 38: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Phân tích Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán chính là cái Tết quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống lễ Tết

của người Việt, được coi là Tết Cả. Nguyên là đầu tiên, Đán là buổi sáng, Nguyên Đán

chứa đựng tầm vóc và chiều sâu tâm hồn của nếp sống văn hóa ngàn năm, nương theo

tiết lập xuân, nương theo chu kì tự nhiên của những nền văn minh nông nghiệp. Tết

Nguyên Đán bắt đầu từ hội lễ của cư dân nông nghiệp với ý nghĩa khởi điểm chu trình

sự sống, là sự phục sinh của vũ trụ sau mùa đông băng giá lạnh lùng, bao gồm phần lễ

là không gian linh thiêng và phần hội là sự thăng hoa của đời thường với bao niềm vui

và khát vọng.

Tết Nguyên Đán là dịp để người dân chúc nhau mọi điều tốt đẹp nhất, nông dân

cầu cho mưa thuận gió hòa, nho sĩ cầu mong đỗ đạt hiển vinh, người già cầu mong

bách niên giai lão, trẻ em ngoan hiền hiếu thảo.

Tết Nguyên Đán là sự đón mừng năm mới với hy vọng vào sự đổi mới bởi quan

niệm Đông tàn, Hạ trưởng, Xuân sinh - mùa xuân gắn liền với sự sinh sôi phát triển.

Mỗi năm vào cuối tháng Chạp, người Việt Nam vui mừng chuẩn bị đón Tết và đón

chào mùa Xuân trở lại, theo vòng quay tuần hoàn của thời gian.

Tết Nguyên Đán không chỉ trở nên nhộn nhịp với hương trầm nghi ngút và các

sinh hoạt vui chơi, văn hóa; mà còn là dịp để mọi người đề cao đạo đức dân tộc, qua

các lễ hội tưởng niệm các vị anh hùng trong lịch sử và đạo đức gia đình, qua sự quây

quần của con cháu để tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Truyền thống "Chim có

tổ, người có tông" và "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn

chảy ra" là những câu ca dao nhắc nhở con cháu sống cho phải đạo. Đây cũng là dịp

để ông bà và cha mẹ tỏ tình thương yêu của mình với con cháu và vui mừng chứng

kiến cảnh con cháu sum vầy hạnh phúc. Nhìn vào sinh hoạt văn hóa lễ Tết, người ta

mới thấy đâu là bốn ngàn năm văn hiến của một dân tộc có một nền văn hóa lâu đời

như Việt Nam.

Ngày Tết Nguyên Đán có một giá trị tinh thần rất lớn. Giá trị đó ẩn sâu trong

đời sống tâm linh của mỗi con người, trong gia đình và cả cộng đồng mà ta có thể gọi

chung là giá trị tâm linh của văn hóa gia đình Việt Nam. Bởi Tết Nguyên Đán trước

hết là Tết của gia đình, là dịp quây quần đoàn tụ của các thế hệ, của cả người đang

Page 39: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

sống và cả người đã chết. Đó cũng là dịp thể hiện sự cộng cảm của con người và vạn

vật, giữa cá nhân và làng nước nên nó khơi dậy tinh thần cộng đồng sâu sắc và bền

vững giữa gia đình và xã hội.

Tết Nguyên Đán là ngày lễ quan trọng nhất trong một năm nên nó được chuẩn

bị chu đáo nhất, cầu kỳ nhất, và có nhiều nghi thức nhất. Người dân đón Tết Nguyên

Đán mang đậm dấu ấn, âm hưởng và cốt cách tâm hồn dân tộc. Đây là tết cổ truyền

của người Việt được chuẩn bị một cách công phu từ khoảng tháng mười. Ngày xưa

người Việt có cách tính thời gian theo vòng quay của quá trình sản xuất, tính thời gian

theo cách gọi từng tháng là: Một, chạp, Giêng, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám,

Chín, Mười. Trong tâm thức và suy nghĩ của con người, tháng mười sẽ là tháng kết

thúc vòng đời cây lúa và bởi vậy, người ta mong chờ bao giờ cho đến tháng mười là để

được bắt đầu vào những ngày mùa xuân tươi vui, bắt đầu hồi sinh của sự sống. Trong

nhịp sống hiện đại, Tết của người Việt hôm nay bắt đầu muộn hơn, nó được tính từ 23

tháng Chạp - Tết Táo quân, sau đó là tuần lễ chuẩn bị đón Tết, với những lễ tục đậm

đà bản sắc dân tộc. Tết Nguyên Đán chỉ thực sự kết thúc bằng Tết Khai hạ vào ngày

mùng bảy tháng Giêng với lễ Hạ Nêu, lễ Tịch điền. Đó là lễ xuống đồng, lễ Mở đất

của cư dân nông nghiệp một đời gắn bó với đất mẹ yêu thương: “Áo em thêu chỉ biếc

hồng - Mùa xuân ngày hội lồng tồng thêm vui”.

Không khí Tết rõ nhất là từ ngày 23 thàng Chạp, ngày Táo quân triền thiên, hay

là ông Táo chầu trời. Nhà nào cũng phải chuẩn bị nghi lễ tiễn ông Táo lên trời. Người

ta gọi ông Táo là ông đầu rau, là ông bếp núc, có cách khác gọi trang trọng hơn là ông

“vua bếp” hoặc nói chữ nghĩa, người ta gọi là Táo quân hay Táo công (người dân gọi

tắt là ông Công). “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Thổ Công là thần trông coi mọi

việc trong nhà cửa của từng gia đình, là vị thần quan trọng nhất, được suy tôn là “đệ

nhất gia chi chủ”. Không những là vị thần định đoạt may rủi, phúc họa, mà còn ngăn

cấm ma quỷ nơi khác tới, giữ bình yên cho mọi người trong gia đình, trông coi cả

phần âm lẫn phần dương. Cùng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt có tập tục

tôn thờ Thổ công như một vị thần tại gia.

Lễ cúng Táo Quân thường là: một con gà, một miếng thịt lợn, đĩa xôi, chè, đĩa

trầu quả cau, trà, rượu, nhang, đèn. Có nơi người ta chuẩn bị ba con cá chép sống cho

Page 40: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Táo quân cưỡi về chầu trời. Cá chép là biểu tượng của quan niệm dân gian, cá chép

vượt Vũ Môn hóa rồng, rồng gọi những cơn mưa rất cần cho văn minh lúa nước. Cá

chép là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu trưng cho khát vọng của người dân cần cù

chịu thương chịu khó. Trong một nền văn hóa sông nước như Việt Nam thì cá chép đã

trở thành biểu tượng mang ý nghĩa chiều sâu và khát vọng cuộc sống. Đĩa trầu cau là

triết lí số phận con người, màu đỏ là màu nhiệt huyết, màu của hưng phấn và đam mê,

của sinh sôi và phát triển.

Cùng với cá sống là thịt sống và gạo sống, đây được coi là tam sinh, nó chứa

đựng ý nghĩa to lớn: bày tỏ niềm tôn kính đối với Táo Quân (vì họ là thần giữ lửa);

Tam sinh – hy vọng về sự sinh sôi, phát triển. Cá - Thịt - Gạo là sản phẩm của ba phức

hợp văn hóa biển – văn hóa núi – văn hóa đồng bằng. Nó biểu trưng cho sự liên kết

của ba lớp thời gian, không gian văn hóa Việt. Lễ cúng Táo Quân không thể thiếu

mâm ngũ quả, cùng với nước và lửa trên bàn thờ hợp thành triết lí âm dương Ngũ

hành – triết lí khởi đầu về sự sinh thành và phát triển. Hoa thơm quả ngọt là thức dâng

của đất lên bầu trời, tạo nên cây vũ trụ: Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa. Ngũ quả là

kết quả lao động của con người, là thành quả của ước mơ, là lối ứng xử ăn quả nhớ kẻ

trồng cây, là lòng biết ơn mà con người thành kính dâng lên đất trời sông núi. Quả vì

vậy phải tròn trĩnh, phải ngọt ngào, mỗi quả một sắc màu gắn với quan niệm ngũ hành

Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Nải chuối đẹp như vòng tay ôm ấp che chở, dung

chứa trong lòng sự ngọt ngào của tình nghĩa. Tất cả hướng tới một sự khởi đầu tốt đẹp.

Lễ cúng Táo quân được tiến hành trang nghiêm trong phạm vi gia đình. Người

cúng lễ là chủ hộ mà thường là đàn ông, trước sự tham gia của các thành viên trong

gia đình. Đứng trước bàn thờ trong khói hương nghi ngút, những người cúng trang

nghiêm chỉnh tề, thành tâm cầu nguyện. Bởi họ tin rằng Táo Quân đang hiện hữu,

đang chứng kiến việc làm của họ, đang lắng nghe lời cầu xin cảu con người để chuyển

lên Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sẽ ban phúc lộc cho gia chủ khi năm cũ sắp qua đi, năm

mới đang tới gần. Lửa và nước trên bàn thờ sẽ làm nhiệm vụ kết nối âm dương, kết nối

trời đất trong hương khói thần bí, trong lời nguyện cầu chân thành của con người. Bàn

thờ trong gia đình sẽ được sửa sang, người ta dùng lửa đốt rơm mới thơm phưng phức

mùi hương mùa lúa mới, thứ hương thơm của văn minh lúa nước ngàn năm mà đất đai

Page 41: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

đã chưng cất đã lưu giữ và trao truyền cho con người từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Tro mới được thay vào bát nhang, chân hương cũ được tỉa đi, bàn thờ được lau sạch

sẽ, rượu mới được đặt lên. Nơi trung tâm của gia đình được bao trùm bởi không khí

đặc biệt, đời thường đã thăng hoa, đã được linh thiêng hóa.

- Để chuẩn bị đầy đủ cho ngày Tết, nhà nào cũng phải đi chợ. Trong văn hóa

Việt Nam, chợ không chỉ là thước đo trình độ phát triển kinh tế, chợ chính là biểu

tượng văn hóa, là nơi con người gặp gỡ và giao lưu, là nơi con người bộc lộ tính cách,

tình cảm, lối sống. Đông như chợ Tết. Vui như Chợ Tết. Đẹp như chợ Tết. Đắt như

chợ Tết. Dù thế nào cũng phải mua, phải sắm đủ những thứ dự tính, chẳng ai qui định

mà là phong tục ngàn xưa truyền lại. Người đến chợ không chỉ là người bán, người

mua mà còn cả người đi chơi. Nhiều người tham gia chợ Tết không cầm lòng nổi trước

cảnh đông vui nhộn nhịp, tưng bừng và hân hoan. Hàng họ ngày Tết thật phong phú,

từ đồ ăn thức uống đến những vật dụng trang trí trong nhà: hương thơm, hoa thắm, quả

ngọt, cây cảnh, bánh mứt kẹo… Chợ Tết mà, người bán, người mua, người đi thưởng

thức ồn ào, náo nhiệt. Văn hóa Tết của người Việt xưa nay được chung đúc trong câu:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

Chợ bình thường của cuộc sống đời thường làm sao có được những thúng gạo

nếp trắng ngần thơm phưng phức như hạt ngọc của trời của đất, làm sao có hạt đỗ

vàng, có lá dong xanh, và làm sao có được hình hài và mùi vị của thịt cá. Bức tranh

phồn thực ấy chỉ chợ Tết mới được phô bày, bởi chỉ có ngày Tết mới có thịt mỡ, bánh

chưng. Đó là triết lí trời tròn đất vuông, là sự thảo thơm của tình đất tình người dâng

trời đất và tổ tiên. Một góc khác của chợ Tết là hoa tươi, hoa khoe sắc màu lộng lẫy

bên biếc xanh màu lá. Bánh mứt kẹo cũng chỉ chọn dịp Tết mà tự khoe mình chứ đời

thường nghèo khó mấy ai có tiền để sắm để mua. Cho nên sự xuất hiện của chúng mới

làm cho phiên chợ Tết trở nên hấp dẫn đến vậy, nó thu hút cái háo hức của cả người

già lẫn trẻ con, cái nô nức của cả khách xa lẫn kẻ gần. Những người phụ nữ rạng ngời

với nụ cười trên môi, tất bật mà vẫn thong dong, mua bán hỏi thăm, đôi môi đỏ thắm

nước trầu đẹp lạ lùng. Họ đang mua những chiếc nồi đất, tròn trĩnh và đỏ đắn, bình dị

mà thiêng liêng. Tròn như ước mơ của những người mẹ muốn mua chiếc nồi mới để

Page 42: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

nấu những món ăn ngon, trước là dâng lên tổ tiên, sau là cho con cháu hưởng thụ, để

bù đắp cho những thiếu hụt trong chuỗi ngày đói khổ, để nuôi dưỡng ước mơ con cháu

được tận hưởng cuộc sống no đủ về vật chất.

Thấp thoáng tiếng cười nói ríu rít của lũ trẻ xúng xính trong bộ quần áo mới,

trên tay cầm những món quà vừa được mẹ mua. Đó là những con tò he xanh đỏ tím

vàng, là mấy thứ đồ chơi được tạo nên từ đất: trâu đất, cào cào, châu chấu… Trẻ con

háo hức nhìn những con trâu làm bằng lá đa, lá mít, chúng không cày bừa trên mặt

ruộng mà đang vênh sừng nhìn lũ trẻ nhàn rỗi đi du xuân. Bên cạnh là những cụ già

tóc bạc, ao the đen, khăn nhiễu tím ngồi viết câu đối: “Hoa tay thảo những nét - Như

phượng múa rồng bay”…

- Tâm thức hướng về cội nguồn: Giữa không khí háo hức, nhộn nhịp của những

ngày gần Tết, mọi người đều hướng lòng mình về cội nguồn. Nét đẹp về quê ăn Tết

lưu giữ ngàn đời nay. Dù ai đi đâu, ở đâu, xa xôi ròng rã một năm tròn cũng mong trở

về sum họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được thắp nén hương, chắp tay

khấn vái trước ông bà, tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, mảnh sân, sống lại biết bao kỷ

niệm đầy ắp yêu thương. Lời hứa “năm nay về quê ăn Tết” là cuộc hành hương về với

cội nguồn, về với mảnh đất chôn rau cắt rốn, về làm tròn bổn phận với trời đất, tổ tiên,

cha mẹ; về thăm lại họ hàng, làng xóm. Không có một quê hương để về ăn Tết thật là

một thiệt thòi lớn. Trong tâm thức của mỗi người quê hương luôn ngân lên tiếng gọi

thiêng liêng. Đó là tiếng gọi của cuộc sống bởi quê hương là nơi chôn râu cắt rốn, nơi

lưu giữ kí ức tuổi thơ, nơi có ao xanh và giếng làng trong mát, có cánh cò chao liệng

trong bóng khói chiều hôm. Người Việt Nam có đặc tính tâm lí là luôn hướng về cội

nguồn. Lối sống duy tình của một cộng đồng dân tộc đã tạo dựng nét tính cách và bồi

đắp giá trị đạo đức cho mỗi người, để những ngày Tết đến xuân về trong sâu thẳm cõi

lòng ai cũng mong có được niềm hạnh phúc là trở về quê ăn Tết, để cảm nhận được

tận cùng tình yêu quê hương, cảm nhận được vòng tay nồng hậu, nhân ái và bao dung

của vùng đất sâu nặng ân tình.

- Tục gói bánh Chưng: Gói bánh, giã giò là những công việc không thể thiếu

trong những ngày giáp Tết của ngày xưa. Đi khắp đường làng, ngõ xóm thấp thoáng

hình ảnh mọi người đem lá dong đi rửa, ngâm gạo nếp, làm nhân bánh… Người ta

Page 43: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

chọn những lá dong xanh mướt nhất, thứ gạo nếp thơm nhất, thịt phải là loại số một,

gói bánh sao cho vuông vắn và đẹp mắt… bởi ẩn chứa phía trong đó là tấm lòng thành

kính của con cháu khi dâng lên tổ tiên thành quả của một năm lao động. Lá dong xanh,

gạo nếp trắng, thịt đỏ hồng. Sự kết hợp hài hòa của những yếu tố riêng biệt đã làm nên

một biểu tượng biểu đạt cho sắc thái văn hóa Việt Nam. Bánh chưng đi vào đời sống

từ truyền thuyết thuở Hùng Vương dựng nước. Lòng yêu lao động, yêu quê hương

nguồn cội đã đem đến cho Lang Liêu ngai vàng, để trong thế đối sánh của văn hóa

Việt, bánh chưng xanh quí hơn mọi thứ sơn hào hải vị. Bánh chưng là thức dâng

không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên trong những ngày lễ Tết, trong những dịp trọng đại

của gia đình.

Hình ảnh gói bánh, giã giò khiến ta bâng khuâng nhớ về những đêm áp Tết, cả

nhà quây quần bên nồi bánh chưng reo trên bếp lửa bập bùng, tí tách háo hức chờ đón

năm mới. Ngày nay, một số gia đình đã đặt giò dùng cho ngày Tết, nên chỉ một số

vùng quê còn giữ được tục giã giò như vùng Ước Lễ (Hà Nội). Giò chả góp phần vào

ẩm thực ngày Tết như một nét văn hóa đặc thù mà thiếu nó, mâm cỗ Tết sẽ thiếu đi

phần tinh tế, sang trọng.

- Tục đi Tết người thân, bạn bè: Ngày xưa những nhà nghèo, phải vay tiền để

trang trải công nợ, đến ngày Tết rất lo chủ nợ đến đòi, mà chủ nợ thì lại không muốn

để nợ lưu. Xưa các cụ nói, không trả được nợ thì phải trả lễ. Mang đến biếu chủ nợ

trong dịp Tết gọi là đi Tết. Đi Tết cốt để xin khất thêm với chủ nợ một hạn nữa.

Nhưng hành vi đi Tết còn bao chứa nhiều lớp nghĩa, chứ không đơn thuần là khất nợ.

Bởi món nợ ân tình còn sâu nặng và đáng ghi nhớ hơn món nợ vật chất. Đi Tết để khất

nợ vật chất là bởi người Việt Nam rất tinh tế trong ứng xử, rất trọng tình, “Giận nhau

tới chết thì ngày Tết vẫn vui”. Trong những ngày Tết người ta dành cho nhau những

điều tốt đẹp nhất, nói với nhau những lời trang nhã nhất, thế nên người ta sợ nhất là bị

nhắc tới món nợ. Sợ hơn cả là khi nợ ân tình mà không trả được, cho nên đến nhà nhau

trong những ngày trước Tết là một nghĩa cử bày tỏ lòng biết ơn hoặc sự ghi nhận tấm

chân tình mà mình không có cách nào đền đáp. Nghĩa cử ấy làm ấm lòng cả người đi

Tết và người được đi Tết, nó đem lại sự trân trọng, sự sâu sắc trong tình nghĩa, trong

văn hóa ứng xử giữa người với người.

Page 44: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Tục dọn nhà, trang hoàng nhà cửa: Ngày 30 tháng Chạp là ngày cuối cùng của

năm, mọi công việc đều phải tiến hành hoàn tất để sửa soạn thời khắc tiễn năm cũ, đón

chào năm mới. Công việc trang hoàng nhà cửa được tiến hành từ rằm tháng Chạp.

Xuất phát từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nên nơi đầu tiên được chú ý là bàn thờ gia

tiên. Bàn thờ được sửa sang, mọi đồ vật được lau chùi, sắp đặt và bày những lễ vật

sắm dần: câu đối, hương vàng, nến, hoa tươi…. Mọi người quét dọn nhà cửa sạch sẽ,

mọi ngóc ngách trong nhà như được thổi vào luồng sinh khí mới. Những bộ tranh Tết

Nhị bình (chim công múa, cá chép trông trăng) hay những bức tranh dân gian Đông

Hồ cổ truyền cầu mong sự may mắn, thịnh vượng cho năm mới, đứng bên những câu

đối Tết đỏ thắm. Câu đối Tết thể hiện ước mơ về cuộc sống hài hòa, về sự hòa nhập

âm dương đem đến sự hòa điệu cho vũ trụ. Không gian nhà được tăng thêm vẻ rực rỡ,

tươi mới. Cùng với tranh dân gian, một nét văn hóa tinh thần thuần khiết của người

Việt trong những ngày đầu năm đó là thú chơi hoa. Những nụ hoa đào hồng thắm e ấp

trong cái se lạnh của miền Bắc, những cánh mai vàng lung linh trong nắng xuân miền

Nam...như điểm tô cho phong khách ngày Tết và tượng trưng cho ước mơ phúc lộc,

may mắn, sung mãn của chủ nhà trong năm mới. Trang hoàng nhà cửa trong ngày

trước Tết là thể hiện một thái độ trân trọng và chờ đợi của con người với mùa xuân

linh thiêng trong thời khắc giao thừa sắp tới. Việc dọn dẹp trang hoàng được mở rộng

ra đến không gian vườn. Những cây xanh sẽ được tỉa lá vàng, cắt những cành khô héo

úa, và rồi người ta sẽ khoác cho cây một tấm áo mới bằng màu vôi trắng, những hàng

gạch đỏ au được kết thành đường diềm trang điểm, để vườn cây cũng chung vui cảm

giác đón đợi mùa xuân với con người.

- Tục trồng cây nêu: Trong cảnh sắc của Tết cổ truyền người Việt, người ta

không thể quên hình ảnh trồng một cây tre để cả ngọn trước sân nhà - hay còn gọi là

trồng cây nêu. Tục lệ trồng cây nêu lưu giữ những quan niệm nhân sinh cao đẹp. Theo

Phật thoại, cây nêu là dấu tích của cuộc tranh giành đất ở, đất trồng trọt giữa người và

quỷ. Kể từ khi bị xua đuổi đến biển Đông, bản chất xấu xa của quỉ dữ vẫn còn được

nuôi dưỡng, nhưng con người đã có thần linh che chở nên không sợ bị quấy phá. Bây

giờ Định phúc gia chi chủ Táo Quân đã về trời, quỉ vẫn khát thèm hương hoa của đất,

muốn tranh thủ thời cơ quay vào. Cây Nêu được trồng lên là để nhắc nhở quỉ dữ rằng

nơi ở của cái ác là sâu thẳm trong địa ngục, còn mặt đất này là thiên đường của con

Page 45: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

người cần cù nhân ái. Người đã thắng. Để khẳng định ranh giới đất đai người ta

thường treo chiếc áo cà sa, hoặc túm lá dừa, lông gà tán tròn bằng tre, nứa dán giấy đỏ

trên ngọn cây nêu, với mong muốn xua đuổi quỷ dữ và những điều xui xẻo ra khỏi

cuộc sống của con người, cầu mọi điều may mắn. Trồng cây nêu thường diễn ra vào

cuối năm với dụng ý ngọn nêu sẽ vươn lên đón ánh mặt trời đầu năm, đón không khí

tươi mới của mùa xuân, để con người nạp đủ năng lượng sống, hướng tới một cuộc

sống trong năm mới tốt đẹp hơn. Cây nêu thường được tròng là cây tre, mà trong tâm

thức của người Việt thì cây tre là một trong ba thứ cây vũ trụ: cây tre biểu tượng cho

không gian, cây cau là thước đo thời gian và cây lúa là biểu tượng của sự sinh tồn. Cây

tre cũng chính là biểu tượng văn hóa Việt, biểu trưng cho sự dẻo dai chịu thương chịu

khó, gắn bó sâu sắc với cuộc sống của con người.

- Bày mâm ngũ quả: Mâm cỗ bao gồm mâm ngũ quả, cỗ mặn được bày biện

đẹp mắt, có thịt, có bánh, các loại sản vật ngon nhất, đủ chất dinh dưỡng, đảm bảo vệ

sinh và tốt cho sức khỏe. Mâm cỗ được bày biện theo hình hoa lá hấp dẫn thể hiện sự

giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Mâm ngũ quả vì thế chứa đựng cả tấm lòng,

nó được linh thiêng hóa bằng những biểu tượng mang giá trị chứ không đơn thuần chỉ

là sản phẩm của cây trồng. Ngũ quả là ngũ hành, ngũ vị, ngũ sắc. Đó có thể là những

thứ quả của đời thường như quả sung, quả đu đủ hái trong vườn nhà, là quả na quả

bưởi mua về từ chợ. Nhưng khi đặt lên bàn thờ chúng trở thành lễ vật, thành cầu nối

nối thế giới hữu hình với thế giới vô hình. Bởi vậy quả sung kia là để cầu mong sung

túc, quả đu đủ là để cầu mong sự no đủ, quả na mở mắt là để thần linh nhìn thấy nỗi

khổ của con người, chứng kiến tấm lòng thành mà phù hộ cho con người vượt qua

cuộc đời khốn khó. Quả bưởi vàng là để giấc mơ trở thành hiện thực là để đơm hoa kết

trái những mong ước của con người. Mâm ngũ quả vì thế được người Việt Nam cẩn

thận chăm chút, chọn lựa và sắp đặt rất kì công. Nó không chỉ phản ánh bức tranh đời

sống, mà nó còn chứa đựng văn hóa tâm linh thể hiện bằng niềm tin vào sự bất tử vĩnh

hằng.

- Tục đốt pháo: Ngoài trời, tiếng pháo nổ âm vang, sảng khoái đánh thức đất

trời bừng dậy sức xuân. Tiếng pháo chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, là lời chào mừng năm

mới tới mọi người, là lời cấu chúc cho những niềm vui vô tận sẽ tới với mọi nhà. Hòa

Page 46: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

trong tiếng pháo, tiếng trống, văng vẳng tiếng chuông chùa khiến cho thời khắc giao

thừa trở nên linh thiêng trang trọng. Lòng người bồi hồi, hân hoan xen lẫn niềm hi

vọng cho những dự định mới.

- Tục chọn hướng xuất hành: Với hi vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn

thịnh vượng, học hành đỗ đạt sau giờ phút giao thừa, mọi người tiến hành du xuân hái

lộc cầu may. Tục lễ xuất hành được người Việt coi trọng, người ta lựa chọn từng giờ

xuất hành, hướng đi, xem tuổi. Nơi người dân lựa chọn để xuất hành đầu năm thường

là đền, chùa để làm lễ đầu năm. Khi ra về có tục ngắt một cánh hoa hoặc một nhánh

cây nhỏ mang về gọi là hái lộc. Cành hoa, nhánh cây được xem là cành lộc, chủ nhà

trân trọng giữ gìn trọn một năm mới bỏ, vì đó là lộc biếc chồi xuân, sẽ mang đến cho

gia đình những điều may mắn nhất. Hái lộc đầu năm là một nét đẹp ngàn đời của

người Việt từ thời vua Hùng đến nay. Người ta thường mong muốn xin lộc ở những

cây đa đầu làng, cây sung, cây hoa đại hoặc những cây cổ thụ trong vườn chùa. Đó là

những biểu trưng của phúc lộc, tuổi thọ, sự viên mãn… những ước vọng muôn đời của

mọi gia đình trong những dịp xuân sang, Tết đến.

Tết là dịp mọi người thể hiện đạo lý ứng xử văn hóa: Mùng một Tết Cha, Mùng

hai Tết Mẹ, Mùng ba Tết Thầy. Điều đầu tiên trong tâm thức của người Việt chính là

ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, cho nên con cái phải đi Tết cha

mẹ đầu tiên. Sau Tết cha mẹ là Tết thầy cô, những người có công dạy dỗ, dìu dắt

mình. Rồi đến Tết những người đã giúp mình vượt qua khó khăn, hoạn nạn, những nhà

bạn thân. Nét đẹp văn hóa tri ân vẫn luôn phải giữ gìn từ hôm nay đến mai sau. Năm

mới bắt đầu bằng ngày mùng một Tết, các gia đình tập trung đến nhà thờ họ để lễ tế

Tổ. Rồi đi chúc Tết các gia đình trong chi họ của mình. Mọi người trong nhà không ai

bảo ai, người nào cũng giữ gìn lời ăn tiếng nói, vui vẻ niềm nở chúc nhau những điều

tốt lành. Những lời chúc có thứ bậc: con cháu chúc thọ ông bà; bố mẹ chúc con cháu

hay ăn chóng lớn, thành đạt khoa cử... Người Việt Nam từ xưa đến nay luôn đề cao

đạo làm con, làm cháu trong mỗi gia đình - đó là cơ sở để xây dựng một xã hội có trật

tự. Người ta tin rằng những lời chúc đầu tiên mà người ta nhận được vào ngày Tết sẽ

đem lại cho họ sự may mắn suốt cả một năm vì vạn sự khởi đầu từ ngày Tết. Cho nên

bao nhiêu lời trang nhã, ngọt ngào đều được chắt chiu dành dụm để rồi được hào

Page 47: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

phóng ban tặng cho nhau vào thời khắc đầu xuân, khiến không khí Tết trở nên nồng

ấm, diệu kỳ.

- Tục lì xì:Bên cạnh chúc Tết, còn có tục mừng tuổi và chúc thọ. Những ngày

Tết, trông khuôn mặt ai cũng tươi vui và viên mãn. Người già thêm một tuổi, con cháu

xem đó là phúc lớn trời ban do vậy người ta tổ chức lễ chúc thọ nhằm cảm tạ trời đất

cầu mong cho người già “bách niên giai lão”, sống vui bên con cháu. Món quà mừng

tuổi chúc thọ thường là bộ quần áo đẹp, phong bao tiền mới hoặc những thứ vừa có giá

trị sử dụng vừa mang ý nghĩa tôn kính. Dân gian vẫn có câu: già được bát canh trẻ

được manh áo mới. Người Việt Nam vẫn lấy làm sung sướng khi cây gia phả dòng họ

sum suê cành trái, khi gốc bền và cành lá xanh tươi. Các em bé được mừng tuổi và

nhận những lời khuyên bổ ích từ người lớn. Tiền mừng tuổi được để trong phong bao

giấy hồng, dù nhiều ít nhưng nói lên tình cảm quan tâm, hết sức ý nghĩa

- Tục khai bút: Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học từ ngàn đời. Hình

ảnh những thầy đồ vào ngày Tết ngồi trên trước án thư, khai bút đầu xuân đã lưu giữ

mãi trong tâm khảm người Việt. Khai bút là công việc hệ trọng mà những nho sinh,

những người làm nghề cầm bút luôn coi trọng. Nét bút đầu xuân năm mới, gửi gắm

ước mong học hành đỗ đạt, thi cử vinh hiển, đem về tiếng thơm cho gia đình, dòng họ

và dân tộc. Nét bút đầu xuân có thể là những câu thơ, bài phú, những câu chúc có ý

nghĩa. Vào ngày đầu xuân, những đứa trẻ sẽ đặt nét bút đàu tiên lên trang giấy trắng,

viết lên những dòng chữ tinh khôi, nó nói lên khát vọng và mơ ước trong lòng đứa trẻ.

Người ta vẫn có quan niệm: đầu năm khai bút, bút khai hoa. Dòng chữ đầu tiên khi Tết

đến xuân về sẽ là nốt son đỏ thắm trong một năm dài của cuộc đời đứa trẻ, người ta tin

rằng đứa trẻ đó sẽ chăm ngoan học hành và sẽ thành đạt trong cuộc đời.

- Tục Xông đất: Tết cổ truyền là một sự kiện linh thiêng trong tâm linh người

Việt. Trong không khí tôn nghiêm ấy, mọi người phải hành xử tốt đẹp với nhau, văn

hóa ứng xử trở thành những phong tục ngày Tết mang đậm dấu ấn tâm linh Việt. Tục

xông đất là một nét đẹp trong quan niệm của người Việt từ xưa đến nay. Xuất phát từ

ước vọng của mọi người mong muốn gia đình mình sang năm mới mọi điều tốt lành,

may mắn. Người khách đầu tiên bước vào nhà mình trong ngày mùng Một Tết thì

người ấy được xem là khách “xông đất”. Khách xông nhà, xông đất thường là những

Page 48: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

người “nhẹ vía”, hợp tuổi với chủ nhà nên sẽ mang tới những điều tốt đẹp nhất cho gia

đình. Khi có khách xông đất, chủ nhà phải niềm nở tiếp đón và xem người ấy là người

mang phúc lộc đầu năm tới, sau đó, gia đình có thể mở rộng cửa ra vào để khách đến

sau vào chơi, chúc Tết không ngần ngại. Ngày xưa người được lựa chọn xông đất là

thầy đồ, người sẽ khai tâm khai trí và mang ánh sáng đến cho mỗi gia đình. Thầy đồ sẽ

đi gõ cửa từng nhà trong thời khắc linh thiêng, và sẽ nhận từ mỗi gia đình một món

quà tượng trưng. Người ta tin rằng hồn đất đã được đánh thức bằng xung lực của

người thông thái, sẽ mang lại nhiều may mắn cho gia chủ trong suốt cả năm. Ngày

nay, nhiều gia đình có ngầm tỏ ý mời trước một người tốt vía để sáng mùng Một Tết

đến xông đất cho nhà mình thật sớm. Tâm lý “có kiêng có lành” được lưu giữ từ đời

này sang đời khác qua dòng chảy bất tận của thời gian. Hoặc có nhiều gia đình sẽ tự

mình xông đất cho nhà mình. Trước lúc giao thừa họ sẽ bước ra hái một nhành lộc

xanh để rồi vào khoảnh khắc linh thiêng, họ sẽ bước về nhà mình, mang theo lộc biếc

như một niềm tin, một ước mơ.

- Tục Kiêng kị: Ngày mùng Một Tết là ngày vui nhất, ngày đẹp nhất nhưng

cũng là ngày con cháu phải tự mình giữ ý, tránh những việc làm không tốt để giữ may

cho cả năm, mong muốn con cháu được yên ấm, an lành. Đó là kinh nghiệm của bao

đời truyền lại. Nếu trong cảm nhận của người Việt, màu đỏ tượng trưng cho những

điều may mắn, tươi mới trong câu đối, trong xác pháo hồng…thì Tết đến người ta cảm

thấy cần kiêng màu đen, màu của rủi ro, màu của buồn đau. Nếu những lời ngọt ngào,

niềm nở được nói ra từ những khuôn mặt đằm thắm, tươi tắn, là câu chúc nhau hạnh

phúc, tốt lành thì vào những ngày này ai cũng kiêng những lời nói dữ dằn, nóng nảy.

Ngoài ra, cha ông ta còn truyền lại những điều kiêng kị như: kiêng quét nhà, vì sợ thần

tài theo rác mà đi mất không còn phù trợ cho gia đình mình trong việc làm ăn. Thần tài

của người Việt là nữ thần khiêm nhường ngồi trong góc cửa, ẩn mình trong cát bụi,

lặng lẽ phù hộ độ trì cho gia chủ. Người ta cho rằng trong những ngày Tết, khi Táo

Quân vắng nhà không ai đưa đường chỉ lối khiến gia chủ nhầm lẫn, quét rác lại quét

luôn cả thần tài. Cho nên người ta lưu truyền câu nói: Mùng một quét ra, mùng ba quét

vào. Thực ra là để căn dặn con người về một thái độ sống đó là khi giàu sang đừng

quên lúc bần hàn, đừng quên thực hành tiết kiệm ngay cả khi cuộc sống vật chất tưởng

đã rất đủ đầy. Kiêng cho lửa, xin lửa vì lửa là tượng trưng cho “cái đỏ”, may mắn của

Page 49: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

mỗi nhà. Trong những ngày Tết, lửa phải được duy trì trên bàn thờ, lửa phải được thắp

lên trong bếp để xua đi bóng tối tĩnh lặng, để cái ấm nóng và sáng sủa luôn có mặt

trong gia đình. Kiêng làm vỡ ấm chén, bát đĩa tránh sự đổ vỡ trong cả năm. Kiêng

chửi mắng, đánh đập con cái mong cả năm gia đình yên ấm, thuận hòa. Kiêng để đèn

hết dầu, kiêng đi vào vào giờ xấu, phải chọn hướng tốt, chọn giờ hoàng đạo để xuất

hành sẽ mang may mắn đến với gia đình, kiêng người có tang tới nhà, kiêng mặc quần

áo rách, kiêng đòi nợ và trả nợ…

Theo quan niệm của người Việt, mùng Một Tết làm mâm cỗ cúng để mời tổ tiên

về ăn Tết và thường thì mùng Ba (hoặc mùng Năm, mùng Bảy) sẽ làm cỗ cúng tiễn

đưa tổ tiên trở về thế giời bên kia. Mâm cỗ vẫn là những hương hoa, sản vật mà gia

đình đã chuẩn bị từ trước, khá tươm tất. Đó là những thức dâng dành cho người đã

khuất, thể hiện lòng thơm thảo, hiếu nghĩa của con cháu. Sau lễ tiễn đưa này, theo

quan niệm dân gian Táo Quân về trần để bắt đầu công việc của một năm mới, đó cũng

là ngày sự sống được khởi động trở lại với lễ hội xuống đồng của những cư dân nông

nghiệp. Mọi người lại chuẩn bị bước vào năm mới tràn đầy niềm vui và hi vọng.

Văn hóa ẩm thực của người Việt trong những ngày Tết đến, xuân về là tất cả

những tinh túy của trời đất, sự khéo léo của con người hòa quyện trong nhau tạo nên

những hương vị, hương sắc của năm mới. Hoa quả là một thứ không thể thiếu trên bàn

thờ gia tiên của mọi nhà, trong ngày Tết. Hoa quả bày lên bàn thờ là thức dâng trong

lễ Tết, nhưng đồng thời nó cũng có mặt trong món ăn ngày Tết của bữa cơm gia đình.

Chính nó tạo nên triết lí âm dương hài hòa, tạo nên nét đặc trưng trong văn hóa ẩm

thực ngày Tết.

Món ăn ngày Tết Nguyên Đán phong phú, đa dạng nhưng rất khoa học, hài hòa,

cân đối giữa vị béo và vị thanh, vị đậm và vị nhạt. Thưởng thức món ăn mà ta có thể

cảm nhận được sự khéo léo, tài tình của người phụ nữ Việt. Thịt mỡ chỉ có thể đi đôi

với dưa hành được nén kỹ, chua dịu mới có thể làm nổi bật vị béo nhưng không ngậy

của thịt mỡ và rất tốt cho tiêu hóa. Bánh chưng đứng đầu trong các loại bánh Tết Việt

Nam, được xem là kết tinh phong vị đất nước. Bánh chưng vuông vắn tượng trung cho

trái đất. Bánh được làm khá công phu với gạo nếp ngon, đỗ xanh, thịt lợn, được gói

trong lá dong xanh mướt, gói vuông không quá chặt và không lỏng quá. Gói bánh

Page 50: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

chưng là cả một nghệ thuật, bởi lẽ nó ẩn chứa bên trong giá trị tinh thần vĩnh cửu, gần

gũi với người dân, màu xanh của bánh là màu sắc của sự sống, của một nền nông

nghiệp lúa nước ngàn đời.

Nói tới món ăn ngày Tết thì phải kể đến ẩm thực của đất Hà thành và ẩm thực

Huế. Sự khéo léo, tinh tế của người Hà Nội được thổi hồn vào các món ăn qua cách

chế biến và thưởng thức. Mâm cỗ của người Hà Nội gồm nhiều bát: bát bóng nấu với

chân tẩy, thịt lợn nạc, nước dùng gà; bát cari khoai tây hầm đầu, cổ cánh gà; bát miến

nấu lòng gà; bát măng khô ninh chân giò;và sáu đĩa: thịt gà luộc, thịt đông, giò xào, cá

kho riềng, thịt bò kho khô, nộm su hào và dưa hành .v.v.. Nét Huế thuần khiết, thanh

đạm được biết qua: bánh su sê làm bằng bột sắn, nhân đậu xanh; nem bò lụi hay món

chả tôm…tất cả làm nên sắc Huế rất riêng giữa chiều dài đất nước.

Ngày Tết sẽ thật thiếu sót nếu vắng đi dư vị món mứt cổ truyền: mứt bí, mứt

quất, mứt gừng, mứt cà rốt… tất cả đều là sản vật của ruộng vườn, cây cỏ Việt Nam

mang vị ngọt, thơm ngon của những giọt mồ hôi người lao động. Hộp mứt bày lên bàn

thờ, đặt trên bàn tiếp khách là một món ăn hay thành một thứ trang trí không thể thiếu

được trong những ngày xuân. Nó có vị, có màu, có hương. Nó đi kèm với câu đối, dưa

hành, bánh chưng để làm nên phong vị Tết cổ truyền Việt Nam. Giữa tiết trời se lạnh,

quây quần với bạn bè, gia đình bên chén trà, đĩa mứt, chuyện cũ, chuyện mới, dự định,

ước mơ… mong sao ngày Tết cứ kéo dài mãi.

Ý nghĩa:

Tết Nguyên Đán là một mỹ tục của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của người

Việt. Lễ Tết là dịp cầu mong sự hưng thịnh toàn diện cho cộng đồng xã hội. Lễ Tết

Nguyên Đán cổ truyền mang đầy đủ bản sắc dân tộc và nhân văn sâu sắc. Nó là sợi

dây vô hình gắn kết cá nhân và toàn thể cộng đồng, thắt chặt tình gia đình, làng xóm

sau những ngày tháng mải miết vì mưu sinh mà sao nhãng, lãng quên. Đó là nét văn

hóa ngàn đời của người Việt.

Lễ Tết là một sinh hoạt văn hóa tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng trong đời

sống của mỗi dân tộc cũng như toàn thể nhân loại. Hệ thống lễ Tết của mỗi quốc gia

được coi là chứng minh thư tâm lý, là thẻ căn cước, là dấu ấn đặc trưng phản ánh quan

niệm thẩm mỹ, tư duy triết học, bản sắc văn hóa của cộng đồng. Thông qua hệ thống

Page 51: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

lễ Tết, người ta có thể tái hiện lại dòng sông lịch sử từ cội nguồn với những phong tục

tập quán gắn bó sâu sắc với đời sống con người. Việt Nam là quốc gia văn hóa phương

Đông, lấy việc trồng lúa nước làm phương thức tổ chức và phát triển xã hội. Hệ thống

Tết nằm trong hệ qui chiếu của phương thức sản xuất nông nghiệp, lấy nông lịch làm

tiêu chí để phân định thời gian.

Văn hóa Việt Nam trong diễn trình lịch sử luôn có những cuộc tiếp xúc giao lưu

với những nền văn hóa lớn trên thế giới, thông qua giao lưu tiếp biến ấy, Việt Nam

vừa khẳng định bản sắc của riêng mình, vừa không ngừng tiếp nhận những tinh hoa

của văn hóa các dân tộc trên thế giới để hoàn thiện cho nền văn hóa nội sinh. Bắt đầu

từ nên văn minh sông Hồng rực rỡ, người Việt đã có những hiểu biết sâu sắc về triết lí

âm dương, triết lí vũ trụ và nhân sinh. Trải qua những thăng trầm và biến đổi, tích hợp

và thăng hoa, vừa gìn giữ vừa phát triển, ngày nay người Việt có một hệ thống Tết

phong phú và độc đáo, vừa thể hiện bản lĩnh văn hoá Việt Nam, vừa thể hiện sự uyển

chuyển linh hoạt trong việc tiếp nhận những giá trị văn hoá từ bên ngoài để làm giàu

thêm cho văn hoá nội sinh vốn đã rất giàu bản sắc. Hiện nay người Việt Nam không

chỉ đón Tết cổ truyền theo âm lịch, mà còn hân hoan chào đón Tết dương lịch vốn

được coi là Tết của người phương Tây. Cùng với Tết Nguyên Đán, người Việt Nam

vẫn duy trì một hệ thống lễ Tết gồm: Tết Thượng Nguyên (chính là ngày rằm tháng

Giêng - ngày thơ Việt Nam), Tết Thanh Minh, Tết Hàn Thực (Tết bánh trôi bánh chay

- sản phẩm của văn hoá lúa nước), Tết Đoan Ngọ mà dân gian quen gọi là Tết giết sâu

bọ với tục khảo cây rất lý thú, Tết Trung Nguyên còn gọi là Lễ Vu Lan - Tết Báo hiếu

với mẹ cha, Tết Trung thu dành cho trẻ thơ, Tết Cơm mới với lễ tạ ơn mẹ lúa và niềm

vui được mùa của cư dân nông nghiệp. Tên gọi của từng lễ Tết có vẻ không thuần

Việt, nhưng xét về bản chất, về nội dung, có thể khẳng định đây vẫn là hệ thống Tết

của người Việt, là kết quả tích tụ và kết tinh, biến đổi cho phù hợp với phong tục tập

quán của người Việt Nam. Lễ trong Lễ Tết là lễ thức tôn kính linh thiêng của người

Việt, là đạo lí uống nước nhớ nguồn của cộng đồng cư dân nông nghiệp thể hiện lòng

biết ơn sâu sắc với đất trời sông nước, với các vị thần linh, với các vị tổ tiên ông bà đã

tạo dựng cho chúng ta hôm nay một cuộc sống sung sướng hạnh phúc. Trong cái lễ

của người Việt là tấm lòng thành, là sự tri ân của hiện tại với quá khứ, là khát vọng

hướng tới tương lai, là thức dâng của những cánh đồng mênh mông bát ngát trong

Page 52: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

nồng nàn hương lúa nếp, là hoa tươi quả ngọt của mọi miền quê. Tết trong lễ Tết là

tưng bừng niềm vui với những trò chơi dân gian chứa đựng tâm hồn Việt, những trò

chơi từ trong qua khứ kết nối với hiện tại, nối liền dòng sông lịch sử với truyền thống

văn hóa lâu đời, đem lại cho con người tràn trề niềm vui, tưng bừng hương sắc.

Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống văn hóa đặc sắc, bền vững qua bao thăng

trầm thời gian. Lễ Tết là nét đẹp văn hóa tinh thần có ý nghĩa rất quan trọng trong đời

sống của dân tộc. Hệ thống lễ Tết Việt Nam diễn ra trong suốt vòng quay của một năm

cho chúng ta biết được bức tranh phong tục tập quán, nếp ăn, nếp sống, nếp nghĩ của

người dân đất Việt. Hiểu biết về văn hoá lễ Tết của người Việt Nam là cách chúng ta

thêm một lần nữa trở về với cội nguồn và lịch sử, bởi lịch sử tâm hồn nhiều khi sẽ soi

chiếu lịch sử dân tộc dưới ánh sáng văn hoá. Mà văn hoá thì mãi mãi còn, nó là thứ

còn lại sau khi mọi cái đã mất đi. Xác định nhiệm vụ quan trọng là xây dựng nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là bởi Đảng ta đã xuất phát từ nhận

thức đúng đắn: văn hoá chính nền tảng tinh thần, là cơ sở và động lực của sự phát

triển. Văn hoá Lễ Tết là yếu tố cấu thành của văn hoá tinh thần trong xã hội, nó có vị

trí quan trọng bởi nó có khả năng qui tâm rất lớn, nó cố kết tinh thần cộng cảm của cả

xã hội. Vấn đề là giữ gìn nét đẹp trong văn hoá truyền thống phải đồng nghĩa với nhận

thức qui luật phát triển của văn hoá, đó là kế thừa có chọn lọc những yếu tố tinh hoa

để văn hoá thực sự là nền tảng, là động lực cho sự phát triển ổn định, hướng tới một xã

hội Việt Nam phồn thịnh, văn minh, đem lại cho con người hạnh phúc chân chính.

Câu 11.

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tất yếu nảy sinh trong xã hội loài

người trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi sống thành cộng

đồng. Đối với người Việt Nam, nghề sản xuất chủ yếu trong xã hội truyền thống là sản

xuất lúa nước. Vòng quay của thời vụ, của thiên nhiên, sự chi phối mùa màng của lực

lượng tự nhiên và cuộc sống khó khăn bất trắc đó đã tạo ra trong họ nhu cầu tâm linh.

Những lúc mùa vụ, người nông dân phải "đầu tắt, mặt tối", "thức khuya dậy sớm". Vì

vậy những lúc nông nhàn, thường vào mùa xuân và mùa thu họ có nhu cầu tạ ơn và

cầu xin thành linh để có một mùa màng bội thu, một cuộc sống no đủ, mạnh khoẻ,

hạnh phúc. Mặt khác, người dân cũng có khát vọng vui chơi, giải trí, thể hiện mình

Page 53: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

trong đời sống cộng đồng cho bớt những ngày vất vả. Vì vậy lễ hôi dần được hình

thành. Qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, lễ hội dần lắng đọng những lớp

phù sa văn hoá đặc sắc

Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, diễn ra trên một địa bàn dân

cư, trong thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch

sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xửa văn hóa của con

người với thiên nhiên, với thánh thần và với con người trong xã hội.

Đặc điểm của lễ hội:

- Lễ hội là sinh hoạt của một cộng đồng dân cư nhất định. Nếu lễ tết diễn ra

trong phạm vi không gian gia đình thì lễ hội lại diễn ra ngoài không gian cộng đồng

làng, vùng miền, Tổ quốc. Lễ hội mỗi làng quê khác nhau thì ngày hội làng cũng khác

nhau. Mặt khác, lễ hội mang tính tộc người rất rõ, các dân tộc khác nhau sẽ có những

lễ hội khác nhau…

- Lễ hội gồm hai bộ phận: lễ và hội. Đã thành một ước lệ, người ta chia lễ hội

thành hai bộ phận, lễ và hội:

+ Phần lễ là các nghi thức thờ cúng được thực thi trong lễ hội, thường là có sự

giống nhau trong các lễ hội, sau này được thể chế húa thành điển lệ của các triều đình

phong kiến. Chẳng hạn nghi thức quy định khi nào dâng rượu, khi nào dâng trà, dâng

oản quả, dâng thức ăn mặn v.v…

+ Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội. Thành tố đáng lưu ý trong phần

hội là trò diễn.Trò diễn là hoạt động mang tính nghi lễ, diễn lại toàn bộ hay một phần

hoạt động của cuộc đời nhân vật được phụng thờ. Chẳng hạn, trò diễn Thánh Gióng

đánh giặc Ân trong ngày hội Gióng, trò diễn mô tả lại Quang Trung đại phá quân

Thanh trong lễ hội Đống Đa v.v… Trình tự của một trò diễn bao giờ cũng đi từ nơi thờ

vọng đến nơi gắn bó với một sự kiện nào đó trong cuộc đời vị thánh. Trong lễ hội thờ

Thành hoàng làng, trò diễn thường theo trình tự: Điểm bắt đầu của đám rước lúc đi là

đình làng, điểm kết thúc của đám rước là nghè (miếu). Các trò diễn trong lễ hội là các

lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ lịch sử khác nhau lắng đọng lại, phản ánh

những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước gắn kết với nhân vật được

phụng thờ. Cùng với các trò diễn là trò chơi. Các trò chơi trong lễ hội thường không

Page 54: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

mang tính nghi lễ. Nhưng cũng có những trò chơi trước kia vốn là các trò diễn mang

tính nghi lễ, nhưng nay đã mờ nhạt, như trò chọi gà, trò đấu vật.

Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc,

phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người

nông nghiệp. Xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò tạo ra tiếng nổ mô phỏng tiếng

sấm vào các hội mùa xuân để nhắc trời làm mưa như thi đốt pháo, đi thuyền đốt pháo,

ném pháo, đánh pháo đất... Xuất phát từ ước vọng cầu cạn là các trò thi thả diều vào

các hội mùa hè mong gió lên, nắng lên để nước lụt mau rút xuống. Xuất phát từ ước

vọng phồn thực là các trò cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu, bắt chạch

trong chum... Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các

trò thi thổi cơm, thi luộc gà, thi dọn cỗ, thi bắt lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải, thi leo cầu

ùm, thi bịt mắt bắt dê, đua cà kheo... Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sức khoẻ và khả

năng chiến đấu là các trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi cá, chọi dế ...

Câu 12:

Sách giáo trình:

Câu 14:

I. Bối cảnh lịch sử

Ba nền văn hóa ở thiên niên kỷ đầu CN bước sang thiên kỷ thứ hai đã diễn biến

theo những hướng khác nhau. Văn hóa Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn

ánh hào quang. Nói văn hóa thời tự chủ là nói đến văn hóa Đại Việt. Thời kỳ tự chủ

của quốc gia đại Việt kéo dài từ năm 938 đến 1858. Đây là giai đoạn phục hưng đất

nước sau 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vươn lên xây dựng nền độc lập tự chủ,

khẳng định mình là quốc gia tồn tại ở Đông Nam Á

+ Diễn trình lịch sử Việt Nam thời kỳ này có những đặc điểm sau:

- Thời kỳ tự chủ với ba lần phục hưng văn hóa. Các vương triều liên tục thay

thế nhau xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ.

- Đất nước mở rộng về phương Nam; đến đầu thế kỷ XVIII, việc khai phá Nam

Bộ đã cơ bản hoàn thành. Đến năm 1892, đất nước Việt Nam đã có lãnh thổ thống

nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau

Page 55: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

- Thời kỳ lịch sử với những biến đổi dữ dội, bão táp: Các cuộc xâm lược liên

tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của nhân

dân Việt.

- Thời kỳ tự chủ với ba lần phục hưng văn hóa:

* Thời Lý Trần: Thời kỳ xây dựng đất nước sau khi thoát khỏi ách đô hộ của

các đế chế phương Bắc.

* Lần thứ hai thế kỷ XV: Giặc Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Đất nước bước

vào phục hưng từ thời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông.

* Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII: Thời kỳ phân liệt và xung đột giữa các tập

đoàn phong kiến, đất nước được thống nhất và khôi phục do công lao của Quang

Trung và sau đó là của nhà Nguyễn.

Văn hóa Việt Nam giai đoạn này phát triển phong phú và đa dạng. Văn hóa

dân tộc có những biến đổi quan trọng vượt thoát khỏi ngàn năm Bắc thuộc, qua ba lần

phục hưng, văn hóa Việt Nam đã phát triển rực rỡ trong thời kỳ Đại Việt

II. Đặc trưng văn hóa

1. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần

Nhà Lý mở đầu giai đoạn phục hưng văn hóa bằng việc dời đô về Đại La và đổi

tên thành Thăng Long. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất nước phát

triển về mọi mặt.

+ Về văn hóa vật thể

- Công trình kiến trúc

- Cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành lũy. Thành Thăng Long là một

công trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong cá triều đại phong kiến

- Các công trình kiến trúc đời Lý phát triển mạnh và phong phú: Chùa Giạm,

chùa Một Cột, Tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn (Ý Yên – Nam Định), tháp Sùng

Thiện, Diên Linh (Chùa Dọi – Nam Hà)… Các tháp này có qui mô lớn, hòa hợp kiến

trúc các ngôi chùa và tượng Phật.

- Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một tay nghề thuần thục và

một phong cách đặc sắc. Mỹ thuật thời Lý mang nhiều nét tương đồng với kiến trúc,

mỹ thuật Chăm cũng như một số nước Đông Nam Á.

Page 56: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Trong ý thức của người Việt vẫn tiếp nhận những tinh hoa của văn minh

Trung Hoa nhưng vẫn có ý muốn quay trở lại với cội nguồn Đông Nam Á, vẫn khẳng

định sắc thái riêng của mình.

+ Các nghề thủ công

- Nghề thủ công khá phát triển ở thời nhà Lý, nhà Trần như: Nghề dệt, gốm, mỹ

nghệ. Đặc biệt nghề dệt có nhiều thành tựu: vải, lụa. Các sản phẩm gốm với đủ các

màu sắc, họa tiết trang trí đặc sắc được người thợ khéo tay, thông minh đời Lý làm ra.

Nghề gốm có bước phát triển đạt trình độ cao…

- Thời nhà Trần, nghề thủ công còn có những bước phát triển mới, hình thành

những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định. Kinh thành Thăng Long

mở rộng chia thành 71 phường. Tại đây không chỉ có chợ mà còn có những phường

thủ công và phố buôn bán.

* Văn hóa phi vật thể

+ Hệ tư tưởng:

- Phật giáo để lại dấu ấn sâu đậm

Văn hóa thời Lý Trần là sự dung hòa tam giáo (Nho – Phật – Lão), cùng các tín

ngưỡng dân gian và có ảnh hưởng của tôn giáo Chămpa

- Từ thế kỷ X Phật giáo có những bước phát triển lớn, chùa chiền xuất hiện

nhiều. Thời kỳ này đạo Phật nhập thế. Pháp giáo thời kỳ này chung sống với tín

ngưỡng bản địa để tạo ra sắc thái đạo Phật với nét riêng Việt Nam. Nhà vua và tầng

lớp quý tộc rất sùng mộ đạo Phật.

1031 Triều Lý cho xây dựng 950 ngôi chùa

1129 Mở hội khánh thành 84.000 bảo tháp.

- Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về số lượng và chất lượng. Theo

nhà sử học Lê Văn Hưu, thời Lý “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào

cũng có chùa”. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng là người Việt. Nhà chùa là nơi đào tạo ra

những sư tăng đồng thời cũng là những trí thứ của thời đại. Chính họ là những người

đặt nền móng cho chính sách tam giáo đồng nguyên. Các trí thức Phật giáo đã gạt bỏ

những nhân tố thụ động để tham gia vào sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước.

Trong các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, các cao tăng tham gia chính sự ở triều đình:

Page 57: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Thiền sư Vạn Hạnh vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Đời

Trần, sư Đa Bảo Viên Thông đều tham gia chính sự.

- Đạo và đời gắn bó tới mức không chỉ có các nhà sư tham gia vào chính sự mà

ở thời Lý, Trần còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Dòng Phật giáo Trúc Lâm

đời Trần là một sáng tạo rất riêng của Phật giáo Việt Nam, để lại những dấu ấn đạm

nét trong lịch sử tư tưởng văn học, kiến trúc…của văn hóa dân tộc. Phật giáo giai đoạn

này còn tác động đến cả hệ tư tưởng, tâm lý, phong tục và nếp sống của đông đảo nhân

dân ở các làng xã. Nó ảnh hưởng to lớn tới kiến trúc, điêu khắc, thơ văn, nghẹ thuật

- Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất do đó có một cơ sở kinh tế nhất định

cho mọi hoạt động.

+ Nho giáo- Nho giáo thời kỳ này chưa ảnh hưởng mạnh đến xã hội và đời sống tinh thần

của người Việt. Cùng với việc tiếp tục tiếp nhận chữ Hán, chế độ giáo dục thi cử theo

tinh thần Nho giáo mới bắt đầu.

- Nhà Lý chăm lo đến việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và lựa chọn

quan lại cho bộ máy hành chính.

1070 Nhà Lý dựng Văn Miếu, thời Chu Công và Khổng Tử (hai ông ổ của Nho

giáo), mở Quốc Tử Giám- trường học đầu tiên cho các hoàng tử và con em quan lại

trong triều đình.

1076 Triều đình mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài. Nội dung thi bao

gồm các môn: chữ viết, làm tính, hình luật.

- Đến nhà Trần, vương triều đã chính quy hóa việc học hành thi cử. Nhà Trần

lập Quốc học viện và Giảng Võ đường, lúc đầu dành riêng cho con em quý tộc, sau

mở rộng cho cả con em thứ dân (trường học được mở cả ở địa phương). Thể lệ thi cử,

học vị được quy định.

1247, nhà Trần đặt danh hiệu tam khôi dành cho 3 người thi đỗ xuất sắc trong

kỳ thi Đình.

- Điều đáng chú ý là từ nền giáo dục này tinh thần Khổng giáo đã đi sâu vào đời

sống tinh thần của người Việt để lại những dấu ấn khá sâu sắc trong đời sống văn hóa,

trong tâm thế ứng xử của người Việt Nam. Tuy nhiên qua lăng kính, tâm thức dân tộc,

các giá trị Nho giáo đều có “độ khúc xạ” nhất định, làm giàu cho văn hóa Việt Nam.

Page 58: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

+ Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển

Nền văn học chứ viết bằng chữ Hán và sau đó bằng chữ Nôm hình thành và

phát triển với một đội ngũ tác giả đông đảo và lớn về số lượng tác phẩm. Lực lượng

sáng tác chủ yếu là trí thức Phật giáo, sau đó là trí thức Nho giáo.

- Văn học chữ Hán

- Thời kỳ nhà Lý nội dung thơ văn mang quan niệm và triết lý Phật giáo, tuy

nhiên nhiều tác phẩm có ý nghĩa nhân sinh và giá trị văn hóa: Nam quốc Sơn hà của

Lý Thường Kiệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn.

- Thời nhà Trần, đa số các tác giả là các nho sĩ trong đó có một số tướng lĩnh

hoặc đại thần như: Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Phi Khanh…

- Thơ văn chữ Hán giai đoạn này thể hiện tư tưởng xây dựng một quốc gia độc

lập tự chủ, lòng tự hào về dân tộc, về nền độc lập của dân tộc, tinh thần yêu nước và ý

chí vươn lên của dân tộc.

- Văn học chữ Nôm- Văn học chữ Nôm với những tên tuổi nổi bật: Trần Nhân Tông, Huyền Quang,

Nguyễn Thuyên, Chu Văn An, Nguyễn Sỹ Cố…

Nét đặc sắc trong sự phát triển văn hóa giai đoạn này là sự xuất hiện một nền

văn hóa chữ viết với cả hai hình thức chữ Hán và chữ Nôm. Sự xuất hiện của dòng văn

học bác học đánh dấu sự chuyển biến về chất lượng trong sự phát triển của văn hóa

Việt Nam.

Câu 13:

- Văn hóa Đông Sơn hình thành trực tiếp trên nền tảng ba nền văn hóa ở lưu vực

sông Hồng, sông Cả, sông Mã. Ba giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò

Mun lưu vực sông Hồng là Đông Khối, Thiệu Dương lớp dưới, Đông Sơn lớp mộ dưới

là những giai đoạn đang chuẩn bị cho sự ra đời của văn hóa Đông Sơn, thường được

gọi là tiền Đông Sơn

- Mỗi một giai đoạn văn hóa ở vùng miền khác nhau đều có những sắc thái

riêng và những điểm gạp gỡ chung. Điều này phản ánh một thời kỳ tồn tại của các

nhóm bộ lạc hay liên minh bộ lạc giữa các vùng. Các khu vực nói trên đã diễn ra sự

giao lưu văn hóa thông qua tiếp xúc trao đổi kinh tế, hoặc phi kinh tế như trao đổi tặng

Page 59: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

phẩm, vật phẩm tôn giáo, quan hệ hôn nhân… Giai đoạn tiền sử con người sử dụng đồ

đá, gỗ, tre nứa, xương sừng…để chế tạo công cụ sản xuất, sinh hoạt và vũ khí

- Sự xuất hiện của vật liệu mới là đồng đã tạo nên những tác động to lớn đối với

nền kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng người. Ở thời kỳ này, kỹ thuật chế

tác đá nguyên thủy lên đến đỉnh cao, đồ gốm phát triển phong phú và đạt đến trình độ

tinh tế, độ nung cao hơn, dày và cứng hơn.

- Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lứa nước, con người đã biết chăn nuối

gia súc như trâu bò, lợn, gà… Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn

hóa , bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng.

- Đặc biệt dân cư thời đại đồng thau ở miền Bắc Việt Nam đã có đời sống tinh

thần phong phú. Tư duy sáng tạo nghệ thuật đã được khẳng định, họ đã làm chủ được

nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa. Các hoa văn trang trí biểu hiện tính đối xứng chặt

chẽ, và nhiều dạng dối xứng khác nhau. Điều đó cho thấy sự phát triển nhận thức hình

học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỹ thuật chế tác, đúc

đồng

Văn hóa Đông Sơn

b1. Sự hình thành

Văn hóa Đông Sơn được phát hiện từ trước cách mạng tháng Tám, cho đến nay

đã tìm được trên 100 địa điểm phân bố hầu khắp các tỉnh miền bắc cho tới Hà Tĩnh

Quảng Bình. Đống Sơn có tầng văn hóa dày, hiện vật cực kỳ phong phú. Địa điểm

phân bố rộng rãi và mỗi văn hóa địa phương tuy có sắc thái riêng nhưng đều có các

đặc trưng gần nhau.

Nhiều nhà văn hóa cho rằng vào thế kỷ VII trCN, các nhóm bộ lạc liên kết với

nhau thành một cộng đồng lớn và nhà nước sơ khai Văn Lang ra đời. Các nền văn hóa

được thể hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt Trung cho đến bờ sông

Gianh (Quảng Bình)

b2. Đặc trưng văn hóa

+ Phương thức sản xuất

- Nông nghiệp: Trồng trọt và chăn nuôi+ Trồng trọt:

Page 60: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Thời kỳ này sản xuất lúa nước nước đóng vai trò chủ đạo

Có các kỹ thuật đắp đê trị thủy

Qua các thư tịch cổ và di chỉ khảo cổ cho ta thấy sản xuất nông nghiệp ở nước

ta thời kỳ này phát triển mạnh mẽ, cho năng xuất cao, kỹ thuạt canh tác thuần thục.

Người Việt thời đó đã biết “Đao canh thủy nậu”, biết sản xuất theo hai mùa, gieo trồng

nhiều loại lúa, và các loại cây rau quả khá đa dạng …

+ Chăn nuôi

Chăn nuôi trâu bò lợn gà

Vật nuôi vừa dùng làm sức kéo, để ăn thịt, để săn thú

+ Các loại nông cụ

Cuốc, xẻng, mai, thuổng, lưỡi cày bằng đồng ( nhiều loại phù hợp với nhiều loại

đất)+ Nghề thủ công nghiệp

Cùng với sự phát triển của nghề nông, nghề thủ công nghiệp đã có sự phát triển

vượt bậc đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, chiến đấu.

* Nghề luyện kim màu đạt đến trình độ kỹ thuật cao tạo ra khối lượng sản

phẩm lớn và nhiều chủng loại.

Đồ đồng ĐS phong phú độc đáo, chủ yếu là hợp kim đồng, thiếc, chì. Trình độ

luyện kim đồng đã đạt đến đỉnh cao, có thể đúc được những vật lớn, hoa văn phong

phú

Luyện sắt, đúc sắt làm vũ khí, công cụ sản xuất. Tuy nhiên đồ sắt được phát

hiện không nhiều

* Đồ gốm ĐS ở mỗi vùng lại có những phong cách riêng, như lưu vực sông

Hồng có màu xám mốc, lưu vực sông Mã có màu hồng nhạt.

Có sự tiến bộ về sử dụng chất liệu (cát mịn, hạt nhỏ), kỹ thuật tạo hình bằng bàn

xoay, tạo dáng và trang trí (làm đẹp bề mặt – lớp áo thổ hoàng, vẽ hoa văn vặn thừng),

nhiệt độ nung 600 – 700 độ, sản phẩm phong phú: Nồi, chậu, bát.

* Nghề làm thủy tinh

* Nghề mộc

* Nghề dệt

+ Văn hóa sinh hoạt vật chất

- Cơm + Rau + Cá

Page 61: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Trên nền tảng sản xuất thực vật, sản xuất lúa nước, mô hình bữa ăn của cư dân

Đông Sơn là Cơm – Rau – Cá, trong đó cơm rau là món ăn chủ đạo. Cơ cấu bữa ăn

trên chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo về sự kết hợp cao độ của người ĐS với môi trường

tự nhiên

- Nhà ở

- Trang phục

Trang phục của người Đông Sơn cũng có những nét riêng độc đáo.

Theo như quan sát các hình chạm khác trên trống đồng thì có ba kiểu tóc của

người thời đó : tóc cắt ngang vai, tóc bới trên đầu, tóc tết thả sau lưng.

Trang phục quần áo phong phú và đạt trình độ thẩm mỹ: Phụ nữ mặc váy, yếm.

Nam giới đóng khố, khố dày và khố quấn. Trang phục hội hè thì cầu kỳ hơn cả nam

lẫn nữ đều mặc áo liền váy có vạt tỏa ra hai bên. Quần áo làm từ vải, bông, lông vũ

hoặc lá cây. Đầu đội mũ gắn lông chim cho đẹp. Trang phục quý tộc: Phụ nữ mặc đủ

xống áo, đầu có khăn trùm vắt thành chóp nhọn, có yếm che ngực và áo xẻ cánh mặc

bên ngoài, thắt lưng ngang bụng, liền đó là chiếc váy chùng che kín gót chân

- Trang sức

Trang sức, nhuộm răng đen và xăm mình phổ biến ở cả nam và nữ. Ngoài ra còn

đeo các loại vòng , hoa tai, nhẫn…làm từ đá màu xanh, hoặc đồng, và vàng ngọc

- Vật dụng sinh hoạt hàng ngày

Được chế tác chủ yếu bằng đồng, gốm, gỗ:

Đồ gốm gồm các thứ để đun nấu như chõ, nồi, …;

Dùng để ăn như bát, đĩa, chậu, mâm, muôi…

Đồ bằng đồng gồm những thứ sang trọng hơn như: Âu, thạp, thố,

Đồ dùng làm từ các vật liệu thông thường như tre, gỗ như bát, đũa, muôi…

Qua các đồ dùng cũng có thể thấy được sự phân biệt đẳng cấp xã hội.

- Phương tiện đi lại và vận chuyển

Chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là sông nước, hoặc đường

sông ven biển. Có thuyền độc mộc và thuyền ghép ván ( sau này từ thuyền độcmộc

phát triển thành bơi chải)

+ Sinh hoạt văn hóa tinh thần

- Về tư duy nhận thức

Page 62: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

Ở thời kỳ phát triển của văn hóa Đông Sơn, con người đã biết phân loại sự vật theo

chức năng để chế tác và sử dụng công cụ. Người ta đã biết chia thành công cụ sản

xuất, công cụ sinh hoạt và công cụ chiến đấu.

Công cụ sản xuất có : Cuốc, cày, xẻng…

Công cụ sinh hoạt : Thạp, thố, bình, dao…

Công cụ chiến đấu có: Cung, nỏ, mác, dao găm, tấm che mặt.

- Tư duy toán học- Tư duy đối xứng gương, tư duy đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến. Các hình

trên mặt trống đồng:

- Ngôi sao ở giữa mặt trời

- Tín ngưỡng

* Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con

người

Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con

người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống,

nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới

hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ và thờ cả hành vi giao phối.

Người Việt tôn sùng cây cối, các loại cây lương thực chính. Các sản phẩm làm

từ gạo nếp, gạo tẻ đã có lịch sử hàng nghìn năm và còn lưu truyền đến ngày nay. Các

loại bánh trái đặc trưng của người Việt đã đi vào huyền thoại bằng văn hóa truyền

khẩu. Các làng xã Việt bao giờ cũng có các cây đa cổ thụ bởi vì họ tôn thờ và bảo vệ

từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

* Trong tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục

thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt, mà ngày nay vẫn

còn như một thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam

Trong tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ

cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt, mà ngày nay vẫn còn

như một thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam.

Người Việt yêu cuộc sống đầm ấm làng xã, thích định cư dài lâu và có truyền

thống coi trọng mồ mả của tổ tiên, họ ít phiêu lưu, chinh chiến, yêu hòa bình, yêu ca

Page 63: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

hát, lễ hội, nhảy múa (các sử cổ của Trung Quốc còn ghi lại rõ từ trước Công

Nguyên).

Người Việt trọng ngày mất là dịpcúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng

thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng

thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng.

* Tập tục ăn trầu cũng là đặc trưng chính của người Việt cổ

Tập tục ăn trầu cũng là đặc trưng chính của người Việt cổ, được thể hiện qua

câu chuyện cổ về sự tích trầu cau mà tầm lan tỏa và tập tục ăn trầu lan đến hầu hết các

cư dân Nam đảo và Đông Nam Á. Uống trà của người Việt cổ có từ xa xưa, khi

người Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc chưa biết đến trà được thể hiện qua mô tả của

sử Trung Hoa.

* Tục nhuộm răng

Người Việt cổ biết dùng hóa chất và các loại nhựa, sơn cây dùng để nhuộm răng

đen, mà mãi đến giữa thế kỷ 20 cũng vẫn còn khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ Việt

Nam.

Cuộc sống theo tín ngưỡng phồn thực và trọng thiên nhiên, sống hài hòa

với thiên nhiên và thuyết âm dương có lẽ bắt nguồn từ đây.

* Tục mộ táng

Mộ thuyền Châu Can cùng di vật-được tìm thấy ở Hà Tây năm 1977

Ở đây ta cũng nhắc đến vài nét chính của nghệ thuật chôn cất người chết mà các

nhà khảo cổ học đã tìm thấy hầu như rải rác trên toàn bộ Bắc Bộ kéo dài đến miền

Trung Việt Nam - Mộ thuyền là một cách chôn cất khá độc đáo của người Việt cổ

thuộc văn hóa Đông Sơn

Năm 2004 các nhà khảo cổ học tìm thấy thêm một ngôi mộ bên triền sông Cửu

An, thuộc thôn Động Xá, xã Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Đây

không chỉ là ngôi mộ có quan tài hình thuyền như những phát hiện trước đó, mà thực

sự là một con thuyền độc mộc chở người Đông Sơn vào giấc vĩnh hằng từ 2.500 năm

trước. Khi nắp quan tài bật mở, người ta thấy tất cả bùn đất tích tụ từ thiên niên kỷ I

TCN phủ kín hiện vật. Khi lớp bùn được gạt ra, nhóm khai quật nhìn thấy người chết

đặt nằm ngửa, thân bó vải, hai tay để xuôi, chân duỗi thẳng. Ngoài ra, còn có một số

hiện vật đi kèm là đồ gốm, hạt thực vật.

Page 64: Câu 1 - Tỉnh giấc · Web view+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế kỷ X và từ 1.407 đến

So với các mộ thuyền Đông Sơn được phát hiện từ những năm 1960, 1970 tại

Châu Can Hà Tây, Việt Khê Hải Phòng, La Đôi Hải Dương..., đây là mộ duy nhất còn

nguyên vẹn xương cốt với quần áo hoàn chỉnh.